SlideShare a Scribd company logo
1 of 107
s
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN THỊ NGỌC TRINH
VĂN HÓA VẬT CHẤT CỦA NGƯỜI CƠ TU Ở XÃ HÒA BẮC,
HUYỆN HÒA VANG, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
LUẬN VĂN THẠC SĨ VIỆT NAM HỌC
Hà Nội - 2018
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN THỊ NGỌC TRINH
VĂN HÓA VẬT CHẤT CỦA NGƯỜI CƠ TU Ở XÃ HÒA BẮC,
HUYỆN HÒA VANG, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
Ngành: Việt Nam học
Mã số: 8.31.06.30
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. TRẦN THỊ MAI AN
Hà Nội - 2018
LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả
nêu trong luận văn này là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất cứ công
trình nào khác.
Tác giả
Nguyễn Thị Ngọc Trinh
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ............................................................................................................... 1
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ TỔNG QUAN VỀ CỘNG ĐỒNG NGƯỜI CƠ
TU Ở XÃ HÒA BẮC, HUYỆN HÒA VANG, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG........... 9
1.1. Cơ sở lý luận ................................................................................................... 9
1.1.1. Khái niệm trong nghiên cứu......................................................................... 9
1.1.2. Tiếp cận các lý thuyết về biến đổi văn hóa tộc người................................ 14
1.2. Tổng quan về cộng đồng người Cơ tu tại xã Hòa Bắc, huyện Hòa vang, thành
phố Đà Nẵng ........................................................................................................ 18
1.2.1. Vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên .................................................................. 19
1.2.2. Lịch sử hình thành tộc người ..................................................................... 21
1.2.3. Đời sống kinh tế - xã hội............................................................................ 23
Chương 2: VĂN HÓA VẬT CHẤT TRUYỀN THỐNG CỦA NGƯỜI CƠ TU
TẠI XÃ HÒA BẮC HUYỆN HÒA VANG, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG........ 27
2.1. Làng, nhà ở.................................................................................................... 27
2.2. Ẩm thực......................................................................................................... 31
2.3. Trang phục .................................................................................................... 39
2.4. Phương tiện đi lại .......................................................................................... 44
2.5. Công cụ lao động sản xuất ............................................................................ 45
Chương 3: THỰC TRẠNG BIẾN ĐỔI VÀ GIẢI PHÁP BẢO TỒN VĂN HÓA
VẬT CHẤT CỦA NGƯỜI CƠ TU TẠI XÃ HÒA BẮC, HUYỆN HÒA
VANG, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG.................................................................... 48
3.1. Thực trạng biến đổi văn hóa vật chất của người Cơ tu tại xã Hòa Bắc, huyện
Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng ............................................................................ 48
3.2. Nguyên nhân biến đổi văn hóa vật chất của người Cơ tu tại xã Hòa Bắc, huyện
Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng ............................................................................ 56
3.3. Thực trạng và giải pháp bảo tồn văn hóa vật chất của người Cơ tu tại xã Hòa
Bắc, huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng ......................................................... 60
3.3.1. Thực trạng bảo tồn ..................................................................................... 60
3.3.2. Một số giải pháp nhằm bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa vật chất của
người Cơ tu tại xã Hòa Bắc, huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng. .................. 63
KẾT LUẬN......................................................................................................... 73
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................. 75
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU VÀ CHỮ VIẾT TẮT
GĐ: Giám đốc
Nxb: Nhà xuất bản
TS: Tiến sĩ
UBND: Uỷ Ban Nhân Dân
VHTT: Văn hóa - Thể thao
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Bảng 1.1: Dân số trên toàn xã Hòa Bắc, huyện Hòa Vang, Đà Nẵng ............20
Bảng 2.1: Một số đặc sản của đồng bào Cơ tu................................................36
Bảng 2.2: Một số trang phục truyền thống cơ bản của người Cơ tu...............40
Bảng 3.1: Chuyển biến về công cụ sản xuất ...................................................56
DANH MỤC HÌNH VẼ
Hình 2.1: Sơ đồ các thành tố văn hóa vật chất................................................27
Hình 2.2: Bình đồ một làng truyền thống của người Cơ tu ...........................28
Hình 2.3: Sơ đồ bố trí bàn ăn của người Cơ tu (trong nhà và ngoài sân).......32
DANH MỤC HỘP SỐ
Hộp số 1: Phỏng vấn anh Đinh Văn Như - thôn Giàn Bí ...............................33
Hộp số 2: Phỏng vấn già làng Bùi Văn Cầm - thôn Giàn Bí..........................34
Hộp số 3: Phỏng vấn chị Đinh Thị Hồng - thôn Giàn Bí................................35
Hộp số 4: Phỏng vấn anh Trương Như Huy - cán bộ Văn hóa xã..................50
Hộp số 5: Phỏng vấn chị Trần Thị Một tại nhà Gươl, thôn Giàn Bí. .............54
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc. Xuyên suốt trường kỳ lịch sử của đất
nước, văn hóa các dân tộc (tộc người) là một bộ phận không thể tách rời của nền văn
hóa chung của dân tộc Việt. Trong nhiều năm qua, việc nghiên cứu văn hóa tộc người
được các nhà khoa học thuộc Việt Nam học nói riêng và các ngành khác thuộc lĩnh
vực khoa học xã hội rất chú trọng.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa, hiện đại hóa đất nước đang diễn ra mạnh mẽ
như hiện nay, các quốc gia trên thế giới đều không ngừng giao lưu gia tăng sự hội
nhập trên mọi khía cạnh đời sống kinh tế, xã hội, chính trị, văn hóa. Cùng với xu thế
đổi mới đó là sự kéo theo những biến đổi mang tính tất yếu của nhiều lĩnh vực, văn
hóa dân tộc Việt Nam nói chung và văn hóa các tộc người thiểu số nói riêng cũng
đang phải trải qua một quá trình đổi mới và hầu hết đều chịu các tác động nhiều chiều
qua lại của xu thế này. Trong thực tế ấy, quá trình tiếp thu và tiếp biến văn hóa để
phù hợp với Hoàn cảnh mới sẽ có khả năng dẫn đến sự mai một văn hóa tộc người.
Đặc biệt, đối với dân tộc thiểu số, văn hóa của họ dễ bị biến đổi hơn do các yếu tố
tác động từ kinh tế thị trường, đô thị hóa…; sự biến đổi này phụ thuộc vào mức độ
giao lưu giữa các tộc người, mức độ diễn tiến đô thị hóa, hiện đại hóa ở các khu vực;
trong đó dễ dàng nhận thấy là môi trường ở khu vực càng gần trung tâm thành phố
càng làm thúc đẩy sự biến đổi hơn. Tộc người Cơ tu ở thành phố Đà Nẵng là một
trường hợp thực tế như vậy.
Đà Nẵng là vùng đất có bề dày lịch sử - văn hóa. Hòa trong dòng chảy văn
hóa cùng với đất mẹ Quảng Nam, nơi đây mang trong mình nhiều giá trị văn hóa đặc
sắc, trong đó văn hóa đồng bào Cơ tu ở khu vực phía Tây thành phố là một ví dụ.
Với dân số hơn 1000 người, tập trung chủ yếu ở ba thôn trên hai xã thuộc huyện Hòa
Vang - một huyện ngoại thành của Đà Nẵng. Cộng đồng Cơ tu ở thành phố Đà Nẵng
tuy có số lượng ít nhưng lại là một minh chứng cho thấy quá trình tộc người của dân
tộc này ở Việt Nam. Những giá trị văn hóa hiện có của cộng đồng đã góp phần làm
cho bản sắc văn hóa của thành phố Đà Nẵng thêm đa dạng, đặc sắc.
2
Trong bối cảnh hội nhập, đô thị hóa như hiện nay, văn hóa của người Cơ tu
thành phố Đà Nẵng không khỏi bị chịu những tác động tiêu cực của quá trình giao
lưu, biến đổi, đặc biệt là quá trình “Kinh hóa” đang được diễn ra trong đời sống đồng
bào. Các giá trị văn hóa truyền thống tộc người ít nhiều đã có sự biến đổi theo xu
hướng hòa nhập phát triển chung chứ không còn được nguyên vẹn những giá trị riêng
biệt như trước; rõ nét nhất là trong đời sống văn hóa vật chất như ăn, mặc, ở, phương
thức sản xuất và đi lại.
Để phát triển nền văn hóa đa dạng, mang đậm bản sắc của các tộc người thiểu
số ở Việt Nam nói chung, chúng ta thật sự rất cần những giải pháp toàn diện và sâu
sắc nhằm bảo tồn các giá trị văn hóa truyền thống. Với mục đích cung cấp cái nhìn
tổng quát về văn hóa truyền thống và sự biến đổi trong đời sống văn hóa vật chất của
cộng đồng người Cơ tu ở Đà Nẵng trước những tác động của sự phát triển đô thị,
đồng thời đề xuất các giải pháp bảo tồn hướng đến sự phát triển bền vững tộc người,
chúng tôi mạnh dạn chọn hướng nghiên cứu “Văn hóa vật chất của người Cơ tu ở
xã Hòa Bắc, huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng” làm đề tài luận văn tốt nghiệp
thạc sỹ của mình.
Đề tài hy vọng sẽ đóng góp một phần nhỏ vào việc bảo lưu các nét văn hóa
vật chất truyền thống của đồng bào, góp phần khẳng định các giá trị văn hóa riêng
của tộc người Cơ tu cũng như làm giàu hơn vốn văn hóa của thành phố Đà Nẵng.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Vấn đề biến đổi văn hóa truyền thống là phần quan trọng trong đời sống của
bất cứ tộc người nào và là một trong các hướng quan tâm của ngành Việt Nam học,
đã đạt được những thành tựu quan trọng cả về mặt lý luận chung cũng như thực tiễn
tại các địa bàn trên khắp mọi vùng miền của đất nước.
So với các dân tộc thiểu số trong cả nước (đặc biệt là trong đối sánh với các
dân tộc vùng miền núi phía Bắc Việt Nam), các công trình nghiên cứu (tác phẩm
sách) về người Cơ tu từ trước đến giờ dường như ít tập trung vào một đối tượng cụ
thể. Mỗi một công trình là sự tổng hợp của “muôn mặt’ thành tố văn hóa trong đời
sống tộc người. Trong đó, tài liệu nhắc đến người Cơ tu ở Việt Nam sơ khai nhất là
của Dương Văn An, Lê Quý Đôn và trong các bộ sử của triều Nguyễn. Trong công
3
cuộc khai thác thuộc địa của người Pháp ở Đông Dương, và thời kỳ đế quốc Mỹ xâm
lược, có không ít các độc giả nước ngoài (chủ yếu là Pháp) đã để tâm nghiên cứu và
công bố những công trình về người Cơ tu được nhiều người biết đến như Louis
Bezacier (1912) với tác phẩm "Interpretation du tatouage frontal des Moi (Ghi
chép về người mọi Katu); Le Pichon (1938) với Les chasseurs de sang (Những
người săn máu/Những kẻ săn đầu); Nancy A. Costello (1972) với Socially Approved
Homicide among the Katu...; hay các tác giả khác như Georges Coedes, J. Hoffet,
Janet Hoskins, Robert Mole... cũng có sự quan tâm đến cộng đồng này ở Việt Nam.
Các bài viết/tác phẩm trên chủ yếu đề cập đến các tiêu chí phân lập cư trú, nguồn gốc
tên tự gọi, ngôn ngữ, và tín ngưỡng tộc người... Đáng lưu ý là sự ảnh hưởng trong
bài viết của Le Pichon về tục xăm mình và tục săn đầu người của người Cơ tu đến
học giả và các đọc giả thời kỳ này như L. Bezacier (1951); M. Murphy và Marilou
Fromme (1967); A. Thomas Krish, 1973); Janet Hoskin (1996); R. Mole (1970); G.
Hickey (1993); Nancy Costello (2002)... Cách viết miêu tả một tục lệ đã bị loại bỏ của
đồng bào như một đặc trưng văn hóa đầy ấn tượng đã tạo nên cái nhìn “không mấy thiện
cảm” về tộc người Cơ tu, khiến dân tộc này từng bị xem là đối tượng quá hiếu chiến,
man rợ với hủ tục khát máu đầu người [48].
Trong bài viết Sơ lược giới thiệu dân tộc Ka-tu tác giả Ngọc Anh được đăng
trên tập san Dân Tộc 16 (năm 1960) đã cung cấp cái nhìn sơ lược nhưng bao quát
khắp các khía cạnh văn hóa tộc người Cơ tu. Từ việc giải thích nguồn gốc tộc người,
phương tiện cư trú, đặc điểm nhân chủng, ngôn ngữ, phương thức sản xuất, phân tầng
xã hội ba lớp người, vai trò của các nhân vật lãnh đạo trong làng, những phong tục
tập quán cho đến tinh thần mạnh mẽ chống đối thực dân xâm lược của tộc người.
Những phác thảo của bài viết trên tuy chỉ là sơ lược nhưng lại là khảo cứu đầu tiên
về người Cơ tu trên diễn đàn khoa học xã hội Việt Nam.
Từ sau năm 1975 đến nay, được sự khuyến khích bởi chính sách dân tộc của
Đảng và Nhà nước, việc nghiên cứu lịch sử-văn hóa các dân tộc trên đất nước ta được
mở rộng nhằm đắp ứng mục tiêu hiểu biết lẫn nhau, gìn giữ, bảo tồn và phát huy sức
mạnh văn hóa dân tộc. Các công trình nghiên cứu về các tộc người trong nước nói
chung và riêng người Cơ tu xuất hiện ngày càng nhiều. Trong đó đáng chú ý là công
4
trình Các dân tộc ít người ở Bình Trị Thiên của Nguyễn Quốc Lộc và các cộng sự
xuất bản năm 1984. Đây là công trình khoa học cung cấp những tư liệu quý về mọi
mặt đời sống của các cộng đồng thiểu số Cơ tu, Tàôi, Bru - Vân Kiều ở miền Trung
Việt Nam. Tuy nhiên cũng chính vì đề cập đến nhiều vấn đề, nhiều dân tộc trong
cùng một cuốn sách nên công trình này vẫn chưa thể đi sâu nghiên cứu những lĩnh
vực cụ thể của tộc người.
Đến năm 1998, tác giả Nguyễn Xuân Hồng đã cho ra mắt công trình nghiên
cứu về Hôn nhân - gia đình - ma chay của người Tàôi, Cơ tu, Bru - Vân Kiều. Tác
phẩm này chủ yếu đi sâu phân tích phong tục tập quán, các xu thế biến đổi trong hôn
nhân, gia đình, ma chay của 3 dân tộc ở vùng miền núi Trị Thiên.
Tiếp sau đó, các tác phẩm nghiên cứu thể hiện sự quan tâm sâu hơn về các
thành tố văn hóa cộng đồng Cơ tu nói riêng và các dân tộc thiểu số ở miền Trung
Việt Nam lần lược được các học giả công bố. Tác phẩm Luật tục của người Tàôi,
Cơ tu, Bru - Vân Kiều ở Quảng Trị, Thừa Thiên Huế do Nguyễn Văn Mạnh chủ
biên vào năm 2001 là một công trình nghiên cứu tập thể khá toàn diện về các cộng
đồng dân tộc thiểu số ở khu vực miền Trung - Tây Nguyên. Trong cuốn sách này,
các tác giả tập trung phân tích luật tục/tập quán của các tộc người dưới nhiều lĩnh
vực, trong đó có đề cập đến các mô hình sở hữu đất đai, quản lý làng bản thông qua
các quy tắc, quy định.
Năm 2002, tác giả Tạ Đức cho ra mắt tác phẩm Tìm hiểu văn hóa Katu, cuốn
sách này đã đặt ra 17 câu hỏi dạng chủ đề và lần lượt giải đáp nó như “Người Katu
là ai, nguồn gốc của họ thế nào?”, “Tên gọi Katu có nghĩa là gì?” … và 7 chủ đề như
“Cột tế Katu và truyền thuyết Ja rai”, … Cứ như vậy, cuốn sách giúp bạn đọc hiểu
hơn về văn hóa tộc người Cơ tu.
Những năm về sau 2004, 2005, 2006, 2007, những công trình nghiên cứu về
người Cơ tu càng rõ nét hơn, tiêu biểu phải kể đến cuốn Katu kẻ sống đầu ngọn
nước; Văn hóa làng miền núi Trung bộ Việt Nam: giá trị truyền thống và những
bước chuyển lịch sử (dẫn liệu từ miền núi Quảng Nam) của tác giả Nguyễn Hữu
Thông, Văn hóa người Cơ-tu của tác giả Lưu Hùng. Trong cuốn “Nhà Gươl của
người Cơ tu (Nhà xuất bản Văn hóa dân tộc, Hà Nội, năm 2006) tác giả Đinh Hồng
5
Hải, qua việc mô tả kiến trúc Gươl và các lễ hội văn hóa của người Cơ tu đã chỉ ra
những khía cạnh đời sống tinh thần của người Cơ tu ở Quảng Nam. Đây là 4 công
trình rất có giá trị miêu tả về toàn bộ hoạt động sinh hoạt văn hóa của tộc người. Nếu
như tác giả Nguyễn Hữu Thông mạnh về việc lý giải tên gọi/tộc danh, về việc đặt lại
sự hiện diện và diễn trình di trú, cũng như vai trò của nhóm Katuic và tộc người Katu
(chữ dùng trong sách của tác giả) trong lịch sử văn hóa của cư dân miền Trung, mổ
xẻ những cung bậc chuyển biến trong văn hóa làng của người Cơ tu thì nhà nghiên
cứu Lưu Hùng lại có thế mạnh về việc khảo tả các đặc trưng văn hóa phi vật thể và
văn hóa vật thể tộc người... Ngoài ra còn có công trình luận án tiến sỹ “Nghề dệt và
trang phục cổ truyền của dân tộc Cơ tu Quảng Nam” được bảo vệ năm 2009 tại
Viện nghiên cứu văn hóa của Trần Tấn Vịnh, tác giả đã tổng quan về người Cơ tu,
mô tả chi tiết về nghề dệt cổ truyền và trang phục cổ truyền của dân tộc Cơ tu, nghệ
thuật trang trí và hệ biểu tượng trong trang trí hoa văn trên y phục người Cơ tu. Qua
đó tác giả đã đưa ra những kiến nghị nhằm bảo tồn và phát huy nghề dệt và trang
phục Cơ tu. Có thể nói rằng, trên đây là những công trình công phu và hoàn chỉnh
bước đầu cung cấp một bức tranh tương đối toàn diện và sâu sắc về lịch sử, đời sống
và văn hóa của người Cơ tu: tộc người có vị trí cư trú quan trọng và vốn văn hóa
phong phú ở khu vực Trung và địa đầu Nam Trường Sơn.
Như vậy, với chiều dài của lịch sử nghiên cứu vấn đề, người Cơ tu ở Việt
Nam là một dân tộc tương đối thống nhất về cả tên gọi, ngôn ngữ cũng như các mặt
văn hóa, xã hội. Hầu hết các công trình đã có nghiên cứu về họ không bàn luận về
một đối tượng cụ thể mà tổng hợp nhiều lĩnh vực văn hóa nhằm khái quát rõ hơn bức
tranh/sắc thái văn hóa tộc người. Tuy nhiên phải nói rằng chưa nghiên cứu nào tập
trung bàn sâu về người Cơ tu ở huyện Hòa Vang thành phố Đà Nẵng. Đây vẫn là một
khoảng trống trong nghiên cứu văn hóa tộc người này ở Việt Nam.
Trên nền tảng thành quả nghiên cứu chung của các học giả về người Cơ tu nói
chung ở Quảng Nam và Thừa Thiên Huế, đề tài của luận văn sẽ ít nhiều có những
tiếp cận thuận lợi hơn trong việc nghiên cứu về người Cơ tu ở huyện Hòa Vang thành
phố Đà Nẵng.
6
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu:
- Đánh giá thực trạng các giá trị văn hóa vật chất và nhận diện các đặc trưng
văn hóa vật chất của người Cơ tu ở xã Hòa Bắc, huyện Hòa Vang, thành phố Đà
Nẵng;
- Đưa ra một số giải pháp tham khảo cho việc bảo tồn và phát huy các giá trị
văn hóa vật chất đặc trưng phù hợp với sự phát triển hiện nay của đồng bào Cơ tu ở
xã Hòa Bắc, huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Khảo sát, tìm hiểu về văn hóa vật chất của đồng bào dân tộc Cơ tu ở xã Hòa
Bắc, huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng.
- Nghiên cứu cơ sở lý luận về văn hóa vật chất, các khái niệm về biến đổi văn
hóa tộc người, khái niệm đô thị hóa, các cơ sở biến đổi văn hóa nói chung và văn hóa
vật chất tộc người nói riêng.
- Khảo sát và đánh giá thực trạng biến đổi các thành tố văn hóa vật chất của
đồng bào dân tộc Cơ tu tại nơi cư trú của người dân. Qua đó thấy được mặt tích cực
và hạn chế của sự biến đổi văn hóa vật chất trong quá trình hội nhập, phát triển đô
thị hóa ở thành phố Đà Nẵng.
- Rút ra những vấn đề từ thực tế, nhằm đưa ra những giải pháp bảo tồn các giá
trị văn hóa vật chất truyền thống của đồng bào dân tộc Cơ tu tại xã Hòa Bắc, huyện
Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng sao cho phù hợp với sự phát triển chung nhưng vẫn
giữ được những giá trị riêng của văn hóa tộc người.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Các khía cạnh của giá trị văn hóa vật chất: làng, nhà cửa, ẩm thực, trang phục,
phương tiện đi lại, công cụ lao động sản xuất… và sự biến đổi của nó của cộng đồng
người Cơ tu ở xã Hòa Bắc huyện Hòa Vang trong quá trình phát triển hội nhập, đô
thị hóa hiện nay.
7
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Những vấn đề liên quan đến đời sống văn hóa vật chất của cộng đồng người
Cơ tu đang sinh sống ở thôn Tà Lang và Giàn Bí, xã Hòa Bắc, huyện Hòa Vang,
thành phố Đà Nẵng từ năm 1980 đến nay.
5. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu liên ngành trên nền tảng khu vực học: Đây là
phương pháp cơ bản để thực hiện nghiên cứu đối tượng trong một không gian văn
hóa, không gian phát triển. Có thể nói, với phương pháp nghiên cứu này có thể giúp
xác định luận văn là một công trình nghiên cứu thuộc mã ngành Việt Nam học.
- Phương pháp khảo sát, thu thập tư liệu
Để hoàn thành luận văn, chúng tôi chủ yếu dựa vào các nguồn tư liệu sau:
+ Tài liệu thành văn: Các sách chuyên ngành về Dân tộc học, Việt Nam học, các
bài hội thảo khoa học, các bài nghiên cứu của các tác giả trên báo, tạp chí khoa học về
lĩnh vực văn hóa - xã hội và các báo cáo, tư liệu khảo sát tại địa bàn nghiên cứu.
+ Tài liệu từ việc nghiên cứu phỏng vấn thực địa: Là nguồn tư liệu thu thập
từ quá trình tiếp xúc, phỏng vấn thực tế với cộng đồng người Cơ tu tại địa bàn nghiên
cứu, già làng, trưởng thôn, cán bộ quản lý tại địa phương.
Trong quá trình nghiên cứu chúng tôi tiến hành thu thập nguồn tài liệu đa dạng
từ nguồn tài liệu thành văn.
- Phương pháp điền dã dân tộc học kết hợp phỏng vấn sâu
Thực hiện phương pháp điền dã dân tộc học kết hợp phỏng vấn hồi cố, ghi chép,
quay phim, chụp hình và quan sát, tham dự các hoạt động của cộng đồng dân tộc Cơ tu.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
- Về khoa học, đây là công trình bước đầu nghiên cứu hệ thống về các vấn đề
lý luận liên quan đến sự biến đổi văn hóa vật chất của cộng đồng dân tộc thiểu số nói
chung và cộng đồng người Cơ tu trên địa bàn xã Hòa Bắc, huyện Hòa Vang, thành
