Nhận viết luận văn đại học, thạc sĩ trọn gói, chất lượng, LH ZALO=>0909232620
Tham khảo dịch vụ, bảng giá tại: https://vietbaitotnghiep.com/dich-vu-viet-thue-luan-van
Download luận án tiến sĩ ngành lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam với đề tài: Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số từ năm 1991 đến năm 2010, cho các bạn tham khảo
Luận án: Xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số tại Tuyên Quang
1. HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
LÝ THỊ THU
ĐẢNG BỘ TỈNH TUYÊN QUANG
LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ DÂN TỘC THIỂU SỐ
TỪ NĂM 1991 ĐẾN NĂM 2010
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
HÀ NỘI - 2016
2. HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
LÝ THỊ THU
ĐẢNG BỘ TỈNH TUYÊN QUANG
LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ DÂN TỘC THIỂU SỐ
TỪ NĂM 1991 ĐẾN NĂM 2010
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH : LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
MÃ SỐ : 62 22 03 15
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
1. PGS.TS NGUYỄN NGỌC HÀ
2. PGS.TS NGUYỄN DANH TIÊN
HÀ NỘI - 2016
3. LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu
của riêng tôi. Các số liệu nêu trong luận án là trung thực.
Những kết luận khoa học của luận án chưa từng được
công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
TÁC GIẢ LUẬN ÁN
Lý Thị Thu
4. MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU 7
1.1. Những công trình nghiên cứu liên quan đến luận án 7
1.2. Kết quả nghiên cứu liên quan đến luận án đã được giải quyết và những nội
dung luận án cần tập trung nghiên cứu 24
CHƯƠNG 2: CHỦ TRƯƠNG VÀ SỰ CHỈ ĐẠO CỦA ĐẢNG BỘ TỈNH
TUYÊN QUANG VỀ XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ DÂN
TỘC THIỂU SỐ TỪ NĂM 1991 ĐẾN NĂM 2000 26
2.1. Những yếu tố tác động đến xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số ở
Tuyên Quang 26
2.2. Chủ trương của Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang về xây dựng đội ngũ cán bộ
dân tộc thiểu số 50
2.3. Quá trình Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang chỉ đạo xây dựng đội ngũ cán bộ dân
tộc thiểu số từ năm 1991 đến năm 2000 62
CHƯƠNG 3: ĐẢNG BỘ TỈNH TUYÊN QUANG LÃNH ĐẠO ĐỔI MỚI
CÔNG TÁC XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ DÂN TỘC
THIỂU SỐ TỪ NĂM 2001 ĐẾN NĂM 2010 70
3.1. Quan điểm của Đảng về xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số trong thời
kỳ mới 71
3.2. Chủ trương đổi mới của Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang trong lãnh đạo xây dựng đội
ngũ cán bộ dân tộc thiểu số từ năm 2001 đến năm 2010 76
3.3. Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang chỉ đạo đổi mới công tác xây dựng đội ngũ cán
bộ dân tộc thiểu số từ năm 2001 đến năm 2010 80
CHƯƠNG 4: NHẬN XÉT VÀ KINH NGHIỆM 109
4.1. Nhận xét 109
4.2. Một số kinh nghiệm 131
KẾT LUẬN 147
CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN ĐÃ ĐƯỢC
CÔNG BỐ 151
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 152
PHỤ LỤC 164
5. DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
ATK : An toàn khu
BCHTW : Ban Chấp hành Trung ương
BTV : Ban Thường vụ
CNXH : Chủ nghĩa xã hội
HĐND : Hội đồng nhân dân
UBKT : Ủy ban kiểm tra
UBND : Ủy ban nhân dân
XHCN : Xã hội chủ nghĩa
6. 1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Chính sách cán bộ dân tộc thiểu số là một nội dung trọng yếu trong
chính sách dân tộc của Đảng, không chỉ có ý nghĩa trong việc đảm bảo quyền
tham chính của đồng bào các dân tộc, mà còn tạo ra yếu tố nội lực thúc đẩy
kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc phát triển. Nếu như cán bộ “là gốc của
mọi công việc”, theo cách nói của Chủ tịch Hồ Chí Minh, thì cũng có thể hiểu
rằng, cán bộ người dân tộc thiểu số và công tác cán bộ người dân tộc thiểu số
có ý nghĩa quan trọng, bảo đảm thực hiện thành công đường lối, chủ trương
của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước trên địa bàn miền núi, vùng
đồng bào dân tộc thiểu số.
Ngay từ khi ra đời và trong suốt tiến trình lãnh đạo cách mạng, Đảng
Cộng sản Việt Nam đặc biệt coi trọng xây dựng đội ngũ cán bộ người dân tộc
thiểu số. Nhờ vậy, trong thời kỳ cách mạng dân tộc dân chủ cũng như trong
công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số
đã có đóng góp quan trọng trên nhiều lĩnh vực, không chỉ tại địa bàn miền núi
mà cả ở các địa phương đồng bằng và cả cấp Trung ương. Đây là một minh
chứng sự đúng đắn, khoa học trong đường lối lãnh đạo của Đảng; minh chứng
cho tinh thần “Các dân tộc sống trên đất nước Việt Nam đều bình đẳng về
quyền lợi và nghĩa vụ", như lời tuyên bố của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong Báo
cáo về Dự thảo Hiến pháp sửa đổi tại kỳ họp thứ 11 Quốc hội khóa 1 nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (ngày 18/12/1959).
Hiện nay, trước yêu cầu và nhiệm vụ mới, trong quá trình tiến hành sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, đội ngũ cán bộ
người dân tộc thiểu số vẫn còn những hạn chế, bất cập: Số lượng cán bộ
người dân tộc còn ít so với tỷ lệ dân số. Trình độ của đội ngũ cán bộ người
dân tộc còn thấp so với mặt bằng chung, nhất là so với mặt bằng trình độ của
7. 2
đội ngũ cán bộ người Kinh. Năng lực, trình độ còn hạn chế so với yêu cầu,
nhiệm vụ. Mặt khác, đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số chưa cân đối cả về
cơ cấu giới tính, cơ cấu giữa các dân tộc và cơ cấu theo lĩnh vực công tác. Có
nhiều nguyên nhân dẫn tới thực trạng trên, trong đó có nguyên nhân từ công
tác lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số của Đảng ở tầm
vĩ mô và ở việc tổ chức thực hiện của các địa phương.
Nghiên cứu về công tác xây dựng đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu
số của một Đảng bộ địa phương miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số,
sẽ góp phần làm sáng tỏ về công tác xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu
số của Đảng, sự thể hiện sinh động và cụ thể chủ trương, đường lối của
Đảng về công tác cán bộ trong điều kiện thực tế của địa phương. Qua đó
nhận diện những sáng tạo và những khó khăn, hạn chế của Đảng bộ địa
phương trong thực hiện công tác quan trọng này.
Tỉnh Tuyên Quang nằm trong chiến khu Việt Bắc, là cái nôi của cách
mạng cả nước từ thời kỳ tiền khởi nghĩa, đóng vai trò quan trọng trong cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Bởi vậy, đội ngũ cán bộ người
dân tộc thiểu số ở Tuyên Quang sớm hình thành, được tôi luyện qua nhiều thử
thách, có những đóng góp quan trọng trong sự nghiệp cách mạng của dân tộc
cũng như ở địa phương. Tỉnh Tuyên Quang là nơi hội tụ của 22 dân tộc anh
em sinh sống đan xen, cùng tồn tại và phát triển. Trong những năm tiến hành
sự nghiệp đổi mới, Đảng và Nhà nước đã có nhiều dự án đầu tư phát triển
kinh tế - xã hội ở vùng miền núi, trong đó có tỉnh Tuyên Quang. Nhờ vậy,
kinh tế - xã hội của tỉnh có những chuyển biến tích cực. Tuy nhiên, tốc độ
tăng trưởng GDP của tỉnh Tuyên Quang còn thấp, chưa tương xứng với mức
độ đầu tư và so với yêu cầu, đòi hỏi của tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước. Những hạn chế đó do nhiều nguyên nhân, trong đó nguyên nhân
chủ quan là đội ngũ cán bộ còn thiếu về số lượng, hạn chế về trình độ và năng
lực. Việc sử dụng cán bộ cho từng vùng, từng lĩnh vực và theo từng dân tộc
còn chưa hợp lý.
8. 3
Nhận thức sâu sắc tầm quan trọng của công tác cán bộ nói chung,
xây dựng đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số nói riêng, Đảng bộ tỉnh
Tuyên Quang đã có những chủ trương và thực hiện nhiều giải pháp để tăng
cường xây dựng, phát huy vai trò đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số
như: tăng cường công tác quy hoạch, xây dựng kế hoạch sử dụng đội ngũ
cán bộ người dân tộc thiểu số; chú trọng tuyển chọn, sử dụng đội ngũ cán
bộ người dân tộc thiểu số làm việc trong các cơ quan Đảng, chính quyền
của tỉnh, huyện, xã; tăng cường đầu tư kinh phí đào tạo - bồi dưỡng cán bộ;
luân chuyển cán bộ trong hệ thống chính trị; thực hiện chính sách cử tuyển
cho con em đồng bào các dân tộc thiểu số vào Đại học, Cao đẳng, Trung
học chuyên nghiệp và thu hút, “giữ chân” đội ngũ cán bộ tại địa phương …
Tuy vậy, đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số vẫn còn hạn chế cả về số lượng và
chất lượng, công tác xây dựng đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số vẫn
đang tồn tại không ít mâu thuẫn, đó là: mâu thuẫn giữa tăng cường số
lượng và đảm bảo chất lượng, giữa nhu cầu đòi hỏi cao và khả năng đầu tư
có giới hạn, giữa sử dụng nguồn nhân lực tại chỗ và thu hút cán bộ từ nơi
khác đến, giữa đào tạo và sử dụng, giữa yêu cầu và khả năng luân chuyển
đội ngũ cán bộ tại địa phương…
Vì vậy, nghiên cứu vấn đề: "Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang lãnh đạo xây
dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số từ năm 1991 đến năm 2010" có ý
nghĩa khoa học và thực tiễn sâu sắc.
2. Mục đích, nhiệm vụ, nghiên cứu của luận án
2.1. Mục đích nghiên cứu
Luận án nghiên cứu nhằm làm sáng tỏ quá trình Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang
lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số từ năm 1991 đến năm
2010. Bước đầu đúc kết một số kinh nghiệm qua thực tiễn Đảng bộ tỉnh Tuyên
Quang xây dựng đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số những năm (1991 - 2010).
9. 4
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Làm rõ những yếu tố tác động đến quá trình Đảng bộ tỉnh Tuyên
Quang lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số từ năm 1991
đến năm 2010.
Làm rõ những chủ trương, sự chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang
lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số trong 20 năm, từ
năm 1991 đến năm 2010.
Đánh giá những ưu điểm, hạn chế, những kết quả đạt được; Đúc kết
một số kinh nghiệm trong quá trình Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang lãnh đạo xây
dựng đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số từ năm 1991 đến năm 2010.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận án nghiên cứu về hoạt động lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Tuyên
Quang trong xây dựng đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Về thời gian: Nghiên cứu từ năm 1991, là năm tỉnh Tuyên Quang được tái
lập, đến năm 2010, là năm kết thúc nhiệm kỳ Đại hội lần thứ XIV Đảng bộ Tỉnh,
Đảng bộ bắt đầu tổ chức thực hiện đường lối Đại hội XI của Đảng.
Về không gian: Nghiên cứu công tác xây dựng đội ngũ cán bộ người
dân tộc thiểu số trong toàn tỉnh, bao gồm 1 thị xã và 6 huyện.
Luận án nghiên cứu toàn bộ đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số trong hệ
thống chính trị từ cấp tỉnh đến cấp huyện và cơ sở, trong đó chú trọng nghiên
cứu đội ngũ lãnh đạo quản lý các cấp là người dân tộc thiểu số.
