Nhận viết luận văn Đại học , thạc sĩ - Zalo: 0917.193.864
Tham khảo bảng giá dịch vụ viết bài tại: vietbaocaothuctap.net
Download luận văn thạc sĩ ngành quản lí công với đề tài: Nâng cao chất lượng cán bộ chủ chốt chính quyền cấp xã trên địa bàn huyện Bình Liêu, tỉnh Quảng Ninh, cho các bạn làm luận văn
Đề tài: Chất lượng cán bộ chính quyền cấp xã tỉnh Quảng Ninh, HAY
1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
HOÀNG THỊ DUNG
NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG CÁN BỘ CHỦ CHỐT
CHÍNH QUYỀN CẤP XÃ HUYỆN BÌNH LIÊU
TỈNH QUẢNG NINH
LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ CÔNG
HÀ NỘI – 2016
2. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
HOÀNG THỊ DUNG
NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG CÁN BỘ CHỦ CHỐT
CHÍNH QUYỀN CẤP XÃ HUYỆN BÌNH LIÊU
TỈNH QUẢNG NINH
Chuyên ngành: Quản lý công
Mã số: 60 34 04 03
LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ CÔNG
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. Nguyễn Thị Vân Hƣơng
HÀ NỘI – 2016
3. LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu,
kết luận khoa học nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được công bố
trong bất cứ công trình nào. Những tư liệu sử dụng trong luận văn có nguồn gốc
và trích dẫn rõ ràng
Tác giả
Hoàng Thị Dung
4. LỜI CẢM ƠN
Trên thực tế không có sự thành công nào mà không gắn liền với
những hỗ trợ, sự giúp đỡ dù ít hay nhiều, dù trực tiếp hay gián tiếp của người
khác. Trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu tại trường Học viện Hành
chính Quốc gia, đến nay em đã hoàn thành Luận văn thạc sĩ, chuyên ngành quản
lý công. Để có được kết quả này, em đã nhận được rất nhiều sự ủng hộ, quan
tâm, giúp đỡ nhiệt tình, chu đáo, hướng dẫn của quý thầy cô, gia đình, đồng
nghiệp và bạn bè. Với lòng biết ơn sâu sắc nhất, em xin trân trọng gửi đến quý
thầy cô của trường đã rất tâm huyết truyền đạt vốn kiến thức quý báu và tạo điều
kiện thuận cho chúng em trong thời gian qua.
Và đặc biệt có được thành công trong công trình nghiên cứu khoa học
này, em xin gửi lời cảm ơn chân thành và sự tri ân sâu sắc đến với cô Nguyễn
Thị Vân Hương đã trực tiếp tận tình chỉ bảo, hướng dẫn, định hướng cho em
trong suốt quá trình nghiên cứu và thực hiện luận văn.
Xin trân trọng cảm ơn các đồng nghiệp, bạn bè và gia đình đã nhiệt
tình ủng hộ, giúp đỡ, cung cấp thông tin, tư liệu, tạo điều kiện cho tôi trong
suốt quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn.
Xin trân trọng cảm ơn./.
Tác giả luận văn
Hoàng Thị Dung
5. MỤC LỤC
Trang
LỜI CAM ĐOAN
LỜI CẢM ƠN
DANH MỤC CÁC CHỮ CÁI VIẾT TẮT
DANH MỤC CÁC BẢNG
PHẦN MỞ ĐẦU 1
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHẤT LƢỢNG CÁN BỘ CHỦ CHỐT
CHÍNH QUYỀN CẤP XÃ 7
1.1. Khái quát về đơn vị hành chính và chính quyền cấp xã 7
1.1.1. Đơn vị hành chính cấp xã 7
1.1.2. Chính quyền cấp xã 8
1.1.3. Vị trí, vai trò của chính quyền cấp xã 10
1.1.4. Chức năng, nhiệm vụ của chính quyền cấp xã 12
1.2. Cán bộ chủ chốt chính quyền cấp xã 14
1.2.1. Một số khái niệm cơ bản 14
1.2.2. Tầm quan trọng của cán bộ chủ chốt chính quyền cấp xã 17
1.3. Chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt chính quyền cấp xã 20
1.3.1. Khái niệm chất lượng 20
1.3.2. Khái niệm chất lượng đội ngũ CBCC cấp xã 21
1.3.3. Tiêu chí phản ánh chất lượng CBCC cấp xã 24
1.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng CBCC cấp xã 32
1.4.1. Các yếu tố khách quan 32
1.4.2. Các yếu tố chủ quan 36
Tiểu kết chương 1 40
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG CHẤT LƢỢNG CÁN BỘ CHỦ CHỐT CHÍNH
QUYỀN CẤP XÃ TẠI HUYỆN BÌNH LIÊU TỈNH QUẢNG NINH 41
2.1. Khái quát về huyện Bình Liêu, tỉnh Quảng Ninh 41
2.1.1. Điều kiện tự nhiên 41
2.1.2. Điều kiện kinh tế xã hội 42
2.2. Khái quát về cán bộ công chức cấp xã trên địa bàn huyện Bình Liêu 44
2.3.Thựctrạngchấtlượng cánbộchủchốtcấpxãhuyệnBìnhLiêutỉnhQuảngNinh 53
6. 2.3.1. Cơ sở pháp lý 53
2.3.2. Thực trạng chất lượng CBCC cấp xã huyện Bình Liêu thông qua các tiêu chí
đánh giá 60
2.4. Đánh giá chung về chất lượng CBCC chính quyền cấp xã của huyện Bình Liêu,
tỉnh Quảng Ninh. 72
Tiểu kết chương 2 81
Chƣơng 3: ĐỊNH HƢỚNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT
LƢỢNG CÁN BỘ CHỦ CHỐT CHÍNH QUYỀN CẤP XÃ TẠI HUYỆN
BÌNH LIÊU TỈNH QUẢNG NINH. 82
3.1. Định hướng và mục tiêu 82
3.2. Giải pháp nâng cao chất lượng CBCC chính quyền cấp xã tại huyện Bình
Liêu, tỉnh Quảng Ninh 91
3.2.1. Đổi mới công tác quy hoạch, tạo nguồn cán bộ 91
3.2.2. Đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ chủ chốt cấp xã 93
3.2.3. Tiếp tục đổi mới và thực hiện tốt việc bố trí, sử dụng và luân chuyển cán bộ
chủ chốt cấp xã 96
3.2.4. Xây dựng các quy chế về công tác quản lý cán bộ 98
3.2.5. Thực hiện trẻ hóa CBCC chính quyền cấp xã 100
3.2.6. Xây dựng tiêu chuẩn đội ngũ CBCC cấp xã đến năm 2020 và chuẩn bị cho
công tác cán bộ giai đoạn 2020 - 2025 101
3.2.7. Đổi mới hoàn thiện tổ chức và hoạt động của Đảng ủy, Hội đồng nhân dân,
Ủy ban nhân dân xã 105
Tiểu kết chương 3 109
KẾT LUẬN 110
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 112
7. DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CBCC Cán bộ chủ chốt
CNH, HĐH Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
HĐND Hội đồng nhân dân
UBND Ủy ban nhân dân
HTCT Hệ thống chính trị
QLNN Quản lý nhà nước
KT - XH Kinh tế - xã hội
VH - XH Văn hóa – xã hội
QP - AN Quốc phòng – An ninh
XHCN Xã hội chủ nghĩa
MTTQ Mặt trận tổ quốc
ĐTNCSHCM Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh
HPN Hội phụ nữ
HND Hội nông dân
HCCB Hội cựu chiến binh
HCNN Hành chính nhà nước
BCH Ban chấp hành
NSNN Ngân sách nhà nước
NNL Nguồn nhân lực
KTCK Kinh tế cửa khẩu
VH-XH Văn hóa – xã hội
8. DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ, BẢNG BIỂU
STT Ký hiệu Nội dung Trang
1 Sơ đồ 2.1 Cơ cấu theo giới tính của CBCC cấp xã 50
2 Sơ đồ 2.2
Độ tuổi của cán bộ chủ chốt cấp xã
giai đoạn 2011 - 2016 và 2016 – 2021
52
3 Sơ đồ 2.3
Trình độ lý luận chính trị của BT, PBT;CT, PCT
HĐND và UBND cấp xã
61
4 Sơ đồ 2.4 Trình độ chuyên môn 64
5 Sơ đồ 2.5
Kiến thức Q LNN của BT, PBT; CT, PCT
HĐND và UBND cấp xã
65
6 Bảng 2.1
Trình độ văn hóa và trình độ chuyên môn của
CBCC chính quyền cấp xã huyện Bình Liêu
63
7 Bảng 2.2 Xếp loại năng lực của CBCC cấp xã huyện
Bình Liêu
68
8 Bảng 3.1
Một số chỉ tiêu phát triển kinh tế-xã hội huyện
Bình Liêu thời kỳ quy hoạch
89
9. 1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Bàn về vai trò, vị trí của đội ngũ cán bộ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng
định: “Cán bộ là gốc của mọi công việc, công việc thành công hoặc thất bại đều
do cán bộ tốt hay kém”. Đội ngũ cán bộ là nguồn nhân lực có vai trò cực kỳ
quan trọng, vừa là người tham mưu, đề xuất; vừa là người thực hiện các chủ
trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Hiểu theo cách khác họ chính là cầu
nối giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân, là lực lượng thực thi chính sách của Nhà
nước và là người đại diện cho quyền lợi của nhân dân. Niềm tin của nhân dân
đối với Nhà nước không chỉ phụ thuộc vào chính sách của Nhà nước mà còn phụ
thuộc vào năng lực, trình độ, trách nhiệm, phong cách ứng xử của đội ngũ cán
bộ, công chức mà họ tiếp xúc.
Trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước, hội nhập quốc tế và
cạnh tranh toàn cầu hiện nay đòi hỏi phải xây dựng đội ngũ cán bộ có chất lượng
với tư duy đổi mới, có năng lực chuyên môn giỏi, phẩm chất chính trị, đạo đức
tốt đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ quản lý xã hội và những thay đổi của thời kỳ đổi
mới. Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội (KT- XH) giai đoạn 2011-2020 được
thông qua tại Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ XI đã khẳng định: “Xây
dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có phẩm chất tốt, tận tụy phục vụ
nhân dân, có tính chuyên nghiệp cao”. Điều này đòi hỏi yêu cầu về chất lượng
đội ngũ cán bộ nói chung và đội ngũ cán bộ chủ chốt (CBCC) nói riêng luôn là
đòi hỏi cấp bách cần được ưu tiên hàng đầu.
Trong bộ máy hành chính nhà nước (HCNN) ở địa phương, chính quyền
cấp xã có vai trò quan trọng đặc biệt, là chính quyền gần dân nhất. Chính vì vậy,
mọi chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước có hiện thức hóa
vào thực tiễn đạt hiệu quả hay không phụ thuộc vào sự chỉ đạo của đội ngũ cán
bộ chủ chốt chính quyền cấp xã. Nâng cao chất lượng đội ngũ này sẽ góp phần
quan trọng khẳng định vị trí, vai trò chính quyền của nhân dân; củng cố niềm tin
10. 2
của nhân dân với chính quyền, sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà
nước. Trước yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước, việc nghiên
cứu và đưa ra những đánh giá một cách sâu sắc về chất lượng đội ngũ cán bộ
chủ chốt chính quyền cấp xã là một nhu cầu tất yếu.
Huyện Bình Liêu là huyện miền núi, dân tộc, biên giới nằm ở phía Đông Bắc
tỉnh Quảng Ninh, nơi có cửa khẩu tiểu ngạch thông thương với nước bạn Trung
Quốc thuận lợi cho việc phát triển kinh tế. Với địa hình hiểm trở, giao thông đi lại
còn nhiều khó khăn, dân cư sống không tập trung, trình độ dân trí còn thấp, không
đồng đều. Trong những năm qua, mặc dù đã được Đảng và Nhà nước rất quan tâm
nhưng chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt chính quyền cấp xã của huyện vẫn chưa
đáp ứng được đòi hỏi của thực tiễn vì nhiều nguyên nhân cả chủ quan và khách
quan. Các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng cán bộ chủ chốt chính quyền cấp xã
còn chậm được tiến hành, chưa đồng bộ, chưa phù hợp với đặc thù cán bộ chủ chốt
cơ sở, miền núi và dân tộc chiếm đa số. Chính vì vậy, việc xem xét đánh giá một
cách khách quan, toàn diện thực trạng đội ngũ cán bộ chủ chốt chính quyền cấp
xã và đưa ra một hệ thống giải pháp có tính khả thi nhằm nâng cao chất lượng
đội ngũ cán bộ chủ chốt chính quyền cấp xã ở huyện Bình Liêu, tỉnh Quảng
Ninh có đủ phẩm chất, trình độ, năng lực để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính
trị trong tình hình mới là thực sự cấp bách, cần thiết và phù hợp với đòi hỏi của
tình hình thực tiễn phát triển của huyện.
