SlideShare a Scribd company logo
1 of 114
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN THỊ THÚY HỒNG
CÁC TỘI XÂM PHẠM SỞ HỮU KHÔNG CÓ TÍNH
CHIẾM ĐOẠT
THEO BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 1999
(TRÊN CƠ SỞ NGHIÊN CỨU THỰC TIỄN XÉT XỬ CỦA NGÀNH TÕA ÁN HÀ NỘI GIAI
ĐOẠN 2007 - 2012)
Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 60 38 01 04
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. TRỊNH QUỐC TOẢN
HÀ NỘI - 2014
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của
riêng tôi. Các số liệu, ví dụ minh hoa và các trích dẫn trong luận
văn bảo đảm độ tin cậy, chính xác và trung thực. Những kết luận
khoa học của luận văn chưa từng được ai công bố trong bất kỳ
công trình nào khác.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
Nguyễn Thị Thúy Hồng
MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CÁC TỘI XÂM PHẠM
SỞ HỮU KHÔNG CÓ TÍNH CHIẾM ĐOẠT TRONG
LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM ........................................................... 7
1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM VÀ Ý NGHĨA CỦA VIỆC QUY
ĐỊNH CÁC TỘI XÂM PHẠM SỞ HỮU KHÔNG CÓ TÍNH
CHIẾM ĐOẠT TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM .................... 7
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của các tội xâm phạm sở hữu không có
tính chiếm đoạt..................................................................................... 7
1.1.2. Ý nghĩa của việc quy định các tội phạm xâm phạm sở hữu không
có tính chiếm đoạt ..............................................................................14
1.2. KHÁI QUÁT LỊCH SỬ PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
TỪ NĂM 1945 ĐẾN TRƢỚC KHI BAN HÀNH BỘ LUẬT
HÌNH SỰ NĂM 1999 QUY ĐỊNH VỀ CÁC TỘI XÂM PHẠM
SỞ HỮU KHÔNG CÓ TÍNH CHIẾM ĐOẠT..................................16
1.2.1. Giai đoạn từ sau Cách mạng tháng Tám 1945 đến trƣớc khi ban
hành Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1985.........................................16
1.2.2. Giai đoạn từ sau khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985 đến
trƣớc khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1999 ...................................23
1.3. QUY ĐỊNH VỀ CÁC TỘI XÂM PHẠM SỞ HỮU KHÔNG CÓ
TÍNH CHIẾM ĐOẠT TRONG LUẬT HÌNH SỰ MỘT SỐ NƢỚC....34
1.3.1. Bộ luật hình sự của Trung Quốc ........................................................34
1.3.2. Bộ luật hình sự của Liên bang Nga....................................................39
Chương 2: QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 1999 VỀ
CÁC TỘI XÂM PHẠM SỞ HỮU KHÔNG CÓ TÍNH
CHIẾM ĐOẠT VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG ................................46
2.1. CÁC DẤU HIỆU PHÁP LÝ ĐẶC TRƢNG CHUNG CỦA CÁC
TỘI XÂM PHẠM SỞ HỮU KHÔNG CÓ TÍNH CHIẾM ĐOẠT ...46
2.1.1. Khách thể của tội phạm......................................................................47
2.1.2. Mặt khách quan của tội phạm ............................................................50
2.1.3. Mặt chủ quan của tội phạm ................................................................54
2.1.4. Chủ thể của tội phạm..........................................................................56
2.2. PHÂN BIỆT CÁC TỘI XÂM PHẠM SỞ HỮU CÓ TÍNH CHIẾM
ĐOẠT VỚI CÁC TỘI XÂM PHẠM SỞ HỮU KHÔNG CÓ TÍNH
CHIẾM ĐOẠT THEO BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 1999 ...................56
2.3. THỰC TIỄN ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH VỀ CÁC TỘI XÂM
PHẠM SỞ HỮU KHÔNG CÓ TÍNH CHIẾM ĐOẠT THEO BỘ
LUẬT HÌNH SỰ NĂM 1999 TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ
HÀ NỘI..............................................................................................60
2.4. NHỮNG TỒN TẠI, VƢỚNG MẮC TRONG THỰC TIỄN ÁP
DỤNG CÁC QUY ĐỊNH VỀ CÁC TỘI XÂM PHẠM SỞ HỮU
KHÔNG CÓ TÍNH CHIẾM ĐOẠT THEO BỘ LUẬT HÌNH
SỰ NĂM 1999 TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI VÀ
NHỮNG NGUYÊN NHÂN CỦA NÓ ..............................................64
2.4.1. Những tồn tại, vƣớng mắc trong thực tiễn áp dụng các quy định
về các tội xâm phạm sở hữu không có tính chiếm đoạt theo Bộ
luật hình sự năm 1999 trên địa bàn thành phố Hà Nội ......................64
2.4.2. Nguyên nhân của các tồn tại, hạn chế trong áp dụng các quy định
của Bộ luật hình sự năm 1999 về các tội xâm phạm sở hữu
không có tính chiếm đoạt ...................................................................82
Chương 3: CÁC GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN VÀ NÂNG CAO
HIỆU QUẢ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ ĐỐI VỚI CÁC
TỘI XÂM PHẠM SỞ HỮU KHÔNG CÓ TÍNH CHIẾM ĐOẠT......90
3.1. SỰ CẦN THIẾT PHẢI HOÀN THIỆN VÀ NÂNG CAO HIỆU
QUẢ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ CÁC TỘI XÂM
PHẠM SỞ HỮU KHÔNG CÓ TÍNH CHIẾM ĐOẠT .....................90
3.2. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH
CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 1999 VỀ CÁC TỘI XÂM
PHẠM SỞ HỮU KHÔNG CÓ TÍNH CHIẾM ĐOẠT .....................93
3.3. NHỮNG GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP
DỤNG PHÁP LUẬT ĐỐI VỚI CÁC TỘI XÂM PHẠM SỞ
HỮU KHÔNG CÓ TÍNH CHIẾM ĐOẠT TRÊN ĐỊA BÀN
THÀNH PHỐ HÀ NỘI......................................................................96
3.3.1. Nhóm giải pháp về tổ chức cán bộ và chuyên môn nghiệp vụ ..........96
3.3.2. Nhóm giải pháp về tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật............98
KẾT LUẬN..................................................................................................100
TÀI LIỆU THAM KHẢO ..........................................................................101
DANH MỤC CÁC BẢNG
Stt Số hiệu
bảng
Tên bảng Trang
1 Bảng 2.1. Tổng kết tình hình xét xử các loại án của ngành Tòa án
nhân dân thành phố Hà Nội giai đoạn 2007 – 2012 61
2 Bảng 2.2. Số liệu xét xử các vụ án xâm phạm sở hữu của ngành Tòa
án nhân dân thành phố Hà Nội giai đoạn 2007 – 2012 62
3 Bảng 2.3. Số liệu xét xử các vụ án xâm phạm sở hữu không có
tính chiếm đoạt của ngành Tòa án nhân dân thành phố
Hà Nội giai đoạn 2007 – 2013 63
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong lịch sử phát triển loài ngƣời, vấn đề lợi ích vật chất luôn là căn
nguyên của mọi xung đột trong xã hội. Bởi vậy, việc đảm bảo quyền sở hữu
các lợi ích vật chất luôn đƣợc các nhà nƣớc trên thế giới quan tâm, bảo hộ. Ở
nƣớc ta, quyền sở hữu là một trong những quyền cơ bản, bất khả xâm phạm
của công dân, đƣợc ghi nhận tại Điều 32 Hiến pháp năm 2013 – Đạo luật có
giá trị pháp lý cao nhất trong hệ thống pháp luật Việt Nam. Quyền đó còn
đƣợc ghi nhận cụ thể hơn trong các đạo luật và các văn bản quy phạm pháp
luật trên mọi lĩnh vực nhƣ: hình sự, dân sự, kinh tế…
Trong pháp luật dân sự, tài sản và quyền sở hữu tài sản là một trong số
những vấn đề quan trọng, đƣợc quy định cụ thể tại Phần thứ hai “Tài sản và
quyền sở hữu” với 7 Chƣơng và 118 điều của Bộ luật dân sự năm 2005.
Trong pháp luật hình sự, quyền sở hữu đƣợc bảo hộ thông qua 13 điều
luật (từ Điều 133 đến Điều 145) thuộc Chƣơng XIV “Các tội phạm xâm
phạm sở hữu” của Bộ luật hình sự, là cơ sở pháp lý quan trọng để bảo vệ
quyền sở hữu hợp pháp của Nhà nƣớc, tổ chức và công dân. Cùng với tiến
trình xây dựng đất nƣớc và trƣởng thành, pháp luật hình sự về vấn đề sở hữu
từng bƣớc đƣợc thiết lập và ngày càng hoàn thiện, đi vào cuộc sống và phát
huy tác dụng của nó. Tuy nhiên, sự phát triển của nó không thể tách rời với
sự phát triển chính trị, kinh tế, văn hóa và chịu sự chi phối bởi đặc điểm lịch
sử của đất nƣớc và thế giới. Bởi vì pháp luật của mỗi nƣớc phản ánh sự phát
triển của đất nƣớc đó.
Trong bối cảnh hiện tại, đất nƣớc ta đang tiến hành công cuộc đổi mới
và hội nhập quốc tế bƣớc đầu có những chuyển biến và đạt đƣợc những
thành tựu về kinh tế, văn hóa, xã hội, đời sống vật chất và tinh thần của
2
ngƣời dân từng bƣớc đƣợc nâng cao. Bên cạnh đó, mặt trái của nền kinh thị
trƣờng mang lại, đó là tình hình tội phạm diễn biến ngày càng phức tạp,
nhiều loại tội phạm mới xuất hiện nhƣ tội phạm công nghệ cao, một số loại
tội phạm có chiều hƣớng gia tăng nhƣ tội phạm về ma túy; tội phạm về môi
trƣờng, tội phạm xâm phạm sở hữu… gây thiệt hại lớn về ngƣời, tài sản cho
Nhà nƣớc, tổ chức và công dân.
Thực tiễn xét xử trong những năm qua cho thấy, các tội phạm xâm
phạm sở hữu luôn chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng số các vụ án hình sự.
Đối với các tội xâm phạm sở hữu không có tính chiếm đoạt thƣờng xảy ra ít
hơn so với các tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt, nhƣng đang ngày
càng xảy ra phổ biến hơn, tính chất và thủ đoạn phạm tội ngày càng tinh vi,
phức tạp, gây hậu quả nghiêm trọng và ảnh hƣởng xấu đến trật tự an toàn xã
hội. Song trên thực tế, do từ trƣớc đến nay, loại tội phạm này ít xảy ra, thậm
chí có tội chƣa xảy ra nên chƣa có sự tổng kết kinh nghiệm xét xử và văn bản
hƣớng dẫn hầu nhƣ rất ít nên các cơ quan tiến hành tố tụng tỏ ra lúng túng,
khó khăn khi giải quyết vụ án, không đánh gia đúng bản chất hành vi phạm
tội dẫn đến việc xác định sai tội danh hoặc xử oan, bỏ lọt tội phạm. Để khắc
phục tình trạng trên thì vấn cốt lõi đƣợc đặt ra là phải năm vững các quy định
của pháp luật về tội phạm, nhận thức đúng bản chất của hành vi phạm tội, từ
đó đƣa ra đƣờng lối xử lý đúng đắn, bảo đảm sự khách quan, công bằng và
nghiêm minh của pháp luật.
Nhận thức đƣợc điều đó, tôi chọn đề tài: “Các tội xâm phạm sở hữu
không có tính chiếm đoạt theo Bộ luật hình sự năm 1999 (trên cơ sở số liệu
xét xử ngành Tòa án Hà Nội giai đoạn 2007 - 2012)".
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Nghiên cứu các tội xâm phạm sở hữu nói chung có ý nghĩa to lớn
không những về mặt khoa học mà còn cả về hình thức nên đã có nhiều
3
công trình nghiên cứu xung quanh về vấn đề này nhƣ: “Một số vấn đề lý
luận về định tội danh và hướng dẫn phương pháp định tội danh”, - PGS.
TS. Trịnh Quốc Toản; “Vấn đề định tội danh trong các tội xâm phạm sở
hữu” - TS. Nguyễn Ngọc Chí; “Nghiên cứu hoàn thiện các quy định của Bộ
luật Hình sự về các tội xâm phạm sở hữu” – Đại tá, PGS, TS. Trần Vi Dân ;
“Trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm sở hữu” - TS. Nguyễn Ngọc
Chí; “Trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa,
tài sản công dân”- Tác giả Vũ Thiện Kim; “Tìm hiểu khái niệm và những đặc
trưng cơ bản của tội phạm theo luật hình sự Việt Nam” - TS. Đào Trí Öc;
“Xung đột quan điểm trong việc xác định tội danh” - TS. Phạm Văn Beo;
“Tìm hiểu việc định tội và quyết định hình phạt từ phương diện là những hoạt
động áp dụng pháp luật hình sự cơ bản của Tòa án” - ThS. Chu Thị Trang
Vân; “Vấn đề xác định và chuyển hóa tội danh nặng hơn, nhẹ hơn và ngược
lại” - ThS. Nguyễn Hữu Hậu; “Định tội danh đối với nhóm tội xâm phạm sở
hữu trên địa bàn tỉnh Bình Định giai đoạn 2006- 2010” - ThS. Trần Thị
Phƣơng; Tạp chí Tòa án số 01- 2009; Tạp chí khoa học pháp luật số 2/2001....
Nhìn chung, những công trình nghiên cứu nói trên đã khái quát đƣợc
một số vấn đề lý luận và thực tiễn áp dụng pháp luật đối với các tội phạm xâm
phạm sở hữu nhƣng chƣa có công trình nghiên cứu nào về vấn đề “Các tội
xâm phạm sở hữu không có tình chất chiếm đoạt theo bộ luật hình sự năm
1999” trên cơ sở số liệu xét xử ngành Tòa án Hà Nội giai đoan 2007 - 2012.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu đề tài này là phân tích khoa học để làm sáng tỏ
những vấn đề lý luận và thực tiễn đối với các tội xâm phạm sở hữu nói chung
và các tội xâm phạm sở hữu không có tính chất chiếm đoạt nói riêng, đồng
thời phân tích thực trạng việc xét xử đối với các tội xâm phạm sở hữu không
4
có tính chất chiếm đoạt trên địa bàn thành phố Hà Nội. Từ đó chỉ ra các tồn
tại, hạn chế, nguyên nhân và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động xét
xử với các tội xâm phạm sở hữu không có tính chất chiếm đoạt trên địa bàn
thành phố Hà Nội.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Từ mục đích nghiên cứu nêu trên, luận văn có nhiệm vụ sau:
- Làm rõ những vấn đề lý luận về các tội xâm phạm sở hữu không có
tính chất chiếm đoạt theo Luật hình sự Việt Nam Nhƣ: Khái niệm, đặc điểm
của các tội phạm xâm phạm sở hữu; Đặc điểm các tội xâm phạm sở hữu
không có tính chất chiếm đoạt; Cấu thành tội phạm của các tội xâm phạm sở
hữu không có tính chiếm đoạt.
- Phân tích, đánh giá sâu sắc thực trạng xét xử các tội xâm phạm sở hữu
không có tính chất chiếm đoạt trên địa bàn thành phố Hà Nội.
- Chỉ ra đƣợc những tồn tại, hạn chế, nguyên nhân và giải pháp nhằm
nâng cao hiệu quả xét xử với các tội xâm phạm sở hữu không có tính chất
chiếm đoạt trên địa bàn thành phố Hà Nội.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn đƣợc thực hiện trên cơ sở phƣơng pháp luận chủ nghĩa duy
vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác – Lênin, tƣ
tƣởng Hồ Chí Minh về Nhà nƣớc và pháp luật, cũng nhƣ các quan điểm của
Đảng và Nhà nƣớc ta về xây dựng nhà nƣớc pháp quyền, về chính sách hình
sự, vấn đề cải cách tƣ pháp theo Nghị quyết Đại hội Đảng VIII, IX, X và Nghị
quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002, Nghị quyết số 49- NQ/TW ngày
26/5/2005 và Chiến lƣợc cải cách tƣ pháp đến năm 2020 của Bộ chính trị.
Bên cạnh đó, luận văn còn sử dụng phƣơng pháp nghiên cứu cụ thể và
đặc thù của khoa học luật hình sự nhƣ: Phƣơng pháp thống kê; phƣơng pháp
phân tích và tổng hợp các số liệu dƣa trên bản án, quyết định và số liệu thống
5
kê hàng năm của các cấp Tòa án; phƣơng pháp so sánh, đối chiếu các quy
định của pháp luật nhằm tìm ra những điểm mới trong quá trình nghiên cứu.
5. Những điểm mới của luận văn và đóng góp của luận văn
Việc nghiên cứu của luận văn có ý nghĩa vô cùng quan trọng
cả về phƣơng diện lý luận cũng nhƣ thực tiễn. Bởi lẽ đây là công trình nghiên
cứu đầu tiên đề cập đến việc với các tội xâm phạm sở hữu không có tính chất
chiếm đoạt trên địa bàn thành phố Hà Nội, trong đó giải quyết các vấn đề
quan trọng về lý luận và thực tiễn xoay quanh đề tài tài này trên cơ sở những
bản án, quyết định, số liệu báo cáo thống kê của ngành Tòa án Hà Nội.
Những điểm mới của luận văn là:
- Nghiên cứu nhằm làm rõ khía cạnh pháp lý về các tội xâm phạm sở
hữu không có tính chất chiếm đoạt, góp phần hoàn thiện lý thuyết định tội
danh trong khoa học pháp lý hình sự.
- Nghiên cứu, đánh giá làm sáng tỏ thực trạng xét xử các tội xâm phạm
sở hữu không có tính chất chiếm đoạt của Tòa án cá cấp trong ngành Tòa án
Hà Nội, đồng thời chỉ ra những tồn tại, hạn chế, nguyên nhân và giải pháp
nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động xét xử với các tội xâm phạm sở hữu không
có tính chất chiếm đoạt trên địa bàn thành phố Hà Nội.
- Trên cơ sở những phân tích, đánh giá khoa học các tội xâm phạm sở
hữu không có tính chất chiếm đoạt trên phƣơng diện lý luận và thực tiễn, luận
văn đề xuất các định hƣớng và giải pháp hoàn thiện hệ thống pháp luật thực
định liên quan đến các tội xâm phạm sở hữu nói chung và các tội xâm phạm
sở hữu không có tính chiếm đoạt nói riêng.
Bên cạnh đó, luận văn sẽ là một trong những tài liệu tham khảo
hữu ích cho các nhà lập pháp cũng nhƣ các nhà nghiên cứu luật học và đặc
biệt là các Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án trong việc định tội
6
danh làm cơ sở ho việc giải quyết vụ án hình sự đƣợc khách quan, có căn
cứ và đúng pháp luật.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tham khảo, nội dung của
luận văn gồm 3 chƣơng:
Chương 1: Những vấn đề chung về các tội xâm phạm sở hữu không có
tính chất chiếm đoạt trong Luật hình sự Việt Nam.
Chương 2: Quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 về các tội xâm
phạm sở hữu không có tính chiếm đoạt và thực tiễn áp dụng.
Chương 3: Các giải pháp hoàn thiện các quy định các tội xâm phạm sở
hữu không có tính chiếm đoạt trong Bộ luật hình sự năm 1999 và nâng cao
hiệu quả áp dụng.
7
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CÁC TỘI XÂM PHẠM
SỞ HỮU KHÔNG CÓ TÍNH CHIẾM ĐOẠT
TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM VÀ Ý NGHĨA CỦA VIỆC QUY ĐỊNH
CÁC TỘI XÂM PHẠM SỞ HỮU KHÔNG CÓ TÍNH CHIẾM ĐOẠT
TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của các tội xâm phạm sở hữu không
có tính chiếm đoạt
Ở bất kỳ xã hội nào cũng tồn tại những cách thức nhất định để chiếm
giữ, làm chủ của cải vật chất và trong quá trình thực hiện những cách thức đó
xuất hiện quan hệ giữa ngƣời với ngƣời đối với những của cải vật chất đó.
Mối quan hệ đó là quan hệ sở hữu.
Quan hệ sở hữu là quan hệ xã hội xuất hiện, tồn tại và phát triển nhƣ
một tất yếu khách quan trong đời sống xã hội loại ngƣời, là hình thức xã hội
của sự chiếm hữu của cải vật chất. Nó đƣợc luật hoá hành quyền sở hữu.
Theo Điều 164 Bộ Luật dân sự năm 2005 thì “quyền sở hữu bao gồm
quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt tài sản của chủ sở hữu
theo quy định của pháp luật” [27, tr.83]. Đây là ba quyền năng cơ bản hợp
thành quyền sở hữu.
Quyền chiếm hữu tài sản là quyền của chủ tài sản tự mình nắm giữ,
quản lý tài sản thuộc sở hữu của mình. Thông thƣờng quyền chiếm hữu đƣợc
thực hiện bởi chủ sở hữu tài sản. Nhƣng ngƣời ngƣời không phải là chủ sở
hữu tài sản cũng có quyền chiếm hữu tài sản trong trƣờng hợp đƣợc chủ sở
hữu chuyển giao hoặc do pháp luật quy định đƣợc nắm giữ, quản lý tài sản
(Điều 182 BLDS).
8
Quyền sử dụng tài sản là quyền của chủ sở hữu khai thác công dụng,
hƣởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản, trong đó hoa lợi là sản vật do tự nhiên mang
lại và lợi tức là các khoản thu lời đƣợc từ việc khai thác tài sản. Ngƣời không
phải là chủ sở hữu tài sản cũng có quyền sử dụng tài sản trong trƣờng hợp
đƣợc chủ sở hữu giao quyền sử dụng tài sản thông qua hợp đồng hay do pháp
luật quy định (Điều 192 BLDS).
Quyền định đoạt tài sản là quyền của chủ sở hữu chuyển giao quyền sở
hữu của mình cho ngƣời khác hoặc chủ sở hữu từ bỏ quyền sở hữu tài sản của
mình thông qua các hình thức chuyển giao quyền sở hữu nhƣ bán, chuyển
nhƣợng, tặng cho, để thừa kế…
Trong quá trình thực hiện các quyền nêu trên, chủ sở hữu có thể trực
tiếp hoặc ủy quyền cho ngƣời khác thay mình thực hiện các quyền chiếm hữu,
sử dụng và quyền định đoạt tài sản thuộc sở hữu của mình theo ý chí của chủ
sở hữu nhƣng không đƣợc gây thiệt hại hoặc làm ảnh hƣởng đến lợi ích của
nhà nƣớc, lợi ích công cộng và quyền và lợi ích hợp pháp của ngƣời khác.
Quyền sở hữu tài sản đƣợc ghi nhận trong Hiến pháp, đƣợc pháp luật
tôn trọng và bảo vệ thông qua các quy định pháp luật trên các lĩnh vực nhƣ
dân sự, hình sự, kinh doanh thƣơng mại...
Trong pháp luật hình sự, quyền sở hữu tài sản đƣợc bảo hộ thông qua
các quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam tại chƣơng “Các tội phạm xâm
phạm sở hữu”. Và quyền sở hữu ở đây là quyền sở hữu về tài sản mà không
phải quyền sở hữu công nghiệp hay sở hữu trí tuệ. Vì vậy mọi hành vi gây
thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho quan hệ sở hữu là những hành vi
xâm phạm các quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản của chủ sở hữu.
Tuy nhiên, hành vi phạm tội về sở hữu có thể xâm phạm cả ba quyền năng
thuộc quyền sở hữu tài sản của chủ sở hữu nhƣ tội cƣớp tài sản, trộm cắp
tài sản… nhƣng cũng có tội phạm chỉ xâm hại một trong các quyền năng
9
thuộc quyền sở hữu nhƣ tội chiếm giữ trái phép tài sản, tội sử dụng trái
phép tài sản…
Đối với một số tội, tuy có hành vi xâm phạm quyền sở hữu nhƣng
không phải là tội xâm phạm sở hữu và không đƣợc các nhà làm luật quy định
ở chƣơng “Các tội xâm phạm sở hữu”. Điều này xuất phát từ bản chất của
hành vi phạm tội là ngoài việc xâm phạm quan hệ sở hữu, hành vi này còn
đồng thời xâm phạm quan hệ xã hội khác và sự xâm phạm này mới thể hiện
đƣợc đầy đủ nhất bản chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi, thì trong trƣờng
hợp đó khách thể của tội phạm không phải là quan hệ sở hữu. Ví dụ nhƣ hành
vi xâm phạm hoạt động đúng đắn của cơ quan, tổ chức qua đó xâm phạm
quyền sở hữu tài sản của cơ quan, tổ chức đó.
Nhƣ vậy, hành vi nhƣ thế nào bị coi là tội phạm xâm phạm sở hữu?
Hiện có rất nhiều quan điểm xung quanh vấn đề này nhƣ:
Theo PGS. TS. Nguyễn Văn Huyên: Các tội xâm phạm sở hữu là hành
vi nguy hiểm cho xã hội đƣợc quy định tại Chƣơng XIV Bộ luật hình sự, do
ngƣời có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý xâm
phạm chế độ sở hữu tài sản của Nhà nƣớc, cơ quan, tổ chức và cá nhân.
Theo Thạc sỹ Đinh Văn Quế: Các tội xâm phạm sở hữu là những hành
vi nguy hiểm cho xã hội đƣợc quy định trong Bộ luật hình sự, do ngƣời có
năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm
đến quan hệ sở hữu của cơ quan, tổ chức và của công dân.
Theo PGS.TS. Nguyễn Ngọc Hòa: Các tội xâm phạm sở hữu là hành vi
có lỗi, gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho quan hệ sở hữu và sự gây
thiệt hại này thể hiện đầy đủ bản nguy hiểm cho xã hội của hành vi.
Theo Thông tƣ 02/2001/TTLN ngày 25/12/2001 của liên ngành
TANDTC- VKSNDTC - BTP - BCA hƣớng dẫn áp dụng các tội xâm phạm sở
hữu: Các tội xâm phạm sở hữu là những hành vi xâm phạm quyền chiếm hữu,
quyền sử dụng và quyền định đoạt về tài sản của ngƣời khác.
10
Theo quan điểm của tác giả, khái niệm tội phạm nói chung hay khái
niệm về các tội xâm phạm sở hữu nói riêng phải có tính tổng quát, phản ánh
đƣợc bản chất pháp lý và bản chất xã hội của tội phạm, từ đó phân biệt các tội
này với tội phạm khác.
Nhìn chung, định nghĩa về khái niệm các tội xâm phạm sở hữu nêu trên
đã đề cập tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội cũng nhƣ khách
thể của tội phạm là quyền sở hữu tài sản – mặt khách quan, tính trái pháp luật
hình sự - mặt pháp lý và mặt chủ quan, đó là tội phạm xâm phạm sở hữu do
ngƣời có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện với lỗi cố ý hoặc vô ý.
Tuy nhiên các khái niệm nêu trên chƣa đề cập đến một dấu hiệu quan
trọng của tội phạm nói chung và tội phạm xâm phạm sở hữu nói riêng, đó là
“đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự” của ngƣời thực hiện tội phạm. Đặc điểm
này là một trong ba đặc điểm thuộc mặt chủ quan của tội phạm, có ý nghĩa
trong việc xác định một hành vi xâm phạm quyền sở hữu có phải là tội phạm
hay không. Đặc điểm “tuổi chịu trách nhiệm hình sự” có mối quan hệ chặt chẽ
với năng lực trách nhiệm hình sự và lỗi. Bởi lẽ, một ngƣời đủ tuổi chịu trách
nhiệm hình sự thì thông thƣờng sẽ có năng lực trách nhiệm hình sự (trừ
trƣờng hợp bị bệnh tâm thần hoặc bệnh lý khác làm mất khả năng nhận thức
và điều khiển hành vi), nghĩa là ngƣời đó có khả năng nhận thức và điều
khiển hành vi theo quy định của pháp luật hình sự, và khi ngƣời đó thực hiện
tội phạm thì mới có lỗi. Nếu tại thời điểm chủ thể của hành vi thực hiện hành
vi ngây thiệt hại về tài sản cho ngƣời khác mà ngƣời đó chƣa đủ tuổi chịu
trách nhiệm hình sự hoặc không có năng lực trách nhiệm hình sự thì chủ thể
của hành vi không có lỗi, vì thế không phải là tội phạm. Vì vậy không thể
thiếu đặc điểm này trong khái niệm tội phạm nói chung cũng nhƣ trong khái
niệm các tội xâm phạm sở hữu nói riêng.
11
Từ những phân tích nêu trên, có thể đƣa ra khái niệm về các tội xâm
phạm sở hữu nhƣ sau:
Các tội xâm phạm sở hữu là hành vi gây nguy hiểm cho xã hội đƣợc
quy định trong Bộ luật hình sự, do ngƣời có năng lực trách nhiệm hình sự và
đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự thực hiện một cách có lỗi, xâm phạm đến
quyền sở hữu tài sản của Nhà nƣớc, cơ quan, tổ chức và của công dân.
Căn cứ vào tính chất của hành vi khách quan xâm hại đến các quyền
năng trong quyền sở hữu đối với tài sản, các tội xâm phạm sở hữu đƣợc chia
làm 2 nhóm:
+ Các tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt đƣợc quy định từ Điều
133 đến Điều 140.
+ Các tội xâm phạm sở hữu không có tính chiếm đoạt đƣợc quy định từ
Điều 141 đến Điều 145.
Theo đó, các tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt là những tội xâm
phạm sở hữu bằng việc chiếm đoạt và trong cấu thành tội phạm của những tội
này có dấu hiệu chiếm đoạt.
Trong đó, “chiếm đoạt là hành vi cố ý chuyển dịch trái pháp luật tài sản
đang thuộc sự quản lí của chủ tài sản thành tài sản của mình” [48, tr.366].
Khái niệm này đã thể hiện đƣợc bản chất của khái niệm chiếm đoạt nhƣng đã
đồng nhất dấu hiệu chiếm đoạt với hành vi chiếm đoạt.
Có quan điểm khác lại cho rằng, chiếm đoạt là việc cố ý chuyển dịch
trái pháp luật tài sản đang đƣợc sự quản lí của chủ sở hữu thành tài sản của
mình. Chúng đƣợc biểu hiện dƣới dạng hành vi hoặc mục đích phạm tội.
Xung quanh khái niệm các tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt
và hành vi chiếm đoạt còn rất nhiều tranh cãi. Nhƣng cho đến nay, chƣa có
một học giả nào đƣa ra khái niệm về các tội xâm phạm sở hữu không có
tính chiếm đoạt. Song căn cứ vào khái niệm các tội xâm phạm sở hữu cũng
12
nhƣ khái niệm các tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt nêu trên, tác
giả xin đƣa ra khái niệm về các tội xâm phạm sở hữu không có tính chiếm
đoạt nhƣ sau:
Các tội xâm phạm sở hữu không có tính chiếm đoạt là hành vi nguy
hiểm cho xã hội đƣợc quy định trong bộ luật hình sự, do ngƣời có năng lực
trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự thực hiện một cách
có lỗi cố ý hoặc vô ý, xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản nhƣng không nhằm
chiếm đoạt tài sản mà chỉ gây thiệt hại về tài sản bằng hành vi hủy hoại, làm
hƣ hỏng, sử dụng, chiếm giữ trái phép hoặc thiếu trách nhiệm gây thiệt hại
nghiêm trọng đến tài sản.
Căn cứ vào tính chất của hành vi khách quan xâm phạm quyền sở hữu
tài sản nên có sự phân chia các tội xâm phạm sở hữu thành hai nhóm là các tội
xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt và các tội xâm phạm sở hữu không có
tính chiếm đoạt nhƣng dù thuộc nhóm tội nào thì hành vi phạm tội đối với các
tội này đều có chung bản chất đó là xâm phạm sở hữu nên đều đƣợc quy định
trong chƣơng “Các tội xâm phạm sở hữu”. Do đó, các tội xâm phạm sở hữu
không có tính chiếm đoạt cũng có các đặc điểm chung của các tội xâm phạm
sở hữu và có đặc điểm đặc trƣng riêng của nhóm tội này. Cụ thể nhƣ sau:
Một là , khách thể của các tội xâm phạm sở hữu không có tính chiếm
đoạt là quan hệ sở hữu tài sản (chỉ xâm phạm quan hệ sở hữu tài sản mà
không xâm phạm đến quan hệ nhân thân nhƣ một số tội xâm phạm sở hữu có
tính chiếm đoạt là tội cƣớp tài sản, cƣớp giật tài sản hay bắt cóc nhằm chiếm
đoạt tài sản…).
Theo quy định của Bộ Luật dân sự năm 2005 thì quyền sở hữu tài sản
đƣợc hợp thành bởi quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản. Trong khi
các tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt có hành vi xâm phạm cả ba
quyền năng đối với tài sản của chủ sở hữu tài sản gồm quyền sử dụng, quyền
13
chiếm hữu và quyền định đoạt tài sản nhƣ tội cƣớp tài sản, tôi trộm cắp tài sản
… thì đối với các tội xâm phạm sở hữu không có tính chiếm đoạt, có ba tội là
tội hủy hoại hoặc cố ý làm hƣ hỏng tài sản, tội thiếu trách nhiệm gây thiệt hại
nghiêm trọng đến tài sản của Nhà nƣớc và tội vô ý gây thiệt hại nghiêm trọng
đến tài sản là hành vi phạm tội xâm phạm cả ba quyền năng của chủ sở hữu,