Công tác xây dựng đội ngũ cán bộ gồm nhiều nội dung. Bám sát các
khâu công việc của công tác cán bộ nói chung, luận án tập trung nghiên cứu
công tác quy hoạch, tạo nguồn, đào tạo, bồi dưỡng và bố trí sử dụng, chế độ,
chính sách cán bộ.
10. 5
4. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu của luận án
4.1. Cơ sở lý luận
Luận án được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về công
tác cán bộ, xây dựng đội ngũ cán bộ nói chung và xây dựng đội ngũ cán bộ
dân tộc thiểu số nói riêng. Luận án kế thừa kết quả nghiên cứu của các công
trình khoa học có liên quan đã được công bố.
4.2. Cơ sở thực tiễn
Luận án được nghiên cứu trên cơ sở thực tiễn xây dựng đội ngũ cán bộ
nói chung, công tác xây dựng đội ngũ cán bộ là người dân tộc thiểu số ở Tuyên
Quang nói riêng, được phản ánh trong các văn kiện của Đảng bộ tỉnh, các báo
cáo, số liệu thống kê của cơ quan Đảng, chính quyền, đoàn thể và các cơ quan
chức năng có liên quan; kết quả điều tra, khảo sát thực tế trên địa bàn tỉnh.
4.3. Phương pháp nghiên cứu
Luận án chủ yếu sử dụng phương pháp lịch sử và phương pháp
lôgic. Bên cạnh đó, là các phương pháp:
+ Phương pháp tổng hợp và phân tích, được sử dụng để thu thập và
đánh giá các nguồn tài liệu liên quan, bao gồm các văn kiện của Đảng và
Nhà nước ở Trung ương và địa phương; các công trình khoa học trong và
ngoài nước nghiên cứu về vấn đề xây dựng đội ngũ cán bộ nói chung, xây
dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số nói riêng.
+ Phương pháp so sánh: So sánh một số kết quả đạt được trong công
tác xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo dân tộc thiểu số ở Tuyên Quang với các
tỉnh miền núi phía Bắc.
+ Phương pháp thống kê, được dùng trong xử lý các kết quả điều tra,
khảo sát.
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
- Cung cấp thêm nguồn tư liệu, nhất là tư liệu của địa phương về công
tác lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số của Đảng bộ Tuyên
Quang, về thực trạng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số ở Tuyên Quang;
11. 6
- Góp phần làm sáng tỏ tính đúng đắn, sáng tạo trong đường lối, chủ
trương của Đảng về công tác dân tộc nói chung, công tác xây dựng đội ngũ
cán bộ dân tộc thiểu số nói riêng;
- Góp phần tổng kết, đánh giá về công tác xây dựng đội ngũ cán bộ
người dân tộc thiểu số của Đảng bộ Tuyên Quang, cung cấp thêm cơ sở thực
tiễn giúp Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang hoàn thiện hơn nữa công tác lãnh đạo
của mình trong công tác quan trọng này;
- Những kết quả nghiên cứu của luận án, nhất là những kinh nghiệm từ
công tác xây dựng đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số của Tuyên Quang,
có thể tham khảo vận dụng ở các địa bàn miền núi, vùng đồng bào dân tộc
thiểu số khác, nhất là ở khu vực miền núi phía Bắc.
6. Ý nghĩa thực tiễn của luận án
- Kết quả nghiên cứu của luận án dùng làm tài liệu tham khảo, giúp các
cấp ủy Đảng các cấp ở tỉnh Tuyên Quang nghiên cứu, tiếp tục xây dựng đội
ngũ cán bộ dân tộc thiểu số ở địa phương.
- Luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo, phục vụ hoạt động nghiên
cứu, học tập của bộ môn Lịch sử Đảng ở trường Chính trị tỉnh Tuyên Quang,
Trường Đại học Tân Trào Tuyên Quang cũng như các cơ sở đào tạo khác.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục các công trình khoa học liên
quan đến đề tài của tác giả, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung
chính của luận án gồm 4 chương, 10 tiết.
12. 7
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1. NHỮNG CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
Nghiên cứu về vấn đề dân tộc, công tác dân tộc nói chung, công tác xây
dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số nói riêng, đã có nhiều công trình nghiên
cứu được công bố dưới góc độ của khoa học lịch sử, lịch sử Đảng, xây dựng
Đảng, chính trị học, dân tộc học, xã hội học... Liên quan trực tiếp đến đề tài
có thể khái quát thành những nhóm cơ bản sau:
1.1.1. Các công trình nghiên cứu trong nước
1.1.1.1. Nghiên cứu về chính sách dân tộc và công tác dân tộc trong
tư tưởng Hồ Chí Minh, của Đảng và Nhà nước
Cuốn sách, Các dân tộc thiểu số trong sự phát triển kinh tế - xã hội ở
miền núi [48]. Tác giả đã đánh giá về vấn đề dân tộc và thực hiện chính sách
dân tộc ở nước ta. Trên cơ sở nghiên cứu thực trạng kinh tế - xã hội và những
vấn đề cấp bách ở vùng dân tộc và miền núi, tác giả đã đưa ra những nhận
thức và quan điểm cơ bản về chính sách dân tộc trong thời kỳ đổi mới.
Cuốn sách, Quá trình thực hiện chính sách dân tộc ở các tỉnh Tây Bắc
[105] đã đánh giá những thành tựu và hạn chế của quá trình thực hiện chính
sách dân tộc ở Tây Bắc những năm đầu đổi mới.
Cuốn sách: Vấn đề dân tộc và chính sách dân tộc của Đảng và nhà
nước ta [54] đã đề cập đến những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và của Đảng về vấn đề dân tộc và thực hiện
chính sách dân tộc. Các tác giả đã nêu những đặc điểm nổi bật của dân tộc
Việt Nam và nội dung công tác dân tộc trong sự nghiệp cách mạng.
Cuốn sách, Nghiên cứu vấn đề dân tộc và định hướng xây dựng chính
sách dân tộc trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa [135] đã nghiên cứu
cơ sở lý luận và thực tiễn về chính sách dân tộc của Đảng và những định
13. 8
hướng cơ bản trong quy hoạch dân cư, đẩy mạnh nhịp độ phát triển kinh tế
hàng hóa phù hợp với đặc điểm từng vùng nhằm đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa nông thôn và đưa ra những kiến nghị, giải pháp nhằm sớm ổn
định và cải thiện đời sống đồng bào dân tộc.
Bài viết, "Công tác dân tộc trong thời kỳ đổi mới 1986 - 2006" [97],
trong cuốn sách 60 năm cơ quan công tác dân tộc, đã đánh giá về đội ngũ cán
bộ dân tộc trong những năm qua. Bài viết khẳng định: Đội ngũ cán bộ dân tộc
thiểu số trong hệ thống chính trị luôn được Đảng, Nhà nước đặc biệt quan tâm
đào tạo, bồi dưỡng và bố trí, sử dụng. Nhiều hình thức đào tạo, bồi dưỡng
nâng cao trình độ về lý luận chính trị, chuyên môn, học vấn, quản lý nhà nước
ngày càng được chuẩn hóa, chất lượng và số lượng đội ngũ cán bộ dân tộc ở
tất cả các cấp được nâng lên. Tác giả chỉ rõ "tỉ lệ đại biểu quốc hội là người
dân tộc thiểu số qua các khóa ngày một tăng từ 10,2% khóa I lên 17,2% khóa
XI. Ủy viên Trung ương Đảng là người dân tộc thiểu số chiếm tỷ lệ gần 9%
khóa X và hàng vạn cán bộ người dân tộc thiểu số được tham gia trong các cơ
quan Đảng, Nhà nước, các ngành, các cấp" [97, tr.24]. Bên cạnh những kết
quả đạt được, bài viết còn chỉ ra những tồn tại, hạn chế của công tác dân tộc là
"Hệ thống chính trị và đội ngũ cán bộ dân tộc ở cơ sở vùng dân tộc thiểu số
còn hạn chế về tri thức và trình độ kỹ năng làm việc ở vùng sâu, vùng xa,
vùng đặc biệt khó khăn rất nhiều đồng chí chưa đáp ứng được yêu cầu thực
hiện nhiệm vụ chính trị ở địa phương [97, tr.28]. Từ phân tích trên, tác giả chỉ
ra một số bài học lớn về công tác dân tộc trong thời kỳ đổi mới (1986 - 2006).
Trong đó, bài học đáng chú ý là "Kiện toàn và phát huy vai trò của hệ thống
chính trị chăm lo công tác đào tạo, bố trí và sử dụng cán bộ người dân tộc
thiểu số trong các vùng dân tộc thiểu số" [97, tr.30].
Cuốn sách, Vấn đề dân tộc và công tác dân tộc sau 5 năm thực hiện
Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng Khóa IX
[12], là tập hợp nhiều bài viết của các nhà nghiên cứu khoa học đã tham gia
14. 9
thảo luận, trao đổi, làm rõ kết quả, hạn chế yếu kém, đề xuất các giải pháp
góp phần đổi mới thực hiện hiệu quả Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban
Chấp hành Trung ương Đảng, khóa IX về công tác dân tộc của Đảng.
Cuốn sách, Những vấn đề cơ bản về chính sách dân tộc ở nước ta hiện
nay [104] đã nêu rõ những nội dung cơ bản về dân tộc và chính sách dân tộc
của Đảng qua các thời kỳ cách mạng; phân tích những vấn đề đặt ra trong
việc thực hiện chính sách dân tộc và đề ra những giải pháp chủ yếu nhằm thực
hiện chính sách dân tộc hiện nay.
Cuốn sách, Nhận thức, thái độ, hành vi của cộng đồng các dân tộc
thiểu số đối với chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước trong giai đoạn
hiện nay: Thực trạng và giải pháp [112] đã nghiên cứu, khảo sát nhằm mang
lại những thông tin khách quan, trung thực về tình trạng này. Trên cơ sở đánh
giá thực trạng nhận thức, thái độ, hành vi của cộng đồng các dân tộc thiểu số
đối với chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta trong giai đoạn hiện nay,
công trình nghiên cứu đã đề xuất những kiến nghị, giải pháp cơ bản nhằm góp
phần tiếp tục đổi mới, hoàn thiện hệ thống chính sách đảm bảo thực hiện có
hiệu quả chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước, phát huy vai trò to lớn
của cộng đồng các dân tộc thiểu số trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước. Nghiên cứu cho thấy, sự đồng tình của người dân với chính
sách được triển khai ở địa phương về "ưu tiên đào tạo cán bộ địa phương là
người dân tộc" là 72,2%, "ưu tiên đào tạo thầy giáo, cô giáo, cán bộ y tế là
người dân tộc" là 70,2%" [112 tr.102].
Cuốn sách: Dân tộc thiểu số và vấn đề dân tộc trong tư tưởng Hồ Chí
Minh [69], đã đề cập đến vấn đề: Trong nghiên cứu lý luận cách mạng, vấn đề
dân tộc còn rất phong phú, còn phải bàn thêm. Nói riêng từng nước thì vấn đề
dân tộc nổi lên là vấn đề số phận của từng tộc người trong cộng đồng dân tộc,
của mỗi quốc gia. Tác giả khẳng định: Hồ Chí Minh thấy được phẩm chất,
trình độ của các tộc người của đất nước ta, bởi Người thực sự gắn bó với bà
15. 10
con người dân tộc thiểu số. Vì vậy, với Hồ Chí Minh, các dân tộc thiểu số
được bình đẳng cùng nhau, tất cả đều như anh chị em một nhà, không có sự
phân biệt nòi giống, tiếng nói.
Công trình: Báo cáo tổng hợp về nghiên cứu chính sách phát triển vùng
miền núi và dân tộc thiểu số [60] và Đổi mới kinh tế với đổi mới hệ thống
chính trị ở các tỉnh miền núi phía Bắc - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn
[25] đã đánh giá nguồn nhân lực không nghiên cứu riêng biệt, mà được đặt
trong mối quan hệ tương hỗ với sự phát triển toàn diện vùng đồng bào dân tộc
thiểu số. Đặc biệt là những nghiên cứu về giáo dục y tế, xóa đói giảm nghèo,
lao động việc làm thường được đặt trong các mối liên hệ trực tiếp với phát
triển thể lực, trí lực của nguồn nhân lực dân tộc thiểu số.
