SlideShare a Scribd company logo
1 of 130
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN MINH THU
TỘI CHỨA CHẤP HOẶC TIÊU THỤ TÀI SẢN DO
NGƯỜI KHÁC PHẠM TỘI MÀ CÓ THEO LUẬT
HÌNH SỰ VIỆT NAM
(Trên cơ sở thực tiễn địa bàn thành phố Hà Nội)
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2016
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN MINH THU
TỘI CHỨA CHẤP HOẶC TIÊU THỤ TÀI SẢN DO
NGƯỜI KHÁC PHẠM TỘI MÀ CÓ THEO LUẬT
HÌNH SỰ VIỆT NAM
(Trên cơ sở thực tiễn địa bàn thành phố Hà Nội)
Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 60 38 01 04
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: TS. HOÀNG VĂN HÙNG
HÀ NỘI - 2016
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình
nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính
chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và
đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật
Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể
bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN
Nguyễn Minh Thu
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục từ viết tắt
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU ..........................................................................................................1
Chương 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỘI CHỨA CHẤP HOẶC
TIÊU THỤ TÀI SẢN DO NGƯỜI KHÁC PHẠM TỘI MÀ CÓ THEO
QUY ĐỊNH CỦA LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM.........................................9
1.1. Khái niệm tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm
tội mà có........................................................................................................9
1.2. Các dấu hiệu pháp lý của tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do
người khác phạm tội mà có.......................................................................12
1.2.1. Khách thể của tội phạm .............................................................................12
1.2.2. Chủ thể của tội phạm..................................................................................15
1.2.3. Mặt khách quan của tội phạm ..................................................................15
1.2.4. Mặt chủ quan của tội phạm.......................................................................18
1.3. Vài nét lịch sử lập pháp hình sự của Việt Nam đối với tội chứa
chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có.....................20
1.3.1. Pháp luật thời kỳ phong kiến đến trước Cách mạng tháng Tám năm
1945............................................................................................................................21
1.3.2. Tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có
theo quy định của pháp luật hình sự Việt Nam giai đoạn từ 1945 đến
trước khi Bộ luật hình sự 1985 có hiệu lực......................................................24
1.3.3. Tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có
theo quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam giai đoạn từ 1986 đến trước
khi Bộ luật hình sự 1999 có hiệu lực .................................................................26
1.3.4. Tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có
theo quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam giai đoạn từ 1999 đến nay......28
1.4. Những quy định về tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người
khác phạm tội mà có trong pháp luật Hình sự của một số nước trên thế
giới...............................................................................................................32
Kết luận chương 1......................................................................................41
Chương 2. CÁC HÌNH THỨC PHÁP LÝ ĐỐI VỚI TỘI CHỨA CHẤP
HOẶC TIÊU THỤ TÀI SẢN DO NGƯỜI KHÁC PHẠM TỘI MÀ CÓ
THEO BỘ LUẬT HÌNH SỰ 1999 ...............................................................43
2.1. Các hình thức pháp lý đối với tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản
do người khác phạm tội mà có theo Bộ luật Hình sự 1999....................43
2.1.1. Hình phạt đối với người phạm tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản
do người khác phạm tội mà có.............................................................................43
2.1.2. Các biện pháp tư pháp đối với người phạm tội chứa chấp hoặc tiêu
thụ tài sản do người khác phạm tội mà có ........................................................57
2.1.3. Vấn đề miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt đối với người phạm
tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có................60
2.2. Phân biệt giữa tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác
phạm tội mà có với một số tội phạm khác...............................................64
2.2.1. Phân biệt tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm
tội mà có với tội che giấu tội phạm....................................................................64
2.2.2. Phân biệt tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm
tội mà có với tội không tố giác tội phạm ..........................................................66
2.2.3. Phân biệt tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm
tội mà có với tội rửa tiền.......................................................................................69
2.2.4. Phân biệt tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm
tội mà có với trường hợp đồng phạm cùng tội phạm nguồn........................72
Kết luận Chương 2.....................................................................................74
Chương 3. THỰC TIỄN XÉT XỬ TỘI CHỨA CHẤP HOẶC TIÊU THỤ
TÀI SẢN DO NGƯỜI KHÁC PHẠM TỘI MÀ CÓ TRÊN ĐỊA BÀN
THÀNH PHỐ HÀ NỘI VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ........76
3.1. Khái quát số vụ án đã thụ lý về tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do
người khác phạm tội mà có trên địa bàn thành phố Hà Nội những năm gần
đây................................................................................................................76
3.2. Thực tiễn xét xử tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác
phạm tội mà có trên địa bàn thành phố Hà Nội giai đoạn 2011- 2015.79
3.2.1. Số liệu thống kê về thực tiễn xét xử tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài
sản do người khác phạm tội mà có trên địa bàn thành phố Hà Nội giai
đoạn 2011- 2015......................................................................................................79
3.2.2. Một số vấn đề trong thực tiễn với tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài
sản do người khác phạm tội mà có những năm gần đây...............................87
3.3. Một số giải pháp đề xuất nhằm nâng cao hiệu quả thực tiễn với tội
chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có ...........97
3.3.1. Hoàn thiện những quy định của pháp luật hình sự về tội chứa chấp
hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có......................................97
3.3.2. Nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động áp dụng pháp luật của
Tòa án nhân dân với những quy định về tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài
sản do người khác phạm tội mà có ...................................................................101
3.3.3. Một số giải pháp khác ..............................................................................105
KẾT LUẬN..................................................................................................108
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................111
PHỤ LỤC.....................................................................................................117
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
BLDS: Bộ luật Dân sự
BLHS: Bộ luật Hình sự
BLTTHS: Bộ luật Tố tụng Hình sự
CTTP: Cấu thành tội phạm
TNHS: Trách nhiệm Hình sự
TAND: Tòa án nhân dân
VKSND: Viện kiểm sát nhân dân
DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu Tên bảng Trang
Bảng 2.1.
So sánh tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác
phạm tội mà có, tội che giấu tội phạm và tội không tố giác
tội phạm
68
Bảng 2.2.
So sánh tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác
phạm tội mà có với tội rửa tiền
72
Bảng 3.1.
Thống kê số liệu vụ án và bị cáo phạm tội chứa chấp hoặc
tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có đã thụ lý trên
địa bàn thành phố Hà Nội từ năm 2011- 2015
78
Bảng 3.2.
Thống kê số liệu số vụ án, bị cáo phạm tội chứa chấp hoặc
tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có được giải
quyết trên địa bàn thành phố Hà Nội từ 2011- 2015
81
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm gần đây, trước sự thay đổi, phát triển của các điều kiện
kinh tế- xã hội, tình hình các loại tội phạm nói chung có nhiều diễn biến phức
tạp. Đặc biệt là các tội xâm phạm quyền sở hữu có chiều hướng gia tăng. Điều
này gây ảnh hưởng không nhỏ việc bảo vệ, bảo đảm các quyền cơ bản của
công dân trong đó có quyền sở hữu. Liên quan đến các tội phạm xâm hại về
sở hữu, tội phạm chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà
có trở thành vấn đề đáng lưu tâm, đang gây nhiều lo lắng cho người dân. Tính
chất của tội phạm cũng góp phần gây khó khăn trong hoạt động điều tra, truy
tố, xét xử các tội phạm xâm phạm sở hữu.
Trong giai đoạn nền kinh tế của đất nước đang phát triển theo cơ chế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tình trạng người dân chạy theo tiếng
gọi của lợi nhuận thực hiện các hoạt động kinh doanh, mua bán các loại hàng
hoá, tài sản dù biết là do người khác phạm tội mà có là tình trạng đáng cảnh
báo. Việc công dân dù biết tài sản mình đang chứa chấp hoặc tiêu thụ do
người khác phạm tội mà có nhưng vẫn cố tình thực hiện nhằm kiếm lời khiến
cho việc xử lý các loại tội phạm xâm hại sở hữu như trộm cắp tài sản, cướp tài
sản, cướp giật tài sản,... càng thêm khó khăn trong công tác điều tra, truy tố
tội phạm do tài sản khó được xác minh, tìm kiếm. Đứng trước thực trạng cũng
như diễn biến của tình hình tội phạm xâm phạm sở hữu như vậy, một số công
dân sẵn sàng chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản của công dân, tài sản của Nhà
nước do người khác phạm tội mà có có giá trị lớn do mua rẻ, bán đắt gây ra
thiệt hại lớn cho người dân, cũng như cho tài sản của Nhà nước. Điều này gây
cản trở không nhỏ đến hoạt động đúng đắn của cơ quan có thẩm quyền trong
việc điều tra, xử lý tội phạm. Hơn thế nữa, hành vi này còn gián tiếp khuyến
2
khích các hành vi phạm tội, phạm tội nhiều lần của người khác, gây ra ảnh
hưởng tiêu cực cho xã hội, khiến tình hình tội phạm thêm phức tạp, gây khó
khăn cho công tác phòng ngừa tội phạm.
Khi nghiên cứu về tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác
phạm tội mà có những năm gần đây (giai đoạn 2010- 2015), nhiều vấn đề về
mặt lý luận cũng như thực tiễn cần tìm hiểu kỹ càng. Đặc biệt, trên địa bàn
thành phố Hà Nội- thủ đô của đất nước, việc nghiên cứu các vấn đề tội phạm
này càng cần thiết hơn bởi lẽ Hà Nội là thành phố đi đầu trong quá trình phát
triển, mức sống của người dân có đòi hỏi cao; vì thế, đây cũng là nơi thu hút
nhiều loại tội phạm về sở hữu, gây ảnh hưởng đến trật tự công cộng, trật tự
pháp luật xã hội chủ nghĩa trong đó có tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do
người khác phạm tội mà có. Tội phạm này có sự xuất phát từ những tội phạm
nguồn gây ảnh hưởng tiêu cực đến việc gia tăng tỷ lệ tội phạm về sở hữu. Tuy
nhiên, trong các đề tài nghiên cứu những năm gần đây, tội chứa chấp hoặc
tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có lại ít được nghiên cứu đầy đủ
và cụ thể. Việc xác định rõ nguyên nhân, điều kiện phạm tội phù hợp với sự
phát triển của xã hội hiện nay hay trên địa bàn thành phố Hà Nội nói riêng
cũng chưa được đi sâu nghiên cứu, bám sát tình hình thực tiễn. Thực tiễn đặt
ra rằng, hành vi chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có
khá phức tạp dưới nhiều hình thức, thủ đoạn đơn giản có, tinh vi có nhằm hợp
pháp hóa tài sản phạm tội để đưa ra tiêu thụ trên thị trường. Điều này gây ảnh
hưởng không nhỏ tới việc gia tăng phức tạp tình hình tội phạm trên địa bàn
thành phố Hà Nội nói riêng và trên cả nước nói chung, cũng như đề ra các
biện pháp nâng cao hiệu quả áp dụng với tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản
do người khác phạm tội mà có.
Vì lẽ đó, việc nghiên cứu tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người
khác phạm tội mà có đặt ra vấn đề cấp thiết cả về lý luận và thực tiễn nhằm
3
đáp ứng đòi hỏi của xã hội trong công cuộc đổi mới đất nước, thực hiện tinh
thần cải cách tư pháp theo định hướng của Đảng và tinh thần của Nghị quyết
số 48-NQ/TW ngày 24-05-2005 của Bộ Chính trị "Về chiến lược xây dựng và
hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm
2020". Hơn thế nữa, về mặt lý luận, việc nghiên cứu đưa ra các dấu hiệu cũng
như cơ sở pháp lý cụ thể góp phần làm sáng tỏ các hành vi tội phạm, tạo tiền
đề cho công cuộc đấu tranh phòng ngừa tội phạm chung. Từ các cơ sở nêu
trên, tác giả đã lựa chọn đề tài: “Tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người
khác phạm tội mà có theo Luật Hình sự Việt Nam” (Trên cơ sở thực tiễn địa
bàn thành phố Hà Nội) làm đề tài nghiên cứu.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong quá trình nghiên cứu, tìm hiểu về đề tài, tội chứa chấp hoặc tiêu thụ
tài sản do người khác phạm tội mà có là tội phạm có tính tinh vi và diễn biến tội
phạm phức tạp. Loại tội phạm này đã được một số nhà luật học nghiên cứu, đề
cập trong một số giáo trình, sách, báo, bài viết gần đây gồm có:
- Giáo trình luật hình sự Việt Nam, tập II của Trường Đại học Luật Hà
Nội Nxb Công an nhân dân, Hà Nội; Giáo trình luật hình sự Việt Nam (Phần
các tội phạm) của Khoa luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, Nxb Đại học quốc gia
Hà Nội, Hà Nội; Bình luận khoa học Bộ luật hình sự (Phần các tội phạm)- tập
9 của ThS Đinh Văn Quế, Nxb Tp Hồ Chí Minh; Bình luận khoa học Bộ luật
hình sự 1999 (Phần các tội phạm) của TS. Phùng Thế Vắc, TS. Trần Văn
Luyện, LS. ThS. Phạm Thanh Bình, TS. Nguyễn Đức Mai, ThS. Nguyễn Sĩ
Đại, ThS. Nguyễn Mai Bộ, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2001... Các công
trình nói trên các tác giả đã đề cập nội dung về tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài
sản do người khác phạm tội mà có, nhưng mới chỉ dừng lại ở việc bình luận
và đưa ra các khái niệm, dấu hiệu một cách đơn giản, khái quát làm khuôn
mẫu nghiên cứu mà chưa có công trình nào nghiên cứu một cách toàn diện và
4
có hệ thống về tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà
có dưới góc độ pháp lý hình sự.
- Đề tài: “Tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội
mà có trong Luật Hình sự Việt Nam”- Luận văn Thạc sỹ năm 2007 của tác
giả Trần Thị Thu Nam; Đề tài: “Thực tiễn tội tiêu thụ tài sản do người khác
phạm tội mà có trên địa bàn huyện Diễn Châu tỉnh Nghệ An”- khóa luận tốt
nghiệp năm 2009 của tác giả Nguyễn Thị Lan Anh: Các đề tài trên đều đã đề
cập đến tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có
dưới góc độ luật Hình sự và Tội phạm học. Tuy nhiên, các đề tài nghiên cứu
đã cách đây khá xa, vì vậy, tình hình tội phạm và các dấu hiệu, điều kiện
phạm tội hiện nay đã có nhiều biến đổi. Ngoài ra, đề tài cũng chưa đi sâu làm
rõ vấn đề các hình thức trách nhiệm hình sự của tội phạm. Vấn đề về tội phạm
nguồn chưa được đưa ra. Hơn nữa, các đề tài mới chỉ đưa ra phân tích chung
hoặc trên một địa bàn huyện của tỉnh. Mà thực tế, địa bàn thành phố Hà Nội
lại là một điểm nóng của tội phạm lại chưa được đi sâu nghiên cứu.
- Các bài viết “Tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác
phạm tội mà có trong Luật Hình sự Việt Nam”- Tạp chí Luật học số 05.2004
của Thạc sỹ Phạm Văn Báu; “Một số vấn đề về tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài
sản do người khác phạm tội mà có” - Tạp chí Tòa án nhân dân số 7 tháng 9
năm 2007 của tác giả Trần Quang Tiệp; “Yếu tố định lượng đối với tội Chứa
chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”- Trang thông tin
TAND tối cao 2013 của tác giả Hồ Vĩnh Phú, “Bàn về Điều 250 Bộ luật Hình
sự”- Tạp chí Tòa án nhân dân số 11 tháng 6/2004 của tác giả Lê Văn Luật...
cũng đã đề cập về tội phạm này dưới góc độ Luật Hình sự và Tội phạm học.
Các bài viết mới chỉ đưa ra một cách khái quát về tội chứa chấp hoặc tiêu thụ
tài sản do người khác phạm tội mà có, một số vấn đê cần lưu ý nhưng chưa đi
5
vào phân tích chuyên sâu các vấn đề về tội phạm cũng như thực tiễn xét xử
của tội phạm.
Qua việc tìm hiểu các công trình nghiên cứu được trình bày ở trên, vấn
đề về tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có và
thực tiễn xét xử trên địa bàn thành phố Hà Nội còn bỏ ngỏ. Đến thời điểm
này, đề tài “Tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà
có theo Luật Hình sự Việt Nam” (Trên cơ sở thực tiễn địa bàn thành phố Hà
Nội) vẫn có tính mới.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu mà luận văn hướng tới là trên cơ sở lý luận và
thực tiễn xét xử của tội phạm góp phần hoàn thiện cơ sở lý luận chuyên sâu
đối với quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội chứa chấp hoặc tiêu
thụ tài sản do người khác phạm tội mà có. Cũng qua đó hình thành cái nhìn từ
thực tiễn xét xử các vụ án về tội phạm làm cơ sở cho việc nhận thức cũng như
áp dụng các quy định của Bộ luật Hình sự xử lý về tội phạm. Ngoài ra, trên cơ
sở nghiên cứu, luận văn cũng đề xuất những giải pháp mới nhằm hoàn thiện
và nâng cao hiệu quả việc áp dụng những quy định của pháp luật hình sự về
tội phạm.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Với mục đích nghiên cứu đã đặt ra ở trên, nhiệm vụ nghiên cứu của
luận văn đặt ra các vấn đề sau:
Thứ nhất, nghiên cứu và đưa ra khái niệm, các dấu hiệu pháp lý của tội
chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có; làm rõ lịch sử
hình thành và phát triển những quy định của pháp luật Hình sự Việt Nam về
tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có.
Thứ hai, làm rõ các hình thức pháp lý đối với tội phạm chứa chấp
6
hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có; so sánh tội chứa chấp
hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có với một số tội phạm
khác.
Thứ ba, phân tích, làm rõ vấn đề thực tiễn xét xử trên địa bàn thành phố
Hà Nội về tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có;
tìm ra những khó khăn, vướng mắc trong quá trình giải quyết vụ án. Từ đó,
đưa ra đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng những quy định của
pháp luật hình sự hiện hành về tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người
khác phạm tội mà có.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các quy định của pháp luật
Hình sự Việt Nam về tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác
phạm tội mà có.
4.2. Phạm vi nghiên cứu đề tài
Phạm vi nghiên cứu của luận văn về tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản
do người khác phạm tội mà có theo quy định của Luật Hình sự Việt Nam dưới
góc độ pháp lý hình sự trên địa bàn thành phố Hà Nội trong thời gian 5 năm
từ năm 2011 đến năm 2015.
Tại thời điểm người viết nghiên cứu đề tài này, Bộ luật Hình sự 2015 vẫn
chưa có hiệu lực. Các quy định hiện hành về tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản
do người khác phạm tội mà có được tiến hành theo Bộ luật Hình sự 1999.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu đê tài
5.1. Phương pháp luận
Phương pháp luận khoa học của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy
vật lịch sử theo quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là
phương pháp được tác giả lựa chọn làm cơ sở nghiên cứu luận văn. Ngoài ra,
tác giả dựa trên các quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước về các lĩnh
7
vực trong đó có lĩnh vực đấu tranh phòng ngừa tội phạm nói chung và tội
chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội nói riêng.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Các phương pháp nghiên cứu cụ thể được sử dụng trong luận văn để
thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu là phương pháp phân tích, phương pháp tổng
hợp, phương pháp so sánh, phương pháp thống kê, …
6. Những đóng góp mới của đề tài
Luận văn là công trình nghiên cứu toàn diện, có hệ thống về tội phạm
chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có. Những đóng
góp mới về mặt khoa học của luận văn có thể kể đến:
- Phân tích, làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận, đưa ra vấn đề về tội
phạm nguồn, phân tích sự phát triển các quy định về tội phạm chứa chấp hoặc
tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có trong lịch sử, đối chiếu các quy
định của Bộ luật Hình sự 1999 và Bộ luật Hình sự 2015 và so sánh các quy
định tội phạm này trong luật hình sự Việt Nam với một số nước trên thế giới.
- Phân tích, đánh giá những quy định của pháp luật hình sự Việt Nam
hiện hành về tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà
có, các hình thức pháp lý của tội phạm và thực tiễn xét xử trên địa bàn thành
phố Hà Nội, nêu lên những hạn chế, khó khăn trong thực tiễn áp dụng những
quy định của pháp luật hình sự về tội phạm.
- Đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả việc áp dụng những
quy định của pháp luật hình sự về tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người
khác phạm tội mà có trên địa bàn thành phố Hà Nội nói riêng cũng như cả
nước nói chung.
7. Ý nghĩa của việc nghiên cứu đề tài
Về mặt lý luận, luận văn có ý nghĩa cung cấp thêm cơ sở lý luận góp
phần làm phong phú về mặt tài liệu nghiên cứu khoa học để tham khảo cho
8
các bài viết, công trình nghiên cứu, bài giảng có liên quan.
Về mặt thực tiễn, luận văn đưa ra thực tiễn, đánh giá, dự báo diễn
biến tình hình tội phạm và đề xuất những giải pháp hợp lý, có ý nghĩa trong
việc xử lý tội phạm nhằm nâng cao hiệu quả việc áp dụng những quy định
của pháp luật hình sự hiện hành về tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do
người khác phạm tội mà có trên địa bàn thành phố Hà Nội nói riêng và ở
nước ta nói chung.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn được kết cấu gồm 3 chương, cụ thể:
Chương 1: Một số vấn đề chung về tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản
do người khác phạm tội mà có theo quy định của luật Hình sự Việt Nam
Chương 2: Các hình thức pháp lý đối với tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài
sản do người khác phạm tội mà có theo quy định của Bộ luật Hình sư 1999
Chương 3: Thực tiễn xét xử tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do
người khác phạm tội mà có trên địa bàn thành phố Hà Nội và giải pháp nâng
cao hiệu quả áp dụng.
9
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỘI CHỨA CHẤP HOẶC TIÊU THỤ
TÀI SẢN DO NGƯỜI KHÁC PHẠM TỘI MÀ CÓ THEO QUY ĐỊNH
CỦA LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1. Khái niệm tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác
phạm tội mà có
Theo từ điển luật học, chứa chấp tài sản do người khác phạm tội mà có
là "(hành vi) cất giấu hoặc tạo điều kiện cho việc cất giấu những tài sản mình
biết rõ là tài sản do hành vi phạm tội của người khác mà có" [51, tr.275].
Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có là "(hành vi) mua, trao đổi,
nhận hoặc giúp cho việc mua bán, trao đổi tài sản mình biết rõ là tài sản do
hành vi phạm tội của người khác mà có" [51, tr.781].
Tại Khoản 1, Khoản 2 Điều 2 Thông tư số 09/2011/TTLT-BCA-BQP-
BTP-NHNNVN-VKSNDTC-TANDTC ban hành ngày 30/11/2011 Hướng
dẫn áp dụng quy định của Bộ luật Hình sự về tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài
sản do người khác phạm tội mà có và tội rửa tiền (Sau đây gọi tắt là Thông tư
09/2011) quy định:
Chứa chấp tài sản là một trong các hành vi sau đây: cất giữ,
che giấu, bảo quản tài sản; cho để nhờ, cho thuê địa điểm để cất
giữ, che dấu, bảo quản tài sản đó và tiêu thụ tài sản là một trong các
hành vi sau đây: mua, bán, thuê, cho thuê, trao đổi, cầm cố, thế
chấp, đặt cọc, ký gửi, cho, tặng, nhận tài sản hoặc giúp cho việc
thực hiện các hành vi đó.
Hiểu một cách chung nhất, hành vi chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản so
người khác phạm tội mà có là hành vi cất giấu, tạo điều kiện cho việc cất giấu
hoặc mua, trao đổi, nhận, giúp cho việc mua bán, trao đổi tài sản mình biết rõ
là tài sản do hành vi phạm tội của người khác mà có.
10
Cũng theo từ điển này, tài sản được hiểu:
Là các vật có giá trị bằng tiền và là đối tượng của quyền tài
sản và các lợi ích vật chất khác. Tài sản bao gồm: vật có thực, vật
đang tồn tại và sẽ có như hoa, lợi, lợi tức, vật sẽ được chế tạo theo
mẫu đã được thoả thuận giữa các bên, tiền và các giấy tờ trị giá
được bằng tiền và quyền tài sản [51, tr.778].
Điều 163 Bộ luật Dân sự 2005 quy định: "Tài sản bao gồm vật, tiền,
giấy tờ có giá và các quyền tài sản".
Đối với vật là đối tượng tác động của tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài
sản do người khác phạm tội mà có phải là vật có thực, vật đang tồn tại, có giá
trị và nằm trong sự chiếm hữu của con người, “đối tượng của tội tiêu thụ tài
sản do người khác phạm tội mà có chỉ có thể là tài sản (các đối tượng vật
chất, hàng hóa, tiền) do phạm tội mà có trừ các đối tượng vật chất là hàng
cấm ) do phạm tội mà có”[2, tr.6].
Tiền và giấy tờ có giá cũng là những đối tượng tài sản của tội phạm
chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có. Tuy nhiên, đối
với giấy tờ có giá cần lưu ý bởi nó tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau.
Giấy tờ có giá được chia làm hai loại gồm: Giấy tờ có giá ghi danh và Giấy tờ
có giá vô danh. Với đối tượng là tài sản trong tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài
sản do người khác phạm tội mà có thì giấy tờ có giá ghi danh sẽ không thỏa
mãn được là đối tượng tác động của tội phạm bởi loại giấy tờ này chỉ chủ sở
hữu đứng tên mới có khả năng thực hiện các giao dịch dân sự liên quan đến
nó. Giấy tờ có giá vô danh "là giấy tờ có giá phát hành theo hình thức chứng
chỉ không ghi tên người sở hữu. Giấy tờ có giá vô danh thuộc quyền sở hữu
của người nắm giữ giấy tờ có giá" (Điều 4 Quy chế phát hành giấy tờ có giá
của tổ chức tín dụng ban hành kèm theo Quyết định số 02/2005/QĐ-NHNN
của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ngày 04/01/2005). Với giấy tờ có giá vô
11
danh, người phạm tội có thể tự thực hiện các giao dịch dân sự. Do đó, giấy tờ
có giá vô danh sẽ là đối tượng tác động của tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản
do người khác phạm tội mà có [22, tr.7].
"Quyền tài sản là quyền trị giá được bằng tiền và có thể chuyển giao
trong giao dịch dân sự, kể cả quyền sở hữu trí tuệ" (Điều 181 Bộ luật Dân sự
2005). Quyền tài sản là loại tài sản quyền gắn liền với chủ sở hữu, do đó, tuỳ
thuộc vào quyền tài sản nhất định mới là đối tượng tác động của tội phạm chứa
chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có vì có những quyền tài
sản chỉ chủ sở hữu mới có thể thực hiện quyền này trong giao dịch dân sự.
Thông tư số 09/2011, tại Khoản 3 Điều 1 có hướng dẫn về "tài sản" bao
gồm: "vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản; bất động sản, động sản,
hoa lợi, lợi tức, vật chính, vật phụ, vật chia được, vật không chia được, vật
tiêu hao, vật không tiêu hao, vật chùng loại, vật đặc định, vật đồng bộ và
quyền tài sản".
Như vậy, những "tài sản" được pháp luật ghi nhận, thuật ngữ "tài sản"
trong tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có có sự
tương ứng với quy định về "tài sản" trong Bộ luật Dân sự 2005.
Từ khái niệm tội phạm được ghi nhận tại Điều 8 BLHS, định nghĩa
khoa học về tội phạm với những dấu hiệu được phân tích ở trên, tác giả xin
đưa ra khái niệm Tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội
mà có như sau:
Tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có là
hành vi nguy hiểm cho xã hội khi biết rõ tài sản là do người khác phạm tội mà
có vẫn cất giấu, tạo điều kiện cho việc cất giấu hoặc mua, trao đổi, nhận,
giúp cho việc mua bán, trao đổi tài sản, do người có năng lực trách nhiệm
hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý, trái
pháp luật hình sự, xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng, trật tự
12
pháp luật xã hội chủ nghĩa.
1.2. Các dấu hiệu pháp lý của tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do
người khác phạm tội mà có
Căn cứ quy định cụ thể về tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người
khác phạm tội mà có, những yếu tố đặc trưng của cấu thành tội phạm (CTTP)
tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có được thể
hiện như sau:
1.2.1. Khách thể của tội phạm
Khách thể của tội phạm là quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ và
bị tội phạm xâm hại bằng cách gây thiệt hại hoặc đe doạ gây thiệt hại cho các
quan hệ xã hội đó [47, tr. 86].
Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam 2013- đạo luật cơ
bản của nước ta ghi nhận và bảo hộ quyền sở hữu của công dân: "1. Mọi người
có quyền sở hữu về thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở, tư liệu sản xuất,
phần vốn góp trong doanh nghiệp hoặc trong các tổ chức kinh tế khác. 2. Quyền
sở hữu tư nhân và quyền thừa kế được pháp luật bảo hộ".
Từ đây, nền tảng cơ bản về quyền sở hữu của công dân được pháp luật
Việt Nam ghi nhận và bảo hộ. Mọi sự xâm phạm sẽ được bảo vệ bởi ngành
luật tương ứng. Tội phạm tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác
phạm tội mà có biết rõ tài sản mà mình chứa chấp hoặc tiêu thụ là tài sản có
được từ hành vi phạm pháp, tuy không có sự hứa hẹn trước với người có tài
sản do phạm tội mà có, nhưng vẫn chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản đó vì mục
đích vụ lợi. Hành vi của người phạm tội đã xâm phạm trật tự công cộng, trật
tự xã hội, trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa, khuyến khích việc thực hiện tội
phạm cũng như gây khó khăn cho hoạt động tư pháp trong điều tra, truy tố,
xét xử tội phạm.
Việc xác định khách thể của tội phạm chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản
13
do người khác phạm tội mà có là căn cứ quan trọng để định tội cũng như phân
biệt tội phạm với vi phạm pháp luật khác; khách thể của tội phạm sẽ cho thấy
rõ bản chất, tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội.
Khách thể chung là "tổng hợp các quan hệ xã hội được các quy phạm
pháp luật Hình sự bảo vệ tránh khỏi sự xâm hại có tính chất tội phạm nhưng bị
tội phạm xâm hại đến và gây nên (hoặc đe doạ gây nên) thiệt hại đáng kể nhất
định" [6, tr. 351]. Khách thể chung của tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài do người
khác phạm tội mà có là trật tự công cộng, trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa.
Xác định khách thể chung của tội phạm sẽ đưa ra cơ sở pháp lý chung khẳng
định hành vi nguy hiểm cho xã hội của tội phạm chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản
do người khác phạm tội mà có là hành vi phạm tội bị pháp luật hình sự cấm.
Khách thể trực tiếp là "một quan hệ xã hội cụ thể được một quy phạm
pháp luật hình sự cụ thể bảo vệ tránh khỏi sự xâm hại của một tội phạm nhất
định nhưng bị tội phạm xâm hại đến và gây nên (hoặc đe doạ gây nên) thiệt
hại đáng kể nhất định" [6, tr. 351]. Khách thể trực tiếp của tội chứa chấp hoặc
tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có là trật tự quản lý nhà nước đối
với tài sản do phạm tội mà có do tội phạm này có tác động xấu gây ảnh hưởng
đến hoạt động đấu tranh phòng ngừa tội phạm, cũng như gây khó khăn cho
hoạt động tư pháp trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử tội phạm.
Đối tượng tác động của tội phạm là một bộ phận của khách thể tội
phạm bị người thực hiện hành vi phạm tội tác động đến gây thiệt hại hoặc đe
doạ gây thiệt hại cho những quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ [47, tr.
94]. Đối tượng tác động của tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác
phạm tội mà có là tài sản do (người khác) phạm tội mà có. Đó có thể là bất kỳ
tội phạm nào được quy định trong Bộ luật Hình sự mà kết quả trực tiếp của nó
là chủ thể có được tài sản một cách bất hợp pháp. Nếu tài sản do người khác
phạm tội mà có là đối tượng phạm tội của tội khác thì người có hành vi chứa
14
chấp, tiêu thụ tài sản đó bị truy cứu TNHS về tội phạm tương ứng mà BLHS
quy định đối với hành vi tàng trữ, tiêu thụ các loại tài sản đó [27, tr.307]. Khi
nghiên cứu đối tượng tác động của tội phạm này cần lưu tâm đến các loại tài
sản do phạm tội mà có gồm những loại tài sản nào như đã phân tích ở phần
khái niệm trên.
Tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có xâm
phạm đến khách thể là trật tự công cộng, trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa
được pháp luật Hình sự bảo vệ. Tuy nhiên, loại tội phạm này lại được hình
thành chỉ khi có tội phạm nguồn tạo ra đối tượng tác động cho tội phạm chứa
chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có. Sở dĩ có thể khẳng
định như vậy vì bản thân điều luật 250 BLHS về tội phạm đã thể hiện, hành vi
phạm tội của tội phạm cấu thành khi chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản biết rõ là
do người khác phạm tội mà có. Tuy nhiên, vấn đề "Tội phạm nguồn" lại chưa
được đề cập đến trong các công trình nghiên cứu về tội phạm này.
Trên cơ sở nghiên cứu các quy định về tội phạm Chứa chấp hoặc tiêu
thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, tác giả đưa ra khái niệm về tội
phạm nguồn:
"Tội phạm nguồn là tội phạm tạo ra các loại tài sản từ đó có thể trở
thành đối tượng tài sản của tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác
phạm tội mà có".
Xuất phát từ tội phạm nguồn, cùng với các yếu tố cấu thành tội phạm
khác, tội phạm Chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có
mới đủ căn cứ hình thành. Như vậy, tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do
người khác phạm tội mà có là một loại tội phạm phái sinh, có thuộc tính tự
nhiên phụ thuộc vào tội phạm nguồn. Nếu không có tội phạm nguồn thì không
có tội phạm chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có.
Tội phạm nguồn là một trong những căn cứ quan trọng để xác định cấu thành
15
tội phạm tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có.
Đây cũng là căn cứ để phân biệt giữa hành vi chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản
do vi phạm pháp luật (không phải là tội phạm) mà có với tội phạm.
1.2.2. Chủ thể của tội phạm
Luật hình sự Việt Nam coi chủ thể của tội phạm là người có năng lực
trách nhiệm hình sự, đạt một độ tuổi nhất định và đã thực hiện hành vi phạm tội
[47, tr.122].
Điều 250 BLHS về tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác
phạm tội mà có gồm 04 khung hình phạt khác nhau sau: đến ba năm tù (khoản
1), đến bảy năm tù (khoản 2), đến mười năm tù (khoản 3), đến mười lăm năm
tù (khoản 4). Căn cứ quy định tại Khoản 3 Điều 8 BLHS 1999 sửa đổi 2009,
quy định về tuổi chịu TNHS tại Điều 12, người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi
chỉ có thể bị truy cứu TNHS khi thực hiện hành vi thuộc một trong các tình
tiết định khung tại Khoản 3 và Khoản 4 Điều 250 BLHS là trường hợp phạm
tội rất nghiêm trọng do cố ý. Người từ đủ 16 tuổi trở lên có thể bị truy cứu
TNHS về tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có
theo quy định của các khung từ Khoản 1 đến Khoản 4 Điều 250 BLHS 1999.
1.2.3. Mặt khách quan của tội phạm
Theo khoa học luật hình sự, mặt khách quan của tội phạm là tổng hợp
những biểu hiện của tội phạm ra bên ngoài thế giới khách quan. Mặt khách
quan của tội phạm bao gồm các dấu hiệu có ý nghĩa pháp lý là: hành vi nguy
hiểm cho xã hội; hậu quả nguy hiểm cho xã hội; mối quan hệ nhân quả giữa
hành vi phạm tội và hậu quả phạm tội; các dấu hiệu không bắt buộc (thủ đoạn,
phương tiện, thời gian, địa điểm, hoàn cảnh phạm tội) [6, tr.365-366].
Đối với tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà
có, hành vi khách quan của tội phạm được thể hiện là hành vi "chứa chấp"
hoặc "tiêu thụ" tài sản do người khác thực hiện các hành vi phạm tội khác mà
16
có như trộm cắp tài sản, cướp tài sản, cướp giật tài sản,... Thế nào là hành vi
chứa chấp hoặc hành vi tiêu thụ tài sản tại Điều 250 BLHS 1999 không liệt kê
rõ. Tại Khoản 1, Khoản 2 Điều 2 Thông tư số 09/2011 đưa ra quy định về hai
hành vi được đề cập trong cấu thành tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do
người khác phạm tội mà có:
Chứa chấp tài sản là một trong các hành vi sau đây: cất giữ,
che giấu, bảo quản tài sản; cho để nhờ, cho thuê địa điểm để cất
giữ, che dấu, bảo quản tài sản đó và tiêu thụ tài sản là một trong các
hành vi sau đây: mua, bán, thuê, cho thuê, trao đổi, cầm cố, thế
chấp, đặt cọc, ký gửi, cho, tặng, nhận tài sản hoặc giúp cho việc
thực hiện các hành vi đó.
Tuy nhiên, hành vi chứa chấp hoặc tiêu thụ chỉ thuộc hành vi khách
quan của tội phạm khi người thực hiện hành vi chứa chấp hoặc tiêu thụ nhận
tài sản từ người phạm tội và biết đó là tài sản do phạm tội mà có, có thể nói,
hành vi chứa chấp hoặc tiêu thụ không có tác động đến việc thực hiện tội
phạm của người có tài sản do phạm tội mà có. Người có tài sản do phạm tội
mà có là tội phạm nguồn của tội phạm Chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do
người khác phạm tội mà có. Việc thực hiện hành vi khách quan chứa chấp
hoặc tiêu thụ tài sản không nằm trong mối quan hệ nhân quả với tội phạm có
tài sản do phạm tội mà có [22, tr.42]. Trường hợp người thực hiện hành vi
chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản nhưng không nhận tài sản từ người phạm tội
(tội phạm nguồn) thì hành vi của họ không phạm tội tại Điều 250 BLHS mà
có thể phạm tội khác được quy định trong BLHS.
Hành vi chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có
phải là hành vi được tiến hành không có sự hứa hẹn trước với người phạm tội
có được tài sản. Đây là điểm khác so với hành vi giúp sức trong đồng phạm.
Hành vi chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản mà có sự hứa hẹn trước với người có
17
tài sản do phạm tội là hành vi có tác động trực tiếp đến việc thực hiện tội
phạm của người có tài sản do phạm tội mà có và bị coi là hành vi giúp sức
trong đồng phạm.
Hành vi chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản là hành vi khách quan của tội
phạm Chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có chỉ khi
hành vi đó là trái pháp luật, hay nói cách khác, chỉ hành vi được quy định
trong Bộ luật Hình sự mới có thể là tội phạm. Điều này cũng có nghĩa là cấm
áp dụng nguyên tắc tương tự. Trường hợp người mua tài sản do phạm tội mà
có trong trường hợp nhà nước phát mại, bán đấu giá để sung công quỹ do
không tìm được chủ sở hữu hoặc người có quyền bảo quản tài sản thì đó là
hành vi hợp pháp, không phạm vào tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do
người khác phạm tội mà có [62].
Cần lưu ý, tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội
mà có được quy định tại Điều 250 BLHS 1999 sửa đổi 2009 có quy định hai
hành vi khách quan trong một cấu thành tội phạm "chứa chấp", "tiêu thụ". Do
đó, người phạm tội thực hiện hành vi khách quan chứa chấp hoặc tiêu thụ tài
sản thì chỉ bị truy cứu TNHS về một hành vi mình phạm phải "tội chứa chấp
tài sản do người khác phạm tội mà có" hoặc "tội tiêu thụ tài sản do người
khác phạm tội mà có". Nếu người phạm tội thực hiện cả hai hành vi được
Điều 250 BLHS quy định thì sẽ bị truy cứu TNHS về cả hai hành vi đó [1,
tr.12-13].
Hậu quả của tội phạm chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác
phạm tội mà có:
Hậu quả nguy hiểm cho xã hội của tội phạm là thiệt hại do hành vi
phạm tội gây ra cho các quan hệ xã hội là khách thể được bảo vệ bởi luật hình
sự [47, tr.110]. Về nguyên tắc, chỉ những hậu quả mang tính xác định được
mới được quy định trong cấu thành tội phạm. Tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài
18
sản do người khác phạm tội mà có do mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành
vi nên được luật Hình sự quy định là tội phạm có cấu thành hình thức. Hậu
quả không phải là dấu hiệu bắt buộc. Việc người phạm tội thực hiện hành vi
chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có không căn cứ
vào hậu quả của tội phạm, tội phạm đã được coi là hoàn thành. Tuy nhiên,
hậu quả nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội cũng là cơ sở để đánh giá
tính nguy hiểm cho xã hội về mặt chính trị- xã hội. Tội phạm chứa chấp hoặc
tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có gây ra những hậu quả xấu đối
với trật tự công cộng, trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa. Nó không những gây
khó khăn, ảnh hưởng đến hoạt động điều tra, xử lý các tội phạm xâm hại sở
hữu mà còn gián tiếp khuyến khích một số tội phạm chiếm đoạt tài sản gây
ảnh hưởng đến trật tự trị an xã hội.
1.2.4. Mặt chủ quan của tội phạm
Mặt chủ quan của tội phạm là mặt bên trong của tội phạm bao gồm: lỗi,
động cơ, mục đích [47, tr.134]. Trong mọi cấu thành tội phạm, dấu hiệu lỗi
luôn được phản ánh thể hiện mặt chủ quan của tội phạm; dấu hiệu động cơ,
mục đích phạm tội tuỳ từng cấu thành tội phạm cụ thể được thể hiện với ý
nghĩa pháp lý hình sự nhất định.
"Lỗi là thái độ tâm lý của con người đối với hành vi nguy hiểm cho xã
hội của mình và đối với hậu quả do hành vi đó gây ra được biểu hiện dưới
hình thức cố ý hoặc vô ý" [47, tr.136]. Đối với tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài
sản do người khác phạm tội mà có, hình thức lỗi thuộc mặt chủ quan của
người phạm tội là lỗi cố ý. Ở tội phạm này, người phạm tội biết rõ tài sản
mình chứa chấp hoặc tiêu thụ là do người khác phạm tội mà có, tức là, người
phạm tội nhận thức rõ hành vi chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản đó của mình là
hành vi nguy hiểm cho xã hội, thấy được hậu quả của hành vi mình thực hiện
xâm phạm đến trật tự công cộng, trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa. Trong ý
thức chủ quan của người phạm tội, nếu họ mong muốn hậu quả xảy ra thì đó
19
là lỗi cố ý trực tiếp; nếu họ tuy không mong muốn hậu quả xảy ra nhưng vẫn
có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra là lỗi cố ý gián tiếp. Tuy nhiên, để xác
định họ có biết rõ hay không phải dựa vào các tình tiết khách quan mà
đặc biệt là nhân thân và mối quan hệ giữa họ với người có tài sản do
phạm tội mà có; việc giao dịch giữa người chứa chấp, tiêu thụ với người
có tài sản [27, tr.311]. Theo hướng dẫn tại Khoản 2 Điều 1 Thông tư số
09/2011 thì biết rõ tài sản là do người khác phạm tội mà có “là có căn cứ
chứng minh biết được tài sản có được trực tiếp từ người thực hiện hành vi
phạm tội hoặc có được từ việc mua bán, đổi chác bằng tài sản có được trực
tiếp từ người thực hiện hành vi phạm tội”.
Động cơ phạm tội được hiểu là động lực bên trong thúc đẩy quyết tâm
của người phạm tội thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị luật hình sự
cấm [6, tr.381]. Động cơ phạm tội đối với tội phạm chứa chấp hoặc tiêu thụ
tài sản do người khác phạm tội mà có không phải là dấu hiệu bắt buộc trong
cấu thành tội phạm. Tuy nhiên, khi phân tích các dấu hiệu của tội phạm này
có thể thấy động cơ phạm tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác
phạm tội mà có xuất phát từ việc tư lợi, do ham muốn những lợi ích có được
từ hoạt động phi pháp, hoặc do cả nể. Việc xác định động cơ phạm tội có ý
nghĩa trong việc đánh giá mức độ, tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi
nhằm phân hoá TNHS được rõ hơn.
Mục đích phạm tội là kết quả mà người phạm tội mong muốn đạt được
trong tương lai bằng việc thực hiện hành vi phạm tội [6, tr.382]. Mục đích của
tội phạm hình thành trong ý chí chủ quan của người phạm tội trước khi bắt đầu
thực hiện tội phạm. Mục đích phạm tội khác với hậu quả của tội phạm. Hậu
quả của tội phạm nằm trong mặt khách quan của tội phạm có liên hệ với mục
đích của tội phạm trong một thể thống nhất giữa mặt khách quan và mặt chủ
quan của tội phạm [47, tr.154]. Đối với tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do
20
người khác phạm tội mà có, mục đích của chủ thể phạm tội là mong muốn có
được những lợi ích nhất định bằng hành vi bất chính. Do đó, dù người phạm tội
biết rõ hành vi của mình gây ảnh hưởng xấu cho xã hội, xâm phạm đến trật tự
công cộng, trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa nhưng vì mục đích hưởng lợi của
bản thân, chủ thể vẫn cố ý thực hiện tội phạm. Mục đích của tội phạm không
phải dấu hiệu bắt buộc được quy định trong cấu thành tội chứa chấp hoặc tiêu
thụ tài sản do người khác phạm tội mà có nhưng nó cũng có ý nghĩa trong việc
xem xét vấn đề TNHS, đảm bảo việc cá thể hoá và phân hoá TNHS một cách
chính xác.
Trong cấu thành tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác
phạm tội mà có, mặt chủ quan của tội phạm thể hiện rõ nhất ở quy định về lỗi
cố ý được thể hiện trong cấu thành tội phạm. Các dấu hiệu về động cơ, mục
đích phạm tội không phải dấu hiệu bắt buộc của tội phạm. Tuy nhiên, tất cả
các dấu hiệu vẫn có mối liên hệ, tương tác lẫn nhau phản ảnh tính nguy hiểm
cho xã hội của tội phạm. Nghiên cứu các dấu hiệu này giúp cho việc xác định
tội phạm chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có được
chính xác hơn, tránh việc quy tội khách quan đối với tội phạm và đảm bảo
tính phân hoá TNHS được cụ thể hơn.
1.3. Vài nét lịch sử lập pháp hình sự của Việt Nam đối với tội chứa
chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có
Lịch sử lập pháp hình sự các quy định về tội Chứa chấp hoặc tiêu thụ tài
sản do người khác phạm tội mà có do đã bị thất lạc nhiều nên chưa thể khẳng
định chính xác sự ra đời của các quy định về tội phạm này. Tuy nhiên, nghiên
cứu tiến trình lập pháp hình sự từ thời kỳ pháp luật phong kiến đến nay, với các
tên gọi khác nhau được đưa ra, tội Chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người
khác phạm tội mà có có thể nói đã được quy định từ rất sớm. Có thể thấy, lịch
sử quá trình hình thành tư tưởng lập pháp, các triết lý hình sự từ xưa đã xác
21
định tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm này, sự cần thiết có các quy định
về tội phạm. Chính sách hình sự từ thời kỳ phong kiến đến nay, các quy định
về tội phạm này đều được pháp luật hình sự đề cập và ghi nhận xuyên suốt
trong lịch sử. Vì vậy, tội Chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm
tội mà có đã đi vào theo suốt quan điểm lập pháp hình sự của pháp luật nước ta.
1.3.1. Pháp luật thời kỳ phong kiến đến trước Cách mạng tháng Tám
năm 1945
Từ thời kỳ pháp luật phong kiến, lưu hành trong hai bộ Hình luật cổ
được đánh giá là "hai bộ luật tổng hợp có quy mô lớn và nội dung phong phú"
[24, tr.3] là Quốc Triều Hình luật, hay còn gọi là Bộ luật Hồng Đức năm 1483
và Hoàng Việt Luật lệ, hay còn gọi là Bộ luật Gia Long năm 1812, quy định về
tội Chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có đều đã được
đề cập dưới các góc độ khác nhau.
Trong Quốc Triều Hình luật, tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người
khác phạm tội mà có chưa được quy định trong điều luật riêng. Tuy nhiên, bản
hình thư này có mô tả hành vi phạm tội này tại nhiều điều luật. Dẫn chiếu Điều
429 Quốc Triều Hình luật quy định: "Giữa ban ngày ăn cắp vặt cũng xử tội đồ,
đã lấy được của thì phải bồi thường một phần tang vật. Những kẻ chứa chấp thì
đều bị tội nhẹ hơn một bậc và bắt bồi thường một phần ba tang vật. Kẻ biết việc
mà không cáo giác bị tội nhẹ hơn hai bậc" [54, tr.159]. Theo quy định này, nhà
làm luật đánh giá mức độ nguy hiểm của hành vi chứa chấp tài sản do người
khác phạm tội mà có so với hành vi ăn cắp vặt và hành vi không cáo giác
(không tố giác tội phạm). Theo đó, hành vi chứa chấp tài sản do người khác
phạm tội mà có được đánh giá có tính nguy hiểm cho xã hội ít hơn so với tội
phạm có hành vi ăn cắp vặt (bị tội nhẹ hơn một bậc và bắt bồi thường một
phần ba tang vật); so sánh với hành vi không cáo giác (không tố giác tội
phạm) thì hành vi chứa chấp lại được đánh giá có tính nguy hiểm cao hơn
22
(không cáo giác bị tội nhẹ hơn hai bậc).
Điều 456 Quốc Triều Hình luật quy định: "... Nếu chủ giấu giếm nhận của
ăn trộm, ăn cướp thì phải đồng tội. Đã báo quan mà sau lại bao dung những đày
tớ ăn cướp, ăn trộm ấy thì xử như tội biết việc mà không trình" [54, tr.165].
Theo đó, hành vi giấu giếm nhận của có thể hiểu tương đương hành vi chứa
chấp tài sản do người khác phạm tội mà có. Quốc Triều Hình luật quy định
hành vi này của người chủ sẽ bị coi là đồng phạm với người đày tớ về tội
trộm cắp tài sản hoặc tội cướp tài sản.
Điều 460 Quốc Triều Hình luật quy định:
Những kẻ nhận tài vật của kẻ ăn trộm, thay đổi hình dạng rồi
đem bán, thì xử nhẹ hơn tội ăn trộm một bậc. Nếu vì nhầm mà nhận
những đồ vật ấy, thì chỉ phạt 60 trượng, biếm, biếm hai tư. Nếu
không biết mà mua phải đồ vật ấy, thì truy số tiền mua ở người bán
mà trả cho; còn đồ vật thì phải trả lại chủ mất [54, tr.166].
Theo quy định tại điều luật, hành vi tiêu thụ tài sản do trộm cắp mà có
được các nhà Hình luật đánh giá có mức độ nguy hiểm cho xã hội ít hơn hành
vi trộm cắp (xử nhẹ hơn tội ăn trộm một bậc) [22, tr.16]. Ngoài ra, các nhà
Hình luật còn quy định rõ với hành vi chứa chấp đồ vật do phạm tội mà có
nhưng do nhầm lẫn thì phạt mức 60 trượng, biếm, biếm hai tư; còn việc mua
phải tài sản do trộm cắp mà có nhưng ngay tình được đánh giá không phải tội
phạm, người mua được lấy lại số tiền đã mua từ người bán còn đồ vật thì phải
trả lại cho người mất. Quy định này đã thể hiện một trình độ lập pháp cao của
các nhà làm luật thời bấy giờ.
Ngay từ chế độ phong kiến, tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do
người khác phạm tội mà có đã được ghi nhận, đánh giá tính chất, mức độ
nguy hiểm cho xã hội với các mức phạt nghiêm khắc tương đương.
Trong Hoàng Việt Luật lệ, tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người
23
khác phạm tội mà có cũng đã được đề cập. Điều 7, quyển thứ 13 Hoàng Việt
Luật lệ ghi nhận tội phạm này với tên gọi đạo tặc oa trữ:
Phàm có thâm ý trộm bạo, chứa đồ gian, dù chính bản thân
không thực hiện, chỉ chia phân tang vật thì cũng xử chém. Nếu
cùng thực hiện thì không nói đến việc chia tang vật, không chia
tang vật, chỉ theo bọn mà làm cho có của tiền thì không chia thủ,
tòng đều bị chém cả. Nếu không biết việc trộm nọ, chỉ là chứa tạm
thì không buộc tội.
Nếu không cùng đi ăn trộm và cũng không chia tang vật thì
phạt 100 trượng, lưu 3000 dặm.
Về mưu kế, kẻ chứa đồ gian chưa có thâm ý lập mưu, chỉ là
cùng biết mưu kế của giặc và cùng thực hiện nhưng không chia
tang vật hay có chia tang vật nhưng không cùng thực hiện vụ trộm,
thì đều xử chém cả. Nếu không làm, không chia tang vật, thì phạt
100 trượng [22, tr.18].
Theo quy định của Hoàng Việt Luật lệ, hành vi chứa chấp tài sản do
người khác phạm tội mà có liên quan mật thiết với hành vi trộm cắp tài sản.
Nếu người phạm tội cố ý cùng thực hiện hành vi trộm cắp, chứa chấp tài sản do
trộm cắp mà có, dù chỉ là hình thức giúp sức, có phân chia tang vật là tài sản bị
chiếm đoạt thì đều bị xử chém như người có hành vi trộm cắp. Nếu cùng thực
hiện hành vi trộm cắp, chứa chấp tài sản, dù không chia tang vật cũng đều bị
xử chém. Trường hợp người chứa chấp tài sản do trộm cắp mà có, không thực
hiện hành vi trộm cắp tài sản, không được chia tang vật trộm cắp thì bị phạt
100 trượng, lưu 3000 dặm. Trường hợp người chứa chấp tài sản do phạm tội
mà có tuy chưa có ý lập mưu, biết việc phạm tội, cùng thực hiện tội phạm trộm
cắp nhưng không chia tang vật hay có chia tang vật nhưng không cùng thực
hiện tội phạm đều bị xử chém. Nếu biết việc nhưng không làm, không chia
24
tang vật thì bị phạt 100 trượng. Có thể nói, quy định này của Hoàng Việt Luật
lệ thể hiện tính răn đe, nghiêm khắc cao của pháp luật thời bấy giờ.
Ngoài ra, trong Hoàng Việt Hình luật ban hành ngày 31/7/1933, tại
Khoản 6 Điều 351, tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội
mà có cũng được mô tả như sau:
Người nào tri tình mà oa trữ một phần hay toàn phần của
trộm cướp, hoặc của lừa gạt hoặc của gì do sự phạm tội đại hình
hay trừng trị mà lấy được. Nếu xét quả của oa trữ ấy do sự phạm tội
đại hình mà lấy được, thời người oa trữ sẽ bị phạt một nửa tội danh
mà luật đã định phạt về tội đại hình ấy và về trọng hình trong tội đại
hình ấy mà người oa trữ đã tri tình. Tuy nhiên, nếu tội danh ấy là tử
hình hay khổ sai chung thân, thời người oa trữ sẽ bị phạt khổ sai từ
6 năm đến 20 năm [53, tr.108].
Theo Hoàng Việt Hình luật, tội chứa chấp tài sản do người khác phạm
tội mà có đã được cụ thể hoá hơn so với hai bộ Hình luật Quốc Triều Hình
luật và Hoàng Việt Luật lệ. Tại đây, loại tội phạm này đã được quy định
không chỉ liên quan đến tội phạm trộm cắp tài sản mà còn có liên quan đến
các tội phạm khác. Hình phạt cũng được nhà làm luật xem xét với tính chất,
mức độ nghiêm trọng của tội phạm so với tội phạm liên quan [22, tr.21].
Dù vẫn chưa đưa ra định nghĩa pháp lý cụ thể đối với tội phạm này
nhưng có thể thấy những quy định trên đã thể hiện trình độ tiến bộ đáng kể về
kỹ thuật lập pháp hình sự đối với tội phạm chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do
người khác phạm tội mà có. Như vậy, ngay từ thời kỳ phong kiến, mặc dù kỹ
thuật lập pháp còn nhiều hạn chế nhưng các quy định về tội chứa chấp hoặc
tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có đã được lồng ghép vào các điều
luật với các hình phạt tương ứng khá nghiêm khắc.
1.3.2. Tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội
25
mà có theo quy định của pháp luật hình sự Việt Nam giai đoạn từ 1945 đến
trước khi Bộ luật hình sự 1985 có hiệu lực
Giai đoạn Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, chính quyền
non trẻ nước ta thời kỳ bấy giờ phải đối mặt với nhiều thách thức. Để bảo vệ
chế độ mới, pháp luật được ban hành với các quy định nhằm bảo vệ công trình,
phương tiện quan trọng về an ninh quốc gia. Sắc lệnh số 26/SL ngày
25/02/1945 quy định về tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm
tội mà có nhằm trừng trị nghiêm khắc những kẻ phá hoại cầu cống, đường giao
thông, dây điện thoại,... Điều thứ hai: "Những kẻ oa trữ các dây điện thoại hay
dây điện tín cũng bị phạt như những kẻ ăn trộm các đồ vật ấy" [10, Điều 2].
Với quy định này, hành vi chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm
tội mà có bị coi là đồng phạm với những kẻ trộm cắp tài sản không phân biệt
người phạm tội có hứa hẹn trước hay không hứa hẹn trước [1, tr.7].
Đến giai đoạn 1970, nhằm tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, nhà
nước ban hành Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa
và Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản riêng của công dân ngày
21/10/1970, trong đó tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm
tội mà có đã được ghi nhận tại Điều khoản riêng. Cụ thể:
Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa ghi nhận tội
chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có tại Điều 17 như sau:
1. Kẻ nào biết rõ tài sản xã hội chủ nghĩa đã bị chiếm đoạt
mà chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản đó thì bị phạt tù từ 6 tháng đến 5
năm. 2. Phạm tội trong những trường hợp sau đây: a. Có tính chất
chuyên nghiệp hoặc tái phạm nguy hiểm; b. Có tổ chức; c. Chứa
chấp hoặc tiêu thụ tài sản với số lượng lớn hay là tài sản có giá trị
đặc biệt; d. Dùng tài sản chứa chấp vào việc kinh doanh, bóc lột,
đầu cơ, đút lót hoặc vào những việc phạm tội khác, thì bị phạt tù từ
26
3 năm đến 12 năm [49, Điều 17].
Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản riêng của công dân tại
Điều 13 quy định:
1. Kẻ nào biết rõ tài sản riêng của công dân bị chiếm đoạt mà
chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản đó thì bị phạt tù từ 3 tháng đến 3
năm. 2. Phạm tội trong những trường hợp sau đây: a. Có tính chất
chuyên nghiệp hoặc tái phạm nguy hiểm; b. Có tổ chức; c. Chứa
chấp hoặc tiêu thụ một số lớn tài sản, thì bị phạt tù từ 2 năm đến 10
năm [48, Điều 13].
Có thể thấy trong cả hai Pháp lệnh, tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản
do người khác phạm tội mà có đã được các nhà làm luật quy định rõ với tính
chất là tội phạm độc lập với khung hình phạt riêng. Vấn đề xác định hành vi
phạm tội còn phụ thuộc vào việc xác định rõ ý thức chủ quan của người phạm
tội. Nếu người đó không biết được là tài sản bị chiếm đoạt do hành vi phạm
tội mà có thì không cấu thành tội phạm. Khung hình phạt đối với tội chứa
chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có có sự khác nhau căn
cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội đối với
từng loại tài sản bị chiếm đoạt.
1.3.3. Tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội
mà có theo quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam giai đoạn từ 1986 đến
trước khi Bộ luật hình sự 1999 có hiệu lực
Khi nhà nước xã hội chủ nghĩa dần đi vào ổn định, đứng trước tình
trạng các văn bản quy phạm pháp luật hình sự đơn hành dẫn đến nhiều hạn
chế, thiếu tính đồng bộ. Nhằm hướng đến việc thể hiện một cách toàn diện,
đầy đủ chính sách hình sự của Đảng và Nhà nước đặt ra, Bộ luật Hình sự của
nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã được Quốc hội thông qua ngày
27/6/1985, có hiệu lực từ ngày 01/01/1986.
27
Tại đây, tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà
có được ghi nhận và quy định thành tội danh riêng tại Điều 201. Cụ thể:
1. Người nào không hứa hẹn trước mà chứa chấp, tiêu thụ
tài sản biết rõ do người khác phạm tội mà có, thì bị phạt bị phạt tù
từ sáu tháng đến năm năm. 2. Phạm tội thuộc một trong các trường
hợp sau đây thì bị phạt tù từ ba năm đến mười hai năm: a. Có tổ
chức; b. Tài sản có số lượng lớn hoặc có giá trị lớn; c. Tái phạm
nguy hiểm.
Theo quy định này, đối tượng tác động của tội chứa chấp hoặc tiêu thụ
tài sản do người khác phạm tội mà có không tách riêng là tài sản xã hội chủ
nghĩa hay tài sản riêng của công dân như hai Pháp lệnh ban hành năm 1970
mà được quy định là các tài sản nói chung. Vấn đề trách nhiệm hình sự
(TNHS) quy định bằng hai khung hình phạt cụ thể đối với tội chứa chấp hoặc
tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có thành một khung cơ bản và một
khung tăng nặng.
Bộ luật Hình sự (BLHS) 1985 còn quy định Hình phạt bổ sung đối với
tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có tại Khoản 2,
3 Điều 218. Cụ thể, người phạm tội có thể bị quản chế hoặc cấm cư trú từ một
đến năm năm; bị phạt tiền từ một nghìn đồng (1.000 đồng) đến năm mươi
nghìn đồng (50.000 đồng) và có thể bị tịch thu một phần tài sản.
Trong tiến trình hoàn thiện hệ thống luật pháp, BLHS 1985 đã được
sửa đổi, bổ sung. Trong đó, lần sửa đổi bổ sung năm 1991, tính phân hoá
trách nhiệm hình sự đối với tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác
phạm tội mà có được thể hiện một cách rõ ràng hơn. Điều 201 của BLHS
1985 được sửa đổi, bổ sung với ba khung hình phạt với một khung cơ bản và
hai khung tăng nặng với các tình tiết được bổ sung:
Điều 201. Tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác
28
phạm tội mà có.
1. Người nào không hứa hẹn trước mà chứa chấp, tiêu thụ tài
sản biết rõ là do người khác phạm tội mà có, thì bị phạt cải tạo không
giam giữ đến hai năm hoặc bị phạt tù từ ba tháng đến ba năm. 2. Phạm
tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm
đến bảy năm: a) Có tổ chức hoặc có tính chất chuyên nghiệp; b) Tài
sản, vật phạm pháp có số lượng lớn hoặc có giá trị lớn;c) Tái phạm
nguy hiểm. 3. Phạm tội trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng, thì bị
phạt tù từ năm năm đến mười lăm năm.
So với quy định trước, luật sửa đổi, bổ sung đã có mức quy định mới về
hình phạt, thể hiện tính phân hoá trách nhiệm hình sự cao hơn. Ngoài ra, cùng
với việc sửa đổi, bổ sung hình phạt chính, hình phạt bổ sung là phạt tiền được
quy định tại Điều 218 cũng thay đổi từ một nghìn đồng đến năm mươi nghìn
đồng thành từ một triệu đồng đến năm mươi triệu đồng.
Với sự kế thừa, đúc rút kinh nghiệm lập pháp từ các văn bản quy phạm
pháp luật hình sự trước, trong BLHS 1985, quy định về tội chứa chấp hoặc
tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có có sự tiến bộ trong kĩ thuật lập
pháp. Các quy định đối với tội phạm này đã được khái quát cao hơn, mang
nội hàm rộng và chính xác hơn [22, tr.29]. Ngoài ra, tính phân hoá trách
nhiệm hình sự đã được thể hiện ngay trong điều luật với các tình tiết tăng
nặng định khung cụ thể. Điều này góp phần không nhỏ cho quá trình vận
dụng và áp dụng pháp luật, tạo điều kiện cá thể hoá trách nhiệm hình sự được
rõ ràng hơn. Các hình phạt bổ sung cũng được các nhà làm luật quy định rõ
ràng, tạo cơ sở pháp lý khi áp dụng pháp luật một cách vững chắc.
1.3.4. Tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà
có theo quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam giai đoạn từ 1999 đến nay
Để phù hợp với sự phát triển của xã hội, việc kiện toàn hệ thống pháp
luật trong đó có Bộ luật Hình sự là đòi hỏi khách quan của hoạt động lập
29
pháp. Kế thừa và phát huy những quan điểm lập pháp hình sự từ những giai
đoạn trước, BLHS 1999 đã ra đời đáp ứng đòi hỏi theo yêu cầu của xã hội với
những điểm mới đáng ghi nhận. Trong đó, tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản
do người khác phạm tội mà có được quy định tại Điều 250 BLHS 1999, thuộc
chương XIX Các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng:
Điều 250. Tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác
phạm tội mà có.
1. Người nào không hứa hẹn trước mà chứa chấp, tiêu thụ tài
sản biết rõ là do người khác phạm tội mà có, thì bị phạt tiền từ năm
triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, phạt cải tạo không giam giữ
đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm. 2. Phạm tội thuộc
một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy
năm: a) Có tổ chức; b) Có tính chất chuyên nghiệp; c) Tài sản, vật
phạm pháp có giá trị lớn; d) Thu lợi bất chính lớn; đ) Tái phạm
nguy hiểm. 3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì
bị phạt tù từ năm năm đến mười năm: a) Tài sản, vật phạm pháp có
giá trị rất lớn; b) Thu lợi bất chính rất lớn. 4. Phạm tội thuộc một
trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười
lăm năm: a) Tài sản, vật phạm pháp có giá trị đặc biệt lớn;b) Thu
lợi bất chính đặc biệt lớn. 5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền
từ ba triệu đồng đến ba mươi triệu đồng, tịch thu một phần hoặc
toàn bộ tài sản hoặc một trong hai hình phạt này.
BLHS 1999 đã có những điểm mới đáng kể, đưa ra các quy định nhằm
phù hợp với bối cảnh kinh tế thị trường ngày một phát triển nhằm xác định tội
phạm chính xác, khách quan, không bỏ lọt tội phạm. So với BLHS 1985, quy
định về tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có
được sửa đổi, bổ sung những điểm sau:
30
Thứ nhất, đối với cấu thành tội phạm cơ bản, điều luật bổ sung thêm
hình phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng. Ngoài ra, hình
phạt cải tạo không giam giữ được sửa đổi nâng lên đến ba năm và nâng mức
hình phạt tù có thời hạn khởi điểm lên sáu tháng tù [22, tr.31]. Điều này cho
thấy cái nhìn khách quan của các nhà làm luật ứng dụng trong thời kỳ mới,
nâng cao tính phòng ngừa, giáo dục tội phạm.
Thứ hai, về cơ cấu điều luật tại Điều 250, ngoài hình phạt bổ sung được
quy định tách riêng tại Khoản 5, tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người
khác phạm tội mà có được cấu tạo với bốn khoản tương ứng với bốn khung
hình phạt thể hiện rõ ràng tính phân hoá trách nhiệm hình sự. Các tình tiết
định khung hình phạt cũng được các nhà làm luật quy định cụ thể. Tình tiết
"Tài sản, vật phạm pháp có số lượng lớn hoặc có giá trị lớn" được bỏ đi và
thay thế bằng tình tiết "Tài sản, vật phạm pháp có giá trị lớn, rất lớn, đặc biệt
lớn" tương ứng trong từng khung hình phạt. Bổ sung thêm tình tiết "Thu lời
bất chính lớn, rất lớn, đặc biệt lớn" tương ứng trong từng khung hình phạt.
Trong BLHS 1999, hình phạt bổ sung được quy định ngay tại một
khoản của điều luật nhấn mạnh sự răn đe, phòng ngừa tội phạm chung.
Đến giai đoạn hiện nay, sau mười sáu năm áp dụng BLHS 1999, đứng
trước thực tiễn xã hội có nhiều biến chuyển, tình hình kinh tế, bối cảnh hội
nhập thay đổi không ngừng đặt ra đòi hỏi cần tiếp tục kiện toàn, đổi mới để
pháp luật phù hợp và điều chỉnh được hết các quan hệ xã hội mới phát sinh.
Điều này dẫn đến yêu cầu việc ban hành Bộ luật Hình sự phù hợp với tình
hình mới là vấn đề tất yếu. Do đó, Bộ luật Hình sự 2015 đã ra đời. Tại đây, tội
chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có được quy định
tại Điều 323 với những sửa đổi nhằm thể hiện rõ tính răn đe, giáo dục đối với
tội phạm trong thực tiễn:
Điều 323. Tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác
31
phạm tội mà có.
1. Người nào không hứa hẹn trước mà chứa chấp, tiêu thụ tài
sản biết rõ là do người khác phạm tội mà có, thì bị phạt tiền từ
10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam
giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm. 2. Phạm tội
thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm
đến 07 năm: a) Có tổ chức; b) Có tính chất chuyên nghiệp; c) Tài
sản, vật phạm pháp trị giá từ 100.000.000 đồng đến dưới
300.000.000 đồng; d) Thu lợi bất chính từ 20.000.000 đồng đến
dưới 100.000.000 đồng; đ) Tái phạm nguy hiểm. 3. Phạm tội thuộc
một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 10
năm: a) Tài sản, vật phạm pháp trị giá từ 300.000.000 đồng đến
dưới 1.000.000.000 đồng; b) Thu lợi bất chính từ 100.000.000 đồng
đến dưới 300.000.000 đồng. 4. Phạm tội thuộc một trong các trường
hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 10 năm đến 15 năm: a) Tài sản, vật
phạm pháp trị giá 1.000.000.000 đồng trở lên; b) Thu lợi bất chính
300.000.000 đồng trở lên. 5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền
từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng hoặc tịch thu một phần
hoặc toàn bộ tài sản.
Điều 323 BLHS 2015 vẫn duy trì 5 khoản đối với tội chứa chấp hoặc
tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có với một khung cơ bản, một
khung hình phạt bổ sung và ba khung tăng nặng trách nhiệm hình sự. Tuy
nhiên, đối với mỗi khoản, BLHS 2015 đã có sự thay đổi để tăng tính răn đe,
giáo dục, phòng ngừa tội phạm, thể hiện sự phân hoá trách nhiệm hình sự cao
hơn. Cụ thể:
So với quy định của BLHS 1999, lần thay đổi này, hình phạt tiền được quy
định ở khung cơ bản đã tăng lên mức từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng.
32
Tại các khoản 2; 3; 4 Điều 323, mức hình phạt tù đã được sửa đổi nhằm
xác định rõ tính phân loại tội phạm lần lượt là "phạt tù từ 03 năm đến 07 năm"
(khoản 2)- tội phạm nghiêm trọng; "phạt tù từ 07 năm đến 10 năm" (khoản 3) và
"phạt tù từ 10 năm đến 15 năm" (khoản 4)- tội phạm rất nghiêm trọng.
Thay đổi quy định về "tài sản, vật phạm pháp có giá trị lớn, rất lớn,
đặc biệt lớn" cũng như quy định về "thu lợi bất chính lớn, rất lớn, đặc biệt
lớn" cụ thể, rõ ràng về mức độ ngay trong điều khoản bằng giá trị tài sản cũng
như trị giá thu lời bất chính cụ thể là bao nhiêu. Điều này đã khắc phục hạn
chế trong việc tra cứu, áp dụng pháp luật qua các văn bản hướng dẫn. Người
áp dụng pháp luật có căn cứ chính xác ngay trong điều luật quy định. Nó đã
góp phần kiện toàn và thống nhất quy định trong hệ thống pháp luật hơn so
với trước kia.
Đối với hình phạt bổ sung, ngoài việc tăng mức phạt tiền "từ 5.000.000
đồng đến 50.000.000 đồng", điều luật còn cụ thể hình phạt bổ sung có thể bị
áp dụng với việc sử dụng từ nối "hoặc" giữa mỗi hình phạt, bỏ quy định nửa
chừng "hoặc một trong hai hình phạt này" của luật cũ. Điều này giúp việc vận
dụng pháp luật được rõ ràng, minh bạch, chính xác hơn.
Có thể nói, quá trình ra đời và hoàn thiện các quy định về tội chứa chấp
hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có đúc kết nhiều tinh hoa từ
lịch sử lập pháp. Quy định đối với tội phạm này có sự thay đổi theo từng giai
đoạn để phù hợp với bối cảnh lịch sử, kinh tế, xã hội. Đồng thời, các quy định
về tội phạm này ngày càng hoàn thiện về kĩ thuật lập pháp, đầy đủ trong việc
mô tả hành vi phạm tội cũng như các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
1.4. Những quy định về tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do
người khác phạm tội mà có trong pháp luật Hình sự của một số nước
trên thế giới
Tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có được
33
quy định trong pháp luật Hình sự ở nhiều nước trên thế giới. Khi nghiên cứu
những quy định về tội phạm này trong pháp luật hình sự một số nước như:
Liên bang Hoa Kỳ, Đức, Nhật Bản, Vương quốc Thụy Điển, Lào, tội chứa
chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có được các nước ghi
nhận với các quy định không giống nhau trong pháp luật hình sự.
Pháp luật Hình sự Liên bang Hoa Kỳ (Mỹ) quy định tội chứa chấp hoặc
tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có tại Điều 2315, Chương 113,
Phần thứ nhất, Luật số 18 của Liên bang. Điều luật quy định tên gọi tội phạm
Tội mua bán hoặc nhận tài sản, hàng hoá, tiền do phạm tội mà có, hoặc làm
giả giấy tờ Liên bang:
Người nào nhận, chứa chấp, che giấu, tích trữ, đổi chác, bán
hoặc sử dụng bất kỳ vật, đồ vật, hoặc hàng hoá, trái phiếu, hoặc tiền
có giá trị từ 5000 đô trở lên, hoặc cầm cố hay thế chấp để bảo đảm
cho bất kỳ vật, đồ vật, hoặc hàng hoá, trái phiếu có giá trị từ 500 đô
trở lên mà là tài sản do trộm cắp, chiếm đoạt bất hợp pháp, lấy cắp
của nhà nước Hoa Kỳ, biết trước đó là do bị trộm cắp, chiếm đoạt
bất hợp pháp, lấy cắp mà có; hoặc
Người nào nhận, chứa chấp, che giấu, tích trữ, đổi chác, bán
hoặc sử dụng bất kỳ tài sản nào bị làm giả, bị giả mạo, bị thay đổi,
hoặc bị giả giấy tờ, tem thuế, hoặc cầm cố hay thế chấp để bảo đảm
cho bất kỳ tài sản nào bị làm giả, bị giả mạo, bị thay đổi, hoặc bị
giả giấy tờ, tem thuế, dịch chuyển hoặc chia thành các phần, biết
trước đó là tài sản bị làm giả, bị giả mạo, bị thay đổi; hoặc
Người nào nhận từ nơi khác, hoặc chứa chấp, che giấu, tích
trữ, đổi chác, bán hoặc sử dụng bất kỳ công cụ, phương tiện, hay
vật dụng nào được sử dụng để làm giả, giả mạo, thay đổi, hoặc giả
giấy tờ, tem thuế, hoặc bất kỳ việc nào, biết rõ là đồ được dùng để
34
làm giả, giả mạo, thay đổi, hoặc giả giấy tờ, tem thuế, hoặc việc
khác; hoặc
Người nào nhận, chứa chấp, che giấu, tích trữ, đổi chác, bán
hoặc sử dụng bất kỳ đối tượng tưởng niệm nào bị trộm cắp, chiếm
đoạt bất hợp pháp, lấy cắp của nhà nước Hoa Kỳ, biết trước đó là
tài sản do trộm cắp, chiếm đoạt bất hợp pháp, lấy cắp
Thì bị phạt tiền hoặc phạt tù đến 10 năm, hoặc cả hai. Nếu vi
phạm liên quan đến tài sản về y tế (như quy định tại điều 670) thì
hình phạt được áp dụng như quy định tại điều 670 trừ trường hợp
hình phạt theo điều này nghiêm khắc hơn. Nếu vi phạm liên quan
đến nhận, chứa chấp, che giấu, tích trữ, đổi chác, bán hoặc sử dụng
đối tượng tưởng niệm có giá trị dưới 1000 đô thì bị phạt tiền hoặc
phạt tù đến 1 năm, hoặc cả hai.
Điều này không áp dụng với bất kỳ tài sản bị làm giả, bị giả
mạo, bị thay đổi nhằm bảo vệ quốc gia. Điều này cũng không áp
dụng với tài sản bị làm giả, bị giả mạo, bị thay đổi do pháp luật
quốc gia khác quy định.
Thuật ngữ "bang" của điều này áp dụng với các bang của Hoa
Kỳ, Colombia, bất cứ vùng lãnh thổ nào của Hoa Kỳ. Thuật ngữ đối
tượng tưởng niệm" bao gồm bia mộ, tượng đài hoặc đối tượng khác,
nhằm tôn vinh vĩnh viễn một chiến binh của dân tộc [60].
Tội phạm này được pháp luật Hình sự Mỹ quy định với các hành vi khá
cụ thể, các trường hợp nhất định bị coi là tội phạm. Hình phạt cho tội phạm
này là phạt tiền hoặc phạt tù đến 10 năm, hoặc có thể áp dụng cả hai hình
phạt. Yếu tố hứa hẹn trước hay không không phải yếu tố bắt buộc theo quy
định này. Ngoài ra, yếu tố lỗi cố ý như pháp luật Hình sự Việt Nam cũng
được các nhà làm luật Mỹ quy định. Tuy nhiên, pháp luật Hình sự Việt Nam
35
không quy định về giá trị tài sản bị chiếm đoạt do phạm tội nhưng pháp luật
Hình sự Liên bang Hoa Kỳ lại ghi nhận rõ ràng. Điều này là vấn đề các nhà
lập pháp nước ta cần quan tâm, nghiên cứu.
Luật Hình sự Đức cũng có quy định về tội phạm chứa chấp hoặc tiêu
thụ tài sản do phạm tội mà có, cụ thể:
Điều 259 Luật Hình sự Đức:
(1)Người nào mua, bán hoặc giúp bán vật bị đánh cắp hoặc bị
chiếm đoạt bằng hành vi bất hợp pháp để có lợi cho bản thân hoặc
bên thứ ba thì bị phạt tù đến 5 năm hoặc bị phạt tiền.(2)Điều 247 và
248a có hiệu lực tương tự. (3)Việc cố gắng thực hiện hành vi trong
khoản 1 cũng bị coi là có tội [61].
Từ việc pháp luật Hình sự Đức quy định về hành vi phạm tội này tại
Điều 259 Luật Hình sự, Luật Dân sự Đức tại Điều 935 cũng không công nhận
việc sở hữu tài sản bất hợp pháp. Hình phạt của tội này là phạt tù đến 5 năm
hoặc bị phạt tiền. Hành vi phạm tội là hành vi mua, bán hoặc giúp bán vật bị
đánh cắp hoặc bị chiếm đoạt bằng hành vi bất hợp pháp để có lợi cho bản thân
hoặc bên thứ ba. Theo Luật Hình sự Đức, hành vi phạm tội được quy định
cũng không cần yếu tố có hứa hẹn trước với người có tài sản hay không.
Ngoài ra, pháp luật Hình sự Đức chỉ cần xác định đó là tài sản bị chiếm đoạt
bằng hành vi bất hợp pháp mà có chứ chưa cần là do người khác phạm tội như
theo Luật Hình sự Việt Nam.
Pháp luật hình sự Nhật Bản quy định về các tội liên quan đến tài sản có
được do phạm tội tại chương XXXIX. Trong đó, tội chứa chấp hoặc tiêu thụ
tài sản do người khác phạm tội mà có được Bộ luật Hình sự ghi nhận với tên
gọi Tội nhận, mua bán tài sản do phạm tội mà có theo Điều 256 BLHS Nhật
Bản. Cụ thể quy định như sau:
1. Người nào nhận tài sản có được do phạm các tội về tài sản
36
thì bị phạt tù có lao động bắt buộc đến 3 năm. 2. Người nào vận
chuyển, nhận đặt cọc, mua bán hoặc hành động với tư cách là người
môi giới cho những hoạt động bằng tài sản có được do phạm các tội
về tài sản thì bị phạt tù có lao động bắt buộc đến 10 năm hoặc bị
phạt tiền đến 500.000 yên [15, tr.69].
Tội phạm này còn được quy định đối với những người thân thích thì áp
dụng tại Điều 257 quy định về Tội nhận, mua bán tài sản do phạm tội mà có
giữa những người thân với nhau:
1. Người nào thực hiện tội phạm quy định tại Điều 256 trên đây
thì được miễn hình phạt, nếu tội phạm xảy ra giữa những người thân
thích cùng dòng máu trực hệ, giữa vợ chồng hoặc giữa những người
thân thích cùng chung sống trong gia đình và vợ hoặc chồng của
những người đó. 2. Các quy định của khoản 1 trên đây không áp dụng
đối với những người đồng phạm là người không thân thích [15, tr.70].
Trong pháp luật hình sự Nhật Bản, tội phạm này được ghi nhận tại
hai điều luật. Hành vi phạm tội là hành vi nhận tài sản, vận chuyển, nhận
đặt cọc, mua bán hoặc hành động với tư cách là người môi giới cho những
hoạt động bằng tài sản có được do phạm các tội về tài sản thì bị truy cứu về
tội nhận, mua bán tài sản do phạm tội mà có. So với Luật hình sự Việt
Nam, nội hàm trong pháp luật hình sự Nhật Bản rộng hơn, bao quát hơn
[40, tr.6]. Hình phạt được đặt ra đối với tội phạm này là phạt tù có lao động
bắt buộc đến 10 năm hoặc phạt tiền đến 500.000 yên. Hành vi phạm tội cấu
thành tội phạm không cần yếu tố không hứa hẹn trước với người có tài sản.
Ngoài ra, đối với người thân thích cùng dòng máu trực hệ, giữa vợ chồng
hoặc giữa những người thân thích cùng chung sống trong gia đình và vợ
hoặc chồng của những người đó thì theo quy định của pháp luật Hình sự
Nhật Bản vẫn bị truy cứu TNHS nhưng sẽ được miễn hình phạt.
37
BLHS Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào lại có quy định với tên gọi tội
danh khác và mức chế tài khác nhau tại hai điều luật. Cụ thể:
Tại Chương IV. Các tội xâm phạm quyền sở hữu tập thể của Nhà nước
hoặc sở hữu tập thể, Điều 107 BLHS Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào quy định
Tội tàng trữ, mua bán tài sản của Nhà nước hoặc của tập thể bị chiếm đoạt:
Người nào biết rõ tài sản của Nhà nước hoặc của tập thể bị
chiếm đoạt do cướp, trộm cắp, lừa đảo, tham ô hoặc bằng các hành
vi trái pháp luật khác mà cất giữ, mua bán, thì bị phạt tước quyền tự
do từ ba tháng đến hai năm.
Trường hợp phạm tội có tính chất chuyên nghiệp, có tổ chức
thành băng hoặc trường hợp gây thiệt hại lớn thì bị phạt tước quyền
tự do từ một năm đến năm năm [39, tr.33-34].
Tại Chương V. Các tội xâm phạm quyền sở hữu của công dân, Điều
115. Tội cất giữ, mua bán tài sản của công dân bị chiếm đoạt quy định:
Người nào biết rõ tài sản của người khác bị chiếm đoạt bằng
cách cướp, cướp giật, trộm cắp, lừa đảo, lợi dụng tín nhiệm hoặc
bằng các phương pháp khác mà vẫn lấy, mua, cất giữ hoặc mang đi
bán thì bị phạt tước quyền tự do từ ba tháng đến một năm.
Trường hợp phạm tội có tính chất chuyên nghiệp, có tổ chức
thành băng hoặc trường hợp gây thiệt hại lớn thì bị phạt tước quyền
tự do từ một năm đến năm năm [39, tr.36].
Quy định về tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội
mà có trong pháp luật hình sự Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào cũng có sự
khác biệt với pháp luật Hình sự Việt Nam, BLHS nước Cộng hoà dân chủ
nhân dân Lào cũng không quy định yếu tố người phạm tội có hứa hẹn trước
với người có tài sản hay không mà chỉ cần người có hành vi phạm tội biết rõ
tài sản đó là tài sản của Nhà nước hoặc của tập thể bị chiếm đoạt do cướp,
Tội chứa chấp tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, HOT
Tội chứa chấp tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, HOT
Tội chứa chấp tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, HOT
Tội chứa chấp tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, HOT
Tội chứa chấp tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, HOT
Tội chứa chấp tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, HOT
Tội chứa chấp tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, HOT
Tội chứa chấp tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, HOT
Tội chứa chấp tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, HOT
Tội chứa chấp tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, HOT
Tội chứa chấp tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, HOT
Tội chứa chấp tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, HOT
Tội chứa chấp tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, HOT
Tội chứa chấp tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, HOT
Tội chứa chấp tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, HOT
Tội chứa chấp tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, HOT
Tội chứa chấp tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, HOT
Tội chứa chấp tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, HOT
Tội chứa chấp tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, HOT
Tội chứa chấp tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, HOT
Tội chứa chấp tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, HOT
Tội chứa chấp tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, HOT
Tội chứa chấp tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, HOT
Tội chứa chấp tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, HOT
Tội chứa chấp tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, HOT
Tội chứa chấp tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, HOT
Tội chứa chấp tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, HOT
Tội chứa chấp tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, HOT
Tội chứa chấp tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, HOT
Tội chứa chấp tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, HOT
Tội chứa chấp tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, HOT
Tội chứa chấp tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, HOT
Tội chứa chấp tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, HOT
Tội chứa chấp tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, HOT
Tội chứa chấp tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, HOT
Tội chứa chấp tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, HOT
Tội chứa chấp tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, HOT
Tội chứa chấp tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, HOT
Tội chứa chấp tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, HOT
Tội chứa chấp tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, HOT
Tội chứa chấp tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, HOT
Tội chứa chấp tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, HOT
Tội chứa chấp tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, HOT
Tội chứa chấp tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, HOT
Tội chứa chấp tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, HOT
Tội chứa chấp tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, HOT
Tội chứa chấp tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, HOT
Tội chứa chấp tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, HOT
Tội chứa chấp tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, HOT
Tội chứa chấp tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, HOT
Tội chứa chấp tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, HOT
Tội chứa chấp tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, HOT
Tội chứa chấp tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, HOT
Tội chứa chấp tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, HOT
Tội chứa chấp tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, HOT
Tội chứa chấp tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, HOT
Tội chứa chấp tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, HOT
Tội chứa chấp tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, HOT
Tội chứa chấp tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, HOT
Tội chứa chấp tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, HOT
Tội chứa chấp tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, HOT
Tội chứa chấp tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, HOT
Tội chứa chấp tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, HOT
Tội chứa chấp tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, HOT
Tội chứa chấp tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, HOT
Tội chứa chấp tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, HOT
Tội chứa chấp tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, HOT
Tội chứa chấp tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, HOT
Tội chứa chấp tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, HOT
Tội chứa chấp tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, HOT
Tội chứa chấp tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, HOT
Tội chứa chấp tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, HOT
Tội chứa chấp tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, HOT
Tội chứa chấp tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, HOT
Tội chứa chấp tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, HOT
Tội chứa chấp tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, HOT
Tội chứa chấp tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, HOT
Tội chứa chấp tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, HOT
Tội chứa chấp tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, HOT
Tội chứa chấp tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, HOT
Tội chứa chấp tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, HOT
Tội chứa chấp tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, HOT
Tội chứa chấp tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, HOT
Tội chứa chấp tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, HOT
Tội chứa chấp tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, HOT

