SlideShare a Scribd company logo
1 of 100
§¹i häc Quèc gia Hµ Néi
khoa LuËt
PHẠM THỊ MINH TRANG
HÌNH THỨC GIAO DỊCH DÂN SỰ
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM
Chuyªn ngµnh: Luật Dân sự và Tố tụng Dân sự
M· sè: 60 38 01 03
LuËn v¨n th¹c sÜ LuËt häc
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN HẢI AN
Hµ néi - 2014
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN
Phạm Thị Minh Trang
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
MỞ ĐẦU
Trang
1
Chƣơng 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HÌNH THỨC GIAO
DỊCH DÂN SỰ 6
1.1. Khái niệm, đặc điểm pháp lý của giao dịch dân sự 6
1.1.1. Khái niệm giao dịch dân sự 6
1.1.2. Đặc điểm của giao dịch dân sự 14
1.2. Khái niệm về hình thức giao dịch dân sự 18
1.3. Quy định về hình thức giao dịch Việt Nam qua các thời kỳ 21
1.3.1 Hình thức giao dịch dân sự trong các đạo luật phong kiến Việt Nam 21
1.3.2. Quy định về hình thức giao dịch dân sự dưới thời Pháp thuộc 25
1.3.3. Quy định về hình thức giao dịch dân sự thời kỳ 1945 đến Bộ luật
dân sự 1995 26
Chƣơng 2: HÌNH THỨC GIAO DỊCH DÂN SỰ THEO QUY ĐỊNH
HIỆN HÀNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM 33
2.1. Các hình thức giao dịch dân sự 33
2.1.1. Hình thức bằng lời nói 33
2.1.2. Hình thức giao dịch dân sự bằng văn bản 40
2.1.3. Hình thức thông điệp dữ liệu 43
2.1.4. Giao dịch dân sự bằng hành vi cụ thể 46
2.2. Hình thức giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch
trong trường hợp pháp luật có quy định 47
2.2.1. Hình thức là yếu tố pháp lý quyết định hiệu lực của giao dịch dân sự 47
2.2.2. Hình thức giao dịch dân sự là cơ sở để xác định thời điểm có hiệu lực
của giao dịch 52
2.3. Hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu do vi phạm hình thức 53
2.3.1. Chấm dứt thực hiện giao dịch dân sự 55
2.3.2. Xử lý hậu quả của giao dịch dân sự vô hiệu do vi phạm về mặt
hình thức 56
Chƣơng 3: THỰC TIỄN ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT
VỀ HÌNH THỨC GIAO DỊCH DÂN SỰ VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ
HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT
60
3.1. Thực tiễn áp dụng các quy định pháp luật về hình thức giao dịch dân sự 60
3.1.1 Những bất cập trong các quy định về hình thức giao dịch dân sự 60
3.1.3.
3.1.4.
3.1.5.
3.1.6.
3.2.
3.2.1.
3.2.2.
Tặng cho quyền sử dụng đất giữa cha mẹ và con
Hợp đồng thuê nhà vi phạm hình thức
Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vẫn được công nhận khi
vi khi vi phạm quy đị pháp luật về mặt hình thức
Hình thức của di chúc không tuân theo quy định pháp luật
Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật
Giải pháp hoàn thiện xây dựng pháp luật về hình thức giao dịch dân sự
Hướng giải quyết những bất cập liên quan đến giải quyết tranh chấp
về hình thức giao dịch.
70
72
76
78
78
82
82
KẾT LUẬN 88
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 89
NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
1. BLDS: Bộ luật Dân sự
2. TANDTC: Tòa án nhân dân tối cao
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Từ bao đời nay để duy trì sự phát triển của xã hội và nhằm thỏa mãn
các nhu cầu của bản thân, con người đã sử dụng phương thức giao dịch dân
sự. Hiện nay,Việt Nam đang trong thời kỳ phát triển kinh tế theo định hướng
xã hội chủ nghĩa thì giao dịch dân sự càng đóng vai trò quan trọng trong việc
vận hành nền kinh tế.
Nội dung của giao dịch dân sự không thể nằm trong tư tưởng của con
người mà nó phải được thể hiện ra bên ngoài bằng một hình thức nhất định.
Trong một số trường hợp để đảm bảo quyền lợi hợp pháp cho người tham gia
giao dịch dân sự và nhằm tăng cường tính pháp chế của nhà nước trong việc
quản lý giao dịch dân sự thì hình thức được coi là điều kiện có hiệu lực của
giao dịch dân sự. Vì vậy, xuất phát từ tầm quan trọng của hình thức giao dịch
dân sự nên pháp luật đã có hành lang pháp lý về vấn đề này.
Tuy nhiên, một số quy định về hình thức của giao dịch dân sự trong
pháp luật Việt Nam đã bộc lộ nhiều bất cập, gây khó khăn cho công tác giải
quyết các tranh chấp có liên quan tại Tòa án nhân dân. Vấn đề có nên quy
định hình thức là điều kiện của giao dịch dân sự vẫn là vấn đề còn gây nhiều
tranh cãi. Quy định về cách xử lý hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự không
tuân thủ quy định hình thức còn nhiều vướng mắc…Do đó, cần phải có những
nghiên cứu chuyên sâu để làm nổi bật nên các bất cập trên và từ đó có những
giải pháp xác đáng để tạo ra hành lang pháp lý thông thoáng về vấn đề này
cũng như tạo điều kiện dễ dàng cho việc áp dụng pháp luật trong thực tiễn
giải quyết tranh chấp.
Đối với pháp luật Việt Nam thì hình thức giao dịch dân sự đã được
quy định từ luật pháp thời kỳ phong kiến cho đến pháp luật hiện hành và chủ
yếu được quy định trong BLDS năm 2005. Trong mỗi thời kỳ, giai đoạn lịch
sử vấn đề này lại có những quy định khác nhau. Pháp luật Việt Nam có điểm
chưa tương đồng và tương đồng khi quy định hình thức giao dịch dân sự so
2
với pháp luật của các nước trên thế giới. Cho nên, việc mở rộng nghiên cứu
và so sánh quy định về hình thức giao dịch dân sự qua pháp luật của các thời
kỳ lịch sử của Việt Nam cũng như qua pháp luật của một số nước trên thế giới
sẽ giúp chúng ta có cái nhìn đa chiều hơn về vấn đề này. Đồng thời, qua đó có
thể đúc rút và chọn lọc được một số kinh nghiệm phù hợp để áp dụng vào
việc quy định hình thức giao dịch dân sự của pháp luật Việt Nam hiện hành.
Từ những phân tích và lý do trên đây, tác giả đã lựa chọn đề tài: “Hình
thức giao dịch dân sự theo pháp luật Việt Nam” để làm luận văn thạc sỹ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Việc nghiên cứu về hình thức giao dịch dân sự đã được nhiều nhà khoa
học pháp lý quan tâm trong các thời kỳ và với các góc độ khác nhau. Dưới
đây là một số công trình nghiên cứu khoa học và bài viết tiêu biểu:
Về sách chuyên khảo, công trình nghiên cứu, bài viết: Giáo trình “Luật
dân sự Việt Nam” của trường Đại học Luật Hà Nội; sách “Bình luận những
nội dung mới của Bộ luật dân sự 2005” của Đinh Trung Tụng (Cb); “Giao
dịch dân sự vô hiệu do không tuân thủ các quy định về hình thức” của TS.
Nguyễn Văn Cường [19]; “Nhà ở của vợ chồng nhưng một bên đứng ra bán”
của TS. Nguyễn Hải An [2]; “Về hợp đồng mua bán nhà ở vô hiệu do vi phạm
điều kiện hình thức” của Trần Thị Thu Hà [27]; “Bàn về điều kiện về hình
thức của giao dịch dân sự theo Bộ luật dân sự năm 2005” của Thẩm phán
Tưởng Duy Lượng;
Về luận án tiến sỹ: Có một số luận án tiến sỹ nghiên cứu các đề tài có
liên quan đến vấn đề hình thức giao dịch dân sự như đề tài: “Giao dịch dân sự
vô hiệu và việc giải quyết hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu” của
TS. Nguyễn Văn Cường [20], đề tài:“Hiệu lực của hợp đồng theo quy
địnhcủa pháp luật Việt Nam” của TS. Lê Minh Hùng [38]…
Có thể nói, những công trình khoa học trên là tài liệu quí báu giúp tác
giả có thêm nhiều thông tin quan trọng phục vụ cho việc nghiên cứu luận văn,
tuy nhiên các công trình trên chưa nghiên cứu toàn diện và thấu đáo về hình
3
thức giao dịch dân sự theo quy định của pháp luật Việt Nam, đặc biệt là
BLDS năm 2005. Do vậy, việc nghiên cứu đề tài: “Hình thức giao dịch dân
sự theo pháp luật Việt Nam” không trùng lặp với các công trình khoa học đã
được công bố.
3. Mục tiêu nghiên cứu và nhiệm vụ của đề tài
3.1. Mục tiêu nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận, khảo sát thực trạng pháp luật và thực
tiễn áp dụng pháp luật về hình thức giao dịch dân sự ở Việt Nam, đối chiếu
với quy định về hình thức giao dịch dân sự trong hệ thống pháp luật Việt Nam
từ xưa đến nay và một số nước trên thế giới, đề tài hướng đến mục tiêu góp
phần hoàn thiện và làm phong phú thêm cơ sở lý luận, thực tiễn của vấn đề
hình thức giao dịch dân sự; đồng thời đưa ra những giải pháp có thể sửa
đổi các quy định còn bất cập trong pháp luật Việt Nam hiện hành, hoàn
thiện cơ chế pháp lý điều chỉnh hình thức giao dịch dân sự phù hợp với
xu thế thực tiễn.
3.2. Nhiệm vụ của đề tài
Đề tài có nhiệm vụ giải quyết những vấn đề sau:
- Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận chung về hình thức giao dịch dân
sự như: làm rõ khái niệm và bản chất của hình thức giao dịch dân sự; nghiên
cứu một cách xuyên suốt hình thức giao dịch dân sự trong hệ thống pháp luật
Việt Nam từ xưa đến nay; phân tích và nghiên cứu chuyên sâu về các loại
hình thức giao dịch dân sự; nghiên cứu khái quát về hình thức là điều kiện có
hiệu lực của giao dịch dân sự khi pháp luật quy định.
- Nghiên cứu thực trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật về
hình thức giao dịch dân sự; đánh giá thực trạng quy đinh của pháp luật và
cách thức giải quyết tranh chấp của cơ quan có thẩm quyền về hình thức giao
dịch dân sự để từ đó xác định được những điểm cần sửa đổi trong quy định
của pháp luật.
4
- Trên cơ sở những bất cập đã được xác định từ đó đưa ra những giải
pháp phù hợp trong việc sửa đổi, bổ sung các quy định của pháp luật hiện
hành về hình thức giao dịch dân sự.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu về các quy định của pháp luật về hình thức của giao
dịch dân sự và vướng mắc còn tồn tại trong quy định của pháp luật hiện hành
về vấn đề này. Đồng thời, đề tài cũng nghiên cứu thực tiễn áp dụng pháp luật
về vấn đề hình thức của giao dịch dân sự hiện nay.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về mặt nội dung: Hình thức của giao dịch dân sự là vấn đề rất rộng.
Mặt khác nó được quy định chủ yếu và tập trung trong BLDS 2005, nên nội
dung của Luận văn tập trung phân tích các quy định về hình thức giao dịch
dân sự trong BLDS 2005. Bên cạnh đó, luận văn còn nghiên cứu và phân tích
các quy định có liên quan đến hình thức của giao dịch dân sự trong các văn
bản pháp luật liên quan khác, cũng như thực tiễn giải quyết tranh chấp trong
các lĩnh vực này.
Về mặt thời gian: Cùng với việc nghiên cứu các quy định của pháp luật
hiện hành, tác giả cũng dành một liều lượng thích hợp để nghiên cứu các quy
định về hình thức giao dịch dân sự trong pháp luật Việt Nam qua các thời kỳ.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Đề tài vận dụng các phương pháp của Chủ nghĩa duy vật biện chứng
Mác-Lênin và các phương pháp chuyên ngành khoa học pháp lý để giải quyết
những vấn đề lý luận và pháp lý liên quan đến các quy định về hình thức giao
dịch dân sự. Trong đó chủ yếu sử dụng phương pháp lô gích pháp lý, phương
pháp lịch sử và phương pháp so sánh pháp luật để làm rõ mối quan hệ giữa
hình thức giao dịch dân sự giữa pháp luật hiện hành và pháp luật cổ; giữa
pháp luật Việt Nam và pháp luật trên thế giới; giữa các quy định của pháp luật
và thực tiễn áp dụng…
5
6. Tính mới của luận văn
Kết quả nghiên cứu được thể hiện trong luận văn có một số điểm mới
sau đây:
- Thứ nhất, nghiên cứu lý luận một cách toàn diện về hình thức giao
dịch dân sự. Đánh giá và phân tích về hình thức giao dịch dân sự trong pháp
luật Việt Nam qua các thời kỳ, đồng thời so sánh với quy định về hình thức
giao dịch dân sự của một số nước trên thế giới.
- Thứ hai, đưa ra và phân tích thực tiễn áp dụng pháp luật, giải quyết
tranh chấp liên quan đến hình thức giao dịch dân sự thông qua các bản án tại
Tòa án nhân dân. Từ đó tìm ra những bất cập trong quy định của pháp luật và
đề xuất giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật liên quan đến vấn đề hình thức
của giao dịch dân sự.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài Phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 3 chương.
6
Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
VỀ HÌNH THỨC GIAO DỊCH DÂN SỰ
1.1. Khái niệm, đặc điểm pháp lý của giao dịch dân sự
1.1.1. Khái niệm giao dịch dân sự
Giao dịch là một trong những phương tiện hữu hiệu để loài người
thỏa mãn nhu cầu nhân sinh. Ngay từ khi nhân loại bước vào thời kỳ trao
đổi hàng hóa thì giao dịch dân sự đã hình thành và chiếm giữ một vị trí
quan trọng trong việc điều tiết các mối quan hệ xã hội.
Khái niệm “Giao dịch” theo từ điển Tiếng Việt được hiểu một cách
đơn giản nhất là sự đổi chác, mua bán. Giao dịch hình thành từ hình thức
đơn giản nhất như con người trao đổi sản phẩm do mình làm ra, cho đến
ngày nay khi giao dịch được sử dụng với nhiều hình thức biểu đạt và là một
công cụ hữu hiệu để cá nhân, tổ chức thỏa mãn nhu cầu về vật chất, tinh
thần của mình. Theo đó thì một cá nhân, tổ chức muốn tồn tại và phát triển
trong xã hội phải tham gia vào các giao dịch nhất định để trao đổi và dịch
chuyển các lợi ích với nhau.
Với vị trí và ý nghĩa quan trọng như vậy, cho nên giao dịch dân sự
nhanh chóng được đưa vào hệ thống luật pháp của các quốc gia để nhằm ổn
định, giữ trật tự cho nền kinh tế phát triển. Có thể thấy rằng, một xã hội phát
triển luôn phải đặt ra nhu cầu hoàn thiện và phát triển chế định giao dịch.
Điều này được thể hiện rõ nét trong hệ thống pháp luật của Việt Nam từ khi
hình thành cho đến ngày nay. Tuy rằng, thuật ngữ “ giao dịch dân sự” chưa
được thể hiện từ những ngày đầu của lịch sử lập pháp Việt Nam nhưng trong
các văn bản cổ luật đã tìm thấy các thuật ngữ có ý nghĩa tương đương hoặc
thể hiện bản chất của việc giao dịch như: khế ước hoặc mua, bán, cho, cầm
hoặc hành vi thể hiện ý chí của con người nhằm phát sinh, thay đổi hoặc chấm
dứt quyền, nghĩa vụ dân sự mà không phụ thuộc vào ý chí bên kia như hành
7
vi lập di chúc….Trải qua nhiều thời kỳ phát triển của xã hội cùng với sự
thăng trầm của nền kinh tế, ngày nay thuật ngữ giao dịch dân sự đã được nâng
tầm thành chế định giao dịch dân sự và chiếm một vị trí quan trọng trong Bộ
luật dân sự hiện hành.
Đối với thế giới, sự phát triển của “giao dịch dân sự” tại mỗi quốc gia
có những đặc thù riêng. Nét chung nhất có thể thấy được là vị trí của chế định
giao dịch dân sự ngày càng được nâng cao và chú trọng. Tuy nhiên, tùy theo
tình hình phát triển kinh tế xã hội ở một đất nước mà giao dịch dân sự lại
được quy định ở những khía cạnh, góc độ khác nhau. Ví dụ: tại BLDS của
Nhật Bản quy định về chế định hợp đồng và chế định thừa kế theo di chúc; tại
BLDS của Pháp không nêu ra chế định giao dịch dân sự mà quy định về chế
định hợp đồng và chế định thừa kế…Những BLDS này tuy rằng không quy
định định nghĩa khái niệm giao dịch dân sự nhưng về bản chất và các loại
hình của giao dịch dân sự như: hợp đồng, hành vi pháp lý đơn phương đều
được quy định cụ thể và chi tiết.
Chiếm một vị trí quan trọng trong hệ thống luật pháp của các quốc gia
nên giao dịch dân sự cũng có nhiều cách hiểu, định nghĩa khác nhau. Ở Việt
Nam, khái niệm “giao dịch dân sự” được các nhà khoa học định nghĩa theo
nhiều góc độ. Có nhà khoa học cho rằng: “Giao dịch dân sự là hành vi được
thực hiện nhằm thu được kết quả nhất định và pháp luật tạo điều kiện cho kết
quả trở thành hiện thực” [13, tr.266], đồng thời cũng có cách hiểu về giao
dịch dân sự theo nghĩa chủ quan như: “Giao dịch là một sự kiện pháp lý, bao
gồm hành vi pháp lý đơn phương hoặc đa phương (hợp đồng) làm phát sinh
hậu quả pháp lý”. Tác giả đồng tình với cách lý giải giao dịch dân sự theo
nghĩa chủ quan này. Bởi nó mang tính khái quát cao nhất bản chất của giao
dịch dân sự.
Trong phạm vi tiểu mục này, tác giả luận bàn về khái niệm giao dịch
dân sự được hiểu theo góc độ, ý nghĩa chủ quan như đã nêu trên. Ngoài việc
được quy định trong các văn bản pháp luật của nhiều nước trên thế giới, khái
8
niệm giao dịch dân sự còn được các nhà khoa học, các học giả nghiên cứu và
đưa ra nhiều định nghĩa khác nhau. Theo một số nhà khoa học Nhật Bản đã
nêu: “Giao dịch dân sự là hành vi hợp pháp nhằm phát sinh, thay đổi hoặc
chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự” [12, tr.114]. Định nghĩa này thể hiện
phần lớn các quan hệ trong xã hội được điều chỉnh bằng pháp luật và được coi
là giao dịch dân sự. Đồng nghĩa với việc giao dịch dân sự là tất cả những hành
vi tự nguyện của các chủ thể khi tham gia vào các quan hệ dân sự nhằm thu
được một kết quả nhất định và các hành vi này không trái với pháp luật.
Trong một số trường hợp nhất định thì giao dịch dân sự không cần phải có sự
tác động của luật pháp mà nó được điều chỉnh bằng tập quán và đạo đức xã
hội. Chỉ khi nảy sinh tranh chấp, mâu thuẫn thì chủ thể tham gia giao dịch yêu
cầu hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền xét xử và tạo điều kiện cần thiết để
giao dịch được thực hiện.
Điều 121 BLDS Việt Nam năm 2005 định nghĩa giao dịch dân sự như
sau: “Giao dịch dân sự là hợp đồng hoặc hành vi pháp lý đơn phương làm
phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự”. Để hiểu rõ hơn
về khái niệm này cần tìm hiểu bản chất của “hợp đồng” và “hành vi pháp lý
đơn phương”.
Theo quy định tại Điều 388 BLDS 2005 thì: “Hợp đồng dân sự là sự
thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa
vụ dân sự ”. Tác giả cho rằng khái niệm này khá phù hợp với thực tế hiện nay
và mang tính khái quát cao. Chúng ta có thể xem xét một số quy định về hợp
đồng của một số nước trên thế giới. Theo quy định tại Điều 1373 BLDS 1994
của Bang Québec (Canada): “Hợp đồng là sự thống nhất ý chí, theo đó một
hoặc nhiều chủ thể phải thực hiện những cam kết đã định vì lợi ích của một
hoặc nhiều chủ thể khác”. Định nghĩa này đã thể hiện rõ bản chất của hợp
đồng là sự thỏa thuận và thống nhất ý chí. Nhưng đây mới chỉ là điều kiện
cần, định nghĩa hợp đồng của BLDS Québec chưa chỉ ra được dấu hiệu đặc
trưng nhất của hợp đồng là sự ràng buộc pháp lý về quyền và nghĩa vụ giữa
9
các bên. Luật Hợp đồng Trung Quốc năm 1999 quy định tại Điều 2 về hợp
đồng như sau: “Hợp đồng theo quy định của luật này là sự thỏa thuận về việc
xác lập, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự giữa các chủ thể bình
đẳng tự nhiên nhân, các tổ chức khác. Các thỏa thuận liên quan đến quan hệ
hôn nhân, nhận con nuôi, giám hộ… thích dụng với quy định của các luật
khác”. Quy định Hợp đồng của pháp luật Trung Quốc hơi dài nhưng về mặt
bản chất và nội dung tương tự như định nghĩa hợp đồng của BLDS Việt Nam.
Hợp đồng là một loại giao dịch dân sự, là căn cứ pháp lý làm phát sinh,
thay đổi và chấm dứt quan hệ pháp luật dân sự. Hiểu theo nghĩa rộng hơn thì
hợp đồng là sự thỏa thuận của các bên nhằm làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt
các quyền và nghĩa vụ với nhau. Ngoại trừ các quyền và nghĩa vụ mà pháp
luật quy định không thể thay đổi bằng việc thỏa thuận của các bên. Đồng thời,
không phải tất cả sự thỏa thuận của các bên đều là hợp đồng. Ví dụ như: một
sự thỏa thuận hứa tặng quà hay thỏa thuận đi chơi cùng bạn….không phải là
hợp đồng, vì các thỏa thuận này không tạo ra sự ràng buộc pháp lý giữa các
bên. Hay nói cách khác khi vi phạm các thỏa thuận này sẽ không thể áp dụng
chế tài dân sự để xử lý. Có thể nói, bản chất của hợp đồng là sự thỏa thuận và
sự tạo ra ràng buộc pháp lý giữa các bên.
Trong thực tiễn hiện nay, không phải bất kỳ hợp đồng nào cũng có sự
đàm phán, thỏa thuận trước mà hợp đồng còn có loại do một bên đơn phương
dự thảo các điều khoản và một bên có quyền đồng ý hoặc không đồng ý với
tất cả nội dung hợp đồng nhưng sẽ không được thay đổi hay sửa đổi bất kỳ
một điều khoản nào.Ví dụ: các công ty cung ứng dịch vụ như điện, mạng
internet…thường soạn mẫu các hợp đồng dịch vụ của mình với khách hàng,
nếu khách hàng đồng ý sử dụng thì sẽ ký kết hợp đồng ngay. Có thể thấy
những hợp đồng như trên có những ưu điểm là việc ký kết hợp đồng nhanh
chóng, đơn giản tuy nhiên khách hàng lại không được thể hiện ý kiến của
mình với nội dung của hợp đồng. Vì trong một số trường hợp với những mặt
hàng độc quyền thì người tiêu dùng bắt buộc phải ký kết với những hợp đồng
10
mẫu do bên cung cấp định sẵn. Hoặc đôi khi khách hàng đồng ý với phần lớn
nội dung của hợp đồng này nhưng lại có mong muốn sửa đổi một số nội dung
nhỏ theo quan điểm cá nhân thì lại không thể sửa đổi được. Khách hàng trong
trường hợp này chỉ có thể lựa chọn việc chấp nhận ký kết hợp đồng hoặc là
không ký kết hợp đồng và không thể đưa ra bất kỳ thỏa thuận nào khác.
Có thể nói, định nghĩa hợp đồng của BLDS Việt Nam khá ngắn gọn và
chính xác. Tuy nhiên, có ý kiến cho rằng cần bỏ từ “dân sự” kèm theo khái
niệm “hợp đồng” [38, tr.12]. Tác giả hoàn toàn đồng tình với ý kiến này, bởi
lẽ nếu đặt từ “dân sự” ngay sau từ “hợp đồng” dễ gây hiểu nhầm theo nghĩa
hẹp, khái niệm hợp đồng dân sự ở đây là một loại hợp đồng như là các là hợp
đồng khác như: hợp đồng thương mại, hợp đồng kinh tế…Trong khi đó khái
niệm “hợp đồng dân sự” được các nhà làm luật xây dựng với mục đích để chỉ
tất cả các loại hợp đồng, vì theo nghĩa rộng dân sự bao gồm cả các lĩnh vực:
kinh tế, thương mại, lao động, hôn nhân, gia đình [9, Điều 1]
Bộ luật dân sự Việt Nam không quy định về khái niệm hành vi pháp lý
đơn phương, tuy nhiên dựa trên góc độ khoa học và theo quy định của Điều
131 BLDS 2005 về “Giao dịch dân sự” thì có thể hiểu hành vi pháp lý đơn
phương là hoạt động thể hiện ý chí của một bên nhằm phát sinh, thay đổi hoặc
chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự mà không phụ thuộc vào ý chí của bên kia.
Ví dụ như: một người lập di chúc để lại di sản thừa kế….Nếu đặt trong phạm
vi rộng thì định nghĩa hành vi pháp lý đơn phương như trên là khá đúng đắn
và có thể chấp nhận được. Tuy nhiên, cần phải đặt ra câu hỏi là mọi hành vi
pháp lý đơn phương có phải là giao dịch dân sự không? Theo tác giả thì một
số hành vi pháp lý đơn phương không được coi là giao dịch dân sự, bởi các lý
do sau đây:
- Xem xét quy định tại Điều 249 BLDS 2005 về Từ bỏ quyền sở hữu
như sau: “Chủ sở hữu có thể tự chấm dứt quyền sở hữu đối với tài sản của
mình bằng cách tuyên bố công khai hoặc thực hiện hành vi chứng tỏ việc
mình từ bỏ quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản đó”. Tác giả đồng
11
ý với việc đây cũng được xem là một hành vi pháp lý đơn phương. Tuy nhiên,
cần phải xem xét hành vi pháp lý đơn phương trên có phải là giao dịch dân sự
hay không? Theo tác giả thì hành vi từ bỏ quyền sở hữu theo quy định tại
Điều 249 BLDS 2005 không phải là giao dịch dân sự. Bởi lẽ hành vi này
không làm phát sinh bất kỳ giao dịch dân sự nào. Hay nói cách khác về phía
người tuyên bố từ bỏ quyền sở hữu sẽ chấm dứt quyền sở hữu đối với tài sản
của mình tuy nhiên hành vi này cũng không thể xác định sẽ phát sinh quyền
hoặc nghĩa vụ dân sự đối với một chủ thể nhất định nào. Đồng thời tài sản mà
chủ sở hữu từ bỏ sẽ trở thành vật vô chủ.
- Như vậy, qua ví dụ trên đây nhận thấy một hành vi pháp lý đơn
phương không phải là giao dịch dân sự khi nó chứa đựng các yếu tố: hành vi
pháp lý đơn phương được thực hiện đúng pháp luật nhưng không nhằm làm
phát sinh quyền và nghĩa vụ dân sự cho một chủ thể khác; người có hành vi
pháp lý đơn phương thực hiện hành vi không nhằm được hưởng quyền tài sản
hoặc quyền nhân thân hay để thực hiện một nghĩa vụ dân sự nào với một chủ
thể khác do hậu quả của hành vi đó mang lại.
- Việc xác định hành vi pháp lý đơn phương không phải là giao dịch
dân sự mang lại nhiều ý nghĩa pháp lý. Dựa trên góc độ khoa học pháp lý nó
sẽ làm nổi bật bản chất của giao dịch dân sự. Đồng thời, khi nảy sinh tranh
chấp thì một hành vi pháp lý đơn phương không phải là giao dịch dân sự sẽ
được giải quyết bởi những quy phạm tương ứng điều chỉnh về hành vi đó mà
không chịu sự điều chỉnh của những quy phạm về giao dịch dân sự.
Thông qua việc phân tích về hành vi pháp lý đơn phương như trên tác
giả cho rằng Bộ luật dân sự nên quy định về khái niệm hành vi pháp lý đơn
phương để việc áp dụng pháp luật được trở nên dễ dàng hơn.
Như vậy, từ các vấn đề nêu trên chúng ta thấy rằng bản chất pháp lý
của giao dịch dân sự phải có hai bên tham gia.Về hợp đồng nó có thể là một
loại giao dịch song phương hoặc đa phương, nhưng phải có ít nhất hai bên
tham gia trong hợp đồng. Đối với hành vi pháp lý đơn phương chỉ được coi là
12
giao dịch dân sự khi chủ thể của hành vi đó chấm dứt quyền dân sự của mình
đồng thời lại nhằm phát sinh quyền dân sự hoặc nghĩa vụ dân sự ở chủ thể
khác mà có mối liên hệ nhân quả đến hành vi pháp lý đơn phương đó.
Tóm lại, tác giả đồng tình với định nghĩa về giao dịch dân sự tại Điều
121 BLDS 2005. Khái niệm đã mang tính khái quát cao và thể hiện được bản
chất của giao dịch dân sự. Tuy nhiên, hiện tại cơ quan lập pháp Việt Nam
đang trong quá trình soạn thảo Bộ luật dân sự sửa đổi và chế định giao dịch
dân sự rất được quan tâm. Dự thảo Bộ luật dân sự đã đề cập đến việc thay đổi
thuật ngữ: “Giao dịch dân sự” thành thuật ngữ “Hành vi pháp lý”. Một số nhà
khoa học pháp lý cho rằng: thuật ngữ hành vi pháp lý rộng hơn thuật ngữ giao
dịch dân sự và bao quát được hết các hành vi pháp lý được thực hiện trong
giao lưu dân sự. Tác giả không đồng tình với nhận định trên và cho rằng giữ
nguyên thuật ngữ giao dịch dân sự theo quy định của BLDS 2005 sẽ có nhiều
thuận lợi và tích cực hơn, bởi các lý do sau:
- Thuật ngữ “giao dịch dân sự” đặc biệt là thuật ngữ “giao dịch” đã
được sử dụng trong suốt thời gian dài của nền kinh tế - xã hội Việt Nam và ăn
sâu vào tiềm thức của người dân. Trong cuộc sống hàng ngày thuật ngữ này
được sử dụng khá nhiều và phổ biến. Nó chính thức được thừa nhận với một
khái niệm hoàn chỉnh tại BLDS năm 1995. Vì vậy, với một thuật ngữ đã được
sử dụng nhiều và không gây ra nhiều những bất cập trong quá trình áp dụng
pháp luật thì việc thay thế sẽ gây ra những tác động về mặt tiêu cực không
nhỏ. Nếu các nhà làm luật thay thế thuật ngữ “hành vi pháp lý” cho thuật ngữ
“giao dịch dân sự” sẽ kéo theo hàng loạt văn bản pháp lý có liên quan phải
sửa đổi những nội dung liên quan đến giao dịch dân sự. Ngoài ra, với một
thuật ngữ mới xa lạ trong đời sống hàng ngày thì chúng ta phải tổ chức tuyên
truyền sâu rộng để người dân biết và hiểu, do vậy quá trình này sẽ tốn nhiều
thời gian và tiền bạc.
- Hiện nay, nhiều nước trên thế giới có nền kinh tế - xã hội phát triển
hơn Việt Nam đang sử dụng thuật ngữ “giao dịch dân sự” và thuật ngữ này
13
vẫn có thể bao quát được nhiều hành vi xử sự của con người trong xã hội. Vì
vậy, tác giả cho rằng tại thời điểm hiện tại việc đưa ra một thuật ngữ mới là
“hành vi pháp lý” không cần thiết, trong khi thuật ngữ “giao dịch dân sự” vẫn
còn phù hợp với tình hình kinh tế - xã hội và nền khoa học pháp lý của nước
ta và trên thế giới.
- Khái niệm hành vi pháp lý được định nghĩa như sau tại khoản 1 điều
121 dự thảo BLDS sửa đổi: “Hành vi pháp lý là s ự thể hiện ý chí nhằm là m
phát sinh, chấm dứ t quyền , nghĩa vụ dân sự . Hành vi pháp lý bao gồm hợp
đồng và hành vi pháp lý đơn phương”. So sánh với khái niệm giao dịch dân