còn lại hai tội là tội chiếm giữ trái phép tài sản và tội sử dụng trái phép tài
sản, hanh vi phạm tội chỉ xâm phạm quyền chiếm hữu hay quyền sử dụng là
một trong ba quyền năng đối với tài sản của chủ sở hữu.
Hai là, đối tƣợng tác động của các tội phạm xâm phạm sở hữu nói chung
và các tội xâm phạm sở hữu không có tính chiếm đoạt nói riêng là tài sản.
Tài sản, theo Điều 163 Bộ luật dân sự năm 2005, bao gồm: Vật, tiền,
giấy tờ có giá và quyền tài sản. Nhƣng trong các điều luật của Bộ luật hình sự
năm 1999 về các tội xâm phạm sở hữu và thực tiễn đấu tranh phòng, chống
tội phạm cho thấy, đối tƣợng tác động chủ yếu của loại tội phạm này là các
loại tài sản hữu hình nhƣ vật, tiền, các giấy tờ có giá, còn tài sản thuộc loại vô
hình (quyền tài sản) thì ít là đối tƣợng tác động của hành vi phạm tội này.
Ba là , về hành vi khách quan, các tội xâm phạm sở hữu không có tính
chiếm đoạt đƣợc thực hiện thông qua các hành vi chiếm giữ, sử dụng, hủy
hoại hoặc làm hƣ hỏng, gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản nhƣng những
hành vi này không có dấu hiệu chiếm đoạt và cũng không nhằm mục đích
chiếm đoạt tài sản.
Bốn là , hậu quả của các tội xâm phạm sở hữu không có tính chiếm đoạt
phần lớn gây ra là thiệt hại về tài sản. Đối với các tội này, thì thiệt hại về tài
sản là thƣớc đo đánh giá tích chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành
vi phạm tội và giá trị tài sản bị thiệt hại còn là căn cứ để phân biệt tội phạm
với hành vi vi phạm khác, bởi vì thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra chƣa đến
mức quy định của Bộ luật hình sự thì chƣa bị coi là tội phạm. Ví dụ nhƣ
14
chiếm giữ tài sản dƣới 5.000.000 đồng nhƣng không phải là cổ vật hoặc vật
có giá trị lịch sử, văn hóa thì chƣa bị coi là tội phạm. Bên cạnh thiệt hại về tài
sản, thì tội sử dụng trái phép tài sản hay tội thiếu trách nhiệm gây thiệt hại
nghiêm trọng đến tài sản của Nhà nƣớc, tội hủy hoại hoặc cố ý làm hƣ hỏng
tài sản… còn xâm phạm đến trật tự an toàn xã hội; xâm phạm đến hoạt động
bình thƣờng của các cơ quan, tổ chức...
Năm là, chủ thể của các tội xâm phạm sở hữu không có tính chiếm đoạt
là chủ thể thƣờng và chủ thể đặc biệt. Tuy nhiên phần lớn thì chủ thể của các
tội này là chủ thể thƣờng, chỉ có một tội phạm có chủ thể đặc biệt (tội thiếu
trách nhiệm gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản của Nhà nƣớc - Điều 144).
Sáu là, cấu thành tội phạm của các tội này là cấu thành vật chất nên
ngoài dấu hiệu hành vi thì dấu hiệu hậu quả cũng nhƣ mối quan hệ nhân quả
là những dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành tội phạm của các tội này. Bởi lẽ,
nếu ngƣời thực hiện hành vi gây ra thiệt hại chƣa đến mức Bộ luật hình sự
quy định đối với tội phạm cụ thể thì hành vi đó chƣa bị coi là tội phạm. Mặt
khác, ngƣời có hành vi xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản chỉ phải chịu
trách nhiệm hình sự về những thiệt hại về tài sản do chính hành vi của mình
gây ra. Nếu ngƣời có hành vi không gây thiệt hại về tài sản, nghĩa là giữa
hành vi và hậu quả không có mối quan hệ nhân quả thì ngƣời thực hiện hành
vi không phải chịu trách nhiệm hình sự về thiệt hại đó. Vì vậy việc xác định
quan hệ nhân quả là rất cần thiết, là cơ sở để quy trách nhiệm hình sự đối với
ngƣời phạm tội.
1.1.2. Ý nghĩa của việc quy định các tội phạm xâm phạm sở hữu
không có tính chiếm đoạt
Cũng nhƣ các chế định tội phạm khác, việc quy định các tội xâm phạm
sở hữu không có tính chiếm đoạt trong Bộ luật hình sự Việt Nam là cần thiết
và có ý nghĩa quan trọng, nhất là trong giai đoạn xây dựng Nhà nƣớc pháp
quyền hiện nay. Ý nghĩa của nó đƣợc thể hiện dƣới các khía cạnh sau:
15
Thứ nhất, quyền sở hữu tài sản đƣợc ghi nhận trong Hiến pháp, thể hiện
rõ đƣờng lối quan điểm của Đảng và Nhà nƣớc ta luôn tôn trọng và bảo vệ
cũng nhƣ không phân biệt các hình thức sở hữu. Việc quy định các tội phạm
xâm phạm sở hữu không có tính chiếm đoạt trong bộ luật hình sự là sự cụ thể
hóa quy định của Hiến pháp trong pháp luật hình sự, là cơ sở pháp lý quan
trọng để bảo vệ quyền sở hữu về tài sản của Nhà nƣớc, của cơ quan, của tổ
chức và công dân khỏi sự xâm hại của tội phạm. Do đó, tất cả các hành vi
xâm phạm một trong ba quyền năng hoặc xâm phạm đồng thời ba quyền năng
hợp thành quyền sở hữu tài sản gồm quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và
quyền định đoạt tài sản của chủ sở hữu hoặc ngƣời không phải là chủ sở hữu
tài sản nhƣng đƣợc chủ sở hữu tài sản giao quyền theo quy định của pháp luật
gây thiệt hại về tài sản mà thỏa mãn các dấu hiệu trong cấu thành tội phạm cụ
thể đƣợc quy định trong Bộ luật hình sự đều bị coi là tội phạm và bị xử lý
bằng chế tài hình sự nhằm đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ
chức và công dân.
Thứ hai, xuất phát từ việc đánh giá tính nguy hiểm cho xã hội cũng nhƣ
hậu quả do tội phạm gây ra nghiêm trọng hơn so với bất kỳ hành vi vi phạm
pháp luật nào khác nên ngƣời phạm tội bị đe dọa xử lý bằng biện pháp cƣỡng
chế nghiêm khắc nhất trong hệ thống các biện pháp cƣỡng chế của Nhà nƣớc
là hình phạt. Do đó việc quy định các tội này trong Bộ luật hình sự là căn cứ
để phân biệt tội phạm xâm phạm sở hữu không có tính chiếm đoạt với hành vi
vi phạm pháp luật liên quan đến quyền tài sản, từ đó áp dụng quy phạm pháp
luật nội dung phù hợp để điều chỉnh quan hệ nêu trên nhƣ luật dân sự, luật
hình sƣ, luật kinh tế…
Thứ ba, việc quy định các tội này trong Bộ luật hình sự là một trong
căn cứ quan trọng để cá thể hóa trách nhiệm hình sự và hình phạt đối với
ngƣời thực hiện tội phạm trong từng trƣờng hợp cụ thể.
16
Thứ tư, mỗi một chế độ xã hội, khi ban hành luật hình sự không chỉ
nhằm mục đích trừng trị ngƣời phạm tội mà Nhà nƣớc muốn sử dụng luật
hình sự nhƣ một công cụ để phòng ngừa tội phạm hiệu quả, đảm bảo an ninh
trật tự và an toàn xã hội. Vì vậy việc quy định về các tội xâm phạm sở hữu
không có tính chiếm đoạt góp phần tăng cƣờng hiệu quả của công cuộc đấu
tranh phòng, chống tội phạm trong lĩnh vực này, từng bƣớc hạn chế, đẩy lùi
và tiến tới loại bỏ tội phạm này ra khỏi đời sống xã hội.
Thứ năm, bên cạnh những ý nghĩa nêu trên, việc quy định các tội
phạm này còn có ý nghĩa trong việc giáo dụng ý thức tôn trọng và tuân thủ
pháp luật về quyền sở hữu tài sản nhằm nâng cao ý thức pháp luật và ý thức
chống và phòng ngừa tội phạm nói trên. Để làm đƣợc điều này, cần phải
tăng cƣờng phổ biến, giao dục pháp luật một cách sâu rộng về loại tội phạm
này để ngƣời dân hiểu, tự giác tuân thủ pháp luật và có ý thức trong việc đấu
tranh chống tội phạm.
1.2. KHÁI QUÁT LỊCH SỬ PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ
NĂM 1945 ĐẾN TRƢỚC KHI BAN HÀNH BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM
1999 QUY ĐỊNH VỀ CÁC TỘI XÂM PHẠM SỞ HỮU KHÔNG CÓ TÍNH
CHIẾM ĐOẠT
1.2.1. Giai đoạn từ sau Cách mạng tháng Tám 1945 đến trước khi
ban hành Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1985
Trƣớc Cách mạng tháng Tám năm 1945, nƣớc ta là một nƣớc thuộc địa
nửa phong kiến với ách đô hộ của thực dân Pháp và triều đình Nhà Nguyễn
theo chính thể quân chủ chuyên chế - bộ máy tay sai của thực dân Pháp. Bởi
vậy, nƣớc ta là một thuộc địa không có hiến pháp.
Sau khi đất nƣớc đƣợc thành lập, trong phiên họp Chính phủ ngày
3/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Trước ta đã bị chế độ quân chủ
chuyên chế cai trị, rồi đến chế độ thực dân không kém phần chuyên chế, nên
17
nước ta không có Hiến pháp, nhân dân ta không được hưởng quyền tự do dân
chủ. Chúng ta phải có một Hiến pháp dân chủ”. Tuy nhiên, trong tình thế nhà
nƣớc cộng hoà vừa mới đƣợc thành lập lại phải đối mặt với thù trong giặc
ngoài, nền kinh tế kiệt quệ, trong khi đó kinh nghiệm lập pháp còn non kém,
các chuyên gia pháp luật hầu nhƣ không có, việc duy trì áp dụng pháp luật
của chế độ cũ là giải pháp hợp lý và tối ƣu nhất, đảm bảo cho mọi hoạt động
của chính quyền và ngƣời dân trong khuôn khổ của pháp luật, không phải áp
dụng những biện pháp ngoài luật.
Có thể nói, Luật hình sự ở thời kỳ đầu của giai đoạn này chủ yếu là các
văn bản pháp luật đƣợc ban hành dƣới dạng sắc lệnh, trên cơ sở kế thừa
những quy định về hình sự của chế độ cũ nhằm bảo vệ thành quả cách mạng,
bảo vệ đất nƣớc nhƣ Sắc lệnh số 47- SL ngày 10-10-1946 quy định về việc
tạm thời giữ lại các luật lệ cũ, trong đó có Bộ “Luật hình an nam”, Bộ “Hoàng
Việt hình luật” và Bộ “Luật hình An Nam” cho đến khi ban hành các văn bản
pháp luật thống nhất trong cả nƣớc.
Điều 1 của Sắc lệnh số 47/SL ngày 10/10/1945 quy định: “Cho đến
khi ban hành những bộ pháp luật duy nhất cho toàn cõi nước Việt Nam, các
luật lệ hiện hành ở Bắc, Trung và Nam bộ vẫn tạm thời giữ nguyên như cũ,
nếu những luật lệ ấy không trái với những điều thay đổi ấn định trong sắc
lệnh này” [12, tr.1].
Những quy định này còn đƣợc thể hiện trong Điều 42 Sắc lệnh số
51/SL ngày 17/4/1946: “Những luật lệ hiện hành vẫn giữ nguyên như cũ, trừ
những điều khoản trái với sắc lệnh này cùng trái với chủ quyền và chính thể
dân chủ cộng hoà của nước Việt Nam” [13, tr.8].
Việc ban hành sắc lệnh số 47 đã kịp thời giải quyết các vụ án hình sự,
hạn chế tới mức thấp nhất sự xáo trộn trong đời sống, sinh hoạt của nhân dân,
góp phần ổn định trật tự xã hội.
18
Cùng với việc duy trì pháp luật của chế độ cũ nhƣ một giải pháp tình
thế, chính quyền cách mạng cũng từng bƣớc xây dựng pháp luật của chế độ
mới nhằm đáp ứng kịp thời các yêu cầu, đòi hỏi của cuộc kháng chiến cứu
nƣớc nhƣ ban hành các Sắc lệnh trên các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã
hội. Đây là nguồn luật hình sự chủ yếu của thời kỳ này.
Đến ngày 9-11-1946, Quốc hội đã thông qua bản Hiến pháp đầu tiên
của nƣớc Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Tại Điều 12 - Hiến pháp năm 1946 đã
ghi nhận: “Quyền tƣ hữu tài sản của công dân Việt Nam đƣợc bảo đảm”. Việc
qui định nhƣ vậy, đã tạo nên cơ sở pháp lý để bảo vệ quyền sở hữu tài sản của
công dân, là điều kiện ổn định sinh hoạt vật chất của mỗi con ngƣời.
Năm 1955, Thủ tƣớng chính phủ ban hành Thông tƣ 442/TTg ngày
19/01/1955 hƣớng dẫn các Tòa án trừng trị một số tội xâm phạm sở hữu nhƣ
trộm cắp, cƣớp của, lừa đảo, bội tín... Tuy nhiên, ở đó, các tội phạm xâm
phạm xâm phạm sở hữu không có tính chiếm đoạt (tội hủy hoại tài sản, tội
chiếm giữ trái phép tài sản, tội sử dụng trái phép tài sản …) chƣa đƣợc quy
định thành từng điều luật cụ thể.
Cũng trong giai đoạn này, Nhà nƣớc cũng còn ban hành Sắc lệnh số
267/SL ngày 15-6-1958 trừng trị những âm mƣu và hành động phá hoại tài
sản của Nhà nƣớc, của hợp tác xã và của nhân dân, làm cản trở việc thực hiện
chính sách kế hoạch của Nhà nƣớc về xây dựng kinh tế và văn hoá. Điều 2
Sắc lệnh 267 quy định: “Người phạm các tội trộm cắp, lãng phí, làm hỏng,
huỷ hoại, cướp bóc tài sản của Nhà nước, của hợp tác xã, của nhân dân với
mục đích phá hoại sẽ bị xử phạt từ 5 năm đến 20 năm tù” [14, Điều 2].
Bên cạnh đó, Điều 10 Sắc lệnh 267 cũng quy định:
Kẻ nào vì thiếu tinh thần trách nhiệm mà trong công tác
mình phụ trách đã để lãng phí, để hƣ hỏng máy móc, dụng cụ,
nguyên vật liệu, để lộ bí mật nhà nƣớc, để xảy ra tai nạn, v. v...
19
làm thiệt hại một cách nghiêm trọng đến tài sản của nhà nƣớc, của
hợp tác xã, của nhân dân, làm cản trở việc thực hiện chính sách, kế
hoạch của nhà nƣớc, sẽ bị phạt từ 3 tháng đến 2 năm tù. Nếu bị
can là ngƣời phụ trách thì có thể bị phạt tới 5 năm tù. Nếu gây ra
thiệt hại đặc biệt nghiêm trọng, bị can có thể bị phạt tới 20 năm tù
hoặc chung thân, và phải bồi thƣờng thiệt hại” [14, Điều 10].
Sắc lệnh này đã bƣớc đầu quy định về các tội xâm phạm sở hữu không
có tính chiếm đoạt với tội cố ý hủy hoại hoặc làm hƣ hỏng tài sản, tội thiếu
trách nhiệm gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản của Nhà nƣớc và tội vô ý
gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản. Các quy định này thể hiện quan điểm
của Nhà nƣớc trong việc nghiêm trị những ngƣời phạm tội vì mục đích phá
hoại tài sản của Nhà nƣớc, của hợp tác xã, của nhân dân, cản trở đến việc thực
hiện kế hoạch chính sách của Nhà nƣớc về kinh tế, văn hóa trong thời kỳ đó.
Cũng trong giai đoạn này còn có sự xuất hiện và phát triển của hệ thống
án lệ mới. Tại Thông tƣ 442/TTg ngày 19/01/1955 của Thủ tƣớng Chính phủ
đã khẳng định, sau khi Chính quyền cách mạng đƣợc thành lập, Toà án cách
mạng Việt Nam đã xét xử dựa trên các văn bản pháp luật do Chính phủ ban
hành, đồng thời vận dụng sáng tạo các quy định pháp luật của chế độ cũ để
đúc kết kinh nghiệm xét xử và kinh nhiệm xét xử đó đã trở thành án lệ. Song
Thủ tƣớng Chính phủ cũng nhận định, các án lệ này mặc dù đã góp phần đảm
bảo an ninh trật tự nhƣng về đƣờng lối áp dụng có sự khác biệt, không thống
nhất, rõ ràng, thậm chí chƣa đúng giữa các địa phƣơng. Điều này chứng tỏ án
lệ đƣợc áp dụng một cách phổ biến ở nhiều địa phƣơng trong giai đoạn này.
Tuy nhiên do đất nƣớc ta trải qua nhiều cuộc chiến tranh nên hiện không còn
lƣu giữ đƣợc những bản án của Tòa án mang tích án lệ nhƣng tồn tại của các
án lệ mới là một thực tế không thể phủ nhận.
Đến năm 1959, nhiệm vụ cách mạng đƣợc đặt ra trong giai đoạn này là
xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh thống nhất nƣớc nhà.
20
Trƣớc tình hình và nhiệm vụ mới, Hiến pháp năm 1946 đã bộc lộ những hạn
chế nhất định cần đƣợc bổ sung và thay đổi. Ngày 31-12-1959, Quốc hội đã
nhất trí thông qua Hiến pháp sửa đổi và ngày 1-1-1960, Chủ tịch Hồ Chí
Minh ký Sắc lệnh công bố Hiến pháp.
Hiếp pháp năm 1959 ra đời có ý nghĩa vô cùng to lớn và là nguồn của
Luật hình sự Việt Nam. Bởi lẽ Hiến pháp năm 1959 đã củng cố một bƣớc hệ
thống các cơ quan nhà nƣớc trong đó có hệ thống cơ quan tƣ pháp; tăng
cƣờng vai trò lập pháp và tách tƣ pháp ra khỏi hành chính; thành lập Toà án
nhân dân tối cao. Đó là cơ sở quan trọng, là tiền đề cho việc phát triển nguồn
luật hình sự. Bên cạnh đó, Hiếp pháp năm 1959 còn quy định về quyền lợi và
nghĩa vụ của công dân, đặt nền tảng cho các quan hệ xã hội đƣợc bảo vệ bằng
pháp luật trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, từ đó định hƣớng cho
việc thiết lập các quy phạm pháp luật hình sự để bảo hộ các quan hệ xã hội.
Tại Điều 40 - Hiến pháp 1959: “Tài sản công cộng của nƣớc Việt Nam dân
chủ cộng hòa là thiêng liêng không thể xâm phạm. Công dân có nghĩa vụ tôn
trọng và bảo vệ tài sản công cộng”.
Ngoài ra, Nhà nƣớc còn ban hành hai bản Pháp lệnh năm 1970 đó là
Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa và Pháp lệnh
trừng trị các tội xâm phạm tài sản riêng của công dân đƣợc Uỷ ban Thƣờng
vụ Quốc hội thông qua ngày 21-10-1970. Pháp lệnh quy định:
Tài sản xã hội chủ nghĩa bao gồm tài sản thuộc quyền sở hữu
của Nhà nƣớc (tức là sở hữu của toàn dân) và tài sản thuộc quyền
sở hữu của hợp tác xã và các tổ chức hợp pháp khác của nhân dân
(tức là sở hữu của tập thể) [53, tr.2]; Còn Tài sản riêng của công
dân đƣợc Nhà nƣớc bảo hộ gồm có của cải do sức lao động của
công dân làm ra, của cải thu nhập một cách hợp pháp hoặc để dành
đƣợc, nhƣ tiền bạc, lƣơng thực, quần áo, nhà ở, gia súc, xe cộ, tƣ
trang, văn hóa phẩm và đồ dùng riêng khác [54, tr.2].
21
Các tội xâm phạm sở hữu không có tính chiếm đoạt đƣợc quy định
trong các Pháp lệnh này bao gồm: Tội cố ý hủy hoại hoặc làm hư hỏng tài sản
xã hội chủ nghĩa (Điều 6); Tội thiếu tinh thần trách nhiệm, gây thiệt hại
nghiêm trọng đến tài sản xã hội chủ nghĩa (Điều 14); Tội sử dụng trái phép
tài sản xã hội chủ nghĩa (Điều 15); Tội chiếm giữ trái phép tài sản xã hội chủ
nghĩa (Điều 16) – Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản xã hội chủ
nghĩa và các tội: Tội cố ý hủy hoại hoặc làm hư hỏng tài sản riêng của công
dân (Điều 5), tội chiếm giữ trái phép tài sản riêng của công dân (Điều 12), tội
vô ý gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản riêng của công dân (Điều 15) -
Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản riêng của công dân.
Nội dung của hai pháp lệnh đã thể hiện đầy đủ và toàn diện chính sách
hình sự của Đảng và Nhà nƣớc ta đối với các tội phạm về sở hữu nói chung và
các tội xâm phạm sở hữu không có tính chiếm đoạt nói riêng. Đó là Nhà nƣớc
kiên quyết bảo vệ tài sản xã hội chủ nghĩa, coi tài sản xã hội chủ nghĩa là
thiêng liêng, bất khả xâm phạm, Nhà nƣớc cũng bảo hộ tài sản riêng của công
dân, nghiêm trị mọi hành động xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa và tài sản
của công dân. Đồng thời Pháp lệnh cũng thể hiện đƣờng lối xử lý ngƣời phạm
tội của Đảng và Nhà nƣớc là nghiêm trị những hành vi phạm tội có tích chất
chuyên nghiệm, phạm tội có tổ chức, lợi dụng chức vụ quyền hạn để phạm
tội, phạm tội gây thiệt hại lớn… Đối với ngƣời phạm tội tự thú, ngƣời phạm
tội có hành động ngăn chặn làm giảm bới hậu quả của tội phạm, khắc phục
hậu quả, gây thiệt hại không đáng kể… thì đƣợc hƣởng sự khoan hồng, đƣợc
“xử nhẹ hoặc miễn hình phạt”.
Có thể nói, mặc dù các quy định còn chung chung, chƣa đầy đủ, nhƣng
đây là lần đầu tiên trong lịch sử lập pháp, các tội xâm phạm sở hữu không có
tính chiếm đoạt đƣợc quy định chính thức bằng các điều luật cụ thể, có cấu
thành tội phạm tƣơng đối đầy đủ, đã quy định về các khung hình phạt với
22
khung cơ bản và khung tăng nặng tƣơng xứng với tính chất hành vi phạm tội
trong một số điều luật của Pháp lệnh nhƣng có sự phân biệt giữa tài sản xã hội
chủ nghĩa và tài sản của công dân. Ví dụ tội chiếm giữ trái phép tài sản xã hội
chủ nghĩa - Điều 16 Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản xã hội chủ
nghĩa quy định:
1. Kẻ nào cố tình chiếm giữ tài sản xã hội chủ nghĩa bị giao
lầm hoặc cố tình chiếm giữ tài sản do mình tìm đƣợc, bắt đƣợc,
đào đƣợc mà biết đó là tài sản xã hội chủ nghĩa, nhƣng không giao
nộp cho cơ quan có trách nhiệm thì bị phạt tù từ 3 tháng đến 3
năm. 2. Kẻ nào cố tình chiếm giữ trái phép tài sản xã hội chủ nghĩa
có giá trị đặc biệt thì bị phạt tù từ 2 năm đến 7 năm. 3. Kẻ nào cố
tình chiếm giữ trái phép tài sản xã hội chủ nghĩa có giá trị đặc biệt
mà đem cho hoặc trao đổi, buôn bán thì bị phạt tù từ 5 năm đến 10
năm [53, tr.8];
và tội chiếm giữ trái phép tài sản riêng của công dân - Điều 12 Pháp
lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài riêng của công dân quy định:
Kẻ nào cố tình chiếm giữ tài sản riêng của công dân bị giao
lầm hoặc do mình tìm đƣợc, bắt đƣợc, đào đƣợc mà không nộp cho
cơ quan có trách nhiệm hoặc không trả lại cho ngƣời có của thì bị
phạt tù từ ba tháng đến hai năm [54, tr.6].
Tiếp đó là Sắc Luật số 03/SL ngày 15/03/1976 do Hội đồng Chính phủ
lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam ban hành ngay sau khi Miền Nam
hoàn toàn giải phóng qui định các tội phạm và hình phạt làm cơ sở pháp lý để
xử lý các hành vi xâm phạm chế độ chính trị, kinh tế, xã hội, thân thể, tài sản
và quyền lợi khác của công dân.
Nhƣ vậy, sau khi Chính quyền cách mạng non trẻ đƣợc thành lập (gia
đoạn 1945 – 1959), văn bản pháp luật hình sự Việt Nam chủ yếu là Sắc lệnh,
23
nhƣng đến giai đoạn tiếp theo (giai đoạn 1959 – 1985) thì Pháp lệnh và Sắc
luật giữ vai trò quan trọng hơn trong việc điều chỉnh quan hệ pháp luật hình
sự. Bên cạnh, các vụ án hình sự còn đƣợc xét xử theo án lệ thông qua công tác
tổng kết và hƣớng dẫn của Tòa án nhân dân tối cao. Cũng nằm trong tiến trình
phát triển đó, các tội xâm phạm nói chung và các tội xâm phạm sở hữu nói
riêng mới chỉ đƣợc quy định bởi các văn bản dƣới luật nhƣ Sắc Lệnh, sau đó
là Pháp Lệnh và Sắc Luật. Vì vậy, giá trị pháp lý của các văn bản này chƣa
cao, quy định chƣa cụ thể, chƣa rõ ràng, không có tính hệ thống nên việc áp
dụng pháp luật không thống nhất, có nhiều vƣớng mắc, gây khó khăn trong
công cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm.
Với những đặc điểm nhƣ nêu trên thì yêu cầu cấp bách đƣợc đặt ra là
cần có một văn bản pháp luật có tính hệ thống, toàn diện và chính xác các các
văn bản pháp luật hình sự nói chung và các quy định về các tội xâm phạm sở
hữu nói riêng là cơ sở để bảo vệ các quan hệ xã hội, đảm bảo an ninh chính
trị, an toàn xã hội và xây dựng đất nƣớc phù hợp với tiến trình phát triển của
thế giới. Văn bản pháp luật đó chính là Bộ luật hình sự năm 1985.
1.2.2. Giai đoạn từ sau khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985 đến
trước khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1999
Trong giai đoạn này, đất nƣớc có những chuyển biến đáng kể về các
mặt chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội nhƣ về chính trị: công cuộc cải cách bộ
máy nhà nƣớc, đặc biệt là cải cách tƣ pháp đƣợc thúc đẩy mạnh mẽ, bƣớc đầu
đã đạt đƣợc một số thành quả nhất định; về kinh tế: có sự chuyển hƣớng của
phƣơng thức quản lý nền kinh tế từ kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang kinh
tế thị trƣờng, định hƣớng xã hội chủ nghĩa; về xã hội: Vấn đề dân chủ hoá,
mở rộng dân chủ cũng nhƣ vấn đề nhân quyền ngày càng đƣợc quan tâm, trú
trọng. Tất cả những thay đổi đó đã tác động mạnh mẽ và làm phát các quan hệ
pháp luật mới, phức tạp cần đƣợc điều chỉnh bằng một văn bản pháp luật
24
thống nhất, có giá trị pháp lý cao để đảo bảo sự phát triển ổn định của đất
nƣớc. Vì vậy, sự ra đời của Bộ luật hình sự năm 1985 (27/06/1985) là một tất
yếu khách quan.
Bộ luật hình sự năm 1985 đƣợc Quốc hội khoá VII thông qua ngày 27-
6-1985, thể hiện dƣới hình thức bộ luật - một hình thức lập pháp cao, đã trình
bày có hệ thống, toàn diện phần chung cũng nhƣ phần các tội phạm, có tính
bao quát về tất cả các hành vi nguy hiểm cho xã hội, là cơ sở để bảo vệ thành
quả cách mạng, an ninh quốc gia, trật tự xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp
khác của công dân.
Bộ luật hình sự năm 1985 quy định tội phạm và hình phạt trên cơ sở
nền kinh tế bao cấp và tình hình tội phạm của thời kì đó. Vì vậy, ngay khi
đƣợc ban hành, Bộ luật hình sự năm 1985 đã bộc lộ những hạn chế, bất cập,
không phù hợp với chủ trƣơng đổi mới của đất nƣớc và những đòi hỏi của
thời kỳ mới. Tuy vậy với tƣ cách là Bộ luật hình sƣ Việt Nam đầu tiên, là
nguồn duy nhất, là công cụ sắc bén của Nhà nƣớc chuyên chính vô sản, Bộ
luật hình sự năm 1985 đã góp phần rất lớn trong việc bảo vệ thành quả cách
mạng, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, đảm bảo an ninh trật tự và an toàn xã
hội, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, đấu tranh phòng,
chống tội phạm, góp phần tích cực loại bỏ những yếu tố gây cản trở cho tiến
trình đổi mới và sự nghiệp phát triển của xã hội.
Trong Bộ luật hình sự 1985, những quy định về các tội xâm phạm sở
hữu chịu ảnh hƣởng sâu sắc, tiêu biểu cho thời kì quá độ xây dựng nền kinh tế
kế hoạch hoá tập trung với việc đề cao sở hữu Nhà nƣớc, sở hữu tập thể, hạn
chế sở hữu cá nhân, theo đó có hai loại hành vi xâm phạm sở hữu là hành vi
xâm phạm sở hữu xã hội chủ nghĩa và hành vi xâm phạm sở hữu của công
dân. Hai loại hành vi này đƣợc quy định ở hai chƣơng là chƣơng IV “Các tội
xâm phạm sở hữu xã hội chủ nghĩa với 14 Điều (từ Điều 129 đến Điều 142)
25
và chƣơng VI “Các tội xâm phạm sở hữu công dân” với 13 Điều (từ Điều 151
đến Điều 163).
Cũng giống nhƣ các tội phạm xâm phạm sở hữu khác, thì các tội phạm
xâm phạm sở hữu không có tính chiếm đoạt cũng đƣợc Bộ luật hình sự năm
1985 quy định trong hai chƣơng, chƣơng “Các tội xâm phạm sở hữu xã hội chủ
nghĩa” với 5 Điều (từ Điều 136 đến Điều 140) và chƣơng “Các tội xâm phạm
sở hữu của công dân” với 4 Điều (từ Điều 159 đến Điều 161) gồm các tội sau:
Chƣơng IV: Các tội xâm phạm sở hữu xã hội chủ nghĩa:
- Tội chiếm giữ trái phép tài sản xã hội chủ nghĩa (Điều 136).
- Tội sử dụng trái phép tài sản xã hội chủ nghĩa (Điều 137).
- Tội huỷ hoại hoặc cố ý làm hƣ hỏng tài sản xã hội chủ nghĩa (Điều 137).
- Tội thiếu trách nhiệm gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản xã hội
chủ nghĩa (Điều 139).
- Tội vô ý gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản xã hội chủ nghĩa
(Điều 140).
Và chƣơng VI: Các tội xâm phạm sở hữu của công dân quy định các tội:
- Tội chiếm giữ trái phép tài sản của công dân (Điều 159).
- Tội huỷ hoại hoặc cố ý làm hƣ hỏng tài sản của công dân (Điều 160).
- Tội vô ý gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản của công dân (Điều 161).
Trong các tội nêu trên, có tội chiếm giữ trái phép tài sản và tội hủy hoại
hoặc cố ý làm hƣ hỏng tài sản và tội vô ý gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài
sản đƣợc quy định thành hai cặp tội tƣơng ứng ở hai chƣơng khác nhau. Còn
tội sử dụng trái phép tài sản và tội thiếu trách nhiệm gây thiệt hại nghiêm
trọng đến tài sản của Nhà nƣớc chỉ đƣợc quy định tại chƣơng “Các tội xâm
phạm sở hữu xã hội chủ nghĩa. Cụ thể nhƣ:
Tội chiếm giữ trái phép tài sản đƣợc quy định thành hai tội là Tội
chiếm giữ trái phép tài sản xã hội chủ nghĩa đƣợc qui định tại Điều 136 với
26
nội dung “Ngƣời nào không trả lại tài sản xã hội chủ nghĩa bị giao nhầm hoặc
không giao nộp cho cơ quan có trách nhiệm tài sản do mình tìm đƣợc, bắt
đƣợc mà biết là tài sản xã hội chủ nghĩa, thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không
giam giữ đến một năm hoặc bị phạt tù từ ba tháng đến hai năm” và Tội chiếm
giữ trái phép tài sản của công dân đƣợc qui định tại Điều 159 với nội dung:
“Ngƣời nào cố ý không trả lại tài sản cho ngƣời có tài sản hoặc không giao
nộp cho cơ quan có trách nhiệm tài sản có giá trị lớn của ngƣời khác bị giao
nhầm hoặc do mình tìm đƣợc, bắt đƣợc, thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không
giam giữ đến một năm hoặc bị phạt tù từ ba tháng đến hai năm”.
Tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản cũng đƣợc quy định thành
hai tội là tội hủy hoại hoặc cố ý làm hƣ hỏng tài sản xã hội chủ nghĩa (Điều
138) và tội hủy hoại hoặc cố ý làm hƣ hỏng tài sản của công dân (Điều 160)
với nội dung “Ngƣời nào hủy hoại hoặc cố ý làm hƣ hỏng tài sản xã hội chủ
nghĩa, nếu không thuộc trƣờng hợp quy định ở Điều 79 và Điều 94, thì bị
phạt tù từ một năm đến bảy năm” – Điều 138 và “Ngƣời nào hủy hoại hoặc
cố ý làm hƣ hỏng tài sản của ngƣời khác, thì bị phạt tù từ sáu tháng đến năm
năm” – Điều 160.
Tội vô ý gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản cũng đƣợc quy định
thành hai tội là Tội vô ý gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản xã hội chủ
nghĩa (Điều 140) và Tội vô ý gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản của
công dân (Điều 161) với nội dung “Ngƣời nào vô ý gây thiệt hại nghiêm
trọng đến tài sản xã hội chủ nghĩa thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam
giữ đến một năm hoặc bị phạt tù từ ba tháng đến ba năm” – Điều 140 và
“Ngƣời nào vô ý gây thiệt hại nghiêm trọng đế tài sản của ngƣời khác thì bị
phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến một năm hoặc bị phạt tù từ ba
tháng đến hai năm” – Điều 161.
Tuy nhiên tội sử dụng trái phép tài sản chỉ đƣợc quy định tại Điều 137,
27
chƣơng IV với tên tội là Tội sử dụng trái phép tài sản xã hội chủ nghĩa:
“Ngƣời nào vì vụ lợi mà sử dụng trái phép tài sản xã hội chủ nghĩa thì bị phạt
cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến một năm hoặc bị phạt tù từ ba tháng đến
hai năm”. Hay Tội thiếu trách nhiệm gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản
của Nhà nước cũng chỉ đƣợc quy định tại điều 140, chƣơng IV với tên gọi là
Tội thiếu trách nhiệm gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản xã hội chủ nghĩa:
“Ngƣời nào có nhiệm vụ trực tiếp trong công tác quản lý tài sản xã hội chủ
nghĩa, vì thiếu trách nhiệm mà để mất mát, hƣ hỏng, lãng phí gây thiệt hại
nghiêm trọng đến tài sản xã hội chủ nghĩa thì bị phạt cải tạo không giam giữ
đến hai năm hoặc bị phạt tù từ sáu tháng đến năm năm”.
Xét về nội dung, các cặp tội tƣơng ứng này có dấu hiệu pháp lí tƣơng tự
nhau về mặt khách quan, mặt chủ quan và chủ thể của tội phạm và chỉ khác
nhau về dấu hiệu khách thể của tội phạm là quan hệ sở hữu tài sản xã hội chủ
nghĩa và quan hệ sở hữu tài sản của công dân. Việc Bộ luật hình sự năm 1985
qui định hai cặp tội tƣơng ứng này thành hai tội danh cụ thể tại hai chƣơng
khác nhau xuất phát từ tính chất quan hệ sở hữu đƣợc luật hình sự bảo vệ
khác nhau, do vị trí của hai loại quan hệ sở hữu có tầm quan trọng khác nhau
đó là sở hữu Nhà nƣớc và sở hữu cá nhân, trong đó coi trọng sở hữu Nhà
nƣớc hơn sở hữu cá nhân. Vì vậy, Bộ luật hình sự năm 1985 xác định hành vi
phạm tội xâm phạm sở hữu xã hội chủ nghĩa có tính nguy hiểm hơn hơn so
với hành vi phạm tội xâm phạm tài sản của công dân, theo đó, Bộ luật hình sự
năm 1985 quy định khung hình phạt đối với các tội xâm phạm sở hữu xã hội
chủ nghĩa nặng hơn mức hình phạt đối với các tội xâm phạm tài sản của công
dân. Chính những quy định nhƣ vậy đã bộ lộ những bất cập trong thực tiễn
xét xử của nhiều năm trƣớc, đó là trƣờng hợp hành vi xâm phạm tài sản của
các đơn vị kinh tế thuộc sở hữu chung của nhiều thành phần kinh tế nhƣ công
ty cổ phần, công ty có vốn liên doanh, liên kết... thì không thể xác định ngƣời
28
phạm tội xâm phạm tài sản thuộc hình thức sở hữu của thành phần kinh tế nào
đã dẫn đến việc định tội và quyết định hình phạt không chính xác. Mặt khác,
trong giai đoạn này, đất nƣớc đang tiến hành công cuộc cải cách, đặc biệt là
sự chuyển hƣớng từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung bao cấp sang nền kinh
tế thị trƣờng, định hƣớng xã hội chủ nghĩa với nhiều thành phần kinh tế, thể
hiện rõ quan điểm của Đảng và Nhà nƣớc ta về mặt pháp lý là không có sự
phân biệt đối với các thành phần kinh tế trong xã hội. Vì vậy những bất cập
nêu trên đƣợc sửa đổi trong Bộ luật hình sự năn 1999 cho phù hợp với sự thay
đổi của nền kinh tế và tình hình mới của đất nƣớc.
Về hình phạt: Bộ luật hình sự năm 1985 quy định các tội xâm phạm sở
hữu không có tính chiếm đoạt trong hai chƣơng “Các tội xâm phạm sở hữu xã
hội chủ nghĩa” và “Các tội phạm xâm phạm sở hữu của công dân” thì đa số
các tội phạm đều có nhiều khung hình phạt khác nhau, nhƣng vẫn còn một số
tội phạm chỉ có một khung hình phạt duy nhất nhƣ Tội vô ý gây thiệt hại
nghiêm trọng đến tài sản xã hội chủ nghĩa – Điều 140, Tội chiếm giữ trái
phép tài sản của công dân – Điều 159 hay Tội vô ý gây thiệt hại nghiêm trọng
đến tài sản của công dân – Điều 161. Điều này dẫn đến tình trạng quyết định
hình phạt thiếu chính xác, vì trên thực tế tội phạm xảy ra với tích chất, mức
độ nguy hiểm khác nhau, thiệt hại xảy ra khác nhau, nhân thân cũng nhƣ các
tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự khác nhau cần áp dụng
khung hình phạt tƣơng ứng, phù hợp với từng trƣờng hợp phạm tội, đảm bảo
sự công bằng, nghiêm minh của pháp luật.
Bên cạnh đó, Bộ luật hình sự năm 1985 quy định nhiều loại hình phạt
khác nhau đối với loại tội này theo thứ tự từ nhẹ đến nặng nhƣ cảnh cáo, cải
tạo không giam giữ, tù có thời hạn, tù chung thân và tử hình. Hai loại hình
phạt cao nhất là tù chung thân và tử hình duy nhất đƣợc quy định trong khung
tăng nặng thứ 2 (khoản 3) của tội hủy hoại hoặc cố ý làm hƣ hỏng tài sản xã
29
hội chủ nghĩa. Mức hình phạt đối với các tội xâm phạm sở hữu không có tính
chiếm đoạt quy định trong chƣơng “Các tội xâm phạm sở hữu xã hội chủ
nghĩa” về cơ bản cao hơn so với mức hình phạt của các tội này đƣợc quy định
trong chƣơng “Các tội xâm phạm sở hữu của công dân”.
Về hình phạt bổ sung: Bộ luật hình sự năm 1985 quy định ở mỗi
chƣơng IV và VI một hình phạt bổ sung chung đối với các tội này gồm: cấm
đảm nhiệm chức vụ, phạt tiền (đến 1.000.000đ), tịch thu một phần hay toàn
bộ tài sản, quản chế hoặc bị cấm cƣ trú từ một năm đến năm năm. Riêng hình
phạt bổ sung là phạt tiền và tịch thu một phần hay toàn bộ tài sản có thể áp
dụng đồng thời cả hai hình phạt bổ sung hoặc áp dụng một trong hai hình phạt
bổ sung đó.
Trong 14 năm thi hành, Bộ luật hình sự năm 1985 đã đƣợc sửa đổi, bổ
sung 4 lần vào các năm 1989, 1991, 1992 và 1997 và có trên 100 lƣợt điều
luật đƣợc sửa đổi hoặc bổ sung nhƣng vẫn bộc lộ một số bất cập trong nhiều
quy định và đòi hỏi phải có sự sử đổi, bổ sung cho phù hợp với thời kỳ mới.
Vì vậy Bộ luật hình sự năm 1999 ra đời đã cơ bản đáp ứng đƣợc yêu cầu cấp
thiết của xã hội, phù hợp với sự phát triển của đất nƣớc trong thời kỳ mới,
từng bƣớc đi vào cuộc sống và phát huy đƣợc vai trò to lớn trong cuộc đấu
tranh phòng chống tội phạm, góp phần giữ vững an ninh chính trị và trật tự
an toàn xã hội, đồng thời đánh dấu sự thay đổi tƣơng đối toàn diện của luật
hình sự Việt Nam.
Bộ luật hình sự năm 1999 đƣợc xây dựng trên cơ sở sửa đổi, bổ sung
một cách toàn diện Bộ luật hình sự năm 1985 nhƣng có kế thừa những nội
dung hợp lí, tích cực của Bộ luật hình sự năm 1985 qua bốn lần sửa đổi, bổ
sung. Vì vậy Bộ luật hình sự năm 1999 có những thay đổi cơ bản mang
tính tƣơng đối toàn diện thể hiện sự phát triển mới của Luật hình sự Việt
Nam. Theo đó các tội phạm xâm phạm sở hữu nói chung và các tội phạm
30
xâm hạm sở hữu không có tính chiếm đoạt nói riêng cũng có những thay
đổi đáng kể nhƣ:
Về kết cấu chương: Bộ luật hình sự năm 1985 có hai chƣơng quy định
hai nhóm tội phạm – nhóm tội xâm phạm sở hữu xã hội chủ nghĩa và nhóm tội
xâm phạm sở hữu của công dân. Nhƣng xuất phát từ đƣờng lối chính sách của
Đảng và Nhà nƣớc ta là xây dựng nền kinh tế thị trƣờng theo định hƣớng xã
hội chủ nghĩa với nhiều thành phần kinh tế với nhiều hình thức sở hữu và các
thành phần kinh tế đều là bộ phận hợp thành của nền kinh tế, hoạt động theo
pháp luật, bình đẳng trƣớc pháp luật, đƣợc pháp luật bảo hộ nhƣ nhau nhằm
đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời trách sự phức tạp trong áp
dụng pháp luật do phải xác định tích chất của tài sản thuộc sở hữu nào. Vì vậy
việc sáp nhập hai chƣơng này thành một chƣơng, theo đó từng cặp tội tƣơng
ứng của hai chƣơng cũng đƣợc sáp nhập với nhau là một đòi hỏi khách quan.
Do đó Bộ luật hình sự 1999 đã nhập 2 chƣơng “Các tội xâm phạm sở hữu xã
hội chủ nghĩa” và “Các tội xâm phạm tài sản của công dân” vào thành một
chƣơng “Các tội xâm phạm sở hữu" với 13 điều luật, phản ảnh đúng bản chất
của tên chƣơng. Các điều luật đƣợc quy định trong chƣơng này hầu hết đƣợc
xây dựng từ việc nhập từ hai hoặc ba điều luật trong Chƣơng IV và Chƣơng VI
của Bộ luật hình sự năm 1985, trong đó có các tội phạm xâm phạm sở hữu
không có tính chiếm đoạt nhƣ: Tội chiếm giữ trái phép tài sản, Tội hủy hoại
hoặc cố ý làm hƣ hỏng tài sản và Tội vô ý gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài
sản đƣợc nhập thành từ hai cặp tội tƣơng ứng ở hai chƣơng khác nhau là
chƣơng Các tội xâm phạm sở hữu xã hội chủ nghĩa và các tội xâm phạm sở hữu
riêng của công dân, việc sát nhập này có ý nghĩa vô cùng quan trọng:
Trƣớc hết, nó thể hiện sự tôn trọng nguyên tắc bình đẳng trƣớc pháp
luật của các thành phần kinh tế tƣơng ứng với đa dạng các hình thức sở hữu
gồm 7 chế độ sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tƣ nhân. Do đó, ý nghĩa
31
của tài sản không phụ thuộc vào việc nó thuộc sở hữu nào mà ở giá trị và giá
trị sử dụng của tài sản.
Thứ hai, nó thể hiện trình độ, kỳ thuật lập pháp, Điều 136 với Điều 159
và Điều 138 với Điều 160 trong Bộ luật hình sự năm 1985 về cơ bản có dấu
hiệu pháp lý (về mặt khách quan, về mặt chủ quan, về chủ thể) giống nhau
nên việc quy định thành hai tội ở 2 chƣơng riêng biệt là không khoa học.
Thứ ba, có nhiều trƣờng hợp ngƣời phạm tội khi thực hiện hành vi
chiếm giữ trái phép tài sản hay hủy hoại hoặc cố ý làm hƣ hỏng tài sản họ
không quan tâm hoặc không thể biết tài sản đó thuộc về quyền sở hữu nào (bị
giao nhẩm, nhặt đƣợc). Hơn nữa có một số trƣờng hợp việc xác định đâu là tài
sản xã hội chủ nghĩa và đâu là tài sản của công dân là rất khó, tâm chí không
thể xác định do các hình thức sở hữu đan xen nhau (sở hữu hỗn hợp) thông
qua việc liên doanh, liên kết, góp vốn cổ phần, do đó khó khăn trong việc áp
dụng pháp luật.
Riêng đối với hai tội: Tội sử dụng trái phép tài sản (Tội sử dụng trái
phép tài sản xã hội chủ nghĩa quy định tại Điều 137, chƣơng IV, Bộ luật hình
sự năm 1985) và Tội thiếu trách nhiệm gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản
của Nhà nƣớc (Tội thiếu trách nhiệm gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản xã
hội chủ nghĩa quy định tại Điều 139, chƣơng IV, Bộ luật hình sự năm 1985)
đƣợc sửa đổi tên và nội điều luật và cũng đƣợc quy định vào chƣơng “Các tội
phạm sở hữu” trong Bộ luật hình sự năm 1999.
Dấu hiệu định lượng tài sản đƣợc quy định cụ thể trong các tội xâm
phạm sở hữu không có tình chiếm đoạt cũng là một trong các thay đổi đáng
kể khác của Bộ luật hình sự năm 1999 so với Bộ luật hình sự năm 1985. Nếu
nhƣ Bộ luật hình sự năm 1985 không quy định về dấu hiệu định lƣợng tài sản,
thì Bộ luật hình sự năm 1999 quy định rất rõ định lƣợng tài sản của các tội
xâm phạm sở hữu không có tính chiếm đoạt nhƣ “…tài sản có giá trị từ 50
32
triệu đồng trở lên…” (Điều 142, Điều 144, Điều 145) hay “…tài sản có giá trị
từ 5 triệu đồng trở lên…” (Điều 141) hoặc “…tài sản có giá trị từ 500.000
đồng trở lên…” (Điều 143). Đồng thời dấu hiệu định lƣợng tài sản còn đƣợc
quy định trong một số định khung tăng nặng trong cùng một điều luật nhƣ “tài
sản… có giá trị 200 triệu đồng trở lên” (Điều 141), “tài sản… có giá trị 50
triệu đồng đến dƣới 200 triệu đồng… ” (Điều 143), “tài sản… có giá trị từ
500 triệu đồng trở lên” v.v… Việc định lƣợng tài sản có ý nghĩa qua trọng
nhằm phân biệt tội với hành vi hành chính, vi phạm kỷ luật và phân biệt
khung hình phạt trong cùng một điều luật.
Sự phân hóa trách nhiệm hình sự: Trên cơ sở kế thừa kết quả của Bộ
luật năm 1985, Bộ luật hình sự năm 1999 có sự phân hóa trách nhiệm hình
sự ở mức độ cao hơn. Biểu hiện của việc phân hoá trách nhiệm hình sự
trong luật bao gồm:
Thứ nhất: Khắc phục tình trạng điều luật chỉ có một khung hình phạt
duy nhất. Trong Bộ luật hình sự năm 1985 quy định các tội phạm xâm phạm
sở hữu xã hội chủ nghĩa và các tội phạm xâm phạm sở hữu công dân thì đa số
các tội phạm đều có nhiều khung hình phạt khác nhau, nhƣng vẫn còn một số
tội phạm chỉ có một khung hình phạt duy nhất nhƣ Tội vô ý gây thiệt hại
nghiêm trọng đến tài sản xã hội chủ nghĩa – Điều 140, Tội chiếm giữ trái
phép tài sản của công dân – Điều 159 hay Tội vô ý gây thiệt hại nghiêm trọng
đến tài sản của công dân – Điều 161. Đây là một trong những hạn chế của Bộ
luật hình sự năm 1985 đã đƣợc bộc lộ trong thực tiễn áp dụng. Khắc phục hạn
chế đó, Bộ luật hình sự năm 1999 quy định các tội xâm phạm sở hữu không
có tính chiếm đoạt đã đƣợc xây dựng từ hai đến bốn khung hình phạt khác
nhau nhƣ Tội chiếm giữ trái phép tài sản (Điều 142) đƣợc xây dựng với ba
khung hình phạt gồm khung cơ bản và hai khung tăng nặng. Trong khi đó Bộ
luật hình sự năm 1985 quy định về các tội này từ một đến ba khung hình phạt.
33
Thứ hai: Cụ thể hoá ở mức tối đa các tình tiết định khung của từng tội
phạm. Trong bộ luật hình sự năm 1999, các tình tiết định khung hình phạt đã
đƣợc qui định cụ thể hơn, một số tình tiết định khung hình phạt mới nhƣ “giá
trị tài sản”, “gây hậu quả nghiêm trọng, rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm
trọng” đã đƣợc quy định trong luật, đó là những tình tiết định khung tăng
nặng hình phạt. Những tình tiết này có thể đƣợc quy định ở một tội danh hoặc
ở nhiều tội danh khác nhau. Ví dụ: Tình tiết có tổ chức, dùng chất nổ, chất
cháy hoặc thủ đoạn nguy hiểm khác, để che giấu tội phạm khác, gây hậu quả
nghiêm trọng, tái phạm nguy hiểm (Tội hủy hoại hoặc cố ý làm hƣ hỏng tài
sản – Điều 143) v.v…
Thứ ba: Về hình phạt: So với Bộ luật hình sự năm 1985, Bộ luật hình
sự năm 1999 quy định hình phạt của các tội xâm phạm sở hữu nhẹ hơn hình
phạt của các tội xâm phạm sở hữu xã hội chủ nghĩa và nặng hơn hình phạt
trong các tội xâm phạm tài sản của công dân. Hình phạt bổ sung đƣợc quy
định thành một phần cụ thể ngay trong cùng một điều luật.
Thứ tƣ: Bộ luật hình sự năm 1999 quy định khoảng cách giữa mức hình
phạt tối đa và mức hình phạt tối thiểu trong một khung hình phạt của các tội
xâm phạm sở hữu không có tính chiếm đoạt cũng ngắn hơn so với Bộ luật hình
sự năm 1985 ví dụ nhƣ Tội huỷ hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản của công
dân quy định Điều 160 Bộ luật hình sự năm 1985 khoảng cách giữa mức hình
phạt tối đa và mức hình phạt tối thiểu trong khung tăng nặng thứ nhất là 9 năm
(… “bị phạt tù từ ba năm đến mƣời hai năm…”); khung trăng nặng thứ hai là
10 năm (… “bị phạt tù từ mƣời năm đến hai mƣơi năm…”). Trong khi đó Điều
143 Bộ luật hình sự năm 1999 duy định về tội này thì khoảng cách giữa mức
hình phạt tối đa và mức hình phạt tối thiểu trong khung tăng nặng thứ nhất là 5
năm (… “bị phạt tù từ hai năm đến bảy hai năm…”); khung trăng nặng thứ hai
là 8 năm (… “bị phạt tù từ bảy năm đến mƣời năm năm…”).
34
Thứ năm: Nếu nhƣ Bộ luật hình sự năm 1985 quy định mức hình phạt
cao nhất đối với các tội xâm phạm sở hữu không có tính chiếm đoạt là tử hình
(Tội huỷ hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản xã hội chủ nghĩa - Điều 138) thì
Bộ luật hình sự năm 1999 bỏ hình phạt tử hình đối với nhóm tội phạm này,
thay vào đó quy định mức hình phạt cao nhất là chung thân (Tội huỷ hoại
hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản - Điều 143). Đồng thời So với bộ luật hình sự
năm 1985, Bộ luật hình sự năm 1999 còn quy định giảm nhẹ hình phạt đối với
tội ít nguy hiểm cho xã hội nhƣ Tội vô ý gây thiệt hại nghiệm trọng đến tài
sản và Tội thiếu trách nhiệm gây thiệt hại nghiệm trọng đến tài sản Nhà
nước. Điều này xuất phát từ sự thay đổi trong nhận thức về tội phạm của nhà
làm luật theo hƣớng phi hình sự hóa tội phạm.
Nhƣ vậy, Bộ luật hình sự năm 1999 ra đời đánh dấu sự thay đổi tƣơng
đối toàn diện của luật hình sự Việt Nam với những thay đổi đáng kể đặc biệt
là sự thay đổi của chƣơng các tội phạm xâm phạm sở hữu nói chung và các tội
xâm phạm sở hữu không có tính chiếm đoạt nói riêng. Sự thay đổi này trƣớc
hết thể hiện sự hoàn thiện pháp luật hiện hành theo các chuẩn mực của khoa
học luật hình sự, đồng thời cũng thể hiện sự vận động phù hợp với tiến trình
phát triển của xã hội cũng nhƣ diễn biến thực tế của tình hình tội phạm. Mặt
khác cũng cho thấy sự phát triển, hoàn thiện trong kỹ thuật lập pháp của các
nhà làm luật đã qui định cụ thể các trƣờng hợp phạm tội có sự phân hóa trách
nhiệm hình sự và hình phạt. Từ đó, tạo điều kiện cho hoạt động áp dụng luật
đƣợc dễ dàng, thuận tiện và chính xác hơn.
1.3. QUY ĐỊNH VỀ CÁC TỘI XÂM PHẠM SỞ HỮU KHÔNG CÓ
TÍNH CHIẾM ĐOẠT TRONG LUẬT HÌNH SỰ MỘT SỐ NƢỚC
1.3.1. Bộ luật hình sự của Trung Quốc
Bộ luật hình sự năm 1979 của nƣớc Công hòa nhân dân Trung Hoa
đƣợc Quốc Hội Trung Quốc (Đại hội đại biểu nhân dân toàn quốc) khóa 5, kỳ
họp thứ 2 thông qua ngày 01/7/1979 và có hiệu lực từ ngày 01/01/1980.
35
Bộ luật hình sự năm 1979 bao gồm hai phần: Phần chung và Phần các tội
phạm với 12 chƣơng và 192 điều. Bộ luật hình sự năm 1979 đã thể hiện rõ nét
chính sách hình sự trong giai đoạn này bao gồm: Trừng trị những ngƣời phạm
tội phản cách mạng và tội hình sự để bảo vệ nền chuyên chính vô sản, bảo vệ
chế độ sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể xã hôi chủ nghĩa, bảo vệ quyền sở
hữu hợp pháp của công dân, bảo vệ các quyền cá nhân, quyền dân chủ và
quyền lợi khác của công dân, bảo vệ trật tụ xã hội và cuối cùng là bảo đảm việc
tiến hành thắng lợi sự nghiệp cách mạng và xây dựng xã hội chủ nghĩa.
Bộ luật hình sự năm 1979 ra đời, sau 18 năm thi hành đến tháng 3/1997
tại kỳ họp thứ 5, Đại hội đại biểu nhân dân toàn quốc nƣớc Cộng hòa nhân
dân Trung Hoa khóa 8 đã thảo luận để sử đổi Bộ luật hình sự năm 1979 và Bộ
luật hình sự năm 1997 có hiệu lực từ ngày 01/10/1997. Tính đến nay, Bộ luật
hình sự năm 1997 đã đƣợc sử đổi, bổ sung 5 lần qua các kỳ Đại hội.
Đối với các tội xâm phạm sở hữu đƣợc quy định tại Chƣơng V “Tội
xâm phạm tài sản” Bộ luật hình sự năm 1997 của nƣớc Công hòa nhân dân
Trung Hoa với 14 điều luật, từ Điều 263 đến Điều 276 gồm:
- Tội cƣớp (Điều 263 và Điều 267).
- Tội trộm cắp tài sản (Điều 264).
- Tội nối cắp đƣờng dây thông tin (Điều 265).
- Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản (Điều 266 và Điều 274).
- Tội cƣớp giật tài sản (Điều 268).
- Tội chiếm giữ tài sản trái phép (Điều 270)
- Tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản (Điều 271).
- Tội cố ý hủy hoại tài sản (Điều 275 và Điều 276).
- Tội chiếm dụng tiền hàng cứu trợ, trợ cấp xã hội (Điều 273).
Đối với các tội xâm phạm sở hữu không có tính chiếm đoạt đƣợc quy
định trong Bộ luật hình sự Trung Hoa gồm:
- Tội chiếm giữ trái phép tài sản (Điều 270).
36
- Tội sử dụng trái phép tài sản (Điều 272).
- Tội cố ý hủy hoại tài sản (Điều 275 và Điều 276).
Nhìn chung, các tội xâm phạm sở hữu nói đƣợc quy định tại chƣơng V
của Bộ luật hình sự của Trung Quốc có những điểm giống và khác nhau so
với quy định về các tội này của Bộ luật hình sự Việt Nam nhƣ sau:
Về mặt hình thức: Tƣơng tự nhƣ các quy định về các tội xâm phạm sở
hữu của Bộ luật hình sự Việt Nam, Bộ luật hình sự Trung Hoa cũng quy định
các tội này trong cũng một chƣơng (Chƣơng V “Tội xâm phạm tài sản”) và
trong từng điều luật cụ thể. Cơ cấu của điều luật gồm phần quy định và chế
tài. Đồng thời trong từng điều luật lại quy định các khung hình phạt tƣơng
ứng với tích chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội.
Về nội dung: Ở mỗi tội (điều luật), hành vi khách quan đƣợc mô tả cụ
thể trong cấu thành tội phạm và quy định các tình tiết định khung tăng nặng
tƣơng ứng với các khung hình phạt của tội đó.
Bên cạnh những điểm giống trên thì, Bộ luật hình sự Trung Hoa quy
định về các tội xâm phạm sở hữu có những khác biệt so với Bộ luật hình sự
Việt Nam nhƣ số lƣợng tội danh ít, không quy định tên tội danh ở từng điều
luật(Vd: Điều 143 Bộ luật hình sự Việt Nam: Tội hủy hoại hoặc cô ý làm hƣ
hỏng tài sản) và cùng một hành vi phạm tội nhƣng đƣợc thực hiện bằng thủ
đoạn, cách thức khác nhau thì đƣợc quy định riêng thành hai điều luật riêng
biệt nhƣ tội cướp tài sản (Điều 263 và Điều 267), tội cố ý hủy hoại tài sản
(Điều 275 và 276), cụ thê:
Điều 275 Bộ luật hình sự Trung Hoa quy định:
Ngƣời nào hủy hoại tài sản của công hoặc cá nhân với số
lƣợng tƣơng đối lớn hoặc có những tình tiết nghiêm trọng khác, thì
bị phạt tù từ 3 năm, cải tạo lao động hoặc bị phạt tiền; nếu với số
lƣợng lớn hoặc có tình tiết nghiêm trọng khác, thì bị phạt tù từ 3
năm đến 7 năm [19, tr.174].
37
Điều 276 Bộ luật hình sự Trung Hoa quy định:
Ngƣời nào vì mục đích báo thù hoặc mục đích cá nhân khác
mà phá hủy thiết bị, máy móc, tàn sát gia súc hoặc có những hành
vi khác phá hoại sản xuất, kinh doanh thì thì bị phạt tù đến 3 năm,
cải tạo lao động hoặc quản chế; nếu có tình tiết nghiêm trọng khác,
thì bị phạt tù từ 3 năm đến 7 năm [19, tr.175].
Về cơ bản hai điều luật trên có cấu thành pháp lý tƣơng tự nhau, có
hành vi khách quan là hành vi hủy hoại và đối tƣợng tác động là tài sản của cá
nhân, cơ quan, tổ chức; có cùng khách thể bị xâm hại là quan hệ sở hữu, đồng
thời chủ thể và các dấu hiệu thuộc mặt khách quan của tội phạm là lỗi và động
cơ, mục đích phạm tội. Tuy nhiên xuất phát từ sự phân biệt về đối tƣợng tác
động, một bên đối tƣợng tác động là tài sản mang nghĩa chung chung, một
bên đối tƣợng tác động là tài sản nhƣng cụ thể rõ ràng nhƣ thiết bị, máy móc,
tàn sát gia súc hoặc có những hành vi khác phá hoại sản xuất, kinh doanh và
mục đích phạm tội nên hành vi trên đƣợc quy định điều luật khác nhau.
Đối với các tội phạm xâm phạm sở hữu không có tính chiếm đoạt, Bộ
luật hình sự Trung Hoa quy định rải rác ở một số điều luật và chỉ quy định về
một số tội nhƣ Tội chiếm giữ trái phép tài sản (Điều 270), Tội sử dụng tài sản
trái phép (Điều 272), Tội cố ý hủy hoại tài sản (Điều 275, 276). Mặt khác
trong các điều luật hầu nhƣ quy định rất ít các tình tiết định khung tăng nặng
và dấu hiệu định lƣợng tài sản không đƣợc quy định là dấu hiệu định tội hoặc
định khung tăng nặng.
Về hình phạt đƣợc áp dụng đối với các tội thuộc nhóm tội này bao gồm
phạt tiền, quản chế, cải tạo lao động, tù có thời hạn và mức hình phạt cao nhất
đối với các tội này là 7 năm tù, trong đó hình phạt tiền là hình phạt bổ sung,
nhƣng không đƣợc quy định thành điều khoản riêng trong từng điều luật nhƣ
Bộ luật hình sự Việt Nam. Đồng thời Bộ luật hình sự Việt Nam quy định loại
38
hình phạt đƣợc áp dụng đối với loại tội này là cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo
không giam giữ, tù có thời hạn, tù chung thân và mức hình phạt cáo nhất là tù
chung thân(Khoản 4 Điều 143 Bộ luật hình sự Việt Nam) và trong mỗi điều
luật (mỗi tội) lại quy định hình phạt bổ sung nhƣ cấm hành nghề, cấm đảm
nhiệm chức vụ, cấm làm công việc nhất định hay phạt tiền thành một điều
khoản riêng trong điều luật ví dụ khoản 4 Điều 142, khoản 5 Điều 143… Bộ
luật hình sự Việt Nam.
Nhƣ vậy, từ những phân tích nêu trên, có thấy quy định của Bộ luật
hình sự Việt Nam về các tội xâm phạm sở hữu nói chung và các tội xâm phạm
sở hữu không có tính chiếm đoạt nói riêng phù hợp hơn Bộ luật hình sự Trung
Hoa. Điều này thể hiện ở chỗ Bộ luật hình sự Trung Qua quy định rất ít tội
danh chỉ có 9 tội danh, trong đó có 3 tội danh thuộc nhóm tội xâm phạm sở
hữu không có tính chiếm đoạt, hầu hết các dấu hiệu cấu thành tội phạm đƣợc
quy định trong các điều luật thiếu cụ thể, không mô tả đầy đủ hành vi khách
quan, nhiều trƣờng hợp cùng một hành vi phạm tội nhƣng đƣợc quy định ở
hai điều luật khác nhau, không phân biệt rõ hệ thống hình phạt chính và hình
phạt bổ sung; loại hình phạt và khung hình phạt ít hơn Bộ luật hình sự Việt
Nam. Việc quy định nhiều loại hình phạt của Bộ luật hình sự Việt Nam giúp
cho Tòa án có thể lựa chọn hình phạt phù hợp với tính chất và mức độ nguy
hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội và nâng cao hiệu quả áp dụng hình phạt
trong việc giáo dục riêng và phòng ngừa chung. Điều này thể hiện tính phân
hoá trách nhiệm hình sự trong Bộ luật Hình sự Việt Nam cao hơn tính phân
hoá trách nhiệm hình sự trong Bộ luật Hình sự Trung Hoa.
Tuy nhiên điểm tiến bộ trong quy định về loại tội này của bộ luật hình
sự Trung Hoa đó là hình phạt cải tạo lao động. Loại hình phạt này phù hợp
hơn hình phạt cảnh cáo và cải tạo không giam giữ của Bộ luật Hình sự Việt
Nam, cả về thời gian và giá trị cải tạo. Bởi vì hình phạt cải tạo lao động giúp
Đề tài: Tội xâm phạm sở hữu không có tính chiếm đoạt, HAY
Đề tài: Tội xâm phạm sở hữu không có tính chiếm đoạt, HAY
Đề tài: Tội xâm phạm sở hữu không có tính chiếm đoạt, HAY
Đề tài: Tội xâm phạm sở hữu không có tính chiếm đoạt, HAY
Đề tài: Tội xâm phạm sở hữu không có tính chiếm đoạt, HAY
Đề tài: Tội xâm phạm sở hữu không có tính chiếm đoạt, HAY
Đề tài: Tội xâm phạm sở hữu không có tính chiếm đoạt, HAY
Đề tài: Tội xâm phạm sở hữu không có tính chiếm đoạt, HAY
Đề tài: Tội xâm phạm sở hữu không có tính chiếm đoạt, HAY
Đề tài: Tội xâm phạm sở hữu không có tính chiếm đoạt, HAY
Đề tài: Tội xâm phạm sở hữu không có tính chiếm đoạt, HAY
Đề tài: Tội xâm phạm sở hữu không có tính chiếm đoạt, HAY
Đề tài: Tội xâm phạm sở hữu không có tính chiếm đoạt, HAY
Đề tài: Tội xâm phạm sở hữu không có tính chiếm đoạt, HAY
Đề tài: Tội xâm phạm sở hữu không có tính chiếm đoạt, HAY
Đề tài: Tội xâm phạm sở hữu không có tính chiếm đoạt, HAY
Đề tài: Tội xâm phạm sở hữu không có tính chiếm đoạt, HAY
Đề tài: Tội xâm phạm sở hữu không có tính chiếm đoạt, HAY
Đề tài: Tội xâm phạm sở hữu không có tính chiếm đoạt, HAY
Đề tài: Tội xâm phạm sở hữu không có tính chiếm đoạt, HAY
Đề tài: Tội xâm phạm sở hữu không có tính chiếm đoạt, HAY
Đề tài: Tội xâm phạm sở hữu không có tính chiếm đoạt, HAY
Đề tài: Tội xâm phạm sở hữu không có tính chiếm đoạt, HAY
Đề tài: Tội xâm phạm sở hữu không có tính chiếm đoạt, HAY
Đề tài: Tội xâm phạm sở hữu không có tính chiếm đoạt, HAY
Đề tài: Tội xâm phạm sở hữu không có tính chiếm đoạt, HAY
Đề tài: Tội xâm phạm sở hữu không có tính chiếm đoạt, HAY
Đề tài: Tội xâm phạm sở hữu không có tính chiếm đoạt, HAY
Đề tài: Tội xâm phạm sở hữu không có tính chiếm đoạt, HAY
Đề tài: Tội xâm phạm sở hữu không có tính chiếm đoạt, HAY
Đề tài: Tội xâm phạm sở hữu không có tính chiếm đoạt, HAY
Đề tài: Tội xâm phạm sở hữu không có tính chiếm đoạt, HAY
Đề tài: Tội xâm phạm sở hữu không có tính chiếm đoạt, HAY
Đề tài: Tội xâm phạm sở hữu không có tính chiếm đoạt, HAY
Đề tài: Tội xâm phạm sở hữu không có tính chiếm đoạt, HAY
Đề tài: Tội xâm phạm sở hữu không có tính chiếm đoạt, HAY
Đề tài: Tội xâm phạm sở hữu không có tính chiếm đoạt, HAY
Đề tài: Tội xâm phạm sở hữu không có tính chiếm đoạt, HAY
Đề tài: Tội xâm phạm sở hữu không có tính chiếm đoạt, HAY
Đề tài: Tội xâm phạm sở hữu không có tính chiếm đoạt, HAY
Đề tài: Tội xâm phạm sở hữu không có tính chiếm đoạt, HAY
Đề tài: Tội xâm phạm sở hữu không có tính chiếm đoạt, HAY
Đề tài: Tội xâm phạm sở hữu không có tính chiếm đoạt, HAY
Đề tài: Tội xâm phạm sở hữu không có tính chiếm đoạt, HAY
Đề tài: Tội xâm phạm sở hữu không có tính chiếm đoạt, HAY
Đề tài: Tội xâm phạm sở hữu không có tính chiếm đoạt, HAY
Đề tài: Tội xâm phạm sở hữu không có tính chiếm đoạt, HAY
Đề tài: Tội xâm phạm sở hữu không có tính chiếm đoạt, HAY
Đề tài: Tội xâm phạm sở hữu không có tính chiếm đoạt, HAY
Đề tài: Tội xâm phạm sở hữu không có tính chiếm đoạt, HAY
Đề tài: Tội xâm phạm sở hữu không có tính chiếm đoạt, HAY
Đề tài: Tội xâm phạm sở hữu không có tính chiếm đoạt, HAY
Đề tài: Tội xâm phạm sở hữu không có tính chiếm đoạt, HAY
Đề tài: Tội xâm phạm sở hữu không có tính chiếm đoạt, HAY
Đề tài: Tội xâm phạm sở hữu không có tính chiếm đoạt, HAY
Đề tài: Tội xâm phạm sở hữu không có tính chiếm đoạt, HAY
Đề tài: Tội xâm phạm sở hữu không có tính chiếm đoạt, HAY
Đề tài: Tội xâm phạm sở hữu không có tính chiếm đoạt, HAY
Đề tài: Tội xâm phạm sở hữu không có tính chiếm đoạt, HAY
Đề tài: Tội xâm phạm sở hữu không có tính chiếm đoạt, HAY
Đề tài: Tội xâm phạm sở hữu không có tính chiếm đoạt, HAY
Đề tài: Tội xâm phạm sở hữu không có tính chiếm đoạt, HAY
Đề tài: Tội xâm phạm sở hữu không có tính chiếm đoạt, HAY
Đề tài: Tội xâm phạm sở hữu không có tính chiếm đoạt, HAY
Đề tài: Tội xâm phạm sở hữu không có tính chiếm đoạt, HAY
Đề tài: Tội xâm phạm sở hữu không có tính chiếm đoạt, HAY
Đề tài: Tội xâm phạm sở hữu không có tính chiếm đoạt, HAY
Đề tài: Tội xâm phạm sở hữu không có tính chiếm đoạt, HAY
Đề tài: Tội xâm phạm sở hữu không có tính chiếm đoạt, HAY