More Related Content

What's hot

What's hot (17)

Luận văn: Định tội danh đối với tội cướp tài sản theo luâṭ, HOT
Luận văn: Định tội danh đối với tội cướp tài sản theo luâṭ, HOTLuận văn: Định tội danh đối với tội cướp tài sản theo luâṭ, HOT
Luận văn: Định tội danh đối với tội cướp tài sản theo luâṭ, HOT
 
Luận văn: Tội tham ô tài sản trong luật hình sự Việt Nam, HAY
Luận văn: Tội tham ô tài sản trong luật hình sự Việt Nam, HAYLuận văn: Tội tham ô tài sản trong luật hình sự Việt Nam, HAY
Luận văn: Tội tham ô tài sản trong luật hình sự Việt Nam, HAY
 
Đề tài: Bảo vệ quyền con người bằng quy phạm về biện pháp tha miễn
Đề tài: Bảo vệ quyền con người bằng quy phạm về biện pháp tha miễnĐề tài: Bảo vệ quyền con người bằng quy phạm về biện pháp tha miễn
Đề tài: Bảo vệ quyền con người bằng quy phạm về biện pháp tha miễn
 
Luận văn: Tội phá rối an ninh trong Luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội phá rối an ninh trong Luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Tội phá rối an ninh trong Luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội phá rối an ninh trong Luật hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Tội trộm cắp tài sản theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội trộm cắp tài sản theo luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Tội trộm cắp tài sản theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội trộm cắp tài sản theo luật hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Tội vu khống trong luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội vu khống trong luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Tội vu khống trong luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội vu khống trong luật hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Định tội danh tội trộm cắp tài sản theo luật hình sự, 9đ
Luận văn: Định tội danh tội trộm cắp tài sản theo luật hình sự, 9đLuận văn: Định tội danh tội trộm cắp tài sản theo luật hình sự, 9đ
Luận văn: Định tội danh tội trộm cắp tài sản theo luật hình sự, 9đ
 
Địa vị pháp lý của Luật sư trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự - Gửi miễn ...
Địa vị pháp lý của Luật sư trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự - Gửi miễn ...Địa vị pháp lý của Luật sư trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự - Gửi miễn ...
Địa vị pháp lý của Luật sư trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự - Gửi miễn ...
 