Bài viết: "Thực hiện chính sách dân tộc của Đảng sau 25 năm đổi mới"
[52], đã khái quát toàn bộ chính sách của Đảng về vấn đề dân tộc đã và đang
được thực hiện trong 25 năm đổi mới được thể hiện trong những chuyển biến
tích cực trong phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng cơ sở hạ tầng và giải quyết
những vấn đề xã hội ở miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Bài viết tiếp
tục khẳng định: Đảng và Nhà nước ta luôn xác định vấn đề dân tộc, đoàn kết
dân tộc có vị trí chiến lược lâu dài trong sự nghiệp cách mạng nước ta.
Sự quan tâm về vấn đề dân tộc, về chính sách dân tộc không chỉ ở phần
nhận thức, phần lý luận, mà nó phải được thể hiện bằng đường lối, bằng tổ
chức. Đúng như tinh thần Sắc lệnh số 58 ngày 3/5/1946 của Người" chịu trách
nhiệm xem xét các vấn đề chính trị và hành chính thuộc về các dân tộc thiểu
số trong nước và thắt chặt tình thân thiện giữa các dân tộc sống trên đất nước
Việt Nam".
Bài viết: "Chủ tịch Hồ Chí Minh với đồng bào các dân tộc thiểu số Việt
Nam" [53] theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, đồng bào các dân tộc thiểu số là một
bộ phận không thể tách rời của dân tộc Việt Nam và nhân dân Việt Nam, đoàn
kết dân tộc đặng "đi từ thái bình để cùng hưởng chung". Hồ Chí Minh cũng
16. 11
cho rằng, đoàn kết dân tộc là một chính sách chứ không phải là một thủ đoạn
chính trị, mị dân, do đó, phải thực lòng thực hành đoàn kết để đi từ mục tiêu
chung là "hòa bình, thống nhất, độc lập dân chủ và giàu mạnh". Người coi
đồng bào các dân tộc thiểu số là một lực lượng quan trọng của cách mạng
Việt Nam. Với những nghiên cứu về Chủ tịch Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc,
tác giả bài viết khẳng định: Trong tiến trình cách mạng nước ta, cần giải quyết
đúng đắn và sáng tạo vấn đề dân tộc dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh. Đó
là: Phải luôn coi đồng bào các dân tộc thiểu số là một bộ phận không thể tách
rời của dân tộc Việt Nam, khai thông sức sáng tạo và tiềm năng của đồng bào
các dân tộc. Bằng các chủ trương chính sách phù hợp, đẩy nhanh tốc độ phát
triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi của cả nước.
Luận án tiến sĩ: Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo thực hiện chính
sách dân tộc ở một số tỉnh Tây Bắc từ năm 1996 đến năm 2006 [63] đã trình
bày một cách có hệ thống quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng Cộng
sản Việt Nam về vấn đề dân tộc và chính sách dân tộc những năm đầu đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước (1996 - 2006), từ đó thấy được
sự phát triển trong tư duy lý luận và thực tiễn của Đảng; quá trình Đảng lãnh
đạo thực hiện chính sách dân tộc ở một số tỉnh Tây Bắc; làm rõ thành tựu và
hạn chế trong nhận thức cũng như trong quá trình thực hiện chính sách dân
tộc, từ đó đúc rút ra một số kinh nghiệm của Đảng trong quá trình lãnh đạo
thực hiện chính sách dân tộc 1996 - 2006 ở Tây Bắc khi nghiên cứu về quan
điểm và nội dung chính sách dân tộc của Đảng. Tác giả khẳng định:
Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trương gắn đoàn kết dân tộc với việc
hoạch định chính sách dân tộc, đảm bảo miền núi tiến kịp miền
xuôi, làm cho đồng bào dân tộc ít người được hưởng ngày càng đầy
đủ hơn những quyền lợi về kinh tế, chính trị, văn hóa. Người chỉ ra
rằng, Đảng và Chính phủ phải có kế hoạch dài hạn, phát triển kinh
tế, văn hóa, xã hội ở miền núi, đồng bào miền xuôi phải giúp đỡ
17. 12
đồng bào miền ngược. Đồng bào các dân tộc ít người cũng phải
không ngừng vươn lên để xây dựng tổ chức chung, xây dựng chủ
nghĩa xã hội, làm cho tất cả các dân tộc hạnh phúc, ấm no. Những
quan điểm trên đây của Người có giá trị và ý nghĩa như một tuyên
ngôn chỉ đạo công tác dân tộc và giải quyết các mối quan hệ dân tộc
ở Việt Nam hiện nay [63, tr.29].
1.1.1.2. Những công trình nghiên cứu về công tác xây dựng đội ngũ
cán bộ dân tộc thiểu số nói chung
Cuốn sách: Chính sách dân tộc của các triều đại phong kiến Việt Nam
(từ thế kỷ XI - XIX) [130] cho thấy, từ xa xưa, nhà nước phong kiến Việt Nam
đã đề ra nhiều chính sách, biện pháp tích cực đối với miền núi, với các dân
tộc thiểu số. Từ thời Lý (thế kỷ XI), chính sách "Nhu viễn" (mềm dẻo với
phương xa) đã được thực hiện, sau này vẫn là quốc sách hàng đầu, phổ biến
và lâu dài của các triều đại phong kiến tiếp theo. "Nhu viễn" xây dựng mối
quan hệ đặc biệt giữa nhà nước Trung ương (phong kiến tập quyền) với cộng
đồng các tù trưởng (người có uy tín, thế lực, đang điều hành, quản lý các tộc
người bằng tự trị theo luật tục" thông qua việc ban phẩm tước cho tù trưởng;
phân phong một số Hoàng Thân, quan lại lên tuần giữ vùng biên, đặc biệt là
câu thức, lôi kéo quan hệ thân tộc (qua hôn nhân) giữa các tù trưởng với công
chúa, cung phi của triều đình. Song song với chính sách "Nhu viễn", các triều
đại phong kiến còn kiên quyết dùng chính sách "cường bạo lực" lúc cần thiết
để trừng trị những kẻ gây mất đoàn kết các dân tộc, chống lại triều đình và cắt
đất cho ngoại bang. Chính sách "Nhu" "Cương" hợp lý có ý nghĩa tích cực
trong củng cố quốc gia thống nhất, đẩy lùi các thế lực cát cứ, xâm lấn và giữ
gìn an ninh biên giới. Đó là kinh nghiệm lịch sử để trong quá trình xây dựng
hệ thống chính trị vùng biên, miền núi, dân tộc thiểu số chúng ta phải chú ý
đến vai trò của công tác cán bộ đối với người dân tộc thiểu số. Việc xây dựng
18. 13
đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số phải trên tinh thần (không kỳ thị dân tộc), phải
tăng cường sức mạnh cho đội ngũ này bằng việc điều động, luân chuyển cán
bộ nơi khác về cơ sở; đồng thời cũng phải cương quyết sàng lọc nguồn trong
quá trình xây dựng đội ngũ trên cơ sở tiêu chuẩn cán bộ, công chức do pháp
luật quy định.
Cuốn sách: Xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số ở nước ta trong
thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa - luận cứ và giải pháp [111]
là tập hợp kết quả nghiên cứu của 34 nhà khoa học, tập trung vào những vấn
đề: Lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm,
chính sách của Đảng và nhà nước ta, cùng một số các yếu tố tác động về tâm
lý, văn hóa tộc người liên quan đến vấn đề dân tộc, cán bộ dân tộc thiểu số,
công tác cán bộ thiểu số; thực trạng và giải pháp xây dựng đội ngũ cán bộ dân
tộc thiểu số nói chung trên một số lĩnh vực chuyên môn cụ thể. Nhiều giải
pháp đổi mới, công tác cán bộ dân tộc thiểu số được đề xuất có ý nghĩa lý
luận và thực tiễn quan trọng.
Cuốn sách: Phát triển nguồn nhân lực ở vùng dân tộc thiểu số Việt
Nam đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
[108] đã cung cấp luận cứ lý thuyết và thực tiễn cho nhận thức đầy đủ và toàn
diện vấn đề phát triển nguồn nhân lực ở vùng dân tộc thiểu số không chỉ cần
nhiều nguồn lực đầu tư, mà phải tiến hành theo một quy trình, phương pháp,
cách thức khoa học. Cuốn sách còn đề xuất hệ quan điểm, giải pháp toàn diện
cho hoạch định chính sách phát triển nguồn nhân lực dân tộc thiểu số. Tác giả
khẳng định: Sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước với mục tiêu
phát triển bền vững liên, xuyên thế hệ thành công hay không không thể thiếu
sự đóng góp to lớn của nguồn nhân lực thiểu số, vì phát triển nguồn nhân lực
dân tộc thiểu số cũng chính là phát triển nguồn nhân lực quốc gia - là lực
lượng tiên phong và cũng là động lực mạnh mẽ nhất thúc đẩy sự phát triển đất
nước một cách toàn diện và bền vững.
19. 14
Cuốn sách: Phát triển nguồn cán bộ dân tộc thiểu số ở các tỉnh miền
núi phía Bắc nước ta hiện nay [117], đã chỉ ra rằng, nếu không xây dựng
được một đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số vững mạnh, có đủ phẩm chất và
năng lực đảm đương nhiệm vụ cách mạng thì mọi chủ trương, chính sách
của Đảng và Nhà nước ta không thể đi vào cuộc sống, không thể phát huy
được nội lực của đồng bào các dân tộc, đáp ứng yêu cầu khách quan của sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Để có được một đội ngũ cán bộ dân
tộc thiểu số vững mạnh, trước tiên "phải giải quyết tốt vấn đề phát triển
nguồn cán bộ dân tộc thiểu số, vì đây là khâu quan trọng nhất, đồng thời
cũng là vấn đề khó khăn và yếu kém nhất trong công tác cán bộ dân tộc
thiểu số hiện nay" [117, tr.9]. Chỉ trên cơ sở phát triển mạnh nguồn cán bộ
dân tộc thiểu số, chúng ta mới có được thế hệ cán bộ dự bị, kế cận đông
đảo, đủ tiêu chuẩn về phẩm chất và năng lực, để bổ sung vào các chức danh
lãnh đạo, quản lý của hệ thống chính trị các cấp và bổ sung cho đội ngũ cán
bộ công chức là người dân tộc thiểu số ở các địa phương. Trên cơ sở đó,
từng bước xây dựng và hoàn thiện quy hoạch cán bộ dân tộc thiểu số các
cấp, các ngành; thực hiện đào tạo, bồi dưỡng liên tục thường xuyên, chủ
động, có kế hoạch; kết hợp với cơ chế, chính sách sử dụng, quản lý đội ngũ
cán bộ dân tộc mang tính đồng bộ, hệ thống từ trung ương đến cơ sở. Tác
giả khẳng định: "Có như vậy, chúng ta mới giải quyết được căn bản các
vấn đề xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số đủ mạnh, ngang tầm với
nhiệm vụ cách mạng đặt ra và phát triển vững chắc trong thời kỳ quá độ đi
lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta" [117, tr.10].
Cuốn sách: Công tác quy hoạch cán bộ thuộc diện Ban Thường vụ Tỉnh
ủy quản lý ở các tỉnh miền núi phía Bắc giai đoạn hiện nay [98] đã phân tích
các đặc điểm về vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên ở các tỉnh miền núi phía Bắc,
về thực trạng công tác, quy hoạch cán bộ thuộc diện Ban Thường vụ Tỉnh ủy
quản lý đặc biệt là nguồn cán bộ đưa vào quy hoạch còn gặp nhiều khó khăn,
20. 15
nhất là cán bộ là người dân tộc thiểu số, cán bộ trẻ, cán bộ nữ. Tác giả còn
đưa ra phương hướng, giải pháp thực hiện tốt công tác quy hoạch cán bộ
thuộc diện Ban Thường vụ Tỉnh ủy quản lý ở các tỉnh miền núi phía Bắc đến
năm 2020:
Cần tiếp tục quán triệt và thực hiện nghiêm túc các quan điểm,
phương châm, nguyên tắc của Đảng trong công tác quy hoạch cán
bộ, tập trung, lãnh đạo, chỉ đạo các cấp ủy, tổ chức đảng, chính
quyền, đoàn thể trong tỉnh, xác định rõ phương hướng, mục tiêu
của công tác quy hoạch cán bộ và tổ chức thực hiện đồng bộ các
nhóm giải pháp... Xác định rõ nguồn, tạo nguồn cán bộ dồi dào,
nhất là cán bộ dân tộc thiểu số, cán bộ trẻ, cán bộ nữ đưa vào quy
hoạch [98, tr.227].