More Related Content

What's hot

Luật hình sự Việt Nam - Pháp luật đại cương
Luật hình sự Việt Nam - Pháp luật đại cươngLuật hình sự Việt Nam - Pháp luật đại cương
Luật hình sự Việt Nam - Pháp luật đại cươngMyLan2014
 
Trường đại học luật hà nội. tiểu luận môn luật hình sự. đề bài bài tập số 04
Trường đại học luật hà nội. tiểu luận môn luật hình sự. đề bài bài tập số 04Trường đại học luật hà nội. tiểu luận môn luật hình sự. đề bài bài tập số 04
Trường đại học luật hà nội. tiểu luận môn luật hình sự. đề bài bài tập số 04jackjohn45
 
PLDC.NguyenThiKhuyen
PLDC.NguyenThiKhuyenPLDC.NguyenThiKhuyen
PLDC.NguyenThiKhuyenLong Tran Huy
 

What's hot (20)

Vấn đề về mặt khách quan của tội phạm theo Luật hình sự, HOT
Vấn đề về mặt khách quan của tội phạm theo Luật hình sự, HOTVấn đề về mặt khách quan của tội phạm theo Luật hình sự, HOT
Vấn đề về mặt khách quan của tội phạm theo Luật hình sự, HOT
 
Đề tài: Định tội danh đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, 9đ
Đề tài: Định tội danh đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, 9đĐề tài: Định tội danh đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, 9đ
Đề tài: Định tội danh đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, 9đ
 
Luật hình sự Việt Nam - Pháp luật đại cương
Luật hình sự Việt Nam - Pháp luật đại cươngLuật hình sự Việt Nam - Pháp luật đại cương
Luật hình sự Việt Nam - Pháp luật đại cương
 
Dấu hiệu chống người thi hành công vụ trong Luật Hình sự, HOT
Dấu hiệu chống người thi hành công vụ trong Luật Hình sự, HOTDấu hiệu chống người thi hành công vụ trong Luật Hình sự, HOT
Dấu hiệu chống người thi hành công vụ trong Luật Hình sự, HOT
 
Luận văn: Nguyên tắc pháp chế trong luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Nguyên tắc pháp chế trong luật hình sự Việt NamLuận văn: Nguyên tắc pháp chế trong luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Nguyên tắc pháp chế trong luật hình sự Việt Nam
 
