Nhận viết luận văn đại học, thạc sĩ trọn gói, chất lượng, LH ZALO=>0909232620
Tham khảo dịch vụ, bảng giá tại: https://vietbaitotnghiep.com/dich-vu-viet-thue-luan-van
Download luận văn thạc sĩ kinh tế chính trị với đề tài: Hiệu quả kinh tế - xã hội trong vận tải hành khách bằng xe buýt của Tổng Công ty Vận tải Hà Nội, cho các bạn làm luận văn tham khảo
Đề tài: Hiệu quả kinh tế trong vận tải hành khách bằng xe buýt
1. BỘ QUỐC PHÒNG
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ
NGUYỄN VĂN HÙNG
HIỆU QUẢ KINH TẾ - XÃ HỘI
TRONG VẬN TẢI HÀNH KHÁCH BẰNG XE BUÝT
CỦA TỔNG CÔNG TY VẬN TẢI HÀ NỘI
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ CHÍNH TRỊ
HÀ NỘI - 2014
2. BỘ QUỐC PHÒNG
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ
NGUYỄN VĂN HÙNG
HIỆU QUẢ KINH TẾ - XÃ HỘI
TRONG VẬN TẢI HÀNH KHÁCH BẰNG XE BUÝT
CỦA TỔNG CÔNG TY VẬN TẢI HÀ NỘI
CHUYÊN NGÀNH: KINH TẾ CHÍNH TRỊ
MÃ SỐ: 60 31 01 02
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. LÊ MINH VỤ
HÀ NỘI - 2014
3. MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 3
Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HIỆU QUẢ KINH TẾ - XÃ HỘI
TRONG VẬN TẢI HÀNH KHÁCH BẰNG XE BUÝT 12
1.1. Phân tích hiệu quả kinh tế - xã hội trong vận tải hành
khách bằng xe buýt 12
1.2. Tiêu chí đánh giá và các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả
kinh tế - xã hội trong vận tải hành khách bằng xe buýt 23
Chương 2 THỰC TRẠNG HIỆU QUẢ KINH TẾ - XÃ HỘI
TRONG VẬN TẢI HÀNH KHÁCH BẰNG XE
BUÝT CỦA TỔNG CÔNG TY VẬN TẢI HÀ NỘI 33
2.1.
Khái quát quá trình hình thành và phát triển của Tổng
Công ty Vận tải Hà Nội
33
2.2. Thành tựu, hạn chế về hiệu quả kinh tế - xã hội trong
vận tải hành khách bằng xe buýt của Tổng Công ty Vận
tải Hà Nội trong thời gian qua 36
Chương 3 QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM
NÂNG CAO HIỆU QUẢ KINH TẾ - XÃ HỘI
TRONG VẬN TẢI HÀNH KHÁCH BẰNG XE
BUÝT CỦA TỔNG CÔNG TY VẬN TẢI HÀ NỘI 53
3.1. Quan điểm chỉ đạo nâng cao hiệu quả kinh tế - xã hội
trong vận tải hành khách bằng xe buýt của Tổng Công
ty Vận tải Hà Nội 53
3.2. Giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế - xã
hội trong vận tải hành khách bằng xe buýt của Tổng
Công ty Vận tải Hà Nội trong thời gian tiếp theo 58
KẾT LUẬN 79
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 81
PHỤ LỤC 84
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ 90
4. DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
Chữ viết đầy đủ Chữ viết tắt
Công ty cổ phần CTCP
Kinh tế - xã hội KT - XH
Nhà xuất bản NXB
Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia Nxb CTQG
Thành phố Hồ Chí Minh TP. HCM
Trách nhiệm hữu hạn TNHH
Ủy ban nhân dân UBND
Vận tải hành khách công cộng VTHKCC
5. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Hà Nội - Thủ đô ngàn năm văn hiến - là trung tâm chính trị, kinh tế, văn
hóa của cả nước, là nơi đặt trụ sở của nhiều cơ quan, đơn vị cả Trung ương và
địa phương; đồng thời, cũng là địa phương có dân số đông đã nảy sinh nhu cầu
cao về tham gia giao thông của người dân, đòi hỏi cần phải phát triển hệ thống
giao thông công cộng đồng bộ và hiện đại, không ngừng đáp ứng nhu cầu đi lại
ngày càng tăng của người dân. Mục tiêu của Hà Nội phấn đấu đáp ứng 15% nhu
cầu đi lại của người dân vào năm 2015 và đạt tới 25% vào năm 2020. Song,
chất lượng dịch vụ phải thực sự tạo ra sức hấp dẫn của hệ thống vận tải hành
khách công cộng để người dân tự nguyện chuyển từ việc sử dụng phương tiện cá
nhân sang sử dụng phương tiện vận tải hành khách công cộng bằng xe buýt. Đưa
dịch vụ xe buýt trở thành loại hình giao thông phổ biến, tiện ích và hiện đại là
yêu cầu cấp thiết của thành phố trong thời gian tiếp theo.
Tuy nhiên, quá trình phát triển vận tải hành khách công cộng bằng xe
buýt của Tổng Công ty Vận tải Hà Nội còn bộc lộ những hạn chế như: Việc quy
hoạch mạng lưới các tuyến buýt còn nhiều bất cập, chất lượng khai thác tuyến
chưa hiệu quả, sản xuất kinh doanh tuy có tăng trưởng nhưng chưa vững chắc,
chưa tương xứng với tiềm năng. Hạ tầng kỹ thuật, công tác quản lý, sự phối hợp
giữa các cơ quan ban ngành với các công ty kinh doanh xe buýt còn nhiều hạn
chế bất cập. Theo số liệu của Sở Giao thông vận tải Hà Nội, xe buýt hiện mới
chỉ đáp ứng được gần 10% nhu cầu đi lại của người dân Thủ đô. Song vào
thời điểm hiện nay, phương tiện này khó có thể phát triển hơn nữa do hạ tầng
giao thông đô thị có những bất cập. Quỹ đất dành cho giao thông hiện chỉ đạt
khoảng 8% đất xây dựng đô thị. Phần lớn các tuyến đường, phố có mặt cắt
nhỏ, có quá nhiều nút giao cắt và chủ yếu là nút giao đồng mức. Nhiều tuyến
đường và nút giao đã quá tải phương tiện. Trên địa bàn thành phố hiện mới có
3
6. 350/1.800 điểm dừng xe buýt được lắp đặt nhà chờ phục vụ khách do vỉa hè
chật hẹp. Nhiều khu đô thị, trung tâm thương mại, khu vui chơi giải trí, khu
công nghiệp,. vẫn chưa có quy hoạch quỹ đất dành cho vận tải hành khách
công cộng. Tất cả những yếu tố nói trên là nguyên nhân làm cho hệ thống xe
buýt khó có thể phát triển hơn nữa, bởi không bảo đảm an toàn, thuận tiện
cho người dân và sẽ làm gia tăng mật độ phương tiện, gây ùn tắc giao thông.
Do vây, chưa đáp ứng mục tiêu yêu cầu trong xây dựng, phát triển KT - XH.
Vấn đề đặt ra là làm thế nào để nâng cao hơn nữa hiệu quả kinh tế xã hội
trong vận tải hành khách công cộng bằng xe buýt đối với sự phát triển của giao
thông đô thị ở Hà Nội hiện nay có ý nghĩa thiết thực cả về lý luận và thực tiễn.
Xuất phát từ những vấn đề trên tác giả chọn nội dung: “Hiệu quả kinh tế - xã
hội trong vận tải hành khách bằng xe buýt của Tổng Công ty Vận tải Hà
Nội” làm đề tài luận văn thạc sỹ chuyên ngành kinh tế chính trị.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Vấn đề Nâng cao hiệu quả KT - XH trong vận tải hành khách công
cộng bằng xe buýt của Tổng Công ty Vận tải Hà Nội, đã thu hút rộng rãi sự
quan tâm nghiên cứu của nhiều nhà khoa học, nhà quản lý trong cả nước. Đến
nay đã có nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề này trên nhiều khía cạnh và
phạm vi khác nhau.
- Nghiên cứu đánh giá hệ thống vận tải hành khách công cộng bằng
xe buýt ở các đô thị Việt Nam, Luận án Tiến sĩ kinh tế của Đại học Giao thông
vận tải (2011) của tác giả Nguyễn Văn Điệp.
Luận án đã nghiên cứu và làm rõ đặc điểm, vai trò của hệ thống vận
tải hành khách công cộng trong các đô thị nói chung và vận tải hành khách
bằng xe buýt nói riêng. Đánh giá thực trạng hệ thống vận tải công cộng bằng
xe buýt ở các đô thị của nước ta, đặc biệt là hai thành phố lớn là Hà Nội và
Thành phố Hồ Chí Minh; Xây dựng hệ thống phương pháp và chỉ tiêu đánh
4
7. giá hệ thống vận tải hành khách công cộng bằng xe buýt ở các đô thị Việt
Nam. Nghiên cứu công trình này là cơ sở để tác giả xây dựng được được tiêu
chí đánh giá về hiệu quả kinh tế - xã hội của vận tải hành khách công cộng
bằng xe buýt ở Hà Nội.
- Nghiên cứu mô hình quản lý vận tải hành khách công cộng trong các
thành phố Việt Nam, Luận án Tiến sĩ Kinh tế, Trường Đại học Giao thông
Vận tải (2013) của tác giả Vũ Hồng Trường.
Nam, trong đó bao gồm tất cả các loại hình vận tải hành khách công
cộng và phù hợp với từng nhóm thành phố từ nay đến năm 2020 định hướng
đến năm 2030. Nghiên cứu công trình này là cơ sở để tác giả xây dựng các
giải pháp liên quan đến công tác quản lý hoạt động đối với hệ thống xe buýt
của Tổng công ty Vận tải Hà Nội.
- Trần Ngọc Luyện (2003), Trật tự an toàn giao thông đường bộ thực
trạng và giải pháp, Nxb CTQG, Hà Nội. Trong công trình khoa học này, tác
giả đã phân tích đánh giá, nêu ra một số nét cơ bản nhận diện về thực trạng
giao thông đường bộ ở Việt Nam, tìm ra những nguyên nhân chủ yếu gây ra
tình trạng mất an toàn giao thông như: Hạ tầng giao thông không đồng bộ, lạc
hậu, thiếu tính kết nối, ý thức người tham gia giao thông còn hạn chế, khả
năng về quản lý giao thông của các cơ quan quản lý nhà nước còn nhiều bất
cập; nguồn vốn của nhà nước đầu tư cho phát triển cơ sở hạ tầng giao thông
công cộng còn nhiều hạn chế,. Tác giả cũng nghiên cứu và đưa ra những vấn
đề về giao thông công cộng như chất lượng hệ thống giao thông, trình độ
quản lý và sự tiện ích của giao thông công cộng của một số thành phố các
nước trong khu vực với tính chất tham khảo cho Việt Nam trong quá trình xây
dựng hệ thống giao thông công cộng thời gian tới. Trên cơ sở nghiên cứu tổng
kết công tác trật tự an toàn giao thông đường bộ trong những năm qua tác giả
đã đưa ra những giải pháp mang tính định hướng nhằm không ngừng đổi mới
5
8. và nâng cao chất lượng giao thông công cộng ; đặc biệt, là trực tiếp góp phần
khắc phục, hạn chế tình trạng ùn tắc giao thông và tai nạn giao thông ở nước
ta hiện nay.
- Ngô Thanh Chương (2008), Quy trình tổ chức quản lý và hiệu quả xã
hội hóa vận tải hành khách công cộng bằng xe bus ở đô thị Việt Nam, Nxb
Giao thông Vận tải, đây là một công trình nghiên cứu công phu của tác giả,
trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề có liên quan đến vận tải hành khách công
cộng ở các đô thị Việt Nam, tác giả đã chỉ rõ: Xã hội hóa Vận tải hành khách
công cộng là một hoạt động có ý nghĩa trong đáp ứng nhu cầu đi lại trong
thành phố. Các đô thị và thành phố của Việt Nam những năm gần đây đã có
rất nhiều những chính sách phù hợp nhằm thúc đẩy phát triển vận tải hành
khách công cộng trong đó chủ yếu là vận tải bằng xe buýt nhằm cải thiện tình
hình giao thông tại các đô thị. Tiêu biểu là ở hai thành phố lớn là Hà Nội và
thành phố Hồ Chí Minh đã có bước đột phá trong đầu tư phương tiện, tăng
mức trợ giá, kết quả cho thấy về cơ bản đã đáp ứng được nhu cầu đi lại trong
đô thị và góp phần vào văn minh đô thị.