Cuốn sách: Phát huy vai trò của đội ngũ tri thức các dân tộc thiểu số
nước ta trong sự nghiệp cách mạng nước ta hiện nay [20] và Nguồn nhân lực trẻ
các dân tộc thiểu số - Những phân tích xã hội học [66] đã cho thấy vai trò của
đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số, thực trạng công tác cán bộ vùng dân tộc thiểu số
trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Bài viết: "Phát huy dân chủ, xây dựng, củng cố chính quyền và đào
tạo cán bộ vùng dân tộc thiểu số trong giai đoạn cách mạng mới" [131]
trong cuốn Các dân tộc thiểu số Việt Nam thế kỷ XX khẳng định: Sự quan
tâm của Đảng, Nhà nước đối với công tác đào tạo, bồi dưỡng, xây dựng đội
ngũ cán bộ là người dân tộc thiểu số. Đánh giá thực trạng tình hình đội ngũ
cán bộ người dân tộc thiểu số ở nước ta, tác giả khẳng định rằng "Từ khi có
Đảng Cộng sản Việt Nam, đội ngũ cán bộ là người dân tộc thiểu số ở nước
ta đã trưởng thành và không ngừng phát triển, đội ngũ cán bộ lãnh đạo là
người dân tộc thiểu số đã có bước trưởng thành, khá rõ nét" [131, tr.115].
Tuy nhiên, tác giả cũng đưa ra một số những hạn chế bất cập của đội ngũ
cán bộ dân tộc thiểu số. Đó là trình độ chuyên môn của người dân tộc thiểu
21. 16
số còn thấp. Tác giả nhấn mạnh "Tình trạng cán bộ là người dân tộc thiểu
số hiện nay vừa thiếu về số lượng, vừa yếu về năng lực, đặc biệt là trình độ
năng lực học vấn" [131, tr.118]. Trên cơ sở đánh giá thành tựu và hạn chế
của việc đào tạo cán bộ vùng dân tộc thiểu số trong giai đoạn cách mạng
mới, tác giả đã đề xuất phương hướng, giải pháp xây dựng đội ngũ cán bộ
là người dân tộc thiểu số trong thời gian tới": "Có quy hoạch, kế hoạch đào
tạo, bồi dưỡng sử dụng cán bộ dân tộc từ cơ sở cho đến trung ương, theo
nhu cầu của từng loại cán bộ trong từng thời kỳ, bảo đảm mục tiêu chiến
lược chung của cả nước" [131, tr.120]. Bởi vì xây dựng và phát triển đội
ngũ cán bộ là người dân tộc thiểu số không chỉ vì lợi ích của các dân tộc
thiểu số mà còn nhằm phục vụ sự nghiệp cách mạng chung của cả nước vì
chiến lược con người.
Bài viết: "Sự phát triển giáo dục và đào tạo ở vùng dân tộc thiểu số" [51]
trong cuốn sách Các dân tộc thiểu số Việt Nam thế kỷ XX, đã khẳng định: Công
tác đào tạo cán bộ là người dân tộc thiểu số ở vùng dân tộc đạt được nhiều thành
tựu đáng kể. Mười năm về trước, nhiều cán bộ thôn xã còn ở tình trạng mù chữ.
Cho đến nay, cán bộ thôn xã thấp nhất cũng có trình độ tiểu học và có người có
trình độ trung học.
Nhiều cán bộ, người dân tộc thiểu số đã có học vị cao. Tác giả chỉ rõ
"ngành giáo dục và đào tạo đã góp phần đáng kể trong việc bồi dưỡng cán bộ
dân tộc thiểu số ở các trung tâm bồi dưỡng cán bộ dân tộc thiểu số, các trường
bổ túc văn hóa tập trung ở các địa phương và Trung ương [51, tr.250]. Vì vậy:
"Thành tựu nổi bật của giáo dục ở vùng dân tộc là xác lập được quy trình xây
dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số" [51, tr.249]. Bài viết còn đưa ra một số
giải pháp về xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc trong thời gian tới, đáng chú ý là
chế độ ưu tiên cộng điểm tuyển sinh và mở các lớp đào tạo riêng dành cho học
sinh, sinh viên là người dân tộc thiểu số nhất là ở vùng cao, tại các trường đại
học, cao đẳng trong cả nước.
22. 17
Bài viết: Một cách mới trong đào tạo bồi dưỡng cán bộ cơ sở ở Hà
Giang [34]. Trên cơ sở phân tích kết quả đạt được trong công tác đào tạo bồi
dưỡng đội ngũ cán bộ cơ sở của tỉnh, tác giả đã đưa ra một số kinh nghiệm
"Phải xây dựng quy hoạch đội ngũ cán bộ đảm bảo chất lượng, trên cơ sở đó,
xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng gắn với bố trí, sử dụng sau đào tạo... Coi
đây là một trong những nhiệm vụ hàng đầu của sự nghiệp xây dựng và phát triển
địa phương" [34, tr.46].
Bài viết: Sóc Trăng quy hoạch đào tạo, sử dụng cán bộ người dân tộc
thiểu số Khmer [119]. Trên cơ sở đánh giá về công tác quy hoạch, đào tạo, sử
dụng cán bộ, người dân tộc thiểu số ở tỉnh; phân tích vai trò của đội ngũ cán
bộ người dân tộc Khmer trong việc triển khai, thực hiện các chủ trương, chính
sách của Đảng về công tác dân tộc, công tác tôn giáo, tác giả đề xuất một số
giải pháp quan trọng "Quan tâm đến chính sách cử tuyển và quản lý chặt chẽ,
bố trí, sử dụng đúng địa chỉ được xét tuyển đối với học sinh, sinh viên tốt
nghiệp ra trường, có chính sách chọn cán bộ dự nguồn là người dân tộc
Khmer để đào tạo, bồi dưỡng" [119, tr.24].
Luận án Tiến sĩ: Công tác xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số
của Đảng bộ Bộ đội biên phòng từ năm 1996 đến năm 2006 [118] đã làm
sáng tỏ sự vận dụng đúng đắn, sáng tạo chủ trương của Đảng về xây dựng
đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số: Xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số
phải dựa trên nguyên tắc Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ, đồng
thời phát huy trách nhiệm của các tổ chức thành viên trong hệ thống chính
trị. Phải xuất phát từ đường lối chính trị - quân sự của Đảng, bảo đảm
nguyên tắc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ
giữa các dân tộc và phải đảm bảo sự thống nhất giữa cơ cấu và tiêu chuẩn
cán bộ; phải có những ưu điểm trong đào tạo, bồi dưỡng, bố trí và sử dụng
cán bộ, thực hiện chế độ, chính sách đãi ngộ đối với cán bộ. Tác giả còn
23. 18
khẳng định, để xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số của Bộ đội biên
phòng cần phải "bám sát yêu cầu nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
Việt Nam XHCN, nhiệm vụ quản lý, bảo vệ chủ quyền an ninh biên giới,
xây dựng Bộ đội biên phòng cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước
hiện đại" [118, tr.91] và "xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số trong
Đảng bộ Bộ đội biên phòng phải đặt trong tổng thể chiến lược cán bộ của
Đảng, nhà nước, quân đội, Bộ đội biên phòng, tạo được mỗi liên thông với
việc xây dựng đội ngũ cán bộ của cả hệ thống chính trị, hòa nhập với xu
thế phát triển của sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước" [118, tr.91].
Luận án Tiến sĩ: Tạo nguồn cán bộ, công chức xã người dân tộc
thiểu số ở các tỉnh Tây Nguyên giai đoạn hiện nay [138] tiếp tục hoàn thiện
khung lý luận về tạo nguồn cán bộ; khái quát những đặc điểm tình hình cán
bộ dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên; đề xuất phương hướng và những giải
pháp có tính đặc thù, khả thi để thúc đẩy công tác tạo nguồn cán bộ xã
người dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên, đáp ứng yêu cầu của thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn hiện nay.
Luận án Tiến sĩ: Đảng lãnh đạo công tác đào tạo, bồi dưỡng ngũ
công chức từ năm 2001 đến năm 2010 [65] đã nghiên cứu về quan điểm,
chủ trương của Đảng về đào tạo đội ngũ cán bộ công chức "Xây dựng và
nâng cao chất lượng đội ngũ công chức nhà nước phải thông qua hiệu quả
công tác thực tế và sự tín nhiệm của nhân dân để lựa chọn, đánh giá, đào
tạo, bồi dưỡng và sử dụng đội ngũ" [65, tr.83]. Khi nghiên cứu về chủ
trương xây dựng đội ngũ công chức Việt Nam từ 1986 đến nay, tác giả đã
đưa ra một loạt các văn bản pháp lý hiện hành nhằm xây dựng đội ngũ cán
bộ công chức và qua quá trình hình thành và phát triển đội ngũ cán bộ công
chức trước năm 2001, tác giả đã đưa ra những nội dung nhằm nâng cao
trình độ đội ngũ công chức đáp ứng yêu cầu đổi mới hệ thống chính trị, xây
24. 19
dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. "Những đổi mới đó đã làm
sáng rõ hơn mô hình hệ thống chính trị nước ta trong thời kỳ quá độ, khẳng
định rõ bản chất của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa phù hợp với nền kinh tế
thị trường - định hướng XHCN, xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN và
hội nhập kinh tế quốc tế" [65, tr.71].
Đề tài khoa học cấp bộ: Thực trạng và giải pháp chủ yếu nhằm xây
dựng đội ngũ cán bộ cấp huyện người dân tộc thiểu số trong thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở một số tỉnh miền núi phía Bắc [122] đã phân
tích, làm rõ vai trò của cán bộ nói chung và cán bộ cấp huyện là người dân tộc
thiểu số nói riêng đối với sự phát triển của quốc gia, dân tộc; đánh giá thực
trạng chất lượng đội ngũ cán bộ công chức cấp huyện là người dân tộc thiểu
số ở nước ta hiện nay. Tác giả đề xuất một số phương hướng và giải pháp chủ
yếu xây dựng đội ngũ cán bộ cấp huyện là người dân tộc thiểu số trong thời
kỳ đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở vùng núi, vùng dân
tộc thiểu số.
Đề tài khoa học cấp bộ: Việc thực hiện chính sách dân tộc trên lĩnh vực
đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng cán bộ dân tộc thiểu số ở nước ta hiện nay [71]
đã trình bày hệ thống quan điểm của Đảng và Nhà nước về chính sách dân tộc
có liên quan đến đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng cán bộ dân tộc thiểu số ở nước
ta. Nghiên cứu góp phần đánh giá đúng thực trạng đội ngũ cán bộ dân tộc
thiểu số và việc thực hiện chính sách cán bộ dân tộc thiểu số ở vùng miền núi
hiện nay. Nghiên cứu đã đề xuất một số quan điểm và giải pháp có tính khả
thi về chính sách cán bộ dân tộc, góp phần xây dựng Luật Dân tộc.
Đề tài khoa học cấp bộ: Tạo nguồn cán bộ hệ thống chính trị cơ sở ở
các tỉnh Tây Bắc nước ta hiện nay [58] đã đưa ra các khái niệm và cách tiếp
cận vấn đề tạo nguồn chủ chốt, phân tích đánh giá thực trạng công tác tạo
nguồn của cán bộ chủ chốt trong hệ thống chính trị cấp xã ở các tỉnh Tây Bắc
25. 20
nước ta những năm đổi mới. Đề tài cũng tìm hiểu kinh nghiệm thực tiễn trong
việc tạo nguồn cán bộ chủ chốt của hệ thống chính trị cơ sở ở các tỉnh Tây
Bắc qua việc nghiên cứu hoạt động này ở một số trường chính trị trong khu
vực, đề xuất những giải pháp đẩy mạnh công tác, tạo nguồn cán bộ hệ thống
chính trị cơ sở ở các tỉnh Tây Bắc trong thời gian tới.