Từ những lý do trên, em lựa chọn đề tài “Nâng cao chất lượng cán bộ
chủ chốt chính quyền cấp xã trên địa bàn huyện Bình Liêu, tỉnh Quảng
Ninh” làm luận văn Thạc sỹ chuyên ngành Quản lý công.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn
Cho đến nay đã có nhiều công trình nghiên cứu về chất lượng đội ngũ cán
bộ chủ chốt chính quyền cấp xã. Có thể nêu lên một số công trình tiêu biểu liên
quan đến đề tài luận văn như:
- Ban tổ chức cán bộ Chính phủ (nay là Bộ nội vụ): Chính quyền cấp xã
và quản lý Nhà nước cấp xã, nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000.
Cuốn sách đề cập tới một số nội dung cơ bản về tổ chức chính quyền cấp xã,
11. 3
những nội dung cơ bản của quản lý Nhà nước chính quyền cấp xã, thực trạng
chính quyền cấp xã. Đây là cuốn sách có giá trị tham khảo tốt cho luận văn.
- PGS.TS Nguyễn Phú Trọng và PGS.TS Trần Xuân Sầm (đồng chủ biên
- 2001) - Luận cứ khoa học cho việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ trong
thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước - Đề tài khoa học, 05 -
03, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
- Phạm Thị Thu Vinh (2003), Nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ
chính quyền cơ sở trên địa bàn tỉnh Phú Thọ, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ
Chí Minh, Luận văn Thạc sỹ Quản lý Nhà nước. Luận văn góp phần làm rõ
những ưu điểm, hạn chế, từ đó xác định những giải pháp nâng cao năng lực của
đội ngũ cán bộ chính quyền cơ sở.
- Nguyễn Thị Bích Hường (2006) - Chất lượng đào tạo cán bộ chủ chốt
của hệ thống chính trị xã, phường, thị trấn ở Trương đào tạo cán bộ Lê Hồng
Phong thành phố Hà Nội trong giai đoạn hiện nay - Luận văn Thạc sỹ khoa học
chính trị - Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. Luận văn góp phần làm rõ
những vấn đề lý luận, thực tiễn và thực trạng về chất lượng đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ cơ sở.
- Tiến sĩ Nguyễn Duy Hùng, Cơ sở khoa học của việc xây dựng đội ngũ
cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp phường, sách chuyên khảo, Nxb CTQG, Hà Nội
2008. Tác giả cuốn sách đã làm rõ quan niệm cán bộ chủ chốt cấp phường, đề
cập vai trò của cấp phường trong hệ thống chính trị, vai trò quan trọng của cấp
phường và đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp cơ sở đối với phát triển kinh tế-
xã hội
Ngoài ra còn có một số bài viết liên quan đến chất lượng của đội ngũ cán
bộ chủ chốt chính quyền cơ sở. Nhìn chung các đề tài nói trên đã nghiên cứu cả
lý luận và thực tiễn về chất lượng đội ngũ cán bộ nói chung và cán bộ chủ chốt
nói riêng dưới các góc độ khác nhau. Đây là nguồn tư liệu tham khảo hữu hiệu,
là cơ sở kế thừa cho những nghiên cứu tiếp theo. Tuy nhiên, nghiên cứu cán bộ
chủ chốt chính quyền cấp xã tại huyện miền núi người dân tộc thiểu số ở
Quảng Ninh là một đề tài mang đến nhiều điểm mới. Tác giả hy vọng đề tài
12. 4
“Nâng cao chất lượng cán bộ chủ chốt chính quyền cấp xã trên địa bàn huyện
Bình Liêu, tỉnh Quảng Ninh” sẽ là một đóng góp hữu ích.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích:
Trên cơ sở lý luận về chất lượng cán bộ chủ chốt chính quyền cấp xã và
từ thực tiễn đánh giá chất lượng cán bộ chủ chốt tại huyện Bình Liêu, tỉnh
Quảng Ninh. Luận văn đề xuất một số giải pháp góp phần nâng cao chất
lượng cán bộ chủ chốt chính quyền cấp xã huyện Bình Liêu, tỉnh Quảng Ninh
trong thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ:
Để thực hiện được mục đích nghiên cứu, luận văn có nhiệm vụ sau:
- Hệ thống hóa một số vấn đề lý luận về cán bộ, cán bộ chủ chốt chính
quyền cấp xã, chất lượng, chất lượng cán bộ chủ chốt chính quyền cấp xã...
- Đánh giá thực trạng chất lượng cán bộ chủ chốt chính quyền cấp xã tại
huyện Bình Liêu, tỉnh Quảng Ninh. Qua đó chỉ ra những mặt mạnh và hạn chế
cần khắc phục để đáp ứng yêu cầu hiện nay.
- Đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng cán bộ chủ chốt
chính quyền cấp xã tại huyện Bình Liêu, tỉnh Quảng Ninh trong thời gian tới.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu: Chất lượng cán bộ chủ chốt chính quyền cấp
xã huyện Bình Liêu, tỉnh Quảng Ninh.
4.2. Phạm vi nghiên cứu:
- Về thời gian: Đề tài nghiên cứu chất lượng cán bộ chủ chốt chính quyền
cấp xã huyện Bình Liêu, tỉnh Quảng Ninh giai đoạn 2011-2016.
- Về không gian: Đề tài đánh giá chất lượng cán bộ chủ chốt chính quyền
cấp xã huyện Bình Liêu, tỉnh Quảng Ninh.
- Về khách thể nghiên cứu: Đề tài chỉ tập trung vào cán bộ HĐND và
UBND cấp xã với các chức danh: Bí thư Đảng ủy xã, Phó Bí thư Đảng ủy; Chủ
tịch UBND, Phó chủ tịch UBND; Chủ tịch HĐND, Phó chủ tịch HĐND.
13. 5
- Về địa bàn nghiên cứu: đề tài tập trung nghiên cứu khảo sát tại 7 xã, 01
thị trấn.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn
5.1.Phương pháp luận:
Luận văn dựa trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác-Lê
Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng ta về cán bộ, công
tác cán bộ.
5.2. Phương pháp nghiên cứu:
Để làm sáng tỏ vấn đề nghiên cứu, luận văn sử dụng kết hợp nhiều
phương pháp trong đó tập trung vào một số phương pháp sau:
- Phương pháp khảo cứu tài liệu: Nghiên cứu các tài liệu có liên quan để
có những luận cứ khoa học cho việc đánh giá chất lượng cán bộ chủ chốt chính
quyền cấp xã nói chung và tại huyện Bình Liêu tỉnh Quảng Ninh nói riêng làm
cơ sở để đánh giá thực trạng và đề ra một số giải pháp nâng cao chất lượng cán
bộ chủ chốt chính quyền cấp xã huyện Bình Liêu, tỉnh Quảng Ninh.
- Phương pháp phân tích, đánh giá: Đề tài đã tiến hành phân tích, đánh
giá thực trạng chất lượng cán bộ chủ chốt chính quyền cấp xã huyện Bình Liêu,
tỉnh Quảng Ninh để từ đó chỉ ra được những mặt mạnh, mặt yếu trong chất
lượng của đội ngũ này làm cơ sở cho những giải pháp ở Chương 3.
- Phương pháp điều tra: Được tiến hành khách quan đối với 47 cán bộ
chủ chốt chính quyền cấp xã nhằm thu thập thông tin về những yếu tố ảnh
hưởng đến chất lượng cán bộ chủ chốt chính quyền cấp xã huyện Bình Liêu, tỉnh
Quảng Ninh và những giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ này trong thời gian
tới.
- Phương pháp thống kê: Được tác giả sử dụng để xử lý các số liệu thu
thập được từ kết quả điều tra, khảo sát.
Ngoài ra, luận văn còn sử dụng phương pháp quan sát, so sánh, tổng hợp,
phỏng vấn...để thu thập thêm những thông tin phục vụ cho quá trình phân tích,
đánh giá thực trạng chất lượng cán bộ chủ chốt chính quyền cấp xã huyện Bình
Liêu, tỉnh Quảng Ninh.
14. 6
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Luận văn góp phần làm rõ hơn những vấn đề lý luận và thực tiễn về chất
lượng cán bộ chủ chốt chính quyền cấp xã nói chung, xã vùng dân tộc thiểu số
nói riêng.
- Luận văn cung cấp những luận cứ khoa học giúp Ban Tổ chức Huyện ủy
Bình Liêu, phòng Nội vụ huyện Bình Liêu tham mưu cho Huyện ủy, HĐND và
UBND huyện những phương hướng giải pháp nhằm nâng cao chất lượng cán bộ
chủ chốt chính quyền cấp xã tại địa phương.
- Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho các đề tài nghiên cứu liên
quan đế ất lượng cán bộ chủ chốt chính quyền
cấp xã ở
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, mục lục, phụ lục, kết luận và danh mục tham khảo
luận văn được kết cầu thành 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về chất lượng cán bộ chủ chốt chính
quyền cấp xã.
Chương 2: Thực trạng chất lượng cán bộ chủ chốt chính quyền cấp xã tại
huyện Bình Liêu, tỉnh Quảng Ninh.
Chương 3: Định hướng và giải pháp nhằm nâng cao chất lượng cán bộ
chủ chốt chính quyền cấp xã tại huyện Bình Liêu, tỉnh Quảng Ninh.
15. 7
Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHẤT LƢỢNG CÁN BỘ CHỦ CHỐT
CHÍNH QUYỀN CẤP XÃ
1.1. Khái quát về đơn vị hành chính và chính quyền cấp xã
1.1.1. Đơn vị hành chính cấp xã
Việt Nam là một nước nông nghiệp, có khoảng 76% cư dân sống ở nông
thôn với khoảng hơn 60 triệu nông dân trong tổng số hơn 80 triệu dân của cả
nước. Từ bao đời nay, làng xã Việt Nam đã trở thành đơn vị hành chính cơ sở, nơi
cộng đồng dân cư sinh sống, gắn bó chặt chẽ trong các quan hệ kinh tế, dòng tộc
và văn hoá. Các đơn vị làng xã có tầm quan trọng đặc biệt, tồn tại như một môi
trường, một không gian - xã hội, một đơn vị hành chính - lãnh thổ với những đặc
điểm khác nhau về địa lý, dân cư, kinh tế, văn hoá v.v..[15, tr.150].
Tại Điều 2, Luật số 77/2015/QH 13 ngày 19/6/2015 của Quốc Hội về
“Luật tổ chức chính quyền địa phương”, các đơn vị hành chính của nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (CHXHCNVN) gồm có:
1. Tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là cấp tỉnh);
2. Huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố thuộc thành phố
trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là cấp huyện);
3. Xã, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là cấp xã);
4. Đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt.
Từ khi Nhà nước xuất hiện và có sự phân chia lãnh thổ thì vấn đề phân
chia lãnh thổ thành các đơn vị hành chính - lãnh thổ luôn là vấn đề quan trọng
và được quy định trong Hiến pháp - văn bản có tính pháp lý cao nhất. Theo Hiến
pháp năm 2013, quy định về các đơn vị hành chính nhằm bảo đảm sự thống
nhất, đồng bộ, xuyên suốt, ổn định trong cấu trúc hành chính ở nước ta đồng
thời bổ sung quy định về đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt, đơn vị hành chính
tương đương với quận, huyện, thị xã thuộc thành phố trực thuộc Trung ương.
Theo đó “chính quyền địa phương nước ta chia thành tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương; tỉnh chia thành huyện, thị xã và thành phố thuộc tỉnh; thành phố
16. 8
trực thuộc Trung ương chia thành quận, huyện, thị xã và đơn vị hành chính
tương đương; huyện chia thành xã, thị trấn; thị xã và thành phố thuộc tỉnh chia
thành phường và xã; quận chia thành phường; đơn vị hành chính - kinh tế đặc
biệt do Quốc hội thành lập” [35].