Tuy nhiên, xét thấy nguồn đầu tư hiện nay chủ yếu từ ngân sách Nhà
nước nên đã hạn chế rất lớn cho quá trình thực hiện mục tiêu đầu tư phát triển
của hệ thống giao thông. Do vậy để tiếp tục phát triển vận tải hành khách công
cộng bằng xe buýt ở các thành phố lớn cần thiết phải đa dạng hóa hình thức
đầu tư và huy động được các thành phần kinh tế cùng tham gia, thực hiện có
hiệu quả chủ trương xã hội hóa lĩnh vực vận tải hành khách công cộng bằng xe
buýt nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ đồng thời giảm thiểu đầu tư tài chính
của nhà nước. Cùng với đó cần xây dựng cơ chế quản lý và các quy định về
chất lượng, độ an toàn của loại hình dịch vụ này.
- Nguyễn Thị Bích Hằng (2010), Các chính sách trợ giá cho hoạt động
vận tải hành khách công cộng bằng xe bus và biện pháp trợ giá, Nxb Giao
6
9. thông Vận tải, tác giả đã đề cập đến một thực tế được ghi nhận trong quá trình
phát triển giao thông của nhiều thành phố trên thế giới là sự phát triển của hệ
thống vận tải hành khách công cộng luôn kéo theo sự gia tăng số tiền trợ giá
cho hoạt động này. Tác giả đã đi sâu làm rõ những vấn đề liên quan để lý giải
tại sao phải trợ giá, trợ giá đến khi nào và làm thế nào để hạn chế số tiền trợ
giá cho vận tải hành khách công cộng. Đây là vấn đề vẫn tồn tại nhiều ý kiến
khác nhau, nhất là khi chúng ta chủ trương đẩy mạnh xã hội hóa các loại hình
dịch vụ công trong đó có vận chuyển hành khách công cộng. Một vấn đề nữa
có tác động đến dịch vụ này là nguồn ngân sách hỗ trợ cho xe buýt của nhà
nước trong thời gian vừa qua là rất lớn, trong khi đó chất lượng dịch vụ lại
chưa tương xứng, hiện tượng tai nạn giao thông do chính các phương tiện xe
buýt vẫn xảy ra, gây bức xúc trong dư luận nhân dân.
Dựa vào kết quả nghiên cứu của mình, tác giả đã chỉ rõ: Khi tham gia
Vận tải hành khách công cộng, điều mà hành khách quan tâm không chỉ là
khối lượng dịch vụ doanh nghiệp có khả năng cung ứng mà còn là sự tiện ích
và chất lượng phục vụ thông qua hành trình ngắn nhất, chi phí thời gian thấp
nhất và tiện nghi tốt nhất của chuyến đi. Ngoài ra hiệu quả xã hội của hoạt
động vận tải còn được thể hiện ở khía cạnh làm giảm ô nhiễm môi trường và
đã khẳng định xu thế: Giao thông công cộng đảm bảo an toàn và từng bước
thay thế giao thông cá nhân. Hơn thế nữa, quá trình phát triển của các đô thị
lớn trên thế giới càng phát triển thì càng đòi hỏi cao hơn về khả năng phục vụ
của hệ thống giao thông công cộng. Vì vậy, khi đánh giá hiệu quả hoạt động
vận tải hành khách công cộng không chỉ thể hiện ở hiệu quả kinh doanh của
các doanh nghiệp vận tải.
- Trần Sơn (2013), Hỏi đáp pháp luật về xử phạt hành chính trong lĩnh
vực giao thông đường bộ, theo tinh thần nghị định số 34/2010/ NĐ- CP được
sửa đổi bổ xung theo nghị định số 71/2012 NĐ- CP của Chính phủ, Nxb
CTQG, Hà Nội. Nhằm đáp ứng nhu cầu thực tiễn, trong công trình khoa học
7
10. này, tác giả đã trình bày một cách đầy đủ chi thiết những vấn đề cơ bản về
pháp luật xử phạt hành chính đối với người điều khiển các phương tiện giao
thông, trên cơ sở đó giúp cho người tham gia và điều khiển các phương tiện
giao thông đường bộ chấp hành nghiên luật giao thông đường bộ, nhằm giải
thiểu tối đa ùn tắc giao thông và tai nạn giao thông. Xây dựng thói quen và
hành vi giao thông hiện đại, văn minh trong tương lai.
- Trần Văn Thành (2000) Một số vấn đề về xây dựng con người làm
công tác vận tải trong thời kỳ mới, Nxb CTQG Hà Nội, xuất phát từ quan
điểm duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
về vấn đề con người, tác giả cuốn sách đã phân tích đánh giá về một số nhân tố,
trong đó làm rõ vai trò quyết định của yếu tố con người trong việc phát triển giao
thông nhân tố có nghĩa quyết định tới chất lượng và hiệu quả an toàn giao thông.
Trong đó, văn hóa giao thông của mọi người dân được tác giả quan tâm nghiên
cứu và khẳng định có ý nghĩa quyết định đến văn minh giao thông. Cùng với đó,
chất lượng con người trong lực lượng thực thi pháp luật nhà nước về giao thông
cũng cần xây dựng theo những chuẩn mực nhất định, đảm bảo có đủ đức và tài
để hoàn thành nhiệm vụ mà nhà nước và nhân dân giao phó. Vì vậy, để phát
triển bền vững, cùng với đổi mới toàn diện các lĩnh vực thì ngành vận tải nhất
thiết phải quan tâm đầu tư xây dựng nguồn lực con người và coi đây là vấn đề
then chốt và là động lực trong chiến lược phát triển.
Ngoài những công trình nêu trên, còn có một số bài viết tiêu biểu liên
quan đến hiệu quả hoạt động của xe buýt như: “Nâng cao hiệu quả hoạt động
vận tải hành khách công cộng bằng xe buýt”, Tạp chí Giao thông vận tải Số 8.
- Tr.37,42-43 (2004) của tác giả Nguyễn Trọng Thông; “Đề xuất một số
phương pháp đơn giản nhất dành cho người bộ hành tiếp cận các điểm đỗ xe
buýt trong hệ thống vận tải hành khách công cộng Hà Nội”, Số 1+2, tr.89-90
(2007) của tác giả Nguyễn Thuỷ Nguyên; “Phát triển xe Buýt ở Hà Nội dưới
8
11. góc nhìn của hành khách” Tạp chí Giao thông vận tải, Số 7, Tr.57-58,63.
(2004) của tác giả Nguyễn Đức Thuần; “Một số giải pháp hoàn thiện công
tác đấu thầu nhằm thực hiện mục tiêu xã hội hoá vận tải hành khách công
cộng bằng xe Bus ở thủ đô Hà Nội”, Tạp chí Kinh tế và Phát triển, Số 116. -
Tr.28-31, (2007) của Tác giả Bùi Thị Hoàng Lan...
Những công trình trên đã nghiên cứu ở nhiều nội dung khác nhau, với
những cách tiếp cận khác nhau về vấn đề hiệu quả của vận tải hành khách
công cộng bằng xe buýt, cung cấp cho tác giả những cơ sở lý luận và thực tiễn
quan trọng để thực hiện mục tiêu và nhiệm vụ của luận văn.
Tuy nhiên, đến nay chưa có công trình nào nghiên cứu vấn đề “Hiệu
quả kinh tế - xã hội trong vận tải hành khách bằng xe buýt của Tổng Công ty
Vận tải Hà Nội” dưới góc độ khoa học kinh tế chính trị như một công trình
nghiên cứu chuyên ngành. Đây là “khoảng trống” khoa học để tác giả quyết
tâm lựa chọn làm vấn đề nghiên cứu của mình.
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
* Mục đích nghiên cứu
Luận giải cơ sở lý luận và thực tiễn, hiệu quả KT - XH trong vận tải
hành khách công cộng bằng xe buýt của Tổng Công ty Vận tải Hà Nội. Trên
cơ sở đó đề xuất quan điểm cơ bản và giải pháp chủ yếu về nâng cao hiệu quả
KT - XH trong vận tải hành khách công cộng bằng xe buýt của Tổng Công ty
Vận tải Hà Nội trong thời gian tới.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
- Luận giải cơ sở lý luận và thực tiễn về hiệu quả KT - XH trong vận tải
hành khách bằng xe buýt của Tổng Công ty Vận tải Hà Nội hiện nay.
- Đánh giá thực trạng hiệu quả KT - XH trong vận tải hành khách bằng xe
buýt của Tổng Công ty Vận tải Hà Nội trong những năm qua.
- Đề xuất những giải pháp cơ bản góp phần nâng cao hiệu quả KT -
XH trong vận tải hành khách bằng xe buýt của Tổng Công ty Vận tải Hà Nội
9
12. trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
* Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là: Hiệu quả kinh tế - xã hội trong vận
tải hành khách bằng xe buýt.
* Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: Nghiên cứu về hiệu quả kinh tế và xã hội.
- Về không gian: Hoạt động vận tải hành khách bằng xe buýt của Tổng
Công ty Vận tải Hà Nội
- Về thời gian: Nghiên cứu hiệu quả KT - XH trong vận tải hành khách
bằng xe buýt của Tổng Công ty Vận tải Hà Nội từ năm 2008 đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận
Luận văn nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa duy vật biện
chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử, quan điểm đường lối của Đảng cộng sản
Việt Nam, các văn kiện của Thành ủy, Ủy ban nhân dân, Sở giao thông vận
tải thành phố Hà Nội và các vấn đề có liên quan đến đề tài.
* Phương pháp nghiên cứu
Tác giả kết hợp phương pháp lôgic và lịch sử, phân tích, tổng hợp, thống
kê, so sánh, trừu tượng hóa khoa học đang được vận dụng trong nghiên cứu kinh
tế chính trị. Luận văn cũng chú trọng nghiên cứu, phân tích các tư liệu, dữ liệu,
thông tin từ các nguồn khác nhau của các cơ quan chức năng, các đề tài, tạp chí
mà tác giả có điều kiện tiếp cận.
6. Ý nghĩa của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ góp phần luận giải cơ sở khoa học
về hiệu quả KT - XH trong vận tải hành khách bằng xe buýt của Tổng Công
ty Vận tải Hà Nội hiện nay. Luận văn có nội dung hữu ích giúp cho cán bộ
10
13. lãnh đạo Thành phố và lãnh đạo cơ quan quản lý nhà nước về giao thông tham
khảo để xác định chủ trương, giải pháp và những độc giả quan tâm đến vấn đề
này làm tài liệu tham khảo khi nghiên cứu.
7. Kết cấu của luận văn
Gồm có: Phần mở đầu, 3 chương (6 tiết), kết luận, danh mục tài liệu
tham khảo và các phụ lục.
11
14. Chương1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HIỆU QUẢ KINH TẾ - XÃ HỘI TRONG VẬN TẢI
HÀNH KHÁCH BẰNG XE BUÝT
1.1. Phân tích hiệu quả kinh tế - xã hội trong vận tải hành khách
bằng xe buýt
1.1.1. Hiệu quả kinh tế - xã hội và hiệu quả kinh tế - xã hội trong vận
tải hành khách bằng xe buýt
* Hiệu quả kinh tế - xã hội
Trong mọi lĩnh vực hoạt động của đời sống KT - XH nói chung, hiệu quả
bao giờ cũng là vấn đề được các chủ thể quan tâm hàng đầu. Theo nghĩa chung
nhất thì: Hiệu quả là một khái niệm dùng để chỉ mối quan hệ giữa kết quả thực
hiện các mục tiêu hoạt động của chủ thể và chi phí mà chủ thể bỏ ra để có kết
quả đó trong những điều kiện nhất định.
Ngày nay, trong các hoạt động KT - XH chúng ta thường đề cập ba loại
hiệu quả cơ bản đó là: Hiệu quả kinh tế, hiệu quả chính trị xã hội và hiệu quả môi
trường. Tùy vào lĩnh vực, loại hình, tính chất nhiệm vụ và thời điểm hoạt động
của mỗi tổ chức, cá nhân để chúng ta xác định đâu là hiệu quả cơ bản cần đạt tới.
Khi nghiên cứu về vấn đề này, các tài liệu khoa học đều thống nhất nhận thức về
khái niệm hiệu quả kinh tế và xã hội như sau:
- Hiệu quả kinh tế là phạm trù kinh tế dùng so sánh kết quả sản xuất
của các chủ thể kinh tế nhận được với chi phí mà họ bỏ ra trong quá trình tái
sản xuất, nhằm kết hợp hài hòa các lợi ích, từng bước nâng cao lợi ích kinh tế
cơ bản, hiện thực hóa mục tiêu của nền sản xuất.
- Hiệu quả xã hội là thước đo của mỗi bước tiến của tiến bộ xã hội
trong không ngừng tạo ra và nâng cao các điều kiện sống, điều kiện làm việc,
phúc lợi xã hội cho sự phát triển con người một cách toàn diện, phát triển các
quan hệ xã hội dân chủ, công bằng, văn minh.
12
15. Những hiệu quả này được thể hiện sinh động ở mức đóng góp vào sự
vững mạnh, ổn định của đất nước, giữ vững an ninh xã hội; mang lại công ăn
việc làm; góp phần nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho người lao
động, tạo sự đồng thuận cao trong xã hội. Nhằm phát triển con người toàn diện
cả về sức khỏe, trình độ học vấn, trình độ văn hoá, nâng cao mức sống, lối sống
và chất lượng cuộc sống của con người trong xã hội.
Hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội có mối quan hệ biện chứng, thống
nhất chặt chẽ với nhau, làm tiền đề và tạo điều kiện cho nhau phát triển, do vậy
trong hoạt động sản xuất kinh doanh và các hoạt động khác không nên đề cao,
tuyệt đối hóa hoặc hạ thấp một loại hiệu quả nào.
Như vậy, theo quan niệm chung nhất, Hiệu quả kinh tế - xã hội trong
vận tải hành khách bằng xe buýt là một phạm trù kép, phản ánh kết quả đạt được
trong việc thực hiện các nhiệm vụ, mục tiêu về kinh tế - xã hội. Là tỷ lệ giữa kết
quả và lợi ích đạt được với những nguồn lực mà xã hội đã chi phí cho việc duy trì
và bảo đảm hoạt động của loại hình dịch vụ này trong một khoảng thời gian nhất
định
Tóm lại, hiệu quả KT - XH là một phạm trù kinh tế khách quan, bao
hàm trong đó hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội, được tính toán dựa trên cơ sở
so sánh giữa kết quả thu được trong hoạt động sản xuất kinh doanh và chi phí
các nguồn lực để đạt được kết quả. Đồng thời, gắn với giải quyết tốt các vấn đề
xã hội phát sinh khi sử dụng các nguồn lực để đạt được hiệu quả kinh tế cao và
bền vững.
* Hiệu quả kinh tế - xã hội trong vận tải hành khách bằng xe buýt
Vận tải hành khách bằng xe buýt là một trong những phương thức vận
chuyển hành khách chủ yếu nhằm đáp ứng nhu cầu đi lại của người dân trong
các thành phố, cũng như từ các thành phố đến các khu đô thị vệ tinh bằng ô tô
theo tuyến cố định, có điểm dừng đón trả khách dọc tuyến, xe chạy theo biểu
đồ vận hành quy định, có thu tiền theo quy định của từng Thành phố.
13
16. Mục tiêu phát triển vận tải hành khách công cộng bằng xe buýt trong
các đô thị ở nước ta hiện nay là cung cấp dịch vụ xe buýt thuận tiện, tiện nghi
và an toàn, phù hợp với nhu cầu đi lại của đa số người dân nhằm khuyến khích
người dân ưu tiên sử dụng xe buýt, tạo tiền đề cho việc hạn chế sử dụng
phương tiện cá nhân, góp phần giảm ùn tắc, kiềm chế tai nạn giao thông và
giảm thiểu ô nhiễm môi trường trong các thành phố.
Từ sự phân tích trên đây, tác giả đưa ra quan niệm về hiệu quả kinh tế -
xã hội trong vận tải hành khách bằng xe buýt như sau:
Hiệu quả kinh tế - xã hội trong vận tải hành khách bằng xe buýt là một
phạm trù kép, phản ánh kết quả đạt được trong việc thực hiện các nhiệm vụ, mục
tiêu về kinh tế gắn với các nhiệm vụ và mục tiêu về xã hội. Là tỷ lệ giữa kết quả
và lợi ích đạt được với những nguồn lực mà xã hội đã chi phí cho việc duy trì và
bảo đảm hoạt động của loại hình dịch vụ này trong một khoảng thời gian nhất
định.
Nội hàm của khái niệm thể hiện một số vấn đề sau:
Thứ nhất: Hiệu quả kinh tế xã hội trong vận tải hành khách bằng xe buýt
là một “phạm trù kép”, vừa mang tính phổ biến vừa mang tính đặc thù:
Tính phổ biến là do vận tải hành khách bằng xe buýt cũng là một loại
hình sản xuất kinh doanh. Vì vậy, nó phải được đặt trong môi trường cạnh tranh
bình đẳng với các loại hình sản xuất kinh doanh khác của toàn bộ nền kinh tế, mà
trước hết, là trong nội bộ của ngành dịch vụ vận tải hành khách công cộng. Trong
nền kinh tế thị trường, cạnh tranh chính là động lực cơ bản cho sự tồn tại và phát
triển của các doanh nghiệp. Để có thể đứng vững trong môi trường cạnh tranh,
buộc các doanh nghiệp trong lĩnh vực vận tải hành khách bằng xe buýt phải
không ngừng nâng cao chất lượng cung ứng dịch vụ. Hệ quả là hiệu quả kinh tế
xã hội của nó ngày càng được nâng lên.
Như vậy, tính phổ biến của hiệu quả kinh tế xã hội trong vận tải hành
khách bằng xe buýt đặt ra yêu cầu là cần phải tạo ra cơ chế cạnh tranh bình đẳng,
trước hết là trong nội bộ khu vực vận tải hành khách công cộng, hạn chế thấp nhất
14
17. tình trạng bao cấp, độc quyền làm cho chất lượng dịch vụ không được cải thiện và
hiệu quả kinh tế xã hội thấp.
Tính đặc thù của hiệu quả KT - XH trong vận tải hành khách bằng xe
buýt được quy định bởi chức năng và nhiệm vụ của nó.
Vận tải hành khách công cộng bằng xe buýt là nét đẹp trong văn minh đô
thị ở hầu hết các nước trên thế giới. Đối với các đô thị ở nước ta hiện nay, loại
hình dịch vụ này đang ngày càng phát triển. Tuy nhiên, nếu để các doanh nghiệp
kinh doanh trong lĩnh vực này tự trang trải và hạch toán thì chắc chắn giá dịch vụ
sẽ tăng cao, điều đó sẽ cản trở việc thực hiện mục tiêu thu hút ngày càng nhiều
người dân tham gia sử dụng dịch vụ xe buýt nhằm giảm ùn tắc, tai nạn giao thông
và ô nhiễm môi trường... Để giải quyết mâu thuẫn này, hầu hết chính quyền các
đô thị đều thực hiện các biện pháp trợ giá cho người sử dụng, có chính sách ưu
đãi về tài chính ổn định cho các doanh nghiệp, đầu tư về phương tiện, hạ tầng đô
thị, bến bãi...Tất cả các biện pháp đó, nếu nhìn một cách trực diện thì đều làm gia
tăng chi phí đầu tư dẫn đến giảm hiệu quả kinh tế nhưng hiệu quả về mặt xã hội
thì lại tăng lên. Mặt khác, nếu phân tích dưới góc độ “hiệu ứng lan tỏa” từ việc sử
dụng dịch vụ vận tải công cộng bằng xe buýt thì chi phí xã hội sẽ được tiết kiệm
đáng kể (chi phí để giải quyết ô nhiễm môi trường, ùn tắc và tai nạn giao
thông...do mức độ sử dụng phương tiện giao thông cá nhân quá lớn). Khi đó, nhà
nước chỉ phải bỏ ra “một đồng” nhưng xã hội lại tiết kiệm được “nhiều đồng”.
Đây chính là “lợi ích kép” của vận tải hành khách bằng xe buýt đem lại mà chính
quyền các đô thị cần phải tiếp tục theo đuổi. Điều đó cũng hoàn toàn phù hợp với
mục tiêu xây dựng các đô thị ngày càng văn minh, hiện đại ở nước ta hiện nay.
Như vậy, tính đặc thù của hiệu quả KT - XH trong vận tải hành khách
bằng xe buýt thể hiện ở chỗ hiệu quả về mặt xã hội được đặt ra cả trực tiếp trước
mắt và lâu dài, hiệu quả về mặt kinh tế nhấn mạnh tính hiệu ứng lan tỏa của việc
sử dụng loại hình dịch vụ này đối với toàn xã hội, không chỉ thể hiện ở doanh thu
của doanh nghiệp hay thu nhập của người lao động trong các doanh nghiệp vận
15
18. tải hành khách bằng xe buýt mà nó còn thể hiện ở cả những lợi ích mà dịch vụ
vận tải này đem lại.
Thứ hai, hiệu quả KT - XH trong vận tải hành khách bằng xe buýt được
xác định cả về mặt định tính và định lượng đó là:
Về mặt định tính: Thể hiện ở mục tiêu giải quyết tốt mối quan hệ giữa
hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội. Mục tiêu hướng tới giải quyết tốt các vấn đề
xã hội, là phục vụ nhu cầu đi lại của nhân dân một cách thuận tiện, giảm ùn tắc
giao thông, chống ô nhiễm môi trường, giảm thiểu những tổn thất về kinh tế do
nạn tắc đường gây ra. Ngược lại, mỗi kết quả đạt được về xã hội, đều nhằm mục
đích góp phần tăng trưởng, phát triển kinh tế.
Về mặt định lượng: Thể hiện ở kết quả thu được so với các chỉ tiêu về
các nguồn lực đã chi phí, thông qua mối tương quan bằng các con số tương đối
và tuyệt đối. Qua đó cho phép đánh giá mức độ hoàn thành chỉ tiêu kế hoạch đề
ra.
Tuy nhiên, đánh giá hiệu quả KT- XH về mặt định lượng chỉ mang tính
tương đối, rất khó để có thể để lượng hóa chính xác về hiệu quả KT - XH của vận
tải hành khách công cộng bằng xe buýt. Bởi vì, thứ nhất, những chi phí của doanh
nghiệp thì có thể tính toán được thông qua kết quả sản xuất kinh doanh hàng năm,
nhưng những chi phí của nhà nước, đặc biệt là của xã hội (người tiêu dùng dịch
vụ) thì rất khó để tính toán chính xác. Thứ hai, những lợi ích cả về kinh tế và xã
hội thông qua việc sử dụng loại hình dịch vụ này không chỉ giới hạn trong phạm
vi của các doanh nghiệp mà nó bao trùm, lan tỏa tới nhiều lĩnh vực, nhiều mặt của
đời sống kinh tế - xã hội, không chỉ trong phạm vi địa phương mà là toàn bộ khu
vực thậm chí là cả đất nước.
Từ tất cả những nghiên cứu trên, có thể khẳng định: Hiệu quả KT - XH
của dịch vụ vận tải hành khách bằng xe buýt là hiệu quả kép, kết quả mang lại cả
về kinh tế, xã hội cho tập thể và mọi cá nhân được thể hiện ở việc đảm bảo nguồn
thu ngân sách cho địa phương, tạo tiện ích và thuận lợi cho người dân khi tham
gia giao thông, xây dựng nét văn minh trong tham gia giao thông công cộng, giảm
16
19. ùn tắc giao thông và bảo vệ môi trường.
1.1.2. Sự cần thiết phải đánh giá hiệu quả kinh tế - xã hội trong vận
tải hành khách bằng xe buýt
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường hiện nay, việc đánh giá hiệu quả
KT - XH của vận tải hành khách công cộng bằng xe buýt là một việc làm cần
thiết, xuất phát từ những lý do sau:
Một là, xuất phát từ yêu cầu phải giữ vững vai trò chủ đạo và định
hướng của dịch vụ vận tải hành khách công cộng bằng xe buýt so với các loại
hình vận tải hành khách công cộng khác trong các đô thị.
Hiện nay, có nhiều loại hình vận tải cùng tham gia vận tải tải hành
khách công cộng ở các đô thị như: xe buýt, đường sắt, xe taxi...Tuy nhiên, vận
tải hành khách công cộng bằng xe buýt vẫn là loại hình chủ yếu, đóng vai trò
chủ đạo, định hướng cho các loại hình vận tải khác. Vai trò chủ đạo của vận tải
hàch khách bằng xe buýt được xác định rõ trong Quyết định 280/QĐ – TTg
ngày 28 tháng 3 năm 2012 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Đề án
phát triển vận tải hành khách công cộng bằng xe buýt từ năm 2012 đến năm
2020. Theo đó, giai đoạn từ năm 2012 đến năm 2020, vận tải hành khách công
cộng bằng xe buýt đóng vai trò then chốt và là nhiệm vụ, chiến lược của các đô
thị trong việc khắc phục ùn tắc giao thông, kiềm chế tai nạn giao thông và
giảm thiểu ô nhiễm môi trường.
Cụ thể hóa quan điểm trên, Đề án “Phát triển hợp lý các phương thức
vận tải tại các thành phố lớn ở Việt Nam” do Bộ Giao thông Vận tải xây dựng,
đến năm 2020, tỷ lệ vận tải hành khách công cộng đảm nhận tại Hà Nội và
Thành phố Hồ Chí Minh là từ 20-25% (trong đó xe buýt: 10-15%, đường sắt
đô thị: 4-5%, xe taxi: 2-3%, phương tiện vận tải công cộng khác: 1-2%).
Để thực hiện được vai trò chủ đạo của mình, vấn đề đặt ra là cần phải
đánh giá đúng hiệu quả KT – XH của hình thức vận tải hành khách công cộng
17
20. bằng xe buýt làm cơ sở cho việc hoạch định chiến lược, xây dựng kế hoạch,
xác chương trình, mục tiêu cụ thể trong từng giai đoạn phát triển.