Ngoài ra, còn có các công trình, Về công tác phát triển đảng viên tạo
nguồn cán bộ ở vùng dân tộc miền núi [72] và Luận cứ khoa học cho việc
nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa [120].
Các công trình trên đây đã cung cấp luận cứ lý thuyết và thực tiễn
cho tác giả nhận thức đầy đủ và toàn diện về vấn đề xây dựng đội ngũ cán
bộ dân tộc thiểu số. Các công trình trên đã đưa ra các giải pháp nhằm xây
dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số nói chung, đội ngũ cán bộ dân tộc
thiểu số ở các địa phương nói riêng. Một trong những tiêu chí để xây dựng
đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số được các tác giả đồng quan điểm
trong các công trình, bài viết là cần phải xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc
thiểu số vững mạnh, có đủ năng lực phẩm chất đảm đương nhiệm vụ cách
mạng thì mọi chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước mới đi vào
cuộc sống; mới phát huy được nội lực của các dân tộc, đáp ứng được yêu
cầu khách quan của sự nghiệp xây dựng bảo vệ Tổ quốc. Các công trình
nghiên cứu còn đưa ra những nội dung quan trọng. Đó là, muốn xây dựng
đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số đủ về số lượng, đạt chất lượng, cần phải
chú ý đến các khâu trong công tác này như công tác tạo nguồn, phát triển
nguồn, công tác đào tạo, bồi dưỡng, bố trí và sử dụng đội ngũ cán bộ đáp
ứng yêu cầu của nhiệm vụ cách mạng. Các công trình cũng đưa ra những
khó khăn, thuận lợi trong quá trình xây dựng và những phương hướng, giải
pháp nhằm thực hiện tốt công tác xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số.
26. 21
Đây là những nội dung quý để tác giả tham khảo, tiếp thu và bổ sung kiến
thức trong quá trình viết luận án.
1.1.1.3. Các công trình nghiên cứu về xây dựng đội ngũ cán bộ dân
tộc thiểu số và công tác cán bộ ở Tuyên Quang
Cuốn sách: Lịch sử Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang (giai đoạn 1976 - 2005)
[9]. Với chặng đường 30 năm (1976 - 2005), Đảng bộ và nhân dân các dân tộc
tỉnh Tuyên Quang đã trải qua thời kỳ tỉnh Tuyên Quang và Hà Giang hợp
nhất thành tỉnh và Hà Tuyên (1976 - 1991) và thời kỳ từ sau tỉnh Tuyên
Quang được tái lập (tháng 10/1991) đến năm 2005. Mỗi thời kỳ đều có những
thời cơ, thuận lợi và khó khăn, thử thách riêng. Phát huy truyền thống đoàn
kết, thống nhất, truyền thống cách mạng của quê hương Thủ đô khu giải
phóng, Thủ đô kháng chiến, nhân dân các dân tộc tỉnh Tuyên Quang luôn
tuyệt đối tin tưởng, trung thành với Đảng, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc
và chủ nghĩa xã hội, trong các thời kỳ cách mạng, Đảng bộ và nhân dân các
dân tộc tỉnh Tuyên Quang đã chung sức, chung lòng tận dụng thời cơ, vượt
qua mọi khó khăn, thử thách để xây dựng, phát triển kinh tế - xã hội, tăng
cường tiềm lực quốc phòng - an ninh, bảo vệ vững chắc chủ quyền lãnh thổ
và an ninh quốc gia, xây dựng quê hương và tiếp tục giành được nhiều thành
tựu quan trọng. Thực tiễn 30 năm 1976 - 2005 cũng để lại những bài học kinh
nghiệm để Đảng bộ, chính quyền và nhân dân các dân tộc tỉnh Tuyên Quang
tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa vì mục tiêu "dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh". Một trong những bài
học đó là "không ngừng đổi mới tư duy, xây dựng phong cách lãnh đạo của
cấp ủy Đảng, coi trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ từ tỉnh đến cơ sở
về phẩm chất chính trị, chuyên môn nghiệp vụ và lý luận chính trị" [9, tr.402]
và kinh nghiệm rút ra trong quá trình lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh chặng đường
đã qua là "Trong công tác xây dựng Đảng, Đảng bộ đặc biệt quan tâm xây
27. 22
dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là đội ngũ cán bộ chủ chốt, cán bộ tại
chỗ, cán bộ dân tộc thiểu số có đủ phẩm chất và năng lực" [9, tr.424].
"Đảng bộ ngày càng nhận thức sâu sắc, giữ vững và thực hiện quan
điểm thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ, thực
hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ, coi trọng hơn việc phát huy vai trò
của tổ chức trong hệ thống chính trị và người đứng đầu các tổ chức; bước
đầu tổ chức để nhân dân tham gia ý kiến đối với cán bộ, nhất là ở cơ sở.
Việc triển khai ngày càng đồng bộ các khâu công tác của cán bộ từ đánh
giá đến quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển, bố trí, sử dụng và thực
hiện chính sách cán bộ đã giúp Đảng bộ có một đội ngũ cán bộ ngày càng
có chất lượng hơn. Trong quá trình đó, vấn đề đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cơ
sở nhất là cán bộ dân tộc thiểu số luôn được đặc biệt quan tâm thực hiện
sáng tạo, hiệu quả, được trung ương đánh giá cao, góp thêm kinh nghiệm
cho các địa phương khác" [9, tr.425].
Cuốn sách: Lịch sử Đảng bộ thị xã Tuyên Quang (1940 - 2008) [3]
đã tái hiện lại quá trình ra đời, lãnh đạo phong trào cách mạng địa phương
của Đảng bộ thị xã Tuyên Quang, phản ánh những sự kiện lịch sử, thành
tích tiêu biểu của Đảng bộ và nhân dân các dân tộc thị xã trong các thời kỳ
cách mạng (1940 - 2009). Kinh nghiệm về công tác lãnh đạo của Đảng bộ
thị xã Tuyên Quang là "Coi trọng việc đào tạo, bồi dưỡng, phát triển đội
ngũ cán bộ người địa phương; tạo mọi điều kiện để nhân dân các dân tộc
phát huy quyền làm chủ, cống hiến tài năng, trí tuệ cho cách mạng. Đồng
thời phải kiên quyết đấu tranh với những tư tưởng cá nhân, cục bộ địa
phương, biểu hiện mất đoàn kết; phát huy bản sắc văn hóa của cộng đồng
dân cư trên địa bàn" [3, tr.406].
Cuốn sách: Lịch sử Đảng bộ huyện Chiêm Hóa (1940 - 2005) [2] ghi
lại quá trình ra đời, trưởng thành của Đảng bộ huyện và quá trình lãnh đạo
28. 23
nhân dân các dân tộc trong huyện thực hiện các nhiệm vụ cách mạng tại địa
phương. Đồng thời, trình bày những thành tựu bài học, kinh nghiệm quý báu
của Đảng bộ và nhân dân các dân tộc huyện Chiêm Hóa trong hơn 60 năm
qua. Chiêm Hóa là một huyện của tỉnh Tuyên Quang có nhiều dân tộc cùng
sinh sống. "Đến năm 2005, dân số huyện Chiêm Hóa có 138.657 người gồm
22 dân tộc anh em: Kinh, Tày, Dao, H'Mông, Nùng" [2, tr.14]. Để đáp ứng
được yêu cầu của sự phát triển xã hội, "Đảng bộ huyện đã quan tâm và đẩy
mạnh công tác bồi dưỡng cán bộ, đặc biệt là cán bộ người dân tộc thiểu số.
Một trong những bài học trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo nhân dân trong
huyện thực hiện các nhiệm vụ chính trị của Đảng bộ huyện là "Thực hiện tốt
chính sách dân tộc, công tác vận động quần chúng của Đảng, thường xuyên
củng cố khối đại đoàn kết dân tộc, huy động được sức mạnh đoàn kết yêu
nước của đồng bào các dân tộc vào sự nghiệp cách mạng" [2, tr.327].
Cuốn sách: Trường Chính trị tỉnh Tuyên Quang 50 năm xây dựng và
phát triển [115] đã trình bày quá trình xây dựng và phát triển từ Trường
Đảng tỉnh Tuyên Quang đến Trường Chính trị tỉnh hiện nay; làm rõ nhiệm
vụ chính trị, cơ cấu tổ chức bộ máy của trường qua các thời kỳ lịch sử.
Ngoài ra, còn một số tác phẩm như: Văn hóa truyền thống các dân tộc
Tày, Dao, Sán Dìu ở Tuyên Quang [49], đã đề cập đến phong tục, tập quán tín
ngưỡng của các dân tộc thiểu số ở Tuyên Quang.
1.1.2. Nghiên cứu của người nước ngoài
Nghiên cứu của người nước ngoài về các dân tộc thiểu số ở Việt Nam,
đặc biệt ở miền núi phía Bắc có công trình Những xu hướng phát triển ở vùng
núi phía Bắc Việt Nam [31] và Chính sách dân tộc của Đảng Cộng sản Việt
Nam [87]... Các công trình này chủ yếu nghiên cứu dưới góc độ nhân học, rồi
từ đó đề cập đến chính sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam đối với việc
phát triển con người ở vùng dân tộc thiểu số.
29. 24
Gần đây, các tổ chức phi Chính phủ hợp tác với phía Việt Nam thực
hiện các dự án về đói nghèo, môi trường - sinh thái, quan hệ tộc người,... ở
miền núi và đã có những nghiên cứu đáng quan tâm như công trình:
Rethinking Approaches to Ethenic Minority Development, the Case of
Vietnam ("Nghĩ lại cách tiếp cận chương trình phát triển dân tộc thiểu số,
trường hợp Việt Nam") [139], và Chính sách dân tộc bản địa của Ngân
hàng Phát triển châu Á [88], Chính sách dân tộc bản địa của Ngân hàng
Thế giới... [89]. Những nghiên cứu này khuyến nghị Chính phủ Việt Nam
cần lưu tâm đến việc chăm lo những đối tượng chịu nhiều thiệt thòi trong
quá trình chuyển đổi cơ chế, mà ở đó đồng bào dân tộc thiểu số cần có sự
quan tâm đặc biệt. Các nghiên cứu này đã chỉ ra các nhóm dân tộc thiểu số
trình độ học vấn thấp, ít được hưởng lợi từ các chính sách ưu tiên của Nhà
nước, cũng như ưu tiên dân tộc thường là sự áp đặt ý chí của Nhà nước đối
với người dân, ít chú ý đến yêu cầu phát huy năng lực nội sinh của bản thân
người dân tộc thiểu số nhằm đảm bảo những ưu tiên đầu tư đó có hiệu quả
lâu dài và bền vững.
1.2. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN ĐÃ ĐƯỢC GIẢI
QUYẾT VÀ NHỮNG NỘI DUNG LUẬN ÁN CẦN TẬP TRUNG NGHIÊN CỨU
1.2.1. Kết quả nghiên cứu liên quan đến luận án đã được giải quyết
Những công trình nêu trên đã cung cấp những tài liệu quan trọng và cách
tiếp cận đối tượng nghiên cứu của luận án. Tuy vậy, do mục đích và phạm vi
nghiên cứu đặt ra, 3 nhóm công trình đó đã nghiên cứu những nội dung sau:
Nghiên cứu hệ thống quan điểm, đường lối chính sách của Đảng về vấn
đề dân tộc và chính sách dân tộc.
Nghiên cứu về quá trình thực hiện chính sách dân tộc ở một số địa
phương trên phạm vi cả nước.
Nghiên cứu quan điểm của Đảng về đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số và
công tác xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số.
30. 25
Một số công trình đã nghiên cứu về một số khâu trong công tác xây
dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số như: tạo nguồn, phát triển nguồn cán bộ
dân tộc thiểu số.