phố Đà Nẵng nói riêng.
- Về thực tiễn, những kết quả nghiên cứu từ đề tài sẽ là nguồn tài liệu tham
khảo cho những ai quan tâm và tìm hiểu về cộng đồng dân tộc Cơ tu. Hơn thế nữa,
thành quả nghiên cứu sẽ góp phần giúp cho các cơ quan quản lý nhà nước về mặt văn
8
hóa có góc nhìn khách quan về sự biến đổi đời sống văn hóa vật chất của tộc người
này trên địa bàn Đà Nẵng; từ đó có định hướng phù hợp cho sự phát triển gắn với
công tác bảo tồn giá trị văn hóa vật chất truyền thống đậm bản sắc của tộc người trên
địa bàn.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo. Nội dung của đề tài chia
làm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và tổng quan về cộng đồng người Cơ tu ở xã Hòa
Bắc, huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng
Chương 2: Văn hóa vật chất truyền thống của người Cơ tu tại xã Hòa Bắc,
huyện Hòa Vang, Thành phố Đà Nẵng
Chương 3: Thực trạng biến đổi và giải pháp bảo tồn văn hóa vật chất của
người Cơ tu tại xã Hòa Bắc, huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng.
9
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ TỔNG QUAN VỀ CỘNG ĐỒNG NGƯỜI CƠ TU Ở
XÃ HÒA BẮC, HUYỆN HÒA VANG, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
1.1. Khái niệm và cơ sở lý luận
1.1.1. Khái niệm trong nghiên cứu
- Khái niệm tộc người
Theo nghĩa hẹp, tộc người là một cộng đồng người có chung tiếng mẹ đẻ.
Hiểu như vậy, tộc người sẽ tương đương với nhóm ngôn ngữ hay với nhóm dân tộc
- ngôn ngữ mà các nhà ngôn ngữ học gọi là nhóm nói tiếng mẹ đẻ. Theo nghĩa đó,
tộc người cũng là dùng để chỉ những tập hợp người khá thuần nhất, sống cạnh nhau
và có chung các đặc điểm về văn hóa mà trong đó yếu tố biểu hiện rõ nhất là việc sử
dụng một ngôn ngữ. Nhưng, vấn đề đặt ra là, có rất nhiều cá nhân sống đây đó trên
thế giới có cùng một ngôn ngữ mẹ đẻ song lại cách xa nhau về nhiều mặt, như về
mặt địa lý (giữa các châu lục), về mặt lịch sử (thuộc nhiều quốc gia khác nhau), về
mặt chủng tộc (thuộc các nguồn gốc khác nhau)… thì liệu họ có cùng một tộc người
không, hay họ là những tộc người khác nhau có cùng một ngôn ngữ, hoặc là một tộc
người được chia ra làm nhiều tộc người nhỏ…? Đây là vấn đề khó vẫn đang đòi hỏi
các học giả cần quan tâm nghiên cứu, giải thích nhiều hơn.
Theo nghĩa rộng, tộc người là một cộng đồng người liên kết với nhau bởi một
phức hợp các tính chất chung về các mặt: nhân chủng, ngôn ngữ, chính trị… Sự kết hợp
các tính chất đó tạo thành một hệ thống riêng, một cấu trúc mang tính văn hóa chủ yếu
- một nền văn hóa riêng biệt. Nói một cách ngắn gọn, tộc người là một tập thể hay đúng
hơn, là một cộng đồng người, được gắn bó với nhau bởi một nền văn hóa riêng biệt.
Theo nghĩa này, các yếu tố trong hệ thống tộc người có thể phát triển không đồng đều ở
mỗi thành viên, hay sự vắng mặt của một trong số các yếu tố ở một thành viên cũng
không làm cho họ tách khỏi nhóm tộc người của mình.
Như vậy, có thể thấy cách hiểu theo nghĩa rộng trên đây cho phép bao quát tốt
hơn các nhóm cộng đồng tộc người hiện đang tồn tại. Nhận thức này tuy có những
ranh giới không quá rạch ròi, nhưng lại là cơ sở để nội hàm nghiên cứu các vấn đề
về một cộng đồng tộc người cụ thể trở nên phong phú hơn. Để phục vụ cho sự nghiên
10
cứu, luận văn này sẽ đồng nhất ở nghĩa rộng, xem tộc người là một cộng đồng người,
được gắn bó với nhau bởi một nền văn hóa riêng biệt.
- Khái niệm biến đổi
Biến đổi là một khái niệm được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm trong những
năm gần đây trên mọi lĩnh vực của cuộc sống. Dưới nhiều góc độ nhận thức, khái
niệm biến đổi mang nhiều ý nghĩa về sự tích cực hoặc hạn chế nào đó.
Dưới góc độ nghiên cứu Việt Nam học, nhân học văn hóa hay văn hóa học,
khái niệm biến đổi được ra đời từ sớm theo cách hiểu là một quy luật có tính tất yếu
của cuộc sống. Từ những quan niệm trừu tượng của thuyết Khải Hoàn, xem mọi sự
biến đổi của nhân loại đều chịu ảnh hưởng của Thiên Chúa giáo (coi sự vận động của
thế giới là điều tất yếu để đi đến cái tốt đẹp), đến những lập luận mang tính khoa học
của thuyết Tiến hóa trong bước đầu giải thích mối quan hệ giữa tiến hóa của con
người và sinh vật (đó là sự biến đổi theo quá trình, cái sau phát triển hơn cái khác);
hay là sự mô phỏng tính chu kỳ trong quá trình sinh trưởng của mọi sự vật, có tiêu
vong, biến mất và sau đó cái mới lại xuất hiện (trong mô hình của thuyết Chu kỳ);
hoặc những gợi mở về cơ sở biến đổi của thuyết kinh tế, thuyết tư tưởng, thuyết kỹ
thuật, thuyết xung đột, thuyết thích ứng trong thế kỷ XX... đều chủ yếu lý giải về nội
hàm của sự biến đổi; nhưng trên cơ bản, mọi thuyết đều nhấn mạnh đến tính tất yếu
của sự biến đổi, xem đó như một quy luật vận động khách quan của cuộc sống.
Có nhiều quan niệm về sự biến đổi văn hóa dựa trên nhiều khía cạnh, như ở
phạm vi rộng: đó là một sự biến đổi một phần hay hoàn toàn mới được so sánh với
một nếp sống hay một nền văn hóa tộc người đã được hình thành trước đó; hoặc trong
phạm vi hẹp: biến đổi trong văn hóa là sự thay đổi những giá trị văn hóa đặc trưng,
các thành tố văn hóa vật chất hoặc tinh thần của văn hóa tộc người đó, và sự biến đổi
này tạo nên sự ảnh hưởng sâu sắc đến hầu hết các mặt đời sống của các thành viên
trong một xã hội.
Như vậy có thể thấy rằng: Biến đổi văn hóa là một quá trình, biểu hiện thông
qua nhiều phương diện: phát triển kinh tế xã hội, phục hưng văn hóa truyền thống,
hoạt động tôn giáo, phát triển truyền thông đại chúng, giao lưu văn hóa, qua đó những
11
khuôn mẫu trong phong tục, tập quán truyền thống có sự tiếp biến theo thời gian và
theo nhiều cấp độ khác nhau.
Và dù có các luận giải khác nhau về nguyên nhân biến đổi cũng như định
nghĩa của nó, có thể thống nhất đề cao mặt tích cực của sự biến đổi trong tình hình
phát triển chung của sự phát triển kinh tế, chính trị, xã hội; nhưng cũng không xem
nhẹ các yếu tố tiêu cực, kém bền vững nảy sinh trong quá trình ấy vì vấn đề bảo tồn
các giá trị truyền thống đặc trưng là điều cơ bản cần thiết để phân biệt giữa các tộc
người. Cơ bản, biến đổi là sự vận động/ tự chuyển mình một cách tất yếu cho phù
hợp/ thích ứng với mọi điều kiện mới của xã hội, lịch sử.
- Khái niệm văn hóa
Văn hóa là sản phẩm của con người, nhờ có văn hóa mà con người trở nên
độc đáo trong thế giới sinh vật và khác biệt so với những con vật khác trong thế giới
động vật. Tuy nhiên, để hiểu về khái niệm “văn hóa” đến nay vẫn còn nhiều ý kiến
khác nhau, do vậy cũng có nhiều những định nghĩa khác nhau về văn hóa.
Năm 1952, A.L. Kroeber và Kluckhohn xuất bản quyển sách “Culture, a
critical review of concept and definitions” [Văn hóa, điểm lại bằng cái nhìn phê phán
các khái niệm và định nghĩa], trong đó tác giả đã trích lục khoảng 160 định nghĩa về
văn hóa do các nhà khoa học đưa ra ở nhiều nước khác nhau. Điều này cho thấy, khái
niệm “văn hóa” rất phức tạp.
Năm 1871, E.B. Tylor đưa ra định nghĩa “Văn hóa hay văn minh, theo nghĩa
rộng về tộc người học, nói chung gồm có tri thức, tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức,
luật pháp, tập quán và một số năng lực và thói quen khác được con người chiếm lĩnh
với tư cách một thành viên của xã hội” [58, tr.13]. Theo định nghĩa này thì văn hóa
và văn minh là một; nó bao gồm tất cả những lĩnh vực liên quan đến đời sống con
người, từ tri thức, tín ngưỡng đến nghệ thuật, đạo đức, pháp luật… Có người ví, định
nghĩa này mang tính “bách khoa toàn thư” vì đã liệt kê hết mọi lĩnh vực sáng tạo của
con người. [14, tr.39]
F. Boas định nghĩa “Văn hóa là tổng thể các phản ứng tinh thần, thể chất và
những hoạt động định hình nên hành vi của cá nhân cấu thành nên một nhóm người
vừa có tính tập thể vừa có tính cá nhân trong mối quan hệ với môi trường tự nhiên
12
của họ, với những nhóm người khác, với những thành viên trong nhóm và của chính
các thành viên này với nhau” [7, tr.149]. Theo định nghĩa này, mối quan hệ giữa cá
nhân, tập thể và môi trường là quan trọng trong việc hình thành văn hóa của con
người.
Ở Việt Nam, khái niệm văn hóa có rất nhiều định nghĩa. Chủ tịch Hồ Chí
Minh cho rằng “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới
sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo,
văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hằng ngày về mặt ăn, ở và các
phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa” [38,
tr.431]. Với cách hiểu này, văn hóa sẽ bao gồm toàn bộ những gì do con người sáng
tạo và phát minh ra. Cũng giống như định nghĩa của Tylor, văn hóa theo cách nói của
chủ tịch Hồ Chí Minh sẽ là một “bách khoa toàn thư” về những lĩnh vực liên quan
đến đời sống con người. Phạm Văn Đồng cho rằng “Nói tới văn hóa là nói tới một
lĩnh vực vô cùng phong phú và rộng lớn, bao gồm tất cả những gì không phải là thiên
nhiên mà có liên quan đến con người trong suốt quá trình tồn tại, phát triển, quá trình
con người làm nên lịch sử… (văn hóa) bao gồm cả hệ thống giá trị: tư tưởng và tình
cảm, đạo đức với phẩm chất, trí tuệ và tài năng, sự nhạy cảm và sự tiếp thu cái mới
từ bên ngoài, ý thức bảo vệ tài sản và bản lĩnh của cộng đồng dân tộc, sức đề kháng
và sức chiến đấu bảo vệ mình và không ngừng lớn mạnh” [64, tr.22]. Theo định nghĩa
này thì văn hóa là những cái gì đối lập với thiên nhiên và do con người sáng tạo nên
từ tư tưởng tình cảm đến ý thức tình cảm và sức đề kháng của mỗi người, mỗi dân
tộc.
Trong những năm gần đây, một số nhà nghiên cứu ở Việt Nam và kể cả ở
nước ngoài khi đề cập đến văn hóa, họ thường vận dụng định nghĩa văn hóa do
UNESCO đưa ra vào năm 1994. Theo UNESCO, văn hóa được hiểu theo hai nghĩa:
nghĩa rộng và nghĩa hẹp. Theo nghĩa rộng thì “Văn hóa là một phức hệ - tổng hợp
các đặc trưng diện mạo về tinh thần, vật chất, tri thức và tình cảm… khắc họa nên
bản sắc của một cộng đồng gia đình, xóm làng, vùng, miền, quốc gia, xã hội… Văn
hóa không chỉ bao gồm nghệ thuật, văn chương mà còn cả lối sống, những quyền cơ
bản của con người, những hệ thống giá trị, những truyền thống, tín ngưỡng…”; còn
13
hiểu theo nghĩa hẹp thì “Văn hóa là tổng thể những hệ thống biểu trưng (ký hiệu) chi
phối cách ứng xử và giao tiếp trong cộng đồng, khiến cộng đồng đó có đặc thù
riêng…” [35, tr.314].
Nhìn chung, các định nghĩa về văn hóa hiện nay rất đa dạng. Mỗi định nghĩa
đề cập đến những dạng thức hoặc những lĩnh vực khác nhau trong văn hóa. Như định
nghĩa của Tylor và của Hồ Chí Minh thì xem văn hóa là tập hợp những thành tựu mà
con người đạt được trong quá trình tồn tại và phát triển, từ tri thức, tôn giáo, đạo đức,
ngôn ngữ, đến âm nhạc, pháp luật… Còn các định nghĩa của F. Boas, tổ chức
UNESCO… thì xem tất cả những lĩnh vực đạt được của con người trong cuộc sống
là văn hóa.
Với cách hiểu này cùng với những định nghĩa đã nêu thì văn hóa chính là nấc
thang đưa con người vượt lên trên những loài động vật khác; và văn hóa là sản phẩm
do con người tạo ra trong quá trình lao động nhằm mục đích sinh tồn.
- Khái niệm văn hóa vật chất
Văn hóa là tất cả những sản phẩm của con người làm ra, bao gồm: văn hóa
phi vật chất và văn hóa vật chất. Ở đây, văn hóa vật chất ám chỉ toàn bộ những gì do
công nghệ sản xuất nhằm đáp ứng nhu cầu vật chất, ăn, mặc, ở, đi lại, công cụ sản
xuất, phương tiện sản xuất… nói lên trình độ phát triển của con người trong lĩnh vực
sản xuất vật chất, thể hiện trình độ chiếm lĩnh và khai thác những vật thể trong tự
nhiên.
- Khái niệm đô thị hóa
Nghiên cứu định hướng phát triển đô thị Việt Nam và tác động của nó đến
văn hóa, nhà nghiên cứu Mạc Đường định nghĩa: “Đô thị hóa là một quá trình kinh
tế - xã hội để biến một vùng dân cư không có cuộc sống đô thị thành một vùng dân
cư thuộc tính của xã hội đô thị. Đô thị hóa còn là một quá trình biến đổi văn hóa và
ứng xử. Văn hóa và cách ứng xử đô thị dần dần bao trùm lên và làm tan biến dần văn
hóa và ứng xử truyền thống nông thôn” [18, tr.115].
Cũng mang hàm nghĩa như khái niệm của Mạc Đường, Trần Cao Sơn đưa ra
khái niệm: “Đô thị hóa là một quá trình chuyển từ hoạt động nông nghiệp phân tán
sang hoạt động phi nông nghiệp tập trung trên địa bàn nhất định”. Đây thực chất là
14
quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu xã hội, với các đặc trưng sau: Một là,
hình thành và mở rộng quy mô đô thị với hạ tầng kỹ thuật hiện đại, dẫn đến chuyển
dịch cơ cấu kinh tế từ nông nghiệp là chủ yếu sang sản xuất công nghiệp và dịch vụ.
Hai là, tăng nhanh dân số đô thị trong tổng số dân cư, dẫn đến thay đổi cơ cấu giai
cấp, phân tầng xã hội. Ba là, chuyển đổi từ lối sống phân tán (mật độ dân cư thưa)
sang sống tập trung (mật độ dân cư rất cao). Bốn là, chuyển từ lối sống nông thôn
sang lối sống đô thị [42, tr.17].
Xem xét bản chất của đô thị hóa, Kammeyer và cộng sự cho rằng: Đô thị hóa
và công nghiệp hóa được nhìn nhận như là những trụ cột của hiện đại hóa. Đô thị hóa
chỉ ra quá trình chuyển đổi của sức sản xuất, đặc biệt nó đưa đến sự chuyển đổi công
nghệ để thúc đẩy hoạt động sản xuất. Đô thị hóa mặt khác liên quan tới quá trình tập
trung dân số ở những khu vực nhất định, các trung tâm đô thị, nơi có sự di dân ồ ạt
từ làng và các cộng đồng nông thôn, nơi tập trung các hoạt động kinh tế, tổ chức
quản lý và quyền lực chính trị [72, tr.671].
Dù tiếp cận dưới những chiều cạnh khác nhau, song sự tương đồng dễ dàng
nhận thấy giữa các nhà nghiên cứu khi bàn về đô thị hóa là nói đến quá trình chuyển
đổi, rút ngắn khoảng cách giữa khu vực nông thôn với đô thị cùng các biểu hiện đặc
thù như: các khuôn mẫu văn hóa đô thị ngày càng trở nên phổ biến, lấn át dần các
khuôn mẫu văn hóa nông thôn truyền thống; sự chuyển dịch mạnh mẽ về lao động
nông thôn từ nông nghiệp sang phi nông nghiệp; sự di cư từ nông thôn vào thành
thị... và kéo theo đó là sự xáo trộn, biến chuyển trên hầu hết các phương diện của đời
sống kinh tế, xã hội cũng như văn hóa.
1.1.2. Cơ sở lý luận về biến đổi văn hóa tộc người
Theo cách hiểu rộng, biến đổi văn hóa là một thay đổi so sánh với một tình
trạng văn hóa hay một nền văn hóa có trước dưới sự tác động của những nhân tố
khách quan hay chủ quan. Trong một phạm vi hẹp hơn, người ta cho rằng sự biến
đổi văn hóa được đề cập đến là sự biến đổi về cấu trúc của văn hóa, về các thành tố
của văn hóa và các giá trị văn hóa [6, tr.36]. Theo tác giả Nguyễn Duy Bắc, biến đổi
văn hóa là sự thay đổi các phương thức sản xuất, bảo quản, truyền bá các sản phẩm và
thay đổi các giá trị văn hóa phù hợp với những biến đổi về chính trị, kinh tế, xã hội ở
15
những thời kỳ nhất định trong sự phát triển của các quốc gia dân tộc và nhân loại. Sự
biến đổi văn hóa thường là một bước tiến bộ trong sự phát triển dân tộc và nhân loại,
ảnh hưởng sâu sắc đến phần lớn các thành viên của một xã hội.
Cũng trong quan điểm này, nhiều học giả cho rằng đó là điều tất yếu. Tác giả
Fredrik Barth, trong lời giới thiệu về công trình “Những ranh giới và sự biến đổi dân
tộc” [5, tr.24] đã chỉ ra rằng, đối với các tộc người thiểu số trước sự tác động một
cách phổ biến và tất yếu của xã hội hiện đại, sự mưu cầu tham gia vào các hệ thống
xã hội rộng hơn để duy trì những dạng thức mới các giá trị, sẽ xảy ra các trường hợp:
Thứ nhất, cố gắng vượt qua và được hợp nhất trong xã hội tiền công nghiệp và
nhóm văn hóa; Thứ hai, chấp nhận địa vị thiểu số, và có sự điều chỉnh thích hợp, tìm
kiếm cách thức làm giảm những tình trạng bất lực thiểu số của họ; Thứ ba, lựa chọn
cách làm nổi bật bản sắc dân tộc và sử dụng chúng để mở ra những địa vị và mô hình
mới.
Tác giả Don Mccaskill, trong bài viết From Trial Peoples to Ethnic Minorities:
“The transformation of Indigenous Peoples” Old Societies and New States đã đưa ra
khái niệm “lưỡng văn hóa” và cho rằng “họ vừa tham gia vào xã hội rộng lớn
hơn, trong khi đó vẫn duy trì những khía cạnh quan trọng trong nền văn hóa bản địa
của họ”. Don Mccaskill khẳng định, “thế giới quan bản địa, những niềm tin, các
giá trị và hành vi có thể cùng tồn tại bên cạnh các bản sắc văn hóa quốc gia. Điều
này là có thể bởi vì trên thực tế một cá nhân có thể có nhiều bản sắc” [66, tr.497].
Như vậy có thể thấy tuy có các điểm nghiên cứu khác nhau nhưng phần lớn các học
giả có quan tâm đến vấn đề văn hóa tộc người thiểu số trong bối cảnh hội nhập và
phát triển đều hết sức chú ý đến ý thức và tính chủ động của chính người dân trong
bối cảnh này, trước những thử thách của xã hội hiện đại, bởi điều này sẽ dẫn đến một
quá trình biến đổi có định hướng.
Trong nhiều năm qua, việc nghiên cứu văn hóa tộc người được các ngành
khoa học xã hội, các nhà nghiên cứu quan tâm chú trọng. Từ thập niên 60 đến đầu
thập niên 80 của thế kỷ XIX, các nghiên cứu Văn hóa học, Việt Nam học tập trung
làm rõ các đặc điểm truyền thống của văn hóa các dân tộc thiểu số vào nền văn hóa
chung của dân tộc Việt Nam.
16
Là một trong số các đối tượng nghiên cứu quan trọng của Việt Nam học, biến
đổi văn hóa được xem như kết quả của quá trình vận động xã hội. Khái niệm biến
đổi văn hóa chỉ sự thay đổi của các cơ chế trong một cấu trúc văn hóa cho trước,
được đặc trưng bởi sự thay đổi nội hàm thành tố văn hóa cụ thể.
Biến đổi văn hóa được các nhà khoa học khởi xướng thuyết Tiến hóa luận như
Edward B. Taylor hay L. Morgan đề cập đến từ thế kỷ XIX khi họ phân chia xã hội
theo thứ bậc đơn tuyến và có chung một mẫu hình biến đổi xã hội cũng như biến đổi
văn hóa. E. Taylor cho rằng: “Sự phát triển tiến bộ tiến hóa của các nền văn hóa là
xu hướng chính trong lịch sử loài người. Xu hướng phát triển này là rất hiển nhiên,
vì rằng có nhiều dữ kiện theo tính liên tục của nó có thể sắp xếp vào một trật tự xác
định, mà không thể làm ngược lại” [8, tr.53]. Theo các nhà tiến hóa luận, biến đổi
văn hóa có một mô hình chung, đó là ở những nền văn hóa ngoài phương Tây được
nhìn nhận “kém văn minh”, sự biến đổi văn hóa diễn ra chậm chạp, đối ngược với
văn hóa phương Tây năng động và biến đổi nhanh. Các giai đoạn hiện tại của văn
hóa đã tiến hóa lên từ các giai đoạn sớm hơn. Mô hình tiến hóa đơn tuyến về sự phát
triển và biến đổi văn hóa này đã bị phản đối rộng khắp trong giới khoa học và là tiền
đề dẫn đến sự ra đời và phát triển của khá nhiều lý thuyết mới cuối thế kỷ XIX, đầu
thế kỷ XX.
Cuối thế kỷ XIX, thuyết Truyền bá văn hóa ra đời và phát triển phổ biến ở các
nước Âu - Mỹ. Các đại biểu của xu hướng này như G. Elliot Smith, W. Rivers... cho
rằng vấn đề mấu chốt của biến đổi văn hóa là sự vay mượn hoặc truyền bá/khuếch
tán các đặc trưng văn hóa từ một xã hội này sang một xã hội khác [39]. Cũng trong
khoảng thời gian cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, đã xuất hiện một số lý thuyết khác
có liên quan đến biến đổi văn hóa như: Thuyết tương đối văn hóa (đại diện là Franz
Boas) phản đối thuyết Tiến hóa văn hóa khi cho rằng quá trình lịch sử loài người và
hướng chung của sự biến đổi văn hóa ngày càng trở nên không còn là một vấn đề về
sự phát triển tiến bộ mà là một sản phẩm của sự tình cờ lịch sử nhiều hơn [29]. Thuyết
Vùng văn hóa (đại diện là C.L. Wissler, A.L. Kroeber...) đưa ra quan điểm về sự biến đổi
đa chiều và nhiều cấp độ của văn hóa tùy thuộc vào việc cộng đồng đó là trung tâm hay
ngoại vi hay vùng chuyển tiếp, môi trường và sự chuyên môn hóa của cộng đồng đó là gì
17
[29]. Thuyết tiếp biến văn hóa (đại diện là Redfield, Broom...) lại ám chỉ những biến đổi
văn hóa diễn ra qua quá trình tiếp xúc lâu dài giữa các xã hội phương Tâyvà ngoài phương
Tây, nhất là những ảnh hưởng mà các xã hội thống trị gây ra cho các tộc người bản địa
[65, tr.12].
Trong suốt nửa sau thế kỷ XX và phổ biến cho đến nay có một khuynh hướng
nghiên cứu hấp dẫn các nhà khoa học, đó là nghiên cứu sự biến đổi văn hóa trong
quá trình toàn cầu hóa, đặc biệt ở những xã hội đang chuyển đổi từ kinh tế nông
nghiệp sang công nghiệp, từ xã hội truyền thống sang xã hội hiện đại. Dù biến đổi
văn hóa trong quá trình hiện đại hóa là một thực tế không thể đảo ngược, song các
tác giả đều khẳng định sự bền bỉ của những giá trị truyền thống và nó sẽ chi phối sự
lựa chọn của từng xã hội cụ thể đến chiều hướng, quy mô, dạng thức biến đổi của
văn hóa [68], [73], [69], [70].
Ở Việt Nam, trong thời gian gần đây đã xuất hiện những công trình nghiên
cứu về biến đổi văn hóa nổi bật như: Văn hóa làng xã trước sự thách thức của đô thị
hóa tại thành phố Hồ Chí Minh (1999) của Tôn Nữ Quỳnh Trân; Ảnh hưởng đô thị