“Cấp xã” hiện nay là tên gọi chung của các đơn vị hành chính địa phương
trong hệ thống các đơn vị hành chính ở Việt Nam. Thuật ngữ đơn vị hành chính
cấp xã được dùng để chỉ toàn bộ các đơn vị hành chính cấp cơ sở bao gồm xã,
phường, thị trấn trong đó xã là chủ yếu, chiếm 85% trong tổng số các đơn vị
hành chính cấp cơ sở, thuộc địa bàn nông thôn, chiếm số lượng hơn hẳn so với
phường thuộc địa bàn đô thị. Theo số liệu của Tổng cục thống kê năm 2014,
nước ta có 11.161 đơn vị hành chính xã, phường, thị trấn, trong đó có 9.001 xã,
615 thị trấn, 1545 phường. Chỉ trong vòng 2 năm từ 2012 (11.120 đơn vị hành
chính xã, phường, thị trấn, trong đó 9.048 xã, 622 thị trấn, 1450 phường) đến
năm 2014 đã tăng 41 đơn vị, trong đó giảm 47 xã, tăng 95 phường và giảm 7 thị
trấn. Quảng Ninh có 186 đơn vị hành chính xã, phường, Thị trấn, trong đó có 61
phường, 10 thị trấn, 115 xã. Dưới xã, phường, thị trấn có các cộng đồng dân cư
tự quản; dưới xã có thôn, bản, làng, ấp, buôn. Dưới phường, thị trấn có tổ dân
phố, ở một số thành phố, thị xã giữa phường và tổ dân phố có cụm dân cư, giữa
xã và thôn có khu hành chính. Số lượng xã, phường, thị trấn trong những năm
qua không ổn định. Cùng với quá trình chia tách các tỉnh, huyện, việc thành lập
mới các xã, phường, thị trấn diễn ra ở hầu hết các tỉnh, thành phố trực thuộc
trung ương.
1.1.2. Chính quyền cấp xã
Hội nghị Trung ương V khoá IX, họp tại Hà Nội, năm 2002 xác định:
“Các cơ sở xã, phường, thị trấn là nơi tuyệt đại bộ phận nhân dân cư trú, sinh
sống”, nơi diễn ra tất cả các mặt hoạt động của đời sống xã hội.
Từ khi có chính thể dân chủ cho tới nay chúng ta mới nói tới xã như một
tập hợp mở rộng của các làng và coi xã là cấp cơ sở ở nông thôn trong hệ thống
chính trị (HTCT) bốn cấp quản lý hành chính nhà nước (QLHCNN) ở nước ta
hiện nay, gồm: cấp Trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện và cấp xã.
17. 9
Cấp xã là đơn vị cấp cuối cùng trong bốn cấp của hệ thống QLHC, là cấp
thấp nhất theo sự phân cấp quản lý nhưng cái thấp nhất không đồng nghĩa với
cái ít quan trọng nhất. Do vậy, cấp xã là chủ yếu và điển hình, bao trùm và phổ
biến trong sự hình dung về cấp cơ sở, về đời sống KT- XH và văn hoá cũng như
về HTCT ở cơ sở hiện nay.
Cấp xã được xem là cơ sở của xã hội, là nơi cư trú, sinh sống của người
dân, nơi thực thi đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước, là cầu nối trực tiếp giữa dân với Đảng. Mối quan hệ công tác của HTCT
cấp cơ sở thể hiện trong cơ chế tổ chức, nội dung và phương thức hoạt động: tổ
chức Đảng có vai trò hạt nhân lãnh đạo của HTCT cơ sở; chính quyền xã,
phường, thị trấn có vai trò QLNN; Mặt trận Tổ quốc (MTTQ) và các tổ chức
thành viên bao gồm Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh (ĐTNCSHCM),
Hội Nông dân (HND), Hội liên hiệp Phụ nữ (HLHPN) và Hội Cựu chiến binh
(HCCB), v.v...có vai trò đoàn kết, tập hợp quần chúng tham gia vào các hoạt động
xây dựng và phát triển đất nước, thực hiện dân chủ ở cơ sở.
Chính quyền được hiểu là bộ máy điều khiển, quản lý công việc của Nhà
nước và hoạt động của nó mang tính chất quyền lực của nhà nước, bằng phương
thức tác động của Nhà nước. Chính quyền cấp xã bao gồm HĐND và UBND,
hoạt động theo Luật tổ chức chính quyền địa phương. Trong đó, HĐND là cơ
quan quyền lực nhà nước ở cơ sở và là cơ quan đại diện cho ý chí, nguyện vọng
của nhân dân. UBND là cơ quan chấp hành của HĐND và là cơ quan HCNN ở
cơ sở. Chính quyền cấp xã không chỉ là nơi thực thi quyền lực của nhân dân,
đảm bảo dân chủ mà còn là chủ thể tổ chức các hoạt động của cộng đồng trên
địa bàn như các hoạt động kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội... một mặt chăm lo
tổ chức các hoạt động cộng đồng; mặt khác, là công cụ của Nhà nước để ngăn
chặn những hành vi vi phạm pháp luật và quyền làm chủ của nhân dân. Chính
quyền cấp xã được củng cố và hoàn thiện sẽ được đông đảo quần chúng nhân
dân tín nhiệm và tin tưởng; những chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng
và phát triển KT- XH được thực hiện có hiệu quả hơn.
Chính quyền cấp xã còn gọi là chính quyền cấp cơ sở là bởi:
18. 10
Một là, cấp này đáp ứng đủ các yếu tố cấu thành một cấp chính quyền:
Được Nhà nước quyết định thành lập, giải thể, sáp nhập và được trao chức năng,
nhiệm vụ để thay mặt Nhà nước thực hiện công việc quản lý tại địa phương; Có
cơ chế bầu cử cán bộ địa phương, có tính tự quản nhất định; Chịu sự kiểm soát
của chính quyền cấp trên.
Hai là, đây là cấp chính quyền thấp nhất và không có cấp chính quyền nào
thấp hơn chính quyền xã, phường, thị trấn. Đây là cấp gần nhân dân nhất so với
các cấp chính quyền khác. Tổ chức bộ máy chính quyền cấp cơ sở gồm có
HĐND xã và UBND xã, không có các cơ quan tổ chức chuyên môn như phòng
mà chỉ có các công chức cấp xã.
Từ kết quả phân tích trên, chính quyền cấp xã bao gồm HĐND và UBND
là cấp cuối cùng trong hệ thống chính quyền 4 cấp ở Việt Nam, thực hiện quyền
lực Nhà nước ở địa phương, có chức năng thay mặt nhân dân, căn cứ vào
nguyện vọng của nhân dân địa phương, quyết định và tổ chức thực hiện những
vấn đề có liên quan đến phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, AN-QP và đời sống
của nhân dân địa phương theo Hiến pháp, pháp luật và các mệnh lệnh, quyết
định của cấp trên.
1.1.3. Vị trí, vai trò của chính quyền cấp xã
Từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, trong thời kỳ hoạt động bí mật,
cấp xã là địa bàn quan trọng, ở đó có các tổ chức của Đảng được nuôi dưỡng,
bảo vệ và hoạt động tuyên truyền, giác ngộ nhân dân lôi cuốn họ vào phong trào
đấu tranh cách mạng giành chính quyền. Khi giành được chính quyền trên phạm
vi cả nước, Đảng Cộng sản Việt Nam trở thành Đảng cầm quyền giữ vai trò lãnh
đạo đối với toàn xã hội thì cấp xã càng trở nên quan trọng hơn, bởi cấp xã là cấp
cuối cùng, là nơi tổ chức, hiện thực hoá và kiểm nghiệm tính đúng đắn đường
lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; nơi đảm bảo phát
huy quyền làm chủ của nhân dân lao động, tăng cường mối quan hệ máu thịt
giữa Đảng với nhân dân. Là địa bàn thuận lợi để xây dựng thế trận quốc phòng
toàn dân, bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ Tổ quốc.
19. 11
Bước vào thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, vai trò cấp xã nâng lên
một tầm cao mới. Chính quyền cấp xã là nơi giải quyết và chăm lo mọi mặt đời
sống nhân dân, trực tiếp nắm bắt tâm tư, nguyện vọng, tình cảm của nhân dân.
Vì vậy, chính quyền cơ sở phải được tổ chức phù hợp để có thể phục vụ nhân
dân một cách tốt nhất, hiệu quả nhất, tạo niềm tim trong nhân dân. Quan trọng
hơn phải là người hiểu dân, nói lên tiếng nói, nguyện vọng của dân, báo cáo lên
cấp trên trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, phải là người giải quyết
và đáp ứng tốt nhất những nhu cầu, nguyện vọng hợp pháp, chính đáng của cả
cộng đồng dân cư ở xã, cũng như mỗi người dân cụ thể. Đồng thời, chính quyền
cấp xã còn là cấp hướng dẫn, giám sát các hoạt động tự quản của nhân dân nhằm
tạo điều kiện cho nhân dân phát huy mọi khả năng phát triển KT-XH. Đây là nét
đặc thù của chính quyền cấp xã so với các cấp chính quyền khác.
Từ cơ cấu tổ chức bộ máy của HTCT cấp xã và vị trí của nó trong xã hội,
cấp xã có vai trò quan trọng đặc biệt trong hệ thống chính quyền và HTCT cơ sở
nói riêng, thực hiện quyền lực Nhà nước ở địa phương. Là cấp chính quyền trực
tiếp với dân, gần dân, sát dân nhất, thường xuyên quan hệ, tiếp xúc với quần
chúng nhân dân; Là hình ảnh thu nhỏ của xã hội, vùng nhạy cảm nhất của đời
sống xã hội, có tầm quan trọng đặc biệt đối với sự sống còn, thành bại của chế
độ. Cấp xã còn là đơn vị tổ chức cơ bản của huyện, xã mạnh thì huyện mạnh và
ngược lại các xã yếu, không ổn định là những “điểm nóng” thì huyện không thể
phát triển, vững mạnh, thậm chí còn gây những hậu quả khó lường. Bắt nguồn từ
tầm quan trọng của cơ sở, cho nên xây dựng và củng cố HTCT cấp cơ sở là một
trong những nhiệm vụ quan trọng giữ vững ổn định chính trị, đập tan âm mưu của
các thế lực thù địch, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN. Vì vậy, Đảng ta
luôn coi cơ sở là nền tảng của Đảng, quan tâm nâng cao sức chiến đấu, xây dựng
cơ sở thật sự là những pháo đài nhằm củng cố vai tròlãnh đạo của Đảng.
Hơn nữa, chính quyền cấp xã còn có vị trí, vai trò quan trọng trong triển
khai thực hiện chính sách pháp luật, trong công cuộc phát triển KT – XH của
đất nước thời kỳ mới. Theo quy định của Hiến Pháp năm 2013 và Luật tổ chức
chính quyền địa phương năm 2015, chính quyền cấp xã là cơ sở, là nền tảng, là
20. 12
cầu nối giữa nhà nước với các tổ chức, cá nhân trong xã, đại diện cho nhà nước
để thực thi quyền lực nhà nước, là nơi tiếp thu, triển khai, tổ chức, vận động
nhân dân, thực hiện các chủ trương, đường lối, nghị quyết của Đảng, chính sách,
pháp luật của nhà nước trên tất cả các lĩnh vực nhằm tăng cường Đại đoàn kết
toàn dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, huy động mọi khả năng phát
triển KT- XH, tổ chức cuộc sống của cộng đồng dân cư. Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã khẳng định: “Cấp xã là gần gũi dân nhất, là nền tảng của hành chính. Cấp xã
làm được việc thì mọi công việc đều xong xuôi” [28, tr.371]
Chính quyền cấp xã là nơi trực tiếp thực hiện nhiệm vụ cụ thể QLHCNN
trên tất cả các lĩnh vực chính trị, AN-QP, kinh tế, văn hóa, xã hội ở cơ sở, đảm
bảo các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước đi vào cuộc
sống, nâng cao mọi mặt đời sống của nhân dân. Sự trong sạch vững mạnh, hoạt
động có hiệu lực, hiệu quả của chính quyền cấp xã đóng vai trò rất quan trọng
trong toàn bộ hoạt động quản lý nhà nước (QLNN) và cung cấp dịch vụ công
phục vụ nhân dân.