Nghiên cứu về văn hóa các dân tộc thiểu số ở Tuyên Quang; tình hình
kinh tế, văn hóa xã hội, chính trị ở Tuyên Quang.
Chưa có công trình nào nghiên cứu cụ thể về công tác xây dựng đội ngũ
cán bộ dân tộc thiểu số ở Tuyên Quang.
Chính vì vậy, việc thực hiện đề tài này là cần thiết xét trên cả phương
diện lý luận và thực tiễn.
1.2.2. Những vấn đề luận án tập trung nghiên cứu
- Khái quát đường lối, chủ trương của Đảng về xây dựng đội ngũ cán
bộ người dân tộc thiểu số;
- Phân tích các yếu tố tự nhiên, xã hội và bối cảnh lịch sử tác động đến
công tác xây dựng đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số của tỉnh Tuyên
Quang từ khi tái lập tỉnh từ năm 1991 đến năm 2010.
- Trình bày quá trình Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang lãnh đạo xây dựng đội ngũ
cán bộ người dân tộc thiểu số (qua hai giai đoạn: 1991 - 2000 và 2001 - 2010).
- Đánh giá những kết quả đã đạt được, những khó khăn, tồn tại; bước
đầu đúc kết một số kinh nghiệm của Đảng bộ tỉnh qua thực tiễn lãnh đạo công
tác xây dựng đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số ở Tuyên Quang.
31. 26
CHƯƠNG 2
CHỦ TRƯƠNG VÀ SỰ CHỈ ĐẠO CỦA
ĐẢNG BỘ TỈNH TUYÊN QUANG VỀ XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ
CÁN BỘ DÂN TỘC THIỂU SỐ TỪ NĂM 1991 ĐẾN NĂM 2000
2.1. NHỮNG YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ
DÂN TỘC THIỂU SỐ Ở TUYÊN QUANG
2.1.1. Điều kiện tự nhiên, đặc điểm kinh tế, văn hóa, xã hội và quốc tế
2.1.1.1. Điều kiện tự nhiên
Tuyên Quang là một tỉnh miền núi, nằm giữa khu Việt Bắc. Phía Bắc
giáp tỉnh Hà Giang, có ranh giới dài 151km; Phía Nam giáp tỉnh Phú Thọ và
Vĩnh Phúc, có ranh giới dài 80km; Phía Đông giáp tỉnh Cao Bằng, Bắc Cạn
và Thái Nguyên, có ranh giới dài 171km; Phía Tây giáp tỉnh Yên Bái, có ranh
giới dài 80km.
Tuyên Quang có nhiều rừng núi, chiếm khoảng 4/5 diện tích toàn tỉnh.
Càng về phía Bắc càng có nhiều ngọn núi cao trên 1.000m. Phía Đông, nối
với dãy Tam Đảo là núi Thanh Sơn, núi Lịch, núi Hồng. Phía Nam là những
dãy đồi xen kẽ núi đá có thành vách đứng bao quanh, tạo thành những thung
lũng hiểm trở, nhiều hang động lớn.
Rừng núi Tuyên Quang có tài nguyên thiên nhiên dồi dào, phong
phú. Trong lòng đất Tuyên Quang có nhiều khoáng sản quý hiếm như:
than, kẽm, thiếc, diêm tiêu… phục vụ cho ngành kinh tế công, nông nghiệp
và quốc phòng.
Tuyên Quang có mạng lưới giao thông thủy bộ tương đối thuận tiện.
Sông Lô bắt nguồn từ Trung Quốc chảy qua Hà Giang về Tuyên Quang rồi
hợp với sông Hồng chảy ra biển Đông. Sông Gâm chảy qua Cao Bằng về
huyện Na Hang, Chiêm Hóa, nối với sông Lô ở ngã ba Hòn Lau (Yên Sơn).
Đây là hai con sông rộng và sâu, tàu, xuồng loại nhỏ có thể đi lại dễ dàng,
32. 27
thuận lợi cho việc cơ động lực lượng và vận chuyển hàng hóa. Ngoài ra,
Tuyên Quang còn có sông Chảy ở Yên Sơn, sông Năng ở Na Hang, sông Phó
Đáy ở Sơn Dương và hàng trăm con ngòi, suối, vừa là nguồn nước dồi dào
phục vụ cho sản xuất vừa là nguồn thủy năng tiềm tàng. Về giao thông đường
bộ có quốc lộ số 2 chạy từ Hà Nội qua Vĩnh Phúc, Phú thọ đến Tuyên Quang
và lên tỉnh Hà Giang, dài hơn 300km. Đường số 13A xuất phát từ Bờ Đậu
(Bắc Thái) qua Đèo Khế sang Sơn Dương đến thị xã Tuyên Quang, sang tỉnh
Yên Bái. Đường số 12 từ Sơn Dương đi Vĩnh Yên, Vĩnh Phúc. Đường số 11
từ Đoan Hùng qua huyện Yên Bình lên huyện Lục Yên (Yên Bái). Ngoài ra,
Tuyên Quang có nhiều trục đường liên huyện chạy dọc theo các thung lũng,
triền núi, nối liền các tỉnh bạn.
Địa hình Tuyên Quang đa dạng và phức tạp. Núi cao, vực sâu, rừng
rậm nối tiếp nhau tạo thành những hành lang bao bọc lấy nội địa, tạo cho
Tuyên Quang có địa thế hiểm yếu, một địa bàn quan trọng của đất nước.
Do ảnh hưởng của địa hình, khí hậu và thời tiết ở Tuyên Quang khá
phức tạp. Nhiệt độ trung bình 160
C. Mùa đông, có nơi nhiệt độ xuống đến 1
hoặc 20
C. Lượng mưa phân bổ không đều. Lũ lụt đi liền với gió bão, mưa đá,
gây nhiều khó khăn cho sản xuất và đời sống sinh hoạt của con người.
Tuyên Quang với điều kiện tự nhiên thiên nhiên ưu đãi, nhiều tiềm
năng phát triển kinh tế - xã hội, đòi hỏi đội ngũ cán bộ, trước hết và quan
trọng là đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số bản địa có trách nhiệm khai thác, phát
huy. Tuyên Quang giáp với các tỉnh Hà Giang, Yên Bái, Phú Thọ và Bắc Cạn
cũng đều có nhiều dân tộc sinh sống. Vì vậy, Đảng bộ Tuyên Quang có nhiều
thuận lợi trong việc xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số, có thể học hỏi
kinh nghiệm xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số các tỉnh bạn. Tuy
nhiên, với địa hình đa dạng và phức tạp, lũ lụt thường xuyên cùng với giao
thông đi lại khó khăn, là một trở ngại trong quá trình phát triển kinh tế - xã
33. 28
hội, củng cố hệ thống chính trị nói chung, xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc
thiểu số của tỉnh nói riêng.
Địa bàn chia cắt, đặc biệt là những vùng sâu, vùng xa, vùng cao với đặc
điểm của các dân tộc ít người, có môi trường sống quá gần gũi với thiên
nhiên, định cư bên các triền đồi, núi, cách xa trung tâm kinh tế, văn hóa,
chính trị các vùng trong địa bàn tỉnh cũng là một thách thức trong công tác
xây dựng đội ngũ cán bộ thiểu số ở Tuyên Quang.
2.1.1.2. Yếu tố về kinh tế
Bên cạnh những thuận lợi và thế mạnh cơ bản, đến nay Tuyên Quang
vẫn là một tỉnh nghèo, còn nhiều khó khăn: Kinh tế phát triển chậm, trình độ
sản xuất còn thấp kém, một số vùng vẫn mang nặng tính tự cung tự cấp. Thế
mạnh về cây công nghiệp, chăn nuôi chưa được khai thác tốt, đất trống, đồi
trọc còn nhiều. Công nghiệp chưa phát triển, chỉ chiếm 14% giá trị tổng sản
phẩm xã hội. Thu nhập bình quân đầu người còn thấp so với mức bình quân
cả nước, đời sống nhân dân còn gặp nhiều khó khăn. Nhiều bộ phận dân cư
còn sống ở mức nghèo khổ, điển hình là các tộc người thiểu số sinh sống tại
các địa bàn xa xôi, hẻo lánh. Bản thân cuộc sống của dân tộc còn khó khăn và
thiếu thốn sẽ hạn chế đến công tác xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số
ngay chính trong tộc người đó.
Tuyên Quang đã có những thành tựu nhất định trong xoá đói giảm
nghèo. Tuy nhiên, tỉ lệ hộ nghèo ở các vùng sâu, vùng xa vẫn cao so với mặt
bằng chung của tỉnh. Bên cạnh đó, do những thành tựu xoá đói, giảm nghèo
đã đạt được còn thiếu tính bền vững, nguy cơ tái nghèo còn cao. Trong khi
hầu hết đồng bào dân tộc thiểu số đều làm nghề nông. Khi nói tới dân tộc
thiểu số, chúng ta thường nghĩ ngay tới rừng núi, chăn nuôi, tới công việc đi
rừng làm rẫy. Điều đó đã in sâu vào trong suy nghĩ và tiềm thức của mỗi
người, về công việc của đồng bào dân tộc thiểu số.
34. 29
Giúp bà con dân tộc thiểu số thoát nghèo, phát triển kinh tế là một
trong những nhiệm vụ hàng đầu trong chiến lược phát triển kinh tế đất
nước. Nhưng nếu chỉ có chính sách hỗ trợ mà không có sự cố gắng của
chính đối tượng được trợ giúp thì chính sách đó cũng không thể đạt được
hiệu quả như mong muốn. Nhiều năm qua, Đảng bộ các cấp của tỉnh Tuyên
Quang cũng đã có những định hướng nghề, mở các lớp dạy nghề cho đồng
bào dân tộc thiểu số. Nhưng một điều hết sức lưu ý là có rất nhiều hộ gia
đình đồng bào dân tộc thiểu số mong muốn cho con cái được làm cán bộ.
Điều này bị ảnh hưởng bởi suy nghĩ theo lối mòn của bà con dân tộc, cứ
làm việc trong Nhà nước hay các tổ chức đều gọi là cán bộ mà không có sự
phân biệt về ngành nghề hay công việc. Mong muốn cuối cùng là "thoát
nghèo", "thoát nông". Đồng bào dân tộc thiểu số rất hạn chế trong hiểu biết
về các công việc và ngành nghề. Bên cạnh đó, đại đa số đồng bào dân tộc
thiểu số không có kiến thức phổ thông, thậm chí nhiều người còn chưa biết
chữ; các trường nghề đa phần nằm xa làng bản, đi lại khó khăn cũng là
những trở ngại không nhỏ trong công tác đào tạo nghề ở vùng dân tộc thiểu
số... dẫn đến người lao động muốn có công việc, để ổn định cuộc sống,
trong khi tay nghề không có, là rất khó khăn.
Tỉnh Tuyên Quang cũng đã có một số dự án các khu công nghiệp được
mở ra, khuyến khích sử dụng lao động tại chỗ, đặc biệt là ưu tiên con em
đồng bào dân tộc thiểu số. Nhưng bản thân họ không đáp ứng được những
yêu cầu của công việc. Nhiều công việc tuy đòi hỏi chuyên môn không cao,
nhưng lại có những quy định và kỷ luật lao động công nghiệp, khiến lao động
là người dân tộc thiểu số không đáp ứng được.
Việc di cư cũng là điều rất hạn chế với người dân tộc thiểu số. Suy nghĩ
bám đất bám quê ăn sâu vào tiềm thức của họ. Nên dù có nghèo khổ họ cũng
không muốn bỏ quê để tìm tới một cơ hội mới; việc kinh doanh buôn bán tại
35. 30
chỗ vô cùng nhỏ lẻ và kém phát triển. Điều đó là nguyên nhân của những dự
án di dân tái định cư ở tỉnh Tuyên Quang không đạt được hiệu quả.