sự tại Điều 121 BLDS 2005: “Giao dịch dân sự là hợp đồng hoặc hành vi
pháp lý đơn phương làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ
dân sự”. Chúng ta thấy rằng, hai khái niệm này giống nhau về bản chất cả hai
thuật ngữ hành vi pháp lý và giao dịch dân sự đều bao gồm: hợp đồng, hành
vi pháp lý đơn phương. Như vậy, việc sửa đổi ở đây đơn thuần là việc sửa đổi
tên thuật ngữ còn nội dung và bản chất vẫn được kế thừa từ BLDS 2005.
- Tác giả không đồng tình với ý kiến của các nhà làm luật cho rằng đối
với các hành vi pháp lý hành vi như: của chủ sở hữu hoặc người có quyền
khác tác động trực tiếp lên tài sản thuộc quyền của mình; hành vi kết hôn, ly
hôn, cấp dưỡng…không phù hợp với thuật ngữ giao dịch dân sự. Thiết nghĩ
về mặt bản chất chúng ta có thể xác định các hành vi của chủ thể dựa trên
nguyên tắc thể hiện ý chí: (i) sự thể hiện ý chí của một người làm phát sinh,
thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự được gọi là hành vi pháp lý
đơn phương; (ii) sự thỏa thuận của từ hai bên trở lên về việc xác lập, thay đổi
hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự được gọi là hợp đồng. Như vậy, theo
tác giả thì hành vi của chủ sở hữu hoặc người có quyền khác tác động trực
tiếp lên tài sản thuộc quyền của mình mà làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm
dứt quyền, nghĩa vụ dân sự là hành vi pháp lý đơn phương.. Đối với hành vi
kết hôn, ly hôn, cấp dưỡng… đều là hành vi của hai bên xác lập nhằm phát
sinh quan hệ hôn nhân, chấm dứt quan hệ hôn nhân hoặc phát sinh quan hệ
14
cấp dưỡng. Vì vậy về mặt bản chất có thể được coi như một loại hợp đồng.
Tác giả đồng tình với quan điểm này và cho rằng kết hôn là một loại hợp
đồng đặc biệt. Tại nhiều nước phương Tây, kết hôn được coi là một dạng hợp
đồng nhưng tại các nước Châu Á như Việt Nam do truyền thống văn hóa lâu
đời còn có nhiều tác động đến pháp luật nên vấn đề kết hôn chưa được thừa
nhận là hợp đồng. Qua phân tích trên đây tác giả muốn khẳng định rằng nếu
hành vi nào thỏa mãn khái niệm, bản chất, dấu hiệu, đặc điểm của giao dịch
dân sự thì là giao dịch dân sự và không phụ thuộc vào việc hành vi đó có phù
hợp với tên thuật ngữ giao dịch hay không. Việc xem xét để thay đổi một
thuật ngữ pháp lý đã được sử dụng lâu đời bằng một thuật ngữ pháp lý mới
với lý do một bộ phận không phù hợp với tên gọi đó là điều không cần thiết.
Nên chăng đối với những trường hợp đặc biệt hay ngoại lệ thì các nhà làm
luật nên có những quy định riêng để tạo điều kiện cho việc áp dụng pháp luật
được dễ dàng hơn.
1.1.2. Đặc điểm của giao dịch dân sự
Theo như khái niệm về Giao dịch dân sự đã phân tích ở trên, có thể
thấy Giao dịch dân sự có những đặc điểm chung như sau:
1.1.2.1. Thể hiện ý chí của các bên tham gia giao dịch
Trong giao dịch dân sự có ý chí và thể hiện ý chí, nguyện vọng của chủ
thể tham gia giao dịch. Ý chí là nguyện vọng, mong muốn chủ quan của con
người mà nội dung của nó được xác định bởi nhu cầu vật chất hoặc tinh thần
của bản thân họ. Đồng thời, ý chí phải được thể hiện ra bên ngoài bằng một
hình thức nhất định để các chủ thể khác có thể biết được nguyện vọng mong
muốn tham gia giao dịch dân sự của chủ thể đó. Bởi vậy, giao dịch dân sự là
sự thống nhất giữa ý chí và bày tỏ ý chí. Khi tham gia giao dịch dân sự các
chủ thể đều thể hiện được ý chí của mình và đạt mục đích nhằm thỏa mãn
những nhu cầu mong muốn của bản thân.
Tuy nhiên, có thể thấy ý chí của chủ thể phải gắn liền với nội dung và
hình thức biểu đạt. Bởi lẽ, hành vi tuy có ý chí nhưng không làm phát sinh
15
hậu quả pháp lý, không được diễn ra một hình thức nhất định phù hợp với quy
định của pháp luật thì hành vi đó không được coi là giao dịch dân sự.
Ngoài ra, không phải mọi ý chí, nguyện vọng của các chủ thể khi tham
gia giao dịch dân sự đều được pháp luật chấp nhận. Quan niệm về tự do ý chí
trong giao dịch được hình thành và phát triển mạnh mẽ trong khoa học pháp
lý của Pháp từ thế kỷ thứ XVIII . Thời kỳ này, các chủ thể được tự do bày tỏ ý
chí khi tham gia vào giao dịch mà không bị bất kỳ yếu tố nào ngăn cản. Từ đó
phát sinh những trường hợp khi tham gia giao dịch để thỏa mãn nhu cầu của
mình các chủ thể đã bất chấp vi phạm lợi ích của cá nhân khác hoặc lợi ích
của cộng đồng. Theo sự phát triển của xã hội và để đảm bảo sự công bằng
bình đẳng giữa các chủ thể trong xã hội thì Nhà nước cần phải can thiệp bằng
công cụ pháp luật đối với các quan hệ giao dịch dân sự. Nếu không có sự điều
chỉnh của pháp luật đối với giao dịch dân sự thì đôi khi sẽ tạo ra sự bất bình
đẳng giữa các chủ thể như: bên yếu hơn sẽ phải phụ thuộc ý chí vào bên mạnh
hơn khi tham gia giao dịch dân sự….Vì vậy, tuy giao dịch dân sự phải thể
hiện ý chí của các bên tham gia giao dịch nhưng ý chí này cần phải phù hợp
với pháp luật và đạo đức xã hội.
1.1.2.2. Sự tự nguyện của các bên tham gia giao dịch dân sự
Đây được xem là đặc điểm quan trọng để thiết lập nên giao dịch dân sự.
Nhà nước và pháp luật chỉ điều chỉnh quan hệ giao dịch dân sự khi các bên
tham gia và không thể bắt buộc bất kỳ bên nào tham gia vào một giao dịch
dân sự mà chủ thể đó không muốn. Một chủ thể khi đang mong muốn đạt
được một nhu cầu vật chất hoặc tinh thần nhất định, họ sẽ tự nguyện tham gia
vào một giao dịch dân sự để đạt được điều đó. Tuy nhiên, chủ thể đó cũng
phải có năng lực hành vi dân sự theo luật định để đủ tư cách tham gia vào
giao dịch dân sự. Đối với những người hạn chế năng lực hành vi dân sự và
người mất năng lực hành vi dân sự pháp luật đã quy định họ chỉ được tham
gia một số giao dịch nhất định phù hợp với ý chí của họ hoặc thông qua người
đại diện. Vậy một vấn đề đặt ra là quy định này có vi phạm sự tự nguyện của
16
đối tượng chủ thể này không? Theo tác giả thì quy định này cũng nhằm đảm
bảo tính công bằng và sự tự nguyện cho các chủ thể này. Bởi lẽ, theo góc độ y
khoa họ không nhận thức hoặc làm chủ được hành vi của mình, không nhận
thức đúng đắn về một vấn đề phức tạp, từ đó nếu để các chủ thể này tham gia
vào tất cả các loại giao dịch thì có thể họ sẽ gặp phải sự lừa đảo, lừa dối trong
quan hệ dân sự.
Sự tự nguyện cũng là nguyên tắc cơ bản của quan hệ pháp luật dân sự.
Trong quan hệ dân sự, các bên hoàn toàn tự nguyện, không bên nào được áp
đặt, cấm đoán, cưỡng ép, đe dọa, ngăn cản bên nào [9, Điều 4]. Do vậy, trong
các giao dịch dân sự nếu thiếu yếu tố này không thể coi là giao dịch được.
Tuy nhiên, trong thực tiễn sự tự nguyện này mang tính tương đối.
Trong một số loại giao dịch thì chủ thể sử dụng dịch vụ không có sự lựa chọn
nào khác và buộc phải lựa chọn một chủ thể cung cấp dịch vụ nhất định. Điều
này thường xảy ra đối với các dịch vụ độc quyền của nhà nước. Khách hàng
thể hiện sự chấp nhận của mình qua việc ký hợp đồng mà không được thay
đổi hoặc thỏa thuận sửa đổi bất kỳ một điều khoản nào của hợp đồng do bên
cung cấp đã soạn sẵn.
1.1.2.3. Nội dung của giao dịch dân sự không được trái với pháp luật
và đạo đức xã hội
Pháp luật tôn trọng sự thỏa thuận và sự tự nguyện của các chủ thể tham
gia giao dịch nhưng bên cạnh đó khi tham gia giao dịch họ cũng phải tuân
theo quy định của pháp luật và đạo đức xã hội. Pháp luật ở đây được hiểu là
quy tắc xử xự có tính bắt buộc chung đối với công dân. Đạo đức xã hội là
những chuẩn mực ứng xử chung giữa người với người trong đời sống xã hội,
được cộng đồng thừa nhận và tôn trọng. Ví dụ: giao dịch mua bán hàng cấm
là giao dịch có đối tượng trái pháp luật …Các chủ thể tự do bày tỏ ý chí và
giao kết với nhau nhưng nếu vượt ngoài khuôn khổ của pháp luật sẽ là vi
phạm pháp luật.
17
Tuy nhiên, để xác định nội dung của giao dịch dân sự trái pháp luật khá
đơn giản và rõ ràng. Nhưng đối với việc xác định nội dung giao dịch trái với
đạo đức xã hội là một vấn đề khá phức tạp. Thuật ngữ đạo đức xã hội đã
được các nhà làm luật định nghĩa rõ ràng tại Điều 128 BLDS 2005 nhưng
trong thực tiễn quan niệm đạo đức xã hội lại rất dễ gây tranh cãi. Mỗi quốc
gia, mỗi dân tộc, mỗi thời kỳ và mỗi con người lại có những quan niệm đạo
đức xã hội khác nhau. Đơn cử chúng ta có thể lấy ví dụ về hành vi của một
người họa sỹ vẽ loại hình body painting (vẽ tranh trên cơ thể) - đây là một
loại hình nghệ thuật khá phổ biến ở phương tây và mới du nhập về Việt Nam,
có người sẽ cho rằng đây là hành vi ảnh hưởng thuần phong mỹ tục nhưng có
người cho rằng đây là nghệ thuật. Như vậy, trong trường hợp một người thuê
hoạ sỹ vẽ tranh trên cơ thể mình để quảng cáo sản phẩm thì đây có coi là giao
dịch có nội dung trái với đạo đức xã hội hay không?.
Pháp luật ngoài việc tạo điều kiện để cho các giao kết trở thành hiện
thực, còn phải đặt ra những quy phạm pháp luật bảo vệ lợi ích chung của xã
hội, trong đó có lợi ích của chính các chủ thể tham gia giao dịch. Vì vậy,
BLDS 2005 đã quy định: “Nội dung của giao dịch không vi phạm điều cấm
của pháp luật, không trái đạo đức xã hội” [9, điểm b Điều 122], là một trong
những điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự. Vì vậy, để đảm bảo ý nghĩa
của điều luật này được thực thi trong thực tiễn thì theo ý kiến của tác giả các
nhà làm luật cần quy định rõ hơn về khái niệm đạo đức xã hội.
Tóm lại, ý chí và sự tự nguyện của chủ thể đảm bảo cho giao dịch thể
hiện đúng ý chí của các bên tham gia. Nội dung không trái với pháp luật và
đạo đức xã hội để đảm bảo cho một giao dịch hợp pháp, được pháp luật công
nhận. Vì vậy, đây là những yếu tố quan trọng góp phần tạo nên một giao dịch
dân sự hợp pháp.
Bên cạnh đó, thông qua khái niệm và đặc điểm của giao dịch dân sự tác
giả cũng nhận thấy được một số ý nghĩa quan trọng của chế định giao dịch
dân sự trong hệ thống pháp luật Việt Nam hiện nay. Thứ nhất, việc xây dựng
18
chế định giao dịch là công cụ pháp lý quan trọng bảo đảm an toàn cho các chủ
thể tham gia giao dịch nhằm thỏa mãn nhu cầu vật chất, tinh thần của mình
trong xã hội hiện nay. Khi các bên tham gia giao dịch có quyền tự do giao kết,
tự nguyện tham gia giao dịch nhưng sự tự do này đều được đặt trong khuôn
khổ của pháp luật. Các quy định về điều kiện để các chủ thể tham gia giao
dịch; quy định về các biện pháp chế tài đối với các giao dịch không tuân theo
các điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự…là công cụ bảo vệ trật tự công
và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho các chủ thể tham gia giao dịch. Thứ
hai, chế định giao dịch đảm bảo cho việc quản lý của nhà nước đối với quan
hệ giao dịch dân sự, góp phần ổn định trật tự xã hội. Với những ý nghĩa nêu
trên nên giao dịch dân sự chiếm một vị trí khá quan trọng trong hệ thống pháp
luật của nước ta từ xưa đến nay.
1.2. Khái niệm về hình thức giao dịch dân sự
Trước hết, hình thức được hiểu là: “cái bên ngoài, cái chứa đựng nội
dung” [87, Tr.809]. Hay nói cách khác hình thức nhằm biểu đạt nội dung, nếu
nội dung không được thể hiện bằng một hình thức nhất định thì nội dung mãi
chỉ là ý chí, mong muốn trong tiềm thức của con người. Với đặc điểm như
vậy hình thức có một ý nghĩa khá quan trọng trong thế giới khách quan.
Yếu tố cơ bản để tạo ra giao dịch dân sự là ý chí của chủ thể, sự bày tỏ
ý chí ra bên ngoài và sự thống nhất giữa các yếu tố đó với nhau. Ý chí là
nguyện vọng và sự mong muốn của chủ thể, không phải lúc nào người khác
cũng có thể nhận biết hay nhận thấy được. Vì vậy, ý chí cần phải được biểu
đạt ra bên ngoài, để các bên có thể biết được và chấp nhận ý chí của nhau.
Khi các bên đã thống nhất ý chí với nhau và biểu đạt sự thống nhất đó bằng
một hình thức nhất định thì đây được coi là hình thức của giao dịch dân sự.
Hình thức của giao dịch dân sự có vai trò là sự công bố ý chí của chủ
thể tham gia giao dịch, là cách thức để truyền đạt thông tin với chủ thể không
tham gia về sự xác lập giao dịch. Đồng thời, hình thức giao dịch dân sự ngoài
việc là phương tiện thể hiện nội dung của giao dịch dưới một dạng vật chất
19
nhất định như: nói, viết, hành vi cụ thể thì còn là những thủ tục, cách thức tạo
nên giao dịch theo quy định của pháp luật. Ví dụ: hợp đồng mua bán nhà
ngoài việc bắt buộc lập thành văn bản thì phải được tạo lập bằng các thủ tục
công chứng hoặc chứng thực theo quy định của nhà nước.
Tóm lại, theo tác giả thì khái niệm hình thức giao dịch dân sự được
hiểu như sau: “Hình thức giao dịch dân sự là sự biểu hiện ra bên ngoài của
nội dung giao dịch dân sự”. Thông qua các biểu hiện này có thể hiểu được
nội dung của giao dịch. Tại Điều 124 BLDS 2005 có quy định về hình thức
giao dịch dân sự như sau: “Giao dịch dân sự được thể hiện bằng lời nói, bằng
văn bản hoặc bằng hành vi cụ thể. Giao dịch dân sự thông qua phương tiện
điện tử dưới hình thức thông điệp dữ liệu được coi là giao dịch bằng văn
bản…Trong trường hợp pháp luật quy định giao dịch dân sự phải được thể
hiện bằng văn bản, phải có công chứng hoặc chứng thực, phải đăng ký hoặc
xin phép thì phải tuân theo các quy định đó”. Như vậy, có một số loại giao
dịch đơn thuần, chủ thể tham gia có thể lựa chọn bất kỳ hình thức giao dịch
nào. Nhưng đối với những giao dịch dân sự đặc biệt và có giá trị lớn thì nhà
nước đã quy định giao dịch đó phải tuân thủ một hình thức nhất định. Sở dĩ có
quy định như vậy là để nhà nước kiểm soát sự chuyển dịch tài sản trong xã
hội và đảm bảo trật tự kinh tế thị trường.
Hình thức giao dịch được quy định trong pháp luật của hầu hết các
quốc gia. Nhưng cách thể hiện và sự thừa nhận yếu tố này trong pháp luật của
các nước lại không giống nhau. Trên thế giới việc quy định về hình thức giao
dịch dân sự đang được tiếp cận ở hai khuynh hướng.
Thứ nhất, một số nước quy định hình thức nhất định cho một số loại
giao dịch, nếu vi phạm quy định này thì giao dịch đó vô hiệu. Tiêu biểu cho
xu hướng này là: Đức, Thái Lan….Theo Điều 115 Bộ luật dân sự và thương
mại Thái Lan năm 1995 thì: “Một hành vi pháp lý không theo đúng hình thức
quy định của pháp luật thì vô hiệu”. Có thể nói rằng, quy định này là cơ sở để
tạo nên chứng cứ khi có tranh chấp về giao dịch dân sự. Đồng thời, cũng là để
20
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người dân. Tại pháp luật dân sự của các
quốc gia này, hình thức của giao dịch là một yếu tố quan trọng và được các
nhà làm luật xây dựng khá tỉ mỉ và chặt chẽ.
Thứ hai, một số quốc gia có quy định về hình thức của giao dịch nhưng
yếu tố hình thức không được coi là một điều kiện để xác định hiệu lực của
giao dịch dân sự. Đại diện cho khuynh hướng này là: Pháp, Nhật Bản…Theo
pháp luật Nhật Bản đã quy định: “Mặc dù nhà nước yêu cầu tuân thủ hình
thức đặc biệt, thì giao dịch pháp lý vẫn hoàn toàn có đặc điểm không theo
một hình thức bắt buộc nào” [12, tr.118] . Đồng thời, cũng theo nguyên tắc
của BLDS Nhật Bản thì nguyên tắc tự do giao dịch dân sự thừa nhận cả việc
tự do lựa chọn hình thức giao kết. Cách quy định này có ưu điểm tạo ra khung
pháp luật mở cho các chủ thể tham gia giao dịch tự do lựa chọn hình thức
giao dịch nhất định. Tuy nhiên, trong trường hợp xảy ra tranh chấp thì với
một số giao dịch dân sự có giá trị lớn, việc không tuân thủ theo hình thức mà
pháp luật quy định sẽ khiến các chủ thể không có chứng cứ đủ điều kiện pháp
lý để chứng minh trước tòa. Vì vậy, trong thực tiễn khi tham gia các giao dịch
quan trọng, có giá trị tài sản lớn các chủ thể thông thường đều chọn hình thức
giao dịch bằng văn bản hoặc cẩn trọng hơn là văn bản có công chứng để bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Hoặc như theo quy định của BLDS
Pháp cũng không coi hình thức là điều kiện chủ yếu để xác định một hợp
đồng có hiệu lực. Điều 1108 BLDS Pháp có quy định về bốn điều kiện cần
thiết để hợp đồng có hiệu lực như sau: có sự thỏa thuận của các bên cam kết;
có năng lực giao kết hợp đồng; sự cam kết có đối tượng xác thực; nghĩa vụ có
căn cứ hợp pháp. Trong BLDS Pháp không có điều luật nào quy định việc
hợp đồng không tuân thủ quy định về hình thức thì sẽ bị vô hiệu.
Theo nhận định của tác giả thì quy định về hình thức giao dịch dân sự
tại BLDS 2005 là khá phù hợp so với thời điểm hiện nay. Các nhà làm luật đã
chú trọng đến hình thức mới của giao dịch dân sự trong thời kỳ hiện đại như:
hình thức thông điệp dữ liệu (telex, fax…), mở rộng hành lang pháp lý cho
21
các chủ thể tham gia giao dịch tự do lựa chọn hình thức giao dịch phù hợp với
mình. Đồng thời, quy định vẫn thể hiện bản chất của pháp luật là quy tắc xử
sự chung nhằm đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của chủ thể tham gia giao
dịch bằng cách bắt buộc một số giao dịch phải tuân theo hình thức pháp luật
đã quy định. Theo quy định của pháp luật Việt Nam đối với những giao dịch
quy định hình thức là điều kiện bắt buộc thì hình thức cũng là một trong
những yếu tố để xác định hiệu lực của giao dịch đó. Việc quy định này đã gây
ra nhiều bất cập và vướng mắc khi áp dụng trong thực tiễn. Tại nhiều nước
trên thế giới thì vẫn có những quy định bắt buộc về mặt hình thức đối với một
số loại giao dịch như chúng ta nhưng ý nghĩa của việc quy định đó là nhằm
minh bạch hóa giao dịch (đảm bảo quyền lợi của người thứ ba) hoặc mục tiêu
quản lý hành chính (quản lý, thống kê của cơ quan nhà nước và mục tiêu để
hình thức được xác định là điều kiện có hiệu lực của giao dịch chỉ quy định
trong những trường hợp rất đặc biệt. Tác giả cũng đồng tình với quan điểm
này và thấy rằng các nhà làm luật có thể kế thừa, xây dựng quy định về hình
thức giao dịch dân sự theo kinh nghiệm trên.
1.3. Quy định về hình thức giao dịch dân sự trong pháp luật Việt
Nam qua các thời kỳ
1.3.1. Hình thức giao dịch dân sự trong các đạo luật phong kiến
Việt Nam
Giao dịch dân sự đã phát sinh từ khi con người biết trao đổi hàng hóa
nhưng trong các đạo luật phong kiến Việt Nam đều không có khái niệm giao
dịch dân sự. Tuy nhiên, dưới góc độ khoa học pháp lý các nhà khoa học đã
chỉ ra rằng, về bản chất giao dịch dân sự đã được thể hiện ở các khái niệm
như: khế ước, mua, bán, cho, cầm….. và vấn đề thừa kế theo di chúc. Vì vậy,
để có thể tìm hiểu rõ hơn các quy định về hình thức của giao dịch dân sự
trong thời đại phong kiến, tác giả sẽ đi sâu phân tích một số bộ luật tiêu biểu
cho thời kỳ lịch sử này.
1.3.1.1. Quốc triều hình luật
22
Theo sử gia Phan Huy Chú thì Quốc triều hình luật là mẫu mực để trị
nước, cái khuôn pháp để buộc dân. Đây là bộ luật hình chính thức và quan
trọng nhất của triều đại nhà Lê (1428-1788). Theo các nhà khoa học pháp lý,
tuy Quốc triều hình luật là bộ luật Hình nhưng lại có rất nhiều quy định về di
chúc– những hoạt động đặc trưng của giao dịch dân sự.
Trong Quốc triều hình luật không sử dụng khái niệm “khế ước” như
một số bộ luật thời phong kiến khác mà thường dùng khái niệm cụ thể như
mua, bán, cho, cầm….hoặc đặc biệt hơn là “văn khế”. Ví dụ như: “Con gái và
những trẻ mồ côi tự bán mình mà không có ai bảo lĩnh thì người mua cùng
người viết văn khế, người làm chứng bị xử tội xuy, trượng như luật (đàn bà
đánh 50 roi, đàn ông đánh 80 trượng), đòi lại tiền trả cho người mua và hủy
bỏ văn khế. Nếu những người cô độc, cùng khốn từ 15 tuổi trở lên tình nguyện
bán mình thì cho phép” (Điều 313); “Bán mắm muối cho người nước ngoài
thì bị lưu đi châu xa (Điều 76)…
Về nguyên tắc thực hiện giao dịch trong Quốc triều tuy không được đề
cập đến trực tiếp nhưng thông qua các điều luật, tác giả nhận thấy tính tự
nguyện và sự thỏa thuận cũng được tuân thủ. Ví dụ: “Người nào ức hiếp để
mua ruộng đất của người khác thì bị biếm hai tư và cho lấy lại tiền mua”
(Điều 355).
Đối với hình thức của các giao dịch được quy định trong Quốc triều
hình luật khá chi tiết. Có thể thấy rằng, về nguyên tắc với những giao dịch
đơn giản trong cuộc sống hàng ngày như mua bán tài sản có giá trị thấp, ít
quan trọng: mua bán thực phẩm với số lượng ít; mua bán lương thực với số
lượng ít….thì không cần lập văn tự. Người mua và người bán có thể tự do
thỏa thuận mua bán bằng lời nói.
Bên cạnh đó, trong rất nhiều trường hợp Quốc triều hình luật đã quy
định rõ ràng về hình thức của các giao dịch với giá trị tài sản lớn như: mua
bán đất, nhà, ruộng, vườn….Để đảm bảo tính công bằng, minh bạch trong các
giao dịch, bộ luật Quốc triều hình luật đã có những quy định mang tính
23
khuyến cáo đối với người dân như: “Văn tự là bằng chứng để chứng minh khi
xảy ra tranh chấp” (Điều 366). Đây được coi là điểm khá tiến bộ của luật
pháp thời kỳ này.
Tuy nhiên, Bộ luật lại chỉ quy định văn tự chỉ lập một bản và do một
bên giữ. Đây là một điểm còn hạn chế của luật pháp thời phong kiến do không
dự kiến được các hậu quả pháp lý khi văn tự có thể bị mất, hỏng hoặc một bên
cố tình hủy đi văn tự. Khi đó việc chứng minh và bảo vệ quyền lợi hợp pháp
cho các chủ thể tham gia giao dịch sẽ rất khó khăn.
Trong xã hội phong kiến có khá đông người dân không biết chữ, do vậy
bộ luật cũng đã quy định đối với người giao kết giao dịch không biết chữ thì
có thể nhờ người viết thay. Và việc viết thay văn tự phải có người chứng kiến
để đảm bảo khách quan, đúng nội dung đã thỏa thuận. Những người viết thay
phải ký vào văn tự.
Theo Điều 366 Quốc triều hình luật có quy định cụ thể như sau: “
những người làm chúc thư hay văn khế mà không nhờ các quan trưởng trong
làng viết thay và chứng kiến thì phải phạt 80 trượng và phạt tiền tùy theo việc
nặng nhẹ. Chúc thư hay văn khế ấy sẽ không có giá trị. Nếu biết chữ mà viết
lấy thì được”. Người không biết chữ dưới thời kỳ nhà Lê hay dưới thời kỳ
phong kiến là khá phổ biến. Trong thực tế thì người không biết chữ sẽ nhờ
viết thay văn tự và điểm chỉ vào văn bản. Điều này rất phổ biến trong xã hội
thời bấy giờ. Vì vậy, tác giả nhận thấy Quốc triều hình luật khá chú trọng đến
những chủ thể này. Đồng thời cũng chứng minh tính khoa học và tiến bộ của
trình độ lập pháp của nhà Lê. Quy định này đã bảo vệ sự công bằng cho người
không biết chữ. Nó cũng thể hiện chế tài khá nghiêm ngặt của chế độ phong
kiến. Trong thời kỳ ngày nay, nếu vi phạm về mặt hình thức của giao dịch các
chủ thể tham gia chỉ phải gánh chịu sự vô hiệu của giao dịch dân sự. Nhưng
dưới thời phong kiến chế tài còn bao gồm cả hình phạt đánh và phạt tiền.
Chúng ta có thể nhìn thấy bản chất của chế độ phong kiến trong những quy
định về chế tài nghiêm ngặt này.
24
Không chỉ chú trọng vào mặt hình thức của giao dịch dân sự, Quốc
triều hình luật còn quy định một số giao dịch phải tuân theo một trình tự nhất
định, thể hiện sự quản lý chặt chẽ của chế độ phong kiến. Ví dụ: việc mua nô
tỳ phải lập thành văn tự. Sau đó phải trình quan để xét hỏi lại (Điều
363).Việc quy định trình tự giao dịch như trên đã giúp cho bộ máy quan lại
thời phòng kiến có thể kiểm soát hầu hết các giao dịch lớn liên quan đến tài
sản của người dân. Đồng thời nó cũng thể hiện hình thức quản lý của bộ máy
nhà nước thời kỳ nhà Lê.
1.3.1.2. Bộ Luật Gia Long
Bộ luật Gia Long được ban hành năm 1813 dưới thời nhà Nguyễn và
được đánh giá là một bộ luật hoàn chỉnh và đẩy đủ nhất của chế độ phong
kiến Việt Nam. Bộ luật gồm 398 điều, trong đó về việc dân có 11 điều; ruộng,
nhà có 10 điều; về hôn nhân có 16 điều; cho vay tiền có 3 điều. Trong thời đại
phong kiến Việt Nam không có khái niệm về giao dịch, chỉ nêu các loại khế
ước chung như: mua, bán, cho thuê, cho vay… và chế định về thừa kế.
Về nguyên tắc, các bên có thể lựa chọn hình thức của khế ước. Cũng
giống như Quốc triều hình luật, đối với những vật có giá trị như ruộng, đất,
trâu, bò, nhà ở… hoặc một số tiền lớn thì các bên thường lập thành một văn
khế để làm bằng chứng và do người trái chủ giữ. Đối với sự vay nợ đơn
thuần, hình thức của khế ước có thể chỉ là một sự vay miệng, không làm giấy
tờ, nếu số tiền hoặc số thóc cho vay không lớn, đặc biệt là vay ngắn hạn. Đây
là nguyên tắc chung trong xã hội thời bấy giờ còn đối với bộ luật Gia Long
không có một điều nào quy định về hình thức của khế ước.
1.3.2. Quy định về hình thức giao dịch dân sự dƣới thời Pháp thuộc
Thực dân Pháp nổ súng xâm lược nước ta vào năm 1958, vua quan nhà
Nguyễn đã thỏa hiệp và đầu hàng. Đất nước ta bước vào thời kỳ bị thực dân
Pháp đô hộ. Chúng đã ban hành ba BLDS áp dụng cho ba miền của nước ta
là: Bộ dân luật giản yếu Nam Kỳ (ban hành năm 1883), Bộ dân luật Bắc kỳ
(ban hành năm 1931), Bộ luật Hoàng Việt Trung kỳ (ban hành năm 1936).
25
Các bộ luật trong thời kỳ Pháp thuộc cũng chưa đề cập đến khái niệm
giao dịch dân sự. Định nghĩa khế ước vẫn được sử dụng rộng rãi trong văn
bản pháp luật và trong nhân dân. Theo Điều 680 của Bộ luật Hoàng Việt
Trung kỳ đã đưa ra khái niệm pháp lý về khế ước như sau: “Khế ước là một
hiệp ước của một người hay nhiều người cam đoan với một hay nhiều người
khác để chuyển giao, để làm hay không làm cái gì”. Thông qua khái niệm này
thì khế ước thực chất là sự thỏa thuận giữa ít nhất hai người để xác lập quyền,
nghĩa vụ của người này đối với người khác và ngược lại. Từ đó chuyển giao
tài sản từ người này sang người khác, để làm một việc hoặc không làm một
việc cụ thể. Có thể thấy rằng khái niệm khế ước này có bản chất tương đương
với khái niệm hợp đồng trong Bộ luật dân sự hiện hành.
Pháp luật dân sự trong thời kỳ này không có quy định riêng rẽ về mặt
hình thức của khế ước. Tuy nhiên, đối với một số loại khế ước thì các nhà làm
luật vẫn quy định những hình thức nhất định cho loại giao dịch cụ thể đó. Có
thể xem xét một loại khế ước dưới đây:
Khế ước sinh thời tặng dữ được quy định tại Điều 951 của Bộ Hoàng
Việt Trung kỳ: “Sinh thời tặng dữ là một khế ước do bên tặng chủ bỏ đứt
ngay một tài sản gì để cho bên người thụ tặng nhận lấy”. Theo quy định của
Bộ Hoàng Việt Trung kỳ đã có sự phân biệt hình thức của khế ước tặng dữ
giữa bất động sản và động sản. Đối với bất động sản phải lập thành văn bản
có viên chức thị thực trước mặt người thụ tặng và người này phải đồng ý mới
có hiệu lực. Đối với việc tặng dữ vật là động sản hoặc tiền bạc không đòi hỏi
phải có hình thức nhất định, bởi vì có thể trao tay vật mà không cần lập văn
bản. Có thể thấy quy định này rất gần so với quy định của Bộ luật dân sự hiện
hành về việc cho tặng bất động sản. Bởi lẽ, bất động sản là vật có giá trị lớn,
việc có sự làm chứng của viên chức thời bấy giờ hoặc công chứng viên thời
nay giúp đảm bảo công bằng cho các chủ thể tham gia giao dịch. Đồng thời,
cũng thể hiện sự quản lý của nhà nước đối với tài nguyên bất động sản của
nước ta.
26
Pháp luật về thừa kế được quy định trong các bộ dân luật Bắc kỳ và
Hoàng Việt Trung kỳ. Theo quy định tại Hoàng Việt Trung kỳ thì hình thức
của chúc thư được quy định như sau: “Việc lập chúc thư phải bằng văn bản
hoặc do viên quản lý văn khế làm ra hoặc có công chứng thị thực. Chúc thư
không có người thị thực phải do người lập di chúc viết giấy và ký tên, nếu