hóa đến nông thôn ngoại thành Hà Nội: Thực trạng và giải pháp (2002) của Lê Du
Phong; Những biến đổi về giá trị văn hóa truyền thống ở các làng ven đô Hà Nội
trong thời kỳ Đổi mới của (2007) Ngô Văn Giá; Văn hóa làng xã trước sự thách thức
của đô thị hóa tại thành phố Hồ Chí Minh (2007) của Nguyễn Thanh Tuấn; Tác động
của đô thị hóa - công nghiệp hóa tới phát triển kinh tế và biến đổi văn hóa - xã hội ở
tỉnh Vĩnh Phúc (2009) của Nguyễn Ngọc Thanh, Nguyễn Thế Trường, Trần Hồng Thu;
Biến đổi văn hóa ở các làng quê Việt Nam hiện nay (Trường hợp làng Đồng Kỵ,
Trang Liệt và Đình Bảng thuộc huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh (2009) của Nguyễn Thị
Phương Châm [53], [41], [20], [57], [46], [11],… Công trình Sự biến đổi các giá trị văn
hóa trong xây dựng nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay (2008) của Nguyễn Duy
Bắc. Đáng chú ý trong công trình của Nguyễn Duy Bắc, ông cho rằng: “Biến đổi văn
hóa chính là quá trình thay đổi các phương thức sản xuất, bảo quản, truyền bá... các sản
phẩm và các giá trị văn hóa phù hợp với những biến đổi về chính trị, kinh tế, xã hội ở
những thời kỳ nhất định trong sự phát triển của các quốc gia dân tộc và nhân loại” [6,
tr.36]. Công trình này nhận định bốn nhân tố tác động đến biến đổi văn hóa bao gồm: sự
18
vận động và phát triển của đời sống kinh tế - xã hội; nhân tố tư tưởng, chính trị; kỹ thuật
và công nghệ mới; giao lưu văn hóa.
Các lý thuyết, quan điểm khác nhau được minh hoạ ở trên có đã cho chúng tôi
những cách tiếp cận/luận giải không giống nhau về tác nhân biến đổi, đòi hỏi phải
xem xét từ nhiều góc độ để có câu trả lời thấu đáo về tính đa diện của hiện tượng/quá
trình biến đổi văn hóa. Thiết nghĩ, sự vận động và biến đổi văn hóa của một xã hội
là do các nhân tố cơ bản sau:
(1) Những biến đổi của đời sống kinh tế - xã hội, thể hiện qua những chính
sách đầu tư phát triển, về môi trường sống, về phương pháp, cách thức sản xuất, về
nhu cầu nhận thức, giáo dục của con người nhằm đáp ứng đòi hỏi của trình độ phát
triển xã hội.
(2) Điều kiện về kỹ thuật và công nghệ mới. Đây là một tác nhân cơ bản dẫn
đến biến đổi văn hóa. Trong cuộc sống, kỹ thuật công nghệ mới góp phần làm thay
đổi trình độ nhận thức, tạo sự phát triển của sản xuất vật chất, có ảnh hưởng trực tiếp
đến tính chất hoạt động của xã hội.
(3) Sự giao lưu văn hóa: Khi một cộng đồng tiếp xúc với một cộng đồng khác,
có thể diễn ra, hai quá trình đó là truyền bá văn hóa và tiếp biến văn hóa. Truyền bá
văn hóa là quá trình mà các yếu tố văn hóa được vay mượn từ một xã hội khác hội
nhập với văn hóa của cộng đồng tiếp nhận được gọi là truyền bá văn hóa. Còn tiếp
biến văn hóa là một quá trình tiếp xúc văn hóa mang tính bất bình đẳng giữa hai xã
hội. Trong tiếp biến văn hóa, không loại trừ trường hợp hai chủ thể cùng “vay mượn”
lẫn nhau nhưng phổ biến hơn là chủ thể yếu tiếp nhận các giá trị văn hóa từ chủ thể
mạnh.
Để tiếp cận quan điểm lý thuyết trong các luận giải về văn hóa của các tác giả
và công trình tiếp cận ở trên, luận văn này sẽ cố gắng tiếp cận sự biến đổi văn hóa
Cơ tu tại điểm nghiên cứu dưới nhiều mặt như: thực trạng, nguyên nhân, hệ quả và
xu hướng diễn ra. Đồng thời, áp dụng các luận điểm giải thích nguyên nhân biến đổi
văn hóa ở trên, luận văn chỉ ra các tác nhân quan trọng dẫn đến sự biến đổi văn hóa
vật chất của cộng đồng Cơ tu ở xã Hòa Bắc, huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng
trong quá trình đô thị hóa hiện nay. Đó là sự phát triển kinh tế - xã hội, sự tiến bộ về
19
khoa học - kỹ thuật và những chính sách có liên quan đến vùng cư trú dân tộc thiểu
số của Nhà nước nói chung, chính quyền thành phố Đà Nẵng nói riêng.
1.2. Tổng quan về cộng đồng người Cơ tu tại xã Hòa Bắc, huyện Hòa
Vang, thành phố Đà Nẵng
1.2.1. Vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên
Thành phố Đà Nẵng nằm ở vị trí trung độ của đất nước, bắc giáp tỉnh Thừa
Thiên Huế, tây và nam giáp tỉnh Quảng Nam, đông giáp biển Đông, cách Thủ
đô Hà Nội 764 km về phía Bắc, cách Thành phố Hồ Chí Minh 964 km về phía nam.
Không những nằm trên trục giao thông Bắc - Nam về đường bộ, đường sắt, đường
biển và đường hàng không, Đà Nẵng còn là trung điểm của các di sản văn hóa vật
thể và phi vật thể thế giới bao gồm Quần thể di tích cố đô Huế, Nhã nhạc cung đình
Huế, Phố cổ Hội An, Thánh địa Mỹ Sơn và di sản thiên nhiên thế giới - Vườn quốc
gia Phong Nha - Kẻ Bàng. Trong phạm vi khu vực và quốc tế, thành phố Đà Nẵng
là một trong những cửa ngõ quan trọng hướng ra biển của Tây Nguyên và các nước
Lào, Campuchia, Thái Lan, Myanma đến các nước vùng Đông Bắc Á thông qua hành
lang kinh tế Đông Tây với điểm kết thúc là cảng biển Tiên Sa. Nhờ biết tận dụng vị
trí thuận lợi này, Đà Nẵng đã sớm có những bước đô thị hóa nhanh chóng, vượt bậc.
Trong những năm gần đây, quá trình đô thị hóa ở Đà Nẵng đã lan rộng ra
các huyện ngoại thành, đặc biệt là huyện Hòa Vang, một huyện ngoại thành duy nhất
nằm trên vùng đất liền của thành phố được nối bởi một hệ thống giao thông tương
đối thuận lợi. Nhiều con đường liên xã, liên huyện và liên tỉnh đã được mở rộng như
quốc lộ 1A, đường giao thông huyết mạch Bắc - Nam chạy từ Cầu Đỏ qua các xã
Hòa Châu và Hòa Phước; quốc lộ 14B chạy qua các xã Hòa Khương, Hòa Phong,
Hòa Nhơn nối Quảng Nam với Đà Nẵng; tuyến đường tránh Nam Hải Vân đi qua
các xã Hòa Liên, Hòa Sơn, Hòa Nhơn; các tuyến đường ĐT 601, 602, 604, 605 do
thành phố quản lý và hệ thống các tuyến đường giao thông liên huyện và liên xã.
Xã Hòa Bắc được thành lập năm 1981, nằm ở phía tây bắc huyện Hòa
Vang, có vị trí địa lý hành chính giáp với xã Hòa Liên, huyện Hòa Vang ở phía
nam, giáp với quận Liên Chiểu ở phía đông. Ngoài ra, Hòa Bắc còn tiếp giáp hai
huyện Nam Đông và Phú Lộc (tỉnh Thừa Thiên Huế) ở phía bắc và huyện Hiên
20
(tỉnh Quảng Nam) ở phía tây nam. Xã có diện tích khoảng 33,864 ha trong đó diện
tích rừng chiếm trên 96%. Bao gồm 7 xã trong đó có 2 xã có cộng đồng người Cơ
tu sinh sống.
Bảng 1.1. Dân số trên toàn xã Hòa Bắc, huyện Hòa Vang, Đà Nẵng
Dân số
Thôn
Hộ khẩu (Đvt: hộ) Nhân khẩu (Đvt: Người)
An Định 65 214
Lộc Mỹ 68 230
Nam Mỹ 135 392
Nam Yên 436 1387
Phò Nam 320 1094
Tà Lang 113 356
Giàn Bí 134 438
Tổng số 1272 4202
Nguồn: Báo cáo UBND xã Hòa Bắc 6 tháng đầu năm 2018
Xã Hòa Bắc là nơi có cộng đồng Cơ tu di cư từ vùng núi cao phía tây Quảng
Nam - Đà Nẵng đến định cư lập làng. Sau quá trình tản cư rồi sát nhập các dân
làng còn sót lại từ nhiều thôn (Tà Lang, Giàn Bí, Hồ Ô, Khai Vô, Tổ Sơn, Sarây)
thì hiện nay họ sinh sống cố định ở khu vực xã Hòa Bắc, với hai thôn lớn là Tà
Lang và Giàn Bí. Thuộc toạ độ địa lý ở khoảng 160
11’
vĩ độ bắc, 1070
,9’
kinh độ
đông. Thôn Tà Lang - Giàn Bí ở độ cao khoảng 200m so với mực nước biển cách
thành phố Đà Nẵng khoảng 20km, gần một giờ đi ôtô. Thôn nằm ngay trên tuyến
đường Hồ Chí Minh (đoạn Sơn La - Tuý Loan và đường tỉnh lộ DT601) nên điều
kiện giao lưu với đồng bằng thuận lợi.
Hai thôn Tà Lang - Giàn Bí có vị trí địa lý đặc thù và nguồn tài nguyên tự
nhiên đa dạng, phong phú. Là vùng đệm giữa khu bảo tồn thiên nhiên Bà Nà - Núi
chúa và vườn quốc gia Bạch Mã. Hai thôn được hình thành từ những dãy núi với
độ cao trung bình 200m so với mặt nước biển và các dòng sông, suối, tạo ra những
thác ghềnh tuyệt đẹp, những cánh rừng nguyên sinh đa dạng.
21
Nơi đây là điểm thượng nguồn của sông Cu Đê đổ vào vịnh Đà Nẵng, tạo
thành một tuyến du lịch kết hợp đường bộ và đường sông. Khách du lịch sẽ có
nhiều trải nghiệm thú vị, có dịp được chiêm ngưỡng cảnh đẹp của núi non, sông
suối, vừa hùng vĩ nhưng cũng rất nên thơ. Trong tương lai, khi khu du lịch cộng
đồng tại Tà Lang và Giàn Bí đi vào hoạt động sẽ đem lại cho khách du lịch ấn
tượng không chỉ về cảnh đẹp của thiên nhiên mà còn cả biết bao sự bất ngờ, thú vị
về văn hóa, phong tục tập quán của con người nơi đây.
1.2.2. Lịch sử hình thành tộc người
Người Cơ tu ở nước ta hiện nay có khoảng 61.588 người (2009) [2, tr.34], thuộc
nhóm ngôn ngữ Môn - Khơ me, ngữ hệ Nam Á. Lịch sử cư trú của họ về cơ bản chưa
được xác định một cách chắc chắn. Theo L. Schrock và nhóm đồng tác giả nhận định
rằng vùng sinh sống của họ vốn ở miền duyên hải nhưng vì những biến thiên của lịch
sử (do áp lực của tộc người Việt trong quá trình Nam tiến hoặc do sự khắc nghiệt của
khí hậu) buộc họ phải lên vùng cao [2, tr.35]. Dân tộc Cơ tu là cư dân cư trú lâu đời ở
Việt Nam, chủ yếu sống ở vùng Quảng Nam (3 huyện: Đông Giang, Tây Giang và Nam
Giang); huyện Hòa Vang của Đà Nẵng; số còn lại tập trung trên triền núi phía Tây huyện
Phú lộc và tây nam huyện A Lưới, tỉnh Thừa Thiên Huế.
Tộc danh Cơ tu đã được biết đến lâu đời trong lịch sử. Tên dân tộc này có nhiều
cách gọi và viết khác nhau như: Katu, K’tu, Cà tu, Cơ tu, Cơ tu… Theo cách giải
nghĩa của đồng bào, tu có nghĩa là “ngọn”. Cơ tu là “người sống đầu ngọn nước”, trên
vùng rẻo cao. Về mặt nhân chủng học, người Cơ tu có tính thống nhất, trên cơ sở hai
loại hình Andorediong và phân chủng Monggoloit phương Nam. Tiếng Cơ tu có thể
được xem là đại diện cho nhóm Môn - Khmer ở Bắc Trung bộ và Trung Trung bộ
Việt Nam. Mặc dầu ngôn ngữ có sự khác nhau giữa Cơ tu vùng cao và Cơ tu vùng
thấp nhưng Cơ tu vẫn là dân tộc tương đối thống nhất về ngôn ngữ cũng như các mặt
văn hóa xã hội. Trong luận văn này, chúng tôi thống nhất sử dụng tên gọi Cơ tu theo
bảng danh mục thành phần các dân tộc Việt Nam (1979).
Nói về nguồn gốc tộc người Cơ tu, trong công trình nghiên cứu “Vài nét về sự hình
thành các dân tộc ít người Quảng Nam”, của tác giả Đặng Nghiêm Vạn, ông cho rằng
người Cơ tu là cư dân bản địa miền Trung Đông Dương, có nguồn gốc với nhóm Việt
22
Mường. Tổ tiên của họ vốn cư trú trên một địa bàn rộng lớn nhưng tổ tiên người Chàm đã
tách họ ra khỏi tổ tiên Việt - Mường [63, tr.20]. Cùng với quá trình phân tách này là sự co
dần lãnh thổ của họ về phía núi. Sau đó, do xảy ra những xung đột về quyền lợi đất đai
giữa các nhóm cư dân Môn - Kh’
mer; những cuộc chiến tranh với người Chàm (từ thế kỷ
XII - XVI), với người Xiêm (thế kỷXVII - XIX), người Lào (thế kỷXVI - XVII) và người
Việt (từ thế kỷ XVI trở đi), đã quy tụ họ trở lại trên địa bàn sinh sống chính là miền núi
Quảng Nam hiện nay.
Bàn về nguồn gốc tộc người Cơ tu, nhà Nhân học Mỹ Robert Mole cho rằng,
người Cơ tu từng di cư xuống thung lũng của sông Mékong và sau đó họ lại dời lên núi
trở lại hoặc có thể đi xuống tận bờ biển Trung Hoa và bị buộc phải trở lại núi [2, tr.35-
36]. Trong phạm vi cư trú của họ ở Việt Nam hiện nay, J.L. Schrock và nhóm đồng tác
giả lại nhận định: vùng sinh sống của người Katu vốn ở vùng duyên hải và di chuyển
đến vùng đất hiện nay do áp lực của tộc người Việt trong quá trình Nam tiến.
Với địa hình hẹp như miền Trung Việt Nam, hiện tượng khai thác tập trung
và làm cạn dần ưu thế ở những mặt bằng tương đối thuận lợi ở chân sườn đông
của dãy Trường Sơn, sẽ dẫn con người tiến về đỉnh dốc. Đó chính là nguyên nhân
tạo nên sự chuyển cư từ đông sang tây của những tộc người sống trên địa bàn này.
Có ý kiến cho rằng, “Người Katu đã tồn tại một cách tương đối bất ổn định.
Họ buộc phải tránh xa biển dần, nơi có những thung lũng ẩm thấp và tiến đến xây
dựng làng ở những sườn núi cao, sinh sống bằng nghề trồng trọt, dù rất khó khăn và
kém hiệu quả” [67, tr.108].
Trên bản đồ phân bố tộc người, ngoài bộ phận cư trú mật tập ở núi rừng phía
tây Đà Nẵng và tây bắc Quảng Nam, người Cơ tu còn có hai nhóm cư trú về phía
đông, khá cận biển. Đó là cộng đồng Cơ tu cư trú tại các xã Hòa Phú và Hòa Bắc,
huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng. Sự hiện diện của họ ở các địa phương này
nhắc nhở người nghiên cứu lưu tâm đến vùng đất sinh sống xưa kia của họ.
Có thể nói rằng, quá trình phân ly tộc người Cơ tu trong lịch sử đã thể hiện xu
hướng chia nhỏ và chia tách. Từ tộc người Cơ tu thống nhất được chia thành nhiều
nhóm khác nhau như Cơ tu vùng cao, Cơ tu vùng thấp và Cơ tu vùng giữa (chủ yếu
23
là hai nhóm cao và thấp). Nguồn gốc của các nhóm Cơ tu cũng như các mối liên hệ
được thể hiện rõ nét qua những người Cơ tu thuộc các vùng định cư hiện nay.
Bên cạnh xu hướng phân chia như một quy luật phát triển tất yếu của lịch sử,
quá trình tộc người Cơ tu còn biểu hiện xu hướng hợp nhất với ba trạng thái chủ yếu
là cố kết, đồng hóa và hòa hợp. Quá trình cố kết cộng đồng Cơ tu từ các vùng cư trú
của nhóm vùng cao, vùng thấp và với các tộc người có những quan hệ gần gũi với
nhau về nguồn gốc, ngôn ngữ, văn hóa đã và đang diễn ra.
Cùng với xu hướng cố kết cộng đồng thì tộc người còn có hiện tượng đồng
hóa, sự đồng hóa khá mạnh mẽ thể hiện trong quá trình tiếp xúc, giao lưu cận cư lâu
ngày với người Kinh đã tiếp thu và làm thay đổi một số thành tố văn hóa vật chất
cũng như tinh thần như cách ăn mặc, nhà ở, tổ chức cúng giỗ, cưới hỏi… Tuy nhiên,
trong quá trình tiếp xúc, giao lưu đó, dù có những biến đổi nhưng các phong tục
truyền thống trong đời sống sinh hoạt vẫn được đồng bào ý thức, duy trì mang tính
phù hợp song song với văn hóa Kinh. Vậy nên về cơ bản có thể nói rằng, quá trình
lịch sử của tộc người diễn ra đồng thời hai xu hướng chính là sự cố kết và hòa hợp
giữa các tộc người.
1.2.3. Đời sống kinh tế - xã hội
1.2.3.1. Về đời sống kinh tế
Những năm đầu mới thành lập, vùng nông thôn miền núi Hòa Vang vô cùng
nghèo nàn, lạc hậu cả về kinh tế lẫn văn hóa - xã hội. Toàn xã Hòa Bắc có dân số
trên 4202 nhân khẩu [60] (trong đó cộng đồng Cơ tu có khoảng 749 nhân khẩu); xã
Hòa Phú có 5343 nhân khẩu (trong đó cộng đồng Cơ tu có khoảng 443 nhân khẩu)
không có một công trình cơ sở hạ tầng nào, ngoài tuyến đường độc đạo ĐT604 nối
liền miền núi với miền xuôi được cấp phối đá hộc thì các tuyến giao thông còn lại
hoàn toàn đường đất đỏ "nắng bụi, mưa bùn", thôn làng chỉ là những mái nhà sàn
tranh tre lụp xụp, cuộc sống người dân khá khó khăn, kham khổ, đói ăn và thiếu mặc.
Do sinh sống trong môi trường rừng núi với địa hình chính là đồi dốc nên
đồng bào chọn canh tác nương rẫy làm sinh kế chính, khai thác các sản phẩm từ rừng.
Năng suất lương thực thu được từ nương rẫy không ổn định.
24
Cùng với chủ trương định canh của nhà nước, cây lúa nước và nền nông
nghiệp lúa nước đã từng bước thâm nhập, góp phần thay đổi cơ cấu kinh tế truyền
thống của tộc người. Họ được hướng dẫn làm quen với cây lúa nước, với các kỹ thuật
canh tác và chăm bón, song do nhiều nguyên nhân khác nhau (tâm lý và thói quen,
tập quán, tín ngưỡng, vốn, công cụ, kỹ thuật…), cây lúa nước vẫn chưa là chỗ dựa
hoàn toàn đáng tin cậy cho tộc người. Đồng bào vẫn xem nương rẫy là nguồn sống
cơ bản của mình tuy rằng hoạt động sinh kế này không hoàn toàn đảm bảo được
nguồn lương thực cơ bản cho đời sống cộng đồng. Do đó, để làm phong phú thêm
cho hoạt động sinh kế, họ duy trì thêm hình thức hái lượm, săn bắt, đánh cá (ở sông,
suối). Những hoạt động này tuy mang tính chất bổ trợ song có tác dụng rất quan trọng
đối với tính chất tự túc của họ trong cuộc sống thường nhật hay trong những lúc mất
mùa, giáp hạt.
Hiện tại, trong cơ cấu kinh tế của xã Hòa Bắc nói chung, nơi cộng đồng người
Cơ tu đang tập trung cư trú thì nông nghiệp vẫn đóng vai trò chủ yếu, với 85 ha diện
tích đất trồng lúa, 300 ha diện tích đất trồng rau màu như mía, bắp, ớt, thuốc lá. Các
hoạt động kinh tế khác gồm có chăn nuôi, đan lát, rèn, mộc và trao đổi hàng hóa.
1.2.3.2. Về đời sống xã hội
Toàn xã Hòa Bắc có 9 thôn bố trí dọc ven sông Cu Đê. Dân số xã Hòa Bắc có
hơn 1272 hộ, trong đó dân tộc Cơ tu là 247 hộ với trên 794 nhân khẩu, sinh sống ở
hai thôn Tà Lang và Giàn Bí.
Trong thời gian qua, tranh thủ nguồn vốn từ chương trình mục tiêu quốc gia
xây dựng nông thôn mới của Trung ương, của thành phố, của huyện Hòa Vang, xã
Hòa Bắc cũng đã từng bước đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng, cơ sở vật chất nâng cao
đời sống cho người dân. Ở thôn Tà Lang - Giàn Bí hiện có nhiều thuận lợi từ hệ
thống giao thông đến cơ sở hạ tầng điện nước, mạng điện thoại di động. Tình hình
an ninh trật tự bảo đảm, không xuất hiện tệ nạn xã hội. Khu tái định cư Tà Lang -
Giàn Bí đang được Hoàn thiện hạ tầng kỹ thuật, trở thành cụm dân cư khang trang,
tạo điều kiện thuận lợi có thể phát triển loại hình lưu trú homesay trong tương lai.
Đến nay tại địa bàn xã, hệ thống hạ tầng kỹ thuật được đầu tư và nâng cấp, đường
giao thông được bê tông hóa 100%, trạm y tế đạt chuẩn quốc gia, 100% hộ dân sử
25
dụng điện lưới quốc gia, trường học đạt chuẩn theo quy định của ngành giáo dục
thành phố. Cả xã được trang bị hệ thống trường học từ mầm non (01 trường mẫu giáo
trung tâm và 07 trường lẻ phân bố tại 7 thôn xã), tiểu học (01 trường trung tâm và 07
trường lẻ phân bố ở 7 thôn) đến THCS (01 trường THCS trung tâm nằm ở thôn Phò
Nam), có 01 trạm y tế trung tâm nằm gần trụ sở UBND xã Hòa Bắc và 01 trạm xá
quân dân y kết hợp tại thôn Giàn Bí.
Tuy có các thuận lợi ở trên song về cơ bản, Hòa Bắc vẫn là một xã miền núi
với địa hình phức tạp, dân cư thưa thớt, vùng đồng bằng bị ngập lụt, vùng núi cao
thiếu nước. Hiện nay người dân địa phương ở Tà Lang - Giàn Bí đa số vẫn nghèo bởi
đời sống kinh tế phụ thuộc vào thiên nhiên, hiện tượng khai thác rừng quá mức để
phục vụ sinh kế nhưng chưa gắn với ý thức bảo vệ tài nguyên và môi trường một
cách phù hợp cho sự phát triển bền vững trong tương lai. Trình độ dân trí hạn chế
nên còn khó khăn trong việc tiếp cận và giao lưu.
Tổ chức cộng đồng người Cơ tu theo chế độ phụ hệ, con lấy họ theo cha, chỉ
con trai mới được thừa hưởng gia tài. Mỗi dòng họ tộc người đều có tên gọi riêng,
và có những kiêng cử riêng của dòng họ mình. Khi sống, các thành viên trong dòng
họ có trách nhiệm cưu mang, giúp đỡ lẫn nhau, khi chết được chôn cất bên nhau
trong bãi mộ chung của làng. Đồng bào có phong tục làm nhà mồ, chung quanh mộ
dựng nhiều tượng gỗ, không có tục cúng giỗ, tảo mộ [45, tr.22].
Tiểu kết chương 1
Với sự tiếp cận đến các lý thuyết chung, các định nghĩa từ các nhà khoa học
về tộc người, bản sắc và các yếu tố biến đổi bản sắc tộc người nói chung trong tiến
trình đô thị hóa, bước đầu luận văn đã định hướng được các phương pháp chủ đạo để
tìm kiếm các nội dung bao quát ban đầu về địa bàn cư trú, nguồn gốc tộc người, và
giá trị văn hóa truyền thống của tộc người Cơ tu ở xã Hòa Bắc, huyện Hòa Vang,
thành phố Đà Nẵng.
Là một làng miền núi nằm ở phía tây thành phố Đà Nẵng, cộng đồng tộc người
Cơ tu ở Hòa Bắc hiện nay khoảng 800 người. Với vị trí địa lý đặc thù và nguồn tài
26
nguyên tự nhiên đa dạng, phong phú, có tiềm năng để phát triển loại hình du lịch
cộng đồng trong tương lai.
Do địa bàn sinh sống gần gũi với người Kinh, đồng thời cùng với quá trình đô
thị hóa diễn ra mạnh mẽ của Đà Nẵng dẫn đến những sự biến đổi mang tính tất yếu
trên các mặt đời sống kinh tế xã hội. Tuy nhiên, dưới góc độ văn hóa, vấn đề mai
một các giá trị truyền thống tộc người cần được nhìn nhận một cách sâu sắc và tổng
thể để có định hướng phát triển phù hợp mà đồng thời vẫn bảo tồn được các giá trị
đặc trưng của văn hóa tộc người Cơ tu nơi đây.
27
Chương 2
VĂN HÓA VẬT CHẤT TRUYỀN THỐNG CỦA NGƯỜI CƠ TU TẠI XÃ
HÒA BẮC HUYỆN HÒA VANG, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
Khi bàn về văn hóa truyền thống của tộc người, các nhà nghiên cứu văn hóa
nói chung, nghiên cứu Việt Nam học nói riêng thường đề cập đến nội hàm văn hóa
truyền thống bao gồm 2 thành tố, 3 thành tố hoặc hơn 3 thành tố… Ví dụ nội hàm có
2 thành tố là văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần; 3 thành tố là văn hóa vật chất,
văn hóa tinh thần, văn hóa xã hội; trên 3 thành tố là văn hóa vật chất, văn hóa tinh
thần, văn hóa sản xuất, văn hóa xã hội. Trong luận văn này, để làm rõ hơn những
điểm nhấn nổi bật trong giá trị văn hóa vật chất rất đa dạng, phong phú của tộc người
Cơ tu tại địa bàn nghiên cứu, chúng tôi sẽ tiếp cận nghiên cứu nội hàm văn hóa vật
chất của đồng bào theo biểu hiện sau:
Hình 2.1. Sơ đồ các thành tố văn hóa vật chất
2.1. Làng, nhà ở
Làng (tiếng Cơ tu gọi là vel hay vil) là tổ chức xã hội quan trọng nhất trong số
những hợp phần tổ chức cấu thành nên văn hóa, xã hội tộc người. Đây là một đơn vị
kinh tế độc lập, tách biệt, tự cung tự cấp và có một quá trình hình thành lâu dài trong
lịch sử. Mỗi làng có một ranh giới được phân định bằng con sông, ngọn núi, quả đồi,
khu rừng, gốc cây cổ thụ hay tảng đá lớn… Mọi sự vi phạm cương vực của làng đều