Mặt khác chính quyền cấp xã còn là nơi lưu giữ nhiều nhất các giá trị lịch
sử và giá trị hiện thực tiến bộ của văn hóa quê hương, dân tộc Việt Nam góp
phần quan trọng trong việc giáo dục truyền thống lịch sử cách mạng sâu sắc, giữ
gìn bản sắc văn hóa dân tộc, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, xây dựng đời
sống văn hóa mới, đặc biệt là ở vùng nông thôn.
1.1.4. Chức năng, nhiệm vụ của chính quyền cấp xã
Tại Điều 31, Luật số 77/2015/QH13 ngày 19/6/2015 của Quốc Hội về
“Luật tổ chức chính quyền địa phương”, thì cấp chính quyền địa phương ở xã
có chức năng, nhiệm vụ quyền hạn như sau:
Thứ nhất, Tổ chức và bảo đảm việc thi hành Hiến pháp và pháp luật trên
địa bàn xã.
Thứ hai, Quyết định những vấn đề của xã trong phạm vi được phân
quyền, phân cấp theo quy định của Luật này và quy định khác của pháp luật có
liên quan.
21. 13
Thứ ba, Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn do cơ quan HCNN cấp trên ủy
quyền.
Thứ tư, Chịu trách nhiệm trước chính quyền địa phương cấp huyện về kết
quả thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền địa phương ở xã.
Thứ năm, Quyết định và tổ chức thực hiện các biện pháp nhằm phát huy
quyền làm chủ của Nhân dân, huy động các nguồn lực xã hội để xây dựng và
phát triển KT- XH, bảo đảm quốc phòng, an ninh trên địa bàn xã.
Chính quyền địa phương ở xã là cấp chính quyền địa phương gồm có
HĐND xã và UBND xã. Do đó chức năng, nhiệm vụ có sự khác nhau:
Tại Điều 33, Luật số 77/2015/QH13 ngày 19/6/2015 của Quốc Hội về
“Luật tổ chức chính quyền địa phương” có quy định nhiệm vụ, quyền hạn của
HĐND xã là:
1. Ban hành nghị quyết về những vấn đề thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của
HĐND xã.
2. Quyết định biện pháp bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, đấu tranh, phòng,
chống tội phạm và các hành vi vi phạm pháp luật khác, phòng, chống quan liêu,
tham nhũng trong phạm vi được phân quyền; biện pháp bảo vệ tài sản của cơ
quan, tổ chức, bảo hộ tính mạng, tự do, danh dự, nhân phẩm, tài sản, các quyền
và lợi ích hợp pháp khác của công dân trên địa bàn xã.
3. Bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Chủ tịch HĐND, Phó Chủ tịch HĐND,
Trưởng ban, Phó Trưởng ban của HĐND xã; bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Chủ
tịch UBND, Phó Chủ tịch UBND và các Ủy viên UBND xã.
4. Quyết định dự toán thu ngân sách nhà nước trên địa bàn; dự toán thu,
chi ngân sách xã; điều chỉnh dự toán ngân sách xã trong trường hợp cần thiết;
phê chuẩn quyết toán ngân sách xã. Quyết định chủ trương đầu tư chương trình,
dự án của xã trong phạm vi được phân quyền.
5. Giám sát việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật ở địa phương, việc thực
hiện nghị quyết của HĐND xã; giám sát hoạt động của Thường trực HĐND,
UBND cùng cấp, Ban của HĐND cấp mình; giám sát văn bản quy phạm pháp
luật của UBND cùng cấp.
22. 14
6. Lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do
HĐND xã bầu theo quy định tại Điều 88 và Điều 89 của Luật này.
7. Bãi nhiệm đại biểu HĐND xã và chấp nhận việc đại biểu HĐND xã xin
thôi làm nhiệm vụ đại biểu.
8. Bãi bỏ một phần hoặc toàn bộ văn bản trái pháp luật của UBND, Chủ
tịch UBND xã.
Tại Điều 35, Luật số 77/2015/QH 13 ngày 19/6/2015 của Quốc Hội về
“Luật tổ chức chính quyền địa phương” quy định nhiệm vụ, quyền hạn của
UBND xã:
1. Xây dựng, trình HĐND xã quyết định các nội dung quy định tại các
khoản 1, 2 và 4 Điều 33 của Luật này và tổ chức thực hiện các nghị quyết của
HĐND xã.
2. Tổ chức thực hiện ngân sách địa phương.
3. Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn do cơ quan nhà nước cấp trên phân
cấp, ủy quyền cho UBND xã.
1.2. Cán bộ chủ chốt chính quyền cấp xã
1.2.1. Một số khái niệm cơ bản
1.2.1.1. Khái niệm cán bộ
Cán bộ được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau, trong từng giai đoạn lịch
sử cụ thể. Dù cách hiểu khác nhau nhưng cơ bản cán bộ bao hàm nghĩa chính là
bộ khung, là nòng cốt, là chỉ huy. Quan niệm một cách chung nhất, cán bộ là
khái niệm chỉ những người có chức vụ, vai trò và cương vị nòng cốt trong một
tổ chức có tác động ảnh hưởng đến hoạt động của tổ chức và các quan hệ trong
lãnh đạo, chỉ huy, quản lý, điều hành, góp phần định hướng sự phát triển của tổ
chức [ 40,tr.18].
Theo Từ điển tiếng Việt khái niệm “cán bộ” được hiểu là: “1. Người làm
công tác có nghiệp vụ chuyên môn trong cơ quan nhà nước, cán bộ nhà nước,
cán bộ khoa học, cán bộ chính trị; 2. Người làm công tác có chức vụ trong một
cơ quan, một tổ chức, phân biệt với người thường không có chức vụ”[40, tr.109].
23. 15
Trong từ điển Việt – Nhật, danh từ cán bộ được dùng với nghĩa là người ở
hạng cao trong một đoàn thể, là (yếu nhân) nhân vật quan trọng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa ra định nghĩa về cán bộ hết sức khái quát,
dễ hiểu: “Cán bộ là người đem chính sách của Đảng, Chính phủ giải thích cho
dân chúng hiểu rõ và thi hành. Đồng thời đem tình hình dân chúng báo cáo cho
Đảng, Chính phủ hiểu rõ để đặt chính sách cho đúng” [28, tr.269]
Theo quy định của Luật cán bộ công chức năm 2008 do Quốc hội (khóa
XII) ban hành tại khoản 3, điều 4: “Cán bộ xã, phường, thị trấn (sau đây gọi
chung là cấp xã) là công dân Việt Nam, được bầu cử giữ chức vụ theo nhiệm kỳ
trong Thường trực HĐND, UBND, Bí thư, Phó Bí thư Đảng ủy, người đứng đầu
tổ chức chính trị - xã hội; Công chức cấp xã là công dân Việt Nam được tuyển
dụng giữ một chức danh chuyên môn, nghiệp vụ thuộc UBND cấp xã, trong biên
chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước”.
Từ những phân tích trên có thể khái quát khái niệm cán bộ theo quy định
tại Luật cán bộ công chức: “Cán bộ là công dân Việt Nam, được bầu cử, phê
chuẩn, bổ nhiệm giữ chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ trong cơ quan của Đảng
cộng sản Việt Nam, nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương, ở tỉnh,
thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là cấp tỉnh), ở huyện, quận,
thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là cấp huyện), trong biên chế và
hưởng lương từ ngân sách Nhà nước”.
1.2.1.2. Khái niệm về cán bộ chủ chốt:
Theo Từ điển tiếng Việt, khái niệm “chủ chốt” được hiểu là “quan trọng
nhất, có tác dụng làm nòng cốt” [40, tr.174]
Từ khái niệm gốc, CBCC là những người giữ chức vụ và trách nhiệm cao
trong một tổ chức, có ảnh hưởng lớn đến hoạt động của tổ chức bộ máy có vai
trò tham gia định hướng lớn, điều khiển hoạt động của bộ máy. Đó là những
người có trách nhiệm điều hành một tập thể, đơn vị, tổ chức thuộc thẩm quyền
của mình theo quy định để thực hiện nhiệm vụ của tập thể hoặc tổ chức đó. Đây
là một bộ phận rất quan trọng, ảnh hưởng đến toàn bộ hoạt động của tổ chức và
24. 16
của cả HTCT. Ở tầm vĩ mô, họ có vai trò quyết định đến vận mệnh của quốc gia,
dân tộc.
Việc xác định CBCC hay không chủ chốt nên căn cứ vào chức vụ và trách
nhiệm cụ thể của mỗi loại cán bộ và đặt nó trong mối quan hệ của toàn hệ thống
tổ chức bộ máy. Tuy nhiên, có cán bộ ở cương vị này trong tổ chức này thì chủ
chốt nhưng trong mối quan hệ khác, ở vị trí khác thì không phải là chủ chốt. Ví
dụ: Bí thư Đảng ủy xã là CBCC của xã nhưng không phải là CBCC của huyện
mặc dù cũng có thể tham gia vào Ban chấp hành (BCH) Đảng bộ huyện là
Huyện ủy viên.
Trong luận văn này, tác giả hiểu một cách chung nhất CBCC là những
người được bầu cử hay bổ nhiệm, đảm trách nhiệm vụ thuộc lĩnh vực hoạt động
được tổ chức/nhân dân tín nhiệm và chịu trách nhiệm trước pháp luật về hiệu
quả hoạt động thuộc lĩnh vực hay đơn vị mình phụ trách.
1.2.1.3.Quan niệm về đội ngũ cán bộ chủ chốt chính quyền cấp xã:
Đội ngũ CBCC chính quyền cấp xã gồm nhiều chức danh nắm giữ các vị
trí có ảnh hưởng quyết định đến hệ thống tổ chức của một cấp. Là những người
đứng đầu quan trọng nhất trong hệ thống của tổ chức Đảng, chính quyền,
MTTQ, các đoàn thể chính trị xã hội; có vai trò lãnh đạo, chỉ đạo, phối hợp triển
khai các chủ trương, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước,
các nhiệm vụ KT-XH trên địa bàn nông thôn mà họ phụ trách.
Với cách hiểu đó thì CBCC chính quyền cấp xã là công dân Việt Nam
trong biên chế, được hưởng lương từ ngân sách nhà nước, gồm những người
được bầu giữ chức vụ Bí thư, phó Bí thư Đảng ủy xã; Chủ tịch, phó Chủ tịch
HĐND; Chủ tịch, Phó Chủ tịch UBND; Chủ tịch MTTQ, Chủ tịch HND, Chủ
tịch HPN, Bí thư Đoàn TNCSHCM, Chủ tịch Hội CCB là những người lãnh
đạo, chỉ đạo, điều hành trực tiếp và chịu trách nhiệm ở cơ sở theo quy định của
Hiến pháp và pháp luật, bảo đảm phát triển KT-XH, ổn định chính trị, trật tự an
toàn xã hội.
25. 17
1.2.2. Tầm quan trọng của cán bộ chủ chốt chính quyền cấp xã
Trong bất cứ thời kỳ nào, giai đoạn nào, cán bộ và công tác cán bộ
cũng đều giữ vị trí đặc biệt quan trọng, là một trong những nhân tố cơ bản
quyết định mọi thắng lợi của sự nghiệp cách mạng. Mác - Ăng ghen khẳng
định: “Muốn thực hiện tốt những tư tưởng cần có con người sử dụng một thực
tiễn”[38, tr.181]. Lịch sử chứng minh mỗi chính đảng của một giai cấp muốn
giành và giữ chính quyền đều phải chăm lo và xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất
là đội ngũ CBCC- Đây là đại biểu trung thành của giai cấp mình, có khả năng
thực hiện những yêu cầu, mục tiêu và nhiệm vụ cách mạng mà Đảng và giai
cấp đó đề ra, vì vậy phải chăm lo xây dựng một đội ngũ CBCC đáp ứng nhu
cầu, nhiệm vụ chính trị trong mỗi thời kỳ cách mạng.