người lập chúc thư không thể viết được và đọc cho người khác viết thay thì
phải có ít nhất hai người đã thành niên trở lên làm chứng, thông thường một
trong hai người đó là lý trưởng”. Như vậy, việc quy định hình thức của chúc
thư trong thời kỳ này khá chặt chẽ, nhằm đảm bảo quyền lợi hợp pháp cho
người để lại di sản và người thừa kế.
1.3.3. Quy định về hình thức giao dịch dân sự thời kỳ 1945 đến Bộ
luật dân sự 1995
Trong giai đoạn từ năm 1945 đến khi ban hành Bộ luật dân sự 1995 đất
nước ta có nhiều biến động lịch sử. Vì vậy, pháp luật cũng có những điều
chỉnh, thay đổi không nhỏ. Năm 1945, đất nước ta giành được độc lập và
thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Trong lúc đất nước còn bộn bề
rối ren và nhiều khó khăn, chưa có điều kiện để ban hành tất cả các luật mới
thay thế những bộ luật cũ. Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh 90/SL cho phép
tạm sử dụng một số luật lệ ban hành ở bắc Trung Nam với điều kiện những
luật lệ ấy không trái với nguyên tắc độc lập của nước Việt Nam. Do vậy, các
văn bản pháp luật dân sự từ thời Pháp thuộc vẫn được tiếp tục sử dụng.
Tuy nhiên, sau một thời gian áp dụng do có nhiều quy định trong các
bộ luật cũ không còn phù hợp với tình hình lịch sử thời bây giờ, cho nên sau
khi có Hiến pháp 1959, Tòa án tối cao đã ra Chỉ thị số 772/CY-TATC về việc
đình chỉ áp dụng luật lệ của đế quốc, phong kiến. Thời kỳ này việc điều chỉnh
các quan hệ dân sự sẽ do các văn bản sau điều chỉnh: Sắc lệnh 97/SL ngày 22-
5-1950; Chỉ thị số 4/DS ngày 14/10/1963 của Tòa án tối cáo về đường lối giải
quyết những giao dịch hợp pháp và bất hợp pháp…Có thể nói, hình thức của
27
giao dịch dân sự không được chú trọng quan tâm và đề cập đến trong các văn
bản pháp luật trên đây.
Cho đến thời kỳ nước ta chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hóa sang kinh
tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa đã có hàng loạt các văn bản ra
đời điều chỉnh các quan hệ giao dịch dân sự, phải kể đến như: Pháp lệnh hợp
đồng dân sự có hiệu lực ngày 1-7-1991; Pháp lệnh nhà ở ngày 26-3-1991;
Pháp lệnh thừa kế ngày 10-9-1990… Trong thời kỳ này, thuật ngữ “khế ước”
đã được thay bằng thuật ngữ “hợp đồng dân sự”. Theo đó thì hợp đồng dân
sự là sự thoả thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt
quyền và nghĩa vụ của các bên trong mua bán, thuê, vay, mượn, tặng cho tài
sản; làm hoặc không làm một việc, dịch vụ hoặc các thoả thuận khác mà trong
đó một hoặc các bên nhằm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt, tiêu dùng [49, Điều 1].
Đồng thời, hình thức của hợp đồng cũng được quy định thành một điều luật
riêng rẽ tại Pháp lệnh hợp đồng dân sự 1991 như sau:
“1. Các bên có thể giao kết hợp đồng bằng miệng hoặc bằng văn bản.
2. Đối với các loại hợp đồng mà pháp luật quy định phải lập thành văn
bản, đăng ký, hoặc có chứng thực của cơ quan công chứng Nhà nước, thì các
bên phải tuân theo các quy định đó.”
Đối với vấn đề thừa kế tại Pháp lệnh thừa kế năm 1990 đã có những
quy định khá chi tiết, cụ thể đối với hình thức của di chúc tại Điều 14 về
Di chúc viết được cơ quan công chứng hoặc Ủy ban nhân dân chứng thực
như sau:
1. Người lập di chúc có thể yêu cầu cơ quan công chứng hoặc Ủy
ban nhân dân xã, phường, thị trấn chứng thực bản di chúc.
2. Người lập di chúc có thể tự viết hoặc nhờ người khác viết bản di
chúc, nhưng người lập di chúc phải ký hoặc điểm chỉ trước mặt
người có trách nhiệm chứng thực của cơ quan công chứng hoặc Ủy
ban nhân dân xã, phường, thị trấn.
28
3. Trong trường hợp người lập di chúc không đọc bản di chúc được,
không ký hoặc điểm chỉ được thì phải nhờ người chứng kiến.
Người chứng kiến đọc bản di chúc cho người lập di chúc nghe và
ký vào bản di chúc trước mặt người có trách nhiệm chứng thực của
cơ quan công chứng hoặc Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn.
4. Người có trách nhiệm của cơ quan công chứng hoặc Ủy ban nhân
dân chứng thực vào bản di chúc trước mặt người lập di chúc,
người chứng kiến.
Có thể nhận thấy rằng, tại Pháp lệnh thừa kế 1990 khá chú trọng tới
hình thức của di chúc. Không chỉ ở việc di chúc phải được lập thành văn bản
mà còn cần tới sự chứng thực của cơ quan công chứng hoặc Ủy ban nhân dân
cấp xã.
Tuy nhiên, nếu để các quy định về dân sự nói chung hoặc giao dịch dân
sự nói riêng rải rác ở các văn bản pháp luật sẽ tạo ra sự thiếu sót và không
đồng bộ trong quá trình áp dụng pháp luật dân sự. Đồng thời, để thúc đẩy giao
lưu dân sự, phát triển nền kinh tế thì sự ra đời của BLDS là cần thiết. Vì vậy,
nhà nước ta đã ban hành BLDS năm 1995 để xỏa bỏ những quy định còn lạc
hậu, cổ hủ của chế độ phong kiến và ban hành những quy định mới cho phù
hợp với tình hình đất nước.
Giao dịch dân sự được các nhà làm luật chú trọng và xây dựng khá chặt
chẽ. Tại bộ luật này, khái niệm giao dịch dân sự đã được xây dựng một cách
khái quát và khá chính xác: “Giao dịch dân sự là hành vi pháp lý đơn phương
hoặc hợp đồng của cá nhân, pháp nhân và của các chủ thể khác nhằm làm
phát sinh thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự” [8, Điều 130].
Trong đó, hình thức của giao dịch dân sự được quy định khái quát, chi tiết và
tỉ mỉ hơn các văn bản pháp luật trước đó. Bộ luật dân sự 1995 đã dành hẳn
một điều luật để quy định về hình thức của giao dịch dân sự:
Điều 133. Hình thức giao dịch dân sự
29
Giao dịch dân sự được thể hiện bằng lời nói, bằng văn bản hoặc bằng
hành vi cụ thể.
Trong trường hợp pháp luật có quy định giao dịch dân sự phải được
thể hiện bằng văn bản, phải được Công chứng nhà nước chứng nhận,
được chứng thực, đăng ký hoặc phải xin phép, thì phải tuân theo các
quy định đó.
Thông qua điều luật này, tác giả nhận thấy việc quy định hình thức của
giao dịch dân sự đã cụ thể và có những tiến bộ hơn so với các văn bản pháp
luật thời kỳ phong kiến và pháp thuộc. Bộ luật dân sự 1995 quy định bốn hình
thức thể hiện của giao dịch dân sự như sau: (i) Hình thức lời nói: thỏa thuận
hợp đồng hoặc tuyên bố ý chí của mình bằng lời nói; (ii) Hình thức văn bản:
ký kết giao dịch hoặc thể hiện tuyên bố ý chí bằng văn bản; (iii) Hình thức
bằng hành vi cụ thể: hành vi giao kết hợp đồng hoặc tuyên bố ý chí bằng một
hành vi. Ví dụ: hành vi mua hàng qua máy bán hàng tự động, hành vi gọi điện
thoại công cộng thanh toán bằng thẻ….; (iiii) Hình thức văn bản có chứng
nhận của công chứng hoặc chứng thực.
Về nguyên tắc, BLDS 1995 quy định các chủ thể khi tham gia giao dịch
tự do lựa chọn hình thức giao dịch dân sự. Tuy nhiên khi pháp luật có quy
định hình thức đối với một số loại giao dịch cụ thể thì phải tuân theo. Nếu các
chủ thể không tuân theo thì sẽ vi phạm một trong các điều kiện có hiệu lực
của giao dịch và giao dịch đó sẽ trở nên vô hiệu. Ví dụ: hợp đồng mua bán
nhà ở phải lập thành văn bản, có chứng nhận của công chứng hoặc chứng thực
của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Nhưng pháp luật cũng đã có những
điểm mở để giao dịch khi không tuân thủ quy định về hình thức của pháp luật
có thể sửa chữa, khắc phục: “ Trong trường hợp pháp luật quy định giao dịch
dân sự vô hiệu, nếu không được thể hiện bằng văn bản, không có Công chứng
nhà nước chứng nhận, không được chứng thực, đăng ký hoặc cho phép thì
theo yêu cầu của một hoặc các bên, Tòa án, cơ quan nhà nước có thẩm quyền
khác quyết định buộc cá bên thực hiện quy định về hình thức của giao dịch
30
trong một thời hạn; quá thời hạn đó mà không thực hiện, thì giao dịch vô
hiệu. Bên có lỗi làm cho giao dịch vô hiệu phải bồi thường thiệt hại” [8, Điều 139].
Việc quy định như trên cho thấy rằng quan điểm pháp luật của nhà
nước ta thời kỳ này đã chú ý đến hình thức của giao dịch dân sự . Các nhà làm
luật đã hiểu rằng quy định hình thức bắt buộc cho những giao dịch có tài sản
lớn, quan trọng sẽ góp phần ổn định trật tự xã hội và là công cụ pháp lý bảo
đảm cho các chủ thể tham gia giao dịch.
Tóm lại, việc quy định về hình thức giao dịch dân sự tại BLDS 1995
còn thiếu quy định về các hình thức giao dịch trong thời hiện đại: telex, fax,
điện báo,…Ngoài ra, đối với việc thực hiện quy định khắc phục đối với giao
dịch chưa tuân thủ về mặt hình thức tại Điều 139 cũng còn nhiều bất cập. Hơn
nữa, phải kể đến hai văn bản hướng dẫn của Hội đồng thẩm phán TANDTC
là: Nghị quyết số 01/2003/NQ-HĐTP ngày 16/04/2003 hướng dẫn áp dụng
pháp luật trong việc giải quyết một số loại tranh chấp dân sự, hôn nhân và gia
đình và Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/08/2004 hướng dẫn áp
dụng trong việc giải quyết của vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình. Đây đều là
hai văn bản quan trọng nhưng lại thiếu vắng các quy định cụ thể về hình thức
của giao dịch dân sự. Tại Nghị quyết số 01/2003/NQ-HĐTP chỉ có một quy
định hướng dẫn về trường hợp hợp đồng mua bán nhà ở vô hiệu do không
tuân thủ các điều kiện về hình thức như sau:
Đối với hợp đồng mua bán nhà ở vô hiệu do không tuân thủ điều kiện
về hình thức của hợp đồng, khi có tranh chấp và theo yêu cầu của một
hoặc các bên Toà án áp dụng Điều 139 BLDS để ra quyết định buộc
một hoặc các bên phải đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong thời
hạn một tháng, kể từ ngày Toà án ra quyết định thực hiện các thủ tục
để hoàn thiện về hình thức của hợp đồng. Nếu có một bên đương sự
vắng mặt thì thời hạn này tính từ ngày bên đương sự vắng mặt nhận
được quyết định của Toà án. Trong trường hợp có sự kiện bất khả
kháng hoặc có trở ngại khách quan, thì thời gian có sự kiện bất khả
31
kháng hoặc có trở ngại khách quan không tính vào thời hạn một tháng
đó. Quá thời hạn một tháng mà họ không đến cơ quan nhà nước có
thẩm quyền để thực hiện các thủ tục để hoàn thiện về hình thức của
hợp đồng thì Toà án tuyên bố hợp đồng vô hiệu. Bên có lỗi làm cho
hợp đồng bị vô hiệu do vi phạm điều kiện về hình thức vì không thực
hiện theo quyết định của Toà án thì phải bồi thường thiệt hại theo quy
định tại Điều 146 BLDS.
Mặc dù hướng dẫn này đã thống nhất về mặt lập pháp với việc áp
dụng Điều 139 BLDS 1995 nhưng khi áp dụng trong thực tiễn lại bộc lộ khá
nhiều bất cập. Quy định này vô tình đã tạo điều kiện cho bên muốn Tòa án
tuyên giao dịch vô hiệu có thể dùng cách không hoàn thiện các thủ tục về
mặt hình thức của hợp đồng trong vòng một tháng nhằm đạt được mục đích
của mình.
Tóm lại, bên cạnh những thiếu sót thì BLDS 1995 cũng góp phần mở
ra một thời đại mới của pháp luật dân sự Việt Nam, đặc biệt là sự quan tâm
đối với chế định giao dịch dân sự.
32
KẾT LUẬN CHƢƠNG I
1. Chế định giao dịch dân sự là một chế định được các nhà làm luật chú
trọng xây dựng trong thời kỳ hiện nay. Bởi lẽ, giao dịch dân sự là phương tiện
pháp lý quan trọng để cho các công dân thỏa mãn nhu cầu vật chất, tinh thần
của mình. Trải qua các thời kỳ phát triển của pháp luật Việt Nam từ xưa đến
nay cho dù thuật ngữ giao dịch dân sự mới xuất hiện bắt đầu Bộ luật dân sự
1995 nhưng các thuật ngữ chỉ bản chất của giao dịch dân sự đã xuất hiện từ
thời kỳ pháp luật phong kiến như: khế ước, mua, bán, cho, tặng và hành vi lập
chúc thư…
2. Hình thức giao dịch dân sự bao gồm thể thức trình bày giao dịch dân
sự như: lời nói, văn bản, hành vi…và thủ tục tạo lập giao dịch theo quy định
của pháp luật như: văn bản có công chứng, chứng thực, đăng ký, xin phép.
3. Hình thức giao dịch dân sự đã được quy định trong hầu hết các văn
bản pháp luật có quy định về giao dịch dân sự từ trước tới nay của nước ta.
Càng về thời kỳ hiện đại, hình thức giao dịch dân sự lại được quy định chi tiết
và rõ ràng hơn.
33
Chƣơng 2
HÌNH THỨC GIAO DỊCH DÂN SỰ
THEO QUY ĐỊNH HIỆN HÀNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM
2.1. Các hình thức giao dịch dân sự
2.1.1. Hình thức bằng lời nói
Giao dịch dân sự có hình thức lời nói là những giao dịch dân sự được
giao kết dưới hình thức ngôn ngữ nói, bằng lời hay còn gọi là giao dịch dân
sự bằng miệng. Để diễn đạt tư tưởng và ý kiến của mình trong việc xác lập
giao dịch dân sự các bên giao kết sẽ dùng lời nói trực tiếp hoặc thông qua các
phương tiện công nghệ thông tin như: thông qua điện thoại, gửi thông điệp
điện tử....
Đặc điểm của hình thức giao dịch dân sự bằng lời nói là việc sử dụng
ngôn ngữ giao tiếp thông thường hàng ngày để xác lập giao dịch và hầu như
chỉ các bên tham gia giao dịch biết về sự tồn tại của nó. Các trường hợp giao
dịch thường sử dụng hình thức bằng lời nói là:
Thứ nhất, hình thức giao dịch bằng lời nói được áp dụng giữa các bên
tham gia có độ tin cậy lẫn nhau. Sự tin cậy này bắt nguồn từ các quan hệ như:
bạn bè thân thiết, quan hệ ruột thịt, hàng xóm láng giềng… Sự tin tưởng giữa
các chủ thể ở đây đóng vai trò như là một nhân tố chủ quan bổ xung thêm cho
sự xác thực của hình thức miệng.
Thứ hai, hình thức giao dịch bằng lời nói được áp dụng với những giao
dịch có giá trị rất nhỏ. Các bên không thể lựa chọn hình thức nào tối ưu hơn
hình thức lời nói đối với các giao dịch như: mua mớ rau, mượn chiếc xe
đạp…Việc lựa chọn hình thức giao dịch khác trong trường hợp thực sự không
cần thiết.
Thứ ba, giao dịch được thực hiện và chấm dứt ngay sau đó cũng thường
được áp dụng hình thức lời nói. Các hợp đồng bán lẻ hàng tiêu dùng là trường
34
hợp phổ biến áp dụng hình thức này. Các bên sẽ thỏa thuận miệng về số
lượng, giá cả, chất lượng hàng hóa… và khi bên bán giao hàng thì bên mua
nhận hàng và trả tiền ngay. Giao dịch đến đây là thực hiện xong và chấm dứt.
Ưu điểm của việc giao dịch dân sự bằng hình thức lời nói là việc giao
kết được nhanh gọn, đơn giản và ít tốn kém. Trừ những loại giao dịch pháp
luật có quy định bắt buộc về một hình thức nhất định thì các loại giao dịch
dân sự đều có thể được lập bằng lời nói. Có những trường hợp đặc biệt pháp
luật quy định bắt buộc phải được lập bằng hình thức có tính xác thực cao hơn
như văn bản nhưng nhờ ưu điểm nhanh gọn của hình thức lời nói thì các nhà
làm luật đã quy định việc có thể sử dụng hình thức lời nói khi giao dịch và
phải kèm theo điều kiện nhất định. Ví dụ: Điều 651 BLDS 2005 đã quy định
về hình thức di chúc miệng như sau: “Trong trường hợp tính mạng một người
bị cái chết đe dọa do bệnh tật hoặc các nguyên nhân khác mà không thể lập
di chúc bằng văn bản thì có thể di chúc miệng”.
Xem xét quy định tại Điều 651 BLDS 2005 trên đây, di chúc có thể
được lập bằng hình thức lời nói (miệng), nhưng chỉ khi hội tụ đủ các điều kiện
sau đây thì nó mới được coi là hợp pháp:
- Được lập trong trình trạng một người bị cái chết đe dọa hoặc các
nguyên nhân khác mà không thể lập di chúc bằng văn bản;
- Người lập di chúc miệng phải thể hiện ý chí trước hai người
làm chứng;
-Ngay sau khi nghe người lập di chúc miệng thể hiện ý chí thì người
làm chứng phải ghi chép lại và ký tên hoặc điểm chỉ vào văn bản đó;
-Dưới ba tháng sau khi lập di chúc, người lập di chúc miệng chết.
-Trong thời hạn 5 ngày kể từ ngày người di chúc miệng thể hiện ý chí
cuối cùng thì di chúc phải được công chứng hoặc chứng thực.
Như vậy, do tính xác thực của hình thức giao dịch bằng lời nói không
cao nên đối với các loại giao dịch quan trọng như hành vi lập di chúc các nhà
35
làm luật đã quy định chặt chẽ cách thức sử dụng hình thức này để nhằm để
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho các chủ thể. Trong thực tế đã có những
vụ án kéo dài do tranh chấp di sản thừa kế vì di chúc được lập bằng hình thức
lời nói (miệng) khiến cho các bên tham gia tốn nhiều công sức, tiền của và
thời gian. Chúng tôi xin nêu ví dụ cụ thể sau:
Vụ án tranh chấp thừa kế giữa nguyên đơn là chị Vũ Thị Kim Ty và bị
đơn là chị Vũ Thị Kim Liên.
Nội dung vụ án: Vợ chồng ông Vũ Vân Nam và bà Võ Thị Kim Anh có
6 người con chung là chị Vũ Thị Kim Loan, chị Vũ Thị Kim Liên, chị Vũ Thị
Kim Linh, chị Vũ Thị Kim Cúc, chị Vũ Thị Kim Ty và anh Vũ Vân Trung.
Ngoài ra, ông Nam còn chung sống với bà Nguyễn Thị Kim Loan có ba người
con là anh Trần Thế Hùng, chị Trần Thị Bích Phương và chị Trần Thị Bích
Hạnh. Ông Nam và bà Kim Anh tạo lập được căn nhà số 215A, quận Bình
Thạnh. Bà Kim Anh chết không để lại di chúc. Sau khi bà Kim Anh chết, ông
Nam tạo lập thêm được căn nhà số 179/2A tại quận Bình Thạnh, 01 xe ô tô 4
chỗ hiệu Mercedes và một số đồ dùng sinh hoạt. Ông Nam lập di chúc bằng
văn bản chia thừa kế cho 6 người con chung của ông với bà Kim Anh 2/3 giá
trị căn nhà số 215A, quận Bình Thạnh, còn lại 1/3 giá trị nhà số 215A giao
cho chị Vũ Thị Kim Linh quản lý, sử dụng, dùng một phần để thờ cúng tổ
tiên, một phần để chia cho 3 con riêng của ông Nam với bà Nguyễn Thị Kim
Loan là anh Hùng, chị Phương và chị Hạnh (khi anh Hùng, chị Phương, chị
Hạnh đến tuổi trưởng thành). Do bị bệnh nặng nên trước khi chết ông Nam
lập di chúc miệng (có hai người làm chứng, ghi lại thành văn bản) để lại căn
nhà số 179/2A tại quận Bình Thạnh và chiếc xe ô tô Mercedes cho chị Vũ Thị
Kim Ty và chị Vũ Thị Kim Linh, ông Nam chết lúc 10h10 phút cùng ngày.
Nay chị Ty yêu cầu chia thừa kế tài sản của ông Nam theo di chúc miệng của
ông Nam và yêu cầu trích giá trị tài sản của ông Nam để thanh toán cho chị
các chi phí mà chị đã bỏ ra khi tổ chức đám tang, xây mộ, cúng giỗ cho ông
Nam là 370.516.000 đồng và 30.000 USD.
36
Bị đơn trình bày: thừa nhận di chúc viết của ông Nam lập năm 1995;
không thừa nhận di chúc miệng của ông Nam lập lúc 1h55 phút ngày
06/02/2002. Chị Liên không chấp nhận chi phí đám tang do chị Ty kê khai,
mà cho rằng chi phí đám tang là 59.445.000 đồng, chi phí sau đám tang là
29.700.000 đồng, nhưng chị và chị Loan đã bỏ ra 48.800.000 đồng, nay hai
chị không yêu cầu hoàn lại. Ngoài ra, chị Liên còn yêu cầu chia số tiền cho
Công ty Vinaphon thuê sân thượng nhà 179/2A đặt trạm phát sóng, mỗi tháng
300 USD, kể từ khi ông Nam chết là 43 tháng.
Tòa án cấp sơ thẩm [57, tr.4] quyết định: Hủy bỏ di chúc miệng ngày
06/02/2002. Tòa án cấp phúc thẩm [58, tr.4] quyết định: Công nhận tờ di
chúc miệng do hai nhân chứng Trần Thị Ngọc Lang, Trần Thị Ngọc Hương
ghi chép lại ý chí cuối cùng của ông Vũ Vân Nam vào ngày 06/02/2002 là
hợp pháp.
Nhận xét về vụ án: Qua vụ án này cho chúng ta thấy, việc sử dụng di
chúc miệng phải tuân theo những trình tự thủ tục nhất định mới được coi là
hợp pháp. Việc chứng minh di chúc miệng là hợp pháp phụ thuộc rất nhiều
vào người làm chứng. Người làm chứng cần phải xác nhận người di chúc
miệng có phải trong trường hợp cái chết đang đe dọa, sau khi nghe xong di
chúc phải ghi lại bằng văn bản có ký tên hoặc điểm chỉ đồng thời trong thời
hạn năm ngày phải mang văn bản đó đi công chứng hoặc chứng thực. Vì
vậy, những chứng cứ chứng minh di chúc miệng là hợp pháp không phải lúc
nào cũng rõ ràng. Trong vụ án trên mặc dù di chúc miệng của ông Nam đã
được người làm chứng thực hiện đúng các thủ tục nhưng tại Bản án tòa dân
sự sơ thẩm vẫn không công nhận đây là di chúc hợp pháp. Phải chăng tính
xác thực pháp lý không cao là một trong những nhược điểm của hình thức di
chúc miệng.
Bên cạnh các ưu điểm thì việc giao dịch dân sự bằng hình thức lời nói
cũng tiềm ẩn nhiều nguy cơ rủi ro về mặt pháp lý. Có thể kể đến trường hợp
khi xảy ra tranh chấp một trong các bên tham gia giao dịch dân sự sẽ phủ
37
nhận việc đã giao kết, hoặc phủ nhận việc đã vi phạm một trong các nội dung
đã giao kết. Vấn đề chứng minh sự tồn tại của giao dịch bằng lời nói rất khó
khăn. Chúng tôi xin nêu ví dụ cụ thể sau:
Vụ án “Tranh chấp hợp đồng mua bán” giữa nguyên đơn là ông Châu
Khuôl với bị đơn là ông Dương Lền Hạo ở tỉnh Sóc Trăng
Nội dung vụ án: Theo đơn khởi kiện ngày 24/2/2011và lời khai của
nguyên đơn trong quá trình tố tụng ông Châu Khuôl trình bày: Do quan hệ
quen biết giữa ông Châu Khuôl và ông Dương Lền Hạo có hợp đồng mua bán
củ hành, thông thường hai bên giao kết thỏa thuận miệng cụ thể: nguyên đơn
ông Khuôl sẽ cung cấp hành củ cho ông Hạo theo yêu cầu của ông Hạo và
ông Hạo có trách nhiệm thanh toán tiền sau khi nhận hành, giá hành sẽ tính
theo thời điểm giao hàng. Cụ thể các lần như sau: Ngày 09/02/2011 ông
Khuôl đã bán cho ông Hạo 14.789kg hành củ, giá thỏa thuận là
21.500đồng/kg, thành tiền là 317.963.500 đồng. Ngày 15/02/2011 ông Khuôl
đã bán cho ông Hạo 8.985kg hành củ, giá thỏa thuận 19.000đồng/kg, thành
tiền 170.715.000 đồng.Tổng cộng hai hợp đồng trên thành tiền là 488.678.500
đồng. Ông Hạo đã thanh toán 370.000.000 đồng, nên còn nợ lại ông Khuôl
118.678.500 đồng. Nay ông Khuôl yêu cầu ông Hạo thanh toán cho ông số
tiền trên, thanh toán một lần.
Phía ông Dương Lền Hạo trình bày: Ông có hợp đồng thu mua hành
tím với ông Khuôl, trong thời gian hợp đồng và tạm ứng, thanh toán tiền hai
bên đều có mở sổ theo dõi. Cụ thể như sau: Ngày 22/01/2011 ông họp đồng
với ông Khuôl mua 15 tấn hành củ giá thỏa thuận là 21.500 đồng/kg, sau khi
đặt hàng ông Khuôl tạm ứng trước của ông 10.000.000đồng. Ngày
30/01/2011 ông Khuôl tạm ứng tiếp cho 10.000.000đồng. Tổng cộng đợt hàng
này ông đã cho ông Khuôl tạm ứng 20.000.000đông.Ngày 08/02/2011 ông
Khuôl tạm ứng thêm 100.000.000đồng.Ngày 09/02/2011 ông hợp đồng tiếp
với ông Khuôl mua thêm 10 tấn hành với giá 19.000 đồng/kg. Đến ngày
10/02/2011 họp đồng mua thêm 10 tấn nữa với giá 19.500 đồng/kg và ông
38
Khuôl tạm ứng 100.000.000đồng, cùng ngày anh Sáng là con của ông Khuôl
tạm ứng 150.000.000đồng.Tổng cộng từ ngày 22/01/2011 đến ngày
10/02/2011 phía ông Khuôl đã tạm ứng tiền của ông là 270.000.000 đồng.Ông
Khuôl đã giao cho ông 14.789kg x 21.500đ = 317.963.500 đồng. Khi tính tiền
ông chỉ trừ tiền tạm ứng cho ông Khuôl 170.000.000 đồng (thay vì
270.000.000 đồng số tiền ông Khuôl đã tạm ứng), ông đã trả tiếp cho ông
Khuôl 147.963.500 đồng. Như vậy ông Khuôl còn nợ lại ông 100.000.000
đông.Ngày 13/02/2011 anh Sáng con của ông Khuôl bán cho ông 5 tấn hành
giá 21.000đồng/kg. Ngày 15/02/2011 ông mua tiếp 8.9 85kg hành x
19.000đ/kg = 170.715.000 đồng, ông trừ tiền ông Khuôl còn thiếu
100.000.000 đồng, tiền tạm ứng l00.000.000đông. Như vậy ông Khuôl còn nợ
lại ông 29.285.000 đông. Ngày 8/4/2011, ông có đơn phản tố yêu cầu ông
Khuôl trả 29.285.000 đồng cho ông.
Tòa án cấp sơ thẩm [59, tr.3] và phúc thẩm [60, tr.4] đều quyết định:
Không chấp nhận đơn khởi kiện của ông Châu Khuôl đối với ông Dương Lền
Hạo. Chấp nhận đơn yêu cầu phản tố của ông Dương Lền Hạo. Buộc ông
Châu Khuôl có nghĩa vụ thanh toán cho ông Dương Lền Hạo số tiền là
29.285.000đồng .
Nhận xét về vụ án: Việc mua bán hành giữa ông Khuôl và ông Hạo
không có hợp đồng mua bán, hai bên chỉ có sổ theo dõi việc mua bán và tiền
tạm ứng tiền thanh toán. Theo sổ của ông Khuôl thì từ ngày 22/01/2011 đến
ngày 15/02/2011 ông Khuôl đã bán cho ông Hạo hai đợt hàng: ngày
09/02/2011 ông Khuôl giao cho ông Hạo số lượng hành củ là: 14.789kg x
21.500đ/kg = 317.963.500đ. Trong đơt hàng này ông Khuôl đã tạm ứng của
ông Hạo là 270.000.000 đồng, nhưng ông Khuôl cho rằng ông Hạo mới trừ
tiền tạm ứng là 100.000.000 đồng, nên ông Hạo chưa thanh toán số tiền mua
hành còn lại cho ông Khuôl. Ngày 15/02/2011 ông Khuôl đã giao cho ông
Hạo 8.985kg hành củ, giá thỏa thuận 19.000đồng/kg, thành tiền 170.715.000
đồng. Trong đợt hàng này ông Khuôl đã tạm ứng của ông Hạo 100.000.000
Luận văn: Hình thức giao dịch dân sự theo pháp luật Việt Nam
Luận văn: Hình thức giao dịch dân sự theo pháp luật Việt Nam
Luận văn: Hình thức giao dịch dân sự theo pháp luật Việt Nam
Luận văn: Hình thức giao dịch dân sự theo pháp luật Việt Nam
Luận văn: Hình thức giao dịch dân sự theo pháp luật Việt Nam
Luận văn: Hình thức giao dịch dân sự theo pháp luật Việt Nam
Luận văn: Hình thức giao dịch dân sự theo pháp luật Việt Nam
Luận văn: Hình thức giao dịch dân sự theo pháp luật Việt Nam
Luận văn: Hình thức giao dịch dân sự theo pháp luật Việt Nam
Luận văn: Hình thức giao dịch dân sự theo pháp luật Việt Nam
Luận văn: Hình thức giao dịch dân sự theo pháp luật Việt Nam
Luận văn: Hình thức giao dịch dân sự theo pháp luật Việt Nam
Luận văn: Hình thức giao dịch dân sự theo pháp luật Việt Nam
Luận văn: Hình thức giao dịch dân sự theo pháp luật Việt Nam
Luận văn: Hình thức giao dịch dân sự theo pháp luật Việt Nam
Luận văn: Hình thức giao dịch dân sự theo pháp luật Việt Nam
Luận văn: Hình thức giao dịch dân sự theo pháp luật Việt Nam
Luận văn: Hình thức giao dịch dân sự theo pháp luật Việt Nam
Luận văn: Hình thức giao dịch dân sự theo pháp luật Việt Nam
Luận văn: Hình thức giao dịch dân sự theo pháp luật Việt Nam
Luận văn: Hình thức giao dịch dân sự theo pháp luật Việt Nam
Luận văn: Hình thức giao dịch dân sự theo pháp luật Việt Nam
Luận văn: Hình thức giao dịch dân sự theo pháp luật Việt Nam
Luận văn: Hình thức giao dịch dân sự theo pháp luật Việt Nam
Luận văn: Hình thức giao dịch dân sự theo pháp luật Việt Nam
Luận văn: Hình thức giao dịch dân sự theo pháp luật Việt Nam
Luận văn: Hình thức giao dịch dân sự theo pháp luật Việt Nam
Luận văn: Hình thức giao dịch dân sự theo pháp luật Việt Nam
Luận văn: Hình thức giao dịch dân sự theo pháp luật Việt Nam
Luận văn: Hình thức giao dịch dân sự theo pháp luật Việt Nam
Luận văn: Hình thức giao dịch dân sự theo pháp luật Việt Nam
Luận văn: Hình thức giao dịch dân sự theo pháp luật Việt Nam
Luận văn: Hình thức giao dịch dân sự theo pháp luật Việt Nam
Luận văn: Hình thức giao dịch dân sự theo pháp luật Việt Nam
Luận văn: Hình thức giao dịch dân sự theo pháp luật Việt Nam
Luận văn: Hình thức giao dịch dân sự theo pháp luật Việt Nam
Luận văn: Hình thức giao dịch dân sự theo pháp luật Việt Nam
Luận văn: Hình thức giao dịch dân sự theo pháp luật Việt Nam
Luận văn: Hình thức giao dịch dân sự theo pháp luật Việt Nam
Luận văn: Hình thức giao dịch dân sự theo pháp luật Việt Nam
Luận văn: Hình thức giao dịch dân sự theo pháp luật Việt Nam
Luận văn: Hình thức giao dịch dân sự theo pháp luật Việt Nam
Luận văn: Hình thức giao dịch dân sự theo pháp luật Việt Nam
Luận văn: Hình thức giao dịch dân sự theo pháp luật Việt Nam
Luận văn: Hình thức giao dịch dân sự theo pháp luật Việt Nam
Luận văn: Hình thức giao dịch dân sự theo pháp luật Việt Nam
Luận văn: Hình thức giao dịch dân sự theo pháp luật Việt Nam
Luận văn: Hình thức giao dịch dân sự theo pháp luật Việt Nam
Luận văn: Hình thức giao dịch dân sự theo pháp luật Việt Nam
Luận văn: Hình thức giao dịch dân sự theo pháp luật Việt Nam
Luận văn: Hình thức giao dịch dân sự theo pháp luật Việt Nam
Luận văn: Hình thức giao dịch dân sự theo pháp luật Việt Nam
Luận văn: Hình thức giao dịch dân sự theo pháp luật Việt Nam
Luận văn: Hình thức giao dịch dân sự theo pháp luật Việt Nam
Luận văn: Hình thức giao dịch dân sự theo pháp luật Việt Nam
Luận văn: Hình thức giao dịch dân sự theo pháp luật Việt Nam
Luận văn: Hình thức giao dịch dân sự theo pháp luật Việt Nam