Luận văn: Phòng ngừa các tội xâm phạm sở hữu tại Tp Hà Nội
Luận văn: Phòng ngừa các tội xâm phạm sở hữu tại Tp Hà NộiLuận văn: Phòng ngừa các tội xâm phạm sở hữu tại Tp Hà Nội
Luận văn: Phòng ngừa các tội xâm phạm sở hữu tại Tp Hà Nội
 
Luận văn: Năng lực hành vi dân sự của cá nhân theo pháp luật, HOT
Luận văn: Năng lực hành vi dân sự của cá nhân theo pháp luật, HOTLuận văn: Năng lực hành vi dân sự của cá nhân theo pháp luật, HOT
Luận văn: Năng lực hành vi dân sự của cá nhân theo pháp luật, HOT
 
Luận văn: Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo pháp luật
Luận văn: Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo pháp luậtLuận văn: Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo pháp luật
Luận văn: Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo pháp luật
 
Tội xâm phạm sở hữu không có tính chất chiếm đoạt tài sản, HOT
Tội xâm phạm sở hữu không có tính chất chiếm đoạt tài sản, HOTTội xâm phạm sở hữu không có tính chất chiếm đoạt tài sản, HOT
Tội xâm phạm sở hữu không có tính chất chiếm đoạt tài sản, HOT
 
Luận văn: Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong thi hành công vụ
Luận văn: Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong thi hành công vụLuận văn: Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong thi hành công vụ
Luận văn: Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong thi hành công vụ
 
Đề tài: Tội xâm phạm sở hữu không có tính chiếm đoạt, HAY
Đề tài: Tội xâm phạm sở hữu không có tính chiếm đoạt, HAYĐề tài: Tội xâm phạm sở hữu không có tính chiếm đoạt, HAY
Đề tài: Tội xâm phạm sở hữu không có tính chiếm đoạt, HAY
 
Đề tài: Trách nhiệm hình sự đối với tội không tố giác tội phạm
Đề tài: Trách nhiệm hình sự đối với tội không tố giác tội phạmĐề tài: Trách nhiệm hình sự đối với tội không tố giác tội phạm
Đề tài: Trách nhiệm hình sự đối với tội không tố giác tội phạm
 
Luận văn: Tội hành hạ người khác trong Luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội hành hạ người khác trong Luật hình sự Việt NamLuận văn: Tội hành hạ người khác trong Luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội hành hạ người khác trong Luật hình sự Việt Nam
 
Đề tài: Tổng hợp hình phạt trong các trường hợp đặc biệt, HOT
Đề tài: Tổng hợp hình phạt trong các trường hợp đặc biệt, HOTĐề tài: Tổng hợp hình phạt trong các trường hợp đặc biệt, HOT
Đề tài: Tổng hợp hình phạt trong các trường hợp đặc biệt, HOT
 

Similar to Tội chứa chấp tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, HOT

Similar to Tội chứa chấp tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, HOT (20)

Luận văn: Tội cướp giật tài sản theo Luật Hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội cướp giật tài sản theo Luật Hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Tội cướp giật tài sản theo Luật Hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội cướp giật tài sản theo Luật Hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận án: Tội cướp giật tài sản theo Luật Hình sự Việt Nam, HAY
Luận án: Tội cướp giật tài sản theo Luật Hình sự Việt Nam, HAYLuận án: Tội cướp giật tài sản theo Luật Hình sự Việt Nam, HAY
Luận án: Tội cướp giật tài sản theo Luật Hình sự Việt Nam, HAY
 
Luận văn: Tội cướp giật tài sản theo Luật Hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội cướp giật tài sản theo Luật Hình sự Việt NamLuận văn: Tội cướp giật tài sản theo Luật Hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội cướp giật tài sản theo Luật Hình sự Việt Nam
 
Định tội danh đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản ở Hà Nội, 9đ
Định tội danh đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản ở Hà Nội, 9đĐịnh tội danh đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản ở Hà Nội, 9đ
Định tội danh đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản ở Hà Nội, 9đ
 
Luận văn: Pháp luật tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, HOT, HAY
Luận văn: Pháp luật tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, HOT, HAYLuận văn: Pháp luật tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, HOT, HAY
Luận văn: Pháp luật tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, HOT, HAY
 
Định tội danh đối với tội tàng trữ mua bán trái phép chất ma túy, HOT
Định tội danh đối với tội tàng trữ mua bán trái phép chất ma túy, HOTĐịnh tội danh đối với tội tàng trữ mua bán trái phép chất ma túy, HOT
Định tội danh đối với tội tàng trữ mua bán trái phép chất ma túy, HOT
 
Luận văn: Tội cướp tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội cướp tài sản theo pháp luật hình sự Việt NamLuận văn: Tội cướp tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội cướp tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam
 
Luận văn: Tội đánh bạc theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội đánh bạc theo luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Tội đánh bạc theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội đánh bạc theo luật hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Tội che giấu tội phạm trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Tội che giấu tội phạm trong luật hình sự, HOTLuận văn: Tội che giấu tội phạm trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Tội che giấu tội phạm trong luật hình sự, HOT
 
Luận văn: Tội che giấu tội phạm trong luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội che giấu tội phạm trong luật hình sự Việt NamLuận văn: Tội che giấu tội phạm trong luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội che giấu tội phạm trong luật hình sự Việt Nam
 
Tội tham ô tài sản trong Luật hình sự VN.doc
Tội tham ô tài sản trong Luật hình sự VN.docTội tham ô tài sản trong Luật hình sự VN.doc
Tội tham ô tài sản trong Luật hình sự VN.doc
 
Luận văn: Các tội xâm phạm trật tự công cộng trong luật hình sự
Luận văn: Các tội xâm phạm trật tự công cộng trong luật hình sựLuận văn: Các tội xâm phạm trật tự công cộng trong luật hình sự
Luận văn: Các tội xâm phạm trật tự công cộng trong luật hình sự
 
Luận văn: Các tội xâm phạm trật tự công cộng trong luật hình sự
Luận văn: Các tội xâm phạm trật tự công cộng trong luật hình sựLuận văn: Các tội xâm phạm trật tự công cộng trong luật hình sự
Luận văn: Các tội xâm phạm trật tự công cộng trong luật hình sự
 
Luận văn: Quy định của bộ luật hình sự về tội rửa tiền, HOT
Luận văn: Quy định của bộ luật hình sự về tội rửa tiền, HOTLuận văn: Quy định của bộ luật hình sự về tội rửa tiền, HOT
Luận văn: Quy định của bộ luật hình sự về tội rửa tiền, HOT
 
Luận văn: Mặt khách quan của các tội xâm phạm sở hữu, HOT
Luận văn: Mặt khách quan của các tội xâm phạm sở hữu, HOTLuận văn: Mặt khách quan của các tội xâm phạm sở hữu, HOT
Luận văn: Mặt khách quan của các tội xâm phạm sở hữu, HOT
 
Luận văn: Tội cướp giật tài sản theo pháp luật tại quận 1, TPHCM
Luận văn: Tội cướp giật tài sản theo pháp luật tại quận 1, TPHCMLuận văn: Tội cướp giật tài sản theo pháp luật tại quận 1, TPHCM
Luận văn: Tội cướp giật tài sản theo pháp luật tại quận 1, TPHCM
 
Luận văn: Đồng phạm trong tội trộm cắp tài sản theo luật, HOT
Luận văn: Đồng phạm trong tội trộm cắp tài sản theo luật, HOTLuận văn: Đồng phạm trong tội trộm cắp tài sản theo luật, HOT
Luận văn: Đồng phạm trong tội trộm cắp tài sản theo luật, HOT
 
Luận văn: Đồng phạm trong tội trộm cắp tài sản theo luật hình sự
Luận văn: Đồng phạm trong tội trộm cắp tài sản theo luật hình sựLuận văn: Đồng phạm trong tội trộm cắp tài sản theo luật hình sự
Luận văn: Đồng phạm trong tội trộm cắp tài sản theo luật hình sự
 
Luận văn: Tội trộm cắp tài sản theo Pháp luật ở Bình Phước, 9đ - Gửi miễn phí...
Luận văn: Tội trộm cắp tài sản theo Pháp luật ở Bình Phước, 9đ - Gửi miễn phí...Luận văn: Tội trộm cắp tài sản theo Pháp luật ở Bình Phước, 9đ - Gửi miễn phí...
Luận văn: Tội trộm cắp tài sản theo Pháp luật ở Bình Phước, 9đ - Gửi miễn phí...
 
Tội lợi dụng chức vụ gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi
Tội lợi dụng chức vụ gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợiTội lợi dụng chức vụ gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi
Tội lợi dụng chức vụ gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620 (20)

Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 Điểm
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 ĐiểmDanh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 Điểm
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 Điểm
 
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý Tưởng
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý TưởngDanh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý Tưởng
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý Tưởng
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên GiỏiDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên Giỏi
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá GiỏiDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá GiỏiDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
 

Recently uploaded

Tử Vi Là Gì Học Luận Giải Tử Vi Và Luận Đoán Vận Hạn
Tử Vi Là Gì Học Luận Giải Tử Vi Và Luận Đoán Vận HạnTử Vi Là Gì Học Luận Giải Tử Vi Và Luận Đoán Vận Hạn
Tử Vi Là Gì Học Luận Giải Tử Vi Và Luận Đoán Vận Hạn
Kabala
 
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdfxemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
Xem Số Mệnh
 
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hànhbài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
dangdinhkien2k4
 
ĐỀ SỐ 1 Của sở giáo dục đào tạo tỉnh NA.pdf
ĐỀ SỐ 1 Của sở giáo dục đào tạo tỉnh NA.pdfĐỀ SỐ 1 Của sở giáo dục đào tạo tỉnh NA.pdf
ĐỀ SỐ 1 Của sở giáo dục đào tạo tỉnh NA.pdf
levanthu03031984
 
C.pptx. Phát hiện biên ảnh trong xử lý ảnh
C.pptx. Phát hiện biên ảnh trong xử lý ảnhC.pptx. Phát hiện biên ảnh trong xử lý ảnh
C.pptx. Phát hiện biên ảnh trong xử lý ảnh
BookoTime
 

Recently uploaded (20)

Tử Vi Là Gì Học Luận Giải Tử Vi Và Luận Đoán Vận Hạn
Tử Vi Là Gì Học Luận Giải Tử Vi Và Luận Đoán Vận HạnTử Vi Là Gì Học Luận Giải Tử Vi Và Luận Đoán Vận Hạn
Tử Vi Là Gì Học Luận Giải Tử Vi Và Luận Đoán Vận Hạn
 
PHIẾU KHẢO SÁT MỨC ĐỘ HÀI LÒNG VỀ CHẤT LƯỢNG DỊCH VỤ VẬN CHUYỂN HÀNG KHÁCH BẰ...
PHIẾU KHẢO SÁT MỨC ĐỘ HÀI LÒNG VỀ CHẤT LƯỢNG DỊCH VỤ VẬN CHUYỂN HÀNG KHÁCH BẰ...PHIẾU KHẢO SÁT MỨC ĐỘ HÀI LÒNG VỀ CHẤT LƯỢNG DỊCH VỤ VẬN CHUYỂN HÀNG KHÁCH BẰ...
PHIẾU KHẢO SÁT MỨC ĐỘ HÀI LÒNG VỀ CHẤT LƯỢNG DỊCH VỤ VẬN CHUYỂN HÀNG KHÁCH BẰ...
 
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdfxemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
 
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hànhbài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
 
các nội dung phòng chống xâm hại tình dục ở trẻ em
các nội dung phòng chống xâm hại tình dục ở trẻ emcác nội dung phòng chống xâm hại tình dục ở trẻ em
các nội dung phòng chống xâm hại tình dục ở trẻ em
 
GIỮ GÌN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ MỘT SỐ BÀI HÁT DÂN CA CÁC DÂN TỘC BẢN ĐỊA CHO HỌC...
GIỮ GÌN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ MỘT SỐ BÀI HÁT DÂN CA CÁC DÂN TỘC BẢN ĐỊA CHO HỌC...GIỮ GÌN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ MỘT SỐ BÀI HÁT DÂN CA CÁC DÂN TỘC BẢN ĐỊA CHO HỌC...
GIỮ GÌN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ MỘT SỐ BÀI HÁT DÂN CA CÁC DÂN TỘC BẢN ĐỊA CHO HỌC...
 
[123doc] - ao-dai-truyen-thong-viet-nam-va-xuong-xam-trung-quoc-trong-nen-van...
[123doc] - ao-dai-truyen-thong-viet-nam-va-xuong-xam-trung-quoc-trong-nen-van...[123doc] - ao-dai-truyen-thong-viet-nam-va-xuong-xam-trung-quoc-trong-nen-van...
[123doc] - ao-dai-truyen-thong-viet-nam-va-xuong-xam-trung-quoc-trong-nen-van...
 
60 CÂU HỎI ÔN TẬP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ NĂM 2024.docx
60 CÂU HỎI ÔN TẬP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ NĂM 2024.docx60 CÂU HỎI ÔN TẬP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ NĂM 2024.docx
60 CÂU HỎI ÔN TẬP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ NĂM 2024.docx
 
Trích dẫn theo Harvard với Microsoft Word
Trích dẫn theo Harvard với Microsoft WordTrích dẫn theo Harvard với Microsoft Word
Trích dẫn theo Harvard với Microsoft Word
 
xemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdf
xemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdfxemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdf
xemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdf
 
TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT HÓA HỌC 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, TRƯ...
TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT HÓA HỌC 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, TRƯ...TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT HÓA HỌC 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, TRƯ...
TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT HÓA HỌC 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, TRƯ...
 
Tiểu luận tổng quan về Mối quan hệ giữa chu kỳ kinh tế và đầu tư trong nền ki...
Tiểu luận tổng quan về Mối quan hệ giữa chu kỳ kinh tế và đầu tư trong nền ki...Tiểu luận tổng quan về Mối quan hệ giữa chu kỳ kinh tế và đầu tư trong nền ki...
Tiểu luận tổng quan về Mối quan hệ giữa chu kỳ kinh tế và đầu tư trong nền ki...
 
Bài học phòng cháy chữa cháy - PCCC tại tòa nhà
Bài học phòng cháy chữa cháy - PCCC tại tòa nhàBài học phòng cháy chữa cháy - PCCC tại tòa nhà
Bài học phòng cháy chữa cháy - PCCC tại tòa nhà
 
ĐỀ SỐ 1 Của sở giáo dục đào tạo tỉnh NA.pdf
ĐỀ SỐ 1 Của sở giáo dục đào tạo tỉnh NA.pdfĐỀ SỐ 1 Của sở giáo dục đào tạo tỉnh NA.pdf
ĐỀ SỐ 1 Của sở giáo dục đào tạo tỉnh NA.pdf
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
22 ĐỀ THI THỬ TUYỂN SINH TIẾNG ANH VÀO 10 SỞ GD – ĐT THÁI BÌNH NĂM HỌC 2023-2...
22 ĐỀ THI THỬ TUYỂN SINH TIẾNG ANH VÀO 10 SỞ GD – ĐT THÁI BÌNH NĂM HỌC 2023-2...22 ĐỀ THI THỬ TUYỂN SINH TIẾNG ANH VÀO 10 SỞ GD – ĐT THÁI BÌNH NĂM HỌC 2023-2...
22 ĐỀ THI THỬ TUYỂN SINH TIẾNG ANH VÀO 10 SỞ GD – ĐT THÁI BÌNH NĂM HỌC 2023-2...
 
xemsomenh.com-Vòng Lộc Tồn - Vòng Bác Sĩ và Cách An Trong Vòng Lộc Tồn.pdf
xemsomenh.com-Vòng Lộc Tồn - Vòng Bác Sĩ và Cách An Trong Vòng Lộc Tồn.pdfxemsomenh.com-Vòng Lộc Tồn - Vòng Bác Sĩ và Cách An Trong Vòng Lộc Tồn.pdf
xemsomenh.com-Vòng Lộc Tồn - Vòng Bác Sĩ và Cách An Trong Vòng Lộc Tồn.pdf
 
C.pptx. Phát hiện biên ảnh trong xử lý ảnh
C.pptx. Phát hiện biên ảnh trong xử lý ảnhC.pptx. Phát hiện biên ảnh trong xử lý ảnh
C.pptx. Phát hiện biên ảnh trong xử lý ảnh
 
Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hội
Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hộiTrắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hội
Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hội
 
Xem sim phong thủy luận Hung - Cát số điện thoại chính xác nhất.pdf
Xem sim phong thủy luận Hung - Cát số điện thoại chính xác nhất.pdfXem sim phong thủy luận Hung - Cát số điện thoại chính xác nhất.pdf
Xem sim phong thủy luận Hung - Cát số điện thoại chính xác nhất.pdf
 