Ngay từ những năm đầu giành chính quyền, Hồ Chí Minh đã tiếp thu và
vận dụng một cách sáng tạo lý luận về cán bộ của Chủ nghĩa Mác - Lênin vào
thực tiễn Việt Nam. Người cho rằng công việc thành công hoặc thất bại là do cán
bộ tốt hay kém “Cán bộ là dây chuyền của bộ máy. Nếu dây chuyền không tốt,
không chạy thì động cơ dù tốt, dù chạy toàn bộ máy cũng tê liệt” [28, tr.54]. Mà
hầu hết CBCC chính quyền cấp xã là người địa phương, có quan hệ dòng tộc
và gắn bó với nhân dân địa phương. Vì vậy CBCC chính quyền cấp xã rất am
hiểu các phong tục tập quán, truyền thống dân tộc của địa phương, họ là người
tập hợp được khối đại đoàn kết toàn dân ở cơ sở, là người phát huy tính tự
quản của cộng đồng dân cư.
CBCC chính quyền cấp xã vừa là người đại diện nhà nước, vừa là người
đại diện cộng đồng, vừa là người sống cùng làng, cùng họ, vừa là người dân, là
những người trực tiếp gần gũi có mối quan hệ chặt chẽ gắn bó, làm việc hàng
ngày với nhân dân. Họ thường xuyên lắng nghe, tham khảo ý kiến của dân; nắm
bắt tâm tư, nguyện vọng của dân để báo cáo, đề xuất với cấp trên kịp thời. Trên cơ
sở đó đặt ra chính sách đúng, giải quyết những yêu cầu, thắc mắc cũng như lợi
ích chính đáng của nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh coi cán bộ là vấn đề then
chốt quyết định thắng lợi trên mọi lĩnh vực. Người khẳng định: “Cán bộ là
những người đem chính sách của Đảng, của Chính phủ giải thích cho dân chúng
26. 18
hiểu rõ và thi hành, đồng thời đem tình hình của dân chúng báo cáo cho Đảng,
chính phủ hiểu rõ để đặt chính sách cho đúng” [28, tr.269]. Như vậy, theo Người
cán bộ không chỉ là người có vai trò giác ngộ và hướng dẫn, lãnh đạo quần chúng
mà còn là “chiếc cầu nối” giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân, là “công bộc” của
nhân dân. Do đó, “nếu cán bộ dở thì chính sách hay cũng không thể thực hiện
được” [28, tr.54] và “cán bộ là cái gốc của mọi công việc” [28, tr.269]. Vì vậy,
trong mọi công việc mà không có CBCC thì không thể hoàn thành. Theo quan
điểm của Đảng, xây dựng đội ngũ cán bộ một cách đồng bộ, đáp ứng yêu cầu của
từng giai đoạn cách mạng, cần đặc biệt chú trọng xây dựng đội ngũ CBCC các
cấp, nhất là cấp chiến lược và cấp cơ sở. Bởi đội ngũ CBCC chính quyền cấp xã
có vị trí, vai trò rất quan trọng trong việc ổn định chính trị, phát triển KT-XH ở
cơ sở. Từ đó đòi hỏi CBCC chính quyền cấp xã về mặt đào tạo, định hướng tạo
nguồn và chế độ chính sách phù hợp nhằm tạo điều kiện xây dựng cho được một
CBCC có đủ năng lực, phẩm chất và yên tâm đáp ứng yêu cầu công việc trong
tình hình mới.
Các nhà kinh điển của Chủ nghĩa Mác - Lê Nin đã từng nêu cao vai trò
của người cán bộ. Lênin chỉ rõ: “Trong lịch sử chưa hề có một giai cấp nào
giành được quyền thống trị, nếu nó không đào tạo ra được hàng ngũ của mình
những lãnh tụ chính trị, những đại biểu tiền phong có đủ khả năng tổ chức và
lãnh đạo phong trào” [34, tr.1479].
Vị trí chủ chốt chính quyền cơ sở là “cầu nối” giữa Đảng, Chính phủ với
quần chúng, nhưng không phải là dây dẫn, là chuyển tải cơ học mà chính con
người với tư chất, tài năng và đạo đức để thực hiện công việc đó. Vì vậy đòi hỏi
người CBCC chính quyền cơ sở phải có một trình độ, trí tuệ nhất định để đường
lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước đi vào cuộc sống,
trở thành hiện thực sinh động. Nếu không trong quá trình thực hiện nhiệm vụ,
người cán bộ sẽ làm sai lệch tinh thần, nội dung của đường lối, chính sách và khi
đó thì thật là nguy hiểm. Hơn nữa, thông qua CBCC mà ý Đảng, lòng dân tạo
thành một khối thống nhất, tạo nên quan hệ máu thịt giữa Đảng với nhân dân, củng
cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ,
27. 19
CBCC cấp xã là người tiếp nhận các chủ trương, nghị quyết của Đảng,
chính sách của Nhà nước để cụ thể hóa, xây dựng thành chương trình, kế hoạch
và tổ chức triển khai thực hiện ở địa phương; chịu trách nhiệm trước Đảng, Nhà
nước và cấp trên về các quyết định của mình. Do vậy, đội ngũ CBCC cấp xã có
vai trò đặc biệt quan trọng, quyết định đến thành công, hiệu quả công việc triển
khai. Nếu CBCC cấp xã hạn chế về trình độ, năng lực công tác, không nắm vững
các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước sẽ ảnh hưởng trực
tiếp đến chất lượng, hiệu quả hoạt động của bộ máy, đến công tác lãnh đạo xây
dựng, phát triển KT-XH ở địa phương. Ngược lại, nếu CBCC cấp xã có trình độ
và năng lực công tác, có khả năng phân tích, đánh giá, vận động quần chúng, am
hiểu sâu sắc đặc điểm, tình hình của địa phương mình quản lý thì nhất định mọi
chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước sẽ được tổ chức thực
hiện có hiệu quả, KT-XH của địa phương sẽ phát triển.
CBCC cấp xã có vai trò quyết định trong việc xây dựng, củng cố tổ chức
bộ máy của HTCT cấp xã vững mạnh. Thực tế cho thấy, sức mạnh, yếu của
HTCT và phong trào cách mạng của quần chúng gắn liền với vai trò của CBCC
cấp xã. Họ là trụ cột, tổ chức sắp xếp, tập hợp lực lượng, là linh hồn của các tổ
chức trong HTCT cấp xã, là trung tâm đoàn kết, tập hợp mọi tiềm năng, nguồn
lực ở địa phương, động viên mọi tầng lớp nhân dân ra sức thi đua hoàn thành
thắng lợi các nhiệm vụ chính trị ở cơ sở. Vì vậy CBCC cấp xã có vai trò quan
trọng đối với năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng bộ xã, đối với năng
lực và hiệu quả quản lý, điều hành của chính quyền xã, hoạt động của các đoàn
thể chính trị - xã hội ở xã. Mặt khác CBCC cấp xã là người dẫn dắt, định hướng
các phong trào quần chúng ở địa phương, tổng kết rút kinh nghiệm, biểu dương
và nhân rộng các điển hình tiên tiến trong các hoạt động sản xuất kinh doanh,
xây dựng đời sống văn hóa, phòng chống các tệ nạn xã hội...ở địa phương. Qua
đó, họ đóng góp tích cực vào việc xây dựng, hoàn thiện chủ trương, chính sách
của Đảng, của Nhà nước, cũng như góp phần ổn định hoạt động của bộ máy, giữ
gìn an ninh, chính trị ở cơ sở.
28. 20
CBCC xã có quan hệ chặt chẽ với nhau trên địa bàn hành chính lãnh thổ
cấp xã, được bầu để giữ chức vụ hoặc được tuyển dụng giao giữ các chức danh
chuyên môn, nghiệp vụ, hoạt động theo sự phân công, phối hợp nhằm đem lại
hiệu quả cao nhất trong việc thực hiện chức năng nhiệm vụ về kinh tế, chính trị,
QP - AN, VH - XH ở cơ sở theo quy định của pháp luật.
1.3. Chất lƣợng cán bộ chủ chốt chính quyền cấp xã
1.3.1. Khái niệm chất lượng
Chất lượng là một phạm trù khái niệm có nhiều cách hiểu khác nhau:
Theo từ điển bách khoa Việt Nam “Chất lượng là một phạm trù triết học biểu thị
những thuộc tính bản chất của sự vật và phân biệt nó với sự vật khác. Chất
lượng là đặc tính khách quan của sự vật, biểu thị ra bên ngoài qua các thuộc
tính. Chất lượng của sự vật, hiện tượng biểu thị trình độ phát triển của nó, chất
lượng càng cao thì mức độ phát triển của sự vật, hiện tượng càng lớn”.
Theo Giáo sư Crosby: “Chất lượng là sự phù hợp với những yêu cầu hay
đặc tính nhất định”.
Theo Giáo sư Ishikawa: “Chất lượng là sự thỏa mãn nhu cầu thị trường
với chi phí thấp nhất”.
Theo định nghĩa của Tổ chức Tiêu chuẩn hóa Quốc tế, tại điều 3.1.1
của tiêu chuẩn ISO 9000:2000 thì chất lượng là: “mức độ đáp ứng yêu cầu
của một tập hợp có đặc tính vốn có". Định nghĩa này thể hiện sự thống nhất
giữa các đặc tính của nội tại khách quan của sản phẩm dịch vụ với đáp ứng
các yêu cầu đã đặt ra.
Theo Từ điển tiếng Việt thì chất lượng hiểu ở nghĩa chung nhất là:
“Chất lượng cái tạo nên phẩm chất, giá trị của một con người, một sự vật, sự
việc” [40, tr.44]. Đây là cách đánh giá một con người, một sự việc, sự vật
trong cái đơn nhất, cái tính độc lập của nó. Mỗi con người, mỗi sự vật, hiện
tượng đều có “chất lượng” xác định. Giá trị, phẩm chất của mỗi con người,
mỗi sự vật, hiện tượng được xác định theo hệ quy chiếu khác nhau, theo
những tiêu chí khác nhau.
29. 21
Mặc dù có nhiều cách tiếp cận khác nhau song chất lượng phải đảm bảo
với những tiêu chuẩn đã được công bố, phù hợp với những đòi hỏi của người sử
dụng, sự kết hợp cả tiêu chuẩn và đòi hỏi của người tiêu dùng. Đó là yêu cầu
không thể thiếu để đánh giá chất lượng một sự vật, sự việc nào đó.
1.3.2. Khái niệm chất lượng cán bộ chủ chốt cấp xã
Trước đổi mới, đất nước còn nhiều khó khăn, kinh tế chậm phát triển, một
bộ phận cán bộ cấp xã chưa được đào tạo, còn hạn chế về trình độ văn hóa, trình
độ nghiệp vụ QLNN, quản lý kinh tế... đã dẫn tới hạn chế trong năng lực quản lý
điều hành công việc, lúng túng trong việc tổ chức triển khai thực hiện các nhiệm
vụ chính trị cũng như giải quyết những phát sinh khó khăn, phức tạp ở cơ sở, do
vậy làm ảnh hưởng đến sự phát triển KT-XH của địa phương.
Sau hơn 30 năm thực hiện công cuộc đổi mới do Đảng lãnh đạo đã thu
được những thành tựu vô cùng to lớn trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị,
xã hội, văn hóa, giáo dục, AN-QP, đối ngoại,...càng khẳng định vững chắc vị thế
lãnh đạo của Đảng đối với sự nghiệp cách mạng. Bước tiến quan trọng là Đảng
ta nhận thức ngày càng toàn diện hơn, rõ ràng hơn, sâu sắc và ngày càng trưởng
thành hơn không chỉ trong công tác lãnh đạo xây dựng cán bộ nói chung, CBCC
nói riêng trong sự nghiệp phát triển đất nước mà còn linh hoạt, sáng tạo, đa dạng
và hiệu quả trong thực thi phương thức lãnh đạo của Đảng với Nhà nước, HTCT
và toàn xã hội. Công cuộc đổi mới có sự đóng góp to lớn của đội ngũ cán bộ
lãnh đạo, quản lý.