được xét xử với nhiều hình phạt tuỳ theo mức độ nặng nhẹ. Làng có một nguồn nước
chung, khu rừng thiêng, vùng núi săn bắn, các vùng đất canh tác của các thành viên
làng, và ngôi nhà sinh hoạt chung của làng (Gươl). Tên gọi làng thường lấy theo tên
khe suối, thác nước, loại cây rừng… các tên gọi gắn liền nơi sinh sống gắn bó sâu
Phương
tiện đi lại
Làng,
nhà cửa
Trang
phục
Văn hoá vật chất
Công cụ
lao động
sản xuất
Ẩm thực
28
sắc với cộng đồng qua thời gian [2; tr. 74]. Làng Cơ tu truyền thống là dạng làng
phòng thủ, nhà ở xếp theo hình bán nguyệt, bầu dục, thường là hình vành khuyên,
chung quanh có hàng rào kiên cố bảo vệ. Mỗi làng là một tập hợp các gia đình phụ
hệ cư trú chung và giữa các gia đình thường có quan hệ họ hàng thân thuộc, gần xa
bởi huyết thống và hôn nhân. Chế độ tự quản của làng được thực thi đơn giản nhưng
chặt chẽ, hiệu quả thông qua vai trò của già làng (Tacóh pơơ), vận hành trên cơ sở
luật tục dưới dạng phong tục tập quán, đề cao truyền thống trọng người già và tập
tính cộng đồng cao. Về cơ bản, cấu trúc ngôi làng truyền thống thường phải đảm bảo
đủ các thành tố là cổng làng (mở về hướng mặt trời mọc), hàng rào làng, máng nước,
kho thóc và nghĩa địa chung.
Hình 2.2: Bình đồ một làng truyền thống của người Cơ tu
Nguồn: [19; tr. 77 ]
Gươl (hay gual/ gol) về cả tên gọi và chức năng đều gần gũi với ron/ rong
(Bana, Bru, Tarai), kong (Khmu)… Trong tiếng Cơ tu, gươl có nghĩa là cộng đồng,
điều này còn thể hiện rõ nét qua chức năng của gươl. Gươl được xây dựng sau khi
các ngôi nhà trong làng xây xong và là công trình của tập thể với sự góp công sức
của toàn thể dân làng, gắn ba chức năng chính, gắn kết với nhau: chức năng hành
chính, chức năng sinh hoạt văn hóa cộng đồng và chức năng bảo tồn văn hóa. Chính vì
lẽ đó mà nhà gươl là nơi tụ họp của dân làng, nơi tiếp khách, nơi diễn ra những nghi lễ
linh thiêng… Bên cạnh đó, đây còn là nhà dành riêng cho những chàng trai chưa vợ,
đồng thời những thanh niên này cũng có nhiệm vụ trông coi và săn sóc chu đáo cho ngôi
nhà chung của làng. Nhà gươl được xem là chốn linh thiêng, nơi trú ngụ của hồn tổ tiên,
những người chết tốt, nên phụ nữ không được vào.
29
Nhà gươl truyền thống bao giờ cũng được xây cất rất cẩn thận. Toàn bộ vật
liệu dùng cho việc xây dựng đều có nguồn gốc từ núi rừng. Đặc điểm lớn nhất của
nhà gươl là dạng nhà sàn lớn tựa trên một cột cái - cột biểu tượng cho sức mạnh cộng
đồng. Hai mái nhà gươl dốc, hai đầu hồi hình vòng cung. Hệ thống cột, xà, vì
kèo liên kết với nhau bằng kĩ thuật khá đơn giản. Nét độc đáo nhất của nhà gươl
chính là cây cột giữa, được người Cơ tu gọi là cây “cột bố” - thể hiện chế độ phụ hệ.
Hình dáng và trang trí của nó có các motif thiêng như mặt trời, mặt trăng, ngôi sao,
chim, gà, rắn, rồng, rùa, dương vật, trống, cối giã gạo…
Theo già làng Bùi Văn Cầm - ở thôn Giàn Bí xã Hòa Bắc chia sẻ: “Thời gian
để xây dựng nhà gươl thường mất khoảng 2-3 tháng và thường tổ chức khi mặt trời
vừa mọc”. Quy trình dựng nhà bắt đầu bằng việc dựng cây cột bố, sau khi cây cột này
được dựng ngay ngắn, già làng sẽ lấy nước nguồn tinh khiết tắm cho cột cái, sau đó
cầu mong thần linh phù hộ cho làng. Sau đó sáu cây “cột cái” và 6 “cột con” được
dựng song song hai bên theo hướng từ đông sang tây. Nhà gươl thường có ba xà
dọc và một xà ngang ghép với đầu cột hai cây cột chính đầu hồi. Hệ thống xà, cột và
các đòn nóc là cơ sở tạo cho kiến trúc ngôi nhà thêm vững chắc. Phía trên có 3-5
kèo để đặt mái. Mái được đan lát công phu và lợp bằng hai lớp mái (mây, tranh)
phía dưới là sàn nhà với hình chữ nhật, được lót bằng những tấm đan lồ ô, vỏ cây
đập dập hoặc ván gỗ được nâng đỡ bởi một hệ thống dầm ngang và dọc ở dưới gầm.
Vách nhà Gươl được dựng một lớp lồ ô đan hoặc gỗ ván. Đối với loại vách làm
bằng gỗ ván dọc mọc, dày khoảng 10cm, đòi hỏi phải đẽo gọt tinh tế, trên bề mặt
có kết hợp điêu khắc và trang trí hoa văn.
Có thể nói gươl tượng trưng cho sức mạnh cộng đồng. Gươl càng cao to,
hoành tráng thì càng chứng tỏ tiềm lực và sức mạnh đoàn kết của dân làng. Đặc biệt,
các cột cái, nhiều người cho rằng nó tượng trưng cho uy thế của chủ làng và sự hưng
thịnh của làng. Nó càng to, càng đẹp bao nhiêu thì thân phận của làng càng vững chắc,
vị thế của làng càng được củng cố. Về cơ bản, vai trò chức năng của ngôi nhà là
thống nhất nhưng những motif trang trí điêu khắc thường thấy trên các cột cái
của nhà Gươl là không giống nhau, có thể lý giải bằng tín ngưỡng nội bộ cộng
đồng làng hay sự kiêng kị thờ cúng của người Cơ tu.
30
Trước nhà gươl luôn có một cột tế. Cột tế thường làm bằng gỗ của một loại
cây đặc biệt gọi là kron/kloong trong tiếng Cơ tu, play/bloong trong tiếng Bana,
Jarai, gòn trong tiếng Việt miền Trung và Nam và gạo trong tiếng Việt miền Bắc.
Với đặc điểm mềm, dẻo nên gỗ gạo rất hợp cho việc điêu khắc cột tế.
Bên cạnh sinh hoạt cộng đồng chung và nhà gươl, mỗi gia đình, nhiều nhất là
ba bốn thế hệ sẽ cùng chung sống trong một ngôi nhà ở riêng, đó là nhà sàn. Đây là
phương tiện cư trú gắn với bản làng đồng bào. Theo luật tục, các thành viên trong
làng có quyền tự do lựa chọn đất đai trong phạm vi để xây dựng ngôi nhà của mình
và có nghĩa vụ tuân theo các quy định của luật tục.
Nhà sàn được xây dựng cũng như nhà gươl với sự tham gia góp sức của
cả cộng đồng nhưng quy mô nhỏ hơn. Trước đây, sàn thường cao trên 2m, được
làm theo kiểu mái tròn, độ dài ngắn, cao thấp của các nhà không hoàn toàn giống
nhau tùy thuộc vào số người trong nhà và các nguyên liệu sẵn có trong vùng. Nhà ở
của người Cơ tu nhỏ và thấp, phần lớn là một gia đình cư trú. Nóc hình “mai rùa”
giống như nhà người Giẻ - Triêng. Bộ khung nhà có kết cấu đơn giản, các cột được
chôn sâu xuống đất nhằm tạo sự vững chãi và tăng khả năng chống chịu với tự nhiên.
Sàn nhà thông thóang được làm bằng nứa đập dập lát trên hệ thống xà ngang, dọc
cách mặt đất chừng 50cm. Để tăng khả năng chịu lực cho sàn, người ta thường chôn
các cột phụ có chiều cao đến mặt sàn để làm giá đỡ cho cả sàn. Phần liên kết
sàn có thể khoét những ngoãm đỡ, gá đỡ hoặc được khoét các mộng hở. Ngoài
hai hàng cột sau và trước, các cột đầu hồi cũng có tác dụng chịu lực quan trọng từ
bộ mái. Ở hai đầu hồi, người ta còn tạo một cánh cung bằng gỗ để liên kết các cột
đầu hồi với hai cây cột hành trước, sau kề sát và được uốn cong khi gỗ còn tươi nhằm
tránh nứt, vỡ.
Ngôi nhà được che kín bởi các liếp tre nứa nối từ sàn đến bờ mép mái. Mái
lợp bằng tranh, lá nón, lá kè… trên hệ thống đòn tay, rui, mè, bằng tre, nứa uốn hình
bầu dục phía hai đầu hồi. Bên dưới những thanh nứa uốn cong này là các thanh gỗ
nhỏ xếp thành hình rẽ quạt nối từ đòn nóc đến các cột con. Ngôi nhà sàn thường
có hai cửa ra vào và cửa thông gió ở phía đầu hồi nhưng nhìn chung không gian nội
thất thường thiếu ánh sáng, chật chội.
31
Nhà của người Cơ tu thường có khoảng 3 cửa ra vào trong đó cửa chính được
mở ngay vách trước hai cửa phụ ở phía đầu hồi, các cửa được đóng và mở bằng các
lớp phên tre. Do sàn nhà không quá cao nên cầu thang lên xuống tương đối đơn giản,
đó có thể là thanh gỗ đẽo những gờ đơn giản hay thang tre, thỉnh thoảng mới có cây
gỗ với những bậc thang tạo hình đầu trâu cách điệu.
Cũng như gươl, nhà sàn cũng có nhiều bếp lửa, gồm hai bếp lửa đối xứng
theo chiều ngang qua cây cột cái, một bếp dành cho người đàn ông và khách ở
phía phải ngôi nhà bếp, bếp còn lại dành cho người phụ nữ. Nơi thiêng liêng nhất
của ngôi nhà là khoảng không gian từ cây cột cái đến vách sau. Đây cũng là nơi
cất giữ những đồ vật quý (gùi của cải và lúa giống), là nơi đồng bào thực hiện
những nghi lễ liên quan đến chu kỳ đời người.
2.2. Ẩm thực
Bên cạnh nhu cầu tất yếu của con người để đảm bảo sự sinh tồn và phát triển, thì
ẩm thực còn mang một giá trị văn hóa độc đáo riêng của mỗi cộng đồng góp phần tạo
nên bản sắc vùng miền. Sống trong điều kiện tự nhiên khác nhau đã khiến cho mỗi dân
tộc có một cách kiếm sống phù hợp và trong ăn uống cũng có những đặc trưng riêng
biệt. Xuất phát từ nền kinh tế nương rẫy, điểm nổi bật trong cách ăn uống của người Cơ
tu là mang đậm yếu tố tự cung tự cấp, đóng kín. Trước khi định canh định cư như bây
giờ, nguồn thức ăn chủ yếu của đồng bào là sản phẩm từ nương rẫy và một ít từ săn bắn,
hái lượm. Họ quan niệm ăn uống chỉ là phương tiện để sinh tồn nên cơ cấu bữa ăn khá
đơn giản theo kiểu mùa nào thức nấy. Với các đặc tính sau:
- Đặc tính đơn giản, ít nghi thức, mang đậm yếu tố tự cung tự cấp trong
cơ cấu bữa ăn, trong cách thức tổ chức bữa ăn. Đây chính là sự thích nghi trong
ăn uống của con người với môi trường sống.
Theo già làng Bùi Văn Cầm 85 tuổi, ở thôn Giàn Bí chia sẻ: Những đồ ăn
thức uống của tộc người là những thứ được chế biến từ sản phẩm của núi rừng,
là những sản phẩm do đồng bào tự làm ra, không phải qua mua bán. Đó là các
loại lương thực, thực phẩm từ trồng trọt, chăn nuôi, săn bắn, thu nhặt từ núi
rừng, sông suối như: lúa, ngô, khoai, sắn, các loại thịt rừng, thịt gia súc, gia cầm,
cá hay các loại nhuyễn thể… Vào mùa xuân, mùa hạ thì nguồn rau, thực phẩm
32
dồi dào, bữa ăn đa dạng, phong phú. Vào mùa thu, mùa đông, ăn uống trở nên
đạm bạc, đơn giản do ít rau củ, ít thú săn… Những lúc được mùa thì gia đình
nào cũng ăn nhiều, ăn no, lúc mất mùa, lúc giáp hạt thì không đủ lương thực ăn.
Họ có thói quen ăn hai bữa chính (sáng và chiều), bữa trưa là bữa ăn phụ.
Điều này bị chi phối bởi tính chất của công việc canh tác nương rẫy quy định,
họ thường phải đi bộ vào rừng làm rẫy, rừng, cách khu định cư khoảng 2-3km
vì vậy để tiết kiệm thời gian trong ngày thì họ hạn chế về nhà nấu bữa trưa.
Trong các bữa ăn, đồng bào chú ý số lượng hơn là chất lượng thức ăn. Khi ăn
uống họ ít mời mọc, ít có sự phân biệt ngôi thứ, tuổi tác, chỉ những lúc cần thiết
tại khu vực linh thiêng (như nhà gươl) thì mới có sự phân công vai vế già trẻ…
Trong bữa ăn tính đơn giản thể hiện rõ nhất trong cách chế biến món ăn, đồng
bào ít pha chế, ít dùng gia vị, chủ yếu chỉ có luộc và nướng thức ăn.
- Tính cộng đồng được thể hiện rất cao.
Đây là đặc tính tiêu biểu trong ăn uống của tộc người được thể hiện qua
bày biện thức ăn: Thức ăn bày ra chỉ chú ý tới tính tiện dụng, đơn giản. Đặc biệt,
đồng bào có tục chia phần ăn trong các ngày lễ hội của làng. Khi chia phần ăn
dù có mặt hay không, mọi thành viên trong cộng đồng đều có phần. Già làng Bùi
Văn Cầm cho biết: “Thời kỳ trước đây đứa trẻ còn nằm trong bụng mẹ, hay
khách đến chơi đều được chia phần như các thành viên khác”. Tính cộng đồng
còn được thể hiện trong không gian ăn uống, trong số lượng người tham gia vào
các bữa ăn. Khi ăn uống, nam nữ ăn riêng. Bữa tối, đàn ông thường mang đồ ăn thức
uống ra nhà gươl để cùng ăn và trò chuyện. Tộc người rất hiếu khách, vì thế khi
khách đến chơi sẽ được bố trí ở nhà “gươl” và đến bữa các gia đình sẽ mang đồ ăn
ra nhà “gươl” cho khách vì thế khách sẽ ăn của mỗi nhà một ít. Vào các dịp lễ tết,
hội hè, ma chay, cưới xin…, các gia đình dù ít dù nhiều đều chung nhau đóng
góp và có mặt đông đủ tại gia chủ đứng ra chủ trì. Ở cả ba vùng Quảng Nam, Đà
Nẵng, Nam Đông biểu hiện văn hóa đều giống nhau ở khía cạnh này.
Hình 2.3. Sơ đồ bố trí bàn ăn của người Cơ tu (trong nhà và ngoài sân)
33
- Ăn uống của người Cơ tu thường không có kế hoạch, lãng phí dẫn đến tình
trạng thừa mà lại thiếu. Điều này thể hiện trong các dịp lễ hội, đồng bào thường
bỏ ra một khối lượng thức ăn rất lớn, vượt ra ngoài yêu cầu cần thiết. Đây cũng
là những dịp họ ăn uống thoải mái thừa thải, mà không nghĩ đến việc tích trữ tiêu
dùng vào những vụ giáp hạt, đói kém… Đối với cộng đồng, ý thức tiết kiệm hầu
như không được chú trọng phù hợp. Hiện nay tình trạng này vẫn còn khá phổ
biến. Vào những dịp hội hè, ma chay, cưới hỏi… họ tổ chức ăn uống thoải mái,
thậm chí chấp nhận phải trả nợ đến mấy năm sau.
Hộp số 1: Phỏng vấn anh Đinh Văn Như - thôn Giàn Bí
34
Trưởng thôn Giàn Bí (xã Hòa Bắc), anh Đinh Văn Như kể lại rằng: “Khi đến
những ngày lễ hội ví như mừng lúa mới, buôn anh thường chuẩn bị rất nhiều
thức ăn làm lễ cúng tế thần linh: trai tráng vào rừng săn thú, phụ nữ bắt ốc, cá,
ủ rượu, nấu xôi, làm bánh, làm thịt nhiều heo, gà… chuẩn bị gọt đẽo cây đâm
một con trâu lớn để ăn mừng sau khi nghi lễ đâm trâu Hoàn thành, cầu mong
những điều tốt lành cho dân làng, mong mùa bội thu, mưa thuận gió Hòa để làm
ăn sinh sống, mùa nào thức nấy cũng sum suê no cơm ấm bụng cho tất cả mọi
người”. Chính vì vậy, họ không tiếc công sức, của cải chuẩn bị thật nhiều, và
dư dã hơn cả số lượng người dân làng, vì quan niệm như vậy thì cả năm sẽ luôn
được no nê sung sướng, không thiếu ăn thiếu mặc. (Nguồn: Tài liệu điền dã tháng
4/2018).
- Ăn bằng tay (ăn bốc) là tập quán khá phổ biến trong các thời kỳ trước
đây của đồng bào.
Ăn bốc là tập quán từ xa xưa của đồng bào, họ ít dùng bát đũa như người
Kinh. Tập quán này có cái lợi là gọn nhẹ, dễ xử lý trong khi ăn. Họ cũng quan
niệm gạo là hạt ngọc trời ban vì vậy phải ăn bằng tay (ăn bốc) nâng niu những
thứ quý giá trời đất ban tặng để luôn được đầy đủ sung túc.
- Ăn uống của người Cơ tu mang tính thực dụng nhiều hơn là thẩm mỹ và
đôi lúc còn mang tính tâm linh.
Trong một khoảng thời gian dài trước đây, đối với đồng bào, ăn uống chỉ
là nhu cầu tất yếu, là điều kiện đảm bảo sự sinh tồn. Sống giữa vùng núi non,
luôn bị cái đói đe doạ, hành hạ nên họ chưa xem ăn uống như là một nghệ thuật,
một chuẩn mực xã hội. Họ chỉ kiêng ăn những động, thực vật mà tộc người xem
là tổ vật, vật kiêng được truyền dạy từ quan niệm lâu đời của tổ tiên.
Hộp số 2: Phỏng vấn già làng Bùi Văn Cầm - thôn Giàn Bí
35
Già làng lớn tuổi nhất hiện nay tại thôn Giàn Bí (xã Hòa Bắc) - ông Bùi Văn Cầm kể
lại rằng: “Trước đây, đi săn được gì thì ăn nấy, săn thú lớn (sơn dương, trâu rừng,
heo rừng, nai…) thì để đầu, xương lại thờ ở gươl hoặc nhà chủ nhân để thể hiện tài
năng, còn thịt sẽ đem chia đều cho cả làng (nội tạng thì kỵ chỉ ăn mỗi thứ một nửa
còn một nửa chia ra nhà khác). Dân ở đây thường mổ trâu, lợn, gà ăn mừng vào
những ngày làng có việc vui; nhưng vào những dịp ấy kỵ nhất là ăn thịt bò vì con bò
có da màu đỏ không được ăn, đồng bào cho đó là con vật biểu hiện tin xấu như
trường hợp làng có tang ma “chết xấu”, ví như khi làng có phụ nữ mang thai rồi
chết hay làng có người bị các tai nạn hay tự tử chết thì cả làng phải bỏ đi đốt hết
làng để tìm đất tốt hơn lập làng mới (hoặc đợi 3 tháng 10 ngày nhờ người làng khác
đến dùng rượu tắm từng người trong làng để hóa phép cho sạch điềm xấu rồi mới
được cất làng mới ở), chỉ những ngày như thế hay mổ bò ăn. Hay phụ nữ Cơ tu kỵ
ăn con trút (tê tê) vì con vật này thường có tập quán sống trong hang ăn kiến chỉ đến
chu kỳ mồng 5, ngày 30, ngày rằm mới chui ra ngoài kiếm ăn vì vậy phụ nữ ăn sẽ
khó sinh con…” (Nguồn: Tài liệu điền dã tháng 4/2018).
- Do nhiều nguyên nhân tác động nên đối với người Cơ tu, khâu chế biến, nhất
là bảo quản thức ăn ít được chú ý. Đối với đồng bào đồ ăn trong các bữa ăn thường
“chặt to, kho mặn”. Họ ít có kinh nghiệm trong việc bảo quản thức ăn. Phương thức
để dành chủ yếu là phơi khô hay dầm muối hoặc treo lên dàn bếp.
Hộp số 3: Phỏng vấn chị Đinh Thị Hồng - thôn Giàn Bí
Khi quan sát sự chuẩn bị món ăn của các mâm cỗ ngày cưới truyền thống, hay những
bữa ăn hằng ngày của đồng bào hiện nay, chúng tôi cũng dễ dàng nhận thấy những
món ăn cùng cách chế biến đơn giản, nhanh gọn của họ… Chị Đinh Thị Hồng (tên
Cơ tu là Y vân Hồng) 31 tuổi, thôn Giàn Bí chia sẻ: “Thức ăn ở đây làm rất đơn
giản, ít cầu kỳ trong gia vị sao cho nhanh và tiện”. Ví dụ: “cá bắt từ sông suối về sẽ
được làm sạch sơ, xuyên que ngang nướng mọi trên dàn bếp chín rồi ăn kèm với
muối ớt, thịt heo rừng sau khi giết mổ làm sạch, chia nhỏ thành miếng lớn khổ dài”.
Có 2 cách chế biến: 1 là “để nguyên khổ thịt móc lên thanh sắt dàn bếp để tháng này
qua tháng nọ hun khói bếp nóng khô (săn thịt) thịt và chín”, hoặc “chặt thành nhiều
cục nhỏ hơn thêm mắm muối kho lại ăn”. Ngoài ra, có thể “muối” thịt bỏ hũ ngâm
cho mặn dự trữ ăn dần… Các loại nước nấu từ lá cây như chè dây, đậu mùn thì chỉ
cần làm sạch, đun với nước sôi là uống được. (Nguồn: Tài liệu điền dã tháng 4/2018).
- Uống rượu và hút thuốc là một trong những tập quán khá phổ biến và
lâu đời của đồng bào.
Luận văn: Văn hóa vật chất của người Cơ tu ở xã Hòa Bắc, HAY
Luận văn: Văn hóa vật chất của người Cơ tu ở xã Hòa Bắc, HAY
Luận văn: Văn hóa vật chất của người Cơ tu ở xã Hòa Bắc, HAY
Luận văn: Văn hóa vật chất của người Cơ tu ở xã Hòa Bắc, HAY
Luận văn: Văn hóa vật chất của người Cơ tu ở xã Hòa Bắc, HAY
Luận văn: Văn hóa vật chất của người Cơ tu ở xã Hòa Bắc, HAY
Luận văn: Văn hóa vật chất của người Cơ tu ở xã Hòa Bắc, HAY
Luận văn: Văn hóa vật chất của người Cơ tu ở xã Hòa Bắc, HAY
Luận văn: Văn hóa vật chất của người Cơ tu ở xã Hòa Bắc, HAY
Luận văn: Văn hóa vật chất của người Cơ tu ở xã Hòa Bắc, HAY
Luận văn: Văn hóa vật chất của người Cơ tu ở xã Hòa Bắc, HAY
Luận văn: Văn hóa vật chất của người Cơ tu ở xã Hòa Bắc, HAY
Luận văn: Văn hóa vật chất của người Cơ tu ở xã Hòa Bắc, HAY
Luận văn: Văn hóa vật chất của người Cơ tu ở xã Hòa Bắc, HAY
Luận văn: Văn hóa vật chất của người Cơ tu ở xã Hòa Bắc, HAY
Luận văn: Văn hóa vật chất của người Cơ tu ở xã Hòa Bắc, HAY
Luận văn: Văn hóa vật chất của người Cơ tu ở xã Hòa Bắc, HAY
Luận văn: Văn hóa vật chất của người Cơ tu ở xã Hòa Bắc, HAY
Luận văn: Văn hóa vật chất của người Cơ tu ở xã Hòa Bắc, HAY
Luận văn: Văn hóa vật chất của người Cơ tu ở xã Hòa Bắc, HAY
Luận văn: Văn hóa vật chất của người Cơ tu ở xã Hòa Bắc, HAY
Luận văn: Văn hóa vật chất của người Cơ tu ở xã Hòa Bắc, HAY
Luận văn: Văn hóa vật chất của người Cơ tu ở xã Hòa Bắc, HAY
Luận văn: Văn hóa vật chất của người Cơ tu ở xã Hòa Bắc, HAY
Luận văn: Văn hóa vật chất của người Cơ tu ở xã Hòa Bắc, HAY
Luận văn: Văn hóa vật chất của người Cơ tu ở xã Hòa Bắc, HAY
Luận văn: Văn hóa vật chất của người Cơ tu ở xã Hòa Bắc, HAY
Luận văn: Văn hóa vật chất của người Cơ tu ở xã Hòa Bắc, HAY
Luận văn: Văn hóa vật chất của người Cơ tu ở xã Hòa Bắc, HAY
Luận văn: Văn hóa vật chất của người Cơ tu ở xã Hòa Bắc, HAY
Luận văn: Văn hóa vật chất của người Cơ tu ở xã Hòa Bắc, HAY
Luận văn: Văn hóa vật chất của người Cơ tu ở xã Hòa Bắc, HAY
Luận văn: Văn hóa vật chất của người Cơ tu ở xã Hòa Bắc, HAY
Luận văn: Văn hóa vật chất của người Cơ tu ở xã Hòa Bắc, HAY
Luận văn: Văn hóa vật chất của người Cơ tu ở xã Hòa Bắc, HAY
Luận văn: Văn hóa vật chất của người Cơ tu ở xã Hòa Bắc, HAY
Luận văn: Văn hóa vật chất của người Cơ tu ở xã Hòa Bắc, HAY
Luận văn: Văn hóa vật chất của người Cơ tu ở xã Hòa Bắc, HAY
Luận văn: Văn hóa vật chất của người Cơ tu ở xã Hòa Bắc, HAY
Luận văn: Văn hóa vật chất của người Cơ tu ở xã Hòa Bắc, HAY
Luận văn: Văn hóa vật chất của người Cơ tu ở xã Hòa Bắc, HAY
Luận văn: Văn hóa vật chất của người Cơ tu ở xã Hòa Bắc, HAY
Luận văn: Văn hóa vật chất của người Cơ tu ở xã Hòa Bắc, HAY
Luận văn: Văn hóa vật chất của người Cơ tu ở xã Hòa Bắc, HAY
Luận văn: Văn hóa vật chất của người Cơ tu ở xã Hòa Bắc, HAY
Luận văn: Văn hóa vật chất của người Cơ tu ở xã Hòa Bắc, HAY
Luận văn: Văn hóa vật chất của người Cơ tu ở xã Hòa Bắc, HAY
Luận văn: Văn hóa vật chất của người Cơ tu ở xã Hòa Bắc, HAY
Luận văn: Văn hóa vật chất của người Cơ tu ở xã Hòa Bắc, HAY
Luận văn: Văn hóa vật chất của người Cơ tu ở xã Hòa Bắc, HAY
Luận văn: Văn hóa vật chất của người Cơ tu ở xã Hòa Bắc, HAY
Luận văn: Văn hóa vật chất của người Cơ tu ở xã Hòa Bắc, HAY
Luận văn: Văn hóa vật chất của người Cơ tu ở xã Hòa Bắc, HAY
Luận văn: Văn hóa vật chất của người Cơ tu ở xã Hòa Bắc, HAY
Luận văn: Văn hóa vật chất của người Cơ tu ở xã Hòa Bắc, HAY
Luận văn: Văn hóa vật chất của người Cơ tu ở xã Hòa Bắc, HAY
Luận văn: Văn hóa vật chất của người Cơ tu ở xã Hòa Bắc, HAY
Luận văn: Văn hóa vật chất của người Cơ tu ở xã Hòa Bắc, HAY
Luận văn: Văn hóa vật chất của người Cơ tu ở xã Hòa Bắc, HAY
Luận văn: Văn hóa vật chất của người Cơ tu ở xã Hòa Bắc, HAY
Luận văn: Văn hóa vật chất của người Cơ tu ở xã Hòa Bắc, HAY
Luận văn: Văn hóa vật chất của người Cơ tu ở xã Hòa Bắc, HAY
Luận văn: Văn hóa vật chất của người Cơ tu ở xã Hòa Bắc, HAY
Luận văn: Văn hóa vật chất của người Cơ tu ở xã Hòa Bắc, HAY
Luận văn: Văn hóa vật chất của người Cơ tu ở xã Hòa Bắc, HAY
Luận văn: Văn hóa vật chất của người Cơ tu ở xã Hòa Bắc, HAY