Luận văn: Chủ thể của tội phạm theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Chủ thể của tội phạm theo pháp luật hình sự Việt NamLuận văn: Chủ thể của tội phạm theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Chủ thể của tội phạm theo pháp luật hình sự Việt Nam
 
Luận văn: Tội cướp giật tài sản theo Luật Hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội cướp giật tài sản theo Luật Hình sự Việt NamLuận văn: Tội cướp giật tài sản theo Luật Hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội cướp giật tài sản theo Luật Hình sự Việt Nam
 
Luận văn: Phạm tội nhiều lần theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội nhiều lần theo luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Phạm tội nhiều lần theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội nhiều lần theo luật hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội với tư cách, HAY
Luận văn: Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội với tư cách, HAYLuận văn: Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội với tư cách, HAY
Luận văn: Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội với tư cách, HAY
 
Đề tài: Tội phạm chưa hoàn thành theo luật hình sự Việt Nam, HAY
Đề tài: Tội phạm chưa hoàn thành theo luật hình sự Việt Nam, HAYĐề tài: Tội phạm chưa hoàn thành theo luật hình sự Việt Nam, HAY
Đề tài: Tội phạm chưa hoàn thành theo luật hình sự Việt Nam, HAY
 
Bộ luật hình sự
Bộ luật hình sựBộ luật hình sự
Bộ luật hình sự
 
Trường đại học luật hà nội. tiểu luận môn luật hình sự. đề bài bài tập số 04
Trường đại học luật hà nội. tiểu luận môn luật hình sự. đề bài bài tập số 04Trường đại học luật hà nội. tiểu luận môn luật hình sự. đề bài bài tập số 04
Trường đại học luật hà nội. tiểu luận môn luật hình sự. đề bài bài tập số 04
 
Luận văn: Phạm tội chưa đạt theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội chưa đạt theo luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Phạm tội chưa đạt theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội chưa đạt theo luật hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Tội cướp giật tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội cướp giật tài sản theo pháp luật hình sự Việt NamLuận văn: Tội cướp giật tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội cướp giật tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam
 
Luận văn: Tội danh các tội xâm phạm sức khỏe của con người, HOT
Luận văn: Tội danh các tội xâm phạm sức khỏe của con người, HOTLuận văn: Tội danh các tội xâm phạm sức khỏe của con người, HOT
Luận văn: Tội danh các tội xâm phạm sức khỏe của con người, HOT
 
Luận văn: Tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Hà Nội
Luận văn: Tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Hà NộiLuận văn: Tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Hà Nội
Luận văn: Tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Hà Nội
 
Luận văn: Các dấu hiệu của lỗi cố ý và vô ý theo Luật hình sự, HOT
Luận văn: Các dấu hiệu của lỗi cố ý và vô ý theo Luật hình sự, HOTLuận văn: Các dấu hiệu của lỗi cố ý và vô ý theo Luật hình sự, HOT
Luận văn: Các dấu hiệu của lỗi cố ý và vô ý theo Luật hình sự, HOT
 
Luận văn: Phạm tội có tổ chức theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội có tổ chức theo luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Phạm tội có tổ chức theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội có tổ chức theo luật hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Nguyên tắc trách nhiệm do lỗi của Luật hình sự, HOT
Luận văn: Nguyên tắc trách nhiệm do lỗi của Luật hình sự, HOTLuận văn: Nguyên tắc trách nhiệm do lỗi của Luật hình sự, HOT
Luận văn: Nguyên tắc trách nhiệm do lỗi của Luật hình sự, HOT
 
PLDC.NguyenThiKhuyen
PLDC.NguyenThiKhuyenPLDC.NguyenThiKhuyen
PLDC.NguyenThiKhuyen
 

Similar to Đề tài: Tội xâm phạm sở hữu không có tính chiếm đoạt, HAY

Định tội danh đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản ở Hà Nội, 9đ
Định tội danh đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản ở Hà Nội, 9đĐịnh tội danh đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản ở Hà Nội, 9đ
Định tội danh đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản ở Hà Nội, 9đDịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Luận văn: Tội trộm cắp tài sản theo Pháp luật ở Bình Phước, 9đ - Gửi miễn phí...
Luận văn: Tội trộm cắp tài sản theo Pháp luật ở Bình Phước, 9đ - Gửi miễn phí...Luận văn: Tội trộm cắp tài sản theo Pháp luật ở Bình Phước, 9đ - Gửi miễn phí...
Luận văn: Tội trộm cắp tài sản theo Pháp luật ở Bình Phước, 9đ - Gửi miễn phí...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 

Similar to Đề tài: Tội xâm phạm sở hữu không có tính chiếm đoạt, HAY (20)

Luận văn: Tội sử dụng trái phép tài sản theo luật hình sự, HAY
Luận văn: Tội sử dụng trái phép tài sản theo luật hình sự, HAYLuận văn: Tội sử dụng trái phép tài sản theo luật hình sự, HAY
Luận văn: Tội sử dụng trái phép tài sản theo luật hình sự, HAY
 
Luận văn: Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp, HAY
Luận văn: Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp, HAYLuận văn: Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp, HAY
Luận văn: Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp, HAY
 
Định tội danh đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản ở Hà Nội, 9đ
Định tội danh đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản ở Hà Nội, 9đĐịnh tội danh đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản ở Hà Nội, 9đ
Định tội danh đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản ở Hà Nội, 9đ
 
Luận văn: Các tội hiếp dâm theo quy định của Bộ luật hình sự, 9đ
Luận văn: Các tội hiếp dâm theo quy định của Bộ luật hình sự, 9đLuận văn: Các tội hiếp dâm theo quy định của Bộ luật hình sự, 9đ
Luận văn: Các tội hiếp dâm theo quy định của Bộ luật hình sự, 9đ
 
Luận văn: Các tội hiếp dâm theo quy định của Bộ luật hình sự
Luận văn: Các tội hiếp dâm theo quy định của Bộ luật hình sựLuận văn: Các tội hiếp dâm theo quy định của Bộ luật hình sự
Luận văn: Các tội hiếp dâm theo quy định của Bộ luật hình sự
 
Luận văn: Các tội hiếp dâm theo quy định của luật hình sự, HOT
Luận văn: Các tội hiếp dâm theo quy định của luật hình sự, HOTLuận văn: Các tội hiếp dâm theo quy định của luật hình sự, HOT
Luận văn: Các tội hiếp dâm theo quy định của luật hình sự, HOT
 
Luận văn: Tội xâm phạm sở hữu trong Quốc triều hình luật, HOT
Luận văn: Tội xâm phạm sở hữu trong Quốc triều hình luật, HOTLuận văn: Tội xâm phạm sở hữu trong Quốc triều hình luật, HOT
Luận văn: Tội xâm phạm sở hữu trong Quốc triều hình luật, HOT
 
Luận văn: Nhân thân người phạm tội xâm phạm hoạt động tư pháp
Luận văn: Nhân thân người phạm tội xâm phạm hoạt động tư phápLuận văn: Nhân thân người phạm tội xâm phạm hoạt động tư pháp
Luận văn: Nhân thân người phạm tội xâm phạm hoạt động tư pháp
 
Luận văn: Tội “Làm nhục người khác” theo Luật hình sự, HAY
Luận văn: Tội “Làm nhục người khác” theo Luật hình sự, HAYLuận văn: Tội “Làm nhục người khác” theo Luật hình sự, HAY
Luận văn: Tội “Làm nhục người khác” theo Luật hình sự, HAY
 
Luận văn: Tội không chấp hành án theo luật hình sự, HAY
Luận văn: Tội không chấp hành án theo luật hình sự, HAYLuận văn: Tội không chấp hành án theo luật hình sự, HAY
Luận văn: Tội không chấp hành án theo luật hình sự, HAY
 
Luận văn: Tội cướp giật tài sản theo Luật Hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội cướp giật tài sản theo Luật Hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Tội cướp giật tài sản theo Luật Hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội cướp giật tài sản theo Luật Hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận án: Tội cướp giật tài sản theo Luật Hình sự Việt Nam, HAY
Luận án: Tội cướp giật tài sản theo Luật Hình sự Việt Nam, HAYLuận án: Tội cướp giật tài sản theo Luật Hình sự Việt Nam, HAY
Luận án: Tội cướp giật tài sản theo Luật Hình sự Việt Nam, HAY
 
Luận văn: Tội trộm cắp tài sản theo Pháp luật ở Bình Phước, 9đ - Gửi miễn phí...
Luận văn: Tội trộm cắp tài sản theo Pháp luật ở Bình Phước, 9đ - Gửi miễn phí...Luận văn: Tội trộm cắp tài sản theo Pháp luật ở Bình Phước, 9đ - Gửi miễn phí...
Luận văn: Tội trộm cắp tài sản theo Pháp luật ở Bình Phước, 9đ - Gửi miễn phí...
 
luanvancactoihiepdamtheoquydinhcualuathinhsu-190517085817.doc
luanvancactoihiepdamtheoquydinhcualuathinhsu-190517085817.docluanvancactoihiepdamtheoquydinhcualuathinhsu-190517085817.doc
luanvancactoihiepdamtheoquydinhcualuathinhsu-190517085817.doc
 
Luận văn: Các tội xâm phạm tính mạng của con người, HAY
Luận văn: Các tội xâm phạm tính mạng của con người, HAYLuận văn: Các tội xâm phạm tính mạng của con người, HAY
Luận văn: Các tội xâm phạm tính mạng của con người, HAY
 
Luận văn: Mặt khách quan của các tội xâm phạm sở hữu, HOT
Luận văn: Mặt khách quan của các tội xâm phạm sở hữu, HOTLuận văn: Mặt khách quan của các tội xâm phạm sở hữu, HOT
Luận văn: Mặt khách quan của các tội xâm phạm sở hữu, HOT
 
Luận văn: Tội cướp tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội cướp tài sản theo pháp luật hình sự Việt NamLuận văn: Tội cướp tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội cướp tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam
 
Luận văn: Người làm chứng trong Luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Người làm chứng trong Luật tố tụng hình sự, HAYLuận văn: Người làm chứng trong Luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Người làm chứng trong Luật tố tụng hình sự, HAY
 
Luận văn: Người làm chứng trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam
Luận văn: Người làm chứng trong Luật tố tụng hình sự Việt NamLuận văn: Người làm chứng trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam
Luận văn: Người làm chứng trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam
 
Tội phá hủy công trình, phương tiện quan trọng về an ninh quốc gia
Tội phá hủy công trình, phương tiện quan trọng về an ninh quốc giaTội phá hủy công trình, phương tiện quan trọng về an ninh quốc gia
Tội phá hủy công trình, phương tiện quan trọng về an ninh quốc gia
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620

Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới NhấtDịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm CaoDịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620 (20)

Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 Điểm
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 ĐiểmDanh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 Điểm
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 Điểm
 
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý Tưởng
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý TưởngDanh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý Tưởng
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý Tưởng
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên GiỏiDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên Giỏi
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá GiỏiDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá GiỏiDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
 

Recently uploaded

GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
sách sinh học đại cương   -   Textbook.pdfsách sinh học đại cương   -   Textbook.pdf
sách sinh học đại cương - Textbook.pdfTrnHoa46
 
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...Nguyen Thanh Tu Collection
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIĐiện Lạnh Bách Khoa Hà Nội
 
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgspowerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgsNmmeomeo
 
Nhiễm khuẩn tiêu hóa-Tiêu chảy do vi khuẩn.pptx
Nhiễm khuẩn tiêu hóa-Tiêu chảy do vi khuẩn.pptxNhiễm khuẩn tiêu hóa-Tiêu chảy do vi khuẩn.pptx
Nhiễm khuẩn tiêu hóa-Tiêu chảy do vi khuẩn.pptxhoangvubaongoc112011
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIGIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIĐiện Lạnh Bách Khoa Hà Nội
 
cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-
cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-
cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-KhnhHuyn546843
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...Nguyen Thanh Tu Collection
 
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docxTHAO316680
 
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhhkinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhhdtlnnm
 
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...Nguyen Thanh Tu Collection
 
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢIPHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢImyvh40253
 
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...hoangtuansinh1
 
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoáCác điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoámyvh40253
 
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảo
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảoKiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảo
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảohoanhv296
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 

Recently uploaded (20)

GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
 
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
sách sinh học đại cương   -   Textbook.pdfsách sinh học đại cương   -   Textbook.pdf
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
 
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
 
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
 
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
 
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgspowerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
 
Nhiễm khuẩn tiêu hóa-Tiêu chảy do vi khuẩn.pptx
Nhiễm khuẩn tiêu hóa-Tiêu chảy do vi khuẩn.pptxNhiễm khuẩn tiêu hóa-Tiêu chảy do vi khuẩn.pptx
Nhiễm khuẩn tiêu hóa-Tiêu chảy do vi khuẩn.pptx
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIGIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
 
cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-
cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-
cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
 
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
 
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhhkinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
 
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
 
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢIPHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
 
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
 
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoáCác điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
 
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảo
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảoKiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảo
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảo
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 