Hai là, xuất phát từ những lợi ích mà dịch vụ vận tải hành khách bằng
xe buýt đem lại.
Lợi ích của dịch vụ vận tải hành khách bằng xe buýt được thể hiện
thông qua lợi ích của tất cả các bên tham gia cung ứng và sử dụng dịch vụ.
Đồng thời, còn thể hiện ở những lợi ích có tính chất là hệ quả của việc sử dụng
loại hình dịch vụ này, cụ thể:
- Đối với hành khách đi xe buýt: sử dụng dịch vụ xe buýt sẽ tiết kiệm
được thời gian, chi phí vận hành, đi lại và bảo đảm an toàn hơn so với sử dụng
các phương tiện cá nhân.
Tiết kiệm được thời gian là bởi về mặt lý thuyết, xe buýt bao giờ cũng
chạy đúng tuyến, đúng thời gian, lộ trình, có đường riêng; thông tin về lịch
trình được phổ biến rộng rãi... nên hành khách hoàn toàn có thể chủ động được
về mặt thời gian để thực hiện các công việc của mình. Tiết kiệm được chi phí
đi lại là do giá vé tương đối rẻ do được hỗ trợ về giá cho người sử dụng.
Thời gian và chi phí của một người nếu sử dụng không thường xuyên
loại hình dịch vụ này thì không lớn. Nhưng, vẫn người đó, nếu sử dụng thường
xuyên thì sẽ là một con số đáng kể. Hơn nữa, tổng thời gian và chi phí của các
cá nhân tiết kiệm được (tiết kiệm chi phí của xã hội) thì chắc chắn là một con
số không nhỏ.
- Đối với nhà nước mà trực tiếp là chính quyền các đô thị: Từ góc độ
kinh tế, khi có nhiều người dân sử dụng dịch vụ xe buýt sẽ có tác dụng tiết
kiệm được ngoại tệ cho nhà nước do ít phải nhập xăng dầu hơn để phục vụ
cho hàng triệu phương tiện vận chuyển cá nhân hiện nay. Tiết kiệm được
ngân sách cho các địa phương vì ít phải chi hơn cho các hoạt động duy tu,
sửa chữa và bảo dưỡng hạ tầng giao thông do tác động lớn từ các phương
tiện giao thông cá nhân gây ra.
18
21. - Đối với các doanh nghiệp kinh doanh vận tải hành khách bằng xe
buýt: khi người dân ở các đô thị càng sử dụng dịch vụ này bao nhiêu thì doanh
thu của các doanh nghiệp vận tải càng tăng lên bấy nhiêu, khắc phục được tình
trạng thu không đủ chi và trực tiếp nâng cao mức thu nhập, tạo ra nhiều việc
làm cho người lao động. Đồng thời, các doanh nghiệp càng có điều kiện tích
lũy để tái đầu tư, mở rộng sản xuất, không ngừng nâng cao chất lượng dịch vụ,
phục vụ ngày càng tốt hơn cho nhu cầu đi lại của dân cư.
- Những lợi ích có tính chất là hệ quả của việc sử dụng dịch vụ vận tải
hành khách bằng xe buýt được thể hiện trên hai khía cạnh.
Thứ nhất, làm giảm bớt các tác động tiêu cực từ bên ngoài gồm: Giảm
bớt tần suất và mức độ nghiêm trọng của tai nạn giao thông, từ đó giảm chi phí
y tế, bảo hiểm xã hội hằng năm cho lĩnh vực này; giảm thiểu ô nhiễm môi
trường do việc sử dụng quá nhiều các phương tiện giao thông của cá nhân hiện
nay; giảm thiểu tắc nghẽn giao thông - tình trạng phổ biến của các đô thị lớn ở
Việt Nam hiện nay.
Theo tính toán từ mô hình phân tích chi phí và quản lý đường bộ
(HDM4) của ngân hàng thế giới, chi phí cho việc giảm thiểu ô nhiễm môi
trường và giảm thiểu tai nạn giao thông (chi phí ngoại tác) của xe buýt thông
thường thấp hơn nhiều so với xe máy (73 đồng/hành khách/lượt so với 219
đồng/hành khách/lượt).
Thứ hai, làm gia tăng các tác động tích cực đến các mặt của đời sống
kinh tế - xã hội như: tạo ra lựa chọn mới và làm tăng nhu cầu tham gia giao
thông của người dân cũng như gia tăng độ thỏa dụng của người đi đường, từ đó
làm gia tăng phúc lợi xã hội; Sử dụng phương tiện giao thông bằng xe buýt ổn
định sẽ giúp người lao động rèn luyện được tác phong công nghiệp (đi đúng
giờ, làm việc đúng giờ) từ đó làm tăng năng suất và hiệu quả lao động; tạo ra
sự phát triển kinh tế - xã hội dọc tuyến đường, nhất là ở các trạm dừng hay bến
19
22. đỗ xe buýt; tăng thêm tính tiện nghi, thuận tiện và độ tin cậy của các dịch vụ
công - lĩnh vực còn nhiều hạn chế và bất cập ở Việt Nam hiện nay.
Ngoài hiệu quả về mặt phục vụ cộng đồng, xe buýt cũng được dùng để
phục vụ kinh doanh quảng cáo để tạo nguồn thu tái đầu tư phục vụ cộng đồng.
Xe buýt góp phần tạo một bộ mặt văn minh cho các đô thị lớn, một trong
những yếu tố thu hút khách du lịch và các nhà đầu tư.
Như vậy, lợi ích của dịch vụ vận tải hành khách bằng xe buýt là rất lớn và
trên nhiều mặt cả kinh tế, xã hội, môi trường. Vấn đề đặt ra là, cần phải làm rõ
về hiệu quả KT – XH nó để có các biện pháp tuyên truyền, giáo dục, khuyến
khích người dân sử dụng ngày càng nhiều hơn dịch vụ vận tải hành khách bằng
xe buýt. Từng bước thay đổi thói quen trong sử dụng các phương tiện giao
thông công cộng của người dân, góp phần xây dựng nét đẹp văn hóa trong giao
thông ở các đô thị trên cả nước.
Ba là, xuất phát từ nhu cầu ngày càng tăng của người dân về thụ hưởng
dịch vụ xe buýt trong các đô thị và sự thuận tiện, văn minh của loại hình vận tải
này trong tương lai.
Trong các đô thị ở nước ta, vấn đề an toàn và ách tắc giao thông từ lâu
đã là bài toán khó. Cùng với sự phát triển nhanh chóng của các khu đô thị vệ
tinh, các trung tâm kinh tế, văn hóa - xã hội đã làm cho áp lực giao thông ở các
đô thị ngày càng lớn. Để giải bài toán giao thông, hiện nay, chính quyền các đô
thị đã và đang áp dụng nhiều biện pháp trong đó, khuyến khích người dân sử
dụng xe buýt thay cho phương tiện đi lại của cá nhân là một biện pháp mang lại
hiệu quả thiết thực. Hiện nay, nhu cầu sử dụng xe buýt ở các đô thị đã tăng lên
đáng kể. Tuy nhiên, “cầu” tăng nhưng “cung” vẫn chưa đáp ứng kịp thời ảnh
hưởng lớn đến chất lượng dịch vụ của Tổng công ty. Tình trạng này nếu không
nhanh chóng được cải thiện thì chắc chắn sẽ làm giảm tính hấp dẫn của loại
hình dịch vụ này đối với người dân. Khi đó, mục tiêu cả về kinh tế và xã hội
20
23. mà loại hình dịch vụ này mang lại sẽ không đạt được. Vì vậy, đánh giá hiệu
quả kinh tế xã hội của dịch vụ vận tải hành khách bằng xe buýt là nhằm tạo ra
sự cân bằng về cung – cầu trong lĩnh vực này, đáp ứng nhu cầu đi lại ngày càng
tăng của dân cư.
Bốn là, xuất phát từ thực trạng hoạt động vận tải hành khách bằng xe
buýt ở các đô thị trong những năm vừa qua tuy đã đạt được nhiều kết quả đáng
mừng; tuy nhiên, vẫn tồn tại một số hạn chế, bất cập cần giải quyết kịp thời
trong thời gian tiếp theo.
Đặc điểm của ngành vận tải hành khách công cộng mang tính xã hội
cao và thường nhận được sự quan tâm đầu tư, hỗ trợ của nhà nước. Hiện nay,
chính quyền các đô thị trong cả nước thường áp dụng một số hình thức hỗ trợ
đối với dịch vụ vận tải hành khách bằng xe buýt như:
Hỗ trợ trực tiếp về giá: Cách xác định hỗ trợ giá thường được xác định
theo chuyến đối với từng tuyến xe buýt và từng nhóm xe. Công thức tính kinh
phí trợ giá thông thường được áp dụng như sau:
Kinh phí trợ giá = Tổng chi phí chuyến xe (đã tính lợi nhuận) – Doanh
thu khoán. Theo cách tính này, nếu tổng chi phí cao hơn tổng doanh thu (từ tiền
bán vé) thì ngân sách của các đô thị phải thanh toán lại cho các đơn vị vận tải
phần chênh lệch đó. Trường hợp doanh thu cao hơn chi phí thì đơn vị vận tải
phải trả lại phần chênh lệch này cho ngân sách. Đơn giá chuẩn để xác định chi
phí đã bao gồm tất cả các khoản chi phí nhiên liệu, nhân công, vật tư, khấu hao,
bảo dưỡng, sửa chữa phương tiện, chi phí quản lý và tiền thưởng dự kiến…
Ngoài hình thức trợ giá trực tiếp, vận tải hành khách bằng xe buýt trong
các đô thị ở nước ta hiện nay còn được thụ hưởng nhiều hình thức trợ giá gián
tiếp nhằm tạo điều kiện tốt hơn cho loại hình dịch vụ này phát triển như: chính
sách ưu đãi về lãi suất và hỗ trợ phần chênh lệch lãi vay cho các tổ chức và cá
nhân vay vốn đầu tư phương tiện xe buýt; chính sách miễn thuế giá trị gia tăng
cho hoạt động vận tải hành khách công cộng bằng xe buýt; chính sách về giá vé
21
24. để khuyến khích người dân sử dụng xe buýt (mức trợ giá bình quân trong các
đô thị ở nước ta hiện nay giao động từ 4000 đến 4500 đồng/một vé); chính sách
hỗ trợ lãi vay cho các doanh nghiệp đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng cho mạng
lưới xe buýt…Với các hình thức hỗ trợ như trên, mỗi năm các đô thị ở nước ta
phải chi ra một lượng lớn từ ngân sách cho dịch vụ vận tải này (từ năm 2010
đến 2013, mỗi năm hai Thành phố lớn là Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh
phải chi từ 700 đến 1400 tỷ đồng).
Mặc dù, nhận được nhiều sự ưu đãi của nhà nước như đã phân tích trên
đây, tuy nhiên, hoạt động của loại hình vận tải hành khách này vẫn chưa đạt
được mục tiêu, kế hoạch đề ra: về kinh tế, nhìn chung thu vẫn chưa đủ chi; về
xã hội vẫn chưa cung cấp được một hệ thống dịch vụ đi lại thực sự thuận tiện,
an toàn, văn minh và lịch sự nhằm thu hút ngày càng nhiều người sử dụng
phương tiện vận tải bằng xe buýt. Thậm chí, nhiều tuyến buýt trong các đô thị
ở nước ta hiện nay hoạt động kém hiệu quả gây lãng phí và thất thoát ngân sách
nhà nước. Tình trạng lợi dụng hoạt động trợ giá của nhà nước để thu lợi bất
chính đã xảy ra ở một số đô thị và trên một số tuyến buýt. Cùng với đó, những
vấn đề “nóng” của dịch vụ vận tải hành khách bằng xe buýt như: thái độ phục
vụ của lái xe và nhân viên, chất lượng cơ sở hạ tầng xuống cấp, tình trạng an
toàn giao thông.v.v…vẫn chưa được cải thiện.
Vì vậy, việc đánh giá khách quan, chính xác về hiệu quả KT – XH của
dịch vụ vận tải hành khách bằng xe buýt sẽ có tác dụng vừa hạn chế được tình
trạng dựa dẫm, ỷ lại và trông chờ vào sự bao cấp của nhà nước, khắc phục kịp
thời những hạn chế và yếu kém hiện nay, vừa tạo ra sự cạnh tranh bình đẳng
trong khu vực cung ứng các dịch vụ vận tải hành khách công cộng.