More Related Content

What's hot

Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Nhà Nước Về Di Sản Văn Hóa,9đ
Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Nhà Nước Về Di Sản Văn Hóa,9đLuận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Nhà Nước Về Di Sản Văn Hóa,9đ
Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Nhà Nước Về Di Sản Văn Hóa,9đDịch vụ Làm Luận Văn 0936885877
 
Luận án: Nghiên cứu một số nhân tố ảnh hưởng đến phát triển du lịch cộng đồng...
Luận án: Nghiên cứu một số nhân tố ảnh hưởng đến phát triển du lịch cộng đồng...Luận án: Nghiên cứu một số nhân tố ảnh hưởng đến phát triển du lịch cộng đồng...
Luận án: Nghiên cứu một số nhân tố ảnh hưởng đến phát triển du lịch cộng đồng...Viết thuê trọn gói ZALO 0934573149
 
Luận văn: Giải pháp tạo việc làm cho thanh niên nông thôn, HAY
Luận văn: Giải pháp tạo việc làm cho thanh niên nông thôn, HAYLuận văn: Giải pháp tạo việc làm cho thanh niên nông thôn, HAY
Luận văn: Giải pháp tạo việc làm cho thanh niên nông thôn, HAYViết thuê trọn gói ZALO 0934573149
 

What's hot (20)

Luận văn: Quản lý Nhà nước về di tích lịch sử - văn hóa tỉnh Đắk Lắk
Luận văn: Quản lý Nhà nước về di tích lịch sử - văn hóa tỉnh Đắk LắkLuận văn: Quản lý Nhà nước về di tích lịch sử - văn hóa tỉnh Đắk Lắk
Luận văn: Quản lý Nhà nước về di tích lịch sử - văn hóa tỉnh Đắk Lắk
 
Luận văn: Quản lý Di tích đền An Sinh tỉnh Quảng Ninh, HAY, 9đ
Luận văn: Quản lý Di tích đền An Sinh tỉnh Quảng Ninh, HAY, 9đLuận văn: Quản lý Di tích đền An Sinh tỉnh Quảng Ninh, HAY, 9đ
Luận văn: Quản lý Di tích đền An Sinh tỉnh Quảng Ninh, HAY, 9đ
 
Luận văn: Quản lý di tích đình - đền Hào Nam tại Hà Nội, HAY, 9đ
Luận văn: Quản lý di tích đình - đền Hào Nam tại Hà Nội, HAY, 9đLuận văn: Quản lý di tích đình - đền Hào Nam tại Hà Nội, HAY, 9đ
Luận văn: Quản lý di tích đình - đền Hào Nam tại Hà Nội, HAY, 9đ
 
Đề tài: Bảo tồn văn hóa truyền thống của người Dao Thanh Phán, 9đ
Đề tài: Bảo tồn văn hóa truyền thống của người Dao Thanh Phán, 9đĐề tài: Bảo tồn văn hóa truyền thống của người Dao Thanh Phán, 9đ
Đề tài: Bảo tồn văn hóa truyền thống của người Dao Thanh Phán, 9đ
 
Luận văn: Phát triển làng nghề truyền thống huyện Triệu Phong, HAY!
Luận văn: Phát triển làng nghề truyền thống huyện Triệu Phong, HAY!Luận văn: Phát triển làng nghề truyền thống huyện Triệu Phong, HAY!
Luận văn: Phát triển làng nghề truyền thống huyện Triệu Phong, HAY!
 
Luận văn: Quản lý nhà nước về văn hóa ở thị xã Phú Thọ, HOT, 9đ
Luận văn: Quản lý nhà nước về văn hóa ở thị xã Phú Thọ, HOT, 9đLuận văn: Quản lý nhà nước về văn hóa ở thị xã Phú Thọ, HOT, 9đ
Luận văn: Quản lý nhà nước về văn hóa ở thị xã Phú Thọ, HOT, 9đ
 
Luận án: Lễ hội Phủ Dầy trong đời sống văn hóa cộng đồng, HAY
Luận án: Lễ hội Phủ Dầy trong đời sống văn hóa cộng đồng, HAYLuận án: Lễ hội Phủ Dầy trong đời sống văn hóa cộng đồng, HAY
Luận án: Lễ hội Phủ Dầy trong đời sống văn hóa cộng đồng, HAY
 
Đề tài: Quản lý lễ hội truyền thống Phủ Quảng Cung ở Nam Định
Đề tài: Quản lý lễ hội truyền thống Phủ Quảng Cung ở Nam ĐịnhĐề tài: Quản lý lễ hội truyền thống Phủ Quảng Cung ở Nam Định
Đề tài: Quản lý lễ hội truyền thống Phủ Quảng Cung ở Nam Định
 
Luận văn: Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Mường
Luận văn: Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc MườngLuận văn: Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Mường
Luận văn: Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Mường
 
Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Nhà Nước Về Di Sản Văn Hóa,9đ
Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Nhà Nước Về Di Sản Văn Hóa,9đLuận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Nhà Nước Về Di Sản Văn Hóa,9đ
Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Nhà Nước Về Di Sản Văn Hóa,9đ
 
Luận văn: Xây dựng nông thôn mới ở huyện Mỹ Hào, Hưng Yên, HOT
Luận văn: Xây dựng nông thôn mới ở huyện Mỹ Hào, Hưng Yên, HOTLuận văn: Xây dựng nông thôn mới ở huyện Mỹ Hào, Hưng Yên, HOT
Luận văn: Xây dựng nông thôn mới ở huyện Mỹ Hào, Hưng Yên, HOT
 
Luận án: Nghiên cứu một số nhân tố ảnh hưởng đến phát triển du lịch cộng đồng...
Luận án: Nghiên cứu một số nhân tố ảnh hưởng đến phát triển du lịch cộng đồng...Luận án: Nghiên cứu một số nhân tố ảnh hưởng đến phát triển du lịch cộng đồng...
Luận án: Nghiên cứu một số nhân tố ảnh hưởng đến phát triển du lịch cộng đồng...
 
Luận văn: Tư tưởng Nho, Phật của Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Dữ
Luận văn: Tư tưởng Nho, Phật của Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn DữLuận văn: Tư tưởng Nho, Phật của Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Dữ
Luận văn: Tư tưởng Nho, Phật của Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Dữ
 
Luận án: Kinh tế du lịch theo hướng phát triển bền vững ở Huế
Luận án: Kinh tế du lịch theo hướng phát triển bền vững ở HuếLuận án: Kinh tế du lịch theo hướng phát triển bền vững ở Huế
Luận án: Kinh tế du lịch theo hướng phát triển bền vững ở Huế
 
Luận án: Bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hoá (1998 - 2014)
Luận án: Bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hoá (1998 - 2014)Luận án: Bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hoá (1998 - 2014)
Luận án: Bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hoá (1998 - 2014)
 
Luận văn: Văn hóa của người Khmer trong phát triển du lịch, HAY
Luận văn: Văn hóa của người Khmer trong phát triển du lịch, HAYLuận văn: Văn hóa của người Khmer trong phát triển du lịch, HAY
Luận văn: Văn hóa của người Khmer trong phát triển du lịch, HAY
 
Đề tài: Quản lý hoạt động văn hóa tại Trung tâm văn hóa Bắc Ninh
Đề tài: Quản lý hoạt động văn hóa tại Trung tâm văn hóa Bắc NinhĐề tài: Quản lý hoạt động văn hóa tại Trung tâm văn hóa Bắc Ninh
Đề tài: Quản lý hoạt động văn hóa tại Trung tâm văn hóa Bắc Ninh
 
Luận văn: Giải pháp tạo việc làm cho thanh niên nông thôn, HAY
Luận văn: Giải pháp tạo việc làm cho thanh niên nông thôn, HAYLuận văn: Giải pháp tạo việc làm cho thanh niên nông thôn, HAY
Luận văn: Giải pháp tạo việc làm cho thanh niên nông thôn, HAY
 
Đề tài: Bảo tồn di sản văn hóa tài liệu, hiện vật ở Bảo tàng HCM
Đề tài: Bảo tồn di sản văn hóa tài liệu, hiện vật ở Bảo tàng HCMĐề tài: Bảo tồn di sản văn hóa tài liệu, hiện vật ở Bảo tàng HCM
Đề tài: Bảo tồn di sản văn hóa tài liệu, hiện vật ở Bảo tàng HCM
 
Lv: Nghiên cứu phát triển du lịch theo hướng bền vững tại thành phố Đồng Hới
Lv: Nghiên cứu phát triển du lịch theo hướng bền vững tại thành phố Đồng HớiLv: Nghiên cứu phát triển du lịch theo hướng bền vững tại thành phố Đồng Hới
Lv: Nghiên cứu phát triển du lịch theo hướng bền vững tại thành phố Đồng Hới
 

Similar to Luận văn: Văn hóa vật chất của người Cơ tu ở xã Hòa Bắc, HAY

Luận Văn Vai Trò Của Hệ Thống Chính Trị Trong Việc Giữ Gìn Bản Sắc Văn Hóa Dâ...
Luận Văn Vai Trò Của Hệ Thống Chính Trị Trong Việc Giữ Gìn Bản Sắc Văn Hóa Dâ...Luận Văn Vai Trò Của Hệ Thống Chính Trị Trong Việc Giữ Gìn Bản Sắc Văn Hóa Dâ...
Luận Văn Vai Trò Của Hệ Thống Chính Trị Trong Việc Giữ Gìn Bản Sắc Văn Hóa Dâ...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0936 885 877
 
Luận văn thạc sĩ tôn giáo: Lễ hội truyền thống đối với đời sống người dân
Luận văn thạc sĩ tôn giáo: Lễ hội truyền thống đối với đời sống người dânLuận văn thạc sĩ tôn giáo: Lễ hội truyền thống đối với đời sống người dân
Luận văn thạc sĩ tôn giáo: Lễ hội truyền thống đối với đời sống người dânDịch vụ Làm Luận Văn 0936885877
 
Khoá Luận Tốt Nghiệp Người Việt Di Cư Tự Do Ở Cộng Hòa Dân Chủ Nhân Dân Lào (...
Khoá Luận Tốt Nghiệp Người Việt Di Cư Tự Do Ở Cộng Hòa Dân Chủ Nhân Dân Lào (...Khoá Luận Tốt Nghiệp Người Việt Di Cư Tự Do Ở Cộng Hòa Dân Chủ Nhân Dân Lào (...
Khoá Luận Tốt Nghiệp Người Việt Di Cư Tự Do Ở Cộng Hòa Dân Chủ Nhân Dân Lào (...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0936 885 877
 
Tiểu Luận Cơ Sở Văn Hóa Việt Nam - Ẩm Thực Văn Hóa Của người Việt
Tiểu Luận Cơ Sở Văn Hóa Việt Nam - Ẩm Thực Văn Hóa Của người ViệtTiểu Luận Cơ Sở Văn Hóa Việt Nam - Ẩm Thực Văn Hóa Của người Việt
Tiểu Luận Cơ Sở Văn Hóa Việt Nam - Ẩm Thực Văn Hóa Của người ViệtDịch vụ Làm Luận Văn 0936885877
 
Bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa truyền thống dân tộc Xơ Đăng - Gửi miễn ph...
 Bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa truyền thống dân tộc Xơ Đăng - Gửi miễn ph... Bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa truyền thống dân tộc Xơ Đăng - Gửi miễn ph...
Bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa truyền thống dân tộc Xơ Đăng - Gửi miễn ph...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Luận văn thạc sĩ.
Luận văn thạc sĩ.Luận văn thạc sĩ.
Luận văn thạc sĩ.ssuser499fca
 
Xây dựng đời sống văn hóa tinh thần ở tỉnh Bắc Giang hiện nay
Xây dựng đời sống văn hóa tinh thần ở tỉnh Bắc Giang hiện nayXây dựng đời sống văn hóa tinh thần ở tỉnh Bắc Giang hiện nay
Xây dựng đời sống văn hóa tinh thần ở tỉnh Bắc Giang hiện nayDịch vụ Làm Luận Văn 0936885877
 
Luận văn: Sinh kế hiện nay của người Xơ Đăng ở tỉnh Kon Tum - Gửi miễn phí qu...
Luận văn: Sinh kế hiện nay của người Xơ Đăng ở tỉnh Kon Tum - Gửi miễn phí qu...Luận văn: Sinh kế hiện nay của người Xơ Đăng ở tỉnh Kon Tum - Gửi miễn phí qu...
Luận văn: Sinh kế hiện nay của người Xơ Đăng ở tỉnh Kon Tum - Gửi miễn phí qu...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
QUÂN LÝ DI SÂN VĂN HỐ LÀNG CỦA NGƯỜI MƯỜNG TỈNH HỊA BÌNH VỚI PHÁT TRIỂN DU LỊ...
QUÂN LÝ DI SÂN VĂN HỐ LÀNG CỦA NGƯỜI MƯỜNG TỈNH HỊA BÌNH VỚI PHÁT TRIỂN DU LỊ...QUÂN LÝ DI SÂN VĂN HỐ LÀNG CỦA NGƯỜI MƯỜNG TỈNH HỊA BÌNH VỚI PHÁT TRIỂN DU LỊ...
QUÂN LÝ DI SÂN VĂN HỐ LÀNG CỦA NGƯỜI MƯỜNG TỈNH HỊA BÌNH VỚI PHÁT TRIỂN DU LỊ...TieuNgocLy
 

Similar to Luận văn: Văn hóa vật chất của người Cơ tu ở xã Hòa Bắc, HAY (20)

Luận Văn Vai Trò Của Hệ Thống Chính Trị Trong Việc Giữ Gìn Bản Sắc Văn Hóa Dâ...
Luận Văn Vai Trò Của Hệ Thống Chính Trị Trong Việc Giữ Gìn Bản Sắc Văn Hóa Dâ...Luận Văn Vai Trò Của Hệ Thống Chính Trị Trong Việc Giữ Gìn Bản Sắc Văn Hóa Dâ...
Luận Văn Vai Trò Của Hệ Thống Chính Trị Trong Việc Giữ Gìn Bản Sắc Văn Hóa Dâ...
 