Đề tài: Tội xâm phạm sở hữu không có tính chiếm đoạt, HAY

  • 1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN THỊ THÚY HỒNG CÁC TỘI XÂM PHẠM SỞ HỮU KHÔNG CÓ TÍNH CHIẾM ĐOẠT THEO BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 1999 (TRÊN CƠ SỞ NGHIÊN CỨU THỰC TIỄN XÉT XỬ CỦA NGÀNH TÕA ÁN HÀ NỘI GIAI ĐOẠN 2007 - 2012) Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số: 60 38 01 04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. TRỊNH QUỐC TOẢN
  • 2. HÀ NỘI - 2014
  • 3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các số liệu, ví dụ minh hoa và các trích dẫn trong luận văn bảo đảm độ tin cậy, chính xác và trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác. TÁC GIẢ LUẬN VĂN Nguyễn Thị Thúy Hồng
  • 4. MỤC LỤC Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các bảng MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CÁC TỘI XÂM PHẠM SỞ HỮU KHÔNG CÓ TÍNH CHIẾM ĐOẠT TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM ........................................................... 7 1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM VÀ Ý NGHĨA CỦA VIỆC QUY ĐỊNH CÁC TỘI XÂM PHẠM SỞ HỮU KHÔNG CÓ TÍNH CHIẾM ĐOẠT TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM .................... 7 1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của các tội xâm phạm sở hữu không có tính chiếm đoạt..................................................................................... 7 1.1.2. Ý nghĩa của việc quy định các tội phạm xâm phạm sở hữu không có tính chiếm đoạt ..............................................................................14 1.2. KHÁI QUÁT LỊCH SỬ PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ NĂM 1945 ĐẾN TRƢỚC KHI BAN HÀNH BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 1999 QUY ĐỊNH VỀ CÁC TỘI XÂM PHẠM SỞ HỮU KHÔNG CÓ TÍNH CHIẾM ĐOẠT..................................16 1.2.1. Giai đoạn từ sau Cách mạng tháng Tám 1945 đến trƣớc khi ban hành Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1985.........................................16 1.2.2. Giai đoạn từ sau khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985 đến trƣớc khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1999 ...................................23 1.3. QUY ĐỊNH VỀ CÁC TỘI XÂM PHẠM SỞ HỮU KHÔNG CÓ TÍNH CHIẾM ĐOẠT TRONG LUẬT HÌNH SỰ MỘT SỐ NƢỚC....34
  • 5. 1.3.1. Bộ luật hình sự của Trung Quốc ........................................................34 1.3.2. Bộ luật hình sự của Liên bang Nga....................................................39 Chương 2: QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 1999 VỀ CÁC TỘI XÂM PHẠM SỞ HỮU KHÔNG CÓ TÍNH CHIẾM ĐOẠT VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG ................................46 2.1. CÁC DẤU HIỆU PHÁP LÝ ĐẶC TRƢNG CHUNG CỦA CÁC TỘI XÂM PHẠM SỞ HỮU KHÔNG CÓ TÍNH CHIẾM ĐOẠT ...46 2.1.1. Khách thể của tội phạm......................................................................47 2.1.2. Mặt khách quan của tội phạm ............................................................50 2.1.3. Mặt chủ quan của tội phạm ................................................................54 2.1.4. Chủ thể của tội phạm..........................................................................56 2.2. PHÂN BIỆT CÁC TỘI XÂM PHẠM SỞ HỮU CÓ TÍNH CHIẾM ĐOẠT VỚI CÁC TỘI XÂM PHẠM SỞ HỮU KHÔNG CÓ TÍNH CHIẾM ĐOẠT THEO BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 1999 ...................56 2.3. THỰC TIỄN ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH VỀ CÁC TỘI XÂM PHẠM SỞ HỮU KHÔNG CÓ TÍNH CHIẾM ĐOẠT THEO BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 1999 TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI..............................................................................................60 2.4. NHỮNG TỒN TẠI, VƢỚNG MẮC TRONG THỰC TIỄN ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH VỀ CÁC TỘI XÂM PHẠM SỞ HỮU KHÔNG CÓ TÍNH CHIẾM ĐOẠT THEO BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 1999 TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI VÀ NHỮNG NGUYÊN NHÂN CỦA NÓ ..............................................64 2.4.1. Những tồn tại, vƣớng mắc trong thực tiễn áp dụng các quy định về các tội xâm phạm sở hữu không có tính chiếm đoạt theo Bộ luật hình sự năm 1999 trên địa bàn thành phố Hà Nội ......................64
  • 6. 2.4.2. Nguyên nhân của các tồn tại, hạn chế trong áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 về các tội xâm phạm sở hữu không có tính chiếm đoạt ...................................................................82 Chương 3: CÁC GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ ĐỐI VỚI CÁC TỘI XÂM PHẠM SỞ HỮU KHÔNG CÓ TÍNH CHIẾM ĐOẠT......90 3.1. SỰ CẦN THIẾT PHẢI HOÀN THIỆN VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ CÁC TỘI XÂM PHẠM SỞ HỮU KHÔNG CÓ TÍNH CHIẾM ĐOẠT .....................90 3.2. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 1999 VỀ CÁC TỘI XÂM PHẠM SỞ HỮU KHÔNG CÓ TÍNH CHIẾM ĐOẠT .....................93 3.3. NHỮNG GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT ĐỐI VỚI CÁC TỘI XÂM PHẠM SỞ HỮU KHÔNG CÓ TÍNH CHIẾM ĐOẠT TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI......................................................................96 3.3.1. Nhóm giải pháp về tổ chức cán bộ và chuyên môn nghiệp vụ ..........96 3.3.2. Nhóm giải pháp về tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật............98 KẾT LUẬN..................................................................................................100 TÀI LIỆU THAM KHẢO ..........................................................................101
  • 7. DANH MỤC CÁC BẢNG Stt Số hiệu bảng Tên bảng Trang 1 Bảng 2.1. Tổng kết tình hình xét xử các loại án của ngành Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội giai đoạn 2007 – 2012 61 2 Bảng 2.2. Số liệu xét xử các vụ án xâm phạm sở hữu của ngành Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội giai đoạn 2007 – 2012 62 3 Bảng 2.3. Số liệu xét xử các vụ án xâm phạm sở hữu không có tính chiếm đoạt của ngành Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội giai đoạn 2007 – 2013 63
  • 8. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong lịch sử phát triển loài ngƣời, vấn đề lợi ích vật chất luôn là căn nguyên của mọi xung đột trong xã hội. Bởi vậy, việc đảm bảo quyền sở hữu các lợi ích vật chất luôn đƣợc các nhà nƣớc trên thế giới quan tâm, bảo hộ. Ở nƣớc ta, quyền sở hữu là một trong những quyền cơ bản, bất khả xâm phạm của công dân, đƣợc ghi nhận tại Điều 32 Hiến pháp năm 2013 – Đạo luật có giá trị pháp lý cao nhất trong hệ thống pháp luật Việt Nam. Quyền đó còn đƣợc ghi nhận cụ thể hơn trong các đạo luật và các văn bản quy phạm pháp luật trên mọi lĩnh vực nhƣ: hình sự, dân sự, kinh tế… Trong pháp luật dân sự, tài sản và quyền sở hữu tài sản là một trong số những vấn đề quan trọng, đƣợc quy định cụ thể tại Phần thứ hai “Tài sản và quyền sở hữu” với 7 Chƣơng và 118 điều của Bộ luật dân sự năm 2005. Trong pháp luật hình sự, quyền sở hữu đƣợc bảo hộ thông qua 13 điều luật (từ Điều 133 đến Điều 145) thuộc Chƣơng XIV “Các tội phạm xâm phạm sở hữu” của Bộ luật hình sự, là cơ sở pháp lý quan trọng để bảo vệ quyền sở hữu hợp pháp của Nhà nƣớc, tổ chức và công dân. Cùng với tiến trình xây dựng đất nƣớc và trƣởng thành, pháp luật hình sự về vấn đề sở hữu từng bƣớc đƣợc thiết lập và ngày càng hoàn thiện, đi vào cuộc sống và phát huy tác dụng của nó. Tuy nhiên, sự phát triển của nó không thể tách rời với sự phát triển chính trị, kinh tế, văn hóa và chịu sự chi phối bởi đặc điểm lịch sử của đất nƣớc và thế giới. Bởi vì pháp luật của mỗi nƣớc phản ánh sự phát triển của đất nƣớc đó. Trong bối cảnh hiện tại, đất nƣớc ta đang tiến hành công cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế bƣớc đầu có những chuyển biến và đạt đƣợc những thành tựu về kinh tế, văn hóa, xã hội, đời sống vật chất và tinh thần của
  • 9. 2 ngƣời dân từng bƣớc đƣợc nâng cao. Bên cạnh đó, mặt trái của nền kinh thị trƣờng mang lại, đó là tình hình tội phạm diễn biến ngày càng phức tạp, nhiều loại tội phạm mới xuất hiện nhƣ tội phạm công nghệ cao, một số loại tội phạm có chiều hƣớng gia tăng nhƣ tội phạm về ma túy; tội phạm về môi trƣờng, tội phạm xâm phạm sở hữu… gây thiệt hại lớn về ngƣời, tài sản cho Nhà nƣớc, tổ chức và công dân. Thực tiễn xét xử trong những năm qua cho thấy, các tội phạm xâm phạm sở hữu luôn chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng số các vụ án hình sự. Đối với các tội xâm phạm sở hữu không có tính chiếm đoạt thƣờng xảy ra ít hơn so với các tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt, nhƣng đang ngày càng xảy ra phổ biến hơn, tính chất và thủ đoạn phạm tội ngày càng tinh vi, phức tạp, gây hậu quả nghiêm trọng và ảnh hƣởng xấu đến trật tự an toàn xã hội. Song trên thực tế, do từ trƣớc đến nay, loại tội phạm này ít xảy ra, thậm chí có tội chƣa xảy ra nên chƣa có sự tổng kết kinh nghiệm xét xử và văn bản hƣớng dẫn hầu nhƣ rất ít nên các cơ quan tiến hành tố tụng tỏ ra lúng túng, khó khăn khi giải quyết vụ án, không đánh gia đúng bản chất hành vi phạm tội dẫn đến việc xác định sai tội danh hoặc xử oan, bỏ lọt tội phạm. Để khắc phục tình trạng trên thì vấn cốt lõi đƣợc đặt ra là phải năm vững các quy định của pháp luật về tội phạm, nhận thức đúng bản chất của hành vi phạm tội, từ đó đƣa ra đƣờng lối xử lý đúng đắn, bảo đảm sự khách quan, công bằng và nghiêm minh của pháp luật. Nhận thức đƣợc điều đó, tôi chọn đề tài: “Các tội xâm phạm sở hữu không có tính chiếm đoạt theo Bộ luật hình sự năm 1999 (trên cơ sở số liệu xét xử ngành Tòa án Hà Nội giai đoạn 2007 - 2012)". 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Nghiên cứu các tội xâm phạm sở hữu nói chung có ý nghĩa to lớn không những về mặt khoa học mà còn cả về hình thức nên đã có nhiều
  • 10. 3 công trình nghiên cứu xung quanh về vấn đề này nhƣ: “Một số vấn đề lý luận về định tội danh và hướng dẫn phương pháp định tội danh”, - PGS. TS. Trịnh Quốc Toản; “Vấn đề định tội danh trong các tội xâm phạm sở hữu” - TS. Nguyễn Ngọc Chí; “Nghiên cứu hoàn thiện các quy định của Bộ luật Hình sự về các tội xâm phạm sở hữu” – Đại tá, PGS, TS. Trần Vi Dân ; “Trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm sở hữu” - TS. Nguyễn Ngọc Chí; “Trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa, tài sản công dân”- Tác giả Vũ Thiện Kim; “Tìm hiểu khái niệm và những đặc trưng cơ bản của tội phạm theo luật hình sự Việt Nam” - TS. Đào Trí Öc; “Xung đột quan điểm trong việc xác định tội danh” - TS. Phạm Văn Beo; “Tìm hiểu việc định tội và quyết định hình phạt từ phương diện là những hoạt động áp dụng pháp luật hình sự cơ bản của Tòa án” - ThS. Chu Thị Trang Vân; “Vấn đề xác định và chuyển hóa tội danh nặng hơn, nhẹ hơn và ngược lại” - ThS. Nguyễn Hữu Hậu; “Định tội danh đối với nhóm tội xâm phạm sở hữu trên địa bàn tỉnh Bình Định giai đoạn 2006- 2010” - ThS. Trần Thị Phƣơng; Tạp chí Tòa án số 01- 2009; Tạp chí khoa học pháp luật số 2/2001.... Nhìn chung, những công trình nghiên cứu nói trên đã khái quát đƣợc một số vấn đề lý luận và thực tiễn áp dụng pháp luật đối với các tội phạm xâm phạm sở hữu nhƣng chƣa có công trình nghiên cứu nào về vấn đề “Các tội xâm phạm sở hữu không có tình chất chiếm đoạt theo bộ luật hình sự năm 1999” trên cơ sở số liệu xét xử ngành Tòa án Hà Nội giai đoan 2007 - 2012. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài 3.1. Mục đích nghiên cứu Mục đích nghiên cứu đề tài này là phân tích khoa học để làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn đối với các tội xâm phạm sở hữu nói chung và các tội xâm phạm sở hữu không có tính chất chiếm đoạt nói riêng, đồng thời phân tích thực trạng việc xét xử đối với các tội xâm phạm sở hữu không
  • 11. 4 có tính chất chiếm đoạt trên địa bàn thành phố Hà Nội. Từ đó chỉ ra các tồn tại, hạn chế, nguyên nhân và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động xét xử với các tội xâm phạm sở hữu không có tính chất chiếm đoạt trên địa bàn thành phố Hà Nội. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Từ mục đích nghiên cứu nêu trên, luận văn có nhiệm vụ sau: - Làm rõ những vấn đề lý luận về các tội xâm phạm sở hữu không có tính chất chiếm đoạt theo Luật hình sự Việt Nam Nhƣ: Khái niệm, đặc điểm của các tội phạm xâm phạm sở hữu; Đặc điểm các tội xâm phạm sở hữu không có tính chất chiếm đoạt; Cấu thành tội phạm của các tội xâm phạm sở hữu không có tính chiếm đoạt. - Phân tích, đánh giá sâu sắc thực trạng xét xử các tội xâm phạm sở hữu không có tính chất chiếm đoạt trên địa bàn thành phố Hà Nội. - Chỉ ra đƣợc những tồn tại, hạn chế, nguyên nhân và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả xét xử với các tội xâm phạm sở hữu không có tính chất chiếm đoạt trên địa bàn thành phố Hà Nội. 4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu Luận văn đƣợc thực hiện trên cơ sở phƣơng pháp luận chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác – Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về Nhà nƣớc và pháp luật, cũng nhƣ các quan điểm của Đảng và Nhà nƣớc ta về xây dựng nhà nƣớc pháp quyền, về chính sách hình sự, vấn đề cải cách tƣ pháp theo Nghị quyết Đại hội Đảng VIII, IX, X và Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002, Nghị quyết số 49- NQ/TW ngày 26/5/2005 và Chiến lƣợc cải cách tƣ pháp đến năm 2020 của Bộ chính trị. Bên cạnh đó, luận văn còn sử dụng phƣơng pháp nghiên cứu cụ thể và đặc thù của khoa học luật hình sự nhƣ: Phƣơng pháp thống kê; phƣơng pháp phân tích và tổng hợp các số liệu dƣa trên bản án, quyết định và số liệu thống
  • 12. 5 kê hàng năm của các cấp Tòa án; phƣơng pháp so sánh, đối chiếu các quy định của pháp luật nhằm tìm ra những điểm mới trong quá trình nghiên cứu. 5. Những điểm mới của luận văn và đóng góp của luận văn Việc nghiên cứu của luận văn có ý nghĩa vô cùng quan trọng cả về phƣơng diện lý luận cũng nhƣ thực tiễn. Bởi lẽ đây là công trình nghiên cứu đầu tiên đề cập đến việc với các tội xâm phạm sở hữu không có tính chất chiếm đoạt trên địa bàn thành phố Hà Nội, trong đó giải quyết các vấn đề quan trọng về lý luận và thực tiễn xoay quanh đề tài tài này trên cơ sở những bản án, quyết định, số liệu báo cáo thống kê của ngành Tòa án Hà Nội. Những điểm mới của luận văn là: - Nghiên cứu nhằm làm rõ khía cạnh pháp lý về các tội xâm phạm sở hữu không có tính chất chiếm đoạt, góp phần hoàn thiện lý thuyết định tội danh trong khoa học pháp lý hình sự. - Nghiên cứu, đánh giá làm sáng tỏ thực trạng xét xử các tội xâm phạm sở hữu không có tính chất chiếm đoạt của Tòa án cá cấp trong ngành Tòa án Hà Nội, đồng thời chỉ ra những tồn tại, hạn chế, nguyên nhân và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động xét xử với các tội xâm phạm sở hữu không có tính chất chiếm đoạt trên địa bàn thành phố Hà Nội. - Trên cơ sở những phân tích, đánh giá khoa học các tội xâm phạm sở hữu không có tính chất chiếm đoạt trên phƣơng diện lý luận và thực tiễn, luận văn đề xuất các định hƣớng và giải pháp hoàn thiện hệ thống pháp luật thực định liên quan đến các tội xâm phạm sở hữu nói chung và các tội xâm phạm sở hữu không có tính chiếm đoạt nói riêng. Bên cạnh đó, luận văn sẽ là một trong những tài liệu tham khảo hữu ích cho các nhà lập pháp cũng nhƣ các nhà nghiên cứu luật học và đặc biệt là các Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án trong việc định tội
  • 13. 6 danh làm cơ sở ho việc giải quyết vụ án hình sự đƣợc khách quan, có căn cứ và đúng pháp luật. 6. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chƣơng: Chương 1: Những vấn đề chung về các tội xâm phạm sở hữu không có tính chất chiếm đoạt trong Luật hình sự Việt Nam. Chương 2: Quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 về các tội xâm phạm sở hữu không có tính chiếm đoạt và thực tiễn áp dụng. Chương 3: Các giải pháp hoàn thiện các quy định các tội xâm phạm sở hữu không có tính chiếm đoạt trong Bộ luật hình sự năm 1999 và nâng cao hiệu quả áp dụng.
  • 14. 7 Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CÁC TỘI XÂM PHẠM SỞ HỮU KHÔNG CÓ TÍNH CHIẾM ĐOẠT TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM 1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM VÀ Ý NGHĨA CỦA VIỆC QUY ĐỊNH CÁC TỘI XÂM PHẠM SỞ HỮU KHÔNG CÓ TÍNH CHIẾM ĐOẠT TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM 1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của các tội xâm phạm sở hữu không có tính chiếm đoạt Ở bất kỳ xã hội nào cũng tồn tại những cách thức nhất định để chiếm giữ, làm chủ của cải vật chất và trong quá trình thực hiện những cách thức đó xuất hiện quan hệ giữa ngƣời với ngƣời đối với những của cải vật chất đó. Mối quan hệ đó là quan hệ sở hữu. Quan hệ sở hữu là quan hệ xã hội xuất hiện, tồn tại và phát triển nhƣ một tất yếu khách quan trong đời sống xã hội loại ngƣời, là hình thức xã hội của sự chiếm hữu của cải vật chất. Nó đƣợc luật hoá hành quyền sở hữu. Theo Điều 164 Bộ Luật dân sự năm 2005 thì “quyền sở hữu bao gồm quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt tài sản của chủ sở hữu theo quy định của pháp luật” [27, tr.83]. Đây là ba quyền năng cơ bản hợp thành quyền sở hữu. Quyền chiếm hữu tài sản là quyền của chủ tài sản tự mình nắm giữ, quản lý tài sản thuộc sở hữu của mình. Thông thƣờng quyền chiếm hữu đƣợc thực hiện bởi chủ sở hữu tài sản. Nhƣng ngƣời ngƣời không phải là chủ sở hữu tài sản cũng có quyền chiếm hữu tài sản trong trƣờng hợp đƣợc chủ sở hữu chuyển giao hoặc do pháp luật quy định đƣợc nắm giữ, quản lý tài sản (Điều 182 BLDS).
  • 15. 8 Quyền sử dụng tài sản là quyền của chủ sở hữu khai thác công dụng, hƣởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản, trong đó hoa lợi là sản vật do tự nhiên mang lại và lợi tức là các khoản thu lời đƣợc từ việc khai thác tài sản. Ngƣời không phải là chủ sở hữu tài sản cũng có quyền sử dụng tài sản trong trƣờng hợp đƣợc chủ sở hữu giao quyền sử dụng tài sản thông qua hợp đồng hay do pháp luật quy định (Điều 192 BLDS). Quyền định đoạt tài sản là quyền của chủ sở hữu chuyển giao quyền sở hữu của mình cho ngƣời khác hoặc chủ sở hữu từ bỏ quyền sở hữu tài sản của mình thông qua các hình thức chuyển giao quyền sở hữu nhƣ bán, chuyển nhƣợng, tặng cho, để thừa kế… Trong quá trình thực hiện các quyền nêu trên, chủ sở hữu có thể trực tiếp hoặc ủy quyền cho ngƣời khác thay mình thực hiện các quyền chiếm hữu, sử dụng và quyền định đoạt tài sản thuộc sở hữu của mình theo ý chí của chủ sở hữu nhƣng không đƣợc gây thiệt hại hoặc làm ảnh hƣởng đến lợi ích của nhà nƣớc, lợi ích công cộng và quyền và lợi ích hợp pháp của ngƣời khác. Quyền sở hữu tài sản đƣợc ghi nhận trong Hiến pháp, đƣợc pháp luật tôn trọng và bảo vệ thông qua các quy định pháp luật trên các lĩnh vực nhƣ dân sự, hình sự, kinh doanh thƣơng mại... Trong pháp luật hình sự, quyền sở hữu tài sản đƣợc bảo hộ thông qua các quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam tại chƣơng “Các tội phạm xâm phạm sở hữu”. Và quyền sở hữu ở đây là quyền sở hữu về tài sản mà không phải quyền sở hữu công nghiệp hay sở hữu trí tuệ. Vì vậy mọi hành vi gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho quan hệ sở hữu là những hành vi xâm phạm các quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản của chủ sở hữu. Tuy nhiên, hành vi phạm tội về sở hữu có thể xâm phạm cả ba quyền năng thuộc quyền sở hữu tài sản của chủ sở hữu nhƣ tội cƣớp tài sản, trộm cắp tài sản… nhƣng cũng có tội phạm chỉ xâm hại một trong các quyền năng
  • 16. 9 thuộc quyền sở hữu nhƣ tội chiếm giữ trái phép tài sản, tội sử dụng trái phép tài sản… Đối với một số tội, tuy có hành vi xâm phạm quyền sở hữu nhƣng không phải là tội xâm phạm sở hữu và không đƣợc các nhà làm luật quy định ở chƣơng “Các tội xâm phạm sở hữu”. Điều này xuất phát từ bản chất của hành vi phạm tội là ngoài việc xâm phạm quan hệ sở hữu, hành vi này còn đồng thời xâm phạm quan hệ xã hội khác và sự xâm phạm này mới thể hiện đƣợc đầy đủ nhất bản chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi, thì trong trƣờng hợp đó khách thể của tội phạm không phải là quan hệ sở hữu. Ví dụ nhƣ hành vi xâm phạm hoạt động đúng đắn của cơ quan, tổ chức qua đó xâm phạm quyền sở hữu tài sản của cơ quan, tổ chức đó. Nhƣ vậy, hành vi nhƣ thế nào bị coi là tội phạm xâm phạm sở hữu? Hiện có rất nhiều quan điểm xung quanh vấn đề này nhƣ: Theo PGS. TS. Nguyễn Văn Huyên: Các tội xâm phạm sở hữu là hành vi nguy hiểm cho xã hội đƣợc quy định tại Chƣơng XIV Bộ luật hình sự, do ngƣời có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý xâm phạm chế độ sở hữu tài sản của Nhà nƣớc, cơ quan, tổ chức và cá nhân. Theo Thạc sỹ Đinh Văn Quế: Các tội xâm phạm sở hữu là những hành vi nguy hiểm cho xã hội đƣợc quy định trong Bộ luật hình sự, do ngƣời có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm đến quan hệ sở hữu của cơ quan, tổ chức và của công dân. Theo PGS.TS. Nguyễn Ngọc Hòa: Các tội xâm phạm sở hữu là hành vi có lỗi, gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho quan hệ sở hữu và sự gây thiệt hại này thể hiện đầy đủ bản nguy hiểm cho xã hội của hành vi. Theo Thông tƣ 02/2001/TTLN ngày 25/12/2001 của liên ngành TANDTC- VKSNDTC - BTP - BCA hƣớng dẫn áp dụng các tội xâm phạm sở hữu: Các tội xâm phạm sở hữu là những hành vi xâm phạm quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt về tài sản của ngƣời khác.
  • 17. 10 Theo quan điểm của tác giả, khái niệm tội phạm nói chung hay khái niệm về các tội xâm phạm sở hữu nói riêng phải có tính tổng quát, phản ánh đƣợc bản chất pháp lý và bản chất xã hội của tội phạm, từ đó phân biệt các tội này với tội phạm khác. Nhìn chung, định nghĩa về khái niệm các tội xâm phạm sở hữu nêu trên đã đề cập tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội cũng nhƣ khách thể của tội phạm là quyền sở hữu tài sản – mặt khách quan, tính trái pháp luật hình sự - mặt pháp lý và mặt chủ quan, đó là tội phạm xâm phạm sở hữu do ngƣời có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện với lỗi cố ý hoặc vô ý. Tuy nhiên các khái niệm nêu trên chƣa đề cập đến một dấu hiệu quan trọng của tội phạm nói chung và tội phạm xâm phạm sở hữu nói riêng, đó là “đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự” của ngƣời thực hiện tội phạm. Đặc điểm này là một trong ba đặc điểm thuộc mặt chủ quan của tội phạm, có ý nghĩa trong việc xác định một hành vi xâm phạm quyền sở hữu có phải là tội phạm hay không. Đặc điểm “tuổi chịu trách nhiệm hình sự” có mối quan hệ chặt chẽ với năng lực trách nhiệm hình sự và lỗi. Bởi lẽ, một ngƣời đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự thì thông thƣờng sẽ có năng lực trách nhiệm hình sự (trừ trƣờng hợp bị bệnh tâm thần hoặc bệnh lý khác làm mất khả năng nhận thức và điều khiển hành vi), nghĩa là ngƣời đó có khả năng nhận thức và điều khiển hành vi theo quy định của pháp luật hình sự, và khi ngƣời đó thực hiện tội phạm thì mới có lỗi. Nếu tại thời điểm chủ thể của hành vi thực hiện hành vi ngây thiệt hại về tài sản cho ngƣời khác mà ngƣời đó chƣa đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự hoặc không có năng lực trách nhiệm hình sự thì chủ thể của hành vi không có lỗi, vì thế không phải là tội phạm. Vì vậy không thể thiếu đặc điểm này trong khái niệm tội phạm nói chung cũng nhƣ trong khái niệm các tội xâm phạm sở hữu nói riêng.
  • 18. 11 Từ những phân tích nêu trên, có thể đƣa ra khái niệm về các tội xâm phạm sở hữu nhƣ sau: Các tội xâm phạm sở hữu là hành vi gây nguy hiểm cho xã hội đƣợc quy định trong Bộ luật hình sự, do ngƣời có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự thực hiện một cách có lỗi, xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của Nhà nƣớc, cơ quan, tổ chức và của công dân. Căn cứ vào tính chất của hành vi khách quan xâm hại đến các quyền năng trong quyền sở hữu đối với tài sản, các tội xâm phạm sở hữu đƣợc chia làm 2 nhóm: + Các tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt đƣợc quy định từ Điều 133 đến Điều 140. + Các tội xâm phạm sở hữu không có tính chiếm đoạt đƣợc quy định từ Điều 141 đến Điều 145. Theo đó, các tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt là những tội xâm phạm sở hữu bằng việc chiếm đoạt và trong cấu thành tội phạm của những tội này có dấu hiệu chiếm đoạt. Trong đó, “chiếm đoạt là hành vi cố ý chuyển dịch trái pháp luật tài sản đang thuộc sự quản lí của chủ tài sản thành tài sản của mình” [48, tr.366]. Khái niệm này đã thể hiện đƣợc bản chất của khái niệm chiếm đoạt nhƣng đã đồng nhất dấu hiệu chiếm đoạt với hành vi chiếm đoạt. Có quan điểm khác lại cho rằng, chiếm đoạt là việc cố ý chuyển dịch trái pháp luật tài sản đang đƣợc sự quản lí của chủ sở hữu thành tài sản của mình. Chúng đƣợc biểu hiện dƣới dạng hành vi hoặc mục đích phạm tội. Xung quanh khái niệm các tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt và hành vi chiếm đoạt còn rất nhiều tranh cãi. Nhƣng cho đến nay, chƣa có một học giả nào đƣa ra khái niệm về các tội xâm phạm sở hữu không có tính chiếm đoạt. Song căn cứ vào khái niệm các tội xâm phạm sở hữu cũng
