Nhận viết luận văn đại học, thạc sĩ trọn gói, chất lượng, LH ZALO=>0909232620
Tham khảo dịch vụ, bảng giá tại: https://vietbaitotnghiep.com/dich-vu-viet-thue-luan-van
Có thể nói, điều hành thị trường vàng tại Việt Nam đã có các văn bản pháp luật điều chỉnh nhưng hiệu lực pháp lý chưa cao. Trong khi đó, thị trường vàng lại là nơi ẩn chứa nhiều rủi ro tác động đến sự phát triển của nền kinh tế. Do đó, việc hoàn thiện pháp luật về quản lý thị trường này là điều cần thiết và mang tính cấp bách, do đó, em lựa chọn đề tài: “Cơ sở pháp lý cho Ngân hàng Nhà nước thực hiện các biện pháp quản lý đối với thị trường vàng ở Việt Nam và các kiến nghị pháp lý” làm đề tài luận văn tốt nghiệp luật học
Đề tài: Quản lý đối với thị trường vàng tại ngân hàng ở Việt Nam
1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
HOÀNG MINH THÁI
C¥ Së PH¸P Lý CHO NG¢N HµNG NHµ N¦íC THùC HIÖN
C¸C BIÖN PH¸P QU¶N Lý §èI VíI THÞ TR¦êNG VµNG
ë VIÖT NAM Vµ C¸C KIÕN NGHÞ PH¸P Lý
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2014
2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
HOÀNG MINH THÁI
C¥ Së PH¸P Lý CHO NG¢N HµNG NHµ N¦íC THùC HIÖN
C¸C BIÖN PH¸P QU¶N Lý §èI VíI THÞ TR¦êNG VµNG
ë VIÖT NAM Vµ C¸C KIÕN NGHÞ PH¸P Lý
Chuyên ngành: Luật kinh tế
Mã số: 60 38 01 07
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN THỊ THUẬN
HÀ NỘI - 2014
3. LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN
Hoàng Minh Thái
4. MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
MỞ ĐẦU.......................................................................................................1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ THỊ TRƯỜNG VÀNG VÀ
CƠ SỞ PHÁP LÝ CHO NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC THỰC
HIỆN CÁC BIỆN PHÁP QUẢN LÝ THỊ TRƯỜNG VÀNG............9
1.1. Khái quát về thị trường vàng..........................................................9
1.1.1. Đặc trưng của thị trường vàng ở Việt Nam ........................................9
1.1.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến thị trường vàng trong nước.....................15
1.1.3. Mối quan hệ giữa thị trường vàng với các bộ phận còn lại của
thị trường tài chính .......................................................................... 20
1.1.4. Sự cần thiết quản lý thị trường vàng bởi Ngân hàng Nhà nước........21
1.1.5. Nguyên tắc quản lý thị trường vàng................................................. 28
1.2. Các biện pháp quản lý thị trường vàng của Ngân hàng Nhà nước....... 32
1.2.1. Xây dựng chiến lược, kế hoạch và pháp luật quản lý đối với thị
trường vàng .....................................................................................32
1.2.2. Cấp và thu hồi giấy phép đối với các chủ thể kinh doanh vàng ....... 33
1.2.3. Thanh tra, kiểm tra.......................................................................... 35
1.2.4. Tham gia thị trường vàng................................................................ 36
1.3. Đặc điểm cơ sở pháp lý để Ngân hàng Nhà nước quản lý thị
trường vàng.................................................................................... 38
1.3.1. Quan hệ xã hội được điều chỉnh....................................................... 38
1.3.2. Phương pháp điều chỉnh .................................................................. 39
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1.............................................................................40
5. Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ CÁC BIỆN PHÁP
QUẢN LÝ THỊ TRƯỜNG VÀNG CỦA NGÂN HÀNG
NHÀ NƯỚC VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG...................................42
2.1. Thực trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng biện pháp xây
dựng chiến lược, kế hoạch và pháp luật quản lý đối với thị
trường vàng.................................................................................... 42
2.2.1. Quy định pháp luật .......................................................................... 42
2.2.2. Thực tiễn áp dụng............................................................................ 43
2.2. Quy định pháp luật và thực tiễn áp dụng biện pháp cấp và
thu hồi giấy phép đối với các chủ thể kinh doanh vàng............... 52
2.2.1. Quy định pháp luật .......................................................................... 52
2.2.2. Thực tiễn áp dụng............................................................................ 55
2.3. Quy định pháp luật và thực tiễn áp dụng biện pháp thanh
tra, kiểm tra ...................................................................................58
2.3.1. Quy định pháp luật .......................................................................... 58
2.3.2. Thực tiễn áp dụng............................................................................ 60
2.4. Quy định pháp luật và thực tiễn áp dụng biện pháp tham
gia thị trường vàng ........................................................................63
2.4.1. Quy định pháp lý .............................................................................63
2.4.2. Thực tiễn áp dụng............................................................................ 65
2.5. Một số vấn đề đặt ra từ thực tiễn áp dụng pháp luật ..................68
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2.............................................................................71
Chương 3: MỘT SỐ ĐỀ XUẤT VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN
CƠ SỞ PHÁP LÝ CHO NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC THỰC
HIỆN CÁC BIỆN PHÁP QUẢN LÝ THỊ TRƯỜNG VÀNG
Ở VIỆT NAM................................................................................. 73
3.1. Những yêu cầu đặt ra để Ngân hàng Nhà nước nâng cao
hiệu quả hoạt động quản lý thị trường vàng................................ 73
6. 3.2. Phương hướng và giải pháp hoàn thiện cơ sở pháp lý cho
Ngân hàng Nhà nước thực hiện các biện pháp quản lý thị
trường vàng.................................................................................... 76
3.2.1. Phương hướng hoàn thiện................................................................ 76
3.2.2. Giải pháp hoàn thiện cơ sở pháp lý cho Ngân hàng Nhà nước
thực hiện các biện pháp quản lý thị trường vàng.............................. 80
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3...........................................................................90
KẾT LUẬN................................................................................................. 91
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................92
7. DANH MỤC SƠ ĐỒ
Số hiệu sơ đồ Tên sơ đồ Trang
Sơ đồ 2.1: Biểu đồ chênh lệch giữa giá trong nước và thế giới
sau 19 phiên đấu thầu bán vàng của Ngân hàng
Nhà nước, từ 28/3 đến 17/5. 66
8. 1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Không giống với các loại hàng hóa thông thường, vàng là nơi lưu giữ
giá trị lâu dài, ổn định nên thường được dân chúng tìm đến như một biện pháp
bảo đảm cho sản nghiệp, đặc biệt trong bối cảnh suy thoái kinh tế, hoặc chiến
tranh. Trong nhiều năm trở lại đây, thị trường vàng Việt Nam liên tục diễn
biến với nhiều đợt lên xuống giá bất thường và dường như tách biệt với thị
trường vàng thế giới. Việc biến động giá vàng không theo quy luật cung cầu
đã gây thiệt hại cho không ít cho những người gửi gắm khoản tiết kiệm cá
nhân vào vàng và làm mất lòng tin của người dân vào chính sách quản lý
cũng như các tổ chức kinh doanh vàng. Từ thời điểm ngày 27/11/2009, tại
Nghị quyết về chất vấn và trả lời chất vấn tại kỳ họp thứ sáu, Quốc hội khóa
XII số 43/2009/QH12, Quốc hội đã yêu cầu Chính phủ “Cần thực hiện các
biện pháp tích cực, linh hoạt để ổn định giá trị đồng tiền Việt Nam, ổn định
thị trường vàng trong nước thích ứng với biến động của thị trường vàng thế
giới”. Đồng thời, Khoản 17 Điều 4 Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam được
Quốc hội thông qua số 26/2010/QH12 đã tiếp tục khẳng định Ngân hàng Nhà
nước thực hiện nhiệm vụ: “Quản lý nhà nước về ngoại hối, hoạt động ngoại
hối và hoạt động kinh doanh vàng”. Trong báo cáo của Đoàn chủ tịch Ủy ban
Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam Tổng hợp ý kiến, kiến nghị của cử tri
và nhân dân số 422/BC-MTTW-ĐCT ngày 17/05/2013 (Tại kỳ họp thứ năm
Quốc hội khóa XIII) vẫn tồn tại nhiều ý kiến về việc: “Tình trạng giá vàng
trong nước chênh lệch quá lớn với giá vàng thế giới hiện nay dẫn đến sự băn
khoăn, thiếu tin tưởng của cử tri và nhân dân về năng lực của cơ quan nhà
nước hữu quan trong việc quản lý điều hành thị trường vàng”. Diễn biến đó
9. 2
đòi hỏi chính sách quản lý thắt chặt từ phía Nhà nước, ổn định thị trường vàng
và khuyến khích hoạt động đầu tư, chống vàng hóa nền kinh tế.
Ngày 03/04/2012, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 24/2012/NĐ-CP
(Nghị định 24) về quản lý hoạt động kinh doanh vàng, tại Nghị định này, Chính
phủ đã tập trung quyền cho Ngân hàng Nhà nước như là một đầu mối duy nhất
quản lý và kinh doanh mặt hàng vàng miếng trên thị trường. Qua đó, công tác
điều hành của Ngân hàng Nhà nước với thị trường vàng mang tính trực tiếp
hơn, tác động một cách nhanh chóng đến thị trường vàng phù hợp với chính
sách quản lý của Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước. Ngày 25/05/2012 Ngân
hàng Nhà nước đã ban hành Thông tư số 16/2012/TT-NHNN hướng dẫn một
số điều của Nghị định số 24/2012/NĐ-CP ngày 03 tháng 04 năm 2012 của
Chính phủ về quản lý hoạt động kinh doanh vàng; Sau gần một năm, Ngân
hàng Nhà nước ban hành Thông tư số 06/2013/TT-NHNN ngày 12/03/2013
hướng dẫn hoạt động mua, bán vàng miếng trên thị trường trong nước của ngân
hàng nhà nước Việt Nam. Đây là những văn bản pháp luật chuyên ngành nhằm
điều chỉnh hoạt động kinh doanh vàng trong cả nước. Tuy nhiên những chính
sách này còn tương đối mới mẻ, chỉ được áp dụng trong thời gian chưa lâu và
đang nhận được nhiều ý kiến trái chiều về tính hiệu quả.
Tại diễn đàn kinh tế mùa xuân và mùa thu (năm 2013) do Ủy ban Kinh
tế của Quốc hội tổ chức cho thấy nhiều góc nhìn về thị trường vàng. Được tổ
chức định kỳ hàng năm, diễn đàn là nơi những chuyển động của nền kinh tế
cả trong ngắn hạn và trung hạn được mổ xẻ với nhiều chiều quan điểm và đa
dạng góc nhìn. Năm 2014, vấn đề về thị trường vàng được các đại biểu đặc
biệt quan tâm. Những vấn đề về tính hiệu quả của công tác quản lý, đấu thầu
thị trường vàng; Vấn đề độc quyền kinh doanh vàng miếng của Ngân hàng
nhà nước; Vấn đề lợi ích từ chênh lệch giá bán vàng miếng trong và ngoài
10. 3
nước; Vấn đề hạn chế khả năng tham gia các phiên đấu thầu vàng miếng của
các tổ chức kinh doanh vàng… phần nhiều vẫn chưa có câu trả lời đáp ứng kỳ
vọng của các chuyên gia trong lĩnh vực ngân hàng.
Có thể nói, điều hành thị trường vàng tại Việt Nam đã có các văn bản
pháp luật điều chỉnh nhưng hiệu lực pháp lý chưa cao. Trong khi đó, thị
trường vàng lại là nơi ẩn chứa nhiều rủi ro tác động đến sự phát triển của nền
kinh tế. Do đó, việc hoàn thiện pháp luật về quản lý thị trường này là điều cần
thiết và mang tính cấp bách, do đó, em lựa chọn đề tài: “Cơ sở pháp lý cho
Ngân hàng Nhà nước thực hiện các biện pháp quản lý đối với thị trường
vàng ở Việt Nam và các kiến nghị pháp lý” làm đề tài luận văn tốt nghiệp
luật học với mong muốn góp phần hoàn thiện pháp luật về quản lý thị trường
vàng tại Việt Nam hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Tổng quan về tình hình nghiên cứu đề tài cho thấy chưa có công trình
nghiên cứu nào đề cập một cách trực tiếp đến vấn đề được học viên lựa chọn.