1.2. Tiêu chí đánh giá và các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả kinh tế -
xã hội trong vận tải hành khách bằng xe buýt
1.2.1. Tiêu chí đánh giá hiệu quả kinh tế - xã hội trong vận tải hành
22
25. khách bằng xe buýt
Như đã phân tích ở trên, do hoạt động trong lĩnh vực cung ứng dịch vụ
công nên hiệu quả kinh tế - xã hội của xe buýt là một phạm trù kép khó phân định
rạch ròi đâu là hiệu quả kinh tế, đâu là hiệu quả xã hội. Vì vậy, để đánh giá hiệu
quả kinh tế - xã hội của loại hình dịch vụ vận tải này luận văn xác định các tiêu
chí sau:
Thứ nhất, mức độ ổn định và phát triển của hoạt động sản xuất kinh
doanh ở các doanh nghiệp vận tải hành khách bằng xe buýt được biểu hiện thông
qua doanh thu của doanh nghiệp, đóng góp cho ngân sách địa phương, việc làm
và thu nhập của người lao động
- Doanh thu của doanh nghiệp: Đây là thước đo cơ bản để để đánh giá
hiệu quả kinh tế của một doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh trong bất kỳ lĩnh vực
nào. Các doanh nghiệp vận tải hành khách bằng xe buýt ở nước ta hiện nay cũng
phải lấy tiêu chí này để xác định đúng tình trạng sản xuất kinh doanh của từng
loại hình doanh nghiệp (doanh nghiệp đã thực hiện xã hội hóa và doanh nghiệp
chưa xã hội hóa). Có như vậy mới tạo ra sự cạnh tranh bình đẳng, tạo động lực
thúc đẩy sản xuất kinh doanh. Doanh thu của các doanh nghiệp vận tải hành
khách bằng xe buýt bao gồm tổng số tiền thu được từ hoạt động bán vé (vé lượt
cộng vé tháng) và các hoạt động quảng cáo trên xe buýt. Vì vậy, yêu cầu đặt ra
trong đánh giá mức độ ổn định và tăng doanh thu của doanh nghiệp là phải tính
toán đầy đủ tất cả các khoản thu trên.
- Đóng góp cho ngân sách nhà nước và các địa phương: Hiện nay, số
lượng người dân sử dụng dịch vụ xe buýt ở các độ thị, nhất là các đô thị lớn ngày
càng tăng (ở Hà Nội: khoảng 13 % và Thành phố Hồ Chí Minh khoảng: 15%). Với
tỷ lệ này, hàng năm, các doanh nghiệp vận tải hành khách bằng xe buýt đã đóng góp
một khoản không nhỏ vào ngân sách của các địa phương. Vì vậy, mức độ đóng góp
nhiều hay ít vào ngân sách địa phương là sự thể hiện khả năng tổ chức sản xuất kinh
doanh của các doanh nghiệp. Tiết kiệm cho ngân sách nhà nước và các địa
23
26. phương cũng là tiêu chí quan trọng để đánh giá hiệu quả kinh tế của dịch vụ
vận tải hành khách bằng xe buýt. Hiện nay, việc sử dụng các phương tiện cá
nhân trong giao thông ở nước ta nói chung và trong các đô thị nói riêng vẫn là
chủ yếu. Mỗi năm, nhà nước phải chi ra hàng ngàn tỷ đồng cho việc nhập khẩu
xăng dầu phục vụ các phương tiện đi lại của cá nhân. Vì vậy, sử dụng xe buýt
thay cho các phương tiện của cá nhân sẽ có tác dụng trực tiếp làm giảm chi
ngân sách cho hoạt động nhập khẩu xăng dầu hiện nay. Ngoài ra, ngân sách
của các địa phương còn tiết kiệm được do đầu tư của cá nhân và xã hội cho
phương tiện cá nhân giảm làm cho chi phí nhiên liệu giảm, hao phí thời gian do
ùn tắc giao thông gây ra sẽ giảm.
- Việc làm và thu nhập của người lao động trong các doanh nghiệp vận
tải hành khách bằng xe buýt: Tiêu chí này thể hiện ở một số nội dung như: số
lượng việc làm mới được tạo thêm hàng năm; số lượng người bị mất việc làm
hàng năm trong các doanh nghiệp; số lượng việc làm dịch chuyển sang các lĩnh
vực khác và từ các lĩnh vực khách dịch chuyển vào; mức thu nhập của người lao
động trong các doanh nghiệp vận tải hành khách bằng xe buýt so với mức thu
nhập bình quân của xã hội và trong nội bộ ngành vận tải hành khách công cộng.
Đánh giá đầy đủ các yếu tố đó sẽ cho thấy mức độ bền vững trong giải quyết việc
làm và tạo thu nhập cho người lao động - một yếu tố cơ bản phản ánh hiệu quả
kinh tế của doanh nghiệp.
Thứ hai, công tác quản lý, khai thác và sử dụng nguồn vốn đầu tư và các
phương tiện, trang thiết bị của các doanh nghiệp vận tải hành khách bằng xe buýt.
- Quản lý và sử dụng vốn đầu tư: được thể hiện thông qua hiệu suất đầu
tư, đây là chỉ số quan trọng phản ánh mức độ gia tăng trên tổng số vốn đã đầu
tư, nó chính là mức độ sinh lời của vốn đầu tư ở các doanh nghiệp vận tải hành
khách bằng xe buýt. Vì vậy, đánh giá hiệu quả kinh tế của dịch vụ vận tải hành
khách công cộng hiện nay không thể không đánh giá kết quả công tác quản lý và
sử dụng các nguồn vốn được giao, thể hiện ở việc sử dụng nguồn vốn đó có đúng
24
27. mục đích hay không? Nguồn vốn có bị thất thoát hay không? Mức độ thất thoát
nhiều hay ít? Mức độ huy động và khai thác các nguồn vốn như thế nào? Và mức
độ gia tăng của vốn đầu tư cao hay thấp? Tuy nhiên, việc đánh giá hiệu suất đầu
tư ở đây khác với các doanh nghiệp kinh doanh vận tải thông thường ở chỗ không
chỉ thông qua tính toán hiệu quả gia tăng của đồng vốn, mà còn phải đánh giá
hiệu suất trên cơ sở dựa vào kết quả đáp ứng nhu cầu phát triển KT - XH nói
chung.
- Hiệu quả quản lý, khai thác, sử dụng phương tiện, trang thiết bị của các
doanh nghiệp vận tải hành khách bằng xe buýt.
Các doanh nghiệp vận tải hành khách bằng xe buýt ở các đô thị, nhất là
những đô thị lớn ở nước ta hiện nay có số lượng và giá trị tài sản tương đối lớn.
Với điều kiện khí hậu thời tiết và hệ thống hạ tầng giao thông chưa phát triển ở
nước ta hiện nay đã làm cho mức độ xuống cấp của các phương tiện giao thông
rất nhanh. Vì vậy, đánh giá hiệu quả kinh tế của các doanh nghiệp này còn phải
dựa vào mức độ phù hợp trong tính toán khấu hao phương tiện và các trang thiết
bị của doanh nghiệp. Đến lượt nó, khấu hao phù hợp hay không phù hợp lại tùy
thuộc vào khả năng quản lý, khai thác và sử dụng phương tiện và các trang thiết
bị của các doanh nghiệp.
Thứ ba, chất lượng hệ thống dịch vụ và tỷ lệ tăng lên của người dân
tham gia sử dụng dịch vụ vận tải hành khách bằng xe buýt ở các đô thị
- Chất lượng hệ thống dịch vụ: Chất lượng hệ thống dịch vụ phụ thuộc
chủ yếu vào số lượng và chất lượng con người và phương tiện, trang thiết bị
trong các doanh nghiệp vận tải hành khách bằng xe buýt. Trong đó, chất lượng
của đội ngũ lái xe và nhân viên phục vụ là trực tiếp và quyết định. Vì vậy, để
đánh giá chất lượng hệ thống dịch vụ vận tải hành khách bằng xe buýt, trước hết
cần đánh giá đầy đủ về số lượng, chất lượng và cơ cấu của đội ngũ này.
- Tỷ lệ tăng lên của người dân tham gia sử dụng dịch vụ vận tải hành
khách bằng xe buýt ở các đô thị: Chỉ số này phản ánh cả hiệu quả kinh tế và hiệu
25
28. quả xã hội của dịch vụ vận tải hành khách bằng xe buýt. Bởi vì, khi số lượng
người dân sử dụng dịch vụ tăng lên thì không chỉ doanh thu của doanh nghiệp
tăng lên mà các mục tiêu khác về giao thông đặt ra cho xe buýt cũng sẽ thực hiện
được. Đánh giá tỷ lệ tăng lên của dân cư tham gia sử dụng dịch vụ vận tải hành
khách bằng xe buýt không chỉ dựa vào số liệu thống kê về số lượng vé bán ra, vào
báo cáo của doanh nghiệp mà còn phải dựa vào kết quả khảo sát, đánh giá đúng
thực trạng hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Khắc phục tình
trạng các số liệu báo cáo chưa phản ánh đúng với tình hình thực tiễn sản xuất
kinh doanh của một số doanh nghiệp, nhất là những doanh nghiệp chưa xã hội
hóa.
Thứ tư, mức độ đóng góp của dịch vụ vận tải hành khách bằng xe buýt
vào mục tiêu giảm thiểu ô nhiễm môi trường, khắc phục ùn tắc giao thông và
kiềm chế tai nạn giao thông ở các đô thị hiện nay.
- Mức độ khí thải, tiếng ồn của xe buýt so với việc sử dụng các phương
tiện giao thông khác.
- Tỷ lệ đóng góp của xe buýt trong khắc phục ùn tắc giao thông ở các
đô thị (tính toán dựa trên tỷ lệ cư dân sử dụng xe buýt với tỷ lệ cư dân sử dụng
các phương tiện giao thông cá nhân trong các đô thị).
- Mức độ bảo đảm an toàn giao thông và kiềm chế tai nạn giao thông
của xe buýt so với các phương tiện giao thông khác (được tính toán dựa trên tỷ
lệ phần trăm giữa số người tăng lên do sử dụng dịch vụ xe buýt với số vụ tai
nạn giao thông trong một khoảng thời gian xác định)
1.2.2. Những nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả kinh tế - xã hội trong
vận tải hành khách bằng xe buýt
Hiệu quả KT - XH trong vận tải hành khách công cộng bằng xe buýt
chịu sự chi phối bởi những nhân tố cơ bản sau đây:
Một là, cơ chế, chính sách phát triển dịch vụ vận tải hành khách bằng
xe buýt.
26
29. Cơ chế, chính sách có tác động to lớn, nhanh chóng và trực tiếp đến phát
triển dịch vụ vận tải hành khách công cộng nói chung, vận tải hành khách bằng
xe buýt nói riêng. Một cơ chế, chính sách phù hợp sẽ có tác dụng thúc đẩy dịch
vụ này phát triển làm gia tăng hiệu quả KT - XH và ngược lại nó sẽ kìm hãm
sự phát triển, làm giảm hiệu quả KT - XH.
Cơ chế, chính sách biểu hiện mức độ quan tâm của nhà nước (Chính
phủ, Bộ Giao thông Vận tải, chính quyền các đô thị) đối với dịch vụ vận tải
hành khách bằng xe buýt. Sự quan tâm này được thể hiện thông qua việc nhà
nước tạo ra hành lang pháp lý thuận lợi để dịch vụ vận tải này phát triển như:
Đầu tư về phương tiện, trang thiết bị và khoa học - công nghệ; quy hoạch và
phát triển hạ tầng giao thông đô thị (điểm đỗ, nhà chờ, đường dành riêng cho
xe buýt...); xây dựng các lộ trình, kế hoạch phát triển mạng lưới xe buýt trong
từng giai đoạn; thực hiện nhiều chính sách ưu đãi về tài chính nhằm khuyến
khích các doanh nghiệp vận tải hành khách bằng xe buýt mở rộng sản xuất,
nâng cao chất lượng dịch vụ; thực hiện chính sách trợ giá nhằm khuyến khích
người dân sử dụng xe buýt thay cho các phương tiện giao thông cá nhân.v.v...
Kinh nghiệm thực tiễn của một số quốc gia có dịch vụ vận tải hành
khách bằng xe buýt phát triển trong khu vực như Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn
Quốc... cho thấy, nếu không có hệ thống cơ chế, chính sách hợp lý, biểu thị sự
quan tâm đầu tư của nhà nước, đặc biệt là sự đầu tư ban đầu và hoạt động “đầu
tư mồi” thông qua việc xây dựng hệ thống hạ tầng giao thông đô thị liên hoàn,
hiện đại, khoa học và hoàn chỉnh thì không thể có sự phát triển của loại hình
dịch vụ vận tải này. Với nước ta, hiện tại, dịch vụ vận tải hành khách bằng xe
buýt ở các đô thị đã bước vào giai đoạn “bão hòa”, vì vậy, để thúc đẩy nó phát
triển cần tiếp tục tạo “cú huých” cho nó bằng một hệ thống cơ chế, chính sách
thông thoáng và ổn định nhằm tạo ra sự yên tâm trong đầu tư, mở rộng sản
xuất, nâng cao chất lượng dịch vụ của các doanh nghiệp.
27
30. Hai là, vốn đầu tư cho dịch vụ vận tải hành khách bằng xe buýt
Vốn đầu tư là một yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất kinh doanh.