  • 19. 12 nhƣ khái niệm các tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt nêu trên, tác giả xin đƣa ra khái niệm về các tội xâm phạm sở hữu không có tính chiếm đoạt nhƣ sau: Các tội xâm phạm sở hữu không có tính chiếm đoạt là hành vi nguy hiểm cho xã hội đƣợc quy định trong bộ luật hình sự, do ngƣời có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự thực hiện một cách có lỗi cố ý hoặc vô ý, xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản nhƣng không nhằm chiếm đoạt tài sản mà chỉ gây thiệt hại về tài sản bằng hành vi hủy hoại, làm hƣ hỏng, sử dụng, chiếm giữ trái phép hoặc thiếu trách nhiệm gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản. Căn cứ vào tính chất của hành vi khách quan xâm phạm quyền sở hữu tài sản nên có sự phân chia các tội xâm phạm sở hữu thành hai nhóm là các tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt và các tội xâm phạm sở hữu không có tính chiếm đoạt nhƣng dù thuộc nhóm tội nào thì hành vi phạm tội đối với các tội này đều có chung bản chất đó là xâm phạm sở hữu nên đều đƣợc quy định trong chƣơng “Các tội xâm phạm sở hữu”. Do đó, các tội xâm phạm sở hữu không có tính chiếm đoạt cũng có các đặc điểm chung của các tội xâm phạm sở hữu và có đặc điểm đặc trƣng riêng của nhóm tội này. Cụ thể nhƣ sau: Một là , khách thể của các tội xâm phạm sở hữu không có tính chiếm đoạt là quan hệ sở hữu tài sản (chỉ xâm phạm quan hệ sở hữu tài sản mà không xâm phạm đến quan hệ nhân thân nhƣ một số tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt là tội cƣớp tài sản, cƣớp giật tài sản hay bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản…). Theo quy định của Bộ Luật dân sự năm 2005 thì quyền sở hữu tài sản đƣợc hợp thành bởi quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản. Trong khi các tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt có hành vi xâm phạm cả ba quyền năng đối với tài sản của chủ sở hữu tài sản gồm quyền sử dụng, quyền
  • 20. 13 chiếm hữu và quyền định đoạt tài sản nhƣ tội cƣớp tài sản, tôi trộm cắp tài sản … thì đối với các tội xâm phạm sở hữu không có tính chiếm đoạt, có ba tội là tội hủy hoại hoặc cố ý làm hƣ hỏng tài sản, tội thiếu trách nhiệm gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản của Nhà nƣớc và tội vô ý gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản là hành vi phạm tội xâm phạm cả ba quyền năng của chủ sở hữu, còn lại hai tội là tội chiếm giữ trái phép tài sản và tội sử dụng trái phép tài sản, hanh vi phạm tội chỉ xâm phạm quyền chiếm hữu hay quyền sử dụng là một trong ba quyền năng đối với tài sản của chủ sở hữu. Hai là, đối tƣợng tác động của các tội phạm xâm phạm sở hữu nói chung và các tội xâm phạm sở hữu không có tính chiếm đoạt nói riêng là tài sản. Tài sản, theo Điều 163 Bộ luật dân sự năm 2005, bao gồm: Vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản. Nhƣng trong các điều luật của Bộ luật hình sự năm 1999 về các tội xâm phạm sở hữu và thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm cho thấy, đối tƣợng tác động chủ yếu của loại tội phạm này là các loại tài sản hữu hình nhƣ vật, tiền, các giấy tờ có giá, còn tài sản thuộc loại vô hình (quyền tài sản) thì ít là đối tƣợng tác động của hành vi phạm tội này. Ba là , về hành vi khách quan, các tội xâm phạm sở hữu không có tính chiếm đoạt đƣợc thực hiện thông qua các hành vi chiếm giữ, sử dụng, hủy hoại hoặc làm hƣ hỏng, gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản nhƣng những hành vi này không có dấu hiệu chiếm đoạt và cũng không nhằm mục đích chiếm đoạt tài sản. Bốn là , hậu quả của các tội xâm phạm sở hữu không có tính chiếm đoạt phần lớn gây ra là thiệt hại về tài sản. Đối với các tội này, thì thiệt hại về tài sản là thƣớc đo đánh giá tích chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội và giá trị tài sản bị thiệt hại còn là căn cứ để phân biệt tội phạm với hành vi vi phạm khác, bởi vì thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra chƣa đến mức quy định của Bộ luật hình sự thì chƣa bị coi là tội phạm. Ví dụ nhƣ
  • 21. 14 chiếm giữ tài sản dƣới 5.000.000 đồng nhƣng không phải là cổ vật hoặc vật có giá trị lịch sử, văn hóa thì chƣa bị coi là tội phạm. Bên cạnh thiệt hại về tài sản, thì tội sử dụng trái phép tài sản hay tội thiếu trách nhiệm gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản của Nhà nƣớc, tội hủy hoại hoặc cố ý làm hƣ hỏng tài sản… còn xâm phạm đến trật tự an toàn xã hội; xâm phạm đến hoạt động bình thƣờng của các cơ quan, tổ chức... Năm là, chủ thể của các tội xâm phạm sở hữu không có tính chiếm đoạt là chủ thể thƣờng và chủ thể đặc biệt. Tuy nhiên phần lớn thì chủ thể của các tội này là chủ thể thƣờng, chỉ có một tội phạm có chủ thể đặc biệt (tội thiếu trách nhiệm gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản của Nhà nƣớc - Điều 144). Sáu là, cấu thành tội phạm của các tội này là cấu thành vật chất nên ngoài dấu hiệu hành vi thì dấu hiệu hậu quả cũng nhƣ mối quan hệ nhân quả là những dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành tội phạm của các tội này. Bởi lẽ, nếu ngƣời thực hiện hành vi gây ra thiệt hại chƣa đến mức Bộ luật hình sự quy định đối với tội phạm cụ thể thì hành vi đó chƣa bị coi là tội phạm. Mặt khác, ngƣời có hành vi xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về những thiệt hại về tài sản do chính hành vi của mình gây ra. Nếu ngƣời có hành vi không gây thiệt hại về tài sản, nghĩa là giữa hành vi và hậu quả không có mối quan hệ nhân quả thì ngƣời thực hiện hành vi không phải chịu trách nhiệm hình sự về thiệt hại đó. Vì vậy việc xác định quan hệ nhân quả là rất cần thiết, là cơ sở để quy trách nhiệm hình sự đối với ngƣời phạm tội. 1.1.2. Ý nghĩa của việc quy định các tội phạm xâm phạm sở hữu không có tính chiếm đoạt Cũng nhƣ các chế định tội phạm khác, việc quy định các tội xâm phạm sở hữu không có tính chiếm đoạt trong Bộ luật hình sự Việt Nam là cần thiết và có ý nghĩa quan trọng, nhất là trong giai đoạn xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền hiện nay. Ý nghĩa của nó đƣợc thể hiện dƣới các khía cạnh sau:
  • 22. 15 Thứ nhất, quyền sở hữu tài sản đƣợc ghi nhận trong Hiến pháp, thể hiện rõ đƣờng lối quan điểm của Đảng và Nhà nƣớc ta luôn tôn trọng và bảo vệ cũng nhƣ không phân biệt các hình thức sở hữu. Việc quy định các tội phạm xâm phạm sở hữu không có tính chiếm đoạt trong bộ luật hình sự là sự cụ thể hóa quy định của Hiến pháp trong pháp luật hình sự, là cơ sở pháp lý quan trọng để bảo vệ quyền sở hữu về tài sản của Nhà nƣớc, của cơ quan, của tổ chức và công dân khỏi sự xâm hại của tội phạm. Do đó, tất cả các hành vi xâm phạm một trong ba quyền năng hoặc xâm phạm đồng thời ba quyền năng hợp thành quyền sở hữu tài sản gồm quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt tài sản của chủ sở hữu hoặc ngƣời không phải là chủ sở hữu tài sản nhƣng đƣợc chủ sở hữu tài sản giao quyền theo quy định của pháp luật gây thiệt hại về tài sản mà thỏa mãn các dấu hiệu trong cấu thành tội phạm cụ thể đƣợc quy định trong Bộ luật hình sự đều bị coi là tội phạm và bị xử lý bằng chế tài hình sự nhằm đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và công dân. Thứ hai, xuất phát từ việc đánh giá tính nguy hiểm cho xã hội cũng nhƣ hậu quả do tội phạm gây ra nghiêm trọng hơn so với bất kỳ hành vi vi phạm pháp luật nào khác nên ngƣời phạm tội bị đe dọa xử lý bằng biện pháp cƣỡng chế nghiêm khắc nhất trong hệ thống các biện pháp cƣỡng chế của Nhà nƣớc là hình phạt. Do đó việc quy định các tội này trong Bộ luật hình sự là căn cứ để phân biệt tội phạm xâm phạm sở hữu không có tính chiếm đoạt với hành vi vi phạm pháp luật liên quan đến quyền tài sản, từ đó áp dụng quy phạm pháp luật nội dung phù hợp để điều chỉnh quan hệ nêu trên nhƣ luật dân sự, luật hình sƣ, luật kinh tế… Thứ ba, việc quy định các tội này trong Bộ luật hình sự là một trong căn cứ quan trọng để cá thể hóa trách nhiệm hình sự và hình phạt đối với ngƣời thực hiện tội phạm trong từng trƣờng hợp cụ thể.
  • 23. 16 Thứ tư, mỗi một chế độ xã hội, khi ban hành luật hình sự không chỉ nhằm mục đích trừng trị ngƣời phạm tội mà Nhà nƣớc muốn sử dụng luật hình sự nhƣ một công cụ để phòng ngừa tội phạm hiệu quả, đảm bảo an ninh trật tự và an toàn xã hội. Vì vậy việc quy định về các tội xâm phạm sở hữu không có tính chiếm đoạt góp phần tăng cƣờng hiệu quả của công cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm trong lĩnh vực này, từng bƣớc hạn chế, đẩy lùi và tiến tới loại bỏ tội phạm này ra khỏi đời sống xã hội. Thứ năm, bên cạnh những ý nghĩa nêu trên, việc quy định các tội phạm này còn có ý nghĩa trong việc giáo dụng ý thức tôn trọng và tuân thủ pháp luật về quyền sở hữu tài sản nhằm nâng cao ý thức pháp luật và ý thức chống và phòng ngừa tội phạm nói trên. Để làm đƣợc điều này, cần phải tăng cƣờng phổ biến, giao dục pháp luật một cách sâu rộng về loại tội phạm này để ngƣời dân hiểu, tự giác tuân thủ pháp luật và có ý thức trong việc đấu tranh chống tội phạm. 1.2. KHÁI QUÁT LỊCH SỬ PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ NĂM 1945 ĐẾN TRƢỚC KHI BAN HÀNH BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 1999 QUY ĐỊNH VỀ CÁC TỘI XÂM PHẠM SỞ HỮU KHÔNG CÓ TÍNH CHIẾM ĐOẠT 1.2.1. Giai đoạn từ sau Cách mạng tháng Tám 1945 đến trước khi ban hành Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1985 Trƣớc Cách mạng tháng Tám năm 1945, nƣớc ta là một nƣớc thuộc địa nửa phong kiến với ách đô hộ của thực dân Pháp và triều đình Nhà Nguyễn theo chính thể quân chủ chuyên chế - bộ máy tay sai của thực dân Pháp. Bởi vậy, nƣớc ta là một thuộc địa không có hiến pháp. Sau khi đất nƣớc đƣợc thành lập, trong phiên họp Chính phủ ngày 3/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Trước ta đã bị chế độ quân chủ chuyên chế cai trị, rồi đến chế độ thực dân không kém phần chuyên chế, nên
  • 24. 17 nước ta không có Hiến pháp, nhân dân ta không được hưởng quyền tự do dân chủ. Chúng ta phải có một Hiến pháp dân chủ”. Tuy nhiên, trong tình thế nhà nƣớc cộng hoà vừa mới đƣợc thành lập lại phải đối mặt với thù trong giặc ngoài, nền kinh tế kiệt quệ, trong khi đó kinh nghiệm lập pháp còn non kém, các chuyên gia pháp luật hầu nhƣ không có, việc duy trì áp dụng pháp luật của chế độ cũ là giải pháp hợp lý và tối ƣu nhất, đảm bảo cho mọi hoạt động của chính quyền và ngƣời dân trong khuôn khổ của pháp luật, không phải áp dụng những biện pháp ngoài luật. Có thể nói, Luật hình sự ở thời kỳ đầu của giai đoạn này chủ yếu là các văn bản pháp luật đƣợc ban hành dƣới dạng sắc lệnh, trên cơ sở kế thừa những quy định về hình sự của chế độ cũ nhằm bảo vệ thành quả cách mạng, bảo vệ đất nƣớc nhƣ Sắc lệnh số 47- SL ngày 10-10-1946 quy định về việc tạm thời giữ lại các luật lệ cũ, trong đó có Bộ “Luật hình an nam”, Bộ “Hoàng Việt hình luật” và Bộ “Luật hình An Nam” cho đến khi ban hành các văn bản pháp luật thống nhất trong cả nƣớc. Điều 1 của Sắc lệnh số 47/SL ngày 10/10/1945 quy định: “Cho đến khi ban hành những bộ pháp luật duy nhất cho toàn cõi nước Việt Nam, các luật lệ hiện hành ở Bắc, Trung và Nam bộ vẫn tạm thời giữ nguyên như cũ, nếu những luật lệ ấy không trái với những điều thay đổi ấn định trong sắc lệnh này” [12, tr.1]. Những quy định này còn đƣợc thể hiện trong Điều 42 Sắc lệnh số 51/SL ngày 17/4/1946: “Những luật lệ hiện hành vẫn giữ nguyên như cũ, trừ những điều khoản trái với sắc lệnh này cùng trái với chủ quyền và chính thể dân chủ cộng hoà của nước Việt Nam” [13, tr.8]. Việc ban hành sắc lệnh số 47 đã kịp thời giải quyết các vụ án hình sự, hạn chế tới mức thấp nhất sự xáo trộn trong đời sống, sinh hoạt của nhân dân, góp phần ổn định trật tự xã hội.
  • 25. 18 Cùng với việc duy trì pháp luật của chế độ cũ nhƣ một giải pháp tình thế, chính quyền cách mạng cũng từng bƣớc xây dựng pháp luật của chế độ mới nhằm đáp ứng kịp thời các yêu cầu, đòi hỏi của cuộc kháng chiến cứu nƣớc nhƣ ban hành các Sắc lệnh trên các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội. Đây là nguồn luật hình sự chủ yếu của thời kỳ này. Đến ngày 9-11-1946, Quốc hội đã thông qua bản Hiến pháp đầu tiên của nƣớc Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Tại Điều 12 - Hiến pháp năm 1946 đã ghi nhận: “Quyền tƣ hữu tài sản của công dân Việt Nam đƣợc bảo đảm”. Việc qui định nhƣ vậy, đã tạo nên cơ sở pháp lý để bảo vệ quyền sở hữu tài sản của công dân, là điều kiện ổn định sinh hoạt vật chất của mỗi con ngƣời. Năm 1955, Thủ tƣớng chính phủ ban hành Thông tƣ 442/TTg ngày 19/01/1955 hƣớng dẫn các Tòa án trừng trị một số tội xâm phạm sở hữu nhƣ trộm cắp, cƣớp của, lừa đảo, bội tín... Tuy nhiên, ở đó, các tội phạm xâm phạm xâm phạm sở hữu không có tính chiếm đoạt (tội hủy hoại tài sản, tội chiếm giữ trái phép tài sản, tội sử dụng trái phép tài sản …) chƣa đƣợc quy định thành từng điều luật cụ thể. Cũng trong giai đoạn này, Nhà nƣớc cũng còn ban hành Sắc lệnh số 267/SL ngày 15-6-1958 trừng trị những âm mƣu và hành động phá hoại tài sản của Nhà nƣớc, của hợp tác xã và của nhân dân, làm cản trở việc thực hiện chính sách kế hoạch của Nhà nƣớc về xây dựng kinh tế và văn hoá. Điều 2 Sắc lệnh 267 quy định: “Người phạm các tội trộm cắp, lãng phí, làm hỏng, huỷ hoại, cướp bóc tài sản của Nhà nước, của hợp tác xã, của nhân dân với mục đích phá hoại sẽ bị xử phạt từ 5 năm đến 20 năm tù” [14, Điều 2]. Bên cạnh đó, Điều 10 Sắc lệnh 267 cũng quy định: Kẻ nào vì thiếu tinh thần trách nhiệm mà trong công tác mình phụ trách đã để lãng phí, để hƣ hỏng máy móc, dụng cụ, nguyên vật liệu, để lộ bí mật nhà nƣớc, để xảy ra tai nạn, v. v...
  • 26. 19 làm thiệt hại một cách nghiêm trọng đến tài sản của nhà nƣớc, của hợp tác xã, của nhân dân, làm cản trở việc thực hiện chính sách, kế hoạch của nhà nƣớc, sẽ bị phạt từ 3 tháng đến 2 năm tù. Nếu bị can là ngƣời phụ trách thì có thể bị phạt tới 5 năm tù. Nếu gây ra thiệt hại đặc biệt nghiêm trọng, bị can có thể bị phạt tới 20 năm tù hoặc chung thân, và phải bồi thƣờng thiệt hại” [14, Điều 10]. Sắc lệnh này đã bƣớc đầu quy định về các tội xâm phạm sở hữu không có tính chiếm đoạt với tội cố ý hủy hoại hoặc làm hƣ hỏng tài sản, tội thiếu trách nhiệm gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản của Nhà nƣớc và tội vô ý gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản. Các quy định này thể hiện quan điểm của Nhà nƣớc trong việc nghiêm trị những ngƣời phạm tội vì mục đích phá hoại tài sản của Nhà nƣớc, của hợp tác xã, của nhân dân, cản trở đến việc thực hiện kế hoạch chính sách của Nhà nƣớc về kinh tế, văn hóa trong thời kỳ đó. Cũng trong giai đoạn này còn có sự xuất hiện và phát triển của hệ thống án lệ mới. Tại Thông tƣ 442/TTg ngày 19/01/1955 của Thủ tƣớng Chính phủ đã khẳng định, sau khi Chính quyền cách mạng đƣợc thành lập, Toà án cách mạng Việt Nam đã xét xử dựa trên các văn bản pháp luật do Chính phủ ban hành, đồng thời vận dụng sáng tạo các quy định pháp luật của chế độ cũ để đúc kết kinh nghiệm xét xử và kinh nhiệm xét xử đó đã trở thành án lệ. Song Thủ tƣớng Chính phủ cũng nhận định, các án lệ này mặc dù đã góp phần đảm bảo an ninh trật tự nhƣng về đƣờng lối áp dụng có sự khác biệt, không thống nhất, rõ ràng, thậm chí chƣa đúng giữa các địa phƣơng. Điều này chứng tỏ án lệ đƣợc áp dụng một cách phổ biến ở nhiều địa phƣơng trong giai đoạn này. Tuy nhiên do đất nƣớc ta trải qua nhiều cuộc chiến tranh nên hiện không còn lƣu giữ đƣợc những bản án của Tòa án mang tích án lệ nhƣng tồn tại của các án lệ mới là một thực tế không thể phủ nhận. Đến năm 1959, nhiệm vụ cách mạng đƣợc đặt ra trong giai đoạn này là xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh thống nhất nƣớc nhà.
  • 27. 20 Trƣớc tình hình và nhiệm vụ mới, Hiến pháp năm 1946 đã bộc lộ những hạn chế nhất định cần đƣợc bổ sung và thay đổi. Ngày 31-12-1959, Quốc hội đã nhất trí thông qua Hiến pháp sửa đổi và ngày 1-1-1960, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh công bố Hiến pháp. Hiếp pháp năm 1959 ra đời có ý nghĩa vô cùng to lớn và là nguồn của Luật hình sự Việt Nam. Bởi lẽ Hiến pháp năm 1959 đã củng cố một bƣớc hệ thống các cơ quan nhà nƣớc trong đó có hệ thống cơ quan tƣ pháp; tăng cƣờng vai trò lập pháp và tách tƣ pháp ra khỏi hành chính; thành lập Toà án nhân dân tối cao. Đó là cơ sở quan trọng, là tiền đề cho việc phát triển nguồn luật hình sự. Bên cạnh đó, Hiếp pháp năm 1959 còn quy định về quyền lợi và nghĩa vụ của công dân, đặt nền tảng cho các quan hệ xã hội đƣợc bảo vệ bằng pháp luật trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, từ đó định hƣớng cho việc thiết lập các quy phạm pháp luật hình sự để bảo hộ các quan hệ xã hội. Tại Điều 40 - Hiến pháp 1959: “Tài sản công cộng của nƣớc Việt Nam dân chủ cộng hòa là thiêng liêng không thể xâm phạm. Công dân có nghĩa vụ tôn trọng và bảo vệ tài sản công cộng”. Ngoài ra, Nhà nƣớc còn ban hành hai bản Pháp lệnh năm 1970 đó là Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa và Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản riêng của công dân đƣợc Uỷ ban Thƣờng vụ Quốc hội thông qua ngày 21-10-1970. Pháp lệnh quy định: Tài sản xã hội chủ nghĩa bao gồm tài sản thuộc quyền sở hữu của Nhà nƣớc (tức là sở hữu của toàn dân) và tài sản thuộc quyền sở hữu của hợp tác xã và các tổ chức hợp pháp khác của nhân dân (tức là sở hữu của tập thể) [53, tr.2]; Còn Tài sản riêng của công dân đƣợc Nhà nƣớc bảo hộ gồm có của cải do sức lao động của công dân làm ra, của cải thu nhập một cách hợp pháp hoặc để dành đƣợc, nhƣ tiền bạc, lƣơng thực, quần áo, nhà ở, gia súc, xe cộ, tƣ trang, văn hóa phẩm và đồ dùng riêng khác [54, tr.2].
  • 28. 21 Các tội xâm phạm sở hữu không có tính chiếm đoạt đƣợc quy định trong các Pháp lệnh này bao gồm: Tội cố ý hủy hoại hoặc làm hư hỏng tài sản xã hội chủ nghĩa (Điều 6); Tội thiếu tinh thần trách nhiệm, gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản xã hội chủ nghĩa (Điều 14); Tội sử dụng trái phép tài sản xã hội chủ nghĩa (Điều 15); Tội chiếm giữ trái phép tài sản xã hội chủ nghĩa (Điều 16) – Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa và các tội: Tội cố ý hủy hoại hoặc làm hư hỏng tài sản riêng của công dân (Điều 5), tội chiếm giữ trái phép tài sản riêng của công dân (Điều 12), tội vô ý gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản riêng của công dân (Điều 15) - Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản riêng của công dân. Nội dung của hai pháp lệnh đã thể hiện đầy đủ và toàn diện chính sách hình sự của Đảng và Nhà nƣớc ta đối với các tội phạm về sở hữu nói chung và các tội xâm phạm sở hữu không có tính chiếm đoạt nói riêng. Đó là Nhà nƣớc kiên quyết bảo vệ tài sản xã hội chủ nghĩa, coi tài sản xã hội chủ nghĩa là thiêng liêng, bất khả xâm phạm, Nhà nƣớc cũng bảo hộ tài sản riêng của công dân, nghiêm trị mọi hành động xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa và tài sản của công dân. Đồng thời Pháp lệnh cũng thể hiện đƣờng lối xử lý ngƣời phạm tội của Đảng và Nhà nƣớc là nghiêm trị những hành vi phạm tội có tích chất chuyên nghiệm, phạm tội có tổ chức, lợi dụng chức vụ quyền hạn để phạm tội, phạm tội gây thiệt hại lớn… Đối với ngƣời phạm tội tự thú, ngƣời phạm tội có hành động ngăn chặn làm giảm bới hậu quả của tội phạm, khắc phục hậu quả, gây thiệt hại không đáng kể… thì đƣợc hƣởng sự khoan hồng, đƣợc “xử nhẹ hoặc miễn hình phạt”. Có thể nói, mặc dù các quy định còn chung chung, chƣa đầy đủ, nhƣng đây là lần đầu tiên trong lịch sử lập pháp, các tội xâm phạm sở hữu không có tính chiếm đoạt đƣợc quy định chính thức bằng các điều luật cụ thể, có cấu thành tội phạm tƣơng đối đầy đủ, đã quy định về các khung hình phạt với
  • 29. 22 khung cơ bản và khung tăng nặng tƣơng xứng với tính chất hành vi phạm tội trong một số điều luật của Pháp lệnh nhƣng có sự phân biệt giữa tài sản xã hội chủ nghĩa và tài sản của công dân. Ví dụ tội chiếm giữ trái phép tài sản xã hội chủ nghĩa - Điều 16 Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa quy định: 1. Kẻ nào cố tình chiếm giữ tài sản xã hội chủ nghĩa bị giao lầm hoặc cố tình chiếm giữ tài sản do mình tìm đƣợc, bắt đƣợc, đào đƣợc mà biết đó là tài sản xã hội chủ nghĩa, nhƣng không giao nộp cho cơ quan có trách nhiệm thì bị phạt tù từ 3 tháng đến 3 năm. 2. Kẻ nào cố tình chiếm giữ trái phép tài sản xã hội chủ nghĩa có giá trị đặc biệt thì bị phạt tù từ 2 năm đến 7 năm. 3. Kẻ nào cố tình chiếm giữ trái phép tài sản xã hội chủ nghĩa có giá trị đặc biệt mà đem cho hoặc trao đổi, buôn bán thì bị phạt tù từ 5 năm đến 10 năm [53, tr.8]; và tội chiếm giữ trái phép tài sản riêng của công dân - Điều 12 Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài riêng của công dân quy định: Kẻ nào cố tình chiếm giữ tài sản riêng của công dân bị giao lầm hoặc do mình tìm đƣợc, bắt đƣợc, đào đƣợc mà không nộp cho cơ quan có trách nhiệm hoặc không trả lại cho ngƣời có của thì bị phạt tù từ ba tháng đến hai năm [54, tr.6]. Tiếp đó là Sắc Luật số 03/SL ngày 15/03/1976 do Hội đồng Chính phủ lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam ban hành ngay sau khi Miền Nam hoàn toàn giải phóng qui định các tội phạm và hình phạt làm cơ sở pháp lý để xử lý các hành vi xâm phạm chế độ chính trị, kinh tế, xã hội, thân thể, tài sản và quyền lợi khác của công dân. Nhƣ vậy, sau khi Chính quyền cách mạng non trẻ đƣợc thành lập (gia đoạn 1945 – 1959), văn bản pháp luật hình sự Việt Nam chủ yếu là Sắc lệnh,
  • 30. 23 nhƣng đến giai đoạn tiếp theo (giai đoạn 1959 – 1985) thì Pháp lệnh và Sắc luật giữ vai trò quan trọng hơn trong việc điều chỉnh quan hệ pháp luật hình sự. Bên cạnh, các vụ án hình sự còn đƣợc xét xử theo án lệ thông qua công tác tổng kết và hƣớng dẫn của Tòa án nhân dân tối cao. Cũng nằm trong tiến trình phát triển đó, các tội xâm phạm nói chung và các tội xâm phạm sở hữu nói riêng mới chỉ đƣợc quy định bởi các văn bản dƣới luật nhƣ Sắc Lệnh, sau đó là Pháp Lệnh và Sắc Luật. Vì vậy, giá trị pháp lý của các văn bản này chƣa cao, quy định chƣa cụ thể, chƣa rõ ràng, không có tính hệ thống nên việc áp dụng pháp luật không thống nhất, có nhiều vƣớng mắc, gây khó khăn trong công cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm. Với những đặc điểm nhƣ nêu trên thì yêu cầu cấp bách đƣợc đặt ra là cần có một văn bản pháp luật có tính hệ thống, toàn diện và chính xác các các văn bản pháp luật hình sự nói chung và các quy định về các tội xâm phạm sở hữu nói riêng là cơ sở để bảo vệ các quan hệ xã hội, đảm bảo an ninh chính trị, an toàn xã hội và xây dựng đất nƣớc phù hợp với tiến trình phát triển của thế giới. Văn bản pháp luật đó chính là Bộ luật hình sự năm 1985. 1.2.2. Giai đoạn từ sau khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985 đến trước khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1999 Trong giai đoạn này, đất nƣớc có những chuyển biến đáng kể về các mặt chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội nhƣ về chính trị: công cuộc cải cách bộ máy nhà nƣớc, đặc biệt là cải cách tƣ pháp đƣợc thúc đẩy mạnh mẽ, bƣớc đầu đã đạt đƣợc một số thành quả nhất định; về kinh tế: có sự chuyển hƣớng của phƣơng thức quản lý nền kinh tế từ kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang kinh tế thị trƣờng, định hƣớng xã hội chủ nghĩa; về xã hội: Vấn đề dân chủ hoá, mở rộng dân chủ cũng nhƣ vấn đề nhân quyền ngày càng đƣợc quan tâm, trú trọng. Tất cả những thay đổi đó đã tác động mạnh mẽ và làm phát các quan hệ pháp luật mới, phức tạp cần đƣợc điều chỉnh bằng một văn bản pháp luật
  • 31. 24 thống nhất, có giá trị pháp lý cao để đảo bảo sự phát triển ổn định của đất nƣớc. Vì vậy, sự ra đời của Bộ luật hình sự năm 1985 (27/06/1985) là một tất yếu khách quan. Bộ luật hình sự năm 1985 đƣợc Quốc hội khoá VII thông qua ngày 27- 6-1985, thể hiện dƣới hình thức bộ luật - một hình thức lập pháp cao, đã trình bày có hệ thống, toàn diện phần chung cũng nhƣ phần các tội phạm, có tính bao quát về tất cả các hành vi nguy hiểm cho xã hội, là cơ sở để bảo vệ thành quả cách mạng, an ninh quốc gia, trật tự xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp khác của công dân. Bộ luật hình sự năm 1985 quy định tội phạm và hình phạt trên cơ sở nền kinh tế bao cấp và tình hình tội phạm của thời kì đó. Vì vậy, ngay khi đƣợc ban hành, Bộ luật hình sự năm 1985 đã bộc lộ những hạn chế, bất cập, không phù hợp với chủ trƣơng đổi mới của đất nƣớc và những đòi hỏi của thời kỳ mới. Tuy vậy với tƣ cách là Bộ luật hình sƣ Việt Nam đầu tiên, là nguồn duy nhất, là công cụ sắc bén của Nhà nƣớc chuyên chính vô sản, Bộ luật hình sự năm 1985 đã góp phần rất lớn trong việc bảo vệ thành quả cách mạng, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, đảm bảo an ninh trật tự và an toàn xã hội, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, đấu tranh phòng, chống tội phạm, góp phần tích cực loại bỏ những yếu tố gây cản trở cho tiến trình đổi mới và sự nghiệp phát triển của xã hội. Trong Bộ luật hình sự 1985, những quy định về các tội xâm phạm sở hữu chịu ảnh hƣởng sâu sắc, tiêu biểu cho thời kì quá độ xây dựng nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung với việc đề cao sở hữu Nhà nƣớc, sở hữu tập thể, hạn chế sở hữu cá nhân, theo đó có hai loại hành vi xâm phạm sở hữu là hành vi xâm phạm sở hữu xã hội chủ nghĩa và hành vi xâm phạm sở hữu của công dân. Hai loại hành vi này đƣợc quy định ở hai chƣơng là chƣơng IV “Các tội xâm phạm sở hữu xã hội chủ nghĩa với 14 Điều (từ Điều 129 đến Điều 142)
  • 32. 25 và chƣơng VI “Các tội xâm phạm sở hữu công dân” với 13 Điều (từ Điều 151 đến Điều 163). Cũng giống nhƣ các tội phạm xâm phạm sở hữu khác, thì các tội phạm xâm phạm sở hữu không có tính chiếm đoạt cũng đƣợc Bộ luật hình sự năm 1985 quy định trong hai chƣơng, chƣơng “Các tội xâm phạm sở hữu xã hội chủ nghĩa” với 5 Điều (từ Điều 136 đến Điều 140) và chƣơng “Các tội xâm phạm sở hữu của công dân” với 4 Điều (từ Điều 159 đến Điều 161) gồm các tội sau: Chƣơng IV: Các tội xâm phạm sở hữu xã hội chủ nghĩa: - Tội chiếm giữ trái phép tài sản xã hội chủ nghĩa (Điều 136). - Tội sử dụng trái phép tài sản xã hội chủ nghĩa (Điều 137). - Tội huỷ hoại hoặc cố ý làm hƣ hỏng tài sản xã hội chủ nghĩa (Điều 137). - Tội thiếu trách nhiệm gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản xã hội chủ nghĩa (Điều 139). - Tội vô ý gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản xã hội chủ nghĩa (Điều 140). Và chƣơng VI: Các tội xâm phạm sở hữu của công dân quy định các tội: - Tội chiếm giữ trái phép tài sản của công dân (Điều 159). - Tội huỷ hoại hoặc cố ý làm hƣ hỏng tài sản của công dân (Điều 160). - Tội vô ý gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản của công dân (Điều 161). Trong các tội nêu trên, có tội chiếm giữ trái phép tài sản và tội hủy hoại hoặc cố ý làm hƣ hỏng tài sản và tội vô ý gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản đƣợc quy định thành hai cặp tội tƣơng ứng ở hai chƣơng khác nhau. Còn tội sử dụng trái phép tài sản và tội thiếu trách nhiệm gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản của Nhà nƣớc chỉ đƣợc quy định tại chƣơng “Các tội xâm phạm sở hữu xã hội chủ nghĩa. Cụ thể nhƣ: Tội chiếm giữ trái phép tài sản đƣợc quy định thành hai tội là Tội chiếm giữ trái phép tài sản xã hội chủ nghĩa đƣợc qui định tại Điều 136 với