Ở các đề tài có liên quan, nội dung được lựa chọn thường đề cập tới khía cạnh
kinh tế của vàng và thị trường vàng như các đề tài:
Đề tài “Các nhân tố ảnh hưởng đến thị trường vàng trong nền kinh tế
Việt Nam” – Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Tài chính ngân hàng của tác giả
Phạm Thị Huyền Trang. Trong đề tài này, tác giả giải quyết các vấn đề về: Vai
trò của vàng trong nền kinh tế thị trường; Nguyên nhân biến động giá vàng ở
Việt Nam; Đề xuất một số giải pháp để phát triển thị trường vàng Việt Nam.
Đề tài “Một số giải pháp nhằm ổn định thị trường vàng và phát triển
hoạt động đầu tư tại Việt Nam” – Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Tài chính
ngân hàng của tác giả Đinh Thị Ngọc Mai. Nội dung của Luận văn tập trung
nghiên cứu xu hướng dao động của giá vàng dưới tác động của tỷ lệ lạm phát,
11. 4
giá dầu, tỷ giá đô la Mỹ so với đồng Việt Nam; đồng thời nhận biết những rủi
ro tiềm ẩn trong giao dịch đầu tư vàng.
Đề tài “Hoạt động quản lý kinh doanh vàng ở nước ta hiện nay – thực
trạng và giải pháp” – Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Luật kinh tế của tác giả
Nguyễn Bảo Ngọc. Đề tài đã đánh giá về sự cần thiết và phù hợp của Ngân
hàng Nhà nước Việt Nam trong hoạt động quản lý thị trường vàng trong
nước. Thời điểm hoàn thành Luận văn vào năm 2010, trước thời điểm Chính
phủ ban hành Nghị định số 24/2012/NĐ-CP.
Đề tài “Phân tích chính sách đấu thầu vàng miếng của Ngân hàng
Nhà nước Việt Nam” của tác giả Hồ Kim Khanh, chuyên ngành Tài chính –
ngân hàng. Đề tài đã Tổng hợp kết quả các phiên đấu thầu vàng miếng của
Ngân hàng Nhà nước và đánh giá về hiệu quả của chính sách đấu thầu vàng
miếng; Phân tích diễn biến các ảnh hưởng của chính sách đấu thầu vàng
miếng tới các yếu tố vĩ mô (Tỷ giá, lạm phát...) và các đối tượng tham dự
thầu, tới chênh lệch giá vàng trong nước và thế giới; Kiến nghị một số giải
pháp nhằm nâng cao hiệu quả chính sách đấu thầu vàng miếng của Ngân
hàng Nhà nước.
Các đề tài trên đã tìm hiểu về thị trường vàng trong mối liên hệ của nó
với các biến số của nền kinh tế. Đề tài thứ ba đi sâu hơn vào một biện pháp
can thiệp cụ thể của Ngân hàng Nhà nước vào thị trường vàng là chính sách
đấu thầu vàng miếng. Tuy nhiên, vấn đề liên quan đến chủ thể quản lý với cơ
sở pháp lý cho hoạt động quản lý không nằm trong phạm vi nghiên cứu của
các đề tài trên.
Bên cạnh các đề tài thuộc chuyên ngành tài chính – ngân hàng, gần đây
nhất tác giả Nguyễn Ngọc Yến đã hoàn thành đề tài thuộc chuyên ngành luật
kinh tế về thị trường vàng: “Pháp luật điều chỉnh hoạt động quản lý và điều
12. 5
hành thị trường vàng của Ngân hàng nhà nước Việt Nam”. Trong đề tài này,
tác giả Nguyễn Ngọc Yến lựa chọn phân tích các bộ phận cấu thành pháp luật
điều chỉnh về hoạt động quản lý thị trường vàng ở Việt Nam với các nội
dung: (i) Nguyên tắc pháp lý trong quản lý thị trường vàng; (ii) Quy định về
chủ thể có trách nhiệm quản lý và điều hành thị trường vàng; (iii) Hàng hóa
được phép giao dịch trên thị trường; (iv) Tổ chức và vận hành thị trường vàng
phổ thông; (v) Tổ chức và vận hành thị trường mua bán vàng của Ngân hàng
Nhà nước; (vi) Thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm trên thị trường vàng.
Theo một hướng nghiên cứu không bị trùng lặp với đề tài kể trên, Đề
tài “Cơ sở pháp lý cho Ngân hàng Nhà nước thực hiện các biện pháp quản lý
đối với thị trường vàng ở Việt Nam và các kiến nghị pháp lý”, học viên lựa
chọn phân tích ở góc độ cơ sở pháp lý cho hoạt động quản lý thị trường vàng
của Ngân hàng Nhà nước. Trong đó, tập trung vào khía cạnh hệ thống pháp
luật làm cơ sở cho Ngân hàng Nhà nước quản lý đối với thị trường vàng đáp
ứng những yêu cầu của một thị trường hàng hóa phát triển. Đề tài sẽ đóng góp
thêm những nghiên cứu về thị trường vàng, bổ sung các kiến nghị nhằm hoàn
thiện thị trường vàng ở Việt Nam.
3. Phạm vi nghiên cứu đề tài
Phạm vi nghiên cứu của đề tài tập trung vào những quy định, những
chính sách của Nhà nước. Đặc biệt, tác giả đi sâu vào tìm hiểu hoạt động quản
lý và điều hành thị trường vàng thông qua những chính sách của Ngân hàng
Nhà nước. Ngoài ra, tác giả còn tiến hành tìm hiểu một số công trình nghiên
cứu về thị trường vàng quốc gia khác và thị trường vàng quốc tế dưới góc độ
kinh tế, nhằm làm rõ được bản chất của thị trường vàng với tư cách là một thị
trường tài chính nhạy cảm và quan trọng của nền kinh tế, học hỏi được một số
kinh nghiệm từ việc quản lý và điều hành thị trường vàng của một số quốc gia
13. 6
trên thế giới để từ đó có những kiến nghị cho việc hoàn thiện pháp luật điều
chỉnh hoạt động quản lý và điều hành thị trường vàng của Việt Nam.
4. Đối tượng nghiên cứu, mục đích, nhiệm vụ của luận văn
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là thị trường vàng trong mối liên hệ
với cách thức tổ chức, quản lý của Nhà nước bằng công cụ pháp luật. Trong
đó, quan tâm tới các yếu tố cơ bản để làm nên thị trường, đòi hỏi cần sự bảo
đảm của pháp luật và cơ quan quản lý chuyên ngành cho những yếu tố ấy
được ghi nhận và thực thi trên thực tế.
Mục tiêu của đề tài là đánh giá sự phù hợp của Ngân hàng Nhà nước
trong vai trò là cơ quan quản lý và điều hành thị trường vàng trong nước. Từ
đó xác định các cơ sở pháp lý cho việc thực hiện vai trò của Ngân hàng Nhà
nước thông qua cơ chế trao quyền cho Ngân hàng Nhà nước thực hiện các
biện pháp phù hợp và định hướng trong tương lai cho một thị trường vàng ổn
định và hiệu quả. Trong đó, các mục tiêu cụ thể bao gồm:
- Xác định vị trí đặc biệt của Ngân hàng Nhà nước trong quản lý thị
trường vàng.
- Xác định các nội dung giao dịch trên thị trường vàng.
- Xác định cơ chế can thiệp hiệu quả để duy trì hoạt động ổn định của
thị trường nhưng không làm mất đi tính công bằng và bảo vệ được quyền lợi
chính đáng của các chủ thể tham gia vào thị trường.
- Đánh giá về hoạt động quản lý thị trường vàng trong thời gian qua,
đóng góp ý kiến cho cơ chế quản lý trong giai đoạn hiện nay và định hướng
trong tương lai với mục tiêu một thị trường vàng ổn định, đảm bảo quyền
tham gia thị trường và bảo quyền lợi của các chủ thể trên thị trường.
5. Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn được trình bày trên cơ sở phương pháp của Chủ nghĩa Mac-
14. 7
Lenin về Nhà nước và pháp luật, trên nền tảng quan điểm của Đảng và Nhà
nước về con người và sự phát triển con người.
Phương pháp nghiên cứu được sử dụng trong luận văn là phương pháp
duy vật biện chứng, phương pháp phân tích đối chiếu, phương pháp tổng hợp,
phương pháp hệ thống và phương pháp so sánh.
6. Những nét mới của luận văn
- Làm rõ cơ sở pháp lý để Ngân hàng Nhà nước Việt Nam áp dụng các
biện pháp quản lý tập trung và hiệu quả đối với thị trường vàng.
- Làm sáng tỏ sự cần thiết phải quản lý thị trường vàng thông qua các
quy định của pháp luật và vai trò của Ngân hàng Nhà nước đối với việc tạo
lập, quản lý và tham gia vào thị trường vàng.
- Tìm được những nhược điểm của việc thiếu sự quản lý chặt chẽ và
những bất cập trong quản lý đối với thị trường vàng trong nước sẽ đem lại
nhiều hạn chế (không chỉ liên quan đến chính sách quản lý chung của Nhà
nước mà còn gây thiệt hại và tâm lý bất ổn ở những người đầu tư vào vàng)
7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Nghiên cứu tập trung tìm hiểu về thị trường vàng trong nước, các thủ
thể tham gia và các yếu tố ảnh hưởng đến thị trường vàng. Sự cần thiết phải
có sự quản lý đối với thị trường vàng. Đồng thời tìm hiểu về Ngân hàng Nhà
nước trong tư cách là cơ quan quản lý thị trường vàng, mục tiêu của việc quản
lý và các biện pháp điều hành và tham gia vào thị trường vàng.
Từ những phân tích, đánh giá đó và tìm hiểu thực tiễn áp dụng các
biện pháp quản lý thị trường vàng của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam,
luận văn đưa ra những khuyến nghị hoàn thiện cơ sở pháp lý để nâng cao
hơn nữa hiệu quả các biện pháp quản lý thị trường vàng của Ngân hàng
Nhà nước Việt Nam.
15. 8
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn
kết cấu gồm 3 chương như sau:
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về thị trường vàng và cơ sở pháp lý
cho Ngân hàng Nhà nước thực hiện các biện pháp quản
lý thị trường vàng
Chương 2: Các quy định pháp lý và thực tiễn áp dụng pháp luật về
các biện pháp quản lý thị trường vàng của Ngân hàng
Nhà nước Việt Nam.
Chương 3: Một số đề xuất và giải pháp hoàn thiện cơ sở pháp lý cho
Ngân hàng Nhà nước thực hiện các biện pháp quản lý thị
trường vàng ở Việt Nam.
16. 9
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ THỊ TRƯỜNG VÀNG VÀ CƠ SỞ
PHÁP LÝ CHO NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC THỰC HIỆN CÁC BIỆN
PHÁP QUẢN LÝ THỊ TRƯỜNG VÀNG
1.1. Khái quát về thị trường vàng
1.1.1. Đặc trưng của thị trường vàng ở Việt Nam
1.1.1.1. Khái niệm về thị trường vàng
Khi nói về thị trường vàng, người ta thường nhắc tới tính thời sự của nó
trong những diễn biến khác nhau của nền kinh tế. Mỗi một quốc gia trên thế
giới, với truyền thống văn hóa và trình độ phát triển của thị trường tài chính
khác nhau lại có những mối quan tâm rất riêng đối với thị trường vàng. Có
nhiều cách tiếp cận đối với thị trường này, từ góc độ bản chất, trước hết đây là
một thị trường – nơi được vận hành để tạo điều kiện cho sự gặp gỡ và trao đổi
giữa người bán và người mua với nhau. Thị trường được hiểu là nơi gặp gỡ
giữa cung và cầu của một loại hàng hoá, dịch vụ hàng hoá.