More Related Content

What's hot

What's hot (20)

Luận văn: Hợp đồng mua bán hàng hóa theo pháp luật Việt Nam
Luận văn: Hợp đồng mua bán hàng hóa theo pháp luật Việt NamLuận văn: Hợp đồng mua bán hàng hóa theo pháp luật Việt Nam
Luận văn: Hợp đồng mua bán hàng hóa theo pháp luật Việt Nam
 
Luận văn: Hợp đồng thuê nhà ở theo Luật Kinh doanh bất động sản
Luận văn: Hợp đồng thuê nhà ở theo Luật Kinh doanh bất động sảnLuận văn: Hợp đồng thuê nhà ở theo Luật Kinh doanh bất động sản
Luận văn: Hợp đồng thuê nhà ở theo Luật Kinh doanh bất động sản
 
Luận văn: Quy chế công chứng viên theo pháp luật Việt Nam, HAY
Luận văn: Quy chế công chứng viên theo pháp luật Việt Nam, HAYLuận văn: Quy chế công chứng viên theo pháp luật Việt Nam, HAY
Luận văn: Quy chế công chứng viên theo pháp luật Việt Nam, HAY
 
Đề tài: Giải quyết xung đột pháp luật trong lĩnh vực hợp đồng, HOT
Đề tài: Giải quyết xung đột pháp luật trong lĩnh vực hợp đồng, HOTĐề tài: Giải quyết xung đột pháp luật trong lĩnh vực hợp đồng, HOT
Đề tài: Giải quyết xung đột pháp luật trong lĩnh vực hợp đồng, HOT
 
Luận văn: Chuyển giao hợp đồng theo pháp luật dân sự, HOT
Luận văn: Chuyển giao hợp đồng theo pháp luật dân sự, HOTLuận văn: Chuyển giao hợp đồng theo pháp luật dân sự, HOT
Luận văn: Chuyển giao hợp đồng theo pháp luật dân sự, HOT
 
Luận văn: Bảo đảm quyền con người trong Hiến pháp Việt Nam, 9đ
Luận văn: Bảo đảm quyền con người trong Hiến pháp Việt Nam, 9đLuận văn: Bảo đảm quyền con người trong Hiến pháp Việt Nam, 9đ
Luận văn: Bảo đảm quyền con người trong Hiến pháp Việt Nam, 9đ
 
Luận văn: Giải quyết tranh chấp thương mại bằng hòa giải, 9đ
Luận văn: Giải quyết tranh chấp thương mại bằng hòa giải, 9đLuận văn: Giải quyết tranh chấp thương mại bằng hòa giải, 9đ
Luận văn: Giải quyết tranh chấp thương mại bằng hòa giải, 9đ
 
Luận văn: Áp dụng pháp luật trong giải quyết các vụ án dân sự
Luận văn: Áp dụng pháp luật trong giải quyết các vụ án dân sựLuận văn: Áp dụng pháp luật trong giải quyết các vụ án dân sự
Luận văn: Áp dụng pháp luật trong giải quyết các vụ án dân sự
 
Luận án: Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại, HAY
Luận án: Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại, HAYLuận án: Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại, HAY
Luận án: Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại, HAY
 
Luận văn: Pháp luật về hợp đồng lao động tại các doanh nghiệp
Luận văn: Pháp luật về hợp đồng lao động tại các doanh nghiệpLuận văn: Pháp luật về hợp đồng lao động tại các doanh nghiệp
Luận văn: Pháp luật về hợp đồng lao động tại các doanh nghiệp
 
Luận văn: Giao kết hợp đồng thương mại theo pháp luật Việt Nam
Luận văn: Giao kết hợp đồng thương mại theo pháp luật Việt NamLuận văn: Giao kết hợp đồng thương mại theo pháp luật Việt Nam
Luận văn: Giao kết hợp đồng thương mại theo pháp luật Việt Nam
 
Luận văn: Giải quyết vụ án dân sự có yếu tố nước ngoài, HAY
Luận văn: Giải quyết vụ án dân sự có yếu tố nước ngoài, HAYLuận văn: Giải quyết vụ án dân sự có yếu tố nước ngoài, HAY
Luận văn: Giải quyết vụ án dân sự có yếu tố nước ngoài, HAY
 
Luận văn: Giải quyết tranh chấp tài sản trong các vụ án ly hôn
Luận văn: Giải quyết tranh chấp tài sản trong các vụ án ly hônLuận văn: Giải quyết tranh chấp tài sản trong các vụ án ly hôn
Luận văn: Giải quyết tranh chấp tài sản trong các vụ án ly hôn
 
Luận văn: Giải thích hợp đồng theo pháp luật dân sự, HOT
Luận văn: Giải thích hợp đồng theo pháp luật dân sự, HOTLuận văn: Giải thích hợp đồng theo pháp luật dân sự, HOT
Luận văn: Giải thích hợp đồng theo pháp luật dân sự, HOT
 
Đề tài: Bảo đảm quyền con người trong Hiến pháp Việt Nam, HOT
Đề tài: Bảo đảm quyền con người trong Hiến pháp Việt Nam, HOTĐề tài: Bảo đảm quyền con người trong Hiến pháp Việt Nam, HOT
Đề tài: Bảo đảm quyền con người trong Hiến pháp Việt Nam, HOT
 
Đề tài: Thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa theo luật, HAY
Đề tài: Thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa theo luật, HAYĐề tài: Thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa theo luật, HAY
Đề tài: Thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa theo luật, HAY
 
Luận văn: Xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước
Luận văn: Xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nướcLuận văn: Xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước
Luận văn: Xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước
 
Luận văn: Hoạt động thẩm tra các dự án luật, pháp lệnh, HOT
Luận văn: Hoạt động thẩm tra các dự án luật, pháp lệnh, HOTLuận văn: Hoạt động thẩm tra các dự án luật, pháp lệnh, HOT
Luận văn: Hoạt động thẩm tra các dự án luật, pháp lệnh, HOT
 
Luận văn: Chứng cứ trong tố tụng theo pháp luật Việt Nam, HOT
Luận văn: Chứng cứ trong tố tụng theo pháp luật Việt Nam, HOTLuận văn: Chứng cứ trong tố tụng theo pháp luật Việt Nam, HOT
Luận văn: Chứng cứ trong tố tụng theo pháp luật Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Chế độ tài sản vợ chồng theo luật hôn nhân, HOT
Luận văn: Chế độ tài sản vợ chồng theo luật hôn nhân, HOTLuận văn: Chế độ tài sản vợ chồng theo luật hôn nhân, HOT
Luận văn: Chế độ tài sản vợ chồng theo luật hôn nhân, HOT
 

Similar to Luận văn: Hình thức giao dịch dân sự theo pháp luật Việt Nam

Giao Dịch Dân Sự Vô Hiệu Và Việc Giải Quyết Hậu Quả Pháp Lý Của Giao Dịch Dân...
Giao Dịch Dân Sự Vô Hiệu Và Việc Giải Quyết Hậu Quả Pháp Lý Của Giao Dịch Dân...Giao Dịch Dân Sự Vô Hiệu Và Việc Giải Quyết Hậu Quả Pháp Lý Của Giao Dịch Dân...
Giao Dịch Dân Sự Vô Hiệu Và Việc Giải Quyết Hậu Quả Pháp Lý Của Giao Dịch Dân...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0936 885 877
 
Luận văn: Giao dịch dân sự vô hiệu và việc giải quyết hậu quả pháp lý của gia...
Luận văn: Giao dịch dân sự vô hiệu và việc giải quyết hậu quả pháp lý của gia...Luận văn: Giao dịch dân sự vô hiệu và việc giải quyết hậu quả pháp lý của gia...
Luận văn: Giao dịch dân sự vô hiệu và việc giải quyết hậu quả pháp lý của gia...Dịch vụ viết thuê Khóa Luận - ZALO 0932091562
 
Luận văn: Giao dịch dân sự vô hiệu và việc giải quyết hậu quả pháp lý của gia...
Luận văn: Giao dịch dân sự vô hiệu và việc giải quyết hậu quả pháp lý của gia...Luận văn: Giao dịch dân sự vô hiệu và việc giải quyết hậu quả pháp lý của gia...
Luận văn: Giao dịch dân sự vô hiệu và việc giải quyết hậu quả pháp lý của gia...Viết thuê trọn gói ZALO 0934573149
 
GIAO DỊCH DÂN SỰ VÔ HIỆU VỀ HÌNH THỨC THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM
GIAO DỊCH DÂN SỰ VÔ HIỆU VỀ HÌNH THỨC THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM GIAO DỊCH DÂN SỰ VÔ HIỆU VỀ HÌNH THỨC THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM
GIAO DỊCH DÂN SỰ VÔ HIỆU VỀ HÌNH THỨC THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM nataliej4
 
Thực Hiện Pháp Luật Về Công Chứng – Từ Thực Tiễn Các Văn Phõng Công Chứng Trê...
Thực Hiện Pháp Luật Về Công Chứng – Từ Thực Tiễn Các Văn Phõng Công Chứng Trê...Thực Hiện Pháp Luật Về Công Chứng – Từ Thực Tiễn Các Văn Phõng Công Chứng Trê...
Thực Hiện Pháp Luật Về Công Chứng – Từ Thực Tiễn Các Văn Phõng Công Chứng Trê...Dịch vụ viết đề tài trọn gói 0934.573.149
 

Similar to Luận văn: Hình thức giao dịch dân sự theo pháp luật Việt Nam (20)

2321nhana (2)
2321nhana (2)2321nhana (2)
2321nhana (2)
 
Giao Dịch Dân Sự Vô Hiệu Và Việc Giải Quyết Hậu Quả Pháp Lý Của Giao Dịch Dân...
Giao Dịch Dân Sự Vô Hiệu Và Việc Giải Quyết Hậu Quả Pháp Lý Của Giao Dịch Dân...Giao Dịch Dân Sự Vô Hiệu Và Việc Giải Quyết Hậu Quả Pháp Lý Của Giao Dịch Dân...
Giao Dịch Dân Sự Vô Hiệu Và Việc Giải Quyết Hậu Quả Pháp Lý Của Giao Dịch Dân...
 