Luận văn thạc sĩ tôn giáo: Lễ hội truyền thống đối với đời sống người dân
Luận văn thạc sĩ tôn giáo: Lễ hội truyền thống đối với đời sống người dânLuận văn thạc sĩ tôn giáo: Lễ hội truyền thống đối với đời sống người dân
Luận văn thạc sĩ tôn giáo: Lễ hội truyền thống đối với đời sống người dân
 
Đề tài: Quản lí lễ hội đình làng Ngọc Tân tỉnh Phú Thọ, HAY, 9đ
Đề tài: Quản lí lễ hội đình làng Ngọc Tân tỉnh Phú Thọ, HAY, 9đĐề tài: Quản lí lễ hội đình làng Ngọc Tân tỉnh Phú Thọ, HAY, 9đ
Đề tài: Quản lí lễ hội đình làng Ngọc Tân tỉnh Phú Thọ, HAY, 9đ
 
Đề tài: Di sản văn hóa Thái với du lịch lòng hồ sông Đà, HOT
Đề tài: Di sản văn hóa Thái với  du lịch lòng hồ sông Đà, HOTĐề tài: Di sản văn hóa Thái với  du lịch lòng hồ sông Đà, HOT
Đề tài: Di sản văn hóa Thái với du lịch lòng hồ sông Đà, HOT
 
Khoá Luận Tốt Nghiệp Người Việt Di Cư Tự Do Ở Cộng Hòa Dân Chủ Nhân Dân Lào (...
Khoá Luận Tốt Nghiệp Người Việt Di Cư Tự Do Ở Cộng Hòa Dân Chủ Nhân Dân Lào (...Khoá Luận Tốt Nghiệp Người Việt Di Cư Tự Do Ở Cộng Hòa Dân Chủ Nhân Dân Lào (...
Khoá Luận Tốt Nghiệp Người Việt Di Cư Tự Do Ở Cộng Hòa Dân Chủ Nhân Dân Lào (...
 
Luận văn: Vai trò của hệ thống chính trị trong giữ gìn bản sắc văn hóa
Luận văn: Vai trò của hệ thống chính trị trong giữ gìn bản sắc văn hóaLuận văn: Vai trò của hệ thống chính trị trong giữ gìn bản sắc văn hóa
Luận văn: Vai trò của hệ thống chính trị trong giữ gìn bản sắc văn hóa
 
Tiểu Luận Cơ Sở Văn Hóa Việt Nam - Ẩm Thực Văn Hóa Của người Việt
Tiểu Luận Cơ Sở Văn Hóa Việt Nam - Ẩm Thực Văn Hóa Của người ViệtTiểu Luận Cơ Sở Văn Hóa Việt Nam - Ẩm Thực Văn Hóa Của người Việt
Tiểu Luận Cơ Sở Văn Hóa Việt Nam - Ẩm Thực Văn Hóa Của người Việt
 
Bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa truyền thống dân tộc Xơ Đăng - Gửi miễn ph...
 Bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa truyền thống dân tộc Xơ Đăng - Gửi miễn ph... Bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa truyền thống dân tộc Xơ Đăng - Gửi miễn ph...
Bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa truyền thống dân tộc Xơ Đăng - Gửi miễn ph...
 
Khóa luận: Xây dựng làng văn hóa ở huyện Mỹ Hào, tỉnh Hưng Yên, HAY
Khóa luận: Xây dựng làng văn hóa ở huyện Mỹ Hào, tỉnh Hưng Yên, HAYKhóa luận: Xây dựng làng văn hóa ở huyện Mỹ Hào, tỉnh Hưng Yên, HAY
Khóa luận: Xây dựng làng văn hóa ở huyện Mỹ Hào, tỉnh Hưng Yên, HAY
 
Luận văn: Nghi lễ hôn nhân của người Tu Dí ở tỉnh Lào Cai, HAY
Luận văn: Nghi lễ hôn nhân của người Tu Dí ở tỉnh Lào Cai, HAYLuận văn: Nghi lễ hôn nhân của người Tu Dí ở tỉnh Lào Cai, HAY
Luận văn: Nghi lễ hôn nhân của người Tu Dí ở tỉnh Lào Cai, HAY
 
Luận án: Hôn nhân của người Tày ở vùng biên giới tỉnh Cao Bằng
Luận án: Hôn nhân của người Tày ở vùng biên giới tỉnh Cao BằngLuận án: Hôn nhân của người Tày ở vùng biên giới tỉnh Cao Bằng
Luận án: Hôn nhân của người Tày ở vùng biên giới tỉnh Cao Bằng
 
Đề tài: Ca trù tại làng Đông Môn huyện Thủy Nguyên, Hải Phòng
Đề tài: Ca trù tại làng Đông Môn huyện Thủy Nguyên, Hải PhòngĐề tài: Ca trù tại làng Đông Môn huyện Thủy Nguyên, Hải Phòng
Đề tài: Ca trù tại làng Đông Môn huyện Thủy Nguyên, Hải Phòng
 
Luận văn: Tang ma của người Cống ở huyện Mường Tè, Lai Châu
Luận văn: Tang ma của người Cống ở huyện Mường Tè, Lai ChâuLuận văn: Tang ma của người Cống ở huyện Mường Tè, Lai Châu
Luận văn: Tang ma của người Cống ở huyện Mường Tè, Lai Châu
 
Luận văn thạc sĩ.
Luận văn thạc sĩ.Luận văn thạc sĩ.
Luận văn thạc sĩ.
 
Xây dựng đời sống văn hóa tinh thần ở tỉnh Bắc Giang hiện nay
Xây dựng đời sống văn hóa tinh thần ở tỉnh Bắc Giang hiện nayXây dựng đời sống văn hóa tinh thần ở tỉnh Bắc Giang hiện nay
Xây dựng đời sống văn hóa tinh thần ở tỉnh Bắc Giang hiện nay
 
Đề tài: Quản lý di tích lễ hội đình Giang Võng TP Hạ Long, HOT, 9đ
Đề tài: Quản lý di tích lễ hội đình Giang Võng TP Hạ Long, HOT, 9đĐề tài: Quản lý di tích lễ hội đình Giang Võng TP Hạ Long, HOT, 9đ
Đề tài: Quản lý di tích lễ hội đình Giang Võng TP Hạ Long, HOT, 9đ
 
Luận án: Đời sống dân gian trong hoạt động bảo tàng hiện nay
Luận án: Đời sống dân gian trong hoạt động bảo tàng hiện nayLuận án: Đời sống dân gian trong hoạt động bảo tàng hiện nay
Luận án: Đời sống dân gian trong hoạt động bảo tàng hiện nay
 
Luận án: Tiếp biến văn hóa trong bối cảnh gia đình hỗn hợp dân tộc
Luận án: Tiếp biến văn hóa trong bối cảnh gia đình hỗn hợp dân tộcLuận án: Tiếp biến văn hóa trong bối cảnh gia đình hỗn hợp dân tộc
Luận án: Tiếp biến văn hóa trong bối cảnh gia đình hỗn hợp dân tộc
 
Luận văn: Sinh kế hiện nay của người Xơ Đăng ở tỉnh Kon Tum - Gửi miễn phí qu...
Luận văn: Sinh kế hiện nay của người Xơ Đăng ở tỉnh Kon Tum - Gửi miễn phí qu...Luận văn: Sinh kế hiện nay của người Xơ Đăng ở tỉnh Kon Tum - Gửi miễn phí qu...
Luận văn: Sinh kế hiện nay của người Xơ Đăng ở tỉnh Kon Tum - Gửi miễn phí qu...
 
QUÂN LÝ DI SÂN VĂN HỐ LÀNG CỦA NGƯỜI MƯỜNG TỈNH HỊA BÌNH VỚI PHÁT TRIỂN DU LỊ...
QUÂN LÝ DI SÂN VĂN HỐ LÀNG CỦA NGƯỜI MƯỜNG TỈNH HỊA BÌNH VỚI PHÁT TRIỂN DU LỊ...QUÂN LÝ DI SÂN VĂN HỐ LÀNG CỦA NGƯỜI MƯỜNG TỈNH HỊA BÌNH VỚI PHÁT TRIỂN DU LỊ...
QUÂN LÝ DI SÂN VĂN HỐ LÀNG CỦA NGƯỜI MƯỜNG TỈNH HỊA BÌNH VỚI PHÁT TRIỂN DU LỊ...
 

More from Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562

Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Kết Quả Kinh Doanh Của Các Công Ty Ngành...
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Kết Quả Kinh Doanh Của Các Công Ty Ngành...Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Kết Quả Kinh Doanh Của Các Công Ty Ngành...
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Kết Quả Kinh Doanh Của Các Công Ty Ngành...Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562
 
Vận Dụng Mô Hình Hồi Quy Ngưỡng Trong Nghiên Cứu Tác Động Của Nợ Lên Giá Trị ...
Vận Dụng Mô Hình Hồi Quy Ngưỡng Trong Nghiên Cứu Tác Động Của Nợ Lên Giá Trị ...Vận Dụng Mô Hình Hồi Quy Ngưỡng Trong Nghiên Cứu Tác Động Của Nợ Lên Giá Trị ...
Vận Dụng Mô Hình Hồi Quy Ngưỡng Trong Nghiên Cứu Tác Động Của Nợ Lên Giá Trị ...Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562
 
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Cấu Trúc Vốn Của Doanh Nghiệp Ngành Hàng...
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Cấu Trúc Vốn Của Doanh Nghiệp Ngành Hàng...Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Cấu Trúc Vốn Của Doanh Nghiệp Ngành Hàng...
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Cấu Trúc Vốn Của Doanh Nghiệp Ngành Hàng...Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562
 
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Hiệu Quả Kinh Doanh Của Các Doanh Nghiệp...
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Hiệu Quả Kinh Doanh Của Các Doanh Nghiệp...Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Hiệu Quả Kinh Doanh Của Các Doanh Nghiệp...
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Hiệu Quả Kinh Doanh Của Các Doanh Nghiệp...Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562
 
Hoàn Thiện Công Tác Thẩm Định Giá Tài Sản Bảo Đảm Trong Hoạt Động Cho Vay Tại...
Hoàn Thiện Công Tác Thẩm Định Giá Tài Sản Bảo Đảm Trong Hoạt Động Cho Vay Tại...Hoàn Thiện Công Tác Thẩm Định Giá Tài Sản Bảo Đảm Trong Hoạt Động Cho Vay Tại...
Hoàn Thiện Công Tác Thẩm Định Giá Tài Sản Bảo Đảm Trong Hoạt Động Cho Vay Tại...Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562
 
Biện Pháp Quản Lý Xây Dựng Ngân Hàng Câu Hỏi Kiểm Tra Đánh Giá Kết Quả Học Tậ...
Biện Pháp Quản Lý Xây Dựng Ngân Hàng Câu Hỏi Kiểm Tra Đánh Giá Kết Quả Học Tậ...Biện Pháp Quản Lý Xây Dựng Ngân Hàng Câu Hỏi Kiểm Tra Đánh Giá Kết Quả Học Tậ...
Biện Pháp Quản Lý Xây Dựng Ngân Hàng Câu Hỏi Kiểm Tra Đánh Giá Kết Quả Học Tậ...Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562
 
Giải Pháp Hạn Chế Nợ Xấu Đối Với Khách Hàng Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương...
Giải Pháp Hạn Chế Nợ Xấu Đối Với Khách Hàng Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương...Giải Pháp Hạn Chế Nợ Xấu Đối Với Khách Hàng Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương...
Giải Pháp Hạn Chế Nợ Xấu Đối Với Khách Hàng Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương...Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562
 
Hoàn Thiện Công Tác Đào Tạo Đội Ngũ Cán Bộ Công Chức Phường Trên Địa Bàn Quận...
Hoàn Thiện Công Tác Đào Tạo Đội Ngũ Cán Bộ Công Chức Phường Trên Địa Bàn Quận...Hoàn Thiện Công Tác Đào Tạo Đội Ngũ Cán Bộ Công Chức Phường Trên Địa Bàn Quận...
Hoàn Thiện Công Tác Đào Tạo Đội Ngũ Cán Bộ Công Chức Phường Trên Địa Bàn Quận...Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562
 
Biện Pháp Quản Lý Công Tác Tự Đánh Giá Trong Kiểm Định Chất Lượng Giáo Dục Cá...
Biện Pháp Quản Lý Công Tác Tự Đánh Giá Trong Kiểm Định Chất Lượng Giáo Dục Cá...Biện Pháp Quản Lý Công Tác Tự Đánh Giá Trong Kiểm Định Chất Lượng Giáo Dục Cá...
Biện Pháp Quản Lý Công Tác Tự Đánh Giá Trong Kiểm Định Chất Lượng Giáo Dục Cá...Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562
 

More from Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562 (20)

Nghiên Cứu Thu Nhận Pectin Từ Một Số Nguồn Thực Vật Và Sản Xuất Màng Pectin S...
Nghiên Cứu Thu Nhận Pectin Từ Một Số Nguồn Thực Vật Và Sản Xuất Màng Pectin S...Nghiên Cứu Thu Nhận Pectin Từ Một Số Nguồn Thực Vật Và Sản Xuất Màng Pectin S...
Nghiên Cứu Thu Nhận Pectin Từ Một Số Nguồn Thực Vật Và Sản Xuất Màng Pectin S...
 
Phát Triển Cho Vay Hộ Kinh Doanh Tại Ngân Hàng Nông Nghiệp Và Phát Triển Nông...
Phát Triển Cho Vay Hộ Kinh Doanh Tại Ngân Hàng Nông Nghiệp Và Phát Triển Nông...Phát Triển Cho Vay Hộ Kinh Doanh Tại Ngân Hàng Nông Nghiệp Và Phát Triển Nông...
Phát Triển Cho Vay Hộ Kinh Doanh Tại Ngân Hàng Nông Nghiệp Và Phát Triển Nông...
 
Nghiên Cứu Nhiễu Loạn Điện Áp Trong Lưới Điện Phân Phối.doc
Nghiên Cứu Nhiễu Loạn Điện Áp Trong Lưới Điện Phân Phối.docNghiên Cứu Nhiễu Loạn Điện Áp Trong Lưới Điện Phân Phối.doc
Nghiên Cứu Nhiễu Loạn Điện Áp Trong Lưới Điện Phân Phối.doc
 
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Kết Quả Kinh Doanh Của Các Công Ty Ngành...
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Kết Quả Kinh Doanh Của Các Công Ty Ngành...Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Kết Quả Kinh Doanh Của Các Công Ty Ngành...
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Kết Quả Kinh Doanh Của Các Công Ty Ngành...
 
Xây Dựng Công Cụ Sinh Dữ Liệu Thử Tự Động Cho Chương Trình Java.doc
Xây Dựng Công Cụ Sinh Dữ Liệu Thử Tự Động Cho Chương Trình Java.docXây Dựng Công Cụ Sinh Dữ Liệu Thử Tự Động Cho Chương Trình Java.doc
Xây Dựng Công Cụ Sinh Dữ Liệu Thử Tự Động Cho Chương Trình Java.doc
 
Phát Triển Công Nghiệp Huyện Điện Bàn Tỉnh Quảng Nam.doc
Phát Triển Công Nghiệp Huyện Điện Bàn Tỉnh Quảng Nam.docPhát Triển Công Nghiệp Huyện Điện Bàn Tỉnh Quảng Nam.doc
Phát Triển Công Nghiệp Huyện Điện Bàn Tỉnh Quảng Nam.doc
 
Phát Triển Kinh Tế Hộ Nông Dân Trên Địa Bàn Huyện Quảng Ninh, Tỉnh Quảng Bình...
Phát Triển Kinh Tế Hộ Nông Dân Trên Địa Bàn Huyện Quảng Ninh, Tỉnh Quảng Bình...Phát Triển Kinh Tế Hộ Nông Dân Trên Địa Bàn Huyện Quảng Ninh, Tỉnh Quảng Bình...
Phát Triển Kinh Tế Hộ Nông Dân Trên Địa Bàn Huyện Quảng Ninh, Tỉnh Quảng Bình...
 
Vận Dụng Mô Hình Hồi Quy Ngưỡng Trong Nghiên Cứu Tác Động Của Nợ Lên Giá Trị ...
Vận Dụng Mô Hình Hồi Quy Ngưỡng Trong Nghiên Cứu Tác Động Của Nợ Lên Giá Trị ...Vận Dụng Mô Hình Hồi Quy Ngưỡng Trong Nghiên Cứu Tác Động Của Nợ Lên Giá Trị ...
Vận Dụng Mô Hình Hồi Quy Ngưỡng Trong Nghiên Cứu Tác Động Của Nợ Lên Giá Trị ...
 
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Cấu Trúc Vốn Của Doanh Nghiệp Ngành Hàng...
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Cấu Trúc Vốn Của Doanh Nghiệp Ngành Hàng...Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Cấu Trúc Vốn Của Doanh Nghiệp Ngành Hàng...
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Cấu Trúc Vốn Của Doanh Nghiệp Ngành Hàng...
 
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Hiệu Quả Kinh Doanh Của Các Doanh Nghiệp...
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Hiệu Quả Kinh Doanh Của Các Doanh Nghiệp...Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Hiệu Quả Kinh Doanh Của Các Doanh Nghiệp...
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Hiệu Quả Kinh Doanh Của Các Doanh Nghiệp...
 
Hoàn Thiện Công Tác Thẩm Định Giá Tài Sản Bảo Đảm Trong Hoạt Động Cho Vay Tại...
Hoàn Thiện Công Tác Thẩm Định Giá Tài Sản Bảo Đảm Trong Hoạt Động Cho Vay Tại...Hoàn Thiện Công Tác Thẩm Định Giá Tài Sản Bảo Đảm Trong Hoạt Động Cho Vay Tại...
Hoàn Thiện Công Tác Thẩm Định Giá Tài Sản Bảo Đảm Trong Hoạt Động Cho Vay Tại...
 
Biện Pháp Quản Lý Xây Dựng Ngân Hàng Câu Hỏi Kiểm Tra Đánh Giá Kết Quả Học Tậ...
Biện Pháp Quản Lý Xây Dựng Ngân Hàng Câu Hỏi Kiểm Tra Đánh Giá Kết Quả Học Tậ...Biện Pháp Quản Lý Xây Dựng Ngân Hàng Câu Hỏi Kiểm Tra Đánh Giá Kết Quả Học Tậ...
Biện Pháp Quản Lý Xây Dựng Ngân Hàng Câu Hỏi Kiểm Tra Đánh Giá Kết Quả Học Tậ...
 
Hoàn Thiện Công Tác Huy Động Vốn Tại Ngân Hàng Tmcp Công Thương Việt Nam Chi ...
Hoàn Thiện Công Tác Huy Động Vốn Tại Ngân Hàng Tmcp Công Thương Việt Nam Chi ...Hoàn Thiện Công Tác Huy Động Vốn Tại Ngân Hàng Tmcp Công Thương Việt Nam Chi ...
Hoàn Thiện Công Tác Huy Động Vốn Tại Ngân Hàng Tmcp Công Thương Việt Nam Chi ...
 
Ánh Xạ Đóng Trong Không Gian Mêtric Suy Rộng.doc
Ánh Xạ Đóng Trong Không Gian Mêtric Suy Rộng.docÁnh Xạ Đóng Trong Không Gian Mêtric Suy Rộng.doc
Ánh Xạ Đóng Trong Không Gian Mêtric Suy Rộng.doc
 
Giải Pháp Hạn Chế Nợ Xấu Đối Với Khách Hàng Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương...
Giải Pháp Hạn Chế Nợ Xấu Đối Với Khách Hàng Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương...Giải Pháp Hạn Chế Nợ Xấu Đối Với Khách Hàng Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương...
Giải Pháp Hạn Chế Nợ Xấu Đối Với Khách Hàng Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương...
 
Hoàn Thiện Công Tác Đào Tạo Đội Ngũ Cán Bộ Công Chức Phường Trên Địa Bàn Quận...
Hoàn Thiện Công Tác Đào Tạo Đội Ngũ Cán Bộ Công Chức Phường Trên Địa Bàn Quận...Hoàn Thiện Công Tác Đào Tạo Đội Ngũ Cán Bộ Công Chức Phường Trên Địa Bàn Quận...
Hoàn Thiện Công Tác Đào Tạo Đội Ngũ Cán Bộ Công Chức Phường Trên Địa Bàn Quận...
 
Giải Pháp Marketing Cho Dịch Vụ Ngân Hàng Điện Tử Tại Ngân Hàng Tmcp Hàng Hải...
Giải Pháp Marketing Cho Dịch Vụ Ngân Hàng Điện Tử Tại Ngân Hàng Tmcp Hàng Hải...Giải Pháp Marketing Cho Dịch Vụ Ngân Hàng Điện Tử Tại Ngân Hàng Tmcp Hàng Hải...
Giải Pháp Marketing Cho Dịch Vụ Ngân Hàng Điện Tử Tại Ngân Hàng Tmcp Hàng Hải...
 
Biện Pháp Quản Lý Công Tác Tự Đánh Giá Trong Kiểm Định Chất Lượng Giáo Dục Cá...
Biện Pháp Quản Lý Công Tác Tự Đánh Giá Trong Kiểm Định Chất Lượng Giáo Dục Cá...Biện Pháp Quản Lý Công Tác Tự Đánh Giá Trong Kiểm Định Chất Lượng Giáo Dục Cá...
Biện Pháp Quản Lý Công Tác Tự Đánh Giá Trong Kiểm Định Chất Lượng Giáo Dục Cá...
 
Kiểm Soát Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngành Xây Dựng Tại Nhtmcp Công Thương...
Kiểm Soát Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngành Xây Dựng Tại Nhtmcp Công Thương...Kiểm Soát Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngành Xây Dựng Tại Nhtmcp Công Thương...
Kiểm Soát Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngành Xây Dựng Tại Nhtmcp Công Thương...
 
Diễn Ngôn Lịch Sử Trong Biên Bản Chiến Tranh 1-2 -3- 4.75 Của Trần Mai Hạnh.doc
Diễn Ngôn Lịch Sử Trong Biên Bản Chiến Tranh 1-2 -3- 4.75 Của Trần Mai Hạnh.docDiễn Ngôn Lịch Sử Trong Biên Bản Chiến Tranh 1-2 -3- 4.75 Của Trần Mai Hạnh.doc
Diễn Ngôn Lịch Sử Trong Biên Bản Chiến Tranh 1-2 -3- 4.75 Của Trần Mai Hạnh.doc
 

Recently uploaded

PHÁT TRIỂN DU LỊCH BỀN VỮNG Ở TUYÊN QUANG
PHÁT TRIỂN DU LỊCH BỀN VỮNG Ở TUYÊN QUANGPHÁT TRIỂN DU LỊCH BỀN VỮNG Ở TUYÊN QUANG
PHÁT TRIỂN DU LỊCH BỀN VỮNG Ở TUYÊN QUANGhoinnhgtctat
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfCampbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfTrnHoa46
 
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptx
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptxpowerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptx
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptxAnAn97022
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfhoangtuansinh1
 
Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................TrnHoa46
 
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docxTHAO316680
 
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIGIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIĐiện Lạnh Bách Khoa Hà Nội
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
sách sinh học đại cương   -   Textbook.pdfsách sinh học đại cương   -   Textbook.pdf
sách sinh học đại cương - Textbook.pdfTrnHoa46
 
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoáCác điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoámyvh40253
 
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdfchuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdfVyTng986513
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...Nguyen Thanh Tu Collection
 

Recently uploaded (20)

PHÁT TRIỂN DU LỊCH BỀN VỮNG Ở TUYÊN QUANG
PHÁT TRIỂN DU LỊCH BỀN VỮNG Ở TUYÊN QUANGPHÁT TRIỂN DU LỊCH BỀN VỮNG Ở TUYÊN QUANG
PHÁT TRIỂN DU LỊCH BỀN VỮNG Ở TUYÊN QUANG
 
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
 
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfCampbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
 
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptx
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptxpowerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptx
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptx
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
 
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
 
Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................
 