Không phải yếu tố thị trường mà yếu tố hàng hóa được giao dịch trên
thị trường mới làm nên những nét đặc trưng riêng có của nó. Hàng hóa của thị
trường vàng là vàng – một loại hàng hóa đặc biệt, thỏa mãn những nhu cầu đa
dạng của đời sống xã hội và không thể thay thế. Chính những đặc tính của
vàng đã làm cho nó trở nên hấp dẫn với những nhu cầu đa dạng trong đời
sống xã hội và làm nên một thị trường vàng rất sôi động. Sự hấp dẫn của vàng
tạo nên nhu cầu trên thị trường xuất phát từ những lý do:
Thứ nhất, vàng vật chất là tài sản chứa đựng giá trị nội tại, theo thời
gian, vàng luôn là nơi ẩn náu an toàn cho các khoản tích trữ, đặc biệt ở các
giai đoạn khủng hoảng kinh tế ở mọi cấp độ. Xu hướng của vàng là luôn giữ
vững được giá trị của nó theo thời gian. Suốt từ 5.000 năm lịch sử của nhân
17. 10
loại, vàng không chỉ là hình thức biểu hiện của cải cuối cùng mà bất kỳ thời
đại nào, dân tộc nào, khu vực nào, thể chế chính trị nào trong bất kỳ nền văn
minh nào, vàng cũng đã và đang được chấp nhận. Nó chính là thước đo đáng
tin cậy nhất về giá trị của mọi loại hàng hóa, không chỉ trong hiện tại mà còn
trong tương lai [1, tr.23].
Thứ hai, vàng là một công cụ đầu tư hiệu quả. Mức độ sinh lợi từ đầu
tư vàng tương đối cao so với các sản phẩm đầu tư khác, trong khi mức độ rủi
ro thị truờng tương đối thấp. Nắm bắt chính xác xu hướng tăng, giảm giá vàng
có thể đem lại những khoản lợi không nhỏ cho các nhà đầu tư nếu như biết
chọn thời điểm mua – bán đúng đắn.
Thứ ba, với giá trị thẩm mỹ cao, một nhu cầu không nhỏ khác đối với
vàng nằm ở bộ phận vàng trang sức. Trang sức bằng vàng không chỉ đẹp về
mẫu mã mà còn chứa đựng giá trị không nhỏ đã tạo nên sức hút với đông đảo
các tầng lớp dân cư, đặc biệt với các quốc gia có truyền thống Á Đông như
Việt Nam.
Thứ tư, trong nền kinh tế ngày nay, vàng không chỉ được sử dụng như
một phương tiện tích trữ hay đồ trang sức, mà cùng với những đặc tính hiếm
có của mình, vàng còn là một nguyên liệu đầu vào không thể thiếu trong
nhiều ngành công nghiệp, đặc biệt là những ngành công nghiệp công nghệ
cao. Khó có thể hình dung nếu thiếu vàng thì các ngành công nghiệp vũ trụ,
công nghiệp máy tính, và nhiều ngành công nghệ khác sẽ như thế nào.
Đáp ứng cho các nhu cầu kể trên, thị trường vàng lại có nguồn
cung bổ sung rất hạn chế. Các số liệu thống kê của Gold Field Mineral
Services [12, tr.26] đã chỉ ra rằng kể từ khi loài người biết đến vàng, số
lượng vàng được khai thác đạt xấp xỉ 166.000 tấn. Tính từ năm 2000, hàng
năm con người khai thác xấp xỉ 2600 tấn vàng trên toàn thế giới với trữ lượng
chưa khai thác ước tính là 75.000 tấn. Bên cạnh đó, các số liệu cũng cho thấy
18. 11
chi phí khổng lồ của ngành công nghiệp khai thác vàng. Để có thể có được
500 tấn vàng đòi hỏi phải công sức khai thác và xử lý 70 triệu tấn đất đá. Thói
quen tích trữ vàng cũng là một nguyên nhân khiến cho nguồn cung vàng trên
thị trường không thực sự dồi dào.
Bên cạnh những đặc trưng về yếu tố cung – cầu, vàng còn thể hiện sự
khác biệt ở vai trò của nó đối với nền kinh tế. Không chỉ đơn thuần là một loại
hàng hóa, vàng còn giữ tư cách như một loại tiền tệ bởi những đặc tính vốn có
của nó. Vàng luôn giữ một ví trị quan trọng trong đời sống của hầu hết các
dân tộc trên thế giới. Chứa đựng nhiều phẩm chất quý giá, vàng là minh
chứng cho sự giàu sang của những người sở hữu nó. Sự thừa nhận rộng rãi giá
trị của vàng đã làm cho vàng trở thành tiền tệ trong hàng nghìn năm lịch sử
của nhiều quốc gia như một quá trình tự nhiên. Các lý thuyết kinh tế nhìn
nhận tiền tệ có ba đặc điểm quan trọng là phương tiện lưu trữ giá trị, là
phương tiện định giá và là phương tiện trao đổi. Vào giai đoạn mọi vật đều có
thể quy đổi giá trị theo vàng và được chấp nhận trong quan hệ mua bán như
một phương tiện thanh toán thì vàng là một loại tiền tệ. Mặc dù hiện nay, theo
những học thuyết kinh tế mới, tiền tệ pháp định đang được áp dụng lưu hành
và vàng dần được rút ra khỏi hệ thống tiền tệ nhưng trong không ít các trường
hợp, người ta vẫn nghĩ về vàng như một loại tiền hơn chỉ là một loại tài sản
thông thường.
Những đặc tính riêng của vàng đã làm nên một thị trường có sức hấp
dẫn với rất nhiều nhu cầu trong xã hội. Có thể khái quát về thị trường vàng
như sau: “Thị trường vàng là nơi diễn ra các giao dịch mua, bán và trao đổi
về vàng”. Hay nói cách khác, “Thị trường vàng là nơi mà giá cả của vàng
được thiết lập thông qua các giao dịch”. Tuy nhiên, khái niệm kể trên chưa
thực sự đem lại một cách hiểu đầy đủ về thị trường vàng với toàn bộ những
bộ phận cấu tạo nên thị trường này. Bởi nó chưa cho chúng ta thấy được sự
19. 12
khác biệt của vàng và những sản phẩm phái sinh từ vàng. Cả hai loại hàng hóa
kể trên đều tham gia vào thị trường để đáp ứng cho các nhu cầu trao đổi. Một
cách cụ thể hơn và phù hợp với sự phát triển của giao dịch hiện đại, thị trường
vàng còn được nhìn nhận bao gồm thị trường vật chất và thị trường vàng giấy.
Theo Gary O’Callaghan: Thị trường vàng bao gồm: Thị trường vàng vật chất
(physical gold), trong đó vàng thỏi, tiền, trang sức được chuyển giao giữa các
chủ thể trên thị trường; và Thị trường vàng giấy (Paper gold), có thể gọi là
vàng chứng chỉ, trong đó bao gồm giao dịch được thực hiện với các loại
chứng khoán tương ứng [28].
1.1.1.2. Đặc trưng của thị trường vàng Việt Nam
Ở Việt Nam, những diễn biến của thị trường vàng trong nhiều năm qua
đã phản ánh nhiều thực tế mang cả yếu tố khách quan lẫn yếu tố chủ quan.
Với đề tài này, tác giả tập trung tìm hiểu những diễn biến của thị trường vàng
Việt Nam từ thời điểm bắt đầu là những năm 90 của thế kỷ 20, khi Nhà nước
bắt đầu cho phép những giao dịch tự do về vàng đầu tiên được thực hiện. Cho
đến nay, sau hơn hai mươi năm kể từ thời điểm đó, đã có nhiều dấu mốc quan
trọng cho sự mở rộng, thậm chí có những thời điểm bùng nổ các hoạt động
trên thị trường vàng, và đến gần đây nhất, các hoạt động trên thị trường vàng
lại bị thu hẹp đáng kể. Tất cả những thay đổi trên thị trường đó đều gắn với
những định hướng của Nhà nước khi ban hành những văn bản điều chỉnh hoạt
động của các chủ thể trên thị trường. Như vậy, có thể thấy đặc trưng đầu tiên
của thị trường vàng Việt Nam là luôn nhận được sự quan tâm từ phía cơ quan
quản lý, và luôn được tổ chức vận hành nhằm đáp ứng yêu cầu phù hợp với
chính sách chung của Chính phủ. Ở Việt Nam, chính sách của Chính phủ có
thể tác động một cách trực tiếp và dễ dàng tới thị trường vàng một cách có
chủ đích. Tuy nhiên những chính sách này tại nhiều thời điểm thường có độ
trễ đáng kể so với những diễn biến nhanh chóng của thị trường. Có thể kể đến
20. 13
hiện tượng sự xuất hiện và tồn tại của các sàn vàng tư nhân với uy tín và quy
mô khác nhau như một loại hình kinh doanh chứa đựng nhiều rủi ro dành cho
nhà đầu tư nhưng không có quy định pháp luật điều chỉnh; hay ví dụ về sự xuất
hiện và lưu thông của nhiều thương hiệu vàng nhưng không có một quy chuẩn
cần thiết để đảm bảo lợi ích chính đáng của người tiêu dùng.
Đặc trưng thứ hai, thị trường vàng Việt Nam là một thị trường gồm
nhiều bộ phận, nhưng chưa được định hình một cách rõ nét. Ở Việt Nam,
chưa có một cái nhìn chính thức về thị trường vàng mà mới chỉ dừng lại ở
việc duy trì trên cơ sở thị trường vàng vốn đã tồn tại. Có nhiều cách khác
nhau để phân loại thị trường vàng, nhưng tồn tại ở Việt Nam có thể kể đến
các bộ phận: Thị trường vàng vật chất, thị trường vàng tài khoản, thị trường
vàng ngoại hối; Thị trường vàng trang sức, thị trường vàng miếng, thị trường
vàng nguyên liệu. Mặc dù chia thành các bộ phận khác nhau nhưng tính liên
thông, pha trộn giữa các bộ phận này là phổ biến ở Việt Nam. Lấy ví dụ về
nhu cầu coi vàng như một tài sản tích trữ, không có nhiều sự khác biệt ở sự
lựa chọn vàng miếng và vàng nhẫn với chất liệu vàng ta. Ở Việt Nam, sự
điều chỉnh trong chính sách quản lý trong nhiều trường hợp là không trực
tiếp và chưa tạo ra cơ chế pháp lý riêng dành cho những nhóm chủ thể tham
gia thị trường khác nhau. Một thị trường vàng với nhiều bộ phận khác nhau
làm công tác quản lý không phải khi nào cũng dễ dàng, đặc biệt là quản lý
bằng công cụ pháp luật. Điều đó đòi hỏi nhà quản lý phải có tư tưởng xuyên
suốt trong quá trình xây dựng hệ thống pháp luật. Điểm bắt đầu của quá
trình này là lựa chọn một cách phân loại thị trường vàng chính thức để từ đó
xây dựng các quy chế pháp lý dành riêng cho từng bộ phận.
Đặc trưng thứ ba của thị trường vàng Việt Nam thể hiện đây là một thị
trường tương đối khép kín và nhỏ lẻ. Trong nhiều năm, kể từ khi các giao dịch
về vàng được pháp luật ghi nhận, ngoại trừ lượng vàng vốn được tích lũy của
21. 14
nền kinh tế và nguồn cung không đáng kể từ hoạt động khai thác trong nước,
thị trường chỉ có thể đón nhận nguồn bổ sung qua một van điều tiết duy nhất là
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Trường hợp tương tự cũng xảy ra với các hoạt
động xuất khẩu vàng ra nước ngoài với các điều kiện khắt khe mang tính hành
chính của cơ quan quản lý Nhà nước. Thị trường vàng trong nước lệ thuộc vào
nguồn nhập khẩu vàng chính thức vốn bị hạn chế, dẫn đến tình trạng nhập lậu
vàng vào Việt Nam bằng các con đường phi chính thức, chất lượng vàng nhập
lậu không thể kiểm soát. Tình trạng nhập lậu vàng đã đạt qui mô rất lớn. Thống
đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Văn Bình (khi đó đang giữ chức Phó Thống
đốc) đã phát biểu trên Chinhphu.vn ngày 3/4/2011 “Trung bình một năm buôn
lậu vàng lên đến 20 – 40 tấn. Buôn lậu vàng rõ ràng liên quan đến một lượng
lớn ngoại tệ bị biến mất khỏi tài khoản quốc gia” [8].