Vì vậy, vốn và hiệu quả sử dụng vốn đầu tư có quan hệ chặt chẽ với mức độ
đạt được về hiệu quả KT - XH của các doanh nghiệp vận tải hành khách
bằng xe buýt.
Hiện tại, vốn đầu tư cho các doanh nghiệp kinh doanh vận tải hành
khách bằng xe buýt trong các đô thị nước ta bao gồm:
Vốn của nhà nước: là nguồn vốn quan trọng, tập trung chủ yếu vào
việc đầu tư ban đầu cho mua sắm phương tiện, xây dựng hạ tầng giao thông
và thực hiện việc hỗ trợ về giá vé cho người sử dụng. Nguồn vốn này tác
động có tính chất hai mặt đối với hiệu quả KT - XH của dịch vụ vận tải
hành khách bằng xe buýt. Mặt tích cực ở chỗ nó có tác dụng kích thích hoạt
động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp từ đó làm tăng hiệu quả KT
- XH của dịch vụ vận tải này. Mặt tiêu cực ở chỗ, nếu đầu tư quá lớn và
thực hiện các chính sách hỗ trợ, ưu tiên phát triển không theo các quy luật
của thị trường thì rất dễ rơi vào tình trạng bao cấp, là nguyên nhân xuất hiện
những tiêu cực trong sản xuất kinh doanh.
Vốn của doanh nghiệp: vốn của các doanh nghiệp có vai trò chủ yếu,
quyết định đến hiệu quả KT - XH của dịch vụ vận tải hành khách bằng xe buýt.
Vốn của doanh nghiệp được hình thành từ các nguồn chủ yếu sau: vốn tích luỹ
được trong quá trình sản xuất kinh doanh; vốn vay từ các ngân hàng; nguồn thu
từ hoạt động quảng cáo trên phương tiện và các nguồn vốn hợp pháp khác...
Thực hiện chủ trương xã hội hóa các doanh nghiệp vận tải hành khách bằng xe
buýt, trong các đô thị ở nước ta hiện nay đã xuất hiện ngày càng nhiều các tuyến
buýt được xã hội hóa. Ưu điểm của những tuyến buýt này là lựa chọn được các
nhà đầu tư khác nhau, các thành phần kinh tế khác nhau cùng cạnh tranh trong
cung ứng dịch vụ. Nhà nước không phải đầu tư ban đầu về phương tiện, giảm áp
28
31. lực kinh tế cho ngân sách. Tuy nhiên, áp lực lớn về tài chính đối với các doanh
nghiệp xã hội hóa, tình trạng phân biệt đối xử và sự chênh lệch về quy mô, trình
độ, kinh nghiệm sản xuất kinh doanh giữa các doanh nghiệp xã hội hóa với các
doanh nghiệp kinh doanh theo hình thức “đặt hàng” cũng ảnh hưởng không nhỏ
đến chất hiệu quả KT - XH ở các tuyến buýt này.
Ba là, trình độ và khả năng tổ chức quản lý sản xuất kinh doanh của
các doanh nghiệp vận tải hành khách bằng xe buýt.
Trình độ và khả năng tổ chức quản lý sản xuất kinh doanh có ảnh
hưởng trực tiếp đến chất lượng và hiệu quả cung ứng dịch vụ của các doanh
nghiệp. Theo đó, nếu các doanh nghiệp vận tải hành khách bằng xe buýt có
năng lực quản lý tốt, bộ máy quản lý tinh gọn, sắp xếp hợp lý và thích ứng
nhanh với những biến đổi của kinh tế thị trường thì chất lượng và hiệu quả của
dịch vụ sẽ tăng lên. Ngược lại, bộ máy cồng kềnh, chất lượng thấp sẽ làm tăng
chi phí quản lý, giảm hiệu quả KT - XH của dịch vụ.
Thực tiễn hiện nay, năng lực tổ chức điều hành, quản lý của ban quản
lý trong một số doanh nghiệp vừa thiếu, vừa yếu và chưa đồng bộ cả về số
lượng và chất lượng nên vai trò quản lý còn mờ nhạt. Việc thiếu kiểm soát
hoạt động đối với nhân viên và đội ngũ lái xe thuộc quyền là một trong những
nguyên nhân gây nên tình trạng lộn xộn, dịch vụ kém chất lượng của không ít
tuyến buýt trong các đô thị ở nước ta hiện nay. Vì vậy, nâng cao trình độ tổ
chức quản lý, điều hành hoạt động của ban quản lý trong các doanh nghiệp
(hợp tác xã) xe buýt là việc làm thiết thực để nâng cao hiệu quả KT - XH của
loại hình vận tải này.
Bốn là, số lượng và chất lượng nguồn nhân lực trong các doanh nghiệp
vận tải hành khách bằng xe buýt.
Số lượng và chất lượng nguồn nhân lực mà trực tiếp là đội ngũ lái xe
và nhân viên có ảnh hưởng trực tiếp đến việc tạo dựng thương hiệu của dịch vụ
29
32. vận tải hành khách bằng xe buýt. Nó có thể làm tăng hoặc giảm niềm tin và
mức độ ủng hộ của người dân vào dịch vụ xe buýt và theo đó là tăng hoặc
giảm hiệu quả KT - XH. Một đội ngũ nhân viên và lái xe có đủ về số lượng,
tinh thần và thái độ phục vụ tốt, chấp hành nghiêm chỉnh luật lệ giao thông và
các quy định của doanh nghiệp sẽ đóng góp một phần quan trọng trong việc tạo
dựng thương hiệu cho doanh nghiệp. Trái lại, nếu đội ngũ này không đáp ứng
được về số lượng, thái độ và hành vi ứng xử thiếu văn minh, lịch sự, chấp hành
không nghiêm chỉnh luật lệ giao thông và các quy định của doanh nghiệp thì
chẳng những không tạo dựng được thương hiệu mà còn trở thành rào cản lớn
đối với người dân đến với dịch vụ vận tải bằng xe buýt. Vì vậy, để nâng cao
hiệu quả KT - XH, tạo dựng thương hiệu cho dịch vụ vận tải hành khách công
cộng bằng xe buýt trong các đô thị ở nước ta hiện nay cần phải nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực. Trong đó, chấn chỉnh và tạo dựng nét đẹp trong văn hóa
ứng xử của đội ngũ lái xe và nhân viên phục vụ là công việc hàng đầu, cấp bách.
Năm là, sự phát triển của khoa học - công nghệ và mức độ ứng dụng
khoa học - công nghệ trong sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
Sự phát triển của hoa học - công nghệ và mức độ ứng dụng chúng
trong thực tiễn có quan hệ tỷ lệ thuận với hiệu quả KT - XH trong các doanh
nghiệp vận tải hành khách bằng xe buýt.
Hiện nay, hệ thống xe buýt trong các đô thị, nhất là trong các thành phố lớn
ở nước ta được trang bị tương đối hiện đại. Nhiều công nghệ mới đã được thử
nghiệm thành công và đưa vào sử dụng trong khai thác, quản lý và vận hành ở một
số tuyến buýt đem lại hiệu quả thiết thực như: hệ thống giám sát hành trình bằng
công nghệ định vị vệ tinh GPRS; công nghệ giám sát trật tự an ninh bằng Camera
trên xe và tại các điểm chờ xe buýt; hệ thống bảng hướng dẫn nhà chờ trên xe
bằng đèn Led. Đặc biệt, mới đây Tổng Công ty Vận tải Hà Nội (Transerco) đã
chính thức đưa vào sử dụng phần mềm bản đồ tìm đường xe buýt Hà Nội.
30
33. Việc ứng dụng khoa học - công nghệ tiên tiến nói trên sẽ tạo ra sự
thuận tiện cho hành khách trong việc tra cứu luồng, tuyến, địa điểm, lịch trình
của xe buýt - một trong những tiêu chí quan trọng để nâng cao chất lượng của
loại hình dịch vụ vận tải này. Tuy nhiên, không phải cứ ứng dụng công nghệ
tiên tiến, hiện đại vào sản xuất kinh doanh là có ngay hiệu quả kinh tế xã hội
cao. Vì vậy, việc ứng dụng khoa học - công nghệ phải tính đến các yếu tố như:
khả năng tài chính của doanh nghiệp; khả năng và mức độ sử dụng của của
người dân (chủ yếu là cư dân đô thị). Đồng thời, phải nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực của doanh nghiệp để có thể làm chủ, khai thác và sử dụng có
hiệu quả các công nghệ đó.
Sáu là, sự đồng thuận của xã hội và sự ủng hộ của người dân.
Đồng thuận của xã hội và sự ủng hộ của người dân có vai trò rất to lớn
đối với mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Vận tải hành khách bằng xe buýt là một
loại hình dịch vụ công nên muốn tồn tại và phát triển lại càng cần phải có sự đồng
thuận của toàn xã hội và sự ủng hộ của người dân. Sự đồng thuận xã hội tăng lên
cũng đồng nghĩa với việc ngày càng có nhiều người tin tưởng và sử dụng xe buýt
thay thế cho các phương tiện giao thông cá nhân. Khi đó, mục tiêu “kiềm chế tai
nạn, giảm ùn tắc giao thông, hạn chế ô nhiễm môi trường và tiết kiệm chi phí cho
xã hội” sẽ đạt được, nghĩa là, hiệu quả KT - XH sẽ tăng lên.
Tuy vậy, không phải ngẫu nhiên có sự đồng thuận của xã hội và sự
ủng hộ của người dân đối với dịch vụ vận tải hành khách bằng xe buýt. Nó
chỉ có thể có được thông qua thực hiện đồng thời nhiều biện pháp như:
tuyên truyền giáo dục, thuyết phục và vận động tới mọi người dân, trước
hết là cư dân đô thị lựa chọn sử dụng xe buýt trong tham gia giao thông.
Đặc biệt, cần phải không ngừng nâng cao chất lượng dịch vụ, làm cho
người dân thấy được những lợi ích thực sự của loại hình dịch vụ vận tải
này. Khi đó, mức độ ủng hộ của họ chắc chắn sẽ tăng lên.
31
34. *
* *
Trong Chương 1, tác giả đã đi sâu phân tích làm rõ cơ sở lý luận cơ bản
đánh giá hiệu quả kinh tế xã hội vận tải hành khách công cộng bằng xe buýt ở
Hà Nội. Trên cơ sở đó, tác giả đã đưa ra quan niệm của mình về hiệu quả kinh
tế xã hội vận tải hành khách công cộng bằng xe buýt của Tổng Công ty Vận tải
Hà Nội hiện nay. Đồng thời, làm rõ nội hàm của khái niệm trên các vấn đề: chủ
thể, nội dung, phương thức và mục đích của đặc điểm giao thông vận tải đô thị
và hệ thống vận tải bằng xe buýt ở Hà Nội. Tác giả đã đưa ra nhóm tiêu chí đánh
giá hiệu quả kinh tế xã hội trong vận tải hành khách công cộng và những nhân tố
ảnh hưởng đến hiệu quả kinh tế xã hội trong vận tải hành khách bằng xe buýt của
Tổng công ty vận tải Hà Nội. Đây là những cơ sở lý luận quan trọng để tác giả
khảo sát thực trạng hiệu quả kinh tế xã hội vận tải hành khách công cộng bằng
xe buýt của Tổng Công ty Vận tải Hà Nội ở Chương 2.
32
35. Chương 2
THỰC TRẠNG HIỆU QUẢ KINH TẾ - XÃ HỘI TRONG VẬN TẢI
HÀNH KHÁCH BẰNG XE BUÝT CỦA TỔNG CÔNG TY VẬN TẢI
HÀ NỘI
2.1. Khái quát quá trình hình thành và phát triển của Tổng Công
ty Vận tải Hà Nội
Công ty xe buýt Hà Nội tiền thân là Công ty xe khách Thống nhất Hà
Nội được thành lập ngày 19/12/1962. Ngày 24/02/1992 UBND Thành phố
Hà Nội có Quyết định số 343/QĐ-TCCQ thành lập Công ty xe buýt Hà Nội;
Công ty Vận tải hành khách phía Bắc; Công ty Vận tải hành khách phía Nam
trên cơ sở tổ chức lại Công ty xe khách Thông Nhất; Xí nghiệp bến xe và
Bến xe phía Nam Hà Nội. Trước những yêu cầu phát triển trong giai đoạn
mới và để góp phần giải quyết bài toán ùn tắc giao thông cho thủ đô Hà Nội,
Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Thành phố lần thứ XIII đề ra mục tiêu củng cố
và nhanh chóng phát triển xe buýt công cộng. Và Quyết định số
45/2001/QĐ-UB ngày 29/06/2001 của UBND Thành phố thành lập Công ty
Vận tải và Dịch vụ công cộng Hà Nội trên cơ sở hợp nhất nguyên trạng 4
Công ty; Công ty Xe buýt Hà Nội, Công ty Xe khách Nam Hà Nội, Công ty
Xe du lịch Hà Nội và Công ty Xe điện Hà Nội là một quyết sách táo bạo,
mang tính đột phá để tạo ra một Đơn vị đủ tầm đưa giao thông công cộng
Thủ đô bứt phá.