Ở Trung ương, đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cao cấp có bước chuyển
rõ rệt về cả trình độ chuyên môn và trình độ chính trị. Trong nhiệm kỳ khóa IX,
số ủy viên BCH Trung ương Đảng có trình độ đại học trở lên là 138/150 (chiếm
92%) thì đến khóa X đã nâng lên 174/181 (chiếm 96,13%); số có trình độ lý
luận chính trị từ trung cấp đến cao cấp khóa VIII chiếm 88,23%, thì đến đầu Đại
hội X đã tăng lên 97,23% và đến khóa XII đã nâng lên 200/200 đạt 100% số ủy
viên BCH Trung ương Đảng có trình độ chuyên môn từ Đại học trở lên và trình
độ lý luận từ trung cấp trở lên.
30. 22
Ở cơ sở, số CBCC cấp huyện và CBCC sở, ngành cấp tỉnh có trình độ lý
luận chính trị cao cấp là 98%; có trình độ đại học là 95%; số cán bộ được quy
hoạch vào cấp ủy tỉnh có trình độ đại học trở lên là 100%, có trình độ lý luận
chính trị cao cấp là 95%
Đó là thế hệ những cán bộ đã được tôi luyện, trưởng thành qua thử thách,
có ý chí vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, là những người có bản lĩnh chính trị
vững vàng, có tư duy đổi mới, đã nhanh chóng thích nghi với cơ chế thị trường,
góp phần vào việc đẩy mạnh CNH, HĐH và hội nhập quốc tế của đất nước.
Tuy nhiên, đứng trước những thách thức của kinh tế thị trường, một bộ
phận không nhỏ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp đã bộc lộ những hạn chế, yếu
kém cả về năng lực chuyên môn và ý thức chính trị. Đánh giá về đội ngũ cán bộ
lãnh đạo, quản lý, Báo cáo của Bộ Chính trị tại Hội nghị Trung ương 9 khóa X,
tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 3 khóa VIII về chiến lược cán
bộ thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước đã thẳng thắn chỉ ra: “Trình độ, năng
lực, kiến thức về kinh tế thị trường, luật pháp, ngoại ngữ, khả năng QLNN, quản
lý xã hội của không ít cán bộ vẫn còn bất cập; khả năng dự báo và định hướng
sự phát triển vẫn còn yếu”, “Một bộ phận cán bộ chủ quan, tự mãn, bảo thủ, trì
trệ, mắc bệnh thành tích; số khác thiếu tâm huyết với công việc, thiếu gương
mẫu, nói nhiều làm ít, nói không đi đôi với làm; ý thức tự phê bình và phê bình
và tính chiến đấu kém; lợi dụng chức quyền để vun vén lợi ích cá nhân”. Đặc
biệt, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XI tiếp tục nhấn mạnh: “Một bộ
phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có những đảng viên giữ vị trí lãnh
đạo, quản lý, kể cả một số cán bộ cao cấp, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo
đức, lối sống với những biểu hiện khác nhau về sự phai nhạt lý tưởng, sa vào
chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, cơ hội, thực dụng, chạy theo danh lợi, tiền tài, kèn
cựa địa vị, cục bộ, tham nhũng, lãng phí, tùy tiện, vô nguyên tắc”. Như vậy, có
thể thấy chất lượng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý còn nhiều hạn chế, yếu
kém. Nhận thức rõ tầm quan trọng của công tác cán bộ, Đảng ta trong các nghị
quyết cũng như trong hoạt động thực tiễn của mình, luôn chú trọng công tác cán
bộ, đặc biệt là Nghị quyết Trung ương ba khoá VII “Về đổi mới và chỉnh đốn
31. 23
Đảng”.Trong nhiệm kỳ Đại hội X, Đảng ta tiếp tục quan tâm tạo sự chuyển biến
trong công tác tổ chức, cán bộ qua các nghị quyết Hội nghị Trung ương sáu
khoá X năm 2008 về nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ
sở đảng và chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên.
Trước yêu cầu phát triển của đất nước, đặc biệt là CNH, HĐH nông
nghiệp nông thôn, chủ động hội nhập quốc tế vì mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã
hội (CNXH) đã và đang đặt ra những yêu cầu mới đối với đội ngũ cán bộ nói
chung, CBCC nói riêng bởi CBCC là người đứng đầu, có vị trí vai trò lãnh
đạo, điều hành thực hiện có hiệu quả các chủ trương, đường lối của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước, cũng như nhiệm vụ phát triển kinh tế thị
trường định hướng XHCN, Đảng xác định: phát triển kinh tế là nhiệm vụ
trung tâm, xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt, phát triển văn hóa - nền
tảng tinh thần của xã hội. Đồng thời khẳng định công tác cán bộ là vấn đề
then chốt của nhiệm vụ then chốt; việc xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo,
quản lý là cốt lõi của vấn đề then chốt thực hiện thành công chương trình cải
cách nền HCNN và xây dựng nông thôn mới, góp phần ổn định HTCT và chất
lượng bộ máy nhà nước. Vì vậy, nhiệm vụ cấp thiết hiện nay là phải nâng cao
chất lượng đội ngũ cán bộ ngang tầm với vị trí đảm nhiệm. Các cấp uỷ Đảng
ở những nơi có đông đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống phải nhận thức và
có chiến lược trong xây dựng đội ngũ CBCC cấp xã là người dân tộc thiểu số,
hội tụ cả đức và tài, phát huy được khả năng hoạt động thực tiễn, gây dựng
phong trào cách mạng trong quần chúng nhân dân để cùng góp phần thực hiện
nhiệm vụ chính trị ở cơ sở.
Chất lượng của CBCC thể hiện ở phẩm chất chính trị, đạo đức, năng lực
lãnh đạo, hiệu quả điều hành thuộc lĩnh vực đảm nhiệm và tình trạng sức khỏe
hiện tại đáp ứng được yêu cầu của công việc. Các yếu tố cấu thành nên chất
lượng CBCC là một hệ thống được kết cấu chỉnh thể toàn diện, thống nhất.
32. 24
Việc xác định chất lượng cao hay thấp ngoài việc đánh giá phẩm chất đạo
đức phải kèm theo là các chỉ tiêu đánh giá về trình độ năng lực và sự tín nhiệm
của người dân địa phương…Đó là thông qua hoạt động của bộ máy chính quyền
cấp xã, việc lãnh đạo, chỉ đạo, khả năng hoàn thành các nhiệm vụ được giao và
việc nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của chính quyền.
Chất lượng CBCC chính quyền cấp xã còn được đánh giá về trình độ
chuyên môn nghề nghiệp, năng lực, lý luận chính trị, ý chí, khả năng thích ứng,
xử lý các tình huống phát sinh, niềm tin vào công việc. Quản lý và sử dụng có
hiệu quả công sản và ngân sách Nhà nước để thực hiện nhiệm vụ được giao.
Như vậy từ những góc độ, cách hiểu trên, tác giả luận văn xin đưa ra khái
niệm về chất lượng đội ngũ CBCC chính quyền cấp xã như sau: “Chất lượng
cán bộ chủ chốt chính quyền cấp xã là tổ hợp những phẩm chất, năng lực, đạo
đức, thái độ hành vi và hiệu quả điều hành theo chức trách ở mỗi vị trí đảm
nhiệm trong bộ máy chính quyền cấp xã”.
1.3.3. Tiêu chí phản ánh chất lượng cán bộ chủ chốt cấp xã
1.3.3.1. Tiêu chí về phẩm chất chính trị
Đây là tiêu chuẩn đầu tiên, là điều kiện đối với mỗi người CBCC. Phẩm
chất chính trị của CBCC cấp xã được biểu hiện trước hết là sự tin tưởng tuyệt
đối với lý tưởng cách mạng, kiên định với mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH,
đó là con đường mà Bác Hồ đã lựa chọn, kiên quyết đấu tranh bảo vệ quan điểm
của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, không dao động trước những
khó khăn, thử thách. Đồng thời, phải có biện pháp để đường lối đó đi vào thực
tiễn cuộc sống nhân dân địa phương.
Người CBCC có phẩm chất chính trị tốt không chỉ bằng tuyên bố, hứa hẹn
mà quan trọng hơn là việc gương mẫu, tiên phong trong việc nghiêm chỉnh chấp
hành đường lỗi, chỉ thị, nghị quyết của Đảng và nhà nước, kiên quyết chống mọi
lệch lạc, biểu hiện sai trái trong đời sống xã hội.
Phẩm chất chính trị của người CBCC không chỉ biểu hiện ở tinh thần
gương mẫu trong công tác, tinh thần trách nhiệm đối với đời sống của đồng bào
nhân dân địa phương mà còn biểu hiện thông qua thái độ phục vụ nhân dân, và
33. 25
là người luôn trăn trở trước những khó khăn của cơ sở, tìm tòi các giải pháp để
bàn thảo với cấp ủy, chính quyền chỉ đạo, điều hành địa phương ngày càng phát
triển về mọi mặt, thực hiện công bằng, dân chủ, văn minh.
1.3.3.2. Tiêu chí về năng lực
Người CBCC là những người nắm giữ các vị trí quan trọng trong bộ máy
chính quyền của địa phương. Những quyết định của họ có ảnh hưởng trực tiếp
đến đời sống kinh tế, xã hội của địa phương và người dân sinh sống trên địa bàn.
Vì vậy đòi hỏi từng CBCC phải có năng lực và từ năng lực mỗi cá nhân tạo nên
năng lực tổng hợp của bộ máy. Năng lực được hiểu là một khái niệm rộng, tùy
thuộc vào môi trường và trách nhiệm, vị thế của mỗi người, mỗi cán bộ trong
những điều kiện cụ thể. Vậy năng lực là những phẩm chất tâm lý mà nhờ chúng
con người tiếp thu tương đối dễ dàng những kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo và tiến
hành một hoạt động nào đấy một cách có kết quả.
Lê Nin là người rất đề cao trình độ năng lực của người cán bộ, ông đã
viết:“…chỉ dựa vào tinh thần xung kích phần khởi và nhiệt tình không thôi, thì
không thể làm được gì cả” [36, tr.253]; “lòng trung thành được kết hợp với năng
lực hiểu biết của con người, về năng lực giải quyết những vấn đề về tổ chức thì chỉ
có lòng trung thành đó mới có thể rèn luyện ra tổ chức lớn” [37, tr.509].
Năng lực là tổng hợp các đặc điểm phẩm chất tâm lý phù hợp với những
yêu cầu đặc trưng của một hoạt động nhất định bảo đảm cho hoạt động đó đạt
được kết quả. Năng lực con người hình thành một phần dựa trên cơ sở tư chất tự
nhiên của cá nhân, và một phần lớn dựa trên quá trình đào tạo, giáo dục và hoạt
động thực tiễn, cũng như tự rèn luyện của cá nhân. Bất kỳ con người nào cũng
đều có năng lực nhất định để thực hiện công việc nào đó.
Các nhà nghiên cứu lý thuyết chia năng lực thành: năng lực chung và
năng lực riêng. Năng lực chung là năng lực đối với các dạng hoạt động chung
của đời sống con người, mọi người đều có ở những mức độ khác nhau. Năng lực
riêng là năng lực thực hiện một số công việc, nhiệm vụ nhất định nào đó và
thường được gọi là năng lực nghề nghiệp. Không có năng lực chung mà năng
lực phải cụ thể hóa trong từng lĩnh vực hoạt động của con người. Vì vậy mỗi
34. 26
con người đều có những năng lực nhất định và phụ thuộc vào yếu tố như tư chất
riêng của mỗi người, môi trường xã hội, điều kiện nghề nghiệp, việc làm...
Mặc dù có nhiều cách hiểu về thuật ngữ “năng lực” nhưng một quan niệm
chung được nhiều tác giả tán đồng là: Năng lực là “Tổng hợp những kiến thức,
kỹ năng, thái độ cho phép một cá nhân thực hiện các hoạt động gắn với nhiệm
vụ của mình ở một cấp độ hiệu suất nhất định” [33]. Phân tích năng lực làm
việc của một cá nhân cho phép đánh giá rất chính xác khả năng cơ động từ một
cấp độ việc làm này sang một cấp độ việc làm khác, từ vị trí việc này sang vị trí
việc làm khác, biết được các điều kiện tiêu chuẩn cần có để một người làm việc
ở vị trí việc làm, một công việc hay nghề nghiệp nhất định trong một tổ chức.
Nói cách khác, khi xác định được khung năng lực tiêu chuẩn của vị trí việc làm
cho phép chúng ta đánh giá mức độ hòa hợp giữa việc làm và người làm việc.