Bên cạnh đặc trưng là một thị trường khép kín, thị trường vàng Việt
Nam còn là một thị trường nhỏ lẻ. Điều đó có thể nhận ra dựa trên sự đánh giá
về cách thức tiến hành các hoạt động giao dịch về vàng ở Việt Nam. Theo đó,
nơi mà các giao dịch được thực hiện là các địa điểm được cấp phép nằm rải rác
trong cả nước. Một số liệu thống kê không chính thức cho thấy, cho tới trước
thời điểm bị thu hẹp về số lượng, ở Việt Nam có khoảng 8000 điểm giao dịch
vàng, tạo nên một mạng lưới giao dịch khổng lồ và khó kiểm soát. Cho đến
thời điểm hiện nay, số lượng điểm giao dịch được cấp phép đã thu hẹp, nhưng
con số vẫn tương đối lớn với tổng số điểm mà người dân có thể đến giao dịch
vàng miếng khoảng gần 2.500 điểm (2.497 điểm) trên cả nước. [18]
Đặc trưng thứ tư của thị trường vàng Việt Nam là một thị trường nhiều
biến động với phương thức giao dịch đơn giản. Trong khoảng 5 năm trước
khi Nghị định 24 – Nghị định về quản lý hoạt động kinh doanh vàng của
Chính phủ đang có hiệu lực vào thời điểm hoàn thành luận văn – được ban
hành ngày 03/04/2012, thị trường vàng ở Việt Nam chứng kiến nhiều biến
22. 15
động có ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống xã hội và kinh tế Việt Nam.
Trong thời gian này, giá vàng trong nước luôn ở trạng thái biến động không
theo bất cứ quy luật nào của thị trường. Những đợt tăng, giảm giá mạnh bất
thường kéo theo những đợt đổ xô đi mua, bán vàng của đông đảo dân chúng.
Không ít người đã mất mát khối tài sản tiết kiệm của mình khi giá vàng đột
ngột đảo chiều chỉ trong thời gian ngắn. Lịch sử giao dịch trên thị trường vàng
từng ghi nhận các trường hợp giá vàng trong một ngày có thể đội thêm vài triệu
đồng/lượng. Bên cạnh đó, giá vàng trong nước luôn có mức chênh lệch lớn với
thị trường vàng quốc tế, mức chênh lệch có thể từ vài trăm nghìn đồng cho đến
vài triệu đồng một lượng. Trong nhiều trường hợp, diễn biến tăng hoặc giảm
của giá vàng thế giới không ảnh hưởng và không thay đổi cùng chiều với giá
vàng tại Việt Nam. Trong những diễn biến kể trên, giao dịch về vàng được thực
hiện chủ yếu trên phân khúc thị trường vàng vật chất – nơi vàng được chuyển
giao ngay giữa các chủ thể thực hiện các hoạt động mua bán. Giao dịch vàng
trên tài khoản hay với vàng giấy theo cách định nghĩa của tác giả Gary
O’Callaghan mặc dù không còn quá mới mẻ với thị trường trong nước nhưng
cũng mới chỉ được thực hiện ở những mô hình đơn giản. Sau một thời gian
ngắn nở rộ trong khoảng bốn năm từ 2006 đến 2009 cùng sự xuất hiện của các
sàn vàng trong nước, hoạt động kinh doanh vàng tài khoản đã bị yêu cầu
chấm dứt. Các giao dịch vàng tài khoản trong thời gian từ sau đó cho đến nay
bị coi là hành vi trái với quy định pháp luật.
1.1.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến thị trường vàng trong nước
Thị trường vàng là nơi tham gia của nhiều đối tượng khác nhau, hơn
nữa vàng với giá trị bền vững theo thời gian là vật bảo đảm không chỉ cho
người chủ sở hữu là các tổ chức, cá nhân mà còn là đối với cả nền kinh tế. Vì
vậy, thị trường vàng nhận được nhiều sự quan tâm với những mục tiêu đa
dạng. Theo chiều hướng ngược lại, những thay đổi của các yếu tố kể trên
23. 16
cũng tác động trở lại đối với thị trường vàng. Đối với thị trường vàng Việt
Nam, các yếu tố tác động chủ yếu có thể kể đến bao gồm:
Một là, tác động của yếu tố cung – cầu về vàng trên thị trường. Có thể
coi đây là yếu tố có ảnh hưởng tới thị trường về mặt bản chất. Bởi lẽ, thị
trường vàng là nơi để kết nối các nhu cầu về vàng khác nhau trong nền kinh
tế. Mỗi một thay đổi từ phía cung và cầu đều có ảnh hưởng trực tiếp tới
những bộ phận cơ bản nhất của thị trường về giá cả, khối lượng giao dịch, cơ
cấu của thị trường. Nhu cầu vàng trên thị trường Việt Nam cũng bao gồm
những nhu cầu cơ bản như nhiều thị trường vàng khác trên thế giới: Nhu cầu
trang sức, nhu cầu tích lũy, nhu cầu sản xuất và nhu cầu đầu tư. Hơn nữa, Việt
Nam là một quốc gia theo truyền thống Á Đông, nơi rất coi trọng vàng trong
nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội. Ngoài ra, những đặc điểm của một nền
kinh tế nhỏ bé, bước đầu hội nhập với kinh tế thế giới cũng góp phần làm tăng
thêm nhu cầu về vàng ở thị trường trong nước. Những nhu cầu ấy mặc dù có
thể bị giới hạn, hạn chế bởi những chính sách ngắn hạn của Chính phủ để phù
hợp với những chính sách vĩ mô ở từng giai đoạn. Nhưng những nhu cầu ấy
mới phản ánh và có tác động thực sự mạnh mẽ lên sự phát triển của thị trường
vàng Việt Nam. Những ví dụ về những đợt sóng đầu tư vào vàng và hoạt
động đầu tư trên các sàn vàng hiện nay bị coi là bất hợp pháp đã phần nào
phản ánh được nhu cầu lớn của thị trường vàng trong nước.
Ở phía còn lại của thị trường, yếu tố nguồn cung cũng đem lại những
ảnh hưởng không nhỏ. Là một thị trường có nhu cầu rất lớn, nhưng chưa bao
giờ Việt Nam được biết đến là quốc gia có sản lượng vàng phong phú. Nguồn
cung vàng của Việt Nam chủ yếu phụ thuộc vào hoạt động nhập khẩu. Vì vậy,
phía cung của thị trường vàng Việt Nam gắn bó với các định hướng của chính
sách nhập khẩu tới từ phía cơ quan quản lý. Lâu nay, chính sách này vẫn được
biết đến là nằm trong vòng kiểm soát chặt chẽ của Nhà nước với công cụ hạn
24. 17
ngạch nhập khẩu. Sự phụ thuộc ấy làm ảnh hưởng rất lớn tới một trong những
chức năng quan trọng của thị trường vàng là quyết định về giá cả của hàng
hóa của thị trường – giá vàng. Vô hình chung, khuyến khích một hành vi có
ảnh hưởng xấu ở những thời điểm giá thị trường xuống thấp là hành vi đầu cơ
của nhiều chủ thể trên thị trường.
Hai là, Chính sách quản lý của Nhà nước về thị trường vàng. Chính
sách quản lý của Nhà nước là một trong những yếu tố tác động quan trọng
nhất tới thị trường vàng trong nước. Mặc dù sự tồn tại của thị trường vàng là
một đòi hỏi khách quan của thực tiễn đời sống xã hội sinh động, nhưng cách
thức vận hành và mức độ tham gia của các chủ thể ở vào từng giai đoạn khác
nhau thường xuất phát từ lý do của những thay đổi về chính sách. Sự vận
động của thị trường vàng Việt Nam theo nghiên cứu của luận văn mặc dù chỉ
giới hạn trong khoảng thời gian hơn hai mươi năm nhưng cũng đã chứng kiến
tới ba lần điều chỉnh chính sách lớn của Nhà nước. Trong giai đoạn đầu, khi
Chính phủ Việt Nam tạo ra những cơ sở pháp lý đầu tiên cho hoạt động giao
thương về vàng, là nhằm khơi thông dòng chảy của lượng vàng tích trữ trong
dân chúng đối với nền kinh tế. Ở vào giai đoạn thứ hai, theo xu hướng khuyến
khích khai thác mọi nguồn vốn nhàn rỗi, mở rộng hoạt động kinh doanh trong
lĩnh vực tài chính, du nhập vào trong nước các loại hình đầu tư tài chính hiện
đại, sự đa dạng của các giao dịch về vàng bước đầu được cho phép, và sau đó
đã chứng kiến nhiều bất ổn với đời sống kinh tế xã hội do sự thiếu hụt của cơ
sở pháp lý điều chỉnh. Đến giai đoạn thứ ba, chính sách của Nhà nước được
điều chỉnh quản lý chặt chẽ, thu hẹp các giao dịch về vàng trong nền kinh tế.
Bên cạnh đó là những chính sách bao trùm vẫn được duy trì trong suốt
khoảng thời gian hơn hai mươi năm qua. Có thể kể đến chính sách kiểm soát
chặt chẽ lưu lượng giữa thị trường vàng trong nước với phần còn lại của kinh
tế thế giới; hay chính sách chống vàng hóa nền kinh tế và nhiều chính sách
25. 18
khác có liên quan. Những chính sách đó có ảnh hưởng không nhỏ tới công tác
điều hành của cơ quan quản lý trong suốt thời gian qua. Có thể thấy, chính
sách của Nhà nước mà trong đó, công cụ pháp luật được sử dụng một cách
thường xuyên có tác động khá mạnh mẽ đến thị trường vàng. Tuy nhiên yếu
tố ấy cho dù có ảnh hưởng mạnh mẽ đến đâu sẽ vẫn phải đáp ứng yêu cầu của
sự phù hợp với nền tảng phát triển kinh tế xã hội.
Không chỉ có chính sách liên quan trực tiếp tới thị trường vàng, những
chính sách điều chỉnh kinh tế vĩ mô và chính sách tiền tệ cũng có tầm ảnh
hưởng không hề nhỏ tới sự vận động của thị trường vàng trong nước. Trong
đó, liên quan mật thiết tới chính sách điều hành về tỉ giá giữa đồng Việt Nam
với ngoại tệ. Mối liên hệ giữa giá trị của đồng tiền Việt Nam, những đồng
ngoại tệ mạnh và vàng là mối quan hệ mang tính chất kinh tế - chính trị phức
tạp. Đòi hỏi hoạt động điều hành rất linh hoạt để cân bằng từ nhiều phía, góp
phần ổn định và phát triển kinh tế. Sở dĩ có thể nói chính sách tỉ giá ảnh
hưởng tới thị trường vàng cũng xuất phát từ việc thị trường vàng Việt Nam lệ
thuộc vào nguồn vàng nhập khẩu. Để có thể được giao dịch ở thị trường trong
nước, có rất nhiều sự tác động đến từ chi phí vận chuyển, chi phí bảo hiểm,
thuế nhập khẩu, phí hải quan vốn đặc trưng cho các hoạt động nhập khẩu.
Ngoài ra, tỉ giá – mà cụ thể là tỉ giá giữa đồng Việt Nam và đô-la Mỹ
(VND/USD) – là một yếu tố thường xuyên biến động dựa trên quan hệ ngoại
thương và chính sách điều hành của Nhà nước. Khi tỉ giá này tăng, kéo theo
giá vàng trong nước sẽ tăng và ngược lại, khi tỉ giá giảm, giá vàng trong nước
cũng sẻ giảm theo tương ứng. Nói cách khác, chính sách về tỉ giá đã gián tiếp
tác động đến giá vàng của thị trường vàng trong nước.