Luận văn: Giao dịch dân sự vô hiệu và việc giải quyết hậu quả pháp lý của gia...
Luận văn: Giao dịch dân sự vô hiệu và việc giải quyết hậu quả pháp lý của gia...Luận văn: Giao dịch dân sự vô hiệu và việc giải quyết hậu quả pháp lý của gia...
Luận văn: Giao dịch dân sự vô hiệu và việc giải quyết hậu quả pháp lý của gia...
 
Luận văn: Hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu từ thực tiễn xét xử củ...
Luận văn: Hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu từ thực tiễn xét xử củ...Luận văn: Hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu từ thực tiễn xét xử củ...
Luận văn: Hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu từ thực tiễn xét xử củ...
 
Luận văn: Giao dịch dân sự vô hiệu và việc giải quyết hậu quả pháp lý của gia...
Luận văn: Giao dịch dân sự vô hiệu và việc giải quyết hậu quả pháp lý của gia...Luận văn: Giao dịch dân sự vô hiệu và việc giải quyết hậu quả pháp lý của gia...
Luận văn: Giao dịch dân sự vô hiệu và việc giải quyết hậu quả pháp lý của gia...
 
Luận văn: Hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu, HAY
Luận văn: Hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu, HAYLuận văn: Hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu, HAY
Luận văn: Hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu, HAY
 
Hậu Quả Pháp Lý Của Giao Dịch Dân Sự Vô Hiệu, HAY.doc
Hậu Quả Pháp Lý Của Giao Dịch Dân Sự Vô Hiệu, HAY.docHậu Quả Pháp Lý Của Giao Dịch Dân Sự Vô Hiệu, HAY.doc
Hậu Quả Pháp Lý Của Giao Dịch Dân Sự Vô Hiệu, HAY.doc
 
Hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu từ thực tiễn xét xử của tòa án c...
Hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu từ thực tiễn xét xử của tòa án c...Hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu từ thực tiễn xét xử của tòa án c...
Hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu từ thực tiễn xét xử của tòa án c...
 
GIAO DỊCH DÂN SỰ VÔ HIỆU VỀ HÌNH THỨC THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM
GIAO DỊCH DÂN SỰ VÔ HIỆU VỀ HÌNH THỨC THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM GIAO DỊCH DÂN SỰ VÔ HIỆU VỀ HÌNH THỨC THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM
GIAO DỊCH DÂN SỰ VÔ HIỆU VỀ HÌNH THỨC THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM
 
Giao Dịch Dân Sự Vô Hiệu Về Hình Thức Theo Pháp Luật.doc
Giao Dịch Dân Sự Vô Hiệu Về Hình Thức Theo Pháp Luật.docGiao Dịch Dân Sự Vô Hiệu Về Hình Thức Theo Pháp Luật.doc
Giao Dịch Dân Sự Vô Hiệu Về Hình Thức Theo Pháp Luật.doc
 
Luận văn: Thực hiện pháp luật thế chấp quyền sử dụng đất
Luận văn: Thực hiện pháp luật thế chấp quyền sử dụng đấtLuận văn: Thực hiện pháp luật thế chấp quyền sử dụng đất
Luận văn: Thực hiện pháp luật thế chấp quyền sử dụng đất
 
Luận văn: Hoàn thiện quy định của pháp luật về phiên tòa sơ thẩm
Luận văn: Hoàn thiện quy định của pháp luật về phiên tòa sơ thẩmLuận văn: Hoàn thiện quy định của pháp luật về phiên tòa sơ thẩm
Luận văn: Hoàn thiện quy định của pháp luật về phiên tòa sơ thẩm
 
Luận văn: Tự do giao kết hợp đồng - vấn đề lý luận và thực tiễn
Luận văn: Tự do giao kết hợp đồng -  vấn đề lý luận và thực tiễnLuận văn: Tự do giao kết hợp đồng -  vấn đề lý luận và thực tiễn
Luận văn: Tự do giao kết hợp đồng - vấn đề lý luận và thực tiễn
 
Thực Hiện Pháp Luật Về Công Chứng – Từ Thực Tiễn Các Văn Phõng Công Chứng Trê...
Thực Hiện Pháp Luật Về Công Chứng – Từ Thực Tiễn Các Văn Phõng Công Chứng Trê...Thực Hiện Pháp Luật Về Công Chứng – Từ Thực Tiễn Các Văn Phõng Công Chứng Trê...
Thực Hiện Pháp Luật Về Công Chứng – Từ Thực Tiễn Các Văn Phõng Công Chứng Trê...
 
Áp dụng tập quán trong giải quyết các vụ việc dân sự của Tòa án
Áp dụng tập quán trong giải quyết các vụ việc dân sự của Tòa ánÁp dụng tập quán trong giải quyết các vụ việc dân sự của Tòa án
Áp dụng tập quán trong giải quyết các vụ việc dân sự của Tòa án
 
Luận văn: Áp dụng tập quán trong giải quyết các vụ việc dân sự
Luận văn: Áp dụng tập quán trong giải quyết các vụ việc dân sựLuận văn: Áp dụng tập quán trong giải quyết các vụ việc dân sự
Luận văn: Áp dụng tập quán trong giải quyết các vụ việc dân sự
 
Luận văn: Tự do giao kết hợp đồng - Những vấn đề lý luận, 9 ĐIỂM
Luận văn: Tự do giao kết hợp đồng - Những vấn đề lý luận, 9 ĐIỂMLuận văn: Tự do giao kết hợp đồng - Những vấn đề lý luận, 9 ĐIỂM
Luận văn: Tự do giao kết hợp đồng - Những vấn đề lý luận, 9 ĐIỂM
 
Luận Văn Thạc Sĩ Hậu Quả Pháp Lý Của Giao Dịch Dân Sự Vô Hiệu.docx
Luận Văn Thạc Sĩ Hậu Quả Pháp Lý Của Giao Dịch Dân Sự Vô Hiệu.docxLuận Văn Thạc Sĩ Hậu Quả Pháp Lý Của Giao Dịch Dân Sự Vô Hiệu.docx
Luận Văn Thạc Sĩ Hậu Quả Pháp Lý Của Giao Dịch Dân Sự Vô Hiệu.docx
 
Luận văn: Chế định giải quyết việc dân sự trong pháp luật, HAY
Luận văn: Chế định giải quyết việc dân sự trong pháp luật, HAYLuận văn: Chế định giải quyết việc dân sự trong pháp luật, HAY
Luận văn: Chế định giải quyết việc dân sự trong pháp luật, HAY
 
Chế Định Hòa Giải Trong Pháp Luật Tố Tụng Dân Sự Việt Nam.doc
Chế Định Hòa Giải Trong Pháp Luật Tố Tụng Dân Sự Việt Nam.docChế Định Hòa Giải Trong Pháp Luật Tố Tụng Dân Sự Việt Nam.doc
Chế Định Hòa Giải Trong Pháp Luật Tố Tụng Dân Sự Việt Nam.doc
 

More from Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864

Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.docTạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.docDịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 

More from Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864 (20)

Yếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.doc
Yếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.docYếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.doc
Yếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.doc
 
Từ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.doc
Từ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.docTừ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.doc
Từ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.doc
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
 
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
 
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
 
Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...
Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...
Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
 
Tác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.doc
Tác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.docTác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.doc
Tác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.doc
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
 
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
 
Song Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.doc
Song Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.docSong Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.doc
Song Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.doc
 
Ứng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.doc
Ứng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.docỨng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.doc
Ứng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.doc
 
Vai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.doc
Vai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.docVai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.doc
Vai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.doc
 
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
 
Thu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.doc
Thu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.docThu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.doc
Thu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.doc
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
 
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.docTạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
 

Recently uploaded

TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfhoangtuansinh1
 
Bai 1 cong bo mot cong trinh nghien cuu khoa hoc
Bai 1 cong bo mot cong trinh nghien cuu khoa hocBai 1 cong bo mot cong trinh nghien cuu khoa hoc
Bai 1 cong bo mot cong trinh nghien cuu khoa hocVnPhan58
 
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líKiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líDr K-OGN
 
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...hoangtuansinh1
 
Slide Webinar Hướng dẫn sử dụng ChatGPT cho người mới bắt đầ...
Slide Webinar Hướng dẫn sử dụng ChatGPT cho người mới bắt đầ...Slide Webinar Hướng dẫn sử dụng ChatGPT cho người mới bắt đầ...
Slide Webinar Hướng dẫn sử dụng ChatGPT cho người mới bắt đầ...Học viện Kstudy
 
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoabài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa2353020138
 
Hệ phương trình tuyến tính và các ứng dụng trong kinh tế
Hệ phương trình tuyến tính và các ứng dụng trong kinh tếHệ phương trình tuyến tính và các ứng dụng trong kinh tế
Hệ phương trình tuyến tính và các ứng dụng trong kinh tếngTonH1
 
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhvanhathvc
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA CUỐI HỌC KÌ 2 NĂM HỌC 2023-202...
ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA CUỐI HỌC KÌ 2 NĂM HỌC 2023-202...ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA CUỐI HỌC KÌ 2 NĂM HỌC 2023-202...
ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA CUỐI HỌC KÌ 2 NĂM HỌC 2023-202...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdfSơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdftohoanggiabao81
 
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Ma trận - định thức và các ứng dụng trong kinh tế
Ma trận - định thức và các ứng dụng trong kinh tếMa trận - định thức và các ứng dụng trong kinh tế
Ma trận - định thức và các ứng dụng trong kinh tếngTonH1
 
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxChàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxendkay31
 
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxTrích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxnhungdt08102004
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 

Recently uploaded (20)

TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
 
Bai 1 cong bo mot cong trinh nghien cuu khoa hoc
Bai 1 cong bo mot cong trinh nghien cuu khoa hocBai 1 cong bo mot cong trinh nghien cuu khoa hoc
Bai 1 cong bo mot cong trinh nghien cuu khoa hoc
 
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líKiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
 
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
 
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
 
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
 
Slide Webinar Hướng dẫn sử dụng ChatGPT cho người mới bắt đầ...
Slide Webinar Hướng dẫn sử dụng ChatGPT cho người mới bắt đầ...Slide Webinar Hướng dẫn sử dụng ChatGPT cho người mới bắt đầ...
Slide Webinar Hướng dẫn sử dụng ChatGPT cho người mới bắt đầ...
 
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoabài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
 
Hệ phương trình tuyến tính và các ứng dụng trong kinh tế
Hệ phương trình tuyến tính và các ứng dụng trong kinh tếHệ phương trình tuyến tính và các ứng dụng trong kinh tế
Hệ phương trình tuyến tính và các ứng dụng trong kinh tế
 
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA CUỐI HỌC KÌ 2 NĂM HỌC 2023-202...
ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA CUỐI HỌC KÌ 2 NĂM HỌC 2023-202...ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA CUỐI HỌC KÌ 2 NĂM HỌC 2023-202...
ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA CUỐI HỌC KÌ 2 NĂM HỌC 2023-202...
 
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdfSơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
 
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
 
Ma trận - định thức và các ứng dụng trong kinh tế
Ma trận - định thức và các ứng dụng trong kinh tếMa trận - định thức và các ứng dụng trong kinh tế
Ma trận - định thức và các ứng dụng trong kinh tế
 
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxChàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
 
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
 
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxTrích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 