Tội chứa chấp tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, HOT

  • 1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN MINH THU TỘI CHỨA CHẤP HOẶC TIÊU THỤ TÀI SẢN DO NGƯỜI KHÁC PHẠM TỘI MÀ CÓ THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM (Trên cơ sở thực tiễn địa bàn thành phố Hà Nội) LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2016
  • 2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN MINH THU TỘI CHỨA CHẤP HOẶC TIÊU THỤ TÀI SẢN DO NGƯỜI KHÁC PHẠM TỘI MÀ CÓ THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM (Trên cơ sở thực tiễn địa bàn thành phố Hà Nội) Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số: 60 38 01 04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: TS. HOÀNG VĂN HÙNG HÀ NỘI - 2016
  • 3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƯỜI CAM ĐOAN Nguyễn Minh Thu
  • 4. MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục từ viết tắt Danh mục các bảng MỞ ĐẦU ..........................................................................................................1 Chương 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỘI CHỨA CHẤP HOẶC TIÊU THỤ TÀI SẢN DO NGƯỜI KHÁC PHẠM TỘI MÀ CÓ THEO QUY ĐỊNH CỦA LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM.........................................9 1.1. Khái niệm tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có........................................................................................................9 1.2. Các dấu hiệu pháp lý của tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có.......................................................................12 1.2.1. Khách thể của tội phạm .............................................................................12 1.2.2. Chủ thể của tội phạm..................................................................................15 1.2.3. Mặt khách quan của tội phạm ..................................................................15 1.2.4. Mặt chủ quan của tội phạm.......................................................................18 1.3. Vài nét lịch sử lập pháp hình sự của Việt Nam đối với tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có.....................20 1.3.1. Pháp luật thời kỳ phong kiến đến trước Cách mạng tháng Tám năm 1945............................................................................................................................21 1.3.2. Tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có theo quy định của pháp luật hình sự Việt Nam giai đoạn từ 1945 đến trước khi Bộ luật hình sự 1985 có hiệu lực......................................................24 1.3.3. Tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có theo quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam giai đoạn từ 1986 đến trước khi Bộ luật hình sự 1999 có hiệu lực .................................................................26 1.3.4. Tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có theo quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam giai đoạn từ 1999 đến nay......28
  • 5. 1.4. Những quy định về tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có trong pháp luật Hình sự của một số nước trên thế giới...............................................................................................................32 Kết luận chương 1......................................................................................41 Chương 2. CÁC HÌNH THỨC PHÁP LÝ ĐỐI VỚI TỘI CHỨA CHẤP HOẶC TIÊU THỤ TÀI SẢN DO NGƯỜI KHÁC PHẠM TỘI MÀ CÓ THEO BỘ LUẬT HÌNH SỰ 1999 ...............................................................43 2.1. Các hình thức pháp lý đối với tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có theo Bộ luật Hình sự 1999....................43 2.1.1. Hình phạt đối với người phạm tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có.............................................................................43 2.1.2. Các biện pháp tư pháp đối với người phạm tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có ........................................................57 2.1.3. Vấn đề miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt đối với người phạm tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có................60 2.2. Phân biệt giữa tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có với một số tội phạm khác...............................................64 2.2.1. Phân biệt tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có với tội che giấu tội phạm....................................................................64 2.2.2. Phân biệt tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có với tội không tố giác tội phạm ..........................................................66 2.2.3. Phân biệt tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có với tội rửa tiền.......................................................................................69 2.2.4. Phân biệt tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có với trường hợp đồng phạm cùng tội phạm nguồn........................72 Kết luận Chương 2.....................................................................................74 Chương 3. THỰC TIỄN XÉT XỬ TỘI CHỨA CHẤP HOẶC TIÊU THỤ TÀI SẢN DO NGƯỜI KHÁC PHẠM TỘI MÀ CÓ TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ........76
  • 6. 3.1. Khái quát số vụ án đã thụ lý về tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có trên địa bàn thành phố Hà Nội những năm gần đây................................................................................................................76 3.2. Thực tiễn xét xử tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có trên địa bàn thành phố Hà Nội giai đoạn 2011- 2015.79 3.2.1. Số liệu thống kê về thực tiễn xét xử tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có trên địa bàn thành phố Hà Nội giai đoạn 2011- 2015......................................................................................................79 3.2.2. Một số vấn đề trong thực tiễn với tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có những năm gần đây...............................87 3.3. Một số giải pháp đề xuất nhằm nâng cao hiệu quả thực tiễn với tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có ...........97 3.3.1. Hoàn thiện những quy định của pháp luật hình sự về tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có......................................97 3.3.2. Nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động áp dụng pháp luật của Tòa án nhân dân với những quy định về tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có ...................................................................101 3.3.3. Một số giải pháp khác ..............................................................................105 KẾT LUẬN..................................................................................................108 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................111 PHỤ LỤC.....................................................................................................117
  • 7. DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT BLDS: Bộ luật Dân sự BLHS: Bộ luật Hình sự BLTTHS: Bộ luật Tố tụng Hình sự CTTP: Cấu thành tội phạm TNHS: Trách nhiệm Hình sự TAND: Tòa án nhân dân VKSND: Viện kiểm sát nhân dân
  • 8. DANH MỤC CÁC BẢNG Số hiệu Tên bảng Trang Bảng 2.1. So sánh tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, tội che giấu tội phạm và tội không tố giác tội phạm 68 Bảng 2.2. So sánh tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có với tội rửa tiền 72 Bảng 3.1. Thống kê số liệu vụ án và bị cáo phạm tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có đã thụ lý trên địa bàn thành phố Hà Nội từ năm 2011- 2015 78 Bảng 3.2. Thống kê số liệu số vụ án, bị cáo phạm tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có được giải quyết trên địa bàn thành phố Hà Nội từ 2011- 2015 81
  • 9. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong những năm gần đây, trước sự thay đổi, phát triển của các điều kiện kinh tế- xã hội, tình hình các loại tội phạm nói chung có nhiều diễn biến phức tạp. Đặc biệt là các tội xâm phạm quyền sở hữu có chiều hướng gia tăng. Điều này gây ảnh hưởng không nhỏ việc bảo vệ, bảo đảm các quyền cơ bản của công dân trong đó có quyền sở hữu. Liên quan đến các tội phạm xâm hại về sở hữu, tội phạm chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có trở thành vấn đề đáng lưu tâm, đang gây nhiều lo lắng cho người dân. Tính chất của tội phạm cũng góp phần gây khó khăn trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử các tội phạm xâm phạm sở hữu. Trong giai đoạn nền kinh tế của đất nước đang phát triển theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tình trạng người dân chạy theo tiếng gọi của lợi nhuận thực hiện các hoạt động kinh doanh, mua bán các loại hàng hoá, tài sản dù biết là do người khác phạm tội mà có là tình trạng đáng cảnh báo. Việc công dân dù biết tài sản mình đang chứa chấp hoặc tiêu thụ do người khác phạm tội mà có nhưng vẫn cố tình thực hiện nhằm kiếm lời khiến cho việc xử lý các loại tội phạm xâm hại sở hữu như trộm cắp tài sản, cướp tài sản, cướp giật tài sản,... càng thêm khó khăn trong công tác điều tra, truy tố tội phạm do tài sản khó được xác minh, tìm kiếm. Đứng trước thực trạng cũng như diễn biến của tình hình tội phạm xâm phạm sở hữu như vậy, một số công dân sẵn sàng chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản của công dân, tài sản của Nhà nước do người khác phạm tội mà có có giá trị lớn do mua rẻ, bán đắt gây ra thiệt hại lớn cho người dân, cũng như cho tài sản của Nhà nước. Điều này gây cản trở không nhỏ đến hoạt động đúng đắn của cơ quan có thẩm quyền trong việc điều tra, xử lý tội phạm. Hơn thế nữa, hành vi này còn gián tiếp khuyến
  • 10. 2 khích các hành vi phạm tội, phạm tội nhiều lần của người khác, gây ra ảnh hưởng tiêu cực cho xã hội, khiến tình hình tội phạm thêm phức tạp, gây khó khăn cho công tác phòng ngừa tội phạm. Khi nghiên cứu về tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có những năm gần đây (giai đoạn 2010- 2015), nhiều vấn đề về mặt lý luận cũng như thực tiễn cần tìm hiểu kỹ càng. Đặc biệt, trên địa bàn thành phố Hà Nội- thủ đô của đất nước, việc nghiên cứu các vấn đề tội phạm này càng cần thiết hơn bởi lẽ Hà Nội là thành phố đi đầu trong quá trình phát triển, mức sống của người dân có đòi hỏi cao; vì thế, đây cũng là nơi thu hút nhiều loại tội phạm về sở hữu, gây ảnh hưởng đến trật tự công cộng, trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa trong đó có tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có. Tội phạm này có sự xuất phát từ những tội phạm nguồn gây ảnh hưởng tiêu cực đến việc gia tăng tỷ lệ tội phạm về sở hữu. Tuy nhiên, trong các đề tài nghiên cứu những năm gần đây, tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có lại ít được nghiên cứu đầy đủ và cụ thể. Việc xác định rõ nguyên nhân, điều kiện phạm tội phù hợp với sự phát triển của xã hội hiện nay hay trên địa bàn thành phố Hà Nội nói riêng cũng chưa được đi sâu nghiên cứu, bám sát tình hình thực tiễn. Thực tiễn đặt ra rằng, hành vi chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có khá phức tạp dưới nhiều hình thức, thủ đoạn đơn giản có, tinh vi có nhằm hợp pháp hóa tài sản phạm tội để đưa ra tiêu thụ trên thị trường. Điều này gây ảnh hưởng không nhỏ tới việc gia tăng phức tạp tình hình tội phạm trên địa bàn thành phố Hà Nội nói riêng và trên cả nước nói chung, cũng như đề ra các biện pháp nâng cao hiệu quả áp dụng với tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có. Vì lẽ đó, việc nghiên cứu tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có đặt ra vấn đề cấp thiết cả về lý luận và thực tiễn nhằm
  • 11. 3 đáp ứng đòi hỏi của xã hội trong công cuộc đổi mới đất nước, thực hiện tinh thần cải cách tư pháp theo định hướng của Đảng và tinh thần của Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24-05-2005 của Bộ Chính trị "Về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020". Hơn thế nữa, về mặt lý luận, việc nghiên cứu đưa ra các dấu hiệu cũng như cơ sở pháp lý cụ thể góp phần làm sáng tỏ các hành vi tội phạm, tạo tiền đề cho công cuộc đấu tranh phòng ngừa tội phạm chung. Từ các cơ sở nêu trên, tác giả đã lựa chọn đề tài: “Tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có theo Luật Hình sự Việt Nam” (Trên cơ sở thực tiễn địa bàn thành phố Hà Nội) làm đề tài nghiên cứu. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Trong quá trình nghiên cứu, tìm hiểu về đề tài, tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có là tội phạm có tính tinh vi và diễn biến tội phạm phức tạp. Loại tội phạm này đã được một số nhà luật học nghiên cứu, đề cập trong một số giáo trình, sách, báo, bài viết gần đây gồm có: - Giáo trình luật hình sự Việt Nam, tập II của Trường Đại học Luật Hà Nội Nxb Công an nhân dân, Hà Nội; Giáo trình luật hình sự Việt Nam (Phần các tội phạm) của Khoa luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội; Bình luận khoa học Bộ luật hình sự (Phần các tội phạm)- tập 9 của ThS Đinh Văn Quế, Nxb Tp Hồ Chí Minh; Bình luận khoa học Bộ luật hình sự 1999 (Phần các tội phạm) của TS. Phùng Thế Vắc, TS. Trần Văn Luyện, LS. ThS. Phạm Thanh Bình, TS. Nguyễn Đức Mai, ThS. Nguyễn Sĩ Đại, ThS. Nguyễn Mai Bộ, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2001... Các công trình nói trên các tác giả đã đề cập nội dung về tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, nhưng mới chỉ dừng lại ở việc bình luận và đưa ra các khái niệm, dấu hiệu một cách đơn giản, khái quát làm khuôn mẫu nghiên cứu mà chưa có công trình nào nghiên cứu một cách toàn diện và
  • 12. 4 có hệ thống về tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có dưới góc độ pháp lý hình sự. - Đề tài: “Tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có trong Luật Hình sự Việt Nam”- Luận văn Thạc sỹ năm 2007 của tác giả Trần Thị Thu Nam; Đề tài: “Thực tiễn tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có trên địa bàn huyện Diễn Châu tỉnh Nghệ An”- khóa luận tốt nghiệp năm 2009 của tác giả Nguyễn Thị Lan Anh: Các đề tài trên đều đã đề cập đến tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có dưới góc độ luật Hình sự và Tội phạm học. Tuy nhiên, các đề tài nghiên cứu đã cách đây khá xa, vì vậy, tình hình tội phạm và các dấu hiệu, điều kiện phạm tội hiện nay đã có nhiều biến đổi. Ngoài ra, đề tài cũng chưa đi sâu làm rõ vấn đề các hình thức trách nhiệm hình sự của tội phạm. Vấn đề về tội phạm nguồn chưa được đưa ra. Hơn nữa, các đề tài mới chỉ đưa ra phân tích chung hoặc trên một địa bàn huyện của tỉnh. Mà thực tế, địa bàn thành phố Hà Nội lại là một điểm nóng của tội phạm lại chưa được đi sâu nghiên cứu. - Các bài viết “Tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có trong Luật Hình sự Việt Nam”- Tạp chí Luật học số 05.2004 của Thạc sỹ Phạm Văn Báu; “Một số vấn đề về tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” - Tạp chí Tòa án nhân dân số 7 tháng 9 năm 2007 của tác giả Trần Quang Tiệp; “Yếu tố định lượng đối với tội Chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”- Trang thông tin TAND tối cao 2013 của tác giả Hồ Vĩnh Phú, “Bàn về Điều 250 Bộ luật Hình sự”- Tạp chí Tòa án nhân dân số 11 tháng 6/2004 của tác giả Lê Văn Luật... cũng đã đề cập về tội phạm này dưới góc độ Luật Hình sự và Tội phạm học. Các bài viết mới chỉ đưa ra một cách khái quát về tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, một số vấn đê cần lưu ý nhưng chưa đi
  • 13. 5 vào phân tích chuyên sâu các vấn đề về tội phạm cũng như thực tiễn xét xử của tội phạm. Qua việc tìm hiểu các công trình nghiên cứu được trình bày ở trên, vấn đề về tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có và thực tiễn xét xử trên địa bàn thành phố Hà Nội còn bỏ ngỏ. Đến thời điểm này, đề tài “Tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có theo Luật Hình sự Việt Nam” (Trên cơ sở thực tiễn địa bàn thành phố Hà Nội) vẫn có tính mới. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài 3.1. Mục đích nghiên cứu Mục đích nghiên cứu mà luận văn hướng tới là trên cơ sở lý luận và thực tiễn xét xử của tội phạm góp phần hoàn thiện cơ sở lý luận chuyên sâu đối với quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có. Cũng qua đó hình thành cái nhìn từ thực tiễn xét xử các vụ án về tội phạm làm cơ sở cho việc nhận thức cũng như áp dụng các quy định của Bộ luật Hình sự xử lý về tội phạm. Ngoài ra, trên cơ sở nghiên cứu, luận văn cũng đề xuất những giải pháp mới nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả việc áp dụng những quy định của pháp luật hình sự về tội phạm. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Với mục đích nghiên cứu đã đặt ra ở trên, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn đặt ra các vấn đề sau: Thứ nhất, nghiên cứu và đưa ra khái niệm, các dấu hiệu pháp lý của tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có; làm rõ lịch sử hình thành và phát triển những quy định của pháp luật Hình sự Việt Nam về tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có. Thứ hai, làm rõ các hình thức pháp lý đối với tội phạm chứa chấp
  • 14. 6 hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có; so sánh tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có với một số tội phạm khác. Thứ ba, phân tích, làm rõ vấn đề thực tiễn xét xử trên địa bàn thành phố Hà Nội về tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có; tìm ra những khó khăn, vướng mắc trong quá trình giải quyết vụ án. Từ đó, đưa ra đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng những quy định của pháp luật hình sự hiện hành về tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các quy định của pháp luật Hình sự Việt Nam về tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có. 4.2. Phạm vi nghiên cứu đề tài Phạm vi nghiên cứu của luận văn về tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có theo quy định của Luật Hình sự Việt Nam dưới góc độ pháp lý hình sự trên địa bàn thành phố Hà Nội trong thời gian 5 năm từ năm 2011 đến năm 2015. Tại thời điểm người viết nghiên cứu đề tài này, Bộ luật Hình sự 2015 vẫn chưa có hiệu lực. Các quy định hiện hành về tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có được tiến hành theo Bộ luật Hình sự 1999. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu đê tài 5.1. Phương pháp luận Phương pháp luận khoa học của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử theo quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là phương pháp được tác giả lựa chọn làm cơ sở nghiên cứu luận văn. Ngoài ra, tác giả dựa trên các quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước về các lĩnh
  • 15. 7 vực trong đó có lĩnh vực đấu tranh phòng ngừa tội phạm nói chung và tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội nói riêng. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Các phương pháp nghiên cứu cụ thể được sử dụng trong luận văn để thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu là phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp so sánh, phương pháp thống kê, … 6. Những đóng góp mới của đề tài Luận văn là công trình nghiên cứu toàn diện, có hệ thống về tội phạm chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có. Những đóng góp mới về mặt khoa học của luận văn có thể kể đến: - Phân tích, làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận, đưa ra vấn đề về tội phạm nguồn, phân tích sự phát triển các quy định về tội phạm chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có trong lịch sử, đối chiếu các quy định của Bộ luật Hình sự 1999 và Bộ luật Hình sự 2015 và so sánh các quy định tội phạm này trong luật hình sự Việt Nam với một số nước trên thế giới. - Phân tích, đánh giá những quy định của pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành về tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, các hình thức pháp lý của tội phạm và thực tiễn xét xử trên địa bàn thành phố Hà Nội, nêu lên những hạn chế, khó khăn trong thực tiễn áp dụng những quy định của pháp luật hình sự về tội phạm. - Đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả việc áp dụng những quy định của pháp luật hình sự về tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có trên địa bàn thành phố Hà Nội nói riêng cũng như cả nước nói chung. 7. Ý nghĩa của việc nghiên cứu đề tài Về mặt lý luận, luận văn có ý nghĩa cung cấp thêm cơ sở lý luận góp phần làm phong phú về mặt tài liệu nghiên cứu khoa học để tham khảo cho
  • 16. 8 các bài viết, công trình nghiên cứu, bài giảng có liên quan. Về mặt thực tiễn, luận văn đưa ra thực tiễn, đánh giá, dự báo diễn biến tình hình tội phạm và đề xuất những giải pháp hợp lý, có ý nghĩa trong việc xử lý tội phạm nhằm nâng cao hiệu quả việc áp dụng những quy định của pháp luật hình sự hiện hành về tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có trên địa bàn thành phố Hà Nội nói riêng và ở nước ta nói chung. 8. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn được kết cấu gồm 3 chương, cụ thể: Chương 1: Một số vấn đề chung về tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có theo quy định của luật Hình sự Việt Nam Chương 2: Các hình thức pháp lý đối với tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có theo quy định của Bộ luật Hình sư 1999 Chương 3: Thực tiễn xét xử tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có trên địa bàn thành phố Hà Nội và giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng.
  • 17. 9 Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỘI CHỨA CHẤP HOẶC TIÊU THỤ TÀI SẢN DO NGƯỜI KHÁC PHẠM TỘI MÀ CÓ THEO QUY ĐỊNH CỦA LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM 1.1. Khái niệm tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có Theo từ điển luật học, chứa chấp tài sản do người khác phạm tội mà có là "(hành vi) cất giấu hoặc tạo điều kiện cho việc cất giấu những tài sản mình biết rõ là tài sản do hành vi phạm tội của người khác mà có" [51, tr.275]. Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có là "(hành vi) mua, trao đổi, nhận hoặc giúp cho việc mua bán, trao đổi tài sản mình biết rõ là tài sản do hành vi phạm tội của người khác mà có" [51, tr.781]. Tại Khoản 1, Khoản 2 Điều 2 Thông tư số 09/2011/TTLT-BCA-BQP- BTP-NHNNVN-VKSNDTC-TANDTC ban hành ngày 30/11/2011 Hướng dẫn áp dụng quy định của Bộ luật Hình sự về tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có và tội rửa tiền (Sau đây gọi tắt là Thông tư 09/2011) quy định: Chứa chấp tài sản là một trong các hành vi sau đây: cất giữ, che giấu, bảo quản tài sản; cho để nhờ, cho thuê địa điểm để cất giữ, che dấu, bảo quản tài sản đó và tiêu thụ tài sản là một trong các hành vi sau đây: mua, bán, thuê, cho thuê, trao đổi, cầm cố, thế chấp, đặt cọc, ký gửi, cho, tặng, nhận tài sản hoặc giúp cho việc thực hiện các hành vi đó. Hiểu một cách chung nhất, hành vi chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản so người khác phạm tội mà có là hành vi cất giấu, tạo điều kiện cho việc cất giấu hoặc mua, trao đổi, nhận, giúp cho việc mua bán, trao đổi tài sản mình biết rõ là tài sản do hành vi phạm tội của người khác mà có.
  • 18. 10 Cũng theo từ điển này, tài sản được hiểu: Là các vật có giá trị bằng tiền và là đối tượng của quyền tài sản và các lợi ích vật chất khác. Tài sản bao gồm: vật có thực, vật đang tồn tại và sẽ có như hoa, lợi, lợi tức, vật sẽ được chế tạo theo mẫu đã được thoả thuận giữa các bên, tiền và các giấy tờ trị giá được bằng tiền và quyền tài sản [51, tr.778]. Điều 163 Bộ luật Dân sự 2005 quy định: "Tài sản bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản". Đối với vật là đối tượng tác động của tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có phải là vật có thực, vật đang tồn tại, có giá trị và nằm trong sự chiếm hữu của con người, “đối tượng của tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có chỉ có thể là tài sản (các đối tượng vật chất, hàng hóa, tiền) do phạm tội mà có trừ các đối tượng vật chất là hàng cấm ) do phạm tội mà có”[2, tr.6]. Tiền và giấy tờ có giá cũng là những đối tượng tài sản của tội phạm chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có. Tuy nhiên, đối với giấy tờ có giá cần lưu ý bởi nó tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau. Giấy tờ có giá được chia làm hai loại gồm: Giấy tờ có giá ghi danh và Giấy tờ có giá vô danh. Với đối tượng là tài sản trong tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có thì giấy tờ có giá ghi danh sẽ không thỏa mãn được là đối tượng tác động của tội phạm bởi loại giấy tờ này chỉ chủ sở hữu đứng tên mới có khả năng thực hiện các giao dịch dân sự liên quan đến nó. Giấy tờ có giá vô danh "là giấy tờ có giá phát hành theo hình thức chứng chỉ không ghi tên người sở hữu. Giấy tờ có giá vô danh thuộc quyền sở hữu của người nắm giữ giấy tờ có giá" (Điều 4 Quy chế phát hành giấy tờ có giá của tổ chức tín dụng ban hành kèm theo Quyết định số 02/2005/QĐ-NHNN của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ngày 04/01/2005). Với giấy tờ có giá vô