Ba là chính sách tiền tệ quốc gia của Nhà nước. Được định nghĩa tại
Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: “Chính sách tiền tệ quốc gia là các
quyết định về tiền tệ ở tầm quốc gia của cơ quan nhà nước có thẩm quyền,
26. 19
bao gồm quyết định mục tiêu ổn định giá trị đồng tiền biểu hiện bằng chỉ tiêu
lạm phát, quyết định sử dụng các công cụ và biện pháp để thực hiện mục tiêu
đề ra” [20, Điều 2]. Cụ thể hơn, Quốc hội quyết định chỉ tiêu lạm phát hằng
năm được thể hiện thông qua việc quyết định chỉ số giá tiêu dùng và giám sát
việc thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia. Đồng thời, Thủ tướng Chính phủ,
Thống đốc Ngân hàng Nhà nước quyết định việc sử dụng các công cụ và biện
pháp điều hành để thực hiện mục tiêu chính sách tiền tệ quốc gia theo quy
định của Chính phủ. Chính sách tiền tệ quốc gia là một trong những chính
sách quan trọng hàng đầu gắn liền với mục tiêu giữ ổn định và phát triển kinh
tế xã hội, có quan hệ mật thiết với việc thực hiện các chính sách khác của
Chính phủ. Một cách gián tiếp, chính sách tiền tệ với hai trạng thái thắt chặt
hay thu hẹp sẽ ảnh hưởng tới giá trị của đồng nội tệ và qua đó, tác động tới
nhu cầu trong dân chúng đối với vàng. Khi sức mua của đồng tiền không còn
được đảm bảo, người ta sẽ có xu hướng tìm đến với vàng như một nơi trú ẩn
an toàn cho các khoản tiết kiệm lâu dài và ngược lại. Không chỉ có đồng nội
tệ, chính sách tiền tệ quốc gia còn có khả năng tác động tới nhiều thị trường,
nhiều kênh đầu tư khác trong nền kinh tế qua khả năng điều tiết dòng vốn đến
với các thị trường. Do đó, vàng có phải là một khoản đầu tư tốt hay không còn
phải xác định ở mỗi một thời điểm là khác nhau. Trực tiếp hơn, chính sách
tiền tệ quốc gia có thể ảnh hưởng tới dòng vốn được đưa vào thị trường vàng
nhiều hay ít để đáp ứng các nhu cầu đầu tư trên thị trường. Có thể nói, đây là
một nhân tố rất đặc biệt và có ảnh hưởng rất mạnh mẽ tới sự phát triển của thị
trường vàng tại mọi thời điểm.
Bốn là, các yếu tố khác. Vàng là một loại hàng hóa đặc biệt, nhận được
sự quan tâm của rất nhiều các chủ thể khác nhau bởi giá trị nội tại bền vững
theo thời gian của vàng. Vì lý do đó, có rất nhiều những yếu tố khác trong nền
kinh tế có ảnh hưởng tới giá vàng và thị trường vàng. Có thể kể đến đó là tình
27. 20
hình lạm phát, với một trong những hậu quả của nó là sự mất giá của đồng
tiền. Và khi đó, người ta có xu hướng chuyển đổi tiền thành các dạng tài sản
khác có giá trị bền vững hơn, và vàng là một lựa chọn hàng đầu. Một yếu tố
khác mang tính quốc tế có ảnh hưởng mạnh mẽ trong thời gian gần đây tới thị
trường vàng là vấn đề về sự biến động của giá dầu. Có thể dễ dàng nhận thấy
giá vàng luôn theo sát và biến động cùng chiều với những đợt tăng hay giảm
của giá dầu thô quốc tế. Trong một nền kinh tế mở và có nhiều yếu tố đan
xen, tác động lẫn nhau như ngày nay, khó có thể vạch ra ranh giới rõ ràng cho
sự ảnh hưởng hay không tới thị trường vàng của các biến số. Sẽ chỉ có thể
đánh giá một cách tương đối về sự tác động ít hay nhiều, trực tiếp hay gián
tiếp của chúng tới thị trường vàng, mà vấn đề lạm phát và tình hình biến động
của giá dầu thô là những trường hợp dễ nhận biết nhất.
1.1.3. Mối quan hệ giữa thị trường vàng với các bộ phận còn lại của
thị trường tài chính
Những đặc điểm của vàng đã làm cho vàng không chỉ đơn thuần là một
loại hàng hóa, mà còn là một công cụ tích trữ, công cụ đầu tư, hay vẫn được
coi là tiền trong nhiều quan điểm không chính thức. Chính vì lý do đó, thị
trường vàng được gắn kết với thị trường tài chính trong nền kinh tế một cách
tự nhiên, và là một bộ phận không tách rời của thị trường tài chính. Tác giả
Frederic S.Mishkin có diễn giải: “Thị trường tài chính là thị trường trong đó
vốn được chuyển từ những người hiện có vốn dư thừa sang những người thiếu
vốn” [27, tr.35]. Theo ông Dương Hải Điền, “Thị trường vàng là một bộ phận
quan trọng của thị trường tài chính, là nơi tập trung giao dịch mua bán vàng”
[6, tr.100]. Mối quan hệ của thị trường vàng với những bộ phận còn lại của thị
trường tài chính đòi hỏi sự quan tâm thích đáng từ phía pháp luật và hoạt
động điều hành của Chính phủ để đảm bảo cho không chỉ một thị trường vàng
mà đối với cả thị trường tài chính và nền kinh tế được vận hành một cách lành
mạnh và hiệu quả.
28. 21
Trong mối quan hệ với thị trường tín dụng, thị trường vàng có xu
hướng diễn biến ngược chiều. Cũng giống như thị trường chứng khoán hay
thị trường bất động sản, sự gia tăng nhu cầu trên thị trường vàng thường
dẫn đến một lượng tăng của nhu cầu tín dụng. Trong khi đó, khả năng huy
động vốn của các tổ chức tín dụng cũng ít nhiều bị giảm khi nguồn vốn
được đưa vào thị trường vàng chưa kịp quay trở lại bổ sung cho nguồn
cung trên thị trường tín dụng. Trường hợp ngược lại sẽ diễn ra khi nhu cầu
của thị trường vàng bị giảm sút.
Trong mối quan hệ với thị trường ngoại hối, thị trường vàng có mối
quan hệ rất chặt chẽ. Ở đó, vai trò trung tâm phải kể đến là Ngân hàng Nhà
nước cùng kho dự trữ ngoại hối khổng lồ của mình. Nhằm mục tiêu giữ ổn
định giá trị đồng tiền, thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia, cơ cấu của kho dự
trữ ngoại hối có thể được điều chỉnh phù hợp với diễn biến của nền kinh tế.
Khi đó, lượng vàng và ngoại tệ mạnh được điều chỉnh thông qua các giao dịch
mua vào hoặc bán ra của Ngân hàng Nhà nước. Để mua vàng Ngân hàng Nhà
nước phải đưa ra ngoài một lượng tiền tương ứng. Việc tăng lượng cung tiền
ra thị trường có thể ảnh hưởng trực tiếp tới việc giảm giá trị của đồng tiền
được sử dụng. Trường hợp ngược lại xảy ra khi Ngân hàng Nhà nước bán ra
lượng vàng trong kho dự trữ của mình. Ở Việt Nam, các giao dịch chủ yếu
diễn ra theo chiều hướng Ngân hàng Nhà nước dùng ngoại tệ mua vàng từ thị
trường quốc tế và sau đó cung cấp cho thị trường vàng trong nước. Với cách
thức như vậy, có thể nhận ra thị trường vàng trong nước còn có mối liên hệ rất
gần với những thay đổi trên thị trường ngoại tệ, và vấn đề về tỉ giá hối đoái.
1.1.4. Sự cần thiết quản lý thị trường vàng bởi Ngân hàng Nhà nước
1.1.4.1. Sự cần thiết phải quản lý đối với thị trường vàng
Trong xã hội ngày nay, hoạt động quản lý của Nhà nước ngày càng
29. 22
được thực hiện sâu rộng hơn vào mọi vấn đề kinh tế, xã hội, lĩnh vực của cuộc
sống. Ở Việt Nam, thực tế đó cũng là phù hợp với thể chế chính trị - hành
chính của nước ta khi Chính phủ thống nhất quản lý mọi mặt của đời sống
kinh tế - xã hội. Do đó, có thể khẳng định rằng, về mặt lý thuyết quản lý Nhà
nước đối với hoạt động của thị trường vàng là yêu cầu không thể không đặt
ra. Mặc dù, kinh nghiệm tổ chức thị trường vàng trên thế giới cho thấy, có
những quốc gia mà hoạt động của thị trường là tự do hoàn toàn. Tại Thụy sĩ,
sàn vàng hoạt động không chịu bất cứ sự điều tiết nào của Chính phủ [13,
tr.40]. Tuy nhiên, những đặc trưng của thị trường vàng Việt Nam cũng đã cho
thấy, quản lý Nhà nước đối với thị trường vàng là cần thiết:
Thứ nhất, trong giai đoạn thiếu vắng các quy định pháp luật điều chỉnh
và sự quản lý của Nhà nước, thị trường vàng đã chứng kiến nhiều bất ổn, xuất
hiện nhiều dấu hiệu của đầu cơ, lừa đảo, những hoạt động những lợi ích chính
đáng không được bảo vệ… Xuất phát từ việc Ngân hàng Nhà nước ban hành
Quyết định số 03/2006/QĐ-NHNN, trong đó có quy định: “Quyết định này
điều chỉnh hoạt động kinh doanh vàng của tổ chức tín dụng được phép hoạt
động ngoại hối có hoạt động kinh doanh vàng và các doanh nghiệp kinh
doanh vàng” [25, Điều 1]. Các ngân hàng thương mại đã triển khai các hoạt
động kinh doanh vàng đa dạng, tập trung vào việc tổ chức các sàn vàng trong
khi chưa có quy định nào ghi nhận nội dung quản lý đã gây ra nhiều hệ lụy
cho xã hội. Hơn thế nữa, những biến động về giá trên thị trường vàng Việt
Nam được đánh giá là không theo quy luật, không phù hợp với những diễn
biến trên thị trường vàng quốc tế, mặc dù nguồn cung cho thị trường vàng
trong nước đến từ hoạt động nhập khẩu. Như vậy, sự hỗn loạn trên thị trường
vàng trong thời gian trước, một phần nguyên nhân của nó đến từ việc thiếu sự
quản lý cần thiết từ phía Nhà nước.
30. 23
Thứ hai, nhu cầu về vàng trong dân chúng là rất lớn, khi niềm tin vào
vàng tăng cao trước sự mất giá của đồng tiền pháp định. Không chỉ có tiền
đồng Việt Nam, mà ngay cả những đồng ngoại tệ mạnh như đô-la Mỹ cũng
trượt giá rất mạnh nếu đem so với vàng. Ý nghĩa của vàng đối với nhu cầu
tích trữ và đầu tư trong dân chúng xuất phát từ giá trị nội tại của vàng là điều
không khó để nhận ra. Còn về phía thị trường vàng, nơi các giao dịch về vàng
được diễn ra sẽ có vai trò gì trong đời sống xã hội. Trước hết thị trường vàng
là nơi để kết nối các nhu cầu mua – bán vàng giữa các chủ thể với nhau, qua
đó người tham gia vào thị trường có thể thỏa mãn các nhu cầu của mình về
đầu tư, tích trữ hay đơn thuần chỉ là làm đẹp. Bản thân thị trường vàng không
tạo ra giá trị cho vàng, tuy nhiên thị trường lại chính là nơi xác định giá trị
của vàng thông qua các giao dịch. Vì thế, những thông tin về giá vàng thay
đổi hàng ngày có tính nhạy cảm rất cao và dễ biến thành phản ứng đám đông
tìm đến các điểm giao dịch mua, bán vàng. Phần đông trong số đó lại là
những người thiếu thông tin, không có khả năng phân tích thị trường, khiến
cho rủi ro của họ tăng cao khi thực hiện các giao dịch trên thị trường. Điều đó
đã được chứng minh với diễn biến trên thị trường vàng một vài năm qua.