Năng lực chịu ảnh hưởng của bối cảnh công việc hay vị trí việc làm. Mỗi
công việc hay vị trí việc làm có những yêu cầu đặc thù với công việc và buộc
người đảm nhiệm công việc phải đáp ứng yêu cầu đó. Do đó, với các vị trí công
việc khác nhau sẽ đòi hỏi những năng lực khác nhau.
Như vậy có thể đưa ra khái niệm về năng lực là: sự liên kết mang tính tổng
hợp, tương tác lẫn nhau giữa kiến thức, kỹ năng và thái độ ảnh hưởng đến quá trình
thực thi nhiệm vụ và có thể nâng cao được thông qua đào tạo và phát triển.
Năng lực được cấu thành bởi trình độ kiến thức, kỹ năng, thái độ, hành vi
cần có để thực hiện đúng các hoạt động của từng vị trí việc làm.
Trình độ kiến thức là những hiểu biết chung và những hiểu biết chuyên
ngành về lĩnh vực cụ thể. Kiến thức có thể được đánh giá qua nhiều tiêu chí, đối
với CBCC kiến thức có thể đánh giá quá một số tiêu chí cơ bản như: Trình độ
văn hóa, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, trình độ lý luận chính trị, trình độ
QLNN, trình độ ngoại ngữ và tin học.
Đánh giá chất lượng cán bộ, nhất là CBCC chính quyền cấp xã được xác
định bởi rất nhiều tiêu chí. Đây là các tiêu chí cơ bản có tính quyết định đến chất
lượng của người cán bộ. Ngoài ra cũng không được xem nhẹ các tiêu chí về sức
khỏe, độ tuổi…của người cán bộ lãnh đạo. Chỉ khi các tiêu chí đánh giá đều đạt
35. 27
thì người cán bộ mới thực sự có chất lượng để phát huy hết năng lực của bản
thân, đồng thời việc xác định được các tiêu chí đánh giá này còn mang ý nghĩa
thực tiễn trong việc xây dựng bộ đánh giá chất lượng cán bộ để từ đó đưa ra các
giải pháp nhằm nâng cao chất lượng của đội ngũ CBCC cấp cơ sở nói riêng và
CBCC nói chung.
- Kỹ năng: Là khả năng vận dụng một cách thuần thục những kiến thức,
kinh nghiệm thu được của cá nhân trong lĩnh vực quản lý nhằm tăng hiệu quả,
hiệu lực công việc. Một năng lực có thể bao gồm nhiều kỹ năn, kỹ năng được
hình thành qua quá trình học hỏi, đào tạo và tích lũy kinh nghiệm. Kỹ năng cũng
là một nhân tố vô cùng quan trọng đảm bảo sự thành công đối với bất cứ một
hoạt động quản lý nào. Kỹ năng chính là thâm niên, là kinh nghiệm và là mức độ
thành thạo trong công tác quản lý. Vì vậy kỹ năng là hiện thân của kiến thức, là
biểu hiện cao nhất của việc vận dụng các kiến thức đã có vào thực tiễn. Bởi vậy
kỹ năng thành thạo ở mức độ cao sẽ trở thành phản xạ có điều kiện.
Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ “Đối với mỗi địa phương, mỗi cơ quan,
người lãnh đạo cấp trên phải xét cho rõ tình hình, hoàn cảnh và điều kiện mà
quyết định việc gì là việc chính của từng thời kì. Khi ra quyết định thì phải
thực hành triệt để, cho đạt kết quả đã định. Người nhấn mạnh, những cán bộ
phụ trách phải theo nguyên tắc đó, đường lối đó. Đồng thời phải ra sức suy
nghĩ, tìm tòi để tăng thêm sáng kiến của mình. Công việc càng khó khăn,
phức tạp, người đứng đầu càng phải nắm chắc Nghị quyết của Đảng, pháp
luật của nhà nước...”. Vì vậy, người đứng đầu phải có kỹ năng lãnh đạo, điều
hành thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, khách quan đúng với vai trò là
“đầu tàu xe lửa” để thúc đẩy cả bộ máy hoạt động trôi chảy và đi đúng hướng
vì lợi ích chung là cao nhất.
Từ thực tế cho thấy CBCC cần phải có các kỹ năng cần thiết, nhất là kỹ
năng hành chính để hoàn thành nhiệm vụ. Đối với cơ sở các kỹ năng quản lý,
ứng xử và giao tiếp, kỹ năng thuyết phục, giải quyết công việc liên quan đến
công dân; kỹ năng quản lý thời gian; kỹ năng phát biểu trước công chúng và hội
nghị là rất quan trọng. Do đó kỹ năng công tác là một trong những tiêu chí đánh
36. 28
giá chất lượng CBCC trong thực hiện nhiệm vụ. Kỹ năng nghề nghiệp được chia
thành các nhóm khác nhau phù hợp với mỗi vị trí công việc. Căn cứ vào kết quả
các kỹ năng hướng đến thì có thể chia thành các nhóm cụ thể:
- Nhóm kỹ năng cụ thể hóa chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước
thành những quyết định phù hợp với thực tiễn địa phương, kỹ năng này thể hiện
qua các công việc như xác định mục tiêu, lập kế hoạch, ra quyết định phù hợp.
- Nhóm kỹ năng phổ biến và truyền đạt chủ trương, đường lối, nghị quyết
của Đảng và Nhà nước tới quần chúng nhân dân lao động. Đây là nhóm ký năng
quan trọng trong quá trình lãnh đạo thực tiễn giúp cho đối tượng quản lý hiểu
đúng, hiểu đầy đủ, thực hiện thắng lợi các chủ trương, đường lối.
- Nhóm kỹ năng tổ chức thực hiện để biến những chủ trương, đường lối,
chính sách của Đảng trở thành hiện thực ở địa phương. Nhóm kỹ năng liên quan
đến đề xuất, ban hành và kiểm tra các chính sách, các quyết định quản lý như kỹ
năng: Tổng hợp, phân tích, đánh giá thông tin, kỹ năng ra quyết định quản lý,
đánh giá dư luận.
- Nhóm kỹ năng quan hệ giao tiếp như kỹ năng phối hợp, kỹ năng lắng
nghe, kỹ năng thuyết phục, kỹ năng tiếp dân.
- Kỹ năng tác nghiệp cá nhân như: kỹ năng ra quyết định, kỹ năng xây
dựng lịch công tác, kỹ năng thuyết trình, lắng nghe…
Tất cả các kỹ năng đều chịu ảnh hưởng quan trọng của trình độ chuyên
môn, trình độ lý luận chính trị, khả năng cá nhân và kinh nghiệm công tác của
người cán bộ trong quá trình thực thi công vụ. Bởi vậy đây là nội dung phức tạp
trong quá trình đánh giá chất lượng đội ngũ cán bộ. Khi đánh giá theo tiêu chí
này cần xác định các kỹ năng tốt phục vụ cho hoạt động; các kỹ năng chưa tốt,
chưa đáp ứng được yêu cầu; các kỹ năng cần thiết mà người cán bộ chưa có.
- Thái độ và hành vi ứng xử: Thái độ chính là quan điểm, ý thức, tính cách
của mỗi con người. Là khả năng làm chủ thái độ, hành vi, trạng thái tinh thần
của bản thân trong giải quyết công việc nhằm đạt mục tiêu đặt ra. Nói cách khác
thái độ và hành vi ứng xử chính là đạo đức, là văn hóa của con người, là những
quy tắc, chuẩn mực ứng xử giữa CBCC - người đại diện cho cơ quan hành chính
37. 29
nhà nước với công dân và giữa CBCC với nhau, nhằm phát huy tối đa năng lực
để đạt hiệu quả cao nhất trong hoạt động công vụ. Bởi vậy hành vi ứng xử và
thái độ tích cực là nhân tố vô cùng quan trọng tạo nên năng lực thực sự và trọn
vẹn cho bất cứ một cá nhân nào. Muốn trở nên có năng lực, nếu chỉ rèn luyện kỹ
năng thì chưa đủ mà cần phải có kiến thức và hành vi thái độ phù hợp.
Trong giao tiếp ở công sở CBCC phải có thái độ tôn trọng đồng nghiệp;
ngôn ngữ giao tiếp phải chuẩn mực, rõ ràng, mạch lạc, luôn lắng nghe tiếp thu ý
kiến của đồng nghiệp; công bằng, vô tư, khách quan khi nhận xét, đánh giá; thực
hiện dân chủ và đoàn kết nội bộ. Khi thi hành công vụ, cán bộ, công chức có tác
phong, thái độ nghiêm túc, khiêm tốn, văn minh, khoa học, nhân ái, cấp dưới
phục tùng cấp trên, thường xuyên trao đổi nắm bắt tâm tư nguyện vọng, cũng
như phát hiện khả năng làm việc của từng cán bộ để sắp xếp bố trí công việc hợp
lý đạt hiệu quả.
Đối với lãnh đạo cùng cấp và cấp trên, người CBCC phải có thái độ và
hành vi ứng xử tương ứng với vị trí, vai trò, chức năng nhiệm vụ của mình,
không tự cao mà luôn trau dồi kiến thức quản lý với tư chất, cốt cách của người
công chức nhằm tạo lập cho mình uy tín nhất định với cấp trên.
Đánh giá thái độ, hành vi là một việc khó vì các tiêu chí gần như chỉ định
tính mà khó có thể định lượng bằng các con số cụ thể. Xuất phát từ đặc điểm
thực thi công vụ của CBCC, trong luận văn này việc đánh giá thái độ hành vi thể
hiện cụ thể như: Gương mẫu chấp hành tốt các chủ trương đường lối của Đảng
và Nhà nước, nội quy, quy chế của cơ quan; Tinh thần trách nhiệm cao đối với
công việc; Gương mẫu trong tác phong, cử chỉ, hành động, lời nói; Tinh thần
hợp tác, cởi mở, gần gũi trong giao tiếp với nhân dân.
1.3.3.3.Các tiêu chí về hiệu quả quản lý điều hành
- Sử dụng ngân sách địa phương: Cán bộ chủ chốt có chức trách quản lý
và sử dụng có hiệu quả công sản và tiết kiệm nguồn ngân sách của Nhà nước đã
được phân bổ từ ngân sách Trung ương và nguồn thu của địa phương thực hiện
nhiệm vụ. Theo Luật ngân sách quy định CBCC cấp xã thực hiện việc quản lý
ngân sách phải đúng tiêu chuẩn định mức theo thông tư của Bộ Tài chính và
38. 30
đảm bảo cân đối thu chi hàng năm tiết kiệm kinh phí chi thường xuyên 10%,
không phát sinh nợ đọng trong xây dựng cơ bản.
Từ nguồn ngân sách được giao, đặc biệt là nguồn ngân sách trong xây dựng
cơ bản do xã làm chủ đầu tư trên cơ sở định hướng phát triển KTXH địa phương đã
được cụ thể hóa bằng Nghị quyết của HĐND, các đồng chí CBCC chịu trách
nhiệm phân bổ nguồn ngân sách địa phương cho hợp lý, phê duyệt đầu tư các công
trình hạ tầng kỹ thuật mang tính cấp bách và dài hạn, tăng cường trong công tác
kiểm tra, giám sát các công trình trong quá trình thi công đảm bảo chất lượng, đúng
thiết kế đã phê duyệt.
- Hiệu quả sử dụng nguồn nhân lực: Đảng và Nhà nước ta đang từng
bước xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, trong đó điểm đột phá là
xây dựng một hành chính chính quy, chuyên nghiệp thực sự là của dân, do dân,
vì dân, với mục tiêu: “Tập trung xây dựng hệ thống hành chính Nhà nước trong
sạch, vững mạnh, đảm bảo quản lý thống nhất, thông suốt trên cơ sở phân công,
phân cấp hợp lý, tăng cường kỷ luật, kỷ cương hành chính, đảm bảo hiệu lực,
hiệu quả quản lý nhà nước trong thời kỳ mới, chuyển thành công nền hành chính
sang phục vụ”. Để đảm bảo cho công cuộc cải cách hành chính được thành công
thì điều quan trọng nhất là con người, con người ở đây là công chức, là nguồn
nhân lực trong bộ máy HCNN.