Có thể nói, bước đầu tiên của Công ty Vận tải và Dịch vụ công cộng
Hà Nội đã tạo nên một bước ngoặt mới, chuẩn bị cho bước chuyển mình
mang tầm vĩ mô hơn của Tổng công ty Vận tải Hà Nội vào năm 2004.
Ngày 14/5/2004, theo Quyết định số 72/2004/QĐ – UB của UBND
thành phố Hà Nội, Tổng công ty Vận tải Hà Nội – Transerco ra đời. Đây là
kết quả của việc sắp xếp, đổi mới để nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh
33
36. dịch vụ công cộng thiết yếu cho Thủ đô như: Vận chuyển hành khách
công cộng bằng xe buýt, dịch vụ bến bãi, điểm đỗ xe công cộng, trong thời
gian tới ưu tiên phát triển các loại hình cung ứng các phương thức vận tải
nhanh, khối lượng lớn.
Tổng công ty được tổ chức và hoạt động theo mô hình Tổng công ty do
các công ty tự đầu tư và thành lập (Công ty mẹ - Công ty con). Trong đó
Tổng công ty Vận tải Hà Nội giữ vai trò công ty mẹ trực tiếp thực hiện các
hoạt động kinh doanh của mình và thực hiện các quyền và nghĩa vụ của chủ
sở hữu hoặc cổ đông, thành viên góp vốn tại các công ty trực thuộc.
Cơ cấu tổ chức của Transerco thời kỳ đầu thành lập gồm Công ty
mẹ: Với 10 Đơn vị phụ thuộc gồm: (1) Xí nghiệp Xe buýt Hà Nội; (2) Xí
nghiệp Xe buýt Thủ đô; (3) Xí nghiệp Xe buýt Thăng Long; (4) Xí nghiệp
Xe buýt 10-10; (5) Xí nghiệp Toyota Hoàn Kiếm; (6) Xí nghiệp Kinh
doanh tổng hợp Hà Nội; (7) Xí nghiệp Xe khách Nam Hà Nội; (8) Xí
nghiệp Xe Điện Hà Nội; (9) Xí nghiệp Trung đại tu ôtô Hà Nội; (10) Trung
tâm Vận tải hành khách liên tỉnh và du lịch. Và 9 Công ty con gồm: 7
doanh nghiệp Nhà nước: Công ty Quản lý bến xe Hà Nội; Công ty Khai
thác điểm đỗ xe Hà Nội; Công ty Vận tải thủy Hà Nội; Công ty Vận tải
đường biển Hà Nội; Công ty Đóng tàu Hà Nội; Công ty Xây dựng giao
thông đô thị Hà Nội; Công ty Xăng dầu chất đốt Hà Nội. Và 2 Công ty cổ
phần Nhà nước giữ cổ phần chi phối: CTCP Xe khách Hà Nội; CTCP Vận
tải và dịch vụ hàng hóa Hà Nội. Và 4 Công ty liên kết gồm: 1 Công ty cổ
phần Nhà nước không giữ chi phối: CTCP Taxi CP Hà Nội. và 3 Công ty
liên doanh nước ngoài: Liên doanh Toyota TC Hà Nội; Công ty Liên doanh
Sakura Hanoi Plaza; Công ty TNHH Phát triển Giảng Võ.
Vận tải hành khách . Qua từng năm đã có sự đầu tư lớn
về số lượng xe buýt và tuyến buýt, với tỉ lệ tăng hàng năm là hơn 10%;
đồng thời nâng cao chất lượng dịch vụ, nhằm đáp ứng nhu cầu đi lại của
34
37. người dân ngày một tăng, góp phần đáng kể vào việc giảm ùn tắc và giảm
tai nạn giao thông của thành phố.
2.2. Thành tựu, hạn chế về hiệu quả kinh tế - xã hội trong vận tải
hành khách bằng xe buýt của Tổng Công ty Vận tải Hà Nội trong thời
gian qua
Sự ra đời và phát triển của Tổng công ty Vận tải Hà Nội là đòi hỏi tất
yếu của khách quan của quá trình phát triển kinh tế xã hội, đặc biệt là từ yêu
cầu của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và xu thế hội nhập
kinh tế quốc tế. Thực tiễn đã chứng minh, trong những năm vừa qua vận tải
hành khách công cộng bằng xe buýt của Tổng công ty Vận tải Hà Nội đã
đóng góp một phần quan trọng trong việc tăng trưởng phát kinh tế của thủ
đô nó được thể hiện trên những nội dung sau.
2.2.1. Thành tựu cơ bản
Thứ nhất, Tổng công ty tương đối ổn định, doanh thu của công ty và
thu nhập của người lao động có sự tăng lên hàng năm.
4,24 triệu đồng/người/tháng, tăng 8% so với năm
2011. Trong năm
Thứ hai, nguồn vốn đầu tư và hệ thống phương tiện, trang thiết bị của
Tổng công ty được quản lý, khai thác và sử dụng đúng mục đích, có hiệu quả.
Hệ thống hạ tầng kỹ thuật được duy trì và tiếp tục đổi mới, phát triển
đảm bảo tạo điều kiện thuận lợi phục vụ tốt cho xe buýt hoạt động và hành
khách tiếp cận dịch vụ. Hiện nay, toàn mạng lưới hiện có 1.812 điểm dừng
đón trả khách (tăng 60% so với 2008) với 350 nhà chờ xe buýt (tăng 23% so
với 2008), 68 pano (tăng 51% so với 2008), 63 điểm đầu cuối (tăng 21% so
35
38. với 2008), 03 điểm trung chuyển (Long Biên, Cầu Giấy, Nhổn, tăng thêm 01
điểm tại Nhổn)[33.tr7].
Công tác kiểm tra giám sát hoạt động xe buýt được tăng cường và
đổi mới các hình thức hoạt động, góp phần quản lý tốt hơn ngân sách trợ
giá của Thành phố. Năm 2012, số lượt kiểm tra giám sát đã đạt trên 540
ngàn lượt/năm (tăng 508% so với 2008); số lượt xe được giám sát tăng
từ 2,8% năm 2008 lên 14,1%, năm 2012. Số biên bản xử lý vi phạm lập
được tăng từ 187 bản năm 2008 lên 1.839 bản năm 2012 (tăng 983%). Số
tiền thu từ xử phạt hợp đồng tăng từ 76,2 triệu đồng 2008 lên 701,2
triệu đồng năm 2012 (tăng 1.170%)[34.tr9]
Đặc biệt từ tháng 6/2012, Tổng công ty thí điểm triển khai cơ chế
thưởng và bồi hoàn vật chất đối với Giám đốc về thực hiện kế hoạch và đảm
bảo chất lượng phục vụ của xe buýt trong Tổng công ty, bước đầu đã có tác
dụng tích cực giúp cho bộ máy quản lý điều hành ở các Đơn vị vào cuộc một
cách quyết liệt hơn đã mang lại những hiệu quả thiết thực.
Thứ ba, chất lượng hệ thống dịch vụ từng bước được nâng lên, thu hút
ngày càng nhiều người sử dụng dịch vụ.
Sau thời điểm 01/08/2008, Hà Nội mở rộng địa giới hành chính, hoạt
động vận tải hành khách công cộng bằng xe buýt đã khắc phục khó khăn để
thực hiện tốt vai trò của mình. Tổng công ty đã tập trung nguồn lực đầu tư,
hoàn thành và đưa vào khai thác các dự án trọng điểm xây dựng Depot xe
buýt, đổi mới phương tiện và Gara đỗ xe cao tầng bằng giàn thép lắp ghép,
góp phần mở rộng và nâng cao chất lượng dịch vụ của Tổng công ty. Đến
nay, Tổng công ty đã hoàn thành đầu tư thay thế trên 150 xe buýt sàn bán
thấp, thân thiện với môi trường. Lắp đặt các bảng đèn LED thông tin hành
khách trên xe và tại một số điểm dừng nhà chờ; đã hoàn thành và đưa vào sử
dụng Gara đỗ xe bằng giàn thép lắp ghép đầu tiên ở Hà Nội tại 32 Nguyễn
Công Trứ, góp phần từng bước hiện thực hóa chủ trương xây dựng bãi xe
36
39. thông minh và tiết kiệm diện tích để giải quyết vấn đề bức xúc về giao thông
tĩnh ở nội thành của Thành phố.
Tổng công ty cũng đã cơ bản hoàn thành dự án 315 Trường Chinh,
hoàn thành công tác chuẩn bị mặt bằng xây dựng dự án Yên Viên. Các dự án
chuyển tiếp xây dựng depot xe buýt đang được triển khai đúng kế hoạch.
Công tác chuẩn bị đầu tư dự án 4 bến xe cửa ngõ Thủ đô đang được tích cực
triển khai, phấn đấu hoàn thành đúng tiến độ Thành phố giao.
Việc đầu tư nâng cao chất lượng dịch vụ đã làm cho số lượng hành
khách đi xe buýt của Tổng công ty tăng lên đáng kể. So với năm 2001, đến
nay số lượng xe buýt đã tăng 4 lần, hành khách đi xe buýt tăng 26 lần (từ 15
triệu năm 2001 lên 412 triệu khách năm 2013). Mỗi ngày Tổng công ty vận
chuyển trên một triệu khách, hạn chế gần 800 ngàn lượt xe máy tham gia
giao thông, trong đó có khoảng 250.000 người chủ yếu là học sinh, sinh viên
và cán bộ công chức đi xe buýt thường xuyên bằng vé tháng. Giờ cao điểm
xe buýt đã vận chuyển được trên 30% lưu lượng khách trên các trục đường
chính của Thủ đô.
Thành phố có 86 tuyến (tăng 13% với 2008); vận chuyển được trên 412
Hà Nội đã thực hiện gần 250 lượt điều chỉnh mạng lưới (năm 2008 điều chỉnh
13 lần/13 tuyến; năm 2009 điều chỉnh 84 lần/46 tuyến; năm 2010 điều chỉnh 38
lần/29 tuyến; năm 2011 điều chỉnh 46 lần/30 tuyến; năm 2012 điều chỉnh 67
lần/42 tuyến)[34.tr6].
Bên cạnh đó, bằng việc triển khai đồng bộ các chủ chương chính sách
của lãnh đạo Tổng công ty, chất lượng dịch vụ xe buýt đã có nhiều chuyển
biến tích cực. Hiện tượng tùy tiện bỏ điểm dừng đỗ, bỏ chuyến lượt, chạy sai
biểu đồ đã giảm đáng kể. Thái độ phục vụ, văn minh xe buýt đã được cải
thiện, những hình ảnh đẹp về sự giúp đỡ và nhường ghế cho người già,
37
40. người khuyết tật, phụ nữ, trẻ em, trả lại tài sản cho khách… ngày càng phổ
biến. Năm 2013 Số lượt xe buýt bỏ do tắc đường và hỏng xe đã giảm gần
40%, thông tin phản ánh vi phạm chất lượng phục vụ giảm 50% so với năm
2010 hiện tượng trộm cắp về cơ bản đã được giải quyết.
Thứ tư, hoạt động vận tải hành khách của Tổng công ty đã góp phần giảm
thiểu ùn tắc và tai nạn giao thông, tạo dựng môi trường văn minh đô thị
Khẳng định xe buýt chính là “chìa khóa” giải quyết tận gốc bài toán ùn
tắc giao thông đô thị. Với chủ chương ưu tiên phát triển xe buýt của thành
phố đã tạo điều kiện thuận lợi cho xe buýt phát triển và có tác dụng tích cực
trong việc hạn chế ùn tắc giao thông, tạo thói quen đi lại bằng phương tiện
công cộng và văn hóa cộng đồng nét đặc trưng của văn minh đô thị hiện đại.
Hiện nay, Hà Nội có năm đơn vị tham gia hoạt động vận tải hành khách
công cộng. Trong đó Tổng công ty Vận tải Hà Nội (Transerco) giữ vai trò
chủ lực khi chiếm 80% số tuyến, 83,8% đoàn phương tiện, sản lượng hành
khách năm 2013 đạt 412 triệu lượt, chiếm 90,1% tổng sản lượng hành khách
đi lại bằng xe buýt của Hà Nội.
Đặc biệt, trong dịp Đại lễ Kỷ niệm 1000 năm Thăng Long – Hà Nội,
Transerco đã chủ động phối hợp với các Sở Ban Ngành, tranh thủ sự hỗ trợ
của Thành phố triển khai nhiều giải pháp nâng cao chất lượng dịch vụ, đảm
bảo an ninh trật tự trên xe, trên tuyến hoàn thành tốt vai trò chủ đạo trong
vận chuyển xe buýt phục vụ người dân Thủ đô. Xe buýt của Transerco đã
thực hiện trên 1.200 lượt xe buýt miễn phí phục vụ nhu cầu đi lại vui chơi,
giải trí của nhân dân trong dịp Đại lễ 1.000 năm Thăng Long và Kỳ tuyển
sinh Đại học, Cao đẳng năm 2010.