  • 19. 11 danh, người phạm tội có thể tự thực hiện các giao dịch dân sự. Do đó, giấy tờ có giá vô danh sẽ là đối tượng tác động của tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có [22, tr.7]. "Quyền tài sản là quyền trị giá được bằng tiền và có thể chuyển giao trong giao dịch dân sự, kể cả quyền sở hữu trí tuệ" (Điều 181 Bộ luật Dân sự 2005). Quyền tài sản là loại tài sản quyền gắn liền với chủ sở hữu, do đó, tuỳ thuộc vào quyền tài sản nhất định mới là đối tượng tác động của tội phạm chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có vì có những quyền tài sản chỉ chủ sở hữu mới có thể thực hiện quyền này trong giao dịch dân sự. Thông tư số 09/2011, tại Khoản 3 Điều 1 có hướng dẫn về "tài sản" bao gồm: "vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản; bất động sản, động sản, hoa lợi, lợi tức, vật chính, vật phụ, vật chia được, vật không chia được, vật tiêu hao, vật không tiêu hao, vật chùng loại, vật đặc định, vật đồng bộ và quyền tài sản". Như vậy, những "tài sản" được pháp luật ghi nhận, thuật ngữ "tài sản" trong tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có có sự tương ứng với quy định về "tài sản" trong Bộ luật Dân sự 2005. Từ khái niệm tội phạm được ghi nhận tại Điều 8 BLHS, định nghĩa khoa học về tội phạm với những dấu hiệu được phân tích ở trên, tác giả xin đưa ra khái niệm Tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có như sau: Tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có là hành vi nguy hiểm cho xã hội khi biết rõ tài sản là do người khác phạm tội mà có vẫn cất giấu, tạo điều kiện cho việc cất giấu hoặc mua, trao đổi, nhận, giúp cho việc mua bán, trao đổi tài sản, do người có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý, trái pháp luật hình sự, xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng, trật tự
  • 20. 12 pháp luật xã hội chủ nghĩa. 1.2. Các dấu hiệu pháp lý của tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có Căn cứ quy định cụ thể về tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, những yếu tố đặc trưng của cấu thành tội phạm (CTTP) tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có được thể hiện như sau: 1.2.1. Khách thể của tội phạm Khách thể của tội phạm là quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ và bị tội phạm xâm hại bằng cách gây thiệt hại hoặc đe doạ gây thiệt hại cho các quan hệ xã hội đó [47, tr. 86]. Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam 2013- đạo luật cơ bản của nước ta ghi nhận và bảo hộ quyền sở hữu của công dân: "1. Mọi người có quyền sở hữu về thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở, tư liệu sản xuất, phần vốn góp trong doanh nghiệp hoặc trong các tổ chức kinh tế khác. 2. Quyền sở hữu tư nhân và quyền thừa kế được pháp luật bảo hộ". Từ đây, nền tảng cơ bản về quyền sở hữu của công dân được pháp luật Việt Nam ghi nhận và bảo hộ. Mọi sự xâm phạm sẽ được bảo vệ bởi ngành luật tương ứng. Tội phạm tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có biết rõ tài sản mà mình chứa chấp hoặc tiêu thụ là tài sản có được từ hành vi phạm pháp, tuy không có sự hứa hẹn trước với người có tài sản do phạm tội mà có, nhưng vẫn chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản đó vì mục đích vụ lợi. Hành vi của người phạm tội đã xâm phạm trật tự công cộng, trật tự xã hội, trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa, khuyến khích việc thực hiện tội phạm cũng như gây khó khăn cho hoạt động tư pháp trong điều tra, truy tố, xét xử tội phạm. Việc xác định khách thể của tội phạm chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản
  • 21. 13 do người khác phạm tội mà có là căn cứ quan trọng để định tội cũng như phân biệt tội phạm với vi phạm pháp luật khác; khách thể của tội phạm sẽ cho thấy rõ bản chất, tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội. Khách thể chung là "tổng hợp các quan hệ xã hội được các quy phạm pháp luật Hình sự bảo vệ tránh khỏi sự xâm hại có tính chất tội phạm nhưng bị tội phạm xâm hại đến và gây nên (hoặc đe doạ gây nên) thiệt hại đáng kể nhất định" [6, tr. 351]. Khách thể chung của tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài do người khác phạm tội mà có là trật tự công cộng, trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa. Xác định khách thể chung của tội phạm sẽ đưa ra cơ sở pháp lý chung khẳng định hành vi nguy hiểm cho xã hội của tội phạm chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có là hành vi phạm tội bị pháp luật hình sự cấm. Khách thể trực tiếp là "một quan hệ xã hội cụ thể được một quy phạm pháp luật hình sự cụ thể bảo vệ tránh khỏi sự xâm hại của một tội phạm nhất định nhưng bị tội phạm xâm hại đến và gây nên (hoặc đe doạ gây nên) thiệt hại đáng kể nhất định" [6, tr. 351]. Khách thể trực tiếp của tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có là trật tự quản lý nhà nước đối với tài sản do phạm tội mà có do tội phạm này có tác động xấu gây ảnh hưởng đến hoạt động đấu tranh phòng ngừa tội phạm, cũng như gây khó khăn cho hoạt động tư pháp trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử tội phạm. Đối tượng tác động của tội phạm là một bộ phận của khách thể tội phạm bị người thực hiện hành vi phạm tội tác động đến gây thiệt hại hoặc đe doạ gây thiệt hại cho những quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ [47, tr. 94]. Đối tượng tác động của tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có là tài sản do (người khác) phạm tội mà có. Đó có thể là bất kỳ tội phạm nào được quy định trong Bộ luật Hình sự mà kết quả trực tiếp của nó là chủ thể có được tài sản một cách bất hợp pháp. Nếu tài sản do người khác phạm tội mà có là đối tượng phạm tội của tội khác thì người có hành vi chứa
  • 22. 14 chấp, tiêu thụ tài sản đó bị truy cứu TNHS về tội phạm tương ứng mà BLHS quy định đối với hành vi tàng trữ, tiêu thụ các loại tài sản đó [27, tr.307]. Khi nghiên cứu đối tượng tác động của tội phạm này cần lưu tâm đến các loại tài sản do phạm tội mà có gồm những loại tài sản nào như đã phân tích ở phần khái niệm trên. Tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có xâm phạm đến khách thể là trật tự công cộng, trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa được pháp luật Hình sự bảo vệ. Tuy nhiên, loại tội phạm này lại được hình thành chỉ khi có tội phạm nguồn tạo ra đối tượng tác động cho tội phạm chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có. Sở dĩ có thể khẳng định như vậy vì bản thân điều luật 250 BLHS về tội phạm đã thể hiện, hành vi phạm tội của tội phạm cấu thành khi chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản biết rõ là do người khác phạm tội mà có. Tuy nhiên, vấn đề "Tội phạm nguồn" lại chưa được đề cập đến trong các công trình nghiên cứu về tội phạm này. Trên cơ sở nghiên cứu các quy định về tội phạm Chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, tác giả đưa ra khái niệm về tội phạm nguồn: "Tội phạm nguồn là tội phạm tạo ra các loại tài sản từ đó có thể trở thành đối tượng tài sản của tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có". Xuất phát từ tội phạm nguồn, cùng với các yếu tố cấu thành tội phạm khác, tội phạm Chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có mới đủ căn cứ hình thành. Như vậy, tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có là một loại tội phạm phái sinh, có thuộc tính tự nhiên phụ thuộc vào tội phạm nguồn. Nếu không có tội phạm nguồn thì không có tội phạm chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có. Tội phạm nguồn là một trong những căn cứ quan trọng để xác định cấu thành
  • 23. 15 tội phạm tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có. Đây cũng là căn cứ để phân biệt giữa hành vi chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do vi phạm pháp luật (không phải là tội phạm) mà có với tội phạm. 1.2.2. Chủ thể của tội phạm Luật hình sự Việt Nam coi chủ thể của tội phạm là người có năng lực trách nhiệm hình sự, đạt một độ tuổi nhất định và đã thực hiện hành vi phạm tội [47, tr.122]. Điều 250 BLHS về tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có gồm 04 khung hình phạt khác nhau sau: đến ba năm tù (khoản 1), đến bảy năm tù (khoản 2), đến mười năm tù (khoản 3), đến mười lăm năm tù (khoản 4). Căn cứ quy định tại Khoản 3 Điều 8 BLHS 1999 sửa đổi 2009, quy định về tuổi chịu TNHS tại Điều 12, người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chỉ có thể bị truy cứu TNHS khi thực hiện hành vi thuộc một trong các tình tiết định khung tại Khoản 3 và Khoản 4 Điều 250 BLHS là trường hợp phạm tội rất nghiêm trọng do cố ý. Người từ đủ 16 tuổi trở lên có thể bị truy cứu TNHS về tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có theo quy định của các khung từ Khoản 1 đến Khoản 4 Điều 250 BLHS 1999. 1.2.3. Mặt khách quan của tội phạm Theo khoa học luật hình sự, mặt khách quan của tội phạm là tổng hợp những biểu hiện của tội phạm ra bên ngoài thế giới khách quan. Mặt khách quan của tội phạm bao gồm các dấu hiệu có ý nghĩa pháp lý là: hành vi nguy hiểm cho xã hội; hậu quả nguy hiểm cho xã hội; mối quan hệ nhân quả giữa hành vi phạm tội và hậu quả phạm tội; các dấu hiệu không bắt buộc (thủ đoạn, phương tiện, thời gian, địa điểm, hoàn cảnh phạm tội) [6, tr.365-366]. Đối với tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, hành vi khách quan của tội phạm được thể hiện là hành vi "chứa chấp" hoặc "tiêu thụ" tài sản do người khác thực hiện các hành vi phạm tội khác mà
  • 24. 16 có như trộm cắp tài sản, cướp tài sản, cướp giật tài sản,... Thế nào là hành vi chứa chấp hoặc hành vi tiêu thụ tài sản tại Điều 250 BLHS 1999 không liệt kê rõ. Tại Khoản 1, Khoản 2 Điều 2 Thông tư số 09/2011 đưa ra quy định về hai hành vi được đề cập trong cấu thành tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có: Chứa chấp tài sản là một trong các hành vi sau đây: cất giữ, che giấu, bảo quản tài sản; cho để nhờ, cho thuê địa điểm để cất giữ, che dấu, bảo quản tài sản đó và tiêu thụ tài sản là một trong các hành vi sau đây: mua, bán, thuê, cho thuê, trao đổi, cầm cố, thế chấp, đặt cọc, ký gửi, cho, tặng, nhận tài sản hoặc giúp cho việc thực hiện các hành vi đó. Tuy nhiên, hành vi chứa chấp hoặc tiêu thụ chỉ thuộc hành vi khách quan của tội phạm khi người thực hiện hành vi chứa chấp hoặc tiêu thụ nhận tài sản từ người phạm tội và biết đó là tài sản do phạm tội mà có, có thể nói, hành vi chứa chấp hoặc tiêu thụ không có tác động đến việc thực hiện tội phạm của người có tài sản do phạm tội mà có. Người có tài sản do phạm tội mà có là tội phạm nguồn của tội phạm Chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có. Việc thực hiện hành vi khách quan chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản không nằm trong mối quan hệ nhân quả với tội phạm có tài sản do phạm tội mà có [22, tr.42]. Trường hợp người thực hiện hành vi chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản nhưng không nhận tài sản từ người phạm tội (tội phạm nguồn) thì hành vi của họ không phạm tội tại Điều 250 BLHS mà có thể phạm tội khác được quy định trong BLHS. Hành vi chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có phải là hành vi được tiến hành không có sự hứa hẹn trước với người phạm tội có được tài sản. Đây là điểm khác so với hành vi giúp sức trong đồng phạm. Hành vi chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản mà có sự hứa hẹn trước với người có
  • 25. 17 tài sản do phạm tội là hành vi có tác động trực tiếp đến việc thực hiện tội phạm của người có tài sản do phạm tội mà có và bị coi là hành vi giúp sức trong đồng phạm. Hành vi chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản là hành vi khách quan của tội phạm Chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có chỉ khi hành vi đó là trái pháp luật, hay nói cách khác, chỉ hành vi được quy định trong Bộ luật Hình sự mới có thể là tội phạm. Điều này cũng có nghĩa là cấm áp dụng nguyên tắc tương tự. Trường hợp người mua tài sản do phạm tội mà có trong trường hợp nhà nước phát mại, bán đấu giá để sung công quỹ do không tìm được chủ sở hữu hoặc người có quyền bảo quản tài sản thì đó là hành vi hợp pháp, không phạm vào tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có [62]. Cần lưu ý, tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có được quy định tại Điều 250 BLHS 1999 sửa đổi 2009 có quy định hai hành vi khách quan trong một cấu thành tội phạm "chứa chấp", "tiêu thụ". Do đó, người phạm tội thực hiện hành vi khách quan chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản thì chỉ bị truy cứu TNHS về một hành vi mình phạm phải "tội chứa chấp tài sản do người khác phạm tội mà có" hoặc "tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có". Nếu người phạm tội thực hiện cả hai hành vi được Điều 250 BLHS quy định thì sẽ bị truy cứu TNHS về cả hai hành vi đó [1, tr.12-13]. Hậu quả của tội phạm chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có: Hậu quả nguy hiểm cho xã hội của tội phạm là thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra cho các quan hệ xã hội là khách thể được bảo vệ bởi luật hình sự [47, tr.110]. Về nguyên tắc, chỉ những hậu quả mang tính xác định được mới được quy định trong cấu thành tội phạm. Tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài
  • 26. 18 sản do người khác phạm tội mà có do mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi nên được luật Hình sự quy định là tội phạm có cấu thành hình thức. Hậu quả không phải là dấu hiệu bắt buộc. Việc người phạm tội thực hiện hành vi chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có không căn cứ vào hậu quả của tội phạm, tội phạm đã được coi là hoàn thành. Tuy nhiên, hậu quả nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội cũng là cơ sở để đánh giá tính nguy hiểm cho xã hội về mặt chính trị- xã hội. Tội phạm chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có gây ra những hậu quả xấu đối với trật tự công cộng, trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa. Nó không những gây khó khăn, ảnh hưởng đến hoạt động điều tra, xử lý các tội phạm xâm hại sở hữu mà còn gián tiếp khuyến khích một số tội phạm chiếm đoạt tài sản gây ảnh hưởng đến trật tự trị an xã hội. 1.2.4. Mặt chủ quan của tội phạm Mặt chủ quan của tội phạm là mặt bên trong của tội phạm bao gồm: lỗi, động cơ, mục đích [47, tr.134]. Trong mọi cấu thành tội phạm, dấu hiệu lỗi luôn được phản ánh thể hiện mặt chủ quan của tội phạm; dấu hiệu động cơ, mục đích phạm tội tuỳ từng cấu thành tội phạm cụ thể được thể hiện với ý nghĩa pháp lý hình sự nhất định. "Lỗi là thái độ tâm lý của con người đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội của mình và đối với hậu quả do hành vi đó gây ra được biểu hiện dưới hình thức cố ý hoặc vô ý" [47, tr.136]. Đối với tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, hình thức lỗi thuộc mặt chủ quan của người phạm tội là lỗi cố ý. Ở tội phạm này, người phạm tội biết rõ tài sản mình chứa chấp hoặc tiêu thụ là do người khác phạm tội mà có, tức là, người phạm tội nhận thức rõ hành vi chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản đó của mình là hành vi nguy hiểm cho xã hội, thấy được hậu quả của hành vi mình thực hiện xâm phạm đến trật tự công cộng, trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa. Trong ý thức chủ quan của người phạm tội, nếu họ mong muốn hậu quả xảy ra thì đó
  • 27. 19 là lỗi cố ý trực tiếp; nếu họ tuy không mong muốn hậu quả xảy ra nhưng vẫn có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra là lỗi cố ý gián tiếp. Tuy nhiên, để xác định họ có biết rõ hay không phải dựa vào các tình tiết khách quan mà đặc biệt là nhân thân và mối quan hệ giữa họ với người có tài sản do phạm tội mà có; việc giao dịch giữa người chứa chấp, tiêu thụ với người có tài sản [27, tr.311]. Theo hướng dẫn tại Khoản 2 Điều 1 Thông tư số 09/2011 thì biết rõ tài sản là do người khác phạm tội mà có “là có căn cứ chứng minh biết được tài sản có được trực tiếp từ người thực hiện hành vi phạm tội hoặc có được từ việc mua bán, đổi chác bằng tài sản có được trực tiếp từ người thực hiện hành vi phạm tội”. Động cơ phạm tội được hiểu là động lực bên trong thúc đẩy quyết tâm của người phạm tội thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị luật hình sự cấm [6, tr.381]. Động cơ phạm tội đối với tội phạm chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có không phải là dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành tội phạm. Tuy nhiên, khi phân tích các dấu hiệu của tội phạm này có thể thấy động cơ phạm tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có xuất phát từ việc tư lợi, do ham muốn những lợi ích có được từ hoạt động phi pháp, hoặc do cả nể. Việc xác định động cơ phạm tội có ý nghĩa trong việc đánh giá mức độ, tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi nhằm phân hoá TNHS được rõ hơn. Mục đích phạm tội là kết quả mà người phạm tội mong muốn đạt được trong tương lai bằng việc thực hiện hành vi phạm tội [6, tr.382]. Mục đích của tội phạm hình thành trong ý chí chủ quan của người phạm tội trước khi bắt đầu thực hiện tội phạm. Mục đích phạm tội khác với hậu quả của tội phạm. Hậu quả của tội phạm nằm trong mặt khách quan của tội phạm có liên hệ với mục đích của tội phạm trong một thể thống nhất giữa mặt khách quan và mặt chủ quan của tội phạm [47, tr.154]. Đối với tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do
  • 28. 20 người khác phạm tội mà có, mục đích của chủ thể phạm tội là mong muốn có được những lợi ích nhất định bằng hành vi bất chính. Do đó, dù người phạm tội biết rõ hành vi của mình gây ảnh hưởng xấu cho xã hội, xâm phạm đến trật tự công cộng, trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa nhưng vì mục đích hưởng lợi của bản thân, chủ thể vẫn cố ý thực hiện tội phạm. Mục đích của tội phạm không phải dấu hiệu bắt buộc được quy định trong cấu thành tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có nhưng nó cũng có ý nghĩa trong việc xem xét vấn đề TNHS, đảm bảo việc cá thể hoá và phân hoá TNHS một cách chính xác. Trong cấu thành tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, mặt chủ quan của tội phạm thể hiện rõ nhất ở quy định về lỗi cố ý được thể hiện trong cấu thành tội phạm. Các dấu hiệu về động cơ, mục đích phạm tội không phải dấu hiệu bắt buộc của tội phạm. Tuy nhiên, tất cả các dấu hiệu vẫn có mối liên hệ, tương tác lẫn nhau phản ảnh tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm. Nghiên cứu các dấu hiệu này giúp cho việc xác định tội phạm chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có được chính xác hơn, tránh việc quy tội khách quan đối với tội phạm và đảm bảo tính phân hoá TNHS được cụ thể hơn. 1.3. Vài nét lịch sử lập pháp hình sự của Việt Nam đối với tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có Lịch sử lập pháp hình sự các quy định về tội Chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có do đã bị thất lạc nhiều nên chưa thể khẳng định chính xác sự ra đời của các quy định về tội phạm này. Tuy nhiên, nghiên cứu tiến trình lập pháp hình sự từ thời kỳ pháp luật phong kiến đến nay, với các tên gọi khác nhau được đưa ra, tội Chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có có thể nói đã được quy định từ rất sớm. Có thể thấy, lịch sử quá trình hình thành tư tưởng lập pháp, các triết lý hình sự từ xưa đã xác
  • 29. 21 định tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm này, sự cần thiết có các quy định về tội phạm. Chính sách hình sự từ thời kỳ phong kiến đến nay, các quy định về tội phạm này đều được pháp luật hình sự đề cập và ghi nhận xuyên suốt trong lịch sử. Vì vậy, tội Chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có đã đi vào theo suốt quan điểm lập pháp hình sự của pháp luật nước ta. 1.3.1. Pháp luật thời kỳ phong kiến đến trước Cách mạng tháng Tám năm 1945 Từ thời kỳ pháp luật phong kiến, lưu hành trong hai bộ Hình luật cổ được đánh giá là "hai bộ luật tổng hợp có quy mô lớn và nội dung phong phú" [24, tr.3] là Quốc Triều Hình luật, hay còn gọi là Bộ luật Hồng Đức năm 1483 và Hoàng Việt Luật lệ, hay còn gọi là Bộ luật Gia Long năm 1812, quy định về tội Chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có đều đã được đề cập dưới các góc độ khác nhau. Trong Quốc Triều Hình luật, tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có chưa được quy định trong điều luật riêng. Tuy nhiên, bản hình thư này có mô tả hành vi phạm tội này tại nhiều điều luật. Dẫn chiếu Điều 429 Quốc Triều Hình luật quy định: "Giữa ban ngày ăn cắp vặt cũng xử tội đồ, đã lấy được của thì phải bồi thường một phần tang vật. Những kẻ chứa chấp thì đều bị tội nhẹ hơn một bậc và bắt bồi thường một phần ba tang vật. Kẻ biết việc mà không cáo giác bị tội nhẹ hơn hai bậc" [54, tr.159]. Theo quy định này, nhà làm luật đánh giá mức độ nguy hiểm của hành vi chứa chấp tài sản do người khác phạm tội mà có so với hành vi ăn cắp vặt và hành vi không cáo giác (không tố giác tội phạm). Theo đó, hành vi chứa chấp tài sản do người khác phạm tội mà có được đánh giá có tính nguy hiểm cho xã hội ít hơn so với tội phạm có hành vi ăn cắp vặt (bị tội nhẹ hơn một bậc và bắt bồi thường một phần ba tang vật); so sánh với hành vi không cáo giác (không tố giác tội phạm) thì hành vi chứa chấp lại được đánh giá có tính nguy hiểm cao hơn
  • 30. 22 (không cáo giác bị tội nhẹ hơn hai bậc). Điều 456 Quốc Triều Hình luật quy định: "... Nếu chủ giấu giếm nhận của ăn trộm, ăn cướp thì phải đồng tội. Đã báo quan mà sau lại bao dung những đày tớ ăn cướp, ăn trộm ấy thì xử như tội biết việc mà không trình" [54, tr.165]. Theo đó, hành vi giấu giếm nhận của có thể hiểu tương đương hành vi chứa chấp tài sản do người khác phạm tội mà có. Quốc Triều Hình luật quy định hành vi này của người chủ sẽ bị coi là đồng phạm với người đày tớ về tội trộm cắp tài sản hoặc tội cướp tài sản. Điều 460 Quốc Triều Hình luật quy định: Những kẻ nhận tài vật của kẻ ăn trộm, thay đổi hình dạng rồi đem bán, thì xử nhẹ hơn tội ăn trộm một bậc. Nếu vì nhầm mà nhận những đồ vật ấy, thì chỉ phạt 60 trượng, biếm, biếm hai tư. Nếu không biết mà mua phải đồ vật ấy, thì truy số tiền mua ở người bán mà trả cho; còn đồ vật thì phải trả lại chủ mất [54, tr.166]. Theo quy định tại điều luật, hành vi tiêu thụ tài sản do trộm cắp mà có được các nhà Hình luật đánh giá có mức độ nguy hiểm cho xã hội ít hơn hành vi trộm cắp (xử nhẹ hơn tội ăn trộm một bậc) [22, tr.16]. Ngoài ra, các nhà Hình luật còn quy định rõ với hành vi chứa chấp đồ vật do phạm tội mà có nhưng do nhầm lẫn thì phạt mức 60 trượng, biếm, biếm hai tư; còn việc mua phải tài sản do trộm cắp mà có nhưng ngay tình được đánh giá không phải tội phạm, người mua được lấy lại số tiền đã mua từ người bán còn đồ vật thì phải trả lại cho người mất. Quy định này đã thể hiện một trình độ lập pháp cao của các nhà làm luật thời bấy giờ. Ngay từ chế độ phong kiến, tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có đã được ghi nhận, đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội với các mức phạt nghiêm khắc tương đương. Trong Hoàng Việt Luật lệ, tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người
  • 31. 23 khác phạm tội mà có cũng đã được đề cập. Điều 7, quyển thứ 13 Hoàng Việt Luật lệ ghi nhận tội phạm này với tên gọi đạo tặc oa trữ: Phàm có thâm ý trộm bạo, chứa đồ gian, dù chính bản thân không thực hiện, chỉ chia phân tang vật thì cũng xử chém. Nếu cùng thực hiện thì không nói đến việc chia tang vật, không chia tang vật, chỉ theo bọn mà làm cho có của tiền thì không chia thủ, tòng đều bị chém cả. Nếu không biết việc trộm nọ, chỉ là chứa tạm thì không buộc tội. Nếu không cùng đi ăn trộm và cũng không chia tang vật thì phạt 100 trượng, lưu 3000 dặm. Về mưu kế, kẻ chứa đồ gian chưa có thâm ý lập mưu, chỉ là cùng biết mưu kế của giặc và cùng thực hiện nhưng không chia tang vật hay có chia tang vật nhưng không cùng thực hiện vụ trộm, thì đều xử chém cả. Nếu không làm, không chia tang vật, thì phạt 100 trượng [22, tr.18]. Theo quy định của Hoàng Việt Luật lệ, hành vi chứa chấp tài sản do người khác phạm tội mà có liên quan mật thiết với hành vi trộm cắp tài sản. Nếu người phạm tội cố ý cùng thực hiện hành vi trộm cắp, chứa chấp tài sản do trộm cắp mà có, dù chỉ là hình thức giúp sức, có phân chia tang vật là tài sản bị chiếm đoạt thì đều bị xử chém như người có hành vi trộm cắp. Nếu cùng thực hiện hành vi trộm cắp, chứa chấp tài sản, dù không chia tang vật cũng đều bị xử chém. Trường hợp người chứa chấp tài sản do trộm cắp mà có, không thực hiện hành vi trộm cắp tài sản, không được chia tang vật trộm cắp thì bị phạt 100 trượng, lưu 3000 dặm. Trường hợp người chứa chấp tài sản do phạm tội mà có tuy chưa có ý lập mưu, biết việc phạm tội, cùng thực hiện tội phạm trộm cắp nhưng không chia tang vật hay có chia tang vật nhưng không cùng thực hiện tội phạm đều bị xử chém. Nếu biết việc nhưng không làm, không chia