Chính vì vậy cần đến sự quản lý của Nhà nước với công cụ pháp luật để điều
chỉnh hoạt động trên thị trường vàng để bảo vệ những giá trị của thị trường
đem lại cho các nhà đầu tư. Cụ thể hơn là đảm bảo cho các giao dịch mua –
bán được thực hiện một cách thuận lợi nhất trên cơ sở của sự tự nguyện và
công bằng. Bên cạnh đó, sự hiện diện và hoạt động của thị trường vàng còn
thể hiện sự đảm bảo từ phía pháp luật với quyền cơ bản của công dân là quyền
sở hữu – và trong trường hợp cụ thể là quyền sở hữu đối với vàng.
Thứ ba, thị trường vàng chỉ là một bộ phận của thị trường tài chính, cần
thiết phải có sự điều tiết của Nhà nước, đảm bảo cho dòng tiền phục vụ hoạt
31. 24
động sản xuất kinh doanh. Nhu cầu sở hữu vàng như một đảm bảo cho khối
tài sản tích trữ là một nhu cầu chính đáng cần được pháp luật bảo vệ. Nhưng
không chỉ đơn thuần giống như các loại hàng hóa đơn thuần khác, vàng còn
đóng vai trò là một sản phẩm đầu tư. Vì lẽ đó, vàng là một trong những yếu tố
có ảnh hưởng trực tiếp tới dòng vốn – nguồn lực cho phát triển kinh tế. Ở một
góc nhìn hẹp, lĩnh vực kinh tế quan tâm tới việc tận dụng các nguồn lực một
cách có hiệu quả nhất cho hoạt động sản xuất. Từ góc nhìn đó, việc vàng thu
hút quá nhiều nguồn vốn từ các khu vực khác trong nhiều trường hợp lại có
tác động ngược không tốt đối với nền kinh tế. Duy trì hoạt động của thị
trường vàng như thế nào để không xâm phạm quyền cơ bản của công dân
nhưng kiểm soát được nó và giảm thiểu những tác động tiêu cực là điều
không dễ dàng. Hoạt động trên thị trường vàng cũng phản ánh khá rõ nét tình
hình của nền kinh tế vào mỗi một giai đoạn khác nhau. Vàng như đã biết là
công cụ đầu tư và tiết kiệm hiệu quả sẽ nhận được nhiều sự quan tâm khi các
tài sản khác không còn giữ được giá trị. Nhưng việc quay vòng đồng vốn trên
thị trường vàng với hành vi đầu cơ sẽ gây ảnh hưởng tiêu cực không chỉ đối
với thị trường vàng mà còn ảnh hưởng đến nhiều mặt của kinh tế xã hội do
tính liên thông giữa thị trường này với các bộ phận còn lại trên thị trường tài
chính. Những hành vi ấy, cho dù được thực hiện bởi các cá nhân đơn lẻ hay
bởi các chủ thể kinh doanh vàng chuyên nghiệp (như các ngân hàng thương
mại) đều là những hành vi cần kiểm soát, đảm bảo cho nguồn lực phục vụ các
hoạt động tạo ra giá trị gia tăng, phát triển kinh tế xã hội. Sự liên thông giữa
thị trường vàng với các thị trường tiền tệ khác như thị trường tiền tệ, thị
trường vốn, thị trường chứng khoán trong điều kiện bình thường sẽ tạo ra sự
linh hoạt cho dòng vốn. Nhưng nó sẽ gây ra không ít trở ngại khi hệ thống
này gặp phải vấn đề, điều đó cho thấy tính hai mặt của việc duy trì hoạt động
của thị trường vàng trong nền kinh tế.
32. 25
Cuối cùng, xuất phát từ vai trò của thị trường vàng với Chính phủ. Thị
trường vàng không tồn tại và hoạt động một cách độc lập mà có sự liên thông
với các thị trường tài chính khác. Xu thế của dòng tiền có thể nhanh chóng
thay đổi trước những diễn biến của nền kinh tế. Thị trường vàng và các thị
trường tài chính khác sẽ trở nên hấp dẫn với các nhà đầu tư khi họ nhận ra khả
năng sinh lời từ các khoản đầu tư. Cùng với thị trường vốn và thị trường tiền
tệ, những diễn biến trên thị trường vàng là bức tranh sinh động của nền kinh
tế. Những dự báo từ thị trường vàng là một phần không thể thiếu cho việc
hoạch định chính sách điều hành của Chính phủ. Vàng mặc dù đã được rút ra
khỏi hệ thống thanh toán của nền kinh tế nhưng vàng sẽ luôn được đặt trong
mối quan tâm của chính sách tiền tệ. Quy mô của kho dự trữ vàng do Ngân
hàng Nhà nước quản lý cần duy trì ở mức độ nào, tương ứng với năng lực
xuất khẩu là bao nhiêu là một trong những vấn đề được quan tâm hàng đầu
của cơ quan quản lý. Với điều kiện của Việt Nam, nguồn cung vàng luôn phải
lệ thuộc vào việc nhập khẩu từ nước ngoài, thị trường vàng trong nước ít có
cơ hội thể hiện được vai trò của mình cho lượng vàng bổ sung cho kho dự trữ
vàng quốc gia. Tuy nhiên, với hệ thống ngân hàng được tổ chức theo mô hình
hai cấp như hiện nay cùng cơ chế mua bán vàng với Ngân hàng Nhà nước,
trong điều kiện cần thiết, Ngân hàng Nhà nước hoàn toàn có thể huy động
được lượng vàng lớn thông qua hệ thống các tổ chức tín dụng phục vụ cho
chính sách quản lý của mình.
1.1.4.2. Sự phù hợp để đặt thị trường vàng dưới sự quản lý của Ngân
hàng Nhà nước
Trong bộ máy các cơ quan quản lý Nhà nước thuộc Chính phủ, khó có
cơ quan nào phù hợp hơn Ngân hàng Nhà nước để có thể được giao trọng trách
quản lý đối với thị trường vàng. Ngay từ thời điểm đầu tiên khi Chính phủ mở
ra cơ hội giao dịch về vàng trên thị trường, Ngân hàng Nhà nước đã được giao
33. 26
nhiệm vụ thay mặt chính phủ thực hiện hoạt động quản lý. Quyết định số 139-
CT ngày 24/05/1989 về việc cho phép các đơn vị kinh tế quốc doanh, tập thể,
hộ kinh tế cá thể kinh doanh vàng bạc, đá quý quy định: “Ngân hàng Nhà nước
có trách nhiệm mở rộng kinh doanh vàng bạc, đá quý để đáp ứng nhu cầu của
xã hội” [11, Điều 1]. Bên cạnh yếu tố lịch sử, sự cần thiết đặt thị trường vàng
dưới sự quản lý của Ngân hàng Nhà nước còn xuất phát từ những lý do gắn liền
với việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Ngân hàng Nhà nước:
Thứ nhất, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam là một cơ quan trong bộ máy
Chính phủ có vị trí pháp lý rất đặc biệt. Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
quy định: “Ngân hàng Nhà nước thực hiện chức năng quản lý nhà nước về
tiền tệ, hoạt động ngân hàng và ngoại hối (sau đây gọi là tiền tệ và ngân
hàng); thực hiện chức năng của Ngân hàng trung ương về phát hành tiền,
ngân hàng của các tổ chức tín dụng và cung ứng dịch vụ tiền tệ cho Chính
phủ” [20, Điều 2]. Với hai tư cách là Ngân hàng Trung ương và cơ quan quản
lý chuyên ngành, nhiều nhiệm vụ của Ngân hàng Trung ương được thực hiện
đan xen bởi các biện pháp hành chính và biện pháp kinh tế. Không giống như
các cơ quan quản lý thông thường khác, Ngân hàng Nhà nước có tư cách pháp
nhân được pháp luật ghi nhận để tham gia vào các quan hệ kinh tế một cách
đầy đủ. Điều đó đặc biệt quan trọng để tạo điều kiện thuận lợi cho Ngân hàng
Nhà nước có thể điều tiết một cách nhanh chóng với các diễn biến phức tạp
của nền kinh tế. Khi mà độ trễ của các quyết định mang tính hành chính
thường ít đem lại hiệu quả, thì sự can thiệp vào thị trường một cách chủ động
lại tạo cho chủ thể quản lý nhiều thuận lợi hơn. Trong tất cả các biện pháp can
thiệp, Ngân hàng Nhà nước đều được xác định thực thi vì mục tiêu lợi ích
chung của quốc gia, không vì mục tiêu lợi nhuận. Điều đó sẽ đem lại khả
năng linh hoạt cho Ngân hàng Nhà nước trong vai trò quản lý, tạo điều kiện
thuận lợi cho sự điều tiết cho một thị trường nhạy cảm như thị trường vàng.
34. 27
Thứ hai, vàng là một cấu thành quan trọng trong kho dự trữ ngoại hối
của Ngân hàng Nhà nước. Với vai trò là Ngân hàng Trung ương của nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, việc quản lý quỹ dự trữ ngoại hối nhằm
đảm bảo về mặt giá trị cho lượng tiền mặt lưu thông trong nền kinh tế là một
nhiệm vụ trọng tâm. Kiểm soát khối lượng tiền đồng Việt Nam trong lưu
thông, đảm bảo khả năng thanh toán của tiền đồng Việt Nam và điều tiết
lượng ngoại tệ cho nhu cầu thanh toán của nền kinh tế là những nội dung quan
trọng nhất khi thực hiện chính sách này. Trên thực tế, các Ngân hàng Trung
ương chính là những chủ thể tham gia rất thường xuyên trên thị trường vàng
quốc tế với khối lượng giao dịch rất lớn. Với trữ lượng khổng lồ của kho dự
trữ cũng như tiềm lực tài chính, Ngân hàng Nhà nước có khả năng để tạo ra
một lực cung hoặc cầu đủ mạnh trong những trường hợp cần thiết để giữ ổn
định thị trường, định hướng thị trường, giữ cân đối nền kinh tế hay bảo đảm
lợi ích chính đáng của công dân. Cùng với địa vị pháp lý đặc biệt, việc quản
lý kho dự trữ ngoại hối là một điều kiện thuận lợi tiếp theo cho Ngân hàng
Nhà nước quản lý đối với thị trường vàng.
Thứ ba, mạng lưới hoạt động kinh doanh vàng hiện nay ở Việt Nam
bên cạnh các cơ sở kinh doanh vàng nhỏ lẻ là các tổ chức tín dụng. Hệ thống
các tổ chức tín dụng với hoạt động chủ yếu là các hoạt động ngân hàng được
đặt dưới sự quản lý của Ngân hàng Nhà nước trong mô hình ngân hàng hai
cấp của Việt Nam. Trong hoạt động của mình, các tổ chức tín dụng phải tuân
thủ nghĩa vụ báo cáo với Ngân hàng Nhà nước định kỳ hàng ngày, hàng
tháng, hàng năm. Nội dung của các báo cáo đem lại cho Ngân hàng Nhà nước
đầy đủ các thông tin về diễn biến trên thị trường để đem lại một bức tranh
tổng thể của nền kinh tế. Đặc biệt khi thị trường vàng có tính liên hệ rất cao
với các thị trường tín dụng, thị trường tiền tệ, thị trường ngoại hối đều là các
35. 28
đối tượng quản lý của Ngân hàng Nhà nước. Đây là một điều kiện rất thuận
lợi cho Ngân hàng Nhà nước khi quản lý đối với hoạt động kinh doanh trên
thị trường vàng trong nước.