  • 33. 26 nội dung “Ngƣời nào không trả lại tài sản xã hội chủ nghĩa bị giao nhầm hoặc không giao nộp cho cơ quan có trách nhiệm tài sản do mình tìm đƣợc, bắt đƣợc mà biết là tài sản xã hội chủ nghĩa, thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến một năm hoặc bị phạt tù từ ba tháng đến hai năm” và Tội chiếm giữ trái phép tài sản của công dân đƣợc qui định tại Điều 159 với nội dung: “Ngƣời nào cố ý không trả lại tài sản cho ngƣời có tài sản hoặc không giao nộp cho cơ quan có trách nhiệm tài sản có giá trị lớn của ngƣời khác bị giao nhầm hoặc do mình tìm đƣợc, bắt đƣợc, thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến một năm hoặc bị phạt tù từ ba tháng đến hai năm”. Tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản cũng đƣợc quy định thành hai tội là tội hủy hoại hoặc cố ý làm hƣ hỏng tài sản xã hội chủ nghĩa (Điều 138) và tội hủy hoại hoặc cố ý làm hƣ hỏng tài sản của công dân (Điều 160) với nội dung “Ngƣời nào hủy hoại hoặc cố ý làm hƣ hỏng tài sản xã hội chủ nghĩa, nếu không thuộc trƣờng hợp quy định ở Điều 79 và Điều 94, thì bị phạt tù từ một năm đến bảy năm” – Điều 138 và “Ngƣời nào hủy hoại hoặc cố ý làm hƣ hỏng tài sản của ngƣời khác, thì bị phạt tù từ sáu tháng đến năm năm” – Điều 160. Tội vô ý gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản cũng đƣợc quy định thành hai tội là Tội vô ý gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản xã hội chủ nghĩa (Điều 140) và Tội vô ý gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản của công dân (Điều 161) với nội dung “Ngƣời nào vô ý gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản xã hội chủ nghĩa thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến một năm hoặc bị phạt tù từ ba tháng đến ba năm” – Điều 140 và “Ngƣời nào vô ý gây thiệt hại nghiêm trọng đế tài sản của ngƣời khác thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến một năm hoặc bị phạt tù từ ba tháng đến hai năm” – Điều 161. Tuy nhiên tội sử dụng trái phép tài sản chỉ đƣợc quy định tại Điều 137,
  • 34. 27 chƣơng IV với tên tội là Tội sử dụng trái phép tài sản xã hội chủ nghĩa: “Ngƣời nào vì vụ lợi mà sử dụng trái phép tài sản xã hội chủ nghĩa thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến một năm hoặc bị phạt tù từ ba tháng đến hai năm”. Hay Tội thiếu trách nhiệm gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản của Nhà nước cũng chỉ đƣợc quy định tại điều 140, chƣơng IV với tên gọi là Tội thiếu trách nhiệm gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản xã hội chủ nghĩa: “Ngƣời nào có nhiệm vụ trực tiếp trong công tác quản lý tài sản xã hội chủ nghĩa, vì thiếu trách nhiệm mà để mất mát, hƣ hỏng, lãng phí gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản xã hội chủ nghĩa thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến hai năm hoặc bị phạt tù từ sáu tháng đến năm năm”. Xét về nội dung, các cặp tội tƣơng ứng này có dấu hiệu pháp lí tƣơng tự nhau về mặt khách quan, mặt chủ quan và chủ thể của tội phạm và chỉ khác nhau về dấu hiệu khách thể của tội phạm là quan hệ sở hữu tài sản xã hội chủ nghĩa và quan hệ sở hữu tài sản của công dân. Việc Bộ luật hình sự năm 1985 qui định hai cặp tội tƣơng ứng này thành hai tội danh cụ thể tại hai chƣơng khác nhau xuất phát từ tính chất quan hệ sở hữu đƣợc luật hình sự bảo vệ khác nhau, do vị trí của hai loại quan hệ sở hữu có tầm quan trọng khác nhau đó là sở hữu Nhà nƣớc và sở hữu cá nhân, trong đó coi trọng sở hữu Nhà nƣớc hơn sở hữu cá nhân. Vì vậy, Bộ luật hình sự năm 1985 xác định hành vi phạm tội xâm phạm sở hữu xã hội chủ nghĩa có tính nguy hiểm hơn hơn so với hành vi phạm tội xâm phạm tài sản của công dân, theo đó, Bộ luật hình sự năm 1985 quy định khung hình phạt đối với các tội xâm phạm sở hữu xã hội chủ nghĩa nặng hơn mức hình phạt đối với các tội xâm phạm tài sản của công dân. Chính những quy định nhƣ vậy đã bộ lộ những bất cập trong thực tiễn xét xử của nhiều năm trƣớc, đó là trƣờng hợp hành vi xâm phạm tài sản của các đơn vị kinh tế thuộc sở hữu chung của nhiều thành phần kinh tế nhƣ công ty cổ phần, công ty có vốn liên doanh, liên kết... thì không thể xác định ngƣời
  • 35. 28 phạm tội xâm phạm tài sản thuộc hình thức sở hữu của thành phần kinh tế nào đã dẫn đến việc định tội và quyết định hình phạt không chính xác. Mặt khác, trong giai đoạn này, đất nƣớc đang tiến hành công cuộc cải cách, đặc biệt là sự chuyển hƣớng từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung bao cấp sang nền kinh tế thị trƣờng, định hƣớng xã hội chủ nghĩa với nhiều thành phần kinh tế, thể hiện rõ quan điểm của Đảng và Nhà nƣớc ta về mặt pháp lý là không có sự phân biệt đối với các thành phần kinh tế trong xã hội. Vì vậy những bất cập nêu trên đƣợc sửa đổi trong Bộ luật hình sự năn 1999 cho phù hợp với sự thay đổi của nền kinh tế và tình hình mới của đất nƣớc. Về hình phạt: Bộ luật hình sự năm 1985 quy định các tội xâm phạm sở hữu không có tính chiếm đoạt trong hai chƣơng “Các tội xâm phạm sở hữu xã hội chủ nghĩa” và “Các tội phạm xâm phạm sở hữu của công dân” thì đa số các tội phạm đều có nhiều khung hình phạt khác nhau, nhƣng vẫn còn một số tội phạm chỉ có một khung hình phạt duy nhất nhƣ Tội vô ý gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản xã hội chủ nghĩa – Điều 140, Tội chiếm giữ trái phép tài sản của công dân – Điều 159 hay Tội vô ý gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản của công dân – Điều 161. Điều này dẫn đến tình trạng quyết định hình phạt thiếu chính xác, vì trên thực tế tội phạm xảy ra với tích chất, mức độ nguy hiểm khác nhau, thiệt hại xảy ra khác nhau, nhân thân cũng nhƣ các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự khác nhau cần áp dụng khung hình phạt tƣơng ứng, phù hợp với từng trƣờng hợp phạm tội, đảm bảo sự công bằng, nghiêm minh của pháp luật. Bên cạnh đó, Bộ luật hình sự năm 1985 quy định nhiều loại hình phạt khác nhau đối với loại tội này theo thứ tự từ nhẹ đến nặng nhƣ cảnh cáo, cải tạo không giam giữ, tù có thời hạn, tù chung thân và tử hình. Hai loại hình phạt cao nhất là tù chung thân và tử hình duy nhất đƣợc quy định trong khung tăng nặng thứ 2 (khoản 3) của tội hủy hoại hoặc cố ý làm hƣ hỏng tài sản xã
  • 36. 29 hội chủ nghĩa. Mức hình phạt đối với các tội xâm phạm sở hữu không có tính chiếm đoạt quy định trong chƣơng “Các tội xâm phạm sở hữu xã hội chủ nghĩa” về cơ bản cao hơn so với mức hình phạt của các tội này đƣợc quy định trong chƣơng “Các tội xâm phạm sở hữu của công dân”. Về hình phạt bổ sung: Bộ luật hình sự năm 1985 quy định ở mỗi chƣơng IV và VI một hình phạt bổ sung chung đối với các tội này gồm: cấm đảm nhiệm chức vụ, phạt tiền (đến 1.000.000đ), tịch thu một phần hay toàn bộ tài sản, quản chế hoặc bị cấm cƣ trú từ một năm đến năm năm. Riêng hình phạt bổ sung là phạt tiền và tịch thu một phần hay toàn bộ tài sản có thể áp dụng đồng thời cả hai hình phạt bổ sung hoặc áp dụng một trong hai hình phạt bổ sung đó. Trong 14 năm thi hành, Bộ luật hình sự năm 1985 đã đƣợc sửa đổi, bổ sung 4 lần vào các năm 1989, 1991, 1992 và 1997 và có trên 100 lƣợt điều luật đƣợc sửa đổi hoặc bổ sung nhƣng vẫn bộc lộ một số bất cập trong nhiều quy định và đòi hỏi phải có sự sử đổi, bổ sung cho phù hợp với thời kỳ mới. Vì vậy Bộ luật hình sự năm 1999 ra đời đã cơ bản đáp ứng đƣợc yêu cầu cấp thiết của xã hội, phù hợp với sự phát triển của đất nƣớc trong thời kỳ mới, từng bƣớc đi vào cuộc sống và phát huy đƣợc vai trò to lớn trong cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm, góp phần giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội, đồng thời đánh dấu sự thay đổi tƣơng đối toàn diện của luật hình sự Việt Nam. Bộ luật hình sự năm 1999 đƣợc xây dựng trên cơ sở sửa đổi, bổ sung một cách toàn diện Bộ luật hình sự năm 1985 nhƣng có kế thừa những nội dung hợp lí, tích cực của Bộ luật hình sự năm 1985 qua bốn lần sửa đổi, bổ sung. Vì vậy Bộ luật hình sự năm 1999 có những thay đổi cơ bản mang tính tƣơng đối toàn diện thể hiện sự phát triển mới của Luật hình sự Việt Nam. Theo đó các tội phạm xâm phạm sở hữu nói chung và các tội phạm
  • 37. 30 xâm hạm sở hữu không có tính chiếm đoạt nói riêng cũng có những thay đổi đáng kể nhƣ: Về kết cấu chương: Bộ luật hình sự năm 1985 có hai chƣơng quy định hai nhóm tội phạm – nhóm tội xâm phạm sở hữu xã hội chủ nghĩa và nhóm tội xâm phạm sở hữu của công dân. Nhƣng xuất phát từ đƣờng lối chính sách của Đảng và Nhà nƣớc ta là xây dựng nền kinh tế thị trƣờng theo định hƣớng xã hội chủ nghĩa với nhiều thành phần kinh tế với nhiều hình thức sở hữu và các thành phần kinh tế đều là bộ phận hợp thành của nền kinh tế, hoạt động theo pháp luật, bình đẳng trƣớc pháp luật, đƣợc pháp luật bảo hộ nhƣ nhau nhằm đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời trách sự phức tạp trong áp dụng pháp luật do phải xác định tích chất của tài sản thuộc sở hữu nào. Vì vậy việc sáp nhập hai chƣơng này thành một chƣơng, theo đó từng cặp tội tƣơng ứng của hai chƣơng cũng đƣợc sáp nhập với nhau là một đòi hỏi khách quan. Do đó Bộ luật hình sự 1999 đã nhập 2 chƣơng “Các tội xâm phạm sở hữu xã hội chủ nghĩa” và “Các tội xâm phạm tài sản của công dân” vào thành một chƣơng “Các tội xâm phạm sở hữu" với 13 điều luật, phản ảnh đúng bản chất của tên chƣơng. Các điều luật đƣợc quy định trong chƣơng này hầu hết đƣợc xây dựng từ việc nhập từ hai hoặc ba điều luật trong Chƣơng IV và Chƣơng VI của Bộ luật hình sự năm 1985, trong đó có các tội phạm xâm phạm sở hữu không có tính chiếm đoạt nhƣ: Tội chiếm giữ trái phép tài sản, Tội hủy hoại hoặc cố ý làm hƣ hỏng tài sản và Tội vô ý gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản đƣợc nhập thành từ hai cặp tội tƣơng ứng ở hai chƣơng khác nhau là chƣơng Các tội xâm phạm sở hữu xã hội chủ nghĩa và các tội xâm phạm sở hữu riêng của công dân, việc sát nhập này có ý nghĩa vô cùng quan trọng: Trƣớc hết, nó thể hiện sự tôn trọng nguyên tắc bình đẳng trƣớc pháp luật của các thành phần kinh tế tƣơng ứng với đa dạng các hình thức sở hữu gồm 7 chế độ sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tƣ nhân. Do đó, ý nghĩa
  • 38. 31 của tài sản không phụ thuộc vào việc nó thuộc sở hữu nào mà ở giá trị và giá trị sử dụng của tài sản. Thứ hai, nó thể hiện trình độ, kỳ thuật lập pháp, Điều 136 với Điều 159 và Điều 138 với Điều 160 trong Bộ luật hình sự năm 1985 về cơ bản có dấu hiệu pháp lý (về mặt khách quan, về mặt chủ quan, về chủ thể) giống nhau nên việc quy định thành hai tội ở 2 chƣơng riêng biệt là không khoa học. Thứ ba, có nhiều trƣờng hợp ngƣời phạm tội khi thực hiện hành vi chiếm giữ trái phép tài sản hay hủy hoại hoặc cố ý làm hƣ hỏng tài sản họ không quan tâm hoặc không thể biết tài sản đó thuộc về quyền sở hữu nào (bị giao nhẩm, nhặt đƣợc). Hơn nữa có một số trƣờng hợp việc xác định đâu là tài sản xã hội chủ nghĩa và đâu là tài sản của công dân là rất khó, tâm chí không thể xác định do các hình thức sở hữu đan xen nhau (sở hữu hỗn hợp) thông qua việc liên doanh, liên kết, góp vốn cổ phần, do đó khó khăn trong việc áp dụng pháp luật. Riêng đối với hai tội: Tội sử dụng trái phép tài sản (Tội sử dụng trái phép tài sản xã hội chủ nghĩa quy định tại Điều 137, chƣơng IV, Bộ luật hình sự năm 1985) và Tội thiếu trách nhiệm gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản của Nhà nƣớc (Tội thiếu trách nhiệm gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản xã hội chủ nghĩa quy định tại Điều 139, chƣơng IV, Bộ luật hình sự năm 1985) đƣợc sửa đổi tên và nội điều luật và cũng đƣợc quy định vào chƣơng “Các tội phạm sở hữu” trong Bộ luật hình sự năm 1999. Dấu hiệu định lượng tài sản đƣợc quy định cụ thể trong các tội xâm phạm sở hữu không có tình chiếm đoạt cũng là một trong các thay đổi đáng kể khác của Bộ luật hình sự năm 1999 so với Bộ luật hình sự năm 1985. Nếu nhƣ Bộ luật hình sự năm 1985 không quy định về dấu hiệu định lƣợng tài sản, thì Bộ luật hình sự năm 1999 quy định rất rõ định lƣợng tài sản của các tội xâm phạm sở hữu không có tính chiếm đoạt nhƣ “…tài sản có giá trị từ 50
  • 39. 32 triệu đồng trở lên…” (Điều 142, Điều 144, Điều 145) hay “…tài sản có giá trị từ 5 triệu đồng trở lên…” (Điều 141) hoặc “…tài sản có giá trị từ 500.000 đồng trở lên…” (Điều 143). Đồng thời dấu hiệu định lƣợng tài sản còn đƣợc quy định trong một số định khung tăng nặng trong cùng một điều luật nhƣ “tài sản… có giá trị 200 triệu đồng trở lên” (Điều 141), “tài sản… có giá trị 50 triệu đồng đến dƣới 200 triệu đồng… ” (Điều 143), “tài sản… có giá trị từ 500 triệu đồng trở lên” v.v… Việc định lƣợng tài sản có ý nghĩa qua trọng nhằm phân biệt tội với hành vi hành chính, vi phạm kỷ luật và phân biệt khung hình phạt trong cùng một điều luật. Sự phân hóa trách nhiệm hình sự: Trên cơ sở kế thừa kết quả của Bộ luật năm 1985, Bộ luật hình sự năm 1999 có sự phân hóa trách nhiệm hình sự ở mức độ cao hơn. Biểu hiện của việc phân hoá trách nhiệm hình sự trong luật bao gồm: Thứ nhất: Khắc phục tình trạng điều luật chỉ có một khung hình phạt duy nhất. Trong Bộ luật hình sự năm 1985 quy định các tội phạm xâm phạm sở hữu xã hội chủ nghĩa và các tội phạm xâm phạm sở hữu công dân thì đa số các tội phạm đều có nhiều khung hình phạt khác nhau, nhƣng vẫn còn một số tội phạm chỉ có một khung hình phạt duy nhất nhƣ Tội vô ý gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản xã hội chủ nghĩa – Điều 140, Tội chiếm giữ trái phép tài sản của công dân – Điều 159 hay Tội vô ý gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản của công dân – Điều 161. Đây là một trong những hạn chế của Bộ luật hình sự năm 1985 đã đƣợc bộc lộ trong thực tiễn áp dụng. Khắc phục hạn chế đó, Bộ luật hình sự năm 1999 quy định các tội xâm phạm sở hữu không có tính chiếm đoạt đã đƣợc xây dựng từ hai đến bốn khung hình phạt khác nhau nhƣ Tội chiếm giữ trái phép tài sản (Điều 142) đƣợc xây dựng với ba khung hình phạt gồm khung cơ bản và hai khung tăng nặng. Trong khi đó Bộ luật hình sự năm 1985 quy định về các tội này từ một đến ba khung hình phạt.
  • 40. 33 Thứ hai: Cụ thể hoá ở mức tối đa các tình tiết định khung của từng tội phạm. Trong bộ luật hình sự năm 1999, các tình tiết định khung hình phạt đã đƣợc qui định cụ thể hơn, một số tình tiết định khung hình phạt mới nhƣ “giá trị tài sản”, “gây hậu quả nghiêm trọng, rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng” đã đƣợc quy định trong luật, đó là những tình tiết định khung tăng nặng hình phạt. Những tình tiết này có thể đƣợc quy định ở một tội danh hoặc ở nhiều tội danh khác nhau. Ví dụ: Tình tiết có tổ chức, dùng chất nổ, chất cháy hoặc thủ đoạn nguy hiểm khác, để che giấu tội phạm khác, gây hậu quả nghiêm trọng, tái phạm nguy hiểm (Tội hủy hoại hoặc cố ý làm hƣ hỏng tài sản – Điều 143) v.v… Thứ ba: Về hình phạt: So với Bộ luật hình sự năm 1985, Bộ luật hình sự năm 1999 quy định hình phạt của các tội xâm phạm sở hữu nhẹ hơn hình phạt của các tội xâm phạm sở hữu xã hội chủ nghĩa và nặng hơn hình phạt trong các tội xâm phạm tài sản của công dân. Hình phạt bổ sung đƣợc quy định thành một phần cụ thể ngay trong cùng một điều luật. Thứ tƣ: Bộ luật hình sự năm 1999 quy định khoảng cách giữa mức hình phạt tối đa và mức hình phạt tối thiểu trong một khung hình phạt của các tội xâm phạm sở hữu không có tính chiếm đoạt cũng ngắn hơn so với Bộ luật hình sự năm 1985 ví dụ nhƣ Tội huỷ hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản của công dân quy định Điều 160 Bộ luật hình sự năm 1985 khoảng cách giữa mức hình phạt tối đa và mức hình phạt tối thiểu trong khung tăng nặng thứ nhất là 9 năm (… “bị phạt tù từ ba năm đến mƣời hai năm…”); khung trăng nặng thứ hai là 10 năm (… “bị phạt tù từ mƣời năm đến hai mƣơi năm…”). Trong khi đó Điều 143 Bộ luật hình sự năm 1999 duy định về tội này thì khoảng cách giữa mức hình phạt tối đa và mức hình phạt tối thiểu trong khung tăng nặng thứ nhất là 5 năm (… “bị phạt tù từ hai năm đến bảy hai năm…”); khung trăng nặng thứ hai là 8 năm (… “bị phạt tù từ bảy năm đến mƣời năm năm…”).
  • 41. 34 Thứ năm: Nếu nhƣ Bộ luật hình sự năm 1985 quy định mức hình phạt cao nhất đối với các tội xâm phạm sở hữu không có tính chiếm đoạt là tử hình (Tội huỷ hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản xã hội chủ nghĩa - Điều 138) thì Bộ luật hình sự năm 1999 bỏ hình phạt tử hình đối với nhóm tội phạm này, thay vào đó quy định mức hình phạt cao nhất là chung thân (Tội huỷ hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản - Điều 143). Đồng thời So với bộ luật hình sự năm 1985, Bộ luật hình sự năm 1999 còn quy định giảm nhẹ hình phạt đối với tội ít nguy hiểm cho xã hội nhƣ Tội vô ý gây thiệt hại nghiệm trọng đến tài sản và Tội thiếu trách nhiệm gây thiệt hại nghiệm trọng đến tài sản Nhà nước. Điều này xuất phát từ sự thay đổi trong nhận thức về tội phạm của nhà làm luật theo hƣớng phi hình sự hóa tội phạm. Nhƣ vậy, Bộ luật hình sự năm 1999 ra đời đánh dấu sự thay đổi tƣơng đối toàn diện của luật hình sự Việt Nam với những thay đổi đáng kể đặc biệt là sự thay đổi của chƣơng các tội phạm xâm phạm sở hữu nói chung và các tội xâm phạm sở hữu không có tính chiếm đoạt nói riêng. Sự thay đổi này trƣớc hết thể hiện sự hoàn thiện pháp luật hiện hành theo các chuẩn mực của khoa học luật hình sự, đồng thời cũng thể hiện sự vận động phù hợp với tiến trình phát triển của xã hội cũng nhƣ diễn biến thực tế của tình hình tội phạm. Mặt khác cũng cho thấy sự phát triển, hoàn thiện trong kỹ thuật lập pháp của các nhà làm luật đã qui định cụ thể các trƣờng hợp phạm tội có sự phân hóa trách nhiệm hình sự và hình phạt. Từ đó, tạo điều kiện cho hoạt động áp dụng luật đƣợc dễ dàng, thuận tiện và chính xác hơn. 1.3. QUY ĐỊNH VỀ CÁC TỘI XÂM PHẠM SỞ HỮU KHÔNG CÓ TÍNH CHIẾM ĐOẠT TRONG LUẬT HÌNH SỰ MỘT SỐ NƢỚC 1.3.1. Bộ luật hình sự của Trung Quốc Bộ luật hình sự năm 1979 của nƣớc Công hòa nhân dân Trung Hoa đƣợc Quốc Hội Trung Quốc (Đại hội đại biểu nhân dân toàn quốc) khóa 5, kỳ họp thứ 2 thông qua ngày 01/7/1979 và có hiệu lực từ ngày 01/01/1980.
  • 42. 35 Bộ luật hình sự năm 1979 bao gồm hai phần: Phần chung và Phần các tội phạm với 12 chƣơng và 192 điều. Bộ luật hình sự năm 1979 đã thể hiện rõ nét chính sách hình sự trong giai đoạn này bao gồm: Trừng trị những ngƣời phạm tội phản cách mạng và tội hình sự để bảo vệ nền chuyên chính vô sản, bảo vệ chế độ sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể xã hôi chủ nghĩa, bảo vệ quyền sở hữu hợp pháp của công dân, bảo vệ các quyền cá nhân, quyền dân chủ và quyền lợi khác của công dân, bảo vệ trật tụ xã hội và cuối cùng là bảo đảm việc tiến hành thắng lợi sự nghiệp cách mạng và xây dựng xã hội chủ nghĩa. Bộ luật hình sự năm 1979 ra đời, sau 18 năm thi hành đến tháng 3/1997 tại kỳ họp thứ 5, Đại hội đại biểu nhân dân toàn quốc nƣớc Cộng hòa nhân dân Trung Hoa khóa 8 đã thảo luận để sử đổi Bộ luật hình sự năm 1979 và Bộ luật hình sự năm 1997 có hiệu lực từ ngày 01/10/1997. Tính đến nay, Bộ luật hình sự năm 1997 đã đƣợc sử đổi, bổ sung 5 lần qua các kỳ Đại hội. Đối với các tội xâm phạm sở hữu đƣợc quy định tại Chƣơng V “Tội xâm phạm tài sản” Bộ luật hình sự năm 1997 của nƣớc Công hòa nhân dân Trung Hoa với 14 điều luật, từ Điều 263 đến Điều 276 gồm: - Tội cƣớp (Điều 263 và Điều 267). - Tội trộm cắp tài sản (Điều 264). - Tội nối cắp đƣờng dây thông tin (Điều 265). - Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản (Điều 266 và Điều 274). - Tội cƣớp giật tài sản (Điều 268). - Tội chiếm giữ tài sản trái phép (Điều 270) - Tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản (Điều 271). - Tội cố ý hủy hoại tài sản (Điều 275 và Điều 276). - Tội chiếm dụng tiền hàng cứu trợ, trợ cấp xã hội (Điều 273). Đối với các tội xâm phạm sở hữu không có tính chiếm đoạt đƣợc quy định trong Bộ luật hình sự Trung Hoa gồm: - Tội chiếm giữ trái phép tài sản (Điều 270).
  • 43. 36 - Tội sử dụng trái phép tài sản (Điều 272). - Tội cố ý hủy hoại tài sản (Điều 275 và Điều 276). Nhìn chung, các tội xâm phạm sở hữu nói đƣợc quy định tại chƣơng V của Bộ luật hình sự của Trung Quốc có những điểm giống và khác nhau so với quy định về các tội này của Bộ luật hình sự Việt Nam nhƣ sau: Về mặt hình thức: Tƣơng tự nhƣ các quy định về các tội xâm phạm sở hữu của Bộ luật hình sự Việt Nam, Bộ luật hình sự Trung Hoa cũng quy định các tội này trong cũng một chƣơng (Chƣơng V “Tội xâm phạm tài sản”) và trong từng điều luật cụ thể. Cơ cấu của điều luật gồm phần quy định và chế tài. Đồng thời trong từng điều luật lại quy định các khung hình phạt tƣơng ứng với tích chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội. Về nội dung: Ở mỗi tội (điều luật), hành vi khách quan đƣợc mô tả cụ thể trong cấu thành tội phạm và quy định các tình tiết định khung tăng nặng tƣơng ứng với các khung hình phạt của tội đó. Bên cạnh những điểm giống trên thì, Bộ luật hình sự Trung Hoa quy định về các tội xâm phạm sở hữu có những khác biệt so với Bộ luật hình sự Việt Nam nhƣ số lƣợng tội danh ít, không quy định tên tội danh ở từng điều luật(Vd: Điều 143 Bộ luật hình sự Việt Nam: Tội hủy hoại hoặc cô ý làm hƣ hỏng tài sản) và cùng một hành vi phạm tội nhƣng đƣợc thực hiện bằng thủ đoạn, cách thức khác nhau thì đƣợc quy định riêng thành hai điều luật riêng biệt nhƣ tội cướp tài sản (Điều 263 và Điều 267), tội cố ý hủy hoại tài sản (Điều 275 và 276), cụ thê: Điều 275 Bộ luật hình sự Trung Hoa quy định: Ngƣời nào hủy hoại tài sản của công hoặc cá nhân với số lƣợng tƣơng đối lớn hoặc có những tình tiết nghiêm trọng khác, thì bị phạt tù từ 3 năm, cải tạo lao động hoặc bị phạt tiền; nếu với số lƣợng lớn hoặc có tình tiết nghiêm trọng khác, thì bị phạt tù từ 3 năm đến 7 năm [19, tr.174].
  • 44. 37 Điều 276 Bộ luật hình sự Trung Hoa quy định: Ngƣời nào vì mục đích báo thù hoặc mục đích cá nhân khác mà phá hủy thiết bị, máy móc, tàn sát gia súc hoặc có những hành vi khác phá hoại sản xuất, kinh doanh thì thì bị phạt tù đến 3 năm, cải tạo lao động hoặc quản chế; nếu có tình tiết nghiêm trọng khác, thì bị phạt tù từ 3 năm đến 7 năm [19, tr.175]. Về cơ bản hai điều luật trên có cấu thành pháp lý tƣơng tự nhau, có hành vi khách quan là hành vi hủy hoại và đối tƣợng tác động là tài sản của cá nhân, cơ quan, tổ chức; có cùng khách thể bị xâm hại là quan hệ sở hữu, đồng thời chủ thể và các dấu hiệu thuộc mặt khách quan của tội phạm là lỗi và động cơ, mục đích phạm tội. Tuy nhiên xuất phát từ sự phân biệt về đối tƣợng tác động, một bên đối tƣợng tác động là tài sản mang nghĩa chung chung, một bên đối tƣợng tác động là tài sản nhƣng cụ thể rõ ràng nhƣ thiết bị, máy móc, tàn sát gia súc hoặc có những hành vi khác phá hoại sản xuất, kinh doanh và mục đích phạm tội nên hành vi trên đƣợc quy định điều luật khác nhau. Đối với các tội phạm xâm phạm sở hữu không có tính chiếm đoạt, Bộ luật hình sự Trung Hoa quy định rải rác ở một số điều luật và chỉ quy định về một số tội nhƣ Tội chiếm giữ trái phép tài sản (Điều 270), Tội sử dụng tài sản trái phép (Điều 272), Tội cố ý hủy hoại tài sản (Điều 275, 276). Mặt khác trong các điều luật hầu nhƣ quy định rất ít các tình tiết định khung tăng nặng và dấu hiệu định lƣợng tài sản không đƣợc quy định là dấu hiệu định tội hoặc định khung tăng nặng. Về hình phạt đƣợc áp dụng đối với các tội thuộc nhóm tội này bao gồm phạt tiền, quản chế, cải tạo lao động, tù có thời hạn và mức hình phạt cao nhất đối với các tội này là 7 năm tù, trong đó hình phạt tiền là hình phạt bổ sung, nhƣng không đƣợc quy định thành điều khoản riêng trong từng điều luật nhƣ Bộ luật hình sự Việt Nam. Đồng thời Bộ luật hình sự Việt Nam quy định loại
  • 45. 38 hình phạt đƣợc áp dụng đối với loại tội này là cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ, tù có thời hạn, tù chung thân và mức hình phạt cáo nhất là tù chung thân(Khoản 4 Điều 143 Bộ luật hình sự Việt Nam) và trong mỗi điều luật (mỗi tội) lại quy định hình phạt bổ sung nhƣ cấm hành nghề, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm làm công việc nhất định hay phạt tiền thành một điều khoản riêng trong điều luật ví dụ khoản 4 Điều 142, khoản 5 Điều 143… Bộ luật hình sự Việt Nam. Nhƣ vậy, từ những phân tích nêu trên, có thấy quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam về các tội xâm phạm sở hữu nói chung và các tội xâm phạm sở hữu không có tính chiếm đoạt nói riêng phù hợp hơn Bộ luật hình sự Trung Hoa. Điều này thể hiện ở chỗ Bộ luật hình sự Trung Qua quy định rất ít tội danh chỉ có 9 tội danh, trong đó có 3 tội danh thuộc nhóm tội xâm phạm sở hữu không có tính chiếm đoạt, hầu hết các dấu hiệu cấu thành tội phạm đƣợc quy định trong các điều luật thiếu cụ thể, không mô tả đầy đủ hành vi khách quan, nhiều trƣờng hợp cùng một hành vi phạm tội nhƣng đƣợc quy định ở hai điều luật khác nhau, không phân biệt rõ hệ thống hình phạt chính và hình phạt bổ sung; loại hình phạt và khung hình phạt ít hơn Bộ luật hình sự Việt Nam. Việc quy định nhiều loại hình phạt của Bộ luật hình sự Việt Nam giúp cho Tòa án có thể lựa chọn hình phạt phù hợp với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội và nâng cao hiệu quả áp dụng hình phạt trong việc giáo dục riêng và phòng ngừa chung. Điều này thể hiện tính phân hoá trách nhiệm hình sự trong Bộ luật Hình sự Việt Nam cao hơn tính phân hoá trách nhiệm hình sự trong Bộ luật Hình sự Trung Hoa. Tuy nhiên điểm tiến bộ trong quy định về loại tội này của bộ luật hình sự Trung Hoa đó là hình phạt cải tạo lao động. Loại hình phạt này phù hợp hơn hình phạt cảnh cáo và cải tạo không giam giữ của Bộ luật Hình sự Việt Nam, cả về thời gian và giá trị cải tạo. Bởi vì hình phạt cải tạo lao động giúp