Trên cơ sở nguồn nhân lực hiện có trong hệ thống chính quyền cấp xã
người CBCC khi tham gia chỉ đạo điều hành yêu cầu sử dụng cán bộ phải căn cú
vào yêu cầu, nhiệm vụ và tiêu chuẩn của từng ngạch, từng vị trí, đảm bảo cho
cán bộ phát huy tốt nhất năng lực, sở trường cá nhân, sử dụng đúng chuyên môn
trình độ đào tạo và có kinh nghiệm để đạt hiệu quả công tác cao nhất. Bên cạnh
đó phải thường xuyên theo dõi, giúp đỡ, hướng dẫn, kiểm tra, đánh giá việc thực
hiện nhiệm vụ của cán bộ. Kịp thời động viên, khen thưởng khi cán bộ hoàn
thành tốt nhiệm vụ, giúp đỡ họ khi mắc sai lầm, khuyết điểm. Bổ nhiệm công
chức phải đúng lúc, đúng người, đúng việc, đảm bảo tiêu chuẩn và yêu cầu của
chức danh, đảm bảo giải quyết công việc nhanh và hiệu quả, tăng cường công
tác quản lý cán bộ một cách chặt chẽ.
39. 31
- Hiệu quả điều hành (thông qua quyết định, nghị quyết của HĐND và kết
quả phát triển kinh tế - XH của địa phương) là nghệ thuật hoàn thành công việc
thông qua người khác; là quá trình lập kế hoạch, tổ chức, lãnh đạo chỉ đạo, phối
hợp và kiểm tra công việc của các cán bộ, công chức trong thực thi công vụ, sử
dụng các nguồn lực sẵn có để đạt được các mục tiêu phát triển bền vững mà địa
phương đề ra. Đồng thời chịu trách nhiệm trước kết quả hoạt động của cán bộ,
công chức thông qua việc thực hiện quản lý xã hội, thực hiện hiến pháp và pháp
luật. Hiệu quả điều hành của CBCC là khi đưa ra các quyết định, nghị quyết của
HĐND về các chỉ tiêu, kế hoạch phát triển KTXH ở địa phương phù hợp, góp
phần thúc đẩy sự phát triển về mội mặt, nâng cao đời sống nhân dân. Đôn đốc,
kiểm tra các cá nhân, tổ chức có liên quan thực hiện đúng nội dung, thời hạn các
quyết định hành chính ban hành. Thông qua công tác này mới có thể phát hiện
được những tiêu cực, bất cập nảy sinh từ cán bộ và công tác cán bộ. Qua đó kịp
thời khen thưởng những nhân tố tích cực, xử lý nghiêm minh những sai phạm, có
như vậy mới tạo được niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước.
1.3.3.4. Các tiêu chí khác
- Về sức khỏe: Là một trong những tiêu chí tác động trực tiếp đến năng
lực, khả năng sáng tạo, giải quyết công việc của CBCC. Sức khỏe của mỗi con
người được đánh giá qua nhiều tiêu chí cơ bản nhất là thể lực và trí lực. Bộ y tế
cũng quy định 3 trạng thái sức khỏe: Loại A: thể lực tốt, không có bệnh tật; Loại
B: Trung bình; Loại C: yếu, không có khá năng lao động. Tuy nhiên đi đôi với
sự nâng cao về mức sống, nhịp sống công nghiệp cũng kéo theo những tác động
bất lợi ảnh hưởng đến sức khỏe của mọi tầng lớp xã hội, trong đó có đối tượng
là công chức như ô nhiễm môi trường, an toàn thực phẩm…Sức khỏe là tiêu chí
phản ánh, đánh giá chất lượng của đội ngũ CBCC cấp xã, xem có đủ sức khỏe
để làm việc được liên tục trong thời gian dài hay không, trí óc có đủ minh mẫn
để nghiên cứu, giải quyết các công việc ở địa phương, ở cơ sở hay không. Đó
cũng chính là nhân tố căn bản, ảnh hưởng nhất định đến hiệu quả công việc. Tùy
thuộc vào đặc thù công việc mà công chức có những tiêu chuẩn riêng trong quá
trình tuyển dụng cũng như trong cả cuộc đời hoạt động công vụ của công chức.
40. 32
- Về độ tuổi: Độ tuổi của con người nói chung, CBCC nói riêng được
phân chia theo từng giai đoạn và tương ứng với mỗi giai đoạn sẽ gắn với những
biểu hiện về sinh lý, tâm lý, xã hội...Vì vậy, việc xây dựng cơ cấu CBCC cần có
sự hài hòa giữa các nhóm tuổi, có tính kế thừa giữa các thế hệ trong từng tổ
chức, trong đội ngũ lãnh đạo để phát huy hiệu quả nguồn lực con người cho sự
phát triển bộ máy.
- Về giới tính: Hiến pháp và pháp luật Việt Nam công nhận sự bình đẳng
giữa nam và nữ trong xã hội trên mọi phương diện, lĩnh vực của đời sống KT -
XH. Ngày nay, người phụ nữ ngày càng khẳng định vai trò và vị trí của mình
không thua kém so với người đàn ông và giữ những vị trí cao trong bộ máy nhà
nước Việt Nam. Vì vậy, cần đảm bảo sự phù hợp giữa nam và nữ ở tất cả các cấp
trong đó có chính quyền xã. Tuy nhiên, ở nhiều xã đặc biệt là khu vực miền núi còn
nhiều khó khăn thì tỉ lệ CBCC nữ còn thấp xuất phát từ quan niệm về vị trí người
phụ nữ và người phụ nữ ít có cơ hội học hành, tham gia hoạt động xã hội như
nam giới. Song cần quan tâm và có những chính sách phát triển nguồn nhân lực
nữ, có chính sách phát triển nguồn nhân lực tại chỗ cho các vùng khó khăn,
vùng dân tộc.
1.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng cán bộ chủ chốt cấp xã
Nghiên cứu thực tiễn về các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng CBCC, tác
giả tập trung vào một số yếu tố ảnh hưởng xuất phát từ tình hình thực tiễn khảo
sát, nghiên cứu tại huyện Bình Liên như sau:
1.4.1. Các yếu tố khách quan
- Xu thế hội nhập và những tác động đến tiến trình phát triển kinh tế - xã
hội của địa phương
Trong giai đoạn hiện nay, xu thế toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế là tất yếu
khách quan của các quốc gia trong đó có Việt Nam dù muốn hay không cũng
đều chịu tác động của quá trình toàn cầu hóa. Để tồn tại, phát triển, Đảng và Nhà
nước ta đã và đang từng bước chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, mở rộng thị
trường, thu hút vốn đầu tư nước ngoài, tiếp thu khoa học công nghệ tiên tiến để
thúc đẩy phát triển KT-XH. Tại Đại hội XI Đảng đã đề ra đường lối đối ngoại
41. 33
trong thời kỳ phát triển mới trong đó có chủ trương “chủ động và tích cực hội
nhập quốc tế” một cách toàn diện. Thực hiện chủ trương của Đảng, đất nước
chúng ta đã từng bước hội nhập ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế khu vực và
thế giới góp phần quan trọng nâng cao vị thế, vai trò của Việt Nam trên trường
quốc tế.
Xu thế hội nhập đã mở ra không gian phát triển mới cho nền kinh tế của
địa phương, tác động mạnh đến sự tăng trưởng, phát triển KT-XH, nâng cao
năng lực sản xuất, mở rộng thị trường trong một số lĩnh vực cụ thể như thương
mại, du lịch, công nghiệp, nông nghiệp…thúc đẩy tái cấu trúc nền kinh tế, đặc
biệt là chuyển dịch cơ cấu sản xuất theo hướng tích cực; góp phần hoàn thiện thể
chế pháp luật và tổ chức bộ máy, cùng với nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.
Tạo hiệu ứng tích cực thúc đẩy cải cách và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường
phù hợp với chuẩn mực và thông lệ quốc tế. Bình Liêu là huyện có tiềm năng,
thế mạnh về phát triển lâm nghiệp, phát triển du lịch văn hóa và đặc biệt phát
triển kinh tế cửa khẩu.
Mặc dù đã đạt được những thành tựu đáng khích lệ trong hội nhập kinh tế
quốc tế nhưng huyện Bình Liêu vẫn còn một số hạn chế như: tăng trưởng kinh tế
cao nhưng vẫn là huyện khó khăn của tỉnh Quảng Ninh, quá trình phát triển còn
bộc lộ những yếu kém như: Chưa khai thác hết tiềm năng của kinh tế cửa khẩu,
du lịch, năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp còn thấp, chịu sức cạnh tranh
lớn từ doanh nghiệp nước ngoài (Trung Quốc), khả năng tích lũy vốn nhân lực
và tiến bộ công nghệ của huyện còn khiêm tốn, chất lượng NNL còn hạn chế,
chậm đổi mới công tác quy hoạch, kết cấu hạ tầng thiếu động bộ, Chính vì vậy
cũng ảnh hưởng nhất định đến sự phát triển KT-XH của địa phương. Để đẩy
mạnh tốc độ phát triển kinh tế và khai thác hợp lý mọi tiềm năng về nguồn lực
(tài nguyên, vị trí địa kinh tế, nhân lực,…) của huyện nhằm nâng cao đời sống
vật chất, văn hóa tinh thần của nhân dân, đồng thời thực hiện chủ trương của
UBND tỉnh Quảng Ninh trong công tác xây dựng quy hoạch phát triển KT-XH
đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030. UBND huyện Bình Liêu đã phối hợp
với Viện Chiến lược phát triển (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) triển khai xây dựng đề
42. 34
án: “Quy hoạch tổng thể phát triển KT-XH huyện Bình Liêu đến năm 2020, tầm
nhìn đến năm 2030”. Nếu huyện Bình Liêu thành công trong việc thực hiện các
nhiệm vụ phát triển KT-XH để tiến đến mục tiêu năm 2020, thì bức tranh phát
triển KT-XH của huyện có thể được xem như một mô hình về tăng trưởng toàn
diện và bền vững vào năm 2030. Với những chiến lược và mục tiêu trên đòi hỏi
đội ngũ CBCC cần phải được nâng tầm về mọi mặt để có thể đáp ứng được xu
thế hội nhập và phát triển.
- Các chính sách của địa phương:
Trong thời gian qua mặc dù năng lực của đại bộ phận CBCC về thực chất
còn yếu. Tuy nhiên việc thu hút nhân tài chưa được quan tâm đúng mức, chưa
có chính sách thu hút nguồn cán bộ chất lượng cao từ nguồn bên ngoài về vị trí
như phó Chủ tịch UBND cấp xã theo đề án thu hút nhân tài từ đội ngũ sinh viên
trẻ có thành tích học tập tốt mới ra trường, còn nặng theo hình cử đi học mà chất
lượng sau đào tạo của các cán bộ cử đi gần như không đáp ứng được yêu cầu
công việc. Cán bộ nguồn tại chỗ đa số năng lực trung bình được cơ cấu vào quy
hoạch, do đó sau khi được bổ nhiệm thì chưa tạo được các đột phá trong chỉ đạo
điều hành các vấn đề kinh tế xã hội địa phương. Mặt khác đối với công tác luân
chuyển cũng vậy, một số vị trí cán bộ ở địa phương khuyết như chức danh Chủ
tịch UBND cấp xã đã được bổ xung nhiều lần nhưng không tìm được đúng
người có đủ năng lực trình độ cho vị trí cần đảm nhiệm, vì vậy đôi khi chỉ tạm
thời bố trí số cán bộ dôi dư cho hợp lý với cấu cấu quy hoạch.
Trong khi đó, cán bộ chủ chốt là người đứng đầu, trực tiếp nắm và chỉ đạo
thực hiện các vấn đề trọng yếu, các khâu trung tâm của hệ thống chính trị ở cơ
sở, cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp xã vừa là người khởi xướng chủ trương, vừa là
người chủ trì, điều khiển và chịu trách nhiệm đến cùng các mặt công tác, các
lĩnh vực hoạt động của hệ thống đó. Là người nắm giữ quyền lực, quyết định các
chính sách của địa phương nên hành động của họ phải minh bạch, công bằng,
gương mẫu và nghiêm túc rèn luyện để có phương thức lãnh đạo dân chủ.
Sự mạnh yếu của HTCT và phong trào cách mạng ở cơ sở gắn liền với vai
trò cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp xã. Họ vừa là hạt nhân lãnh đạo, vừa là những