Trong những năm gần đây, Nhà nước đã quan tâm đặc biệt đến sự
phát triển kinh tế cho các dân tộc thiểu số. Sự phát triển này được dựa trên
kinh tế của từng vùng miền khác nhau. Các chương trình 135, 134 áp dụng
cho các xã có điều kiện kinh tế đặc biệt khó khăn trên địa bàn cả nước cũng
đã đạt được một số thành tựu đáng kể về kinh tế cũng như xã hội. Chương
trình 135 cũng đã tạo ra bước chuyển quan trọng trong sản xuất nông, lâm,
ngư nghiệp của người dân tộc thiểu số. Đã có những kiến thức khoa học kỹ
thuật được áp dụng trong các công đoạn sản xuất, đưa máy móc vào trong
nông nghiệp, đưa các giống mới vào sản xuất... Chính những công việc này
đã tác động mạnh mẽ đến xây dựng đội ngũ cán bộ có trình độ người dân
tộc thiểu số phát triển để có thể thoát nghèo trên chính những tư liệu sẵn có
của mình. Thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước cũng đã dẫn tới
những thay đổi về cơ cấu xã hội, phong cách, lối sống, phong tục tập quán
cũng như dẫn tới sự "đô thị hoá", tạo ra các trung tâm dịch vụ cấp vùng,
cấp địa phương, nhất là các dịch vụ xã hội liên quan trực tiếp đến sự phát
triển nguồn cán bộ dân tộc như giáo dục - đào tạo, y tế - chăm sóc sức
khoẻ, truyền thông, truyền hình... tác động rất lớn đến việc hình thành một
đội ngũ tri thức chuyên nghiệp sinh sống và hoạt động ở đô thị, vừa tạo nhu
cầu cho các dân tộc thiểu số phấn đấu, tham gia vào hệ thống chính trị ở
địa phương. Xây dựng nông thôn mới thiếu quy hoạch cũng dễ tạo tình
trạng phát triển bất cân xứng giữa các vùng, đặc biệt là vùng sâu, vùng xa,
vùng nhiều đồng bào dân tộc thiểu số.
Đặc điểm này gây những khó khăn, trở ngại trong xây dựng đội ngũ
cán bộ nói chung, cán bộ dân tộc thiểu số ở Tuyên Quang nói riêng; đồng
thời, đòi hỏi Đảng bộ phải luôn chú trọng nâng cao năng lực lãnh đạo, quản lý
36. 31
của đội ngũ cán bộ, đặc biệt là đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý kinh tế là
người dân tộc thiểu số của tỉnh.
2.1.1.3. Yếu tố về văn hóa
Bản sắc văn hóa là một vốn quý giá nhưng trước làn sóng đô thị hoá,
trong điều kiện mở cửa và giao thương phát triển mạnh, một số bà con dân
tộc thiểu số lại sinh sống gần các khu vực biên giới nên bản sắc văn hóa
các dân tộc có nguy cơ bị mai một nhanh chóng. Trong điều kiện hội nhập
phát triển mạnh như hiện nay, một vấn đề đặt ra là phải bảo tồn di sản văn
hóa nói chung và bảo tồn di sản văn hóa các dân tộc thiểu số nói riêng.
Nhưng muốn bảo tồn được các di sản văn hóa đòi hỏi phải thay đổi về mặt
nhận thức, có sự quan điểm chỉ đạo mang tính khoa học, đồng bộ của các
cấp uỷ đảng và chính quyền. Trong quá trình giao lưu, hội nhập với quốc
tế, chúng ta đứng trước những thách thức đặt ra và điều cần thiết là cần
giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa người dân tộc thiểu số trong giao lưu
và hội nhập. Trong quá trình tiếp biến văn hóa, có nhiều thay đổi như về
tiếng nói, cách ăn mặc, lối sống, và văn hóa tộc người... Riêng về tiếng
nói và chữ viết, hiện đang phổ cập tiếng Việt cho hầu hết các dân tộc,
đồng thời duy trì ngôn ngữ của đồng bào các dân tộc thiểu số. Người dân
sẽ học chữ quốc ngữ song song cùng với chữ viết của dân tộc mình. Đây
cũng là một biện pháp thiết thực nhằm bảo tồn nét văn hóa đặc sắc của
dân tộc trước sự hội nhập quốc tế không ngừng gia tăng. Không chỉ duy
trì những nét văn hóa trong cộng đồng người dân mà ngay cả các cán bộ
quản lý trong khu vực có người dân tộc thiểu số sinh sống bất kể là người
dân tộc nào cũng sẽ phải học và làm quen với tiếng nói và chữ viết của
dân tộc đó. Đây là một điều rất cần thiết và thiết thực với công tác quản lý
bởi có hiểu được người dân thì mới có thể đề ra các biện pháp và cách
thức quản lý đúng đắn và phù hợp.
37. 32
Vì vậy, vai trò của đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số rất quan trọng trong
việc bảo tồn và phát triển cũng như phòng chống các biểu hiện tiêu cực trong
tập tục của đồng bào các dân tộc thiểu số.
2.1.1.4. Yếu tố về xã hội và dân cư
Tuyên Quang là địa bàn quần cư của nhiều dân tộc anh em sinh sống từ
bao đời nay: Kinh, Tày, Nùng, H'Mông, Cao Lan, Sán Dìu, Cờ Lao, Pà Thẻn,
La Chí, Pu Péo, Lô Lô, Bố Y, Dao, Hoa, Giấy, Mường… Những dân tộc có
dân số đông là Kinh, Tày sống tập trung ở thành phố Tuyên Quang và thị xã
và huyện Yên Sơn, Hàm Yên. Các dân tộc thiểu số khác sống tập trung ở các
huyện khác còn lại của tỉnh như Na Hang, Chiêm Hóa, Sơn Dương. Các dân
tộc sống xen kẽ với nhau rất đoàn kết và hòa thuận.
Theo điều tra dân số năm 1991, Tuyên Quang có 596.679 người, mật
độ trung bình khoảng 100 người trên 1km2
. Đến năm 2007, là 732.256 người.
Phần đông đồng bào sống tập trung ở vùng thấp, ven sông và các thị trấn, thị
xã. Ở vùng cao, dân cư thưa thớt hơn.
Với đặc điểm sống cách xa nhau về mặt địa lý, là những bất lợi cho
việc xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số. Để tuyên truyền, nâng cao
nhận thức cho dân tộc thiểu số tham gia vào hệ thống chính trị của tỉnh là
một điều hết sức khó khăn. Hơn nữa, do nền kinh tế chuyển đổi và quá
trình hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, với tốc độ tăng trưởng kinh tế
tương đối cao, có tính chất liên tục trong thời gian dài dẫn tới việc phân
tầng xã hội ngày càng gia tăng. Chính điều này đã tác động không nhỏ đến
quá trình xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số. Đa số người dân tộc
thiểu số là những người nghèo thuộc giai cấp nông dân. Cơ hội để phát
triển của họ là không nhiều. Những điều kiện này đặt ra yêu cầu đối với các
địa phương vùng nhiều đồng bào dân tộc thiểu số là phải đào tạo nghề cho
người lao động thiểu số thông qua các chương trình, dự án. Chính vì thế,
38. 33
các tộc người thiểu số thường dễ bị tổn thương và hay phải đứng trước
những rủi ro khi có những biến động về kinh tế, chính trị và xã hội, cơ hội
di động xã hội của họ không cao, do đó, nguy cơ tụt hậu hơn nữa là điều rất
có thể xảy ra.
Các tộc người thiểu số thường sống quây quần thành các làng bản. Tính
cộng đồng trong dòng họ, thôn bản của đồng bào dân tộc thiểu số rất cao. Họ
nhất nhất nghe theo người đứng đầu dòng họ hay trưởng bản. Điều này có lợi
nhưng cũng là một điểm yếu để những "thế lực thù địch" lợi dụng chống lại
đường lối của Đảng và Nhà nước. Trưởng bản, trưởng tộc là những người có
uy tín được đồng bào cử ra điều khiển việc chung của một cộng đồng dân cư
vùng dân tộc thiểu số. Đây không chỉ là một yêu cầu của cuộc sống mà còn là
phong tục tốt đẹp, là nét văn hóa riêng của các dân tộc thiểu số đã hình thành
và tồn tại từ rất lâu đời trong lịch sử. Trong điều kiện hiện nay, họ đang thực
sự là nòng cốt, là cầu nối giữa dân với Đảng, với chính quyền, Mặt trận tổ
quốc; họ có những đóng góp tích cực vào việc tuyên truyền, vận động con
cháu trong dòng tộc và các thành viên trong cộng đồng dân cư thực hiện
đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, giữ yên gia đình,
làng, bản của mình.
Trong những năm gần đây, nhận thức của đồng bào các dân tộc thiểu
số về giáo dục và đào tạo cũng đã có những tiến bộ đáng kể. Thể hiện ở việc
dự định của họ cho con em đi học ở các cấp học khác nhau. Đây là nguồn
vô cùng quan trọng trong xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số. Chính
sách cử tuyển của Đảng và Nhà nước áp dụng cho vùng dân tộc thiểu số đã
mở ra hướng mới, nhằm mục đích nâng cao chất lượng nguồn cán bộ dân
tộc thiểu số, để bổ sung vào đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số kế cận sau này.
Tuy nhiên, điều này cũng vấp phải một rào cản lớn, đó là sự ỷ lại của đồng
bào dân tộc thiểu số. Họ sống phụ thuộc quá nhiều vào tự nhiên với tâm lý
39. 34
dễ thì làm, khó thì bỏ và tâm lý này duy trì cả trong việc học tập. Họ luôn
bằng lòng với những gì sẵn có, thiếu ý thức phấn đấu cầu thị, chưa có ý
thức học tập để tạo ra nền xã hội cho lập nghiệp, lập thân và rộng hơn là
tìm cơ hội phát triển.
Năng lực tham gia của các dân tộc thiểu số vào quá trình phát triển kinh
tế, văn hóa, xã hội và thể chế chính trị cũng góp phần vào sự phát triển của
nguồn cán bộ dân tộc thiểu số tạo điều kiện thuận lợi cho xây dựng đội ngũ
cán bộ dân tộc thiểu số đáp ứng yêu cầu nghiệp vụ cách mạng.
Các dân tộc thiểu số sống đan xen. Vì thế đoàn kết dân tộc sẽ thúc đẩy
sự giao lưu học hỏi lẫn nhau, làm cho tri thức chung ngày càng mở rộng, và
như thế quá trình xây dựng cán bộ dân tộc thiểu số sẽ có những bước chuyển
biến mới và có khả năng nâng cao tri thức một cách rõ ràng.
2.1.1.5. Yếu tố quốc tế
Hiện nay Việt Nam đang có quan hệ với khoảng 650 tổ chức phi chính
phủ nước ngoài, trong đó có trên 500 tổ chức hoạt động thường xuyên và cam
kết dài hạn. Nguồn viện trợ của các tổ chức phi chính phủ chủ yếu tập trung
vào các ngành y tế, giáo dục; giải quyết các vấn đề xã hội cũng như phát triển
kinh tế (nhất là du lịch). Đặc biệt các nguồn vốn này sẽ được ưu tiên nhiều
hơn tới các vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa, nơi có nhiều đồng bào dân tộc
thiểu số có hoàn cảnh kinh tế khó khăn, môi trường xã hội còn nhiều hạn chế.
Những chương trình, dự án của các tổ chức quốc tế đem tới Việt Nam đã góp
phần tích cực vào việc xoá đói, giảm nghèo cũng như nâng cao đời sống và
năng lực của người dân tại các vùng dự án.