Luận văn: Hình thức giao dịch dân sự theo pháp luật Việt Nam

  • 1. §¹i häc Quèc gia Hµ Néi khoa LuËt PHẠM THỊ MINH TRANG HÌNH THỨC GIAO DỊCH DÂN SỰ THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM Chuyªn ngµnh: Luật Dân sự và Tố tụng Dân sự M· sè: 60 38 01 03 LuËn v¨n th¹c sÜ LuËt häc Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN HẢI AN Hµ néi - 2014
  • 2. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƯỜI CAM ĐOAN Phạm Thị Minh Trang
  • 3. MỤC LỤC LỜI CAM ĐOAN MỤC LỤC DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT MỞ ĐẦU Trang 1 Chƣơng 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HÌNH THỨC GIAO DỊCH DÂN SỰ 6 1.1. Khái niệm, đặc điểm pháp lý của giao dịch dân sự 6 1.1.1. Khái niệm giao dịch dân sự 6 1.1.2. Đặc điểm của giao dịch dân sự 14 1.2. Khái niệm về hình thức giao dịch dân sự 18 1.3. Quy định về hình thức giao dịch Việt Nam qua các thời kỳ 21 1.3.1 Hình thức giao dịch dân sự trong các đạo luật phong kiến Việt Nam 21 1.3.2. Quy định về hình thức giao dịch dân sự dưới thời Pháp thuộc 25 1.3.3. Quy định về hình thức giao dịch dân sự thời kỳ 1945 đến Bộ luật dân sự 1995 26 Chƣơng 2: HÌNH THỨC GIAO DỊCH DÂN SỰ THEO QUY ĐỊNH HIỆN HÀNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM 33 2.1. Các hình thức giao dịch dân sự 33 2.1.1. Hình thức bằng lời nói 33 2.1.2. Hình thức giao dịch dân sự bằng văn bản 40 2.1.3. Hình thức thông điệp dữ liệu 43 2.1.4. Giao dịch dân sự bằng hành vi cụ thể 46 2.2. Hình thức giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch trong trường hợp pháp luật có quy định 47 2.2.1. Hình thức là yếu tố pháp lý quyết định hiệu lực của giao dịch dân sự 47
  • 4. 2.2.2. Hình thức giao dịch dân sự là cơ sở để xác định thời điểm có hiệu lực của giao dịch 52 2.3. Hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu do vi phạm hình thức 53 2.3.1. Chấm dứt thực hiện giao dịch dân sự 55 2.3.2. Xử lý hậu quả của giao dịch dân sự vô hiệu do vi phạm về mặt hình thức 56 Chƣơng 3: THỰC TIỄN ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ HÌNH THỨC GIAO DỊCH DÂN SỰ VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT 60 3.1. Thực tiễn áp dụng các quy định pháp luật về hình thức giao dịch dân sự 60 3.1.1 Những bất cập trong các quy định về hình thức giao dịch dân sự 60 3.1.3. 3.1.4. 3.1.5. 3.1.6. 3.2. 3.2.1. 3.2.2. Tặng cho quyền sử dụng đất giữa cha mẹ và con Hợp đồng thuê nhà vi phạm hình thức Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vẫn được công nhận khi vi khi vi phạm quy đị pháp luật về mặt hình thức Hình thức của di chúc không tuân theo quy định pháp luật Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật Giải pháp hoàn thiện xây dựng pháp luật về hình thức giao dịch dân sự Hướng giải quyết những bất cập liên quan đến giải quyết tranh chấp về hình thức giao dịch. 70 72 76 78 78 82 82 KẾT LUẬN 88 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 89
  • 5. NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN 1. BLDS: Bộ luật Dân sự 2. TANDTC: Tòa án nhân dân tối cao
  • 6. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài Từ bao đời nay để duy trì sự phát triển của xã hội và nhằm thỏa mãn các nhu cầu của bản thân, con người đã sử dụng phương thức giao dịch dân sự. Hiện nay,Việt Nam đang trong thời kỳ phát triển kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa thì giao dịch dân sự càng đóng vai trò quan trọng trong việc vận hành nền kinh tế. Nội dung của giao dịch dân sự không thể nằm trong tư tưởng của con người mà nó phải được thể hiện ra bên ngoài bằng một hình thức nhất định. Trong một số trường hợp để đảm bảo quyền lợi hợp pháp cho người tham gia giao dịch dân sự và nhằm tăng cường tính pháp chế của nhà nước trong việc quản lý giao dịch dân sự thì hình thức được coi là điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự. Vì vậy, xuất phát từ tầm quan trọng của hình thức giao dịch dân sự nên pháp luật đã có hành lang pháp lý về vấn đề này. Tuy nhiên, một số quy định về hình thức của giao dịch dân sự trong pháp luật Việt Nam đã bộc lộ nhiều bất cập, gây khó khăn cho công tác giải quyết các tranh chấp có liên quan tại Tòa án nhân dân. Vấn đề có nên quy định hình thức là điều kiện của giao dịch dân sự vẫn là vấn đề còn gây nhiều tranh cãi. Quy định về cách xử lý hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự không tuân thủ quy định hình thức còn nhiều vướng mắc…Do đó, cần phải có những nghiên cứu chuyên sâu để làm nổi bật nên các bất cập trên và từ đó có những giải pháp xác đáng để tạo ra hành lang pháp lý thông thoáng về vấn đề này cũng như tạo điều kiện dễ dàng cho việc áp dụng pháp luật trong thực tiễn giải quyết tranh chấp. Đối với pháp luật Việt Nam thì hình thức giao dịch dân sự đã được quy định từ luật pháp thời kỳ phong kiến cho đến pháp luật hiện hành và chủ yếu được quy định trong BLDS năm 2005. Trong mỗi thời kỳ, giai đoạn lịch sử vấn đề này lại có những quy định khác nhau. Pháp luật Việt Nam có điểm chưa tương đồng và tương đồng khi quy định hình thức giao dịch dân sự so
  • 7. 2 với pháp luật của các nước trên thế giới. Cho nên, việc mở rộng nghiên cứu và so sánh quy định về hình thức giao dịch dân sự qua pháp luật của các thời kỳ lịch sử của Việt Nam cũng như qua pháp luật của một số nước trên thế giới sẽ giúp chúng ta có cái nhìn đa chiều hơn về vấn đề này. Đồng thời, qua đó có thể đúc rút và chọn lọc được một số kinh nghiệm phù hợp để áp dụng vào việc quy định hình thức giao dịch dân sự của pháp luật Việt Nam hiện hành. Từ những phân tích và lý do trên đây, tác giả đã lựa chọn đề tài: “Hình thức giao dịch dân sự theo pháp luật Việt Nam” để làm luận văn thạc sỹ luật học. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Việc nghiên cứu về hình thức giao dịch dân sự đã được nhiều nhà khoa học pháp lý quan tâm trong các thời kỳ và với các góc độ khác nhau. Dưới đây là một số công trình nghiên cứu khoa học và bài viết tiêu biểu: Về sách chuyên khảo, công trình nghiên cứu, bài viết: Giáo trình “Luật dân sự Việt Nam” của trường Đại học Luật Hà Nội; sách “Bình luận những nội dung mới của Bộ luật dân sự 2005” của Đinh Trung Tụng (Cb); “Giao dịch dân sự vô hiệu do không tuân thủ các quy định về hình thức” của TS. Nguyễn Văn Cường [19]; “Nhà ở của vợ chồng nhưng một bên đứng ra bán” của TS. Nguyễn Hải An [2]; “Về hợp đồng mua bán nhà ở vô hiệu do vi phạm điều kiện hình thức” của Trần Thị Thu Hà [27]; “Bàn về điều kiện về hình thức của giao dịch dân sự theo Bộ luật dân sự năm 2005” của Thẩm phán Tưởng Duy Lượng; Về luận án tiến sỹ: Có một số luận án tiến sỹ nghiên cứu các đề tài có liên quan đến vấn đề hình thức giao dịch dân sự như đề tài: “Giao dịch dân sự vô hiệu và việc giải quyết hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu” của TS. Nguyễn Văn Cường [20], đề tài:“Hiệu lực của hợp đồng theo quy địnhcủa pháp luật Việt Nam” của TS. Lê Minh Hùng [38]… Có thể nói, những công trình khoa học trên là tài liệu quí báu giúp tác giả có thêm nhiều thông tin quan trọng phục vụ cho việc nghiên cứu luận văn, tuy nhiên các công trình trên chưa nghiên cứu toàn diện và thấu đáo về hình
  • 8. 3 thức giao dịch dân sự theo quy định của pháp luật Việt Nam, đặc biệt là BLDS năm 2005. Do vậy, việc nghiên cứu đề tài: “Hình thức giao dịch dân sự theo pháp luật Việt Nam” không trùng lặp với các công trình khoa học đã được công bố. 3. Mục tiêu nghiên cứu và nhiệm vụ của đề tài 3.1. Mục tiêu nghiên cứu Trên cơ sở nghiên cứu lý luận, khảo sát thực trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật về hình thức giao dịch dân sự ở Việt Nam, đối chiếu với quy định về hình thức giao dịch dân sự trong hệ thống pháp luật Việt Nam từ xưa đến nay và một số nước trên thế giới, đề tài hướng đến mục tiêu góp phần hoàn thiện và làm phong phú thêm cơ sở lý luận, thực tiễn của vấn đề hình thức giao dịch dân sự; đồng thời đưa ra những giải pháp có thể sửa đổi các quy định còn bất cập trong pháp luật Việt Nam hiện hành, hoàn thiện cơ chế pháp lý điều chỉnh hình thức giao dịch dân sự phù hợp với xu thế thực tiễn. 3.2. Nhiệm vụ của đề tài Đề tài có nhiệm vụ giải quyết những vấn đề sau: - Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận chung về hình thức giao dịch dân sự như: làm rõ khái niệm và bản chất của hình thức giao dịch dân sự; nghiên cứu một cách xuyên suốt hình thức giao dịch dân sự trong hệ thống pháp luật Việt Nam từ xưa đến nay; phân tích và nghiên cứu chuyên sâu về các loại hình thức giao dịch dân sự; nghiên cứu khái quát về hình thức là điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự khi pháp luật quy định. - Nghiên cứu thực trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật về hình thức giao dịch dân sự; đánh giá thực trạng quy đinh của pháp luật và cách thức giải quyết tranh chấp của cơ quan có thẩm quyền về hình thức giao dịch dân sự để từ đó xác định được những điểm cần sửa đổi trong quy định của pháp luật.
  • 9. 4 - Trên cơ sở những bất cập đã được xác định từ đó đưa ra những giải pháp phù hợp trong việc sửa đổi, bổ sung các quy định của pháp luật hiện hành về hình thức giao dịch dân sự. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đề tài nghiên cứu về các quy định của pháp luật về hình thức của giao dịch dân sự và vướng mắc còn tồn tại trong quy định của pháp luật hiện hành về vấn đề này. Đồng thời, đề tài cũng nghiên cứu thực tiễn áp dụng pháp luật về vấn đề hình thức của giao dịch dân sự hiện nay. 4.2. Phạm vi nghiên cứu - Về mặt nội dung: Hình thức của giao dịch dân sự là vấn đề rất rộng. Mặt khác nó được quy định chủ yếu và tập trung trong BLDS 2005, nên nội dung của Luận văn tập trung phân tích các quy định về hình thức giao dịch dân sự trong BLDS 2005. Bên cạnh đó, luận văn còn nghiên cứu và phân tích các quy định có liên quan đến hình thức của giao dịch dân sự trong các văn bản pháp luật liên quan khác, cũng như thực tiễn giải quyết tranh chấp trong các lĩnh vực này. Về mặt thời gian: Cùng với việc nghiên cứu các quy định của pháp luật hiện hành, tác giả cũng dành một liều lượng thích hợp để nghiên cứu các quy định về hình thức giao dịch dân sự trong pháp luật Việt Nam qua các thời kỳ. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu Đề tài vận dụng các phương pháp của Chủ nghĩa duy vật biện chứng Mác-Lênin và các phương pháp chuyên ngành khoa học pháp lý để giải quyết những vấn đề lý luận và pháp lý liên quan đến các quy định về hình thức giao dịch dân sự. Trong đó chủ yếu sử dụng phương pháp lô gích pháp lý, phương pháp lịch sử và phương pháp so sánh pháp luật để làm rõ mối quan hệ giữa hình thức giao dịch dân sự giữa pháp luật hiện hành và pháp luật cổ; giữa pháp luật Việt Nam và pháp luật trên thế giới; giữa các quy định của pháp luật và thực tiễn áp dụng…
  • 10. 5 6. Tính mới của luận văn Kết quả nghiên cứu được thể hiện trong luận văn có một số điểm mới sau đây: - Thứ nhất, nghiên cứu lý luận một cách toàn diện về hình thức giao dịch dân sự. Đánh giá và phân tích về hình thức giao dịch dân sự trong pháp luật Việt Nam qua các thời kỳ, đồng thời so sánh với quy định về hình thức giao dịch dân sự của một số nước trên thế giới. - Thứ hai, đưa ra và phân tích thực tiễn áp dụng pháp luật, giải quyết tranh chấp liên quan đến hình thức giao dịch dân sự thông qua các bản án tại Tòa án nhân dân. Từ đó tìm ra những bất cập trong quy định của pháp luật và đề xuất giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật liên quan đến vấn đề hình thức của giao dịch dân sự. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài Phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương.
  • 11. 6 Chƣơng 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HÌNH THỨC GIAO DỊCH DÂN SỰ 1.1. Khái niệm, đặc điểm pháp lý của giao dịch dân sự 1.1.1. Khái niệm giao dịch dân sự Giao dịch là một trong những phương tiện hữu hiệu để loài người thỏa mãn nhu cầu nhân sinh. Ngay từ khi nhân loại bước vào thời kỳ trao đổi hàng hóa thì giao dịch dân sự đã hình thành và chiếm giữ một vị trí quan trọng trong việc điều tiết các mối quan hệ xã hội. Khái niệm “Giao dịch” theo từ điển Tiếng Việt được hiểu một cách đơn giản nhất là sự đổi chác, mua bán. Giao dịch hình thành từ hình thức đơn giản nhất như con người trao đổi sản phẩm do mình làm ra, cho đến ngày nay khi giao dịch được sử dụng với nhiều hình thức biểu đạt và là một công cụ hữu hiệu để cá nhân, tổ chức thỏa mãn nhu cầu về vật chất, tinh thần của mình. Theo đó thì một cá nhân, tổ chức muốn tồn tại và phát triển trong xã hội phải tham gia vào các giao dịch nhất định để trao đổi và dịch chuyển các lợi ích với nhau. Với vị trí và ý nghĩa quan trọng như vậy, cho nên giao dịch dân sự nhanh chóng được đưa vào hệ thống luật pháp của các quốc gia để nhằm ổn định, giữ trật tự cho nền kinh tế phát triển. Có thể thấy rằng, một xã hội phát triển luôn phải đặt ra nhu cầu hoàn thiện và phát triển chế định giao dịch. Điều này được thể hiện rõ nét trong hệ thống pháp luật của Việt Nam từ khi hình thành cho đến ngày nay. Tuy rằng, thuật ngữ “ giao dịch dân sự” chưa được thể hiện từ những ngày đầu của lịch sử lập pháp Việt Nam nhưng trong các văn bản cổ luật đã tìm thấy các thuật ngữ có ý nghĩa tương đương hoặc thể hiện bản chất của việc giao dịch như: khế ước hoặc mua, bán, cho, cầm hoặc hành vi thể hiện ý chí của con người nhằm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự mà không phụ thuộc vào ý chí bên kia như hành
  • 12. 7 vi lập di chúc….Trải qua nhiều thời kỳ phát triển của xã hội cùng với sự thăng trầm của nền kinh tế, ngày nay thuật ngữ giao dịch dân sự đã được nâng tầm thành chế định giao dịch dân sự và chiếm một vị trí quan trọng trong Bộ luật dân sự hiện hành. Đối với thế giới, sự phát triển của “giao dịch dân sự” tại mỗi quốc gia có những đặc thù riêng. Nét chung nhất có thể thấy được là vị trí của chế định giao dịch dân sự ngày càng được nâng cao và chú trọng. Tuy nhiên, tùy theo tình hình phát triển kinh tế xã hội ở một đất nước mà giao dịch dân sự lại được quy định ở những khía cạnh, góc độ khác nhau. Ví dụ: tại BLDS của Nhật Bản quy định về chế định hợp đồng và chế định thừa kế theo di chúc; tại BLDS của Pháp không nêu ra chế định giao dịch dân sự mà quy định về chế định hợp đồng và chế định thừa kế…Những BLDS này tuy rằng không quy định định nghĩa khái niệm giao dịch dân sự nhưng về bản chất và các loại hình của giao dịch dân sự như: hợp đồng, hành vi pháp lý đơn phương đều được quy định cụ thể và chi tiết. Chiếm một vị trí quan trọng trong hệ thống luật pháp của các quốc gia nên giao dịch dân sự cũng có nhiều cách hiểu, định nghĩa khác nhau. Ở Việt Nam, khái niệm “giao dịch dân sự” được các nhà khoa học định nghĩa theo nhiều góc độ. Có nhà khoa học cho rằng: “Giao dịch dân sự là hành vi được thực hiện nhằm thu được kết quả nhất định và pháp luật tạo điều kiện cho kết quả trở thành hiện thực” [13, tr.266], đồng thời cũng có cách hiểu về giao dịch dân sự theo nghĩa chủ quan như: “Giao dịch là một sự kiện pháp lý, bao gồm hành vi pháp lý đơn phương hoặc đa phương (hợp đồng) làm phát sinh hậu quả pháp lý”. Tác giả đồng tình với cách lý giải giao dịch dân sự theo nghĩa chủ quan này. Bởi nó mang tính khái quát cao nhất bản chất của giao dịch dân sự. Trong phạm vi tiểu mục này, tác giả luận bàn về khái niệm giao dịch dân sự được hiểu theo góc độ, ý nghĩa chủ quan như đã nêu trên. Ngoài việc được quy định trong các văn bản pháp luật của nhiều nước trên thế giới, khái
  • 13. 8 niệm giao dịch dân sự còn được các nhà khoa học, các học giả nghiên cứu và đưa ra nhiều định nghĩa khác nhau. Theo một số nhà khoa học Nhật Bản đã nêu: “Giao dịch dân sự là hành vi hợp pháp nhằm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự” [12, tr.114]. Định nghĩa này thể hiện phần lớn các quan hệ trong xã hội được điều chỉnh bằng pháp luật và được coi là giao dịch dân sự. Đồng nghĩa với việc giao dịch dân sự là tất cả những hành vi tự nguyện của các chủ thể khi tham gia vào các quan hệ dân sự nhằm thu được một kết quả nhất định và các hành vi này không trái với pháp luật. Trong một số trường hợp nhất định thì giao dịch dân sự không cần phải có sự tác động của luật pháp mà nó được điều chỉnh bằng tập quán và đạo đức xã hội. Chỉ khi nảy sinh tranh chấp, mâu thuẫn thì chủ thể tham gia giao dịch yêu cầu hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền xét xử và tạo điều kiện cần thiết để giao dịch được thực hiện. Điều 121 BLDS Việt Nam năm 2005 định nghĩa giao dịch dân sự như sau: “Giao dịch dân sự là hợp đồng hoặc hành vi pháp lý đơn phương làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự”. Để hiểu rõ hơn về khái niệm này cần tìm hiểu bản chất của “hợp đồng” và “hành vi pháp lý đơn phương”. Theo quy định tại Điều 388 BLDS 2005 thì: “Hợp đồng dân sự là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự ”. Tác giả cho rằng khái niệm này khá phù hợp với thực tế hiện nay và mang tính khái quát cao. Chúng ta có thể xem xét một số quy định về hợp đồng của một số nước trên thế giới. Theo quy định tại Điều 1373 BLDS 1994 của Bang Québec (Canada): “Hợp đồng là sự thống nhất ý chí, theo đó một hoặc nhiều chủ thể phải thực hiện những cam kết đã định vì lợi ích của một hoặc nhiều chủ thể khác”. Định nghĩa này đã thể hiện rõ bản chất của hợp đồng là sự thỏa thuận và thống nhất ý chí. Nhưng đây mới chỉ là điều kiện cần, định nghĩa hợp đồng của BLDS Québec chưa chỉ ra được dấu hiệu đặc trưng nhất của hợp đồng là sự ràng buộc pháp lý về quyền và nghĩa vụ giữa
  • 14. 9 các bên. Luật Hợp đồng Trung Quốc năm 1999 quy định tại Điều 2 về hợp đồng như sau: “Hợp đồng theo quy định của luật này là sự thỏa thuận về việc xác lập, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự giữa các chủ thể bình đẳng tự nhiên nhân, các tổ chức khác. Các thỏa thuận liên quan đến quan hệ hôn nhân, nhận con nuôi, giám hộ… thích dụng với quy định của các luật khác”. Quy định Hợp đồng của pháp luật Trung Quốc hơi dài nhưng về mặt bản chất và nội dung tương tự như định nghĩa hợp đồng của BLDS Việt Nam. Hợp đồng là một loại giao dịch dân sự, là căn cứ pháp lý làm phát sinh, thay đổi và chấm dứt quan hệ pháp luật dân sự. Hiểu theo nghĩa rộng hơn thì hợp đồng là sự thỏa thuận của các bên nhằm làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt các quyền và nghĩa vụ với nhau. Ngoại trừ các quyền và nghĩa vụ mà pháp luật quy định không thể thay đổi bằng việc thỏa thuận của các bên. Đồng thời, không phải tất cả sự thỏa thuận của các bên đều là hợp đồng. Ví dụ như: một sự thỏa thuận hứa tặng quà hay thỏa thuận đi chơi cùng bạn….không phải là hợp đồng, vì các thỏa thuận này không tạo ra sự ràng buộc pháp lý giữa các bên. Hay nói cách khác khi vi phạm các thỏa thuận này sẽ không thể áp dụng chế tài dân sự để xử lý. Có thể nói, bản chất của hợp đồng là sự thỏa thuận và sự tạo ra ràng buộc pháp lý giữa các bên. Trong thực tiễn hiện nay, không phải bất kỳ hợp đồng nào cũng có sự đàm phán, thỏa thuận trước mà hợp đồng còn có loại do một bên đơn phương dự thảo các điều khoản và một bên có quyền đồng ý hoặc không đồng ý với tất cả nội dung hợp đồng nhưng sẽ không được thay đổi hay sửa đổi bất kỳ một điều khoản nào.Ví dụ: các công ty cung ứng dịch vụ như điện, mạng internet…thường soạn mẫu các hợp đồng dịch vụ của mình với khách hàng, nếu khách hàng đồng ý sử dụng thì sẽ ký kết hợp đồng ngay. Có thể thấy những hợp đồng như trên có những ưu điểm là việc ký kết hợp đồng nhanh chóng, đơn giản tuy nhiên khách hàng lại không được thể hiện ý kiến của mình với nội dung của hợp đồng. Vì trong một số trường hợp với những mặt hàng độc quyền thì người tiêu dùng bắt buộc phải ký kết với những hợp đồng
  • 15. 10 mẫu do bên cung cấp định sẵn. Hoặc đôi khi khách hàng đồng ý với phần lớn nội dung của hợp đồng này nhưng lại có mong muốn sửa đổi một số nội dung nhỏ theo quan điểm cá nhân thì lại không thể sửa đổi được. Khách hàng trong trường hợp này chỉ có thể lựa chọn việc chấp nhận ký kết hợp đồng hoặc là không ký kết hợp đồng và không thể đưa ra bất kỳ thỏa thuận nào khác. Có thể nói, định nghĩa hợp đồng của BLDS Việt Nam khá ngắn gọn và chính xác. Tuy nhiên, có ý kiến cho rằng cần bỏ từ “dân sự” kèm theo khái niệm “hợp đồng” [38, tr.12]. Tác giả hoàn toàn đồng tình với ý kiến này, bởi lẽ nếu đặt từ “dân sự” ngay sau từ “hợp đồng” dễ gây hiểu nhầm theo nghĩa hẹp, khái niệm hợp đồng dân sự ở đây là một loại hợp đồng như là các là hợp đồng khác như: hợp đồng thương mại, hợp đồng kinh tế…Trong khi đó khái niệm “hợp đồng dân sự” được các nhà làm luật xây dựng với mục đích để chỉ tất cả các loại hợp đồng, vì theo nghĩa rộng dân sự bao gồm cả các lĩnh vực: kinh tế, thương mại, lao động, hôn nhân, gia đình [9, Điều 1] Bộ luật dân sự Việt Nam không quy định về khái niệm hành vi pháp lý đơn phương, tuy nhiên dựa trên góc độ khoa học và theo quy định của Điều 131 BLDS 2005 về “Giao dịch dân sự” thì có thể hiểu hành vi pháp lý đơn phương là hoạt động thể hiện ý chí của một bên nhằm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự mà không phụ thuộc vào ý chí của bên kia. Ví dụ như: một người lập di chúc để lại di sản thừa kế….Nếu đặt trong phạm vi rộng thì định nghĩa hành vi pháp lý đơn phương như trên là khá đúng đắn và có thể chấp nhận được. Tuy nhiên, cần phải đặt ra câu hỏi là mọi hành vi pháp lý đơn phương có phải là giao dịch dân sự không? Theo tác giả thì một số hành vi pháp lý đơn phương không được coi là giao dịch dân sự, bởi các lý do sau đây: - Xem xét quy định tại Điều 249 BLDS 2005 về Từ bỏ quyền sở hữu như sau: “Chủ sở hữu có thể tự chấm dứt quyền sở hữu đối với tài sản của mình bằng cách tuyên bố công khai hoặc thực hiện hành vi chứng tỏ việc mình từ bỏ quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản đó”. Tác giả đồng
  • 16. 11 ý với việc đây cũng được xem là một hành vi pháp lý đơn phương. Tuy nhiên, cần phải xem xét hành vi pháp lý đơn phương trên có phải là giao dịch dân sự hay không? Theo tác giả thì hành vi từ bỏ quyền sở hữu theo quy định tại Điều 249 BLDS 2005 không phải là giao dịch dân sự. Bởi lẽ hành vi này không làm phát sinh bất kỳ giao dịch dân sự nào. Hay nói cách khác về phía người tuyên bố từ bỏ quyền sở hữu sẽ chấm dứt quyền sở hữu đối với tài sản của mình tuy nhiên hành vi này cũng không thể xác định sẽ phát sinh quyền hoặc nghĩa vụ dân sự đối với một chủ thể nhất định nào. Đồng thời tài sản mà chủ sở hữu từ bỏ sẽ trở thành vật vô chủ. - Như vậy, qua ví dụ trên đây nhận thấy một hành vi pháp lý đơn phương không phải là giao dịch dân sự khi nó chứa đựng các yếu tố: hành vi pháp lý đơn phương được thực hiện đúng pháp luật nhưng không nhằm làm phát sinh quyền và nghĩa vụ dân sự cho một chủ thể khác; người có hành vi pháp lý đơn phương thực hiện hành vi không nhằm được hưởng quyền tài sản hoặc quyền nhân thân hay để thực hiện một nghĩa vụ dân sự nào với một chủ thể khác do hậu quả của hành vi đó mang lại. - Việc xác định hành vi pháp lý đơn phương không phải là giao dịch dân sự mang lại nhiều ý nghĩa pháp lý. Dựa trên góc độ khoa học pháp lý nó sẽ làm nổi bật bản chất của giao dịch dân sự. Đồng thời, khi nảy sinh tranh chấp thì một hành vi pháp lý đơn phương không phải là giao dịch dân sự sẽ được giải quyết bởi những quy phạm tương ứng điều chỉnh về hành vi đó mà không chịu sự điều chỉnh của những quy phạm về giao dịch dân sự. Thông qua việc phân tích về hành vi pháp lý đơn phương như trên tác giả cho rằng Bộ luật dân sự nên quy định về khái niệm hành vi pháp lý đơn phương để việc áp dụng pháp luật được trở nên dễ dàng hơn. Như vậy, từ các vấn đề nêu trên chúng ta thấy rằng bản chất pháp lý của giao dịch dân sự phải có hai bên tham gia.Về hợp đồng nó có thể là một loại giao dịch song phương hoặc đa phương, nhưng phải có ít nhất hai bên tham gia trong hợp đồng. Đối với hành vi pháp lý đơn phương chỉ được coi là
  • 17. 12 giao dịch dân sự khi chủ thể của hành vi đó chấm dứt quyền dân sự của mình đồng thời lại nhằm phát sinh quyền dân sự hoặc nghĩa vụ dân sự ở chủ thể khác mà có mối liên hệ nhân quả đến hành vi pháp lý đơn phương đó. Tóm lại, tác giả đồng tình với định nghĩa về giao dịch dân sự tại Điều 121 BLDS 2005. Khái niệm đã mang tính khái quát cao và thể hiện được bản chất của giao dịch dân sự. Tuy nhiên, hiện tại cơ quan lập pháp Việt Nam đang trong quá trình soạn thảo Bộ luật dân sự sửa đổi và chế định giao dịch dân sự rất được quan tâm. Dự thảo Bộ luật dân sự đã đề cập đến việc thay đổi thuật ngữ: “Giao dịch dân sự” thành thuật ngữ “Hành vi pháp lý”. Một số nhà khoa học pháp lý cho rằng: thuật ngữ hành vi pháp lý rộng hơn thuật ngữ giao dịch dân sự và bao quát được hết các hành vi pháp lý được thực hiện trong giao lưu dân sự. Tác giả không đồng tình với nhận định trên và cho rằng giữ nguyên thuật ngữ giao dịch dân sự theo quy định của BLDS 2005 sẽ có nhiều thuận lợi và tích cực hơn, bởi các lý do sau: - Thuật ngữ “giao dịch dân sự” đặc biệt là thuật ngữ “giao dịch” đã được sử dụng trong suốt thời gian dài của nền kinh tế - xã hội Việt Nam và ăn sâu vào tiềm thức của người dân. Trong cuộc sống hàng ngày thuật ngữ này được sử dụng khá nhiều và phổ biến. Nó chính thức được thừa nhận với một khái niệm hoàn chỉnh tại BLDS năm 1995. Vì vậy, với một thuật ngữ đã được sử dụng nhiều và không gây ra nhiều những bất cập trong quá trình áp dụng pháp luật thì việc thay thế sẽ gây ra những tác động về mặt tiêu cực không nhỏ. Nếu các nhà làm luật thay thế thuật ngữ “hành vi pháp lý” cho thuật ngữ “giao dịch dân sự” sẽ kéo theo hàng loạt văn bản pháp lý có liên quan phải sửa đổi những nội dung liên quan đến giao dịch dân sự. Ngoài ra, với một thuật ngữ mới xa lạ trong đời sống hàng ngày thì chúng ta phải tổ chức tuyên truyền sâu rộng để người dân biết và hiểu, do vậy quá trình này sẽ tốn nhiều thời gian và tiền bạc. - Hiện nay, nhiều nước trên thế giới có nền kinh tế - xã hội phát triển hơn Việt Nam đang sử dụng thuật ngữ “giao dịch dân sự” và thuật ngữ này