1.1.5. Nguyên tắc quản lý thị trường vàng
Để thực hiện tốt chức năng quản lý, pháp luật phải tạo nên một môi
trường pháp lý thuận lợi cho hoạt động tự do kinh doanh phát triển, tạo cho
mọi công dân có cơ hội kinh doanh theo pháp luật, bảo vệ các quyền sở hữu
hợp pháp, các nguồn thu nhập hợp pháp. Mặt khác, pháp luật cũng tạo cơ sở
để Nhà nước có thể thực hiện được vai trò người điều hành nền kinh tế thị
trường, hướng nó phát triển theo các mục tiêu đã định, khắc phục, hạn chế
những mặt trái vốn có của nền kinh tế thị trường. Pháp luật cũng phải là công
cụ để Nhà nước kiểm soát các hoạt động kinh doanh, trừng trị mọi hành vi
kinh doanh phi pháp, thực hiện sự công bằng trong sản xuất, phân phối. Đối
với thị trường vàng, hoạt động quản lý có những yêu cầu khắt khe hơn so với
các thị trường hàng hóa thông thường. Lý do của yêu cầu đó xuất phát từ đặc
điểm riêng có của vàng, nhu cầu cao trong dân chúng và ảnh hưởng của việc
lưu thông cũng như tích trữ vàng đối với nền kinh tế. Những yêu cầu kể trên
đòi hỏi hoạt động xây dựng pháp luật phải xác định được những nguyên tắc
cho hoạt động quản lý, đảm bảo tính thống nhất và toàn diện của hệ thống cơ
sở pháp lý.
Nguyên tắc quản lý là những yêu cầu xuyên suốt đặt ra trong công tác
quản lý thị trường. Nguyên tắc đảm bảo cho hoạt động quản lý được thực hiện
một cách thống nhất, kể cả khi chưa có điều khoản quy định cụ thể trước thực
tiễn phát sinh. Các nguyên tắc trong hoạt động quản lý thị trường vàng phải
đảm bảo tính khái quát và phù hợp với định hướng phát triển một thị trường
vàng hiện đại và lành mạnh ở Việt Nam. Ở đó, các nguyên tắc sau cần được
ghi nhận và tôn trọng:
36. 29
Một là, tôn trọng quyền tự do mua, bán, kinh doanh trên thị trường
vàng. Mỗi một thị trường hàng hóa đều có quy luật vận động riêng phù hợp với
đặc điểm của hàng hóa được giao dịch trên thị trường. Tuy nhiên bất cứ thị
trường nào xét về bản chất đều là nơi để diễn ra các giao dịch mua – bán giữa
những chủ thể có nhu cầu tương ứng. Hay nói cách khác thị trường được hình
thành dựa trên những nhu cầu mua – bán trao đổi hàng hóa. Vì lẽ đó, thị trường
cho dù được hình thành theo cách thức như thế nào cũng cần phải tôn trọng các
quan hệ giao dịch diễn ra tại thị trường. Pháp luật cần đảm bảo cho quyền tự
do ý chí ấy không bị xâm hại từ bất cứ chủ thể nào, kể cả từ phía cơ quan đại
diện cho Nhà nước. Thị trường vàng là một bộ phận của thị trường nói chung,
là nơi diễn ra các giao dịch giữa các tổ chức, cá nhân trong nền kinh tế. Thị
trường vàng trước hết được điều chỉnh bởi pháp luật dân sự. Bộ Luật Dân sự
Việt Nam 2005 đã khẳng định quyền tự do ý chí như một nguyên tắc: “Quyền
tự do cam kết, thỏa thuận trong việc xác lập quyền, nghĩa vụ dân sự được pháp
luật bảo đảm, nếu cam kết, thỏa thuận đó không vị phạm điều cấm của pháp
luật, không trái đạo đức xã hội. Tiếp đó Bộ luật này quy định cụ thể hơn Tự do
giao kết hợp đồng nhưng không được trái pháp luật, đạo đức xã hội” [4, tr.23].
Trên thị trường vàng, từ góc độ quyền và nghĩa vụ của các chủ thể, cần phải
đảm bảo cho quyền tự do mua, bán vàng và các quan hệ phái sinh xuất phát từ
quyền cơ bản đó là các quyền kinh doanh, cung ứng dịch vụ về vàng.
Quyền tự do kinh doanh, dịch vụ trên thị trường vàng cũng là một
trường hợp cụ thể của quyền tự do kinh doanh. Tự do kinh doanh, đơn giản
được hiểu là cá nhân, doanh nghiệp được phép thực hiện những hoạt động
kinh doanh mà pháp luật không cấm. Nguyên lý này từ trước đến nay vẫn
được các cá nhân, doanh nghiệp hiểu như vậy và vận dụng vào hoạt động sản
xuất kinh doanh. Kể cả đối với những ngành nghề kinh doanh có điều kiện, sự
tôn trọng từ phía pháp luật cũng cần được thể hiện một cách rõ ràng. “Quản lý
37. 30
nhà nước không phải là giành thuận lợi cho cơ quan quản lý, mà quản lý là để
tạo thuận lợi tối đa cho người dân, doanh nghiệp đầu tư, kinh doanh, làm ăn”
là khẳng định của Thủ tướng Chính phủ [10].
Tuy nhiên, quyền tự do mua, bán, kinh doanh trên thị trường vàng cũng
giống như những thị trường khác cũng có những giới hạn. Nó không giải
quyết được một cách thỏa đáng những mối quan hệ xã hội phức tạp ngày nay
khi mà con người sống trong sự phụ thuộc lẫn nhau, khi mà vị thế kinh tế, xã
hội của mỗi người không hoàn toàn ngang bằng... [4, tr.26] Pháp luật tôn
trọng thỏa thuận của các bên trong giao dịch dân sự, nhưng những giao dịch
này không được xâm hại tới lợi ích cộng đồng. Đó chính là lý do của những
giới hạn theo quy định của pháp luật trong các quan hệ dân sự nói chung và
quyền tự do mua, bán, kinh doanh vàng nói riêng. Với một lĩnh vực kinh
doanh nhạy cảm và có ảnh hưởng sâu sắc tới xã hội cũng như chính sách kinh
tế vĩ mô như kinh doanh vàng, việc phải đặt ra những giới hạn trên thị trường
là điều cần thiết.
Hai là, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư và người tiêu
dùng trên thị trường vàng. “Nhà đầu tư” là những tổ chức, cá nhân tìm kiếm
lợi nhuận từ vàng, “người tiêu dùng” là những người thông qua các giao dịch
mua – bán, trao đổi để sở hữu vàng không nhằm mục đích cụ thể là đầu tư.
Hai nhóm đối tượng này về cơ bản có nhiều điểm tương đồng, chỉ khác ở mức
độ và mục tiêu khi tham gia thị trường vàng. Chính các nhà đầu tư mới là
những người làm nên phía cầu của thị trường vàng trong nước. Trên thực tế,
đây là nhóm chủ thể với đa số là những người có rất ít lợi thế khi tham gia
trên thị trường vàng. Họ ít có cơ hội nắm bắt thông tin đầy đủ trên thị trường,
thiếu khả năng đánh giá, phân tích tổng hợp tình hình kinh tế nói chung và thị
trường vàng nói riêng cùng năng lực tài chính hạn chế. Tính phức tạp của thị
trường vàng đòi hỏi một cơ chế bảo vệ quyền lợi chính đáng của nhà đầu tư
38. 31
trước những nguy cơ của rủi ro không xuất phát từ các yếu tố khách quan.
Những rủi ro xuất phát từ vị thế yếu của nhà đầu tư trên thị trường trong khả
năng nắm bắt thông tin, quy trình, thủ tục…, những rủi ro xuất phát từ xung
đột lợi ích hay những rủi ro từ các hành vi vi phạm pháp luật gây ảnh hưởng
tới chức năng phản ánh giá cả của thị trường là những rủi ro cần phải được
loại trừ bởi công cụ pháp luật. Vì vậy, ghi nhận mục tiêu quản lý này như một
nguyên tắc pháp lý cho các văn bản điều hành là một đòi hỏi cho một thị
trường vàng phát triển lành mạnh.
Ba là, đảm bảo sự điều tiết của Nhà nước đối với thị trường vàng.
Trong một nền kinh tế hội nhập, khi mà sự tác động từ sự vận động của kinh
tế thế giới chưa bao giờ rõ nét hơn, Việt Nam đang đứng trước nhiều thách
thức, trong đó đặc biệt là các vấn đề về các thị trường hàng hóa trong nước.
Chúng ta bắt đầu phải làm quen với khái niệm nhập khẩu lạm phát và những
xu hướng toàn cầu. Chính những lý do đó đã góp phần không nhỏ đến tình
trạng giá vàng tăng cao và sau đó sự vận động của chính thị trường trong
nước đã dẫn đến những diến biến bất thường trong nhiều năm. Khi giá vàng
tăng cao ảnh hưởng của nó tác động trở lại hiệu quả của chính sách tiền tệ và
ổn định kinh tế vĩ mô trong trung và dài hạn. Vàng đã không còn là vấn đề
nhỏ của các nhà kinh doanh, mà đang thực sự trở thành một lực lượng thị
trường có khả năng chi phối cả tiết kiệm, đầu tư, cán cân thanh toán, dự trữ
ngoại tệ và hiệu quả sử dụng vốn của nền kinh tế. Thị trường vàng với những
diễn biến phức tạp của nó vì vậy cũng đòi hỏi một cơ chế điều tiết mạnh từ
phía Nhà nước để đảm bảo ổn định nền kinh tế vĩ mô. Đảm bảo cho mục tiêu
này được thực hiện một cách hiệu quả như một định hướng cho cả hệ thống
quản lý, việc ghi nhận nó như một cơ sở pháp lý có hiệu lực cao là một yêu
cầu cấp thiết cho thị trường vàng Việt Nam.
39. 32
1.2. Các biện pháp quản lý thị trường vàng của Ngân hàng Nhà nước
Sự quản lý được thực hiện bởi chủ thể là các cơ quan và nhân viên nhà
nước trên cơ sở pháp luật gọi là quản lý nhà nước [26, tr.633]. Quản lý nhà
nước là hoạt động thực thi quyền lực nhà nước được tiến hành nhằm xác lập
một trật tự cho sự ổn định và phát triển xã hội theo một định hướng nhất định.
Theo nghĩa hẹp, quản lý nhà nước là hoạt động mang tính chất điều hành của
cơ quan trong bộ máy hành pháp. Để hiện thực hóa công tác quản lý nhà
nước, các cơ quan nhà nước được trao quyền sử dụng các biện pháp tác động
tới chủ thể quản lý nhằm tạo ra một trật tự nhất định. Đối với thị trường vàng,
Ngân hàng Nhà nước cần thực hiện các biện pháp quản lý cơ bản sau: Xây
dựng chiến lược, kế hoạch và pháp luật quản lý đối với thị trường vàng; Cấp
và thu hồi giấy phép đối với các chủ thể kinh doanh vàng; Thanh tra, kiểm tra;
và Tham gia thị trường vàng khi cần thiết
1.2.1. Xây dựng chiến lược, kế hoạch và pháp luật quản lý đối với thị
trường vàng
Xây dựng chiến lược là việc xây dựng định hướng về một cấu trúc nền
tảng vững chắc cho hoạt động. Lập kế hoạch là quá trình xây dựng các mục
tiêu và xác định các nguồn lực để thực hiện theo định hướng chiến lược đề ra.
Xây dựng chiến lược và lập kế hoạch có thể nói là khâu quan trọng hàng đầu
trong định hướng phát triển của thị trường vàng ở mỗi một giai đoạn. Dựa
trên cơ sở đó mà các biện pháp quản lý được triển khai cụ thể và ảnh hưởng
trực tiếp tới các quan hệ xã hội được điều chỉnh trên thị trường. Có thể kể đến
hai xu hướng cơ bản của định hướng chiến lược là xu hướng thắt chặt và xu
hướng mở rộng thị trường. Là cơ quan quản lý trực tiếp, nắm bắt thông tin
đầy đủ và điều hành chung chính sách tiền tệ, Ngân hàng Nhà nước là cơ
quan thực hiện nhiệm vụ xây dựng chiến lược, kế hoạch phát triển thị trường
vàng. Tuy nhiên, để phù hợp với chính sách phát triển chung của kinh tế, xã
40. 33
hội cũng như phù hợp với địa vị pháp lý, kết quả của hoạt động ấy phải được
trình các cơ quan có thẩm quyền quản lý chung phê duyệt, thông qua, bao
gồm có Quốc hội và Chính phủ.