Khả năng giao lưu quốc tế được mở rộng cho phép các dân tộc có
nhiều cơ hội tiếp xúc với nhau. Các phần tử xấu cũng lợi dụng chính sách
mở cửa của Việt Nam để thâm nhập, chống phá, chia rẽ khối đại đoàn kết
dân tộc, thực hiện chủ nghĩa ly khai. Tại một số nơi trong tỉnh, những phần
40. 35
tử này đã dựa vào miền núi, vùng sâu vùng xa, lợi dụng lòng tin, nhận thức
còn bị hạn chế, đời sống vật chất khó khăn, thiếu thốn của đồng bào các
dân tộc thiểu số để tuyên truyền, xuyên tạc chính sách của Đảng và Nhà
nước Việt Nam. Như sự kiện "Tổ chức tín ngưỡng Dương Văn Minh"
những năm cuối thế kỷ XX ở Tuyên Quang đã lợi dụng nhận thức còn hạn
chế của đồng dân tộc thiểu số, đặc biệt là người H'Mông. Chúng đã kích
động, lôi kéo họ tham gia theo "Tín ngưỡng Dương Văn Minh" mà thực
chất đó là một tà đạo. Kích động đồng bào H'Mông khiếu kiện với chính
quyền đòi công nhận sự tồn tại của "Tín ngưỡng Dương Văn Minh", nhưng
thực chất của mục đích là chống lại Đảng và Nhà nước Việt Nam. Sau khi
Dương Văn Minh bị bắt, chính quyền địa phương đã giác ngộ, phân tích
cho đồng bào H'Mông trong tỉnh nhận thức được bản chất của tín ngưỡng
này, giúp họ trở lại với cuộc sống hàng ngày, và tin tưởng vào sự lãnh đạo
của Đảng và Nhà nước.
Như vậy, xét về yếu tố môi trường tự nhiên, đồng bào các dân tộc thiểu
số ở Tuyên Quang sống rải rác, xen kẽ nhau. Về kinh tế - văn hóa, xã hội, văn
hóa các dân tộc thiểu số có trình độ phát triển không đều nhau. Tuy cùng chia
sẻ một số giá trị văn hóa chung, nhưng mỗi dân tộc lại có những giá trị và sắc
thái riêng. Tất cả những yếu tố trên đã có những tác động và là một thách thức
không nhỏ đối với Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang trong công tác lãnh đạo, xây
dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số ở địa phương.
2.1.2. Thực trạng công tác xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số
ở Tuyên Quang trước năm 1991
Người Việt Nam luôn tự hào về nền văn hóa truyền thống của mình,
bởi đó là một nền văn hóa phong phú, đa dạng và đậm đà bản sắc dân tộc. Sự
phong phú, đa dạng và đậm đà bản sắc dân tộc đó là do sự đóng góp của 54
dân tộc anh em cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam. Mỗi dân tộc tự xây
41. 36
dựng nên một nền văn hóa truyền thống của riêng mình. Nền văn hóa ấy có
xu hướng hòa nhập với nền văn hóa chung của dân tộc trong quá trình giao
lưu, tiếp bước, vừa mang nét độc đáo riêng của mỗi dân tộc. Đây chính là cơ
sở để hình thành một nền văn hóa Việt Nam đa dạng trong thống nhất. Văn
hào R.Tago đã nói "Mỗi dân tộc phải biết rõ mình, đồng thời phải biết thể
hiện mình trước thế giới". Theo Vũ Ngọc Khánh trong Truyền thống văn hóa
các dân tộc thiểu số ở Việt Nam, tập 1 có viết "Từ khi buổi bình minh của lịch sử,
tổ tiên của các dân tộc thiểu số hiện nay đã là chủ nhân của những nền văn
hóa xưa nhất của nhân loại" [68, tr.17].
Người dân tộc thiểu số là cư dân sống lâu đời ở mảnh đất Tuyên Quang
được gọi là "Trấn biên" che chở cho "Kinh chấn". Không kể người Kinh, có
khoảng 22 dân tộc khác nhau cùng sinh sống, trong đó chiếm số lượng nhiều
hơn cả là người Tày, người Dao, người Cao Lan và người Nùng.
Trải qua hàng nghìn năm lịch sử, đồng bào các dân tộc thiểu số ở
Tuyên Quang vốn có truyền thống yêu nước, cần cù, khéo tay, sáng tạo trong
lao động, thông minh, hiếu học, giàu lòng nhân ái, kiên cường, bất khuất
trong chiến đấu, đã tạo nên một Tuyên Quang giàu bản sắc và truyền thống
văn hóa, một Tuyên Quang - quê hương cách mạng.
Thời phong kiến, dưới các triều đại Lý, Trần, Lê thời Tây Sơn, nhân
dân các dân tộc tỉnh Tuyên Quang đã phối hợp với triều đình đứng lên đánh
đuổi kẻ thù xâm lược bảo vệ vẹn toàn lãnh thổ.
Những năm đầu thế kỷ 20, nhân dân các dân tộc tỉnh Tuyên Quang đã
tham gia vào cuộc đấu tranh chống thực hiện dân Pháp xâm lược, hưởng ứng
phong trào yêu nước, giải phóng dân tộc.
Từ khi có Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời ngày 3/2/1930 và lãnh đạo
cách mạng Việt Nam, đồng bào các dân tộc ở Tuyên Quang đã một lòng theo
Đảng, tham gia vào cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc; kháng chiến chống
Pháp, chống Mỹ cứu nước, xây dựng chủ nghĩa xã hội và thống nhất đất nước.
42. 37
Trong thời kỳ cách mạng mới, các dân tộc thiểu số ở Tuyên Quang
là lực lượng xã hội quan trọng góp phần vào sự thành công của công cuộc
xây dựng CNXH. Trong sản xuất, họ là lực lượng lao động đông đảo,
đóng góp không nhỏ vào sự phát triển kinh tế ở Tuyên Quang. Với 22 dân
tộc khác nhau, người dân tộc thiểu số đã thực sự mang đến cho Tuyên
Quang nhiều sắc thái giá trị đó là truyền thống cần cù lao động, chịu
thương chịu khó, lối sống tiết kiệm, chắt chiu thành quả, là nghị lực phấn
đấu, vượt qua hoàn cảnh để sinh tồn, tạo dựng một chỗ đứng của bản thân
trong cộng đồng các dân tộc anh em, với trình độ học vấn ngày càng được
nâng lên, đã đóng góp vào thành tựu phát triển chung của tỉnh, đồng thời
là nguồn nhân lực quan trọng trong quá trình xây dựng đội ngũ cán bộ
người dân tộc thiểu số.
Trong hệ thống chính trị cơ sở của tỉnh, tỉ lệ cán bộ, công chức chuyên
trách và không chuyên trách là người dân tộc thiểu số có số lượng đáng kể.
Hơn ai hết, họ gần gũi với đồng bào dân tộc thiểu số tại chỗ, hiểu tiếng nói,
phong tục tập quán tâm lý, lề lối, thói quen... của đồng bào nên đã phát huy
tốt vai trò tuyên truyền, vận động đồng bào thực hiện chủ trương, chính sách
của Đảng, Nhà nước.
Phát huy được vai trò của cộng đồng, người dân tộc thiểu số ở Tuyên
Quang trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, quốc phòng, an ninh
- xã hội, là nhân tố mang lại sự ổn định, phát triển bền vững của vùng đất
"Trấn biên" của Tổ quốc. Bởi vậy, xây dựng đội ngũ cán bộ người dân tộc
thiểu số không chỉ để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trước mắt mà còn là vấn đề
có tính chiến lược lâu dài cho vùng đất đa dân tộc này.
Tuy nhiên, công tác xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số trước
năm 1991 chưa thực sự được quan tâm. Cán bộ là người dân tộc thiểu số tham
gia vào hệ thống chính trị một cách ngẫu nhiên do nhu cầu công việc nên tỉ lệ
quá thấp so với tổng số cán bộ trong tỉnh.
43. 38
Cán bộ dân tộc thiểu số là sợi dây liên hệ giữa Đảng và quần chúng các
dân tộc. Giữa họ và dân tộc có mối quan hệ ruột thịt với nhau, do đó, họ có
điều kiện thuận lợi đoàn kết và động viên nhân dân các dân tộc phát triển sự
nghiệp cách mạng và xây dựng quê hương theo con đường của Đảng. Giai
đoạn này, Đảng bộ tỉnh Hà Tuyên còn thiếu kế hoạch chủ động và biện pháp
tích cực lâu dài, nhằm củng cố và xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số.
Hơn nữa, trong suốt một thời gian dài, chúng ta còn có thái độ đối với những
cán bộ vốn là người thuộc tầng lớp trên của dân tộc ít người, quy chụp và hiểu
một cách lệch lạc phương hướng giai cấp trong công tác cán bộ, đã gạt bỏ
những người thuộc thành phần lớp trên hoặc khá giả, còn có ảnh hưởng quan
trọng trong dân tộc thiểu số, đã tham gia công tác nhiều năm, dẫn tới sự bất
mãn của đội ngũ cán bộ này gây ảnh hưởng tới công tác xây dựng đội ngũ cán
bộ nói chung, cán bộ dân tộc thiểu số nói riêng.
Bên cạnh việc sử dụng cán bộ dân tộc thiểu số không hiệu quả, công
tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số của tỉnh cũng chưa
phù hợp với chuyên môn và đặc điểm từng địa phương, nhất là đào tạo cán
bộ kỹ thuật, quản lý kinh tế và chuyên môn nghiệp vụ là người dân tộc
thiểu số.
Để sử dụng tốt cán bộ dân tộc, về mặt tư tưởng, phải chống khuynh
hướng hẹp hòi, xây dựng quan điểm đúng đắn với việc nhìn nhận và đánh giá
cán bộ dân tộc, mạnh dạn sử dụng và tích cực bồi dưỡng cán bộ dân tộc.
Nhìn chung, đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số đặc biệt là cán bộ lãnh đạo
và chỉ đạo ở cấp tỉnh còn rất ít, nhất là những cán bộ chủ chốt. Phần lớn các
chức vụ phụ trách các ngành ở tỉnh và các đồng chí lãnh đạo chủ chốt của
Đảng ở cấp tỉnh, huyện vẫn do cán bộ miền xuôi hoặc ở nơi khác đến đảm
nhiệm. Trong đội ngũ chuyên môn, khoa học, kỹ thuật từ các ngành y tế, giáo
dục tương đối nhiều cán bộ dân tộc hơn, còn lại các ngành khác, cán bộ dân
44. 39
tộc thiểu số tham gia vẫn ít. Trong cán bộ dân tộc, số cán bộ thuộc các dân tộc
ít người như Dao, Nùng, Cao Lan, Sán Dìu... chiếm số quá ít, chưa tương
xứng với số dân của họ. Phần lớn cán bộ dân tộc thiểu số chủ yếu là người
dân tộc Tày.
Nhận thức rõ vị trí, vai trò quan trọng của đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu
số cũng như những hạn chế trong công tác cán bộ dân tộc thiểu số giai đoạn
này, Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang đã đề ra những chủ trương đúng đắn để xây
dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số, và sử dụng có hiệu quả hơn trong hệ
thống chính trị của tỉnh.
2.1.3. Quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước về đội ngũ cán
bộ dân tộc thiểu số và vai trò của đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số
2.1.3.1. Khái niệm "cán bộ", "dân tộc thiểu số" và "cán bộ dân tộc
thiểu số"
* Khái niệm "cán bộ":
Là một từ được du nhập vào Việt Nam khoảng nửa đầu thế kỷ XX. Ban
đầu, từ "cán bộ" được dùng trong quân đội để phân biệt giữa chiến sĩ và người
chỉ huy (từ cấp tiểu đội trở lên). Về sau, từ "cán bộ" được dùng để chỉ tất cả
những người thoát ly gia đình đi hoạt động kháng chiến để phân biệt với nhân
dân. Trong một thời gian dài, ở Việt Nam từ "cán bộ" được dùng phổ biến, thay
thế cho từ công chức. Theo cách hiểu thông thường hiện nay, cán bộ được coi là
tất cả những người làm việc trong bộ máy của Đảng, chính quyền, đoàn thể và
lực lượng vũ trang. Trong quan niệm hành chính, cán bộ được coi là những
người có mức lương từ bậc cán sự trở lên, để phân biệt với những nhân viên có
mức lương dưới cán sự.
Theo Từ điển tiếng Việt, khái niệm "cán bộ" có hai nghĩa cơ bản:
- "Cán bộ là người làm công tác có nghiệp vụ chuyên môn trong cơ quan
nhà nước.
- Cán bộ là người làm công tác có chức vụ trong một cơ quan, một tổ
chức, phân biệt với người không có chức vụ" [136, tr.109].