Thời gian qua, vận tải hành khách công cộng bằng xe buýt ở nước ta đã
có những bước phát triển mạnh mẽ như Hà Nội, TP.HCM, Đắk Lắk, Thanh
Hóa, Thái Nguyên, Đồng Nai, Bình Dương, Hải Dương... Phát triển vận tải
38
41. hành khách công cộng luôn được xem là giải pháp hữu hiệu góp phần giảm
ùn tắc giao thông. Vận tải hành khách công cộng bằng xe buýt ở Hà Nội
hiện đang giữ vai trò chủ đạo phục vụ người dân đi lại ở thủ đô. Nếu như
năm 2003 với 41 tuyến và gần 700 đầu xe vận chuyển 174 triệu hành khách,
thì năm 2013 tăng lên 86 tuyến và 1.308 đầu xe vận chuyển 412 triệu lượt
hành khách, năm 2014 công ty xác định vận chuyển khoảng 460 triệu lượt
hành khách[34, tr10].Cũng từ đây, số người dùng xe buýt sẽ tăng lên sẽ trực
tiếp làm giảm số lượng phương tiện giao thông cá nhân trên đường, qua đó
giảm nạn ách tắc giao thông. Vì vậy, các cơ quan, doanh nghiệp phải quan
tâm hơn đến áp dụng công nghệ tự động hóa trong quản lý hoạt động, trong
tổ chức bán vé, hạn chế sự tham gia của con người; Kết nối các loại phương
tiện vận tải hành khách công cộng hiệu quả; lắp đặt và khai thác tốt thiết bị
giám sát hành trình; đổi mới phương tiện buýt theo hướng thân thiện môi
trường.
Hiện nay,
i đã và đang áp dụng thưởng chất lượng phục vụ đối với đội ngũ lái xe và đội
ngũ bán vé để kịp thời động viên, khuyến khích người lao động có trách nhiệm
hơn trong quá trình thực hiện nhiệm vụ. Với vị trí lãnh đạo thì áp dụng cơ chế
thưởng phạt trách nhiệm của Giám đốc các đơn vị xe buýt về chất lượng phục
vụ, đặc biệt là gắn trách nhiệm cá nhân của Giám đốc các đơn vị đối với các vụ
tai nạn giao thông nghiêm trọng. Vì vậy số vụ tai nạn giảm dần hằng năm trên
cả ba tiêu chí.
Như vậy, Xe buýt đã trở thành bạn đường, trở thành một phần trong
cuộc sống của người dân Thủ đô. Nhiều hơn thế, xe buýt đã có những đóng
góp tích cực trong việc giảm ùn tắc và đảm bảo trật tự an toàn giao thông:
Trên 10 ngàn lượt xe và với trên 1 triệu lượt hành khách mỗi ngày của xe
39
42. buýt đã hạn chế được trên 700 ngàn lượt xe máy tham gia giao thông, giảm
đi phần nhiều nhịp độ ồn ào, chật chội, đông đúc, góp phần giản thiểu tình
trạng ô nhiễm môi trường của nhiều tuyến đường chính của Thủ đô.
Trong những năm tới, nhà nước đã có kế hoạch đầu tư phát triển một
số loại hình vận tải hành khách công cộng có khối lượng lớn như tàu điện
ngầm, tàu điện trên cao, xe buýt vận chuyển khối lượng lớn (BRT) tại Hà
Nội. Tuy nhiên, hiện nay và trong tương lai gần, khả năng đưa các phương
tiện vận tải khối lượng lớn vào hoạt động là chưa nhiều. Chính vì vậy, vận
tải hành khách công cộng bằng xe buýt sẽ vẫn giữ vai trò chính trong hệ
thống vận tải hành khách công cộng giai đoạn từ nay đến năm 2020.
2.2.2. Hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế
* Một số hạn chế
Bên cạnh những kết quả đạt được như đã nêu trên, quá trình xây dựng
phát triển vận tải hành khách bằng xe buýt của Tổng Công ty vận tải Hà Nội
thời gian qua vẫn còn bộc lộ một số hạn chế như sau:
Thứ nhất, tính ổn định và bền vững trong hoạt động sản xuất kinh
doanh của Tổng công ty chưa cao, .
qua, T , chất lượng dịch vụ có mặt còn có mặt chưa đáp ứng tốt yêu
cầu của hành khách. Do nhu cầu đi lại của người dân thủ đô ngày càng tăng,
đòi hỏi chất lượng phục vụ ngày một cao trong khi hạ tầng xe buýt còn thiếu
và thấp kém như không có đường riêng, làn riêng. Do vậy, giao thông xe
buýt phải chạy chung với dòng giao thông hỗn hợp, có nhiều thành phần
phương tiện, khác nhau, rất khó nâng cao tốc độ và dễ xảy ra va chạm. Theo
tính toán của các nhà hoạch định chính sách, năm 2008, lượng hành khách
cần vận chuyển của Tổng công ty khoảng từ 12-14% trong tổng số hành
khách. Tuy nhiên, trên thực tế, Tổng công ty mới chỉ đáp ứng được khoảng
7-8% (đến nay, con số này cũng mới chỉ đạt khoảng từ 9 - 10%). Như vậy, so
40
43. với nhu cầu của thực tiễn thì năng lực vận tải hành khách của Tổng công ty
cần phải tăng thêm từ 4 - 5% nữa. Đây là một thách thức lớn đối với Tổng
công ty trong điều kiện giao thông hiện nay. Mặt khác, ngân sách trợ giá của
Thành phố cho Tổng công ty có xu hướng ngày càng tăng lên (năm 2009 là
500 tỷ đồng; năm 2014 là 800 tỷ đồng; giá vé xe buýt cũng tăng lên (từ thời
điểm 1/5/2014 giá vé xe buýt ở Hà Nội đã đồng loạt tăng từ 28 đến 40% đối
với vé lượt và từ 11 đến 43% với vé tháng). Thực trạng trên cho thấy, việc
tăng doanh thu của doanh nghiệp và thu nhập của người lao động trong
những năm gần đây chưa hẳn đã hoàn toàn do kết quả của hoạt động sản xuất
kinh doanh của Tổng công ty đem lại.
Thứ hai, công tác quản lý, kiểm tra giám sát đối với hoạt động sản xuất
kinh doanh của Tổng công ty còn một số hạn chế, bất cập.
Công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động xe buýt còn nhiều bất
cập như: chưa có sự điều hành, kiểm tra, giám sát thường xuyên của các cơ
quan quản lý nhà nước các cấp đối với hoạt động xe buýt, thiếu cơ chế kiểm
tra, giám sát, chưa có chế tài xử lý vi phạm trong hoạt động xe buýt. Vì vậy,
các biểu hiện tiêu cực trong vận tải hành khách công cộng ở Tổng công ty
trong những năm gần đây tuy có giảm song mức độ còn chậm và chưa vững
chắc. Trong số gần 2.000 các vụ việc vi phạm quy định về hoạt động xe
buýt đã xử lý trong năm 2013 thì có 58,5% vi phạm về bán vé, 8,5 % vi
phạm về chất lượng phương tiện, 6% chạy sai biểu đồ, dừng đỗ sai quy
định, 1,1% chạy sai lộ trình 0,4% vi phạm thái độ phục vụ của lái xe, phụ
xe, vẫn còn tình trạng xe buýt vi phạm luật giao thông như vượt đèn đỏ,
phóng nhanh vượt ẩu, sử dụng còi hơi tuỳ tiện, tình trang trộm cắp trên xe
buýt vẫn còn diễn biến phức tạp. Theo báo cáo kết qủa phòng chống tội
phạm hình sự trên các tuyến xe buýt của Tổ công tác 142 Công an Thành
phố Hà Nội trong 6 tháng đầu năm 2013 đã phát hiện, bắt giữ, xử lý trên các
41
44. tuyến xe buýt và tại các điểm đỗ xe buýt là 87 vụ với 123 đối tượng.
Thứ ba, chất lượng dịch vụ của Tổng công ty chưa theo kịp với đòi hỏi
của thực tiễn
Theo kết quả lấy ý kiến hành khách về chất lượng phục vụ của xe buýt
năm 2013 của Tổng công ty cho thấy: 65% số hành khách được hỏi đều phàn
nàn là chậm giờ, 16% phàn nàn về thái độ phục vụ kém, 5% kêu ca về tệ nạn
trên xe và 4% lo lắng vì lái xe chạy ẩu. Từ đầu năm 2014 đến nay, Trung tâm
quản lý điều hành giao thông đô thị Hà Nội đã lập gần 1.200 biên bản xe buýt
vi phạm quy định hoạt động (tăng 185% so với cùng kỳ năm 2010), trong đó,
40% là vi phạm về doanh thu, hơn 12% chạy sai lộ trình, 5,5% chạy không
đúng biểu đồ, 8,4% dừng đón trả khách không đúng quy định.
Khoảng cách điểm dừng, đón trả khách một số tuyến chưa hợp lý,
không thuận tiện cho nhân dân, việc bố trí tiếp cận xe buýt còn gặp rất nhiều
khó khăn vì chưa có phương tiện trung chuyển thu gom khách kết nối các
tuyến với nhau, các tuyến thường hoạt động độc lập, thiếu liên kết. Các trạm
dừng xe buýt thường xa nơi ở của người dân gây ùn tắc giao thông. Mặt
khác, do chi phí cao dẫn đến lợi nhuận thấp, thời gian di chuyển bị kéo dài,
hiện tượng chậm giờ, bỏ bến vẫn xảy ra, thái độ phục vụ ở một số tuyến buýt
chưa tốt, chưa đảm bảo an toàn tuyệt đối cho người dân và hành khách.
Chất lượng một số tuyến buýt xuống cấp, gây tiếng ồn, ô nhiễm môi
trường; việc kiểm soát vé còn lạc hậu, chủ yếu vẫn mang tính thủ công dẫn đến
tình trạng hỗn loạn trên xe, không bảo đảm tính văn minh, lịch sự nơi đô thị.
Thứ tư, mức độ đóng góp của Tổng công ty vào việc giảm thiểu ùn tắc
và tai nạn giao thông, ô nhiễm môi trường chưa nhiều
Xe buýt hiện nay vẫn được coi là một phương tiện hữu hiệu để giải
bài toán về ùn tắc và tai nạn giao thông, giảm thiểu ô nhiễm môi trường ở
tất cả các đô thị của nước ta, đặc biệt là ở Thủ đô Hà nội. Để thực hiện mục
42
45. tiêu đó, Thành phố Hà Nội đã quan tâm đầu tư lớn cho nâng cấp hệ thống hạ
tầng giao thông đô thị, phát triển nhanh mạng lưới các tuyến buýt, đầu tư
thông qua trợ giá vé, mua sắm phương tiện ngày càng tăng. Tuy nhiên, mức
độ đóng góp của xe buýt Hà Nội (trong đó Transerco chiếm tới 80% thị
phần) vào việc giảm thiểu ùn tắc và tai nạn giao thông chưa rõ nét. Thậm chí,
nhiều trường hợp chính xe buýt lại trở thành nguyên nhân gây ra tai nạn và ùn
tắc giao thông.
Theo số liệu thống kê của sở Giao thông Vận tải Hà Nội, trong năm
2013, riêng xe buýt đã trực tiếp liên quan đến 62 vụ tai nạn; ba tháng đầu
năm 2014, xe buýt cũng đã gây ra 11 vụ tai nạn. Tình trạng xe buýt phóng
nhanh, vượt ẩu, vượt đèn đỏ và vi phạm các quy định về an toàn giao thông
khác vẫn chưa được khắc phục triệt để gây bức xúc trong dư luận. Đặc biệt,
đến nay vẫn còn một lượng không nhỏ xe kém chất lượng đang hoạt động gây
ra tiếng ồn và khói bụi lớn làm ô nhiễm môi trường đô thị. Năm 2011 có tới
27% số xe buýt của Tổng công ty qua kiểm tra không đạt tiêu chuẩn khí thải,
đến cuối năm 2013, con số này vẫn còn ở mức khá cao là 20%. Với thực
trạng về chất lượng phương tiện như trên và ý thức chấp hành luật lệ giao
thông của một số lái xe, nhân viên phục vụ chưa tốt đã làm giảm đi tính ưu
việt của của xe buýt trong việc kiềm chế và giảm thiểu tai nạn giao thông,
hạn chế ô nhiễm môi trường ở Hà Nội.
* Nguyên nhân của hạn chế
- Nguyên nhân khách quan
Do chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu và những
khó khăn thách thức của nền kinh tế đất nước trong những năm qua nên các
doanh nghiệp xe buýt cũng như các doanh nghiệp khác gặp rất nhiều khó
khăn trong việc thu hút các nguồn lực cho đầu tư phát triển hệ thống vận tải
hành khách công cộng. Hơn nữa, việc người dân ít có thói quen sử dụng dịch
43