Nếu chính sách khi chưa được luật pháp hóa chỉ là những cái đích
mà người ta cần hướng tới, chưa phải là những quy tắc xử sự có tính rằng
buộc chung hay tính bắt buộc phải thực hiện, thì pháp luật lại là những
chuẩn mực có giá trị pháp lý bắt buộc chung và được bảo đảm thực hiện
bằng sức mạnh cưỡng chế của Nhà nước [22]. Một cách khái quát nhất, xây
dựng pháp luật là hoạt động ban hành, sửa đổi, bổ sung hoặc bãi bỏ các quy
định của pháp luật (tức là các quy phạm pháp luật) cho phù hợp với nhu
cầu điều chỉnh pháp luật đối với các quan hệ xã hội. [7, tr.8]. Hệ quả của
công việc ấy là điều chỉnh một số loại hành vi nhất định của các chủ thể mà
pháp luật hướng tới. Đối với hoạt động quản lý thị trường vàng, Ngân hàng
Nhà nước có thẩm quyền ban hành những văn bản quy phạm pháp luật điều
chỉnh đối với những hành vi của các chủ thể diễn ra trên thị trường, bao
gồm các chủ thể kinh doanh và nhà đầu tư.
1.2.2. Cấp và thu hồi giấy phép đối với các chủ thể kinh doanh vàng
Giấy phép đối dành cho các chủ thể kinh doanh là biện pháp quản lý
thuộc về nhóm biện pháp mang tính chất tiền kiểm. Khác với hoạt động kinh
doanh thông thường, được quản lý, cấp phép bởi cơ quan đăng ký doanh
nghiệp thuộc Bộ Kế hoạch và Đầu tư. Với tính chất đặc thù của hoạt động
vàng, phù hợp với phạm vi quản lý của Ngân hàng Nhà nước, hoạt động này
được xếp vào nhóm kinh doanh có điều kiện. Ngân hàng Nhà nước là cơ quan
đánh giá tính phù hợp của doanh nghiệp thực hiện hoạt động kinh doanh
vàng. Quyền năng cấp, thu hồi giấy phép của chủ thể kinh doanh vàng thể
hiện rõ tính quyền uy trong hoạt động quản lý. Cấp và thu hồi giấy phép phải
được thực hiện trên cơ sở của những quy định minh bạch, rõ ràng về điều kiện
41. 34
kinh doanh và các trường hợp thu hồi giấy phép được ban hành bởi cơ quan
có thẩm quyền.
Hoạt động cấp phép không chỉ đơn thuần là thực thi quyền hạn của
Ngân hàng Nhà nước khi cho phép một chủ thể thực hiện hoạt động kinh
doanh. Cấp phép còn là sự ghi nhận của cơ quan quản lý về khả năng đáp ứng
những điều kiện khắt khe của pháp luật, đảm bảo về mặt pháp lý cho những
giao dịch của những chủ thể được cấp phép trên thị trường. Qua đó, còn bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể khác trên thị trường trước nguy
cơ của rủi ro ngoài ý muốn. Hoạt động cấp phép còn bao hàm cả trường hợp
giấy phép đối với từng nội dung của hoạt động kinh doanh, thường gọi là giấy
phép con. Không phải trong mọi trường hợp, các chủ thể kinh doanh có thể
được thực hiện tất cả các hoạt động kinh doanh, mà còn cần có sự phân loại rõ
ràng, tùy thuộc mức độ phức tạp của từng hoạt động kinh doanh.
Thu hồi giấy phép là khả năng Ngân hàng Nhà nước bằng một biện
pháp hành chính để chấm dứt hoạt động kinh doanh của một chủ thể xác định,
đảm bảo cho trật tự quản lý. Trên cơ sở của quy phạm pháp luật rõ ràng, hoạt
động thu hồi giấy phép nhằm loại bỏ những chủ thể kinh doanh không còn
đáp ứng đủ điều kiện theo quy định, có những hành vi vi phạm pháp luật
mang tính chất nghiêm trọng. Trong một số trường hợp, thu hồi giấy phép còn
đảm bảo thực thi chiến lược, kế hoạch đặt ra cho sự phát triển thị trường được
thể chế hóa thành các quy phạm pháp luật.
Bên cạnh đó, phù hợp với chính sách quản lý ngoại hối khi vàng được
coi là ngoại hối trong quá trình dịch chuyển, hoạt động xuất, nhập khẩu vàng
cũng đòi hỏi sự kiểm soát của Ngân hàng Nhà nước. Một trong những cách
thức kiểm soát đem lại hiệu quả cao là thông qua giấy phép xuất, nhập khẩu
vàng. Qua đó, Ngân hàng Nhà nước không chỉ xác định được lưu lượng vàng
để phục vụ cho những chính sách kinh tế vĩ mô mà còn quản lý chặt chẽ với
42. 35
hoạt động kinh doanh vàng của đối tượng quản lý. Tuy nhiên, đây là một biện
pháp quản lý mang tính hành chính, cần có cách thức triển khai phù hợp để
không ảnh hưởng tới khả năng liên thông của thị trường vàng trong nước với
thị trường vàng thế giới.
1.2.3. Thanh tra, kiểm tra
Theo quy định của pháp luật về thanh tra: “Thanh tra nhà nước là hoạt
động xem xét, đánh giá, xử lý theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định của
cơ quan nhà nước có thẩm quyền đối với việc thực hiện chính sách, pháp luật,
nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Thanh tra nhà nước bao
gồm thanh tra hành chính và thanh tra chuyên ngành” [21, Điều 3]. Mục đích
của thanh tra là nhằm phòng ngừa, phát hiện và xử lý các hành vi vi phạm
pháp luật, phát hiện những sơ hở trong cơ chế quản lý, chính sách, pháp luật
để kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền các biện pháp khắc phục;
phát huy nhân tố tích cực; góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả của hoạt
động quản lý nhà nước; bảo vệ lợi ích nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp
của cơ quan, tổ chức, cá nhân. [26, tr.696]
Ngân hàng Nhà nước với địa vị pháp lý là cơ quan quản lý chuyên
ngành đối với thị trường vàng có thẩm quyền để sử dụng biện pháp này trong
hoạt động quản lý. Thanh tra và kiểm tra là những công cụ quan trọng của
quản lý nhà nước, là hoạt động mang tính chất hậu kiểm để có thể phân tích
đánh theo dõi quá trình thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ quản lý đề ra. Thanh
tra, kiểm tra là sự xem xét, đánh giá việc thực hiện pháp luật của tổ chức, cá
nhân để phục vụ cho hoạt động quản lý nhà nước, bảo vệ lợi ích nhà nước,
quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ chức, cá nhân trên thị trường.
Thực hiện biện pháp này, Ngân hàng Nhà nước sử dụng các báo cáo
của các chủ thể kinh doanh định kỳ, hoặc theo yêu cầu khi cần thiết; kiểm tra
sổ sách, tài liệu; so sánh, đối chiếu, đánh giá, xác minh… tài liệu, chứng cứ.
43. 36
Trong đó, kiểm tra được thực hiện một cách thường xuyên, có hệ thống; thanh
tra được thực hiện theo quyết định thanh tra của cơ quan có thẩm quyền dựa
trên các căn cứ:
1. Kế hoạch thanh tra;
2. Theo yêu cầu của Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước;
3. Khi phát hiện có dấu hiệu vi phạm pháp luật;
4. Yêu cầu của việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, phòng,
chống tham nhũng [21, Điều 38].
Kết quả của hoạt động thanh tra, kiểm tra là cơ sở của việc xử lý vi
phạm. Quyết định xử lý vi phạm phải phù hợp về thẩm quyền và căn cứ pháp
lý. Trong trường hợp không đủ thẩm quyền, Ngân hàng Nhà nước đề nghị cơ
quan có thẩm quyền xem xét, ra các quyết định xử lý.
1.2.4. Tham gia thị trường vàng
Ngân hàng Nhà nước là cơ quan phù hợp cho nhiệm vụ quản lý thị
trường vàng bởi lợi thế trong việc tiếp nhận các thông tin và khả năng linh
hoạt trước những diễn biến trên thị trường hơn bất cứ một cơ quan nào khác
trong bộ máy của Chính phủ. Để quản lý một thị trường đầy biến động và
nhạy cảm như thị trường vàng, sự bổ khuyết của những biện pháp can thiệp
vào thị trường là đòi hỏi tất yếu cho bất cứ chủ thể nào được trao thẩm quyền
quản lý. Tuy nhiên, tham gia như thế nào, mức độ và điều kiện cho sự can
thiệp không thể được tiến hành một cách chủ quan, tùy tiện.
Phù hợp với chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn đã được đặt ra tại Luật
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, sự tham gia của Ngân hàng Nhà nước không
nằm ngoài mục tiêu vì lợi ích chung của quốc gia, không hướng tới mục tiêu
lợi nhuận. Theo đó, các biện pháp can thiệp vào thị trường phải hướng tới ổn
định thị trường vàng trong nước và đảm bảo sự phát triển của thị trường phù
hợp với định hướng chung của Chính phủ. Ổn định thị trường không đồng
44. 37
nghĩa với việc cố định giá cả hàng hóa của thị trường một cách chủ quan. Ổn
định thị trường là đảm bảo cho sự biến động về mặt bằng giá cả được kiểm
soát và đảm bảo phù hợp với những diễn biến của nền kinh tế nói chung, phù
hợp với quy luật cung – cầu. So với biện pháp cấp phép nhập khẩu vàng khi
tình hình giá cả hàng hóa vàng biến động, việc Ngân hàng Nhà nước giao
dịch trực tiếp với các tổ chức kinh doanh vàng sẽ tiết kiệm nhiều hơn về thời
gian và chi phí. Bên cạnh đó, sự điều tiết còn nhằm định hướng cho thị trường
phù hợp với định hướng chung của Chính phủ. Bởi lẽ, thị trường vàng cũng
chỉ là một bộ phận cấu thành của thị trường tài chính nói chung. Sự vận động
của thị trường vàng vì thế không thể đi chệch ra khỏi sự vận động chung của
nền tài chính quốc gia, và rất cần những điều chỉnh khi những dấu hiệu đầu
tiên của sự chệch hướng xuất hiện. Cơ sở cho việc tham gia thị trường của
Ngân hàng Nhà nước với mục tiêu này được thể hiện bởi các văn bản được
Chính phủ ban hành, bao gồm: Chiến lược phát triển kinh tế xã hội trong dài
hạn, trung hạn và ngắn hạn; Các Nghị quyết của Chính phủ trong các kỳ họp
thường kỳ trong năm.
Bên cạnh đó, sự tham gia của Ngân hàng Nhà nước cần đảm bảo những
giới hạn cơ bản khi tham gia vào thị trường vàng. Khác với các biện pháp
quản lý mang tính chất hành chính, sự tham gia của Ngân hàng Nhà nước đối
với thị trường vàng nhằm điều tiết thị trường không dựa trên cơ sở của mệnh
lệnh – thi hành. Khi thực hiện các giao dịch trên thị trường, Ngân hàng Nhà
nước sẽ trở thành một bên mua hoặc bán, là một bên của giao dịch dân sự. Do
đó, quyền và nghĩa vụ của Ngân hàng Nhà nước phát sinh từ giao dịch đó là
ngang bằng với các chủ thể còn lại trên thị trường. Khả năng tham gia của
Ngân hàng Nhà nước vào thị trường vàng cũng vì thế cần phải tôn trọng các
nguyên tắc quản lý đối với thị trường vàng như đã được đề cập ở trên. Cuối
cùng, đảm bảo cho sự tham gia là hiệu quả và tăng cường tính trách nhiệm,