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
 
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIGIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
sách sinh học đại cương   -   Textbook.pdfsách sinh học đại cương   -   Textbook.pdf
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
 
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoáCác điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
 
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdfchuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
 

Luận văn: Văn hóa vật chất của người Cơ tu ở xã Hòa Bắc, HAY

  • 1. s VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN THỊ NGỌC TRINH VĂN HÓA VẬT CHẤT CỦA NGƯỜI CƠ TU Ở XÃ HÒA BẮC, HUYỆN HÒA VANG, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG LUẬN VĂN THẠC SĨ VIỆT NAM HỌC Hà Nội - 2018
  • 2. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN THỊ NGỌC TRINH VĂN HÓA VẬT CHẤT CỦA NGƯỜI CƠ TU Ở XÃ HÒA BẮC, HUYỆN HÒA VANG, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG Ngành: Việt Nam học Mã số: 8.31.06.30 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. TRẦN THỊ MAI AN Hà Nội - 2018
  • 3. LỜI CAM ĐOAN Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn này là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất cứ công trình nào khác. Tác giả Nguyễn Thị Ngọc Trinh
  • 4. MỤC LỤC MỞ ĐẦU ............................................................................................................... 1 Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ TỔNG QUAN VỀ CỘNG ĐỒNG NGƯỜI CƠ TU Ở XÃ HÒA BẮC, HUYỆN HÒA VANG, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG........... 9 1.1. Cơ sở lý luận ................................................................................................... 9 1.1.1. Khái niệm trong nghiên cứu......................................................................... 9 1.1.2. Tiếp cận các lý thuyết về biến đổi văn hóa tộc người................................ 14 1.2. Tổng quan về cộng đồng người Cơ tu tại xã Hòa Bắc, huyện Hòa vang, thành phố Đà Nẵng ........................................................................................................ 18 1.2.1. Vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên .................................................................. 19 1.2.2. Lịch sử hình thành tộc người ..................................................................... 21 1.2.3. Đời sống kinh tế - xã hội............................................................................ 23 Chương 2: VĂN HÓA VẬT CHẤT TRUYỀN THỐNG CỦA NGƯỜI CƠ TU TẠI XÃ HÒA BẮC HUYỆN HÒA VANG, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG........ 27 2.1. Làng, nhà ở.................................................................................................... 27 2.2. Ẩm thực......................................................................................................... 31 2.3. Trang phục .................................................................................................... 39 2.4. Phương tiện đi lại .......................................................................................... 44 2.5. Công cụ lao động sản xuất ............................................................................ 45 Chương 3: THỰC TRẠNG BIẾN ĐỔI VÀ GIẢI PHÁP BẢO TỒN VĂN HÓA VẬT CHẤT CỦA NGƯỜI CƠ TU TẠI XÃ HÒA BẮC, HUYỆN HÒA VANG, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG.................................................................... 48 3.1. Thực trạng biến đổi văn hóa vật chất của người Cơ tu tại xã Hòa Bắc, huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng ............................................................................ 48 3.2. Nguyên nhân biến đổi văn hóa vật chất của người Cơ tu tại xã Hòa Bắc, huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng ............................................................................ 56 3.3. Thực trạng và giải pháp bảo tồn văn hóa vật chất của người Cơ tu tại xã Hòa Bắc, huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng ......................................................... 60 3.3.1. Thực trạng bảo tồn ..................................................................................... 60 3.3.2. Một số giải pháp nhằm bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa vật chất của người Cơ tu tại xã Hòa Bắc, huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng. .................. 63 KẾT LUẬN......................................................................................................... 73 TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................. 75
  • 5. DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU VÀ CHỮ VIẾT TẮT GĐ: Giám đốc Nxb: Nhà xuất bản TS: Tiến sĩ UBND: Uỷ Ban Nhân Dân VHTT: Văn hóa - Thể thao
  • 6. DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU Bảng 1.1: Dân số trên toàn xã Hòa Bắc, huyện Hòa Vang, Đà Nẵng ............20 Bảng 2.1: Một số đặc sản của đồng bào Cơ tu................................................36 Bảng 2.2: Một số trang phục truyền thống cơ bản của người Cơ tu...............40 Bảng 3.1: Chuyển biến về công cụ sản xuất ...................................................56 DANH MỤC HÌNH VẼ Hình 2.1: Sơ đồ các thành tố văn hóa vật chất................................................27 Hình 2.2: Bình đồ một làng truyền thống của người Cơ tu ...........................28 Hình 2.3: Sơ đồ bố trí bàn ăn của người Cơ tu (trong nhà và ngoài sân).......32 DANH MỤC HỘP SỐ Hộp số 1: Phỏng vấn anh Đinh Văn Như - thôn Giàn Bí ...............................33 Hộp số 2: Phỏng vấn già làng Bùi Văn Cầm - thôn Giàn Bí..........................34 Hộp số 3: Phỏng vấn chị Đinh Thị Hồng - thôn Giàn Bí................................35 Hộp số 4: Phỏng vấn anh Trương Như Huy - cán bộ Văn hóa xã..................50 Hộp số 5: Phỏng vấn chị Trần Thị Một tại nhà Gươl, thôn Giàn Bí. .............54
  • 7. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc. Xuyên suốt trường kỳ lịch sử của đất nước, văn hóa các dân tộc (tộc người) là một bộ phận không thể tách rời của nền văn hóa chung của dân tộc Việt. Trong nhiều năm qua, việc nghiên cứu văn hóa tộc người được các nhà khoa học thuộc Việt Nam học nói riêng và các ngành khác thuộc lĩnh vực khoa học xã hội rất chú trọng. Trong bối cảnh toàn cầu hóa, hiện đại hóa đất nước đang diễn ra mạnh mẽ như hiện nay, các quốc gia trên thế giới đều không ngừng giao lưu gia tăng sự hội nhập trên mọi khía cạnh đời sống kinh tế, xã hội, chính trị, văn hóa. Cùng với xu thế đổi mới đó là sự kéo theo những biến đổi mang tính tất yếu của nhiều lĩnh vực, văn hóa dân tộc Việt Nam nói chung và văn hóa các tộc người thiểu số nói riêng cũng đang phải trải qua một quá trình đổi mới và hầu hết đều chịu các tác động nhiều chiều qua lại của xu thế này. Trong thực tế ấy, quá trình tiếp thu và tiếp biến văn hóa để phù hợp với Hoàn cảnh mới sẽ có khả năng dẫn đến sự mai một văn hóa tộc người. Đặc biệt, đối với dân tộc thiểu số, văn hóa của họ dễ bị biến đổi hơn do các yếu tố tác động từ kinh tế thị trường, đô thị hóa…; sự biến đổi này phụ thuộc vào mức độ giao lưu giữa các tộc người, mức độ diễn tiến đô thị hóa, hiện đại hóa ở các khu vực; trong đó dễ dàng nhận thấy là môi trường ở khu vực càng gần trung tâm thành phố càng làm thúc đẩy sự biến đổi hơn. Tộc người Cơ tu ở thành phố Đà Nẵng là một trường hợp thực tế như vậy. Đà Nẵng là vùng đất có bề dày lịch sử - văn hóa. Hòa trong dòng chảy văn hóa cùng với đất mẹ Quảng Nam, nơi đây mang trong mình nhiều giá trị văn hóa đặc sắc, trong đó văn hóa đồng bào Cơ tu ở khu vực phía Tây thành phố là một ví dụ. Với dân số hơn 1000 người, tập trung chủ yếu ở ba thôn trên hai xã thuộc huyện Hòa Vang - một huyện ngoại thành của Đà Nẵng. Cộng đồng Cơ tu ở thành phố Đà Nẵng tuy có số lượng ít nhưng lại là một minh chứng cho thấy quá trình tộc người của dân tộc này ở Việt Nam. Những giá trị văn hóa hiện có của cộng đồng đã góp phần làm cho bản sắc văn hóa của thành phố Đà Nẵng thêm đa dạng, đặc sắc.
  • 8. 2 Trong bối cảnh hội nhập, đô thị hóa như hiện nay, văn hóa của người Cơ tu thành phố Đà Nẵng không khỏi bị chịu những tác động tiêu cực của quá trình giao lưu, biến đổi, đặc biệt là quá trình “Kinh hóa” đang được diễn ra trong đời sống đồng bào. Các giá trị văn hóa truyền thống tộc người ít nhiều đã có sự biến đổi theo xu hướng hòa nhập phát triển chung chứ không còn được nguyên vẹn những giá trị riêng biệt như trước; rõ nét nhất là trong đời sống văn hóa vật chất như ăn, mặc, ở, phương thức sản xuất và đi lại. Để phát triển nền văn hóa đa dạng, mang đậm bản sắc của các tộc người thiểu số ở Việt Nam nói chung, chúng ta thật sự rất cần những giải pháp toàn diện và sâu sắc nhằm bảo tồn các giá trị văn hóa truyền thống. Với mục đích cung cấp cái nhìn tổng quát về văn hóa truyền thống và sự biến đổi trong đời sống văn hóa vật chất của cộng đồng người Cơ tu ở Đà Nẵng trước những tác động của sự phát triển đô thị, đồng thời đề xuất các giải pháp bảo tồn hướng đến sự phát triển bền vững tộc người, chúng tôi mạnh dạn chọn hướng nghiên cứu “Văn hóa vật chất của người Cơ tu ở xã Hòa Bắc, huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng” làm đề tài luận văn tốt nghiệp thạc sỹ của mình. Đề tài hy vọng sẽ đóng góp một phần nhỏ vào việc bảo lưu các nét văn hóa vật chất truyền thống của đồng bào, góp phần khẳng định các giá trị văn hóa riêng của tộc người Cơ tu cũng như làm giàu hơn vốn văn hóa của thành phố Đà Nẵng. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Vấn đề biến đổi văn hóa truyền thống là phần quan trọng trong đời sống của bất cứ tộc người nào và là một trong các hướng quan tâm của ngành Việt Nam học, đã đạt được những thành tựu quan trọng cả về mặt lý luận chung cũng như thực tiễn tại các địa bàn trên khắp mọi vùng miền của đất nước. So với các dân tộc thiểu số trong cả nước (đặc biệt là trong đối sánh với các dân tộc vùng miền núi phía Bắc Việt Nam), các công trình nghiên cứu (tác phẩm sách) về người Cơ tu từ trước đến giờ dường như ít tập trung vào một đối tượng cụ thể. Mỗi một công trình là sự tổng hợp của “muôn mặt’ thành tố văn hóa trong đời sống tộc người. Trong đó, tài liệu nhắc đến người Cơ tu ở Việt Nam sơ khai nhất là của Dương Văn An, Lê Quý Đôn và trong các bộ sử của triều Nguyễn. Trong công
  • 9. 3 cuộc khai thác thuộc địa của người Pháp ở Đông Dương, và thời kỳ đế quốc Mỹ xâm lược, có không ít các độc giả nước ngoài (chủ yếu là Pháp) đã để tâm nghiên cứu và công bố những công trình về người Cơ tu được nhiều người biết đến như Louis Bezacier (1912) với tác phẩm "Interpretation du tatouage frontal des Moi (Ghi chép về người mọi Katu); Le Pichon (1938) với Les chasseurs de sang (Những người săn máu/Những kẻ săn đầu); Nancy A. Costello (1972) với Socially Approved Homicide among the Katu...; hay các tác giả khác như Georges Coedes, J. Hoffet, Janet Hoskins, Robert Mole... cũng có sự quan tâm đến cộng đồng này ở Việt Nam. Các bài viết/tác phẩm trên chủ yếu đề cập đến các tiêu chí phân lập cư trú, nguồn gốc tên tự gọi, ngôn ngữ, và tín ngưỡng tộc người... Đáng lưu ý là sự ảnh hưởng trong bài viết của Le Pichon về tục xăm mình và tục săn đầu người của người Cơ tu đến học giả và các đọc giả thời kỳ này như L. Bezacier (1951); M. Murphy và Marilou Fromme (1967); A. Thomas Krish, 1973); Janet Hoskin (1996); R. Mole (1970); G. Hickey (1993); Nancy Costello (2002)... Cách viết miêu tả một tục lệ đã bị loại bỏ của đồng bào như một đặc trưng văn hóa đầy ấn tượng đã tạo nên cái nhìn “không mấy thiện cảm” về tộc người Cơ tu, khiến dân tộc này từng bị xem là đối tượng quá hiếu chiến, man rợ với hủ tục khát máu đầu người [48]. Trong bài viết Sơ lược giới thiệu dân tộc Ka-tu tác giả Ngọc Anh được đăng trên tập san Dân Tộc 16 (năm 1960) đã cung cấp cái nhìn sơ lược nhưng bao quát khắp các khía cạnh văn hóa tộc người Cơ tu. Từ việc giải thích nguồn gốc tộc người, phương tiện cư trú, đặc điểm nhân chủng, ngôn ngữ, phương thức sản xuất, phân tầng xã hội ba lớp người, vai trò của các nhân vật lãnh đạo trong làng, những phong tục tập quán cho đến tinh thần mạnh mẽ chống đối thực dân xâm lược của tộc người. Những phác thảo của bài viết trên tuy chỉ là sơ lược nhưng lại là khảo cứu đầu tiên về người Cơ tu trên diễn đàn khoa học xã hội Việt Nam. Từ sau năm 1975 đến nay, được sự khuyến khích bởi chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước, việc nghiên cứu lịch sử-văn hóa các dân tộc trên đất nước ta được mở rộng nhằm đắp ứng mục tiêu hiểu biết lẫn nhau, gìn giữ, bảo tồn và phát huy sức mạnh văn hóa dân tộc. Các công trình nghiên cứu về các tộc người trong nước nói chung và riêng người Cơ tu xuất hiện ngày càng nhiều. Trong đó đáng chú ý là công
  • 10. 4 trình Các dân tộc ít người ở Bình Trị Thiên của Nguyễn Quốc Lộc và các cộng sự xuất bản năm 1984. Đây là công trình khoa học cung cấp những tư liệu quý về mọi mặt đời sống của các cộng đồng thiểu số Cơ tu, Tàôi, Bru - Vân Kiều ở miền Trung Việt Nam. Tuy nhiên cũng chính vì đề cập đến nhiều vấn đề, nhiều dân tộc trong cùng một cuốn sách nên công trình này vẫn chưa thể đi sâu nghiên cứu những lĩnh vực cụ thể của tộc người. Đến năm 1998, tác giả Nguyễn Xuân Hồng đã cho ra mắt công trình nghiên cứu về Hôn nhân - gia đình - ma chay của người Tàôi, Cơ tu, Bru - Vân Kiều. Tác phẩm này chủ yếu đi sâu phân tích phong tục tập quán, các xu thế biến đổi trong hôn nhân, gia đình, ma chay của 3 dân tộc ở vùng miền núi Trị Thiên. Tiếp sau đó, các tác phẩm nghiên cứu thể hiện sự quan tâm sâu hơn về các thành tố văn hóa cộng đồng Cơ tu nói riêng và các dân tộc thiểu số ở miền Trung Việt Nam lần lược được các học giả công bố. Tác phẩm Luật tục của người Tàôi, Cơ tu, Bru - Vân Kiều ở Quảng Trị, Thừa Thiên Huế do Nguyễn Văn Mạnh chủ biên vào năm 2001 là một công trình nghiên cứu tập thể khá toàn diện về các cộng đồng dân tộc thiểu số ở khu vực miền Trung - Tây Nguyên. Trong cuốn sách này, các tác giả tập trung phân tích luật tục/tập quán của các tộc người dưới nhiều lĩnh vực, trong đó có đề cập đến các mô hình sở hữu đất đai, quản lý làng bản thông qua các quy tắc, quy định. Năm 2002, tác giả Tạ Đức cho ra mắt tác phẩm Tìm hiểu văn hóa Katu, cuốn sách này đã đặt ra 17 câu hỏi dạng chủ đề và lần lượt giải đáp nó như “Người Katu là ai, nguồn gốc của họ thế nào?”, “Tên gọi Katu có nghĩa là gì?” … và 7 chủ đề như “Cột tế Katu và truyền thuyết Ja rai”, … Cứ như vậy, cuốn sách giúp bạn đọc hiểu hơn về văn hóa tộc người Cơ tu. Những năm về sau 2004, 2005, 2006, 2007, những công trình nghiên cứu về người Cơ tu càng rõ nét hơn, tiêu biểu phải kể đến cuốn Katu kẻ sống đầu ngọn nước; Văn hóa làng miền núi Trung bộ Việt Nam: giá trị truyền thống và những bước chuyển lịch sử (dẫn liệu từ miền núi Quảng Nam) của tác giả Nguyễn Hữu Thông, Văn hóa người Cơ-tu của tác giả Lưu Hùng. Trong cuốn “Nhà Gươl của người Cơ tu (Nhà xuất bản Văn hóa dân tộc, Hà Nội, năm 2006) tác giả Đinh Hồng
  • 11. 5 Hải, qua việc mô tả kiến trúc Gươl và các lễ hội văn hóa của người Cơ tu đã chỉ ra những khía cạnh đời sống tinh thần của người Cơ tu ở Quảng Nam. Đây là 4 công trình rất có giá trị miêu tả về toàn bộ hoạt động sinh hoạt văn hóa của tộc người. Nếu như tác giả Nguyễn Hữu Thông mạnh về việc lý giải tên gọi/tộc danh, về việc đặt lại sự hiện diện và diễn trình di trú, cũng như vai trò của nhóm Katuic và tộc người Katu (chữ dùng trong sách của tác giả) trong lịch sử văn hóa của cư dân miền Trung, mổ xẻ những cung bậc chuyển biến trong văn hóa làng của người Cơ tu thì nhà nghiên cứu Lưu Hùng lại có thế mạnh về việc khảo tả các đặc trưng văn hóa phi vật thể và văn hóa vật thể tộc người... Ngoài ra còn có công trình luận án tiến sỹ “Nghề dệt và trang phục cổ truyền của dân tộc Cơ tu Quảng Nam” được bảo vệ năm 2009 tại Viện nghiên cứu văn hóa của Trần Tấn Vịnh, tác giả đã tổng quan về người Cơ tu, mô tả chi tiết về nghề dệt cổ truyền và trang phục cổ truyền của dân tộc Cơ tu, nghệ thuật trang trí và hệ biểu tượng trong trang trí hoa văn trên y phục người Cơ tu. Qua đó tác giả đã đưa ra những kiến nghị nhằm bảo tồn và phát huy nghề dệt và trang phục Cơ tu. Có thể nói rằng, trên đây là những công trình công phu và hoàn chỉnh bước đầu cung cấp một bức tranh tương đối toàn diện và sâu sắc về lịch sử, đời sống và văn hóa của người Cơ tu: tộc người có vị trí cư trú quan trọng và vốn văn hóa phong phú ở khu vực Trung và địa đầu Nam Trường Sơn. Như vậy, với chiều dài của lịch sử nghiên cứu vấn đề, người Cơ tu ở Việt Nam là một dân tộc tương đối thống nhất về cả tên gọi, ngôn ngữ cũng như các mặt văn hóa, xã hội. Hầu hết các công trình đã có nghiên cứu về họ không bàn luận về một đối tượng cụ thể mà tổng hợp nhiều lĩnh vực văn hóa nhằm khái quát rõ hơn bức tranh/sắc thái văn hóa tộc người. Tuy nhiên phải nói rằng chưa nghiên cứu nào tập trung bàn sâu về người Cơ tu ở huyện Hòa Vang thành phố Đà Nẵng. Đây vẫn là một khoảng trống trong nghiên cứu văn hóa tộc người này ở Việt Nam. Trên nền tảng thành quả nghiên cứu chung của các học giả về người Cơ tu nói chung ở Quảng Nam và Thừa Thiên Huế, đề tài của luận văn sẽ ít nhiều có những tiếp cận thuận lợi hơn trong việc nghiên cứu về người Cơ tu ở huyện Hòa Vang thành phố Đà Nẵng.
  • 12. 6 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu: - Đánh giá thực trạng các giá trị văn hóa vật chất và nhận diện các đặc trưng văn hóa vật chất của người Cơ tu ở xã Hòa Bắc, huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng; - Đưa ra một số giải pháp tham khảo cho việc bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa vật chất đặc trưng phù hợp với sự phát triển hiện nay của đồng bào Cơ tu ở xã Hòa Bắc, huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu: - Khảo sát, tìm hiểu về văn hóa vật chất của đồng bào dân tộc Cơ tu ở xã Hòa Bắc, huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng. - Nghiên cứu cơ sở lý luận về văn hóa vật chất, các khái niệm về biến đổi văn hóa tộc người, khái niệm đô thị hóa, các cơ sở biến đổi văn hóa nói chung và văn hóa vật chất tộc người nói riêng. - Khảo sát và đánh giá thực trạng biến đổi các thành tố văn hóa vật chất của đồng bào dân tộc Cơ tu tại nơi cư trú của người dân. Qua đó thấy được mặt tích cực và hạn chế của sự biến đổi văn hóa vật chất trong quá trình hội nhập, phát triển đô thị hóa ở thành phố Đà Nẵng. - Rút ra những vấn đề từ thực tế, nhằm đưa ra những giải pháp bảo tồn các giá trị văn hóa vật chất truyền thống của đồng bào dân tộc Cơ tu tại xã Hòa Bắc, huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng sao cho phù hợp với sự phát triển chung nhưng vẫn giữ được những giá trị riêng của văn hóa tộc người. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Các khía cạnh của giá trị văn hóa vật chất: làng, nhà cửa, ẩm thực, trang phục, phương tiện đi lại, công cụ lao động sản xuất… và sự biến đổi của nó của cộng đồng người Cơ tu ở xã Hòa Bắc huyện Hòa Vang trong quá trình phát triển hội nhập, đô thị hóa hiện nay.
  • 13. 7 4.2. Phạm vi nghiên cứu Những vấn đề liên quan đến đời sống văn hóa vật chất của cộng đồng người Cơ tu đang sinh sống ở thôn Tà Lang và Giàn Bí, xã Hòa Bắc, huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng từ năm 1980 đến nay. 5. Phương pháp nghiên cứu - Phương pháp nghiên cứu liên ngành trên nền tảng khu vực học: Đây là phương pháp cơ bản để thực hiện nghiên cứu đối tượng trong một không gian văn hóa, không gian phát triển. Có thể nói, với phương pháp nghiên cứu này có thể giúp xác định luận văn là một công trình nghiên cứu thuộc mã ngành Việt Nam học. - Phương pháp khảo sát, thu thập tư liệu Để hoàn thành luận văn, chúng tôi chủ yếu dựa vào các nguồn tư liệu sau: + Tài liệu thành văn: Các sách chuyên ngành về Dân tộc học, Việt Nam học, các bài hội thảo khoa học, các bài nghiên cứu của các tác giả trên báo, tạp chí khoa học về lĩnh vực văn hóa - xã hội và các báo cáo, tư liệu khảo sát tại địa bàn nghiên cứu. + Tài liệu từ việc nghiên cứu phỏng vấn thực địa: Là nguồn tư liệu thu thập từ quá trình tiếp xúc, phỏng vấn thực tế với cộng đồng người Cơ tu tại địa bàn nghiên cứu, già làng, trưởng thôn, cán bộ quản lý tại địa phương. Trong quá trình nghiên cứu chúng tôi tiến hành thu thập nguồn tài liệu đa dạng từ nguồn tài liệu thành văn. - Phương pháp điền dã dân tộc học kết hợp phỏng vấn sâu Thực hiện phương pháp điền dã dân tộc học kết hợp phỏng vấn hồi cố, ghi chép, quay phim, chụp hình và quan sát, tham dự các hoạt động của cộng đồng dân tộc Cơ tu. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn - Về khoa học, đây là công trình bước đầu nghiên cứu hệ thống về các vấn đề lý luận liên quan đến sự biến đổi văn hóa vật chất của cộng đồng dân tộc thiểu số nói chung và cộng đồng người Cơ tu trên địa bàn xã Hòa Bắc, huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng nói riêng. - Về thực tiễn, những kết quả nghiên cứu từ đề tài sẽ là nguồn tài liệu tham khảo cho những ai quan tâm và tìm hiểu về cộng đồng dân tộc Cơ tu. Hơn thế nữa, thành quả nghiên cứu sẽ góp phần giúp cho các cơ quan quản lý nhà nước về mặt văn