  • 18. 13 vẫn có thể bao quát được nhiều hành vi xử sự của con người trong xã hội. Vì vậy, tác giả cho rằng tại thời điểm hiện tại việc đưa ra một thuật ngữ mới là “hành vi pháp lý” không cần thiết, trong khi thuật ngữ “giao dịch dân sự” vẫn còn phù hợp với tình hình kinh tế - xã hội và nền khoa học pháp lý của nước ta và trên thế giới. - Khái niệm hành vi pháp lý được định nghĩa như sau tại khoản 1 điều 121 dự thảo BLDS sửa đổi: “Hành vi pháp lý là s ự thể hiện ý chí nhằm là m phát sinh, chấm dứ t quyền , nghĩa vụ dân sự . Hành vi pháp lý bao gồm hợp đồng và hành vi pháp lý đơn phương”. So sánh với khái niệm giao dịch dân sự tại Điều 121 BLDS 2005: “Giao dịch dân sự là hợp đồng hoặc hành vi pháp lý đơn phương làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự”. Chúng ta thấy rằng, hai khái niệm này giống nhau về bản chất cả hai thuật ngữ hành vi pháp lý và giao dịch dân sự đều bao gồm: hợp đồng, hành vi pháp lý đơn phương. Như vậy, việc sửa đổi ở đây đơn thuần là việc sửa đổi tên thuật ngữ còn nội dung và bản chất vẫn được kế thừa từ BLDS 2005. - Tác giả không đồng tình với ý kiến của các nhà làm luật cho rằng đối với các hành vi pháp lý hành vi như: của chủ sở hữu hoặc người có quyền khác tác động trực tiếp lên tài sản thuộc quyền của mình; hành vi kết hôn, ly hôn, cấp dưỡng…không phù hợp với thuật ngữ giao dịch dân sự. Thiết nghĩ về mặt bản chất chúng ta có thể xác định các hành vi của chủ thể dựa trên nguyên tắc thể hiện ý chí: (i) sự thể hiện ý chí của một người làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự được gọi là hành vi pháp lý đơn phương; (ii) sự thỏa thuận của từ hai bên trở lên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự được gọi là hợp đồng. Như vậy, theo tác giả thì hành vi của chủ sở hữu hoặc người có quyền khác tác động trực tiếp lên tài sản thuộc quyền của mình mà làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự là hành vi pháp lý đơn phương.. Đối với hành vi kết hôn, ly hôn, cấp dưỡng… đều là hành vi của hai bên xác lập nhằm phát sinh quan hệ hôn nhân, chấm dứt quan hệ hôn nhân hoặc phát sinh quan hệ
  • 19. 14 cấp dưỡng. Vì vậy về mặt bản chất có thể được coi như một loại hợp đồng. Tác giả đồng tình với quan điểm này và cho rằng kết hôn là một loại hợp đồng đặc biệt. Tại nhiều nước phương Tây, kết hôn được coi là một dạng hợp đồng nhưng tại các nước Châu Á như Việt Nam do truyền thống văn hóa lâu đời còn có nhiều tác động đến pháp luật nên vấn đề kết hôn chưa được thừa nhận là hợp đồng. Qua phân tích trên đây tác giả muốn khẳng định rằng nếu hành vi nào thỏa mãn khái niệm, bản chất, dấu hiệu, đặc điểm của giao dịch dân sự thì là giao dịch dân sự và không phụ thuộc vào việc hành vi đó có phù hợp với tên thuật ngữ giao dịch hay không. Việc xem xét để thay đổi một thuật ngữ pháp lý đã được sử dụng lâu đời bằng một thuật ngữ pháp lý mới với lý do một bộ phận không phù hợp với tên gọi đó là điều không cần thiết. Nên chăng đối với những trường hợp đặc biệt hay ngoại lệ thì các nhà làm luật nên có những quy định riêng để tạo điều kiện cho việc áp dụng pháp luật được dễ dàng hơn. 1.1.2. Đặc điểm của giao dịch dân sự Theo như khái niệm về Giao dịch dân sự đã phân tích ở trên, có thể thấy Giao dịch dân sự có những đặc điểm chung như sau: 1.1.2.1. Thể hiện ý chí của các bên tham gia giao dịch Trong giao dịch dân sự có ý chí và thể hiện ý chí, nguyện vọng của chủ thể tham gia giao dịch. Ý chí là nguyện vọng, mong muốn chủ quan của con người mà nội dung của nó được xác định bởi nhu cầu vật chất hoặc tinh thần của bản thân họ. Đồng thời, ý chí phải được thể hiện ra bên ngoài bằng một hình thức nhất định để các chủ thể khác có thể biết được nguyện vọng mong muốn tham gia giao dịch dân sự của chủ thể đó. Bởi vậy, giao dịch dân sự là sự thống nhất giữa ý chí và bày tỏ ý chí. Khi tham gia giao dịch dân sự các chủ thể đều thể hiện được ý chí của mình và đạt mục đích nhằm thỏa mãn những nhu cầu mong muốn của bản thân. Tuy nhiên, có thể thấy ý chí của chủ thể phải gắn liền với nội dung và hình thức biểu đạt. Bởi lẽ, hành vi tuy có ý chí nhưng không làm phát sinh
  • 20. 15 hậu quả pháp lý, không được diễn ra một hình thức nhất định phù hợp với quy định của pháp luật thì hành vi đó không được coi là giao dịch dân sự. Ngoài ra, không phải mọi ý chí, nguyện vọng của các chủ thể khi tham gia giao dịch dân sự đều được pháp luật chấp nhận. Quan niệm về tự do ý chí trong giao dịch được hình thành và phát triển mạnh mẽ trong khoa học pháp lý của Pháp từ thế kỷ thứ XVIII . Thời kỳ này, các chủ thể được tự do bày tỏ ý chí khi tham gia vào giao dịch mà không bị bất kỳ yếu tố nào ngăn cản. Từ đó phát sinh những trường hợp khi tham gia giao dịch để thỏa mãn nhu cầu của mình các chủ thể đã bất chấp vi phạm lợi ích của cá nhân khác hoặc lợi ích của cộng đồng. Theo sự phát triển của xã hội và để đảm bảo sự công bằng bình đẳng giữa các chủ thể trong xã hội thì Nhà nước cần phải can thiệp bằng công cụ pháp luật đối với các quan hệ giao dịch dân sự. Nếu không có sự điều chỉnh của pháp luật đối với giao dịch dân sự thì đôi khi sẽ tạo ra sự bất bình đẳng giữa các chủ thể như: bên yếu hơn sẽ phải phụ thuộc ý chí vào bên mạnh hơn khi tham gia giao dịch dân sự….Vì vậy, tuy giao dịch dân sự phải thể hiện ý chí của các bên tham gia giao dịch nhưng ý chí này cần phải phù hợp với pháp luật và đạo đức xã hội. 1.1.2.2. Sự tự nguyện của các bên tham gia giao dịch dân sự Đây được xem là đặc điểm quan trọng để thiết lập nên giao dịch dân sự. Nhà nước và pháp luật chỉ điều chỉnh quan hệ giao dịch dân sự khi các bên tham gia và không thể bắt buộc bất kỳ bên nào tham gia vào một giao dịch dân sự mà chủ thể đó không muốn. Một chủ thể khi đang mong muốn đạt được một nhu cầu vật chất hoặc tinh thần nhất định, họ sẽ tự nguyện tham gia vào một giao dịch dân sự để đạt được điều đó. Tuy nhiên, chủ thể đó cũng phải có năng lực hành vi dân sự theo luật định để đủ tư cách tham gia vào giao dịch dân sự. Đối với những người hạn chế năng lực hành vi dân sự và người mất năng lực hành vi dân sự pháp luật đã quy định họ chỉ được tham gia một số giao dịch nhất định phù hợp với ý chí của họ hoặc thông qua người đại diện. Vậy một vấn đề đặt ra là quy định này có vi phạm sự tự nguyện của
  • 21. 16 đối tượng chủ thể này không? Theo tác giả thì quy định này cũng nhằm đảm bảo tính công bằng và sự tự nguyện cho các chủ thể này. Bởi lẽ, theo góc độ y khoa họ không nhận thức hoặc làm chủ được hành vi của mình, không nhận thức đúng đắn về một vấn đề phức tạp, từ đó nếu để các chủ thể này tham gia vào tất cả các loại giao dịch thì có thể họ sẽ gặp phải sự lừa đảo, lừa dối trong quan hệ dân sự. Sự tự nguyện cũng là nguyên tắc cơ bản của quan hệ pháp luật dân sự. Trong quan hệ dân sự, các bên hoàn toàn tự nguyện, không bên nào được áp đặt, cấm đoán, cưỡng ép, đe dọa, ngăn cản bên nào [9, Điều 4]. Do vậy, trong các giao dịch dân sự nếu thiếu yếu tố này không thể coi là giao dịch được. Tuy nhiên, trong thực tiễn sự tự nguyện này mang tính tương đối. Trong một số loại giao dịch thì chủ thể sử dụng dịch vụ không có sự lựa chọn nào khác và buộc phải lựa chọn một chủ thể cung cấp dịch vụ nhất định. Điều này thường xảy ra đối với các dịch vụ độc quyền của nhà nước. Khách hàng thể hiện sự chấp nhận của mình qua việc ký hợp đồng mà không được thay đổi hoặc thỏa thuận sửa đổi bất kỳ một điều khoản nào của hợp đồng do bên cung cấp đã soạn sẵn. 1.1.2.3. Nội dung của giao dịch dân sự không được trái với pháp luật và đạo đức xã hội Pháp luật tôn trọng sự thỏa thuận và sự tự nguyện của các chủ thể tham gia giao dịch nhưng bên cạnh đó khi tham gia giao dịch họ cũng phải tuân theo quy định của pháp luật và đạo đức xã hội. Pháp luật ở đây được hiểu là quy tắc xử xự có tính bắt buộc chung đối với công dân. Đạo đức xã hội là những chuẩn mực ứng xử chung giữa người với người trong đời sống xã hội, được cộng đồng thừa nhận và tôn trọng. Ví dụ: giao dịch mua bán hàng cấm là giao dịch có đối tượng trái pháp luật …Các chủ thể tự do bày tỏ ý chí và giao kết với nhau nhưng nếu vượt ngoài khuôn khổ của pháp luật sẽ là vi phạm pháp luật.
  • 22. 17 Tuy nhiên, để xác định nội dung của giao dịch dân sự trái pháp luật khá đơn giản và rõ ràng. Nhưng đối với việc xác định nội dung giao dịch trái với đạo đức xã hội là một vấn đề khá phức tạp. Thuật ngữ đạo đức xã hội đã được các nhà làm luật định nghĩa rõ ràng tại Điều 128 BLDS 2005 nhưng trong thực tiễn quan niệm đạo đức xã hội lại rất dễ gây tranh cãi. Mỗi quốc gia, mỗi dân tộc, mỗi thời kỳ và mỗi con người lại có những quan niệm đạo đức xã hội khác nhau. Đơn cử chúng ta có thể lấy ví dụ về hành vi của một người họa sỹ vẽ loại hình body painting (vẽ tranh trên cơ thể) - đây là một loại hình nghệ thuật khá phổ biến ở phương tây và mới du nhập về Việt Nam, có người sẽ cho rằng đây là hành vi ảnh hưởng thuần phong mỹ tục nhưng có người cho rằng đây là nghệ thuật. Như vậy, trong trường hợp một người thuê hoạ sỹ vẽ tranh trên cơ thể mình để quảng cáo sản phẩm thì đây có coi là giao dịch có nội dung trái với đạo đức xã hội hay không?. Pháp luật ngoài việc tạo điều kiện để cho các giao kết trở thành hiện thực, còn phải đặt ra những quy phạm pháp luật bảo vệ lợi ích chung của xã hội, trong đó có lợi ích của chính các chủ thể tham gia giao dịch. Vì vậy, BLDS 2005 đã quy định: “Nội dung của giao dịch không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội” [9, điểm b Điều 122], là một trong những điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự. Vì vậy, để đảm bảo ý nghĩa của điều luật này được thực thi trong thực tiễn thì theo ý kiến của tác giả các nhà làm luật cần quy định rõ hơn về khái niệm đạo đức xã hội. Tóm lại, ý chí và sự tự nguyện của chủ thể đảm bảo cho giao dịch thể hiện đúng ý chí của các bên tham gia. Nội dung không trái với pháp luật và đạo đức xã hội để đảm bảo cho một giao dịch hợp pháp, được pháp luật công nhận. Vì vậy, đây là những yếu tố quan trọng góp phần tạo nên một giao dịch dân sự hợp pháp. Bên cạnh đó, thông qua khái niệm và đặc điểm của giao dịch dân sự tác giả cũng nhận thấy được một số ý nghĩa quan trọng của chế định giao dịch dân sự trong hệ thống pháp luật Việt Nam hiện nay. Thứ nhất, việc xây dựng
  • 23. 18 chế định giao dịch là công cụ pháp lý quan trọng bảo đảm an toàn cho các chủ thể tham gia giao dịch nhằm thỏa mãn nhu cầu vật chất, tinh thần của mình trong xã hội hiện nay. Khi các bên tham gia giao dịch có quyền tự do giao kết, tự nguyện tham gia giao dịch nhưng sự tự do này đều được đặt trong khuôn khổ của pháp luật. Các quy định về điều kiện để các chủ thể tham gia giao dịch; quy định về các biện pháp chế tài đối với các giao dịch không tuân theo các điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự…là công cụ bảo vệ trật tự công và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho các chủ thể tham gia giao dịch. Thứ hai, chế định giao dịch đảm bảo cho việc quản lý của nhà nước đối với quan hệ giao dịch dân sự, góp phần ổn định trật tự xã hội. Với những ý nghĩa nêu trên nên giao dịch dân sự chiếm một vị trí khá quan trọng trong hệ thống pháp luật của nước ta từ xưa đến nay. 1.2. Khái niệm về hình thức giao dịch dân sự Trước hết, hình thức được hiểu là: “cái bên ngoài, cái chứa đựng nội dung” [87, Tr.809]. Hay nói cách khác hình thức nhằm biểu đạt nội dung, nếu nội dung không được thể hiện bằng một hình thức nhất định thì nội dung mãi chỉ là ý chí, mong muốn trong tiềm thức của con người. Với đặc điểm như vậy hình thức có một ý nghĩa khá quan trọng trong thế giới khách quan. Yếu tố cơ bản để tạo ra giao dịch dân sự là ý chí của chủ thể, sự bày tỏ ý chí ra bên ngoài và sự thống nhất giữa các yếu tố đó với nhau. Ý chí là nguyện vọng và sự mong muốn của chủ thể, không phải lúc nào người khác cũng có thể nhận biết hay nhận thấy được. Vì vậy, ý chí cần phải được biểu đạt ra bên ngoài, để các bên có thể biết được và chấp nhận ý chí của nhau. Khi các bên đã thống nhất ý chí với nhau và biểu đạt sự thống nhất đó bằng một hình thức nhất định thì đây được coi là hình thức của giao dịch dân sự. Hình thức của giao dịch dân sự có vai trò là sự công bố ý chí của chủ thể tham gia giao dịch, là cách thức để truyền đạt thông tin với chủ thể không tham gia về sự xác lập giao dịch. Đồng thời, hình thức giao dịch dân sự ngoài việc là phương tiện thể hiện nội dung của giao dịch dưới một dạng vật chất
  • 24. 19 nhất định như: nói, viết, hành vi cụ thể thì còn là những thủ tục, cách thức tạo nên giao dịch theo quy định của pháp luật. Ví dụ: hợp đồng mua bán nhà ngoài việc bắt buộc lập thành văn bản thì phải được tạo lập bằng các thủ tục công chứng hoặc chứng thực theo quy định của nhà nước. Tóm lại, theo tác giả thì khái niệm hình thức giao dịch dân sự được hiểu như sau: “Hình thức giao dịch dân sự là sự biểu hiện ra bên ngoài của nội dung giao dịch dân sự”. Thông qua các biểu hiện này có thể hiểu được nội dung của giao dịch. Tại Điều 124 BLDS 2005 có quy định về hình thức giao dịch dân sự như sau: “Giao dịch dân sự được thể hiện bằng lời nói, bằng văn bản hoặc bằng hành vi cụ thể. Giao dịch dân sự thông qua phương tiện điện tử dưới hình thức thông điệp dữ liệu được coi là giao dịch bằng văn bản…Trong trường hợp pháp luật quy định giao dịch dân sự phải được thể hiện bằng văn bản, phải có công chứng hoặc chứng thực, phải đăng ký hoặc xin phép thì phải tuân theo các quy định đó”. Như vậy, có một số loại giao dịch đơn thuần, chủ thể tham gia có thể lựa chọn bất kỳ hình thức giao dịch nào. Nhưng đối với những giao dịch dân sự đặc biệt và có giá trị lớn thì nhà nước đã quy định giao dịch đó phải tuân thủ một hình thức nhất định. Sở dĩ có quy định như vậy là để nhà nước kiểm soát sự chuyển dịch tài sản trong xã hội và đảm bảo trật tự kinh tế thị trường. Hình thức giao dịch được quy định trong pháp luật của hầu hết các quốc gia. Nhưng cách thể hiện và sự thừa nhận yếu tố này trong pháp luật của các nước lại không giống nhau. Trên thế giới việc quy định về hình thức giao dịch dân sự đang được tiếp cận ở hai khuynh hướng. Thứ nhất, một số nước quy định hình thức nhất định cho một số loại giao dịch, nếu vi phạm quy định này thì giao dịch đó vô hiệu. Tiêu biểu cho xu hướng này là: Đức, Thái Lan….Theo Điều 115 Bộ luật dân sự và thương mại Thái Lan năm 1995 thì: “Một hành vi pháp lý không theo đúng hình thức quy định của pháp luật thì vô hiệu”. Có thể nói rằng, quy định này là cơ sở để tạo nên chứng cứ khi có tranh chấp về giao dịch dân sự. Đồng thời, cũng là để
  • 25. 20 bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người dân. Tại pháp luật dân sự của các quốc gia này, hình thức của giao dịch là một yếu tố quan trọng và được các nhà làm luật xây dựng khá tỉ mỉ và chặt chẽ. Thứ hai, một số quốc gia có quy định về hình thức của giao dịch nhưng yếu tố hình thức không được coi là một điều kiện để xác định hiệu lực của giao dịch dân sự. Đại diện cho khuynh hướng này là: Pháp, Nhật Bản…Theo pháp luật Nhật Bản đã quy định: “Mặc dù nhà nước yêu cầu tuân thủ hình thức đặc biệt, thì giao dịch pháp lý vẫn hoàn toàn có đặc điểm không theo một hình thức bắt buộc nào” [12, tr.118] . Đồng thời, cũng theo nguyên tắc của BLDS Nhật Bản thì nguyên tắc tự do giao dịch dân sự thừa nhận cả việc tự do lựa chọn hình thức giao kết. Cách quy định này có ưu điểm tạo ra khung pháp luật mở cho các chủ thể tham gia giao dịch tự do lựa chọn hình thức giao dịch nhất định. Tuy nhiên, trong trường hợp xảy ra tranh chấp thì với một số giao dịch dân sự có giá trị lớn, việc không tuân thủ theo hình thức mà pháp luật quy định sẽ khiến các chủ thể không có chứng cứ đủ điều kiện pháp lý để chứng minh trước tòa. Vì vậy, trong thực tiễn khi tham gia các giao dịch quan trọng, có giá trị tài sản lớn các chủ thể thông thường đều chọn hình thức giao dịch bằng văn bản hoặc cẩn trọng hơn là văn bản có công chứng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Hoặc như theo quy định của BLDS Pháp cũng không coi hình thức là điều kiện chủ yếu để xác định một hợp đồng có hiệu lực. Điều 1108 BLDS Pháp có quy định về bốn điều kiện cần thiết để hợp đồng có hiệu lực như sau: có sự thỏa thuận của các bên cam kết; có năng lực giao kết hợp đồng; sự cam kết có đối tượng xác thực; nghĩa vụ có căn cứ hợp pháp. Trong BLDS Pháp không có điều luật nào quy định việc hợp đồng không tuân thủ quy định về hình thức thì sẽ bị vô hiệu. Theo nhận định của tác giả thì quy định về hình thức giao dịch dân sự tại BLDS 2005 là khá phù hợp so với thời điểm hiện nay. Các nhà làm luật đã chú trọng đến hình thức mới của giao dịch dân sự trong thời kỳ hiện đại như: hình thức thông điệp dữ liệu (telex, fax…), mở rộng hành lang pháp lý cho
  • 26. 21 các chủ thể tham gia giao dịch tự do lựa chọn hình thức giao dịch phù hợp với mình. Đồng thời, quy định vẫn thể hiện bản chất của pháp luật là quy tắc xử sự chung nhằm đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của chủ thể tham gia giao dịch bằng cách bắt buộc một số giao dịch phải tuân theo hình thức pháp luật đã quy định. Theo quy định của pháp luật Việt Nam đối với những giao dịch quy định hình thức là điều kiện bắt buộc thì hình thức cũng là một trong những yếu tố để xác định hiệu lực của giao dịch đó. Việc quy định này đã gây ra nhiều bất cập và vướng mắc khi áp dụng trong thực tiễn. Tại nhiều nước trên thế giới thì vẫn có những quy định bắt buộc về mặt hình thức đối với một số loại giao dịch như chúng ta nhưng ý nghĩa của việc quy định đó là nhằm minh bạch hóa giao dịch (đảm bảo quyền lợi của người thứ ba) hoặc mục tiêu quản lý hành chính (quản lý, thống kê của cơ quan nhà nước và mục tiêu để hình thức được xác định là điều kiện có hiệu lực của giao dịch chỉ quy định trong những trường hợp rất đặc biệt. Tác giả cũng đồng tình với quan điểm này và thấy rằng các nhà làm luật có thể kế thừa, xây dựng quy định về hình thức giao dịch dân sự theo kinh nghiệm trên. 1.3. Quy định về hình thức giao dịch dân sự trong pháp luật Việt Nam qua các thời kỳ 1.3.1. Hình thức giao dịch dân sự trong các đạo luật phong kiến Việt Nam Giao dịch dân sự đã phát sinh từ khi con người biết trao đổi hàng hóa nhưng trong các đạo luật phong kiến Việt Nam đều không có khái niệm giao dịch dân sự. Tuy nhiên, dưới góc độ khoa học pháp lý các nhà khoa học đã chỉ ra rằng, về bản chất giao dịch dân sự đã được thể hiện ở các khái niệm như: khế ước, mua, bán, cho, cầm….. và vấn đề thừa kế theo di chúc. Vì vậy, để có thể tìm hiểu rõ hơn các quy định về hình thức của giao dịch dân sự trong thời đại phong kiến, tác giả sẽ đi sâu phân tích một số bộ luật tiêu biểu cho thời kỳ lịch sử này. 1.3.1.1. Quốc triều hình luật
  • 27. 22 Theo sử gia Phan Huy Chú thì Quốc triều hình luật là mẫu mực để trị nước, cái khuôn pháp để buộc dân. Đây là bộ luật hình chính thức và quan trọng nhất của triều đại nhà Lê (1428-1788). Theo các nhà khoa học pháp lý, tuy Quốc triều hình luật là bộ luật Hình nhưng lại có rất nhiều quy định về di chúc– những hoạt động đặc trưng của giao dịch dân sự. Trong Quốc triều hình luật không sử dụng khái niệm “khế ước” như một số bộ luật thời phong kiến khác mà thường dùng khái niệm cụ thể như mua, bán, cho, cầm….hoặc đặc biệt hơn là “văn khế”. Ví dụ như: “Con gái và những trẻ mồ côi tự bán mình mà không có ai bảo lĩnh thì người mua cùng người viết văn khế, người làm chứng bị xử tội xuy, trượng như luật (đàn bà đánh 50 roi, đàn ông đánh 80 trượng), đòi lại tiền trả cho người mua và hủy bỏ văn khế. Nếu những người cô độc, cùng khốn từ 15 tuổi trở lên tình nguyện bán mình thì cho phép” (Điều 313); “Bán mắm muối cho người nước ngoài thì bị lưu đi châu xa (Điều 76)… Về nguyên tắc thực hiện giao dịch trong Quốc triều tuy không được đề cập đến trực tiếp nhưng thông qua các điều luật, tác giả nhận thấy tính tự nguyện và sự thỏa thuận cũng được tuân thủ. Ví dụ: “Người nào ức hiếp để mua ruộng đất của người khác thì bị biếm hai tư và cho lấy lại tiền mua” (Điều 355). Đối với hình thức của các giao dịch được quy định trong Quốc triều hình luật khá chi tiết. Có thể thấy rằng, về nguyên tắc với những giao dịch đơn giản trong cuộc sống hàng ngày như mua bán tài sản có giá trị thấp, ít quan trọng: mua bán thực phẩm với số lượng ít; mua bán lương thực với số lượng ít….thì không cần lập văn tự. Người mua và người bán có thể tự do thỏa thuận mua bán bằng lời nói. Bên cạnh đó, trong rất nhiều trường hợp Quốc triều hình luật đã quy định rõ ràng về hình thức của các giao dịch với giá trị tài sản lớn như: mua bán đất, nhà, ruộng, vườn….Để đảm bảo tính công bằng, minh bạch trong các giao dịch, bộ luật Quốc triều hình luật đã có những quy định mang tính
  • 28. 23 khuyến cáo đối với người dân như: “Văn tự là bằng chứng để chứng minh khi xảy ra tranh chấp” (Điều 366). Đây được coi là điểm khá tiến bộ của luật pháp thời kỳ này. Tuy nhiên, Bộ luật lại chỉ quy định văn tự chỉ lập một bản và do một bên giữ. Đây là một điểm còn hạn chế của luật pháp thời phong kiến do không dự kiến được các hậu quả pháp lý khi văn tự có thể bị mất, hỏng hoặc một bên cố tình hủy đi văn tự. Khi đó việc chứng minh và bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho các chủ thể tham gia giao dịch sẽ rất khó khăn. Trong xã hội phong kiến có khá đông người dân không biết chữ, do vậy bộ luật cũng đã quy định đối với người giao kết giao dịch không biết chữ thì có thể nhờ người viết thay. Và việc viết thay văn tự phải có người chứng kiến để đảm bảo khách quan, đúng nội dung đã thỏa thuận. Những người viết thay phải ký vào văn tự. Theo Điều 366 Quốc triều hình luật có quy định cụ thể như sau: “ những người làm chúc thư hay văn khế mà không nhờ các quan trưởng trong làng viết thay và chứng kiến thì phải phạt 80 trượng và phạt tiền tùy theo việc nặng nhẹ. Chúc thư hay văn khế ấy sẽ không có giá trị. Nếu biết chữ mà viết lấy thì được”. Người không biết chữ dưới thời kỳ nhà Lê hay dưới thời kỳ phong kiến là khá phổ biến. Trong thực tế thì người không biết chữ sẽ nhờ viết thay văn tự và điểm chỉ vào văn bản. Điều này rất phổ biến trong xã hội thời bấy giờ. Vì vậy, tác giả nhận thấy Quốc triều hình luật khá chú trọng đến những chủ thể này. Đồng thời cũng chứng minh tính khoa học và tiến bộ của trình độ lập pháp của nhà Lê. Quy định này đã bảo vệ sự công bằng cho người không biết chữ. Nó cũng thể hiện chế tài khá nghiêm ngặt của chế độ phong kiến. Trong thời kỳ ngày nay, nếu vi phạm về mặt hình thức của giao dịch các chủ thể tham gia chỉ phải gánh chịu sự vô hiệu của giao dịch dân sự. Nhưng dưới thời phong kiến chế tài còn bao gồm cả hình phạt đánh và phạt tiền. Chúng ta có thể nhìn thấy bản chất của chế độ phong kiến trong những quy định về chế tài nghiêm ngặt này.
  • 29. 24 Không chỉ chú trọng vào mặt hình thức của giao dịch dân sự, Quốc triều hình luật còn quy định một số giao dịch phải tuân theo một trình tự nhất định, thể hiện sự quản lý chặt chẽ của chế độ phong kiến. Ví dụ: việc mua nô tỳ phải lập thành văn tự. Sau đó phải trình quan để xét hỏi lại (Điều 363).Việc quy định trình tự giao dịch như trên đã giúp cho bộ máy quan lại thời phòng kiến có thể kiểm soát hầu hết các giao dịch lớn liên quan đến tài sản của người dân. Đồng thời nó cũng thể hiện hình thức quản lý của bộ máy nhà nước thời kỳ nhà Lê. 1.3.1.2. Bộ Luật Gia Long Bộ luật Gia Long được ban hành năm 1813 dưới thời nhà Nguyễn và được đánh giá là một bộ luật hoàn chỉnh và đẩy đủ nhất của chế độ phong kiến Việt Nam. Bộ luật gồm 398 điều, trong đó về việc dân có 11 điều; ruộng, nhà có 10 điều; về hôn nhân có 16 điều; cho vay tiền có 3 điều. Trong thời đại phong kiến Việt Nam không có khái niệm về giao dịch, chỉ nêu các loại khế ước chung như: mua, bán, cho thuê, cho vay… và chế định về thừa kế. Về nguyên tắc, các bên có thể lựa chọn hình thức của khế ước. Cũng giống như Quốc triều hình luật, đối với những vật có giá trị như ruộng, đất, trâu, bò, nhà ở… hoặc một số tiền lớn thì các bên thường lập thành một văn khế để làm bằng chứng và do người trái chủ giữ. Đối với sự vay nợ đơn thuần, hình thức của khế ước có thể chỉ là một sự vay miệng, không làm giấy tờ, nếu số tiền hoặc số thóc cho vay không lớn, đặc biệt là vay ngắn hạn. Đây là nguyên tắc chung trong xã hội thời bấy giờ còn đối với bộ luật Gia Long không có một điều nào quy định về hình thức của khế ước. 1.3.2. Quy định về hình thức giao dịch dân sự dƣới thời Pháp thuộc Thực dân Pháp nổ súng xâm lược nước ta vào năm 1958, vua quan nhà Nguyễn đã thỏa hiệp và đầu hàng. Đất nước ta bước vào thời kỳ bị thực dân Pháp đô hộ. Chúng đã ban hành ba BLDS áp dụng cho ba miền của nước ta là: Bộ dân luật giản yếu Nam Kỳ (ban hành năm 1883), Bộ dân luật Bắc kỳ (ban hành năm 1931), Bộ luật Hoàng Việt Trung kỳ (ban hành năm 1936).