  • 32. 24 tang vật thì bị phạt 100 trượng. Có thể nói, quy định này của Hoàng Việt Luật lệ thể hiện tính răn đe, nghiêm khắc cao của pháp luật thời bấy giờ. Ngoài ra, trong Hoàng Việt Hình luật ban hành ngày 31/7/1933, tại Khoản 6 Điều 351, tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có cũng được mô tả như sau: Người nào tri tình mà oa trữ một phần hay toàn phần của trộm cướp, hoặc của lừa gạt hoặc của gì do sự phạm tội đại hình hay trừng trị mà lấy được. Nếu xét quả của oa trữ ấy do sự phạm tội đại hình mà lấy được, thời người oa trữ sẽ bị phạt một nửa tội danh mà luật đã định phạt về tội đại hình ấy và về trọng hình trong tội đại hình ấy mà người oa trữ đã tri tình. Tuy nhiên, nếu tội danh ấy là tử hình hay khổ sai chung thân, thời người oa trữ sẽ bị phạt khổ sai từ 6 năm đến 20 năm [53, tr.108]. Theo Hoàng Việt Hình luật, tội chứa chấp tài sản do người khác phạm tội mà có đã được cụ thể hoá hơn so với hai bộ Hình luật Quốc Triều Hình luật và Hoàng Việt Luật lệ. Tại đây, loại tội phạm này đã được quy định không chỉ liên quan đến tội phạm trộm cắp tài sản mà còn có liên quan đến các tội phạm khác. Hình phạt cũng được nhà làm luật xem xét với tính chất, mức độ nghiêm trọng của tội phạm so với tội phạm liên quan [22, tr.21]. Dù vẫn chưa đưa ra định nghĩa pháp lý cụ thể đối với tội phạm này nhưng có thể thấy những quy định trên đã thể hiện trình độ tiến bộ đáng kể về kỹ thuật lập pháp hình sự đối với tội phạm chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có. Như vậy, ngay từ thời kỳ phong kiến, mặc dù kỹ thuật lập pháp còn nhiều hạn chế nhưng các quy định về tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có đã được lồng ghép vào các điều luật với các hình phạt tương ứng khá nghiêm khắc. 1.3.2. Tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội
  • 33. 25 mà có theo quy định của pháp luật hình sự Việt Nam giai đoạn từ 1945 đến trước khi Bộ luật hình sự 1985 có hiệu lực Giai đoạn Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, chính quyền non trẻ nước ta thời kỳ bấy giờ phải đối mặt với nhiều thách thức. Để bảo vệ chế độ mới, pháp luật được ban hành với các quy định nhằm bảo vệ công trình, phương tiện quan trọng về an ninh quốc gia. Sắc lệnh số 26/SL ngày 25/02/1945 quy định về tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có nhằm trừng trị nghiêm khắc những kẻ phá hoại cầu cống, đường giao thông, dây điện thoại,... Điều thứ hai: "Những kẻ oa trữ các dây điện thoại hay dây điện tín cũng bị phạt như những kẻ ăn trộm các đồ vật ấy" [10, Điều 2]. Với quy định này, hành vi chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có bị coi là đồng phạm với những kẻ trộm cắp tài sản không phân biệt người phạm tội có hứa hẹn trước hay không hứa hẹn trước [1, tr.7]. Đến giai đoạn 1970, nhằm tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, nhà nước ban hành Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa và Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản riêng của công dân ngày 21/10/1970, trong đó tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có đã được ghi nhận tại Điều khoản riêng. Cụ thể: Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa ghi nhận tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có tại Điều 17 như sau: 1. Kẻ nào biết rõ tài sản xã hội chủ nghĩa đã bị chiếm đoạt mà chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản đó thì bị phạt tù từ 6 tháng đến 5 năm. 2. Phạm tội trong những trường hợp sau đây: a. Có tính chất chuyên nghiệp hoặc tái phạm nguy hiểm; b. Có tổ chức; c. Chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản với số lượng lớn hay là tài sản có giá trị đặc biệt; d. Dùng tài sản chứa chấp vào việc kinh doanh, bóc lột, đầu cơ, đút lót hoặc vào những việc phạm tội khác, thì bị phạt tù từ
  • 34. 26 3 năm đến 12 năm [49, Điều 17]. Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản riêng của công dân tại Điều 13 quy định: 1. Kẻ nào biết rõ tài sản riêng của công dân bị chiếm đoạt mà chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản đó thì bị phạt tù từ 3 tháng đến 3 năm. 2. Phạm tội trong những trường hợp sau đây: a. Có tính chất chuyên nghiệp hoặc tái phạm nguy hiểm; b. Có tổ chức; c. Chứa chấp hoặc tiêu thụ một số lớn tài sản, thì bị phạt tù từ 2 năm đến 10 năm [48, Điều 13]. Có thể thấy trong cả hai Pháp lệnh, tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có đã được các nhà làm luật quy định rõ với tính chất là tội phạm độc lập với khung hình phạt riêng. Vấn đề xác định hành vi phạm tội còn phụ thuộc vào việc xác định rõ ý thức chủ quan của người phạm tội. Nếu người đó không biết được là tài sản bị chiếm đoạt do hành vi phạm tội mà có thì không cấu thành tội phạm. Khung hình phạt đối với tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có có sự khác nhau căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội đối với từng loại tài sản bị chiếm đoạt. 1.3.3. Tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có theo quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam giai đoạn từ 1986 đến trước khi Bộ luật hình sự 1999 có hiệu lực Khi nhà nước xã hội chủ nghĩa dần đi vào ổn định, đứng trước tình trạng các văn bản quy phạm pháp luật hình sự đơn hành dẫn đến nhiều hạn chế, thiếu tính đồng bộ. Nhằm hướng đến việc thể hiện một cách toàn diện, đầy đủ chính sách hình sự của Đảng và Nhà nước đặt ra, Bộ luật Hình sự của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã được Quốc hội thông qua ngày 27/6/1985, có hiệu lực từ ngày 01/01/1986.
  • 35. 27 Tại đây, tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có được ghi nhận và quy định thành tội danh riêng tại Điều 201. Cụ thể: 1. Người nào không hứa hẹn trước mà chứa chấp, tiêu thụ tài sản biết rõ do người khác phạm tội mà có, thì bị phạt bị phạt tù từ sáu tháng đến năm năm. 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ ba năm đến mười hai năm: a. Có tổ chức; b. Tài sản có số lượng lớn hoặc có giá trị lớn; c. Tái phạm nguy hiểm. Theo quy định này, đối tượng tác động của tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có không tách riêng là tài sản xã hội chủ nghĩa hay tài sản riêng của công dân như hai Pháp lệnh ban hành năm 1970 mà được quy định là các tài sản nói chung. Vấn đề trách nhiệm hình sự (TNHS) quy định bằng hai khung hình phạt cụ thể đối với tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có thành một khung cơ bản và một khung tăng nặng. Bộ luật Hình sự (BLHS) 1985 còn quy định Hình phạt bổ sung đối với tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có tại Khoản 2, 3 Điều 218. Cụ thể, người phạm tội có thể bị quản chế hoặc cấm cư trú từ một đến năm năm; bị phạt tiền từ một nghìn đồng (1.000 đồng) đến năm mươi nghìn đồng (50.000 đồng) và có thể bị tịch thu một phần tài sản. Trong tiến trình hoàn thiện hệ thống luật pháp, BLHS 1985 đã được sửa đổi, bổ sung. Trong đó, lần sửa đổi bổ sung năm 1991, tính phân hoá trách nhiệm hình sự đối với tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có được thể hiện một cách rõ ràng hơn. Điều 201 của BLHS 1985 được sửa đổi, bổ sung với ba khung hình phạt với một khung cơ bản và hai khung tăng nặng với các tình tiết được bổ sung: Điều 201. Tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác
  • 36. 28 phạm tội mà có. 1. Người nào không hứa hẹn trước mà chứa chấp, tiêu thụ tài sản biết rõ là do người khác phạm tội mà có, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến hai năm hoặc bị phạt tù từ ba tháng đến ba năm. 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm: a) Có tổ chức hoặc có tính chất chuyên nghiệp; b) Tài sản, vật phạm pháp có số lượng lớn hoặc có giá trị lớn;c) Tái phạm nguy hiểm. 3. Phạm tội trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng, thì bị phạt tù từ năm năm đến mười lăm năm. So với quy định trước, luật sửa đổi, bổ sung đã có mức quy định mới về hình phạt, thể hiện tính phân hoá trách nhiệm hình sự cao hơn. Ngoài ra, cùng với việc sửa đổi, bổ sung hình phạt chính, hình phạt bổ sung là phạt tiền được quy định tại Điều 218 cũng thay đổi từ một nghìn đồng đến năm mươi nghìn đồng thành từ một triệu đồng đến năm mươi triệu đồng. Với sự kế thừa, đúc rút kinh nghiệm lập pháp từ các văn bản quy phạm pháp luật hình sự trước, trong BLHS 1985, quy định về tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có có sự tiến bộ trong kĩ thuật lập pháp. Các quy định đối với tội phạm này đã được khái quát cao hơn, mang nội hàm rộng và chính xác hơn [22, tr.29]. Ngoài ra, tính phân hoá trách nhiệm hình sự đã được thể hiện ngay trong điều luật với các tình tiết tăng nặng định khung cụ thể. Điều này góp phần không nhỏ cho quá trình vận dụng và áp dụng pháp luật, tạo điều kiện cá thể hoá trách nhiệm hình sự được rõ ràng hơn. Các hình phạt bổ sung cũng được các nhà làm luật quy định rõ ràng, tạo cơ sở pháp lý khi áp dụng pháp luật một cách vững chắc. 1.3.4. Tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có theo quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam giai đoạn từ 1999 đến nay Để phù hợp với sự phát triển của xã hội, việc kiện toàn hệ thống pháp luật trong đó có Bộ luật Hình sự là đòi hỏi khách quan của hoạt động lập
  • 37. 29 pháp. Kế thừa và phát huy những quan điểm lập pháp hình sự từ những giai đoạn trước, BLHS 1999 đã ra đời đáp ứng đòi hỏi theo yêu cầu của xã hội với những điểm mới đáng ghi nhận. Trong đó, tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có được quy định tại Điều 250 BLHS 1999, thuộc chương XIX Các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng: Điều 250. Tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có. 1. Người nào không hứa hẹn trước mà chứa chấp, tiêu thụ tài sản biết rõ là do người khác phạm tội mà có, thì bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm. 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm: a) Có tổ chức; b) Có tính chất chuyên nghiệp; c) Tài sản, vật phạm pháp có giá trị lớn; d) Thu lợi bất chính lớn; đ) Tái phạm nguy hiểm. 3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ năm năm đến mười năm: a) Tài sản, vật phạm pháp có giá trị rất lớn; b) Thu lợi bất chính rất lớn. 4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm: a) Tài sản, vật phạm pháp có giá trị đặc biệt lớn;b) Thu lợi bất chính đặc biệt lớn. 5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ ba triệu đồng đến ba mươi triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản hoặc một trong hai hình phạt này. BLHS 1999 đã có những điểm mới đáng kể, đưa ra các quy định nhằm phù hợp với bối cảnh kinh tế thị trường ngày một phát triển nhằm xác định tội phạm chính xác, khách quan, không bỏ lọt tội phạm. So với BLHS 1985, quy định về tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có được sửa đổi, bổ sung những điểm sau:
  • 38. 30 Thứ nhất, đối với cấu thành tội phạm cơ bản, điều luật bổ sung thêm hình phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng. Ngoài ra, hình phạt cải tạo không giam giữ được sửa đổi nâng lên đến ba năm và nâng mức hình phạt tù có thời hạn khởi điểm lên sáu tháng tù [22, tr.31]. Điều này cho thấy cái nhìn khách quan của các nhà làm luật ứng dụng trong thời kỳ mới, nâng cao tính phòng ngừa, giáo dục tội phạm. Thứ hai, về cơ cấu điều luật tại Điều 250, ngoài hình phạt bổ sung được quy định tách riêng tại Khoản 5, tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có được cấu tạo với bốn khoản tương ứng với bốn khung hình phạt thể hiện rõ ràng tính phân hoá trách nhiệm hình sự. Các tình tiết định khung hình phạt cũng được các nhà làm luật quy định cụ thể. Tình tiết "Tài sản, vật phạm pháp có số lượng lớn hoặc có giá trị lớn" được bỏ đi và thay thế bằng tình tiết "Tài sản, vật phạm pháp có giá trị lớn, rất lớn, đặc biệt lớn" tương ứng trong từng khung hình phạt. Bổ sung thêm tình tiết "Thu lời bất chính lớn, rất lớn, đặc biệt lớn" tương ứng trong từng khung hình phạt. Trong BLHS 1999, hình phạt bổ sung được quy định ngay tại một khoản của điều luật nhấn mạnh sự răn đe, phòng ngừa tội phạm chung. Đến giai đoạn hiện nay, sau mười sáu năm áp dụng BLHS 1999, đứng trước thực tiễn xã hội có nhiều biến chuyển, tình hình kinh tế, bối cảnh hội nhập thay đổi không ngừng đặt ra đòi hỏi cần tiếp tục kiện toàn, đổi mới để pháp luật phù hợp và điều chỉnh được hết các quan hệ xã hội mới phát sinh. Điều này dẫn đến yêu cầu việc ban hành Bộ luật Hình sự phù hợp với tình hình mới là vấn đề tất yếu. Do đó, Bộ luật Hình sự 2015 đã ra đời. Tại đây, tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có được quy định tại Điều 323 với những sửa đổi nhằm thể hiện rõ tính răn đe, giáo dục đối với tội phạm trong thực tiễn: Điều 323. Tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác
  • 39. 31 phạm tội mà có. 1. Người nào không hứa hẹn trước mà chứa chấp, tiêu thụ tài sản biết rõ là do người khác phạm tội mà có, thì bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm. 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 07 năm: a) Có tổ chức; b) Có tính chất chuyên nghiệp; c) Tài sản, vật phạm pháp trị giá từ 100.000.000 đồng đến dưới 300.000.000 đồng; d) Thu lợi bất chính từ 20.000.000 đồng đến dưới 100.000.000 đồng; đ) Tái phạm nguy hiểm. 3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 10 năm: a) Tài sản, vật phạm pháp trị giá từ 300.000.000 đồng đến dưới 1.000.000.000 đồng; b) Thu lợi bất chính từ 100.000.000 đồng đến dưới 300.000.000 đồng. 4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 10 năm đến 15 năm: a) Tài sản, vật phạm pháp trị giá 1.000.000.000 đồng trở lên; b) Thu lợi bất chính 300.000.000 đồng trở lên. 5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. Điều 323 BLHS 2015 vẫn duy trì 5 khoản đối với tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có với một khung cơ bản, một khung hình phạt bổ sung và ba khung tăng nặng trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên, đối với mỗi khoản, BLHS 2015 đã có sự thay đổi để tăng tính răn đe, giáo dục, phòng ngừa tội phạm, thể hiện sự phân hoá trách nhiệm hình sự cao hơn. Cụ thể: So với quy định của BLHS 1999, lần thay đổi này, hình phạt tiền được quy định ở khung cơ bản đã tăng lên mức từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng.
  • 40. 32 Tại các khoản 2; 3; 4 Điều 323, mức hình phạt tù đã được sửa đổi nhằm xác định rõ tính phân loại tội phạm lần lượt là "phạt tù từ 03 năm đến 07 năm" (khoản 2)- tội phạm nghiêm trọng; "phạt tù từ 07 năm đến 10 năm" (khoản 3) và "phạt tù từ 10 năm đến 15 năm" (khoản 4)- tội phạm rất nghiêm trọng. Thay đổi quy định về "tài sản, vật phạm pháp có giá trị lớn, rất lớn, đặc biệt lớn" cũng như quy định về "thu lợi bất chính lớn, rất lớn, đặc biệt lớn" cụ thể, rõ ràng về mức độ ngay trong điều khoản bằng giá trị tài sản cũng như trị giá thu lời bất chính cụ thể là bao nhiêu. Điều này đã khắc phục hạn chế trong việc tra cứu, áp dụng pháp luật qua các văn bản hướng dẫn. Người áp dụng pháp luật có căn cứ chính xác ngay trong điều luật quy định. Nó đã góp phần kiện toàn và thống nhất quy định trong hệ thống pháp luật hơn so với trước kia. Đối với hình phạt bổ sung, ngoài việc tăng mức phạt tiền "từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng", điều luật còn cụ thể hình phạt bổ sung có thể bị áp dụng với việc sử dụng từ nối "hoặc" giữa mỗi hình phạt, bỏ quy định nửa chừng "hoặc một trong hai hình phạt này" của luật cũ. Điều này giúp việc vận dụng pháp luật được rõ ràng, minh bạch, chính xác hơn. Có thể nói, quá trình ra đời và hoàn thiện các quy định về tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có đúc kết nhiều tinh hoa từ lịch sử lập pháp. Quy định đối với tội phạm này có sự thay đổi theo từng giai đoạn để phù hợp với bối cảnh lịch sử, kinh tế, xã hội. Đồng thời, các quy định về tội phạm này ngày càng hoàn thiện về kĩ thuật lập pháp, đầy đủ trong việc mô tả hành vi phạm tội cũng như các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. 1.4. Những quy định về tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có trong pháp luật Hình sự của một số nước trên thế giới Tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có được
  • 41. 33 quy định trong pháp luật Hình sự ở nhiều nước trên thế giới. Khi nghiên cứu những quy định về tội phạm này trong pháp luật hình sự một số nước như: Liên bang Hoa Kỳ, Đức, Nhật Bản, Vương quốc Thụy Điển, Lào, tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có được các nước ghi nhận với các quy định không giống nhau trong pháp luật hình sự. Pháp luật Hình sự Liên bang Hoa Kỳ (Mỹ) quy định tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có tại Điều 2315, Chương 113, Phần thứ nhất, Luật số 18 của Liên bang. Điều luật quy định tên gọi tội phạm Tội mua bán hoặc nhận tài sản, hàng hoá, tiền do phạm tội mà có, hoặc làm giả giấy tờ Liên bang: Người nào nhận, chứa chấp, che giấu, tích trữ, đổi chác, bán hoặc sử dụng bất kỳ vật, đồ vật, hoặc hàng hoá, trái phiếu, hoặc tiền có giá trị từ 5000 đô trở lên, hoặc cầm cố hay thế chấp để bảo đảm cho bất kỳ vật, đồ vật, hoặc hàng hoá, trái phiếu có giá trị từ 500 đô trở lên mà là tài sản do trộm cắp, chiếm đoạt bất hợp pháp, lấy cắp của nhà nước Hoa Kỳ, biết trước đó là do bị trộm cắp, chiếm đoạt bất hợp pháp, lấy cắp mà có; hoặc Người nào nhận, chứa chấp, che giấu, tích trữ, đổi chác, bán hoặc sử dụng bất kỳ tài sản nào bị làm giả, bị giả mạo, bị thay đổi, hoặc bị giả giấy tờ, tem thuế, hoặc cầm cố hay thế chấp để bảo đảm cho bất kỳ tài sản nào bị làm giả, bị giả mạo, bị thay đổi, hoặc bị giả giấy tờ, tem thuế, dịch chuyển hoặc chia thành các phần, biết trước đó là tài sản bị làm giả, bị giả mạo, bị thay đổi; hoặc Người nào nhận từ nơi khác, hoặc chứa chấp, che giấu, tích trữ, đổi chác, bán hoặc sử dụng bất kỳ công cụ, phương tiện, hay vật dụng nào được sử dụng để làm giả, giả mạo, thay đổi, hoặc giả giấy tờ, tem thuế, hoặc bất kỳ việc nào, biết rõ là đồ được dùng để
  • 42. 34 làm giả, giả mạo, thay đổi, hoặc giả giấy tờ, tem thuế, hoặc việc khác; hoặc Người nào nhận, chứa chấp, che giấu, tích trữ, đổi chác, bán hoặc sử dụng bất kỳ đối tượng tưởng niệm nào bị trộm cắp, chiếm đoạt bất hợp pháp, lấy cắp của nhà nước Hoa Kỳ, biết trước đó là tài sản do trộm cắp, chiếm đoạt bất hợp pháp, lấy cắp Thì bị phạt tiền hoặc phạt tù đến 10 năm, hoặc cả hai. Nếu vi phạm liên quan đến tài sản về y tế (như quy định tại điều 670) thì hình phạt được áp dụng như quy định tại điều 670 trừ trường hợp hình phạt theo điều này nghiêm khắc hơn. Nếu vi phạm liên quan đến nhận, chứa chấp, che giấu, tích trữ, đổi chác, bán hoặc sử dụng đối tượng tưởng niệm có giá trị dưới 1000 đô thì bị phạt tiền hoặc phạt tù đến 1 năm, hoặc cả hai. Điều này không áp dụng với bất kỳ tài sản bị làm giả, bị giả mạo, bị thay đổi nhằm bảo vệ quốc gia. Điều này cũng không áp dụng với tài sản bị làm giả, bị giả mạo, bị thay đổi do pháp luật quốc gia khác quy định. Thuật ngữ "bang" của điều này áp dụng với các bang của Hoa Kỳ, Colombia, bất cứ vùng lãnh thổ nào của Hoa Kỳ. Thuật ngữ đối tượng tưởng niệm" bao gồm bia mộ, tượng đài hoặc đối tượng khác, nhằm tôn vinh vĩnh viễn một chiến binh của dân tộc [60]. Tội phạm này được pháp luật Hình sự Mỹ quy định với các hành vi khá cụ thể, các trường hợp nhất định bị coi là tội phạm. Hình phạt cho tội phạm này là phạt tiền hoặc phạt tù đến 10 năm, hoặc có thể áp dụng cả hai hình phạt. Yếu tố hứa hẹn trước hay không không phải yếu tố bắt buộc theo quy định này. Ngoài ra, yếu tố lỗi cố ý như pháp luật Hình sự Việt Nam cũng được các nhà làm luật Mỹ quy định. Tuy nhiên, pháp luật Hình sự Việt Nam
  • 43. 35 không quy định về giá trị tài sản bị chiếm đoạt do phạm tội nhưng pháp luật Hình sự Liên bang Hoa Kỳ lại ghi nhận rõ ràng. Điều này là vấn đề các nhà lập pháp nước ta cần quan tâm, nghiên cứu. Luật Hình sự Đức cũng có quy định về tội phạm chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do phạm tội mà có, cụ thể: Điều 259 Luật Hình sự Đức: (1)Người nào mua, bán hoặc giúp bán vật bị đánh cắp hoặc bị chiếm đoạt bằng hành vi bất hợp pháp để có lợi cho bản thân hoặc bên thứ ba thì bị phạt tù đến 5 năm hoặc bị phạt tiền.(2)Điều 247 và 248a có hiệu lực tương tự. (3)Việc cố gắng thực hiện hành vi trong khoản 1 cũng bị coi là có tội [61]. Từ việc pháp luật Hình sự Đức quy định về hành vi phạm tội này tại Điều 259 Luật Hình sự, Luật Dân sự Đức tại Điều 935 cũng không công nhận việc sở hữu tài sản bất hợp pháp. Hình phạt của tội này là phạt tù đến 5 năm hoặc bị phạt tiền. Hành vi phạm tội là hành vi mua, bán hoặc giúp bán vật bị đánh cắp hoặc bị chiếm đoạt bằng hành vi bất hợp pháp để có lợi cho bản thân hoặc bên thứ ba. Theo Luật Hình sự Đức, hành vi phạm tội được quy định cũng không cần yếu tố có hứa hẹn trước với người có tài sản hay không. Ngoài ra, pháp luật Hình sự Đức chỉ cần xác định đó là tài sản bị chiếm đoạt bằng hành vi bất hợp pháp mà có chứ chưa cần là do người khác phạm tội như theo Luật Hình sự Việt Nam. Pháp luật hình sự Nhật Bản quy định về các tội liên quan đến tài sản có được do phạm tội tại chương XXXIX. Trong đó, tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có được Bộ luật Hình sự ghi nhận với tên gọi Tội nhận, mua bán tài sản do phạm tội mà có theo Điều 256 BLHS Nhật Bản. Cụ thể quy định như sau: 1. Người nào nhận tài sản có được do phạm các tội về tài sản
  • 44. 36 thì bị phạt tù có lao động bắt buộc đến 3 năm. 2. Người nào vận chuyển, nhận đặt cọc, mua bán hoặc hành động với tư cách là người môi giới cho những hoạt động bằng tài sản có được do phạm các tội về tài sản thì bị phạt tù có lao động bắt buộc đến 10 năm hoặc bị phạt tiền đến 500.000 yên [15, tr.69]. Tội phạm này còn được quy định đối với những người thân thích thì áp dụng tại Điều 257 quy định về Tội nhận, mua bán tài sản do phạm tội mà có giữa những người thân với nhau: 1. Người nào thực hiện tội phạm quy định tại Điều 256 trên đây thì được miễn hình phạt, nếu tội phạm xảy ra giữa những người thân thích cùng dòng máu trực hệ, giữa vợ chồng hoặc giữa những người thân thích cùng chung sống trong gia đình và vợ hoặc chồng của những người đó. 2. Các quy định của khoản 1 trên đây không áp dụng đối với những người đồng phạm là người không thân thích [15, tr.70]. Trong pháp luật hình sự Nhật Bản, tội phạm này được ghi nhận tại hai điều luật. Hành vi phạm tội là hành vi nhận tài sản, vận chuyển, nhận đặt cọc, mua bán hoặc hành động với tư cách là người môi giới cho những hoạt động bằng tài sản có được do phạm các tội về tài sản thì bị truy cứu về tội nhận, mua bán tài sản do phạm tội mà có. So với Luật hình sự Việt Nam, nội hàm trong pháp luật hình sự Nhật Bản rộng hơn, bao quát hơn [40, tr.6]. Hình phạt được đặt ra đối với tội phạm này là phạt tù có lao động bắt buộc đến 10 năm hoặc phạt tiền đến 500.000 yên. Hành vi phạm tội cấu thành tội phạm không cần yếu tố không hứa hẹn trước với người có tài sản. Ngoài ra, đối với người thân thích cùng dòng máu trực hệ, giữa vợ chồng hoặc giữa những người thân thích cùng chung sống trong gia đình và vợ hoặc chồng của những người đó thì theo quy định của pháp luật Hình sự Nhật Bản vẫn bị truy cứu TNHS nhưng sẽ được miễn hình phạt.
  • 45. 37 BLHS Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào lại có quy định với tên gọi tội danh khác và mức chế tài khác nhau tại hai điều luật. Cụ thể: Tại Chương IV. Các tội xâm phạm quyền sở hữu tập thể của Nhà nước hoặc sở hữu tập thể, Điều 107 BLHS Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào quy định Tội tàng trữ, mua bán tài sản của Nhà nước hoặc của tập thể bị chiếm đoạt: Người nào biết rõ tài sản của Nhà nước hoặc của tập thể bị chiếm đoạt do cướp, trộm cắp, lừa đảo, tham ô hoặc bằng các hành vi trái pháp luật khác mà cất giữ, mua bán, thì bị phạt tước quyền tự do từ ba tháng đến hai năm. Trường hợp phạm tội có tính chất chuyên nghiệp, có tổ chức thành băng hoặc trường hợp gây thiệt hại lớn thì bị phạt tước quyền tự do từ một năm đến năm năm [39, tr.33-34]. Tại Chương V. Các tội xâm phạm quyền sở hữu của công dân, Điều 115. Tội cất giữ, mua bán tài sản của công dân bị chiếm đoạt quy định: Người nào biết rõ tài sản của người khác bị chiếm đoạt bằng cách cướp, cướp giật, trộm cắp, lừa đảo, lợi dụng tín nhiệm hoặc bằng các phương pháp khác mà vẫn lấy, mua, cất giữ hoặc mang đi bán thì bị phạt tước quyền tự do từ ba tháng đến một năm. Trường hợp phạm tội có tính chất chuyên nghiệp, có tổ chức thành băng hoặc trường hợp gây thiệt hại lớn thì bị phạt tước quyền tự do từ một năm đến năm năm [39, tr.36]. Quy định về tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có trong pháp luật hình sự Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào cũng có sự khác biệt với pháp luật Hình sự Việt Nam, BLHS nước Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào cũng không quy định yếu tố người phạm tội có hứa hẹn trước với người có tài sản hay không mà chỉ cần người có hành vi phạm tội biết rõ tài sản đó là tài sản của Nhà nước hoặc của tập thể bị chiếm đoạt do cướp,