  • 30. 25 Các bộ luật trong thời kỳ Pháp thuộc cũng chưa đề cập đến khái niệm giao dịch dân sự. Định nghĩa khế ước vẫn được sử dụng rộng rãi trong văn bản pháp luật và trong nhân dân. Theo Điều 680 của Bộ luật Hoàng Việt Trung kỳ đã đưa ra khái niệm pháp lý về khế ước như sau: “Khế ước là một hiệp ước của một người hay nhiều người cam đoan với một hay nhiều người khác để chuyển giao, để làm hay không làm cái gì”. Thông qua khái niệm này thì khế ước thực chất là sự thỏa thuận giữa ít nhất hai người để xác lập quyền, nghĩa vụ của người này đối với người khác và ngược lại. Từ đó chuyển giao tài sản từ người này sang người khác, để làm một việc hoặc không làm một việc cụ thể. Có thể thấy rằng khái niệm khế ước này có bản chất tương đương với khái niệm hợp đồng trong Bộ luật dân sự hiện hành. Pháp luật dân sự trong thời kỳ này không có quy định riêng rẽ về mặt hình thức của khế ước. Tuy nhiên, đối với một số loại khế ước thì các nhà làm luật vẫn quy định những hình thức nhất định cho loại giao dịch cụ thể đó. Có thể xem xét một loại khế ước dưới đây: Khế ước sinh thời tặng dữ được quy định tại Điều 951 của Bộ Hoàng Việt Trung kỳ: “Sinh thời tặng dữ là một khế ước do bên tặng chủ bỏ đứt ngay một tài sản gì để cho bên người thụ tặng nhận lấy”. Theo quy định của Bộ Hoàng Việt Trung kỳ đã có sự phân biệt hình thức của khế ước tặng dữ giữa bất động sản và động sản. Đối với bất động sản phải lập thành văn bản có viên chức thị thực trước mặt người thụ tặng và người này phải đồng ý mới có hiệu lực. Đối với việc tặng dữ vật là động sản hoặc tiền bạc không đòi hỏi phải có hình thức nhất định, bởi vì có thể trao tay vật mà không cần lập văn bản. Có thể thấy quy định này rất gần so với quy định của Bộ luật dân sự hiện hành về việc cho tặng bất động sản. Bởi lẽ, bất động sản là vật có giá trị lớn, việc có sự làm chứng của viên chức thời bấy giờ hoặc công chứng viên thời nay giúp đảm bảo công bằng cho các chủ thể tham gia giao dịch. Đồng thời, cũng thể hiện sự quản lý của nhà nước đối với tài nguyên bất động sản của nước ta.
  • 31. 26 Pháp luật về thừa kế được quy định trong các bộ dân luật Bắc kỳ và Hoàng Việt Trung kỳ. Theo quy định tại Hoàng Việt Trung kỳ thì hình thức của chúc thư được quy định như sau: “Việc lập chúc thư phải bằng văn bản hoặc do viên quản lý văn khế làm ra hoặc có công chứng thị thực. Chúc thư không có người thị thực phải do người lập di chúc viết giấy và ký tên, nếu người lập chúc thư không thể viết được và đọc cho người khác viết thay thì phải có ít nhất hai người đã thành niên trở lên làm chứng, thông thường một trong hai người đó là lý trưởng”. Như vậy, việc quy định hình thức của chúc thư trong thời kỳ này khá chặt chẽ, nhằm đảm bảo quyền lợi hợp pháp cho người để lại di sản và người thừa kế. 1.3.3. Quy định về hình thức giao dịch dân sự thời kỳ 1945 đến Bộ luật dân sự 1995 Trong giai đoạn từ năm 1945 đến khi ban hành Bộ luật dân sự 1995 đất nước ta có nhiều biến động lịch sử. Vì vậy, pháp luật cũng có những điều chỉnh, thay đổi không nhỏ. Năm 1945, đất nước ta giành được độc lập và thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Trong lúc đất nước còn bộn bề rối ren và nhiều khó khăn, chưa có điều kiện để ban hành tất cả các luật mới thay thế những bộ luật cũ. Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh 90/SL cho phép tạm sử dụng một số luật lệ ban hành ở bắc Trung Nam với điều kiện những luật lệ ấy không trái với nguyên tắc độc lập của nước Việt Nam. Do vậy, các văn bản pháp luật dân sự từ thời Pháp thuộc vẫn được tiếp tục sử dụng. Tuy nhiên, sau một thời gian áp dụng do có nhiều quy định trong các bộ luật cũ không còn phù hợp với tình hình lịch sử thời bây giờ, cho nên sau khi có Hiến pháp 1959, Tòa án tối cao đã ra Chỉ thị số 772/CY-TATC về việc đình chỉ áp dụng luật lệ của đế quốc, phong kiến. Thời kỳ này việc điều chỉnh các quan hệ dân sự sẽ do các văn bản sau điều chỉnh: Sắc lệnh 97/SL ngày 22- 5-1950; Chỉ thị số 4/DS ngày 14/10/1963 của Tòa án tối cáo về đường lối giải quyết những giao dịch hợp pháp và bất hợp pháp…Có thể nói, hình thức của
  • 32. 27 giao dịch dân sự không được chú trọng quan tâm và đề cập đến trong các văn bản pháp luật trên đây. Cho đến thời kỳ nước ta chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hóa sang kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa đã có hàng loạt các văn bản ra đời điều chỉnh các quan hệ giao dịch dân sự, phải kể đến như: Pháp lệnh hợp đồng dân sự có hiệu lực ngày 1-7-1991; Pháp lệnh nhà ở ngày 26-3-1991; Pháp lệnh thừa kế ngày 10-9-1990… Trong thời kỳ này, thuật ngữ “khế ước” đã được thay bằng thuật ngữ “hợp đồng dân sự”. Theo đó thì hợp đồng dân sự là sự thoả thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ của các bên trong mua bán, thuê, vay, mượn, tặng cho tài sản; làm hoặc không làm một việc, dịch vụ hoặc các thoả thuận khác mà trong đó một hoặc các bên nhằm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt, tiêu dùng [49, Điều 1]. Đồng thời, hình thức của hợp đồng cũng được quy định thành một điều luật riêng rẽ tại Pháp lệnh hợp đồng dân sự 1991 như sau: “1. Các bên có thể giao kết hợp đồng bằng miệng hoặc bằng văn bản. 2. Đối với các loại hợp đồng mà pháp luật quy định phải lập thành văn bản, đăng ký, hoặc có chứng thực của cơ quan công chứng Nhà nước, thì các bên phải tuân theo các quy định đó.” Đối với vấn đề thừa kế tại Pháp lệnh thừa kế năm 1990 đã có những quy định khá chi tiết, cụ thể đối với hình thức của di chúc tại Điều 14 về Di chúc viết được cơ quan công chứng hoặc Ủy ban nhân dân chứng thực như sau: 1. Người lập di chúc có thể yêu cầu cơ quan công chứng hoặc Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn chứng thực bản di chúc. 2. Người lập di chúc có thể tự viết hoặc nhờ người khác viết bản di chúc, nhưng người lập di chúc phải ký hoặc điểm chỉ trước mặt người có trách nhiệm chứng thực của cơ quan công chứng hoặc Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn.
  • 33. 28 3. Trong trường hợp người lập di chúc không đọc bản di chúc được, không ký hoặc điểm chỉ được thì phải nhờ người chứng kiến. Người chứng kiến đọc bản di chúc cho người lập di chúc nghe và ký vào bản di chúc trước mặt người có trách nhiệm chứng thực của cơ quan công chứng hoặc Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn. 4. Người có trách nhiệm của cơ quan công chứng hoặc Ủy ban nhân dân chứng thực vào bản di chúc trước mặt người lập di chúc, người chứng kiến. Có thể nhận thấy rằng, tại Pháp lệnh thừa kế 1990 khá chú trọng tới hình thức của di chúc. Không chỉ ở việc di chúc phải được lập thành văn bản mà còn cần tới sự chứng thực của cơ quan công chứng hoặc Ủy ban nhân dân cấp xã. Tuy nhiên, nếu để các quy định về dân sự nói chung hoặc giao dịch dân sự nói riêng rải rác ở các văn bản pháp luật sẽ tạo ra sự thiếu sót và không đồng bộ trong quá trình áp dụng pháp luật dân sự. Đồng thời, để thúc đẩy giao lưu dân sự, phát triển nền kinh tế thì sự ra đời của BLDS là cần thiết. Vì vậy, nhà nước ta đã ban hành BLDS năm 1995 để xỏa bỏ những quy định còn lạc hậu, cổ hủ của chế độ phong kiến và ban hành những quy định mới cho phù hợp với tình hình đất nước. Giao dịch dân sự được các nhà làm luật chú trọng và xây dựng khá chặt chẽ. Tại bộ luật này, khái niệm giao dịch dân sự đã được xây dựng một cách khái quát và khá chính xác: “Giao dịch dân sự là hành vi pháp lý đơn phương hoặc hợp đồng của cá nhân, pháp nhân và của các chủ thể khác nhằm làm phát sinh thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự” [8, Điều 130]. Trong đó, hình thức của giao dịch dân sự được quy định khái quát, chi tiết và tỉ mỉ hơn các văn bản pháp luật trước đó. Bộ luật dân sự 1995 đã dành hẳn một điều luật để quy định về hình thức của giao dịch dân sự: Điều 133. Hình thức giao dịch dân sự
  • 34. 29 Giao dịch dân sự được thể hiện bằng lời nói, bằng văn bản hoặc bằng hành vi cụ thể. Trong trường hợp pháp luật có quy định giao dịch dân sự phải được thể hiện bằng văn bản, phải được Công chứng nhà nước chứng nhận, được chứng thực, đăng ký hoặc phải xin phép, thì phải tuân theo các quy định đó. Thông qua điều luật này, tác giả nhận thấy việc quy định hình thức của giao dịch dân sự đã cụ thể và có những tiến bộ hơn so với các văn bản pháp luật thời kỳ phong kiến và pháp thuộc. Bộ luật dân sự 1995 quy định bốn hình thức thể hiện của giao dịch dân sự như sau: (i) Hình thức lời nói: thỏa thuận hợp đồng hoặc tuyên bố ý chí của mình bằng lời nói; (ii) Hình thức văn bản: ký kết giao dịch hoặc thể hiện tuyên bố ý chí bằng văn bản; (iii) Hình thức bằng hành vi cụ thể: hành vi giao kết hợp đồng hoặc tuyên bố ý chí bằng một hành vi. Ví dụ: hành vi mua hàng qua máy bán hàng tự động, hành vi gọi điện thoại công cộng thanh toán bằng thẻ….; (iiii) Hình thức văn bản có chứng nhận của công chứng hoặc chứng thực. Về nguyên tắc, BLDS 1995 quy định các chủ thể khi tham gia giao dịch tự do lựa chọn hình thức giao dịch dân sự. Tuy nhiên khi pháp luật có quy định hình thức đối với một số loại giao dịch cụ thể thì phải tuân theo. Nếu các chủ thể không tuân theo thì sẽ vi phạm một trong các điều kiện có hiệu lực của giao dịch và giao dịch đó sẽ trở nên vô hiệu. Ví dụ: hợp đồng mua bán nhà ở phải lập thành văn bản, có chứng nhận của công chứng hoặc chứng thực của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Nhưng pháp luật cũng đã có những điểm mở để giao dịch khi không tuân thủ quy định về hình thức của pháp luật có thể sửa chữa, khắc phục: “ Trong trường hợp pháp luật quy định giao dịch dân sự vô hiệu, nếu không được thể hiện bằng văn bản, không có Công chứng nhà nước chứng nhận, không được chứng thực, đăng ký hoặc cho phép thì theo yêu cầu của một hoặc các bên, Tòa án, cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác quyết định buộc cá bên thực hiện quy định về hình thức của giao dịch
  • 35. 30 trong một thời hạn; quá thời hạn đó mà không thực hiện, thì giao dịch vô hiệu. Bên có lỗi làm cho giao dịch vô hiệu phải bồi thường thiệt hại” [8, Điều 139]. Việc quy định như trên cho thấy rằng quan điểm pháp luật của nhà nước ta thời kỳ này đã chú ý đến hình thức của giao dịch dân sự . Các nhà làm luật đã hiểu rằng quy định hình thức bắt buộc cho những giao dịch có tài sản lớn, quan trọng sẽ góp phần ổn định trật tự xã hội và là công cụ pháp lý bảo đảm cho các chủ thể tham gia giao dịch. Tóm lại, việc quy định về hình thức giao dịch dân sự tại BLDS 1995 còn thiếu quy định về các hình thức giao dịch trong thời hiện đại: telex, fax, điện báo,…Ngoài ra, đối với việc thực hiện quy định khắc phục đối với giao dịch chưa tuân thủ về mặt hình thức tại Điều 139 cũng còn nhiều bất cập. Hơn nữa, phải kể đến hai văn bản hướng dẫn của Hội đồng thẩm phán TANDTC là: Nghị quyết số 01/2003/NQ-HĐTP ngày 16/04/2003 hướng dẫn áp dụng pháp luật trong việc giải quyết một số loại tranh chấp dân sự, hôn nhân và gia đình và Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/08/2004 hướng dẫn áp dụng trong việc giải quyết của vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình. Đây đều là hai văn bản quan trọng nhưng lại thiếu vắng các quy định cụ thể về hình thức của giao dịch dân sự. Tại Nghị quyết số 01/2003/NQ-HĐTP chỉ có một quy định hướng dẫn về trường hợp hợp đồng mua bán nhà ở vô hiệu do không tuân thủ các điều kiện về hình thức như sau: Đối với hợp đồng mua bán nhà ở vô hiệu do không tuân thủ điều kiện về hình thức của hợp đồng, khi có tranh chấp và theo yêu cầu của một hoặc các bên Toà án áp dụng Điều 139 BLDS để ra quyết định buộc một hoặc các bên phải đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong thời hạn một tháng, kể từ ngày Toà án ra quyết định thực hiện các thủ tục để hoàn thiện về hình thức của hợp đồng. Nếu có một bên đương sự vắng mặt thì thời hạn này tính từ ngày bên đương sự vắng mặt nhận được quyết định của Toà án. Trong trường hợp có sự kiện bất khả kháng hoặc có trở ngại khách quan, thì thời gian có sự kiện bất khả
  • 36. 31 kháng hoặc có trở ngại khách quan không tính vào thời hạn một tháng đó. Quá thời hạn một tháng mà họ không đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền để thực hiện các thủ tục để hoàn thiện về hình thức của hợp đồng thì Toà án tuyên bố hợp đồng vô hiệu. Bên có lỗi làm cho hợp đồng bị vô hiệu do vi phạm điều kiện về hình thức vì không thực hiện theo quyết định của Toà án thì phải bồi thường thiệt hại theo quy định tại Điều 146 BLDS. Mặc dù hướng dẫn này đã thống nhất về mặt lập pháp với việc áp dụng Điều 139 BLDS 1995 nhưng khi áp dụng trong thực tiễn lại bộc lộ khá nhiều bất cập. Quy định này vô tình đã tạo điều kiện cho bên muốn Tòa án tuyên giao dịch vô hiệu có thể dùng cách không hoàn thiện các thủ tục về mặt hình thức của hợp đồng trong vòng một tháng nhằm đạt được mục đích của mình. Tóm lại, bên cạnh những thiếu sót thì BLDS 1995 cũng góp phần mở ra một thời đại mới của pháp luật dân sự Việt Nam, đặc biệt là sự quan tâm đối với chế định giao dịch dân sự.
  • 37. 32 KẾT LUẬN CHƢƠNG I 1. Chế định giao dịch dân sự là một chế định được các nhà làm luật chú trọng xây dựng trong thời kỳ hiện nay. Bởi lẽ, giao dịch dân sự là phương tiện pháp lý quan trọng để cho các công dân thỏa mãn nhu cầu vật chất, tinh thần của mình. Trải qua các thời kỳ phát triển của pháp luật Việt Nam từ xưa đến nay cho dù thuật ngữ giao dịch dân sự mới xuất hiện bắt đầu Bộ luật dân sự 1995 nhưng các thuật ngữ chỉ bản chất của giao dịch dân sự đã xuất hiện từ thời kỳ pháp luật phong kiến như: khế ước, mua, bán, cho, tặng và hành vi lập chúc thư… 2. Hình thức giao dịch dân sự bao gồm thể thức trình bày giao dịch dân sự như: lời nói, văn bản, hành vi…và thủ tục tạo lập giao dịch theo quy định của pháp luật như: văn bản có công chứng, chứng thực, đăng ký, xin phép. 3. Hình thức giao dịch dân sự đã được quy định trong hầu hết các văn bản pháp luật có quy định về giao dịch dân sự từ trước tới nay của nước ta. Càng về thời kỳ hiện đại, hình thức giao dịch dân sự lại được quy định chi tiết và rõ ràng hơn.
  • 38. 33 Chƣơng 2 HÌNH THỨC GIAO DỊCH DÂN SỰ THEO QUY ĐỊNH HIỆN HÀNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM 2.1. Các hình thức giao dịch dân sự 2.1.1. Hình thức bằng lời nói Giao dịch dân sự có hình thức lời nói là những giao dịch dân sự được giao kết dưới hình thức ngôn ngữ nói, bằng lời hay còn gọi là giao dịch dân sự bằng miệng. Để diễn đạt tư tưởng và ý kiến của mình trong việc xác lập giao dịch dân sự các bên giao kết sẽ dùng lời nói trực tiếp hoặc thông qua các phương tiện công nghệ thông tin như: thông qua điện thoại, gửi thông điệp điện tử.... Đặc điểm của hình thức giao dịch dân sự bằng lời nói là việc sử dụng ngôn ngữ giao tiếp thông thường hàng ngày để xác lập giao dịch và hầu như chỉ các bên tham gia giao dịch biết về sự tồn tại của nó. Các trường hợp giao dịch thường sử dụng hình thức bằng lời nói là: Thứ nhất, hình thức giao dịch bằng lời nói được áp dụng giữa các bên tham gia có độ tin cậy lẫn nhau. Sự tin cậy này bắt nguồn từ các quan hệ như: bạn bè thân thiết, quan hệ ruột thịt, hàng xóm láng giềng… Sự tin tưởng giữa các chủ thể ở đây đóng vai trò như là một nhân tố chủ quan bổ xung thêm cho sự xác thực của hình thức miệng. Thứ hai, hình thức giao dịch bằng lời nói được áp dụng với những giao dịch có giá trị rất nhỏ. Các bên không thể lựa chọn hình thức nào tối ưu hơn hình thức lời nói đối với các giao dịch như: mua mớ rau, mượn chiếc xe đạp…Việc lựa chọn hình thức giao dịch khác trong trường hợp thực sự không cần thiết. Thứ ba, giao dịch được thực hiện và chấm dứt ngay sau đó cũng thường được áp dụng hình thức lời nói. Các hợp đồng bán lẻ hàng tiêu dùng là trường
  • 39. 34 hợp phổ biến áp dụng hình thức này. Các bên sẽ thỏa thuận miệng về số lượng, giá cả, chất lượng hàng hóa… và khi bên bán giao hàng thì bên mua nhận hàng và trả tiền ngay. Giao dịch đến đây là thực hiện xong và chấm dứt. Ưu điểm của việc giao dịch dân sự bằng hình thức lời nói là việc giao kết được nhanh gọn, đơn giản và ít tốn kém. Trừ những loại giao dịch pháp luật có quy định bắt buộc về một hình thức nhất định thì các loại giao dịch dân sự đều có thể được lập bằng lời nói. Có những trường hợp đặc biệt pháp luật quy định bắt buộc phải được lập bằng hình thức có tính xác thực cao hơn như văn bản nhưng nhờ ưu điểm nhanh gọn của hình thức lời nói thì các nhà làm luật đã quy định việc có thể sử dụng hình thức lời nói khi giao dịch và phải kèm theo điều kiện nhất định. Ví dụ: Điều 651 BLDS 2005 đã quy định về hình thức di chúc miệng như sau: “Trong trường hợp tính mạng một người bị cái chết đe dọa do bệnh tật hoặc các nguyên nhân khác mà không thể lập di chúc bằng văn bản thì có thể di chúc miệng”. Xem xét quy định tại Điều 651 BLDS 2005 trên đây, di chúc có thể được lập bằng hình thức lời nói (miệng), nhưng chỉ khi hội tụ đủ các điều kiện sau đây thì nó mới được coi là hợp pháp: - Được lập trong trình trạng một người bị cái chết đe dọa hoặc các nguyên nhân khác mà không thể lập di chúc bằng văn bản; - Người lập di chúc miệng phải thể hiện ý chí trước hai người làm chứng; -Ngay sau khi nghe người lập di chúc miệng thể hiện ý chí thì người làm chứng phải ghi chép lại và ký tên hoặc điểm chỉ vào văn bản đó; -Dưới ba tháng sau khi lập di chúc, người lập di chúc miệng chết. -Trong thời hạn 5 ngày kể từ ngày người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng thì di chúc phải được công chứng hoặc chứng thực. Như vậy, do tính xác thực của hình thức giao dịch bằng lời nói không cao nên đối với các loại giao dịch quan trọng như hành vi lập di chúc các nhà
  • 40. 35 làm luật đã quy định chặt chẽ cách thức sử dụng hình thức này để nhằm để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho các chủ thể. Trong thực tế đã có những vụ án kéo dài do tranh chấp di sản thừa kế vì di chúc được lập bằng hình thức lời nói (miệng) khiến cho các bên tham gia tốn nhiều công sức, tiền của và thời gian. Chúng tôi xin nêu ví dụ cụ thể sau: Vụ án tranh chấp thừa kế giữa nguyên đơn là chị Vũ Thị Kim Ty và bị đơn là chị Vũ Thị Kim Liên. Nội dung vụ án: Vợ chồng ông Vũ Vân Nam và bà Võ Thị Kim Anh có 6 người con chung là chị Vũ Thị Kim Loan, chị Vũ Thị Kim Liên, chị Vũ Thị Kim Linh, chị Vũ Thị Kim Cúc, chị Vũ Thị Kim Ty và anh Vũ Vân Trung. Ngoài ra, ông Nam còn chung sống với bà Nguyễn Thị Kim Loan có ba người con là anh Trần Thế Hùng, chị Trần Thị Bích Phương và chị Trần Thị Bích Hạnh. Ông Nam và bà Kim Anh tạo lập được căn nhà số 215A, quận Bình Thạnh. Bà Kim Anh chết không để lại di chúc. Sau khi bà Kim Anh chết, ông Nam tạo lập thêm được căn nhà số 179/2A tại quận Bình Thạnh, 01 xe ô tô 4 chỗ hiệu Mercedes và một số đồ dùng sinh hoạt. Ông Nam lập di chúc bằng văn bản chia thừa kế cho 6 người con chung của ông với bà Kim Anh 2/3 giá trị căn nhà số 215A, quận Bình Thạnh, còn lại 1/3 giá trị nhà số 215A giao cho chị Vũ Thị Kim Linh quản lý, sử dụng, dùng một phần để thờ cúng tổ tiên, một phần để chia cho 3 con riêng của ông Nam với bà Nguyễn Thị Kim Loan là anh Hùng, chị Phương và chị Hạnh (khi anh Hùng, chị Phương, chị Hạnh đến tuổi trưởng thành). Do bị bệnh nặng nên trước khi chết ông Nam lập di chúc miệng (có hai người làm chứng, ghi lại thành văn bản) để lại căn nhà số 179/2A tại quận Bình Thạnh và chiếc xe ô tô Mercedes cho chị Vũ Thị Kim Ty và chị Vũ Thị Kim Linh, ông Nam chết lúc 10h10 phút cùng ngày. Nay chị Ty yêu cầu chia thừa kế tài sản của ông Nam theo di chúc miệng của ông Nam và yêu cầu trích giá trị tài sản của ông Nam để thanh toán cho chị các chi phí mà chị đã bỏ ra khi tổ chức đám tang, xây mộ, cúng giỗ cho ông Nam là 370.516.000 đồng và 30.000 USD.
  • 41. 36 Bị đơn trình bày: thừa nhận di chúc viết của ông Nam lập năm 1995; không thừa nhận di chúc miệng của ông Nam lập lúc 1h55 phút ngày 06/02/2002. Chị Liên không chấp nhận chi phí đám tang do chị Ty kê khai, mà cho rằng chi phí đám tang là 59.445.000 đồng, chi phí sau đám tang là 29.700.000 đồng, nhưng chị và chị Loan đã bỏ ra 48.800.000 đồng, nay hai chị không yêu cầu hoàn lại. Ngoài ra, chị Liên còn yêu cầu chia số tiền cho Công ty Vinaphon thuê sân thượng nhà 179/2A đặt trạm phát sóng, mỗi tháng 300 USD, kể từ khi ông Nam chết là 43 tháng. Tòa án cấp sơ thẩm [57, tr.4] quyết định: Hủy bỏ di chúc miệng ngày 06/02/2002. Tòa án cấp phúc thẩm [58, tr.4] quyết định: Công nhận tờ di chúc miệng do hai nhân chứng Trần Thị Ngọc Lang, Trần Thị Ngọc Hương ghi chép lại ý chí cuối cùng của ông Vũ Vân Nam vào ngày 06/02/2002 là hợp pháp. Nhận xét về vụ án: Qua vụ án này cho chúng ta thấy, việc sử dụng di chúc miệng phải tuân theo những trình tự thủ tục nhất định mới được coi là hợp pháp. Việc chứng minh di chúc miệng là hợp pháp phụ thuộc rất nhiều vào người làm chứng. Người làm chứng cần phải xác nhận người di chúc miệng có phải trong trường hợp cái chết đang đe dọa, sau khi nghe xong di chúc phải ghi lại bằng văn bản có ký tên hoặc điểm chỉ đồng thời trong thời hạn năm ngày phải mang văn bản đó đi công chứng hoặc chứng thực. Vì vậy, những chứng cứ chứng minh di chúc miệng là hợp pháp không phải lúc nào cũng rõ ràng. Trong vụ án trên mặc dù di chúc miệng của ông Nam đã được người làm chứng thực hiện đúng các thủ tục nhưng tại Bản án tòa dân sự sơ thẩm vẫn không công nhận đây là di chúc hợp pháp. Phải chăng tính xác thực pháp lý không cao là một trong những nhược điểm của hình thức di chúc miệng. Bên cạnh các ưu điểm thì việc giao dịch dân sự bằng hình thức lời nói cũng tiềm ẩn nhiều nguy cơ rủi ro về mặt pháp lý. Có thể kể đến trường hợp khi xảy ra tranh chấp một trong các bên tham gia giao dịch dân sự sẽ phủ
  • 42. 37 nhận việc đã giao kết, hoặc phủ nhận việc đã vi phạm một trong các nội dung đã giao kết. Vấn đề chứng minh sự tồn tại của giao dịch bằng lời nói rất khó khăn. Chúng tôi xin nêu ví dụ cụ thể sau: Vụ án “Tranh chấp hợp đồng mua bán” giữa nguyên đơn là ông Châu Khuôl với bị đơn là ông Dương Lền Hạo ở tỉnh Sóc Trăng Nội dung vụ án: Theo đơn khởi kiện ngày 24/2/2011và lời khai của nguyên đơn trong quá trình tố tụng ông Châu Khuôl trình bày: Do quan hệ quen biết giữa ông Châu Khuôl và ông Dương Lền Hạo có hợp đồng mua bán củ hành, thông thường hai bên giao kết thỏa thuận miệng cụ thể: nguyên đơn ông Khuôl sẽ cung cấp hành củ cho ông Hạo theo yêu cầu của ông Hạo và ông Hạo có trách nhiệm thanh toán tiền sau khi nhận hành, giá hành sẽ tính theo thời điểm giao hàng. Cụ thể các lần như sau: Ngày 09/02/2011 ông Khuôl đã bán cho ông Hạo 14.789kg hành củ, giá thỏa thuận là 21.500đồng/kg, thành tiền là 317.963.500 đồng. Ngày 15/02/2011 ông Khuôl đã bán cho ông Hạo 8.985kg hành củ, giá thỏa thuận 19.000đồng/kg, thành tiền 170.715.000 đồng.Tổng cộng hai hợp đồng trên thành tiền là 488.678.500 đồng. Ông Hạo đã thanh toán 370.000.000 đồng, nên còn nợ lại ông Khuôl 118.678.500 đồng. Nay ông Khuôl yêu cầu ông Hạo thanh toán cho ông số tiền trên, thanh toán một lần. Phía ông Dương Lền Hạo trình bày: Ông có hợp đồng thu mua hành tím với ông Khuôl, trong thời gian hợp đồng và tạm ứng, thanh toán tiền hai bên đều có mở sổ theo dõi. Cụ thể như sau: Ngày 22/01/2011 ông họp đồng với ông Khuôl mua 15 tấn hành củ giá thỏa thuận là 21.500 đồng/kg, sau khi đặt hàng ông Khuôl tạm ứng trước của ông 10.000.000đồng. Ngày 30/01/2011 ông Khuôl tạm ứng tiếp cho 10.000.000đồng. Tổng cộng đợt hàng này ông đã cho ông Khuôl tạm ứng 20.000.000đông.Ngày 08/02/2011 ông Khuôl tạm ứng thêm 100.000.000đồng.Ngày 09/02/2011 ông hợp đồng tiếp với ông Khuôl mua thêm 10 tấn hành với giá 19.000 đồng/kg. Đến ngày 10/02/2011 họp đồng mua thêm 10 tấn nữa với giá 19.500 đồng/kg và ông
  • 43. 38 Khuôl tạm ứng 100.000.000đồng, cùng ngày anh Sáng là con của ông Khuôl tạm ứng 150.000.000đồng.Tổng cộng từ ngày 22/01/2011 đến ngày 10/02/2011 phía ông Khuôl đã tạm ứng tiền của ông là 270.000.000 đồng.Ông Khuôl đã giao cho ông 14.789kg x 21.500đ = 317.963.500 đồng. Khi tính tiền ông chỉ trừ tiền tạm ứng cho ông Khuôl 170.000.000 đồng (thay vì 270.000.000 đồng số tiền ông Khuôl đã tạm ứng), ông đã trả tiếp cho ông Khuôl 147.963.500 đồng. Như vậy ông Khuôl còn nợ lại ông 100.000.000 đông.Ngày 13/02/2011 anh Sáng con của ông Khuôl bán cho ông 5 tấn hành giá 21.000đồng/kg. Ngày 15/02/2011 ông mua tiếp 8.9 85kg hành x 19.000đ/kg = 170.715.000 đồng, ông trừ tiền ông Khuôl còn thiếu 100.000.000 đồng, tiền tạm ứng l00.000.000đông. Như vậy ông Khuôl còn nợ lại ông 29.285.000 đông. Ngày 8/4/2011, ông có đơn phản tố yêu cầu ông Khuôl trả 29.285.000 đồng cho ông. Tòa án cấp sơ thẩm [59, tr.3] và phúc thẩm [60, tr.4] đều quyết định: Không chấp nhận đơn khởi kiện của ông Châu Khuôl đối với ông Dương Lền Hạo. Chấp nhận đơn yêu cầu phản tố của ông Dương Lền Hạo. Buộc ông Châu Khuôl có nghĩa vụ thanh toán cho ông Dương Lền Hạo số tiền là 29.285.000đồng . Nhận xét về vụ án: Việc mua bán hành giữa ông Khuôl và ông Hạo không có hợp đồng mua bán, hai bên chỉ có sổ theo dõi việc mua bán và tiền tạm ứng tiền thanh toán. Theo sổ của ông Khuôl thì từ ngày 22/01/2011 đến ngày 15/02/2011 ông Khuôl đã bán cho ông Hạo hai đợt hàng: ngày 09/02/2011 ông Khuôl giao cho ông Hạo số lượng hành củ là: 14.789kg x 21.500đ/kg = 317.963.500đ. Trong đơt hàng này ông Khuôl đã tạm ứng của ông Hạo là 270.000.000 đồng, nhưng ông Khuôl cho rằng ông Hạo mới trừ tiền tạm ứng là 100.000.000 đồng, nên ông Hạo chưa thanh toán số tiền mua hành còn lại cho ông Khuôl. Ngày 15/02/2011 ông Khuôl đã giao cho ông Hạo 8.985kg hành củ, giá thỏa thuận 19.000đồng/kg, thành tiền 170.715.000 đồng. Trong đợt hàng này ông Khuôl đã tạm ứng của ông Hạo 100.000.000