  • 14. 8 hóa có góc nhìn khách quan về sự biến đổi đời sống văn hóa vật chất của tộc người này trên địa bàn Đà Nẵng; từ đó có định hướng phù hợp cho sự phát triển gắn với công tác bảo tồn giá trị văn hóa vật chất truyền thống đậm bản sắc của tộc người trên địa bàn. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo. Nội dung của đề tài chia làm 3 chương: Chương 1: Cơ sở lý luận và tổng quan về cộng đồng người Cơ tu ở xã Hòa Bắc, huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng Chương 2: Văn hóa vật chất truyền thống của người Cơ tu tại xã Hòa Bắc, huyện Hòa Vang, Thành phố Đà Nẵng Chương 3: Thực trạng biến đổi và giải pháp bảo tồn văn hóa vật chất của người Cơ tu tại xã Hòa Bắc, huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng.
  • 15. 9 Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ TỔNG QUAN VỀ CỘNG ĐỒNG NGƯỜI CƠ TU Ở XÃ HÒA BẮC, HUYỆN HÒA VANG, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG 1.1. Khái niệm và cơ sở lý luận 1.1.1. Khái niệm trong nghiên cứu - Khái niệm tộc người Theo nghĩa hẹp, tộc người là một cộng đồng người có chung tiếng mẹ đẻ. Hiểu như vậy, tộc người sẽ tương đương với nhóm ngôn ngữ hay với nhóm dân tộc - ngôn ngữ mà các nhà ngôn ngữ học gọi là nhóm nói tiếng mẹ đẻ. Theo nghĩa đó, tộc người cũng là dùng để chỉ những tập hợp người khá thuần nhất, sống cạnh nhau và có chung các đặc điểm về văn hóa mà trong đó yếu tố biểu hiện rõ nhất là việc sử dụng một ngôn ngữ. Nhưng, vấn đề đặt ra là, có rất nhiều cá nhân sống đây đó trên thế giới có cùng một ngôn ngữ mẹ đẻ song lại cách xa nhau về nhiều mặt, như về mặt địa lý (giữa các châu lục), về mặt lịch sử (thuộc nhiều quốc gia khác nhau), về mặt chủng tộc (thuộc các nguồn gốc khác nhau)… thì liệu họ có cùng một tộc người không, hay họ là những tộc người khác nhau có cùng một ngôn ngữ, hoặc là một tộc người được chia ra làm nhiều tộc người nhỏ…? Đây là vấn đề khó vẫn đang đòi hỏi các học giả cần quan tâm nghiên cứu, giải thích nhiều hơn. Theo nghĩa rộng, tộc người là một cộng đồng người liên kết với nhau bởi một phức hợp các tính chất chung về các mặt: nhân chủng, ngôn ngữ, chính trị… Sự kết hợp các tính chất đó tạo thành một hệ thống riêng, một cấu trúc mang tính văn hóa chủ yếu - một nền văn hóa riêng biệt. Nói một cách ngắn gọn, tộc người là một tập thể hay đúng hơn, là một cộng đồng người, được gắn bó với nhau bởi một nền văn hóa riêng biệt. Theo nghĩa này, các yếu tố trong hệ thống tộc người có thể phát triển không đồng đều ở mỗi thành viên, hay sự vắng mặt của một trong số các yếu tố ở một thành viên cũng không làm cho họ tách khỏi nhóm tộc người của mình. Như vậy, có thể thấy cách hiểu theo nghĩa rộng trên đây cho phép bao quát tốt hơn các nhóm cộng đồng tộc người hiện đang tồn tại. Nhận thức này tuy có những ranh giới không quá rạch ròi, nhưng lại là cơ sở để nội hàm nghiên cứu các vấn đề về một cộng đồng tộc người cụ thể trở nên phong phú hơn. Để phục vụ cho sự nghiên
  • 16. 10 cứu, luận văn này sẽ đồng nhất ở nghĩa rộng, xem tộc người là một cộng đồng người, được gắn bó với nhau bởi một nền văn hóa riêng biệt. - Khái niệm biến đổi Biến đổi là một khái niệm được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm trong những năm gần đây trên mọi lĩnh vực của cuộc sống. Dưới nhiều góc độ nhận thức, khái niệm biến đổi mang nhiều ý nghĩa về sự tích cực hoặc hạn chế nào đó. Dưới góc độ nghiên cứu Việt Nam học, nhân học văn hóa hay văn hóa học, khái niệm biến đổi được ra đời từ sớm theo cách hiểu là một quy luật có tính tất yếu của cuộc sống. Từ những quan niệm trừu tượng của thuyết Khải Hoàn, xem mọi sự biến đổi của nhân loại đều chịu ảnh hưởng của Thiên Chúa giáo (coi sự vận động của thế giới là điều tất yếu để đi đến cái tốt đẹp), đến những lập luận mang tính khoa học của thuyết Tiến hóa trong bước đầu giải thích mối quan hệ giữa tiến hóa của con người và sinh vật (đó là sự biến đổi theo quá trình, cái sau phát triển hơn cái khác); hay là sự mô phỏng tính chu kỳ trong quá trình sinh trưởng của mọi sự vật, có tiêu vong, biến mất và sau đó cái mới lại xuất hiện (trong mô hình của thuyết Chu kỳ); hoặc những gợi mở về cơ sở biến đổi của thuyết kinh tế, thuyết tư tưởng, thuyết kỹ thuật, thuyết xung đột, thuyết thích ứng trong thế kỷ XX... đều chủ yếu lý giải về nội hàm của sự biến đổi; nhưng trên cơ bản, mọi thuyết đều nhấn mạnh đến tính tất yếu của sự biến đổi, xem đó như một quy luật vận động khách quan của cuộc sống. Có nhiều quan niệm về sự biến đổi văn hóa dựa trên nhiều khía cạnh, như ở phạm vi rộng: đó là một sự biến đổi một phần hay hoàn toàn mới được so sánh với một nếp sống hay một nền văn hóa tộc người đã được hình thành trước đó; hoặc trong phạm vi hẹp: biến đổi trong văn hóa là sự thay đổi những giá trị văn hóa đặc trưng, các thành tố văn hóa vật chất hoặc tinh thần của văn hóa tộc người đó, và sự biến đổi này tạo nên sự ảnh hưởng sâu sắc đến hầu hết các mặt đời sống của các thành viên trong một xã hội. Như vậy có thể thấy rằng: Biến đổi văn hóa là một quá trình, biểu hiện thông qua nhiều phương diện: phát triển kinh tế xã hội, phục hưng văn hóa truyền thống, hoạt động tôn giáo, phát triển truyền thông đại chúng, giao lưu văn hóa, qua đó những
  • 17. 11 khuôn mẫu trong phong tục, tập quán truyền thống có sự tiếp biến theo thời gian và theo nhiều cấp độ khác nhau. Và dù có các luận giải khác nhau về nguyên nhân biến đổi cũng như định nghĩa của nó, có thể thống nhất đề cao mặt tích cực của sự biến đổi trong tình hình phát triển chung của sự phát triển kinh tế, chính trị, xã hội; nhưng cũng không xem nhẹ các yếu tố tiêu cực, kém bền vững nảy sinh trong quá trình ấy vì vấn đề bảo tồn các giá trị truyền thống đặc trưng là điều cơ bản cần thiết để phân biệt giữa các tộc người. Cơ bản, biến đổi là sự vận động/ tự chuyển mình một cách tất yếu cho phù hợp/ thích ứng với mọi điều kiện mới của xã hội, lịch sử. - Khái niệm văn hóa Văn hóa là sản phẩm của con người, nhờ có văn hóa mà con người trở nên độc đáo trong thế giới sinh vật và khác biệt so với những con vật khác trong thế giới động vật. Tuy nhiên, để hiểu về khái niệm “văn hóa” đến nay vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau, do vậy cũng có nhiều những định nghĩa khác nhau về văn hóa. Năm 1952, A.L. Kroeber và Kluckhohn xuất bản quyển sách “Culture, a critical review of concept and definitions” [Văn hóa, điểm lại bằng cái nhìn phê phán các khái niệm và định nghĩa], trong đó tác giả đã trích lục khoảng 160 định nghĩa về văn hóa do các nhà khoa học đưa ra ở nhiều nước khác nhau. Điều này cho thấy, khái niệm “văn hóa” rất phức tạp. Năm 1871, E.B. Tylor đưa ra định nghĩa “Văn hóa hay văn minh, theo nghĩa rộng về tộc người học, nói chung gồm có tri thức, tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức, luật pháp, tập quán và một số năng lực và thói quen khác được con người chiếm lĩnh với tư cách một thành viên của xã hội” [58, tr.13]. Theo định nghĩa này thì văn hóa và văn minh là một; nó bao gồm tất cả những lĩnh vực liên quan đến đời sống con người, từ tri thức, tín ngưỡng đến nghệ thuật, đạo đức, pháp luật… Có người ví, định nghĩa này mang tính “bách khoa toàn thư” vì đã liệt kê hết mọi lĩnh vực sáng tạo của con người. [14, tr.39] F. Boas định nghĩa “Văn hóa là tổng thể các phản ứng tinh thần, thể chất và những hoạt động định hình nên hành vi của cá nhân cấu thành nên một nhóm người vừa có tính tập thể vừa có tính cá nhân trong mối quan hệ với môi trường tự nhiên
  • 18. 12 của họ, với những nhóm người khác, với những thành viên trong nhóm và của chính các thành viên này với nhau” [7, tr.149]. Theo định nghĩa này, mối quan hệ giữa cá nhân, tập thể và môi trường là quan trọng trong việc hình thành văn hóa của con người. Ở Việt Nam, khái niệm văn hóa có rất nhiều định nghĩa. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hằng ngày về mặt ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa” [38, tr.431]. Với cách hiểu này, văn hóa sẽ bao gồm toàn bộ những gì do con người sáng tạo và phát minh ra. Cũng giống như định nghĩa của Tylor, văn hóa theo cách nói của chủ tịch Hồ Chí Minh sẽ là một “bách khoa toàn thư” về những lĩnh vực liên quan đến đời sống con người. Phạm Văn Đồng cho rằng “Nói tới văn hóa là nói tới một lĩnh vực vô cùng phong phú và rộng lớn, bao gồm tất cả những gì không phải là thiên nhiên mà có liên quan đến con người trong suốt quá trình tồn tại, phát triển, quá trình con người làm nên lịch sử… (văn hóa) bao gồm cả hệ thống giá trị: tư tưởng và tình cảm, đạo đức với phẩm chất, trí tuệ và tài năng, sự nhạy cảm và sự tiếp thu cái mới từ bên ngoài, ý thức bảo vệ tài sản và bản lĩnh của cộng đồng dân tộc, sức đề kháng và sức chiến đấu bảo vệ mình và không ngừng lớn mạnh” [64, tr.22]. Theo định nghĩa này thì văn hóa là những cái gì đối lập với thiên nhiên và do con người sáng tạo nên từ tư tưởng tình cảm đến ý thức tình cảm và sức đề kháng của mỗi người, mỗi dân tộc. Trong những năm gần đây, một số nhà nghiên cứu ở Việt Nam và kể cả ở nước ngoài khi đề cập đến văn hóa, họ thường vận dụng định nghĩa văn hóa do UNESCO đưa ra vào năm 1994. Theo UNESCO, văn hóa được hiểu theo hai nghĩa: nghĩa rộng và nghĩa hẹp. Theo nghĩa rộng thì “Văn hóa là một phức hệ - tổng hợp các đặc trưng diện mạo về tinh thần, vật chất, tri thức và tình cảm… khắc họa nên bản sắc của một cộng đồng gia đình, xóm làng, vùng, miền, quốc gia, xã hội… Văn hóa không chỉ bao gồm nghệ thuật, văn chương mà còn cả lối sống, những quyền cơ bản của con người, những hệ thống giá trị, những truyền thống, tín ngưỡng…”; còn
  • 19. 13 hiểu theo nghĩa hẹp thì “Văn hóa là tổng thể những hệ thống biểu trưng (ký hiệu) chi phối cách ứng xử và giao tiếp trong cộng đồng, khiến cộng đồng đó có đặc thù riêng…” [35, tr.314]. Nhìn chung, các định nghĩa về văn hóa hiện nay rất đa dạng. Mỗi định nghĩa đề cập đến những dạng thức hoặc những lĩnh vực khác nhau trong văn hóa. Như định nghĩa của Tylor và của Hồ Chí Minh thì xem văn hóa là tập hợp những thành tựu mà con người đạt được trong quá trình tồn tại và phát triển, từ tri thức, tôn giáo, đạo đức, ngôn ngữ, đến âm nhạc, pháp luật… Còn các định nghĩa của F. Boas, tổ chức UNESCO… thì xem tất cả những lĩnh vực đạt được của con người trong cuộc sống là văn hóa. Với cách hiểu này cùng với những định nghĩa đã nêu thì văn hóa chính là nấc thang đưa con người vượt lên trên những loài động vật khác; và văn hóa là sản phẩm do con người tạo ra trong quá trình lao động nhằm mục đích sinh tồn. - Khái niệm văn hóa vật chất Văn hóa là tất cả những sản phẩm của con người làm ra, bao gồm: văn hóa phi vật chất và văn hóa vật chất. Ở đây, văn hóa vật chất ám chỉ toàn bộ những gì do công nghệ sản xuất nhằm đáp ứng nhu cầu vật chất, ăn, mặc, ở, đi lại, công cụ sản xuất, phương tiện sản xuất… nói lên trình độ phát triển của con người trong lĩnh vực sản xuất vật chất, thể hiện trình độ chiếm lĩnh và khai thác những vật thể trong tự nhiên. - Khái niệm đô thị hóa Nghiên cứu định hướng phát triển đô thị Việt Nam và tác động của nó đến văn hóa, nhà nghiên cứu Mạc Đường định nghĩa: “Đô thị hóa là một quá trình kinh tế - xã hội để biến một vùng dân cư không có cuộc sống đô thị thành một vùng dân cư thuộc tính của xã hội đô thị. Đô thị hóa còn là một quá trình biến đổi văn hóa và ứng xử. Văn hóa và cách ứng xử đô thị dần dần bao trùm lên và làm tan biến dần văn hóa và ứng xử truyền thống nông thôn” [18, tr.115]. Cũng mang hàm nghĩa như khái niệm của Mạc Đường, Trần Cao Sơn đưa ra khái niệm: “Đô thị hóa là một quá trình chuyển từ hoạt động nông nghiệp phân tán sang hoạt động phi nông nghiệp tập trung trên địa bàn nhất định”. Đây thực chất là
  • 20. 14 quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu xã hội, với các đặc trưng sau: Một là, hình thành và mở rộng quy mô đô thị với hạ tầng kỹ thuật hiện đại, dẫn đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ nông nghiệp là chủ yếu sang sản xuất công nghiệp và dịch vụ. Hai là, tăng nhanh dân số đô thị trong tổng số dân cư, dẫn đến thay đổi cơ cấu giai cấp, phân tầng xã hội. Ba là, chuyển đổi từ lối sống phân tán (mật độ dân cư thưa) sang sống tập trung (mật độ dân cư rất cao). Bốn là, chuyển từ lối sống nông thôn sang lối sống đô thị [42, tr.17]. Xem xét bản chất của đô thị hóa, Kammeyer và cộng sự cho rằng: Đô thị hóa và công nghiệp hóa được nhìn nhận như là những trụ cột của hiện đại hóa. Đô thị hóa chỉ ra quá trình chuyển đổi của sức sản xuất, đặc biệt nó đưa đến sự chuyển đổi công nghệ để thúc đẩy hoạt động sản xuất. Đô thị hóa mặt khác liên quan tới quá trình tập trung dân số ở những khu vực nhất định, các trung tâm đô thị, nơi có sự di dân ồ ạt từ làng và các cộng đồng nông thôn, nơi tập trung các hoạt động kinh tế, tổ chức quản lý và quyền lực chính trị [72, tr.671]. Dù tiếp cận dưới những chiều cạnh khác nhau, song sự tương đồng dễ dàng nhận thấy giữa các nhà nghiên cứu khi bàn về đô thị hóa là nói đến quá trình chuyển đổi, rút ngắn khoảng cách giữa khu vực nông thôn với đô thị cùng các biểu hiện đặc thù như: các khuôn mẫu văn hóa đô thị ngày càng trở nên phổ biến, lấn át dần các khuôn mẫu văn hóa nông thôn truyền thống; sự chuyển dịch mạnh mẽ về lao động nông thôn từ nông nghiệp sang phi nông nghiệp; sự di cư từ nông thôn vào thành thị... và kéo theo đó là sự xáo trộn, biến chuyển trên hầu hết các phương diện của đời sống kinh tế, xã hội cũng như văn hóa. 1.1.2. Cơ sở lý luận về biến đổi văn hóa tộc người Theo cách hiểu rộng, biến đổi văn hóa là một thay đổi so sánh với một tình trạng văn hóa hay một nền văn hóa có trước dưới sự tác động của những nhân tố khách quan hay chủ quan. Trong một phạm vi hẹp hơn, người ta cho rằng sự biến đổi văn hóa được đề cập đến là sự biến đổi về cấu trúc của văn hóa, về các thành tố của văn hóa và các giá trị văn hóa [6, tr.36]. Theo tác giả Nguyễn Duy Bắc, biến đổi văn hóa là sự thay đổi các phương thức sản xuất, bảo quản, truyền bá các sản phẩm và thay đổi các giá trị văn hóa phù hợp với những biến đổi về chính trị, kinh tế, xã hội ở
  • 21. 15 những thời kỳ nhất định trong sự phát triển của các quốc gia dân tộc và nhân loại. Sự biến đổi văn hóa thường là một bước tiến bộ trong sự phát triển dân tộc và nhân loại, ảnh hưởng sâu sắc đến phần lớn các thành viên của một xã hội. Cũng trong quan điểm này, nhiều học giả cho rằng đó là điều tất yếu. Tác giả Fredrik Barth, trong lời giới thiệu về công trình “Những ranh giới và sự biến đổi dân tộc” [5, tr.24] đã chỉ ra rằng, đối với các tộc người thiểu số trước sự tác động một cách phổ biến và tất yếu của xã hội hiện đại, sự mưu cầu tham gia vào các hệ thống xã hội rộng hơn để duy trì những dạng thức mới các giá trị, sẽ xảy ra các trường hợp: Thứ nhất, cố gắng vượt qua và được hợp nhất trong xã hội tiền công nghiệp và nhóm văn hóa; Thứ hai, chấp nhận địa vị thiểu số, và có sự điều chỉnh thích hợp, tìm kiếm cách thức làm giảm những tình trạng bất lực thiểu số của họ; Thứ ba, lựa chọn cách làm nổi bật bản sắc dân tộc và sử dụng chúng để mở ra những địa vị và mô hình mới. Tác giả Don Mccaskill, trong bài viết From Trial Peoples to Ethnic Minorities: “The transformation of Indigenous Peoples” Old Societies and New States đã đưa ra khái niệm “lưỡng văn hóa” và cho rằng “họ vừa tham gia vào xã hội rộng lớn hơn, trong khi đó vẫn duy trì những khía cạnh quan trọng trong nền văn hóa bản địa của họ”. Don Mccaskill khẳng định, “thế giới quan bản địa, những niềm tin, các giá trị và hành vi có thể cùng tồn tại bên cạnh các bản sắc văn hóa quốc gia. Điều này là có thể bởi vì trên thực tế một cá nhân có thể có nhiều bản sắc” [66, tr.497]. Như vậy có thể thấy tuy có các điểm nghiên cứu khác nhau nhưng phần lớn các học giả có quan tâm đến vấn đề văn hóa tộc người thiểu số trong bối cảnh hội nhập và phát triển đều hết sức chú ý đến ý thức và tính chủ động của chính người dân trong bối cảnh này, trước những thử thách của xã hội hiện đại, bởi điều này sẽ dẫn đến một quá trình biến đổi có định hướng. Trong nhiều năm qua, việc nghiên cứu văn hóa tộc người được các ngành khoa học xã hội, các nhà nghiên cứu quan tâm chú trọng. Từ thập niên 60 đến đầu thập niên 80 của thế kỷ XIX, các nghiên cứu Văn hóa học, Việt Nam học tập trung làm rõ các đặc điểm truyền thống của văn hóa các dân tộc thiểu số vào nền văn hóa chung của dân tộc Việt Nam.
  • 22. 16 Là một trong số các đối tượng nghiên cứu quan trọng của Việt Nam học, biến đổi văn hóa được xem như kết quả của quá trình vận động xã hội. Khái niệm biến đổi văn hóa chỉ sự thay đổi của các cơ chế trong một cấu trúc văn hóa cho trước, được đặc trưng bởi sự thay đổi nội hàm thành tố văn hóa cụ thể. Biến đổi văn hóa được các nhà khoa học khởi xướng thuyết Tiến hóa luận như Edward B. Taylor hay L. Morgan đề cập đến từ thế kỷ XIX khi họ phân chia xã hội theo thứ bậc đơn tuyến và có chung một mẫu hình biến đổi xã hội cũng như biến đổi văn hóa. E. Taylor cho rằng: “Sự phát triển tiến bộ tiến hóa của các nền văn hóa là xu hướng chính trong lịch sử loài người. Xu hướng phát triển này là rất hiển nhiên, vì rằng có nhiều dữ kiện theo tính liên tục của nó có thể sắp xếp vào một trật tự xác định, mà không thể làm ngược lại” [8, tr.53]. Theo các nhà tiến hóa luận, biến đổi văn hóa có một mô hình chung, đó là ở những nền văn hóa ngoài phương Tây được nhìn nhận “kém văn minh”, sự biến đổi văn hóa diễn ra chậm chạp, đối ngược với văn hóa phương Tây năng động và biến đổi nhanh. Các giai đoạn hiện tại của văn hóa đã tiến hóa lên từ các giai đoạn sớm hơn. Mô hình tiến hóa đơn tuyến về sự phát triển và biến đổi văn hóa này đã bị phản đối rộng khắp trong giới khoa học và là tiền đề dẫn đến sự ra đời và phát triển của khá nhiều lý thuyết mới cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Cuối thế kỷ XIX, thuyết Truyền bá văn hóa ra đời và phát triển phổ biến ở các nước Âu - Mỹ. Các đại biểu của xu hướng này như G. Elliot Smith, W. Rivers... cho rằng vấn đề mấu chốt của biến đổi văn hóa là sự vay mượn hoặc truyền bá/khuếch tán các đặc trưng văn hóa từ một xã hội này sang một xã hội khác [39]. Cũng trong khoảng thời gian cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, đã xuất hiện một số lý thuyết khác có liên quan đến biến đổi văn hóa như: Thuyết tương đối văn hóa (đại diện là Franz Boas) phản đối thuyết Tiến hóa văn hóa khi cho rằng quá trình lịch sử loài người và hướng chung của sự biến đổi văn hóa ngày càng trở nên không còn là một vấn đề về sự phát triển tiến bộ mà là một sản phẩm của sự tình cờ lịch sử nhiều hơn [29]. Thuyết Vùng văn hóa (đại diện là C.L. Wissler, A.L. Kroeber...) đưa ra quan điểm về sự biến đổi đa chiều và nhiều cấp độ của văn hóa tùy thuộc vào việc cộng đồng đó là trung tâm hay ngoại vi hay vùng chuyển tiếp, môi trường và sự chuyên môn hóa của cộng đồng đó là gì
  • 23. 17 [29]. Thuyết tiếp biến văn hóa (đại diện là Redfield, Broom...) lại ám chỉ những biến đổi văn hóa diễn ra qua quá trình tiếp xúc lâu dài giữa các xã hội phương Tâyvà ngoài phương Tây, nhất là những ảnh hưởng mà các xã hội thống trị gây ra cho các tộc người bản địa [65, tr.12]. Trong suốt nửa sau thế kỷ XX và phổ biến cho đến nay có một khuynh hướng nghiên cứu hấp dẫn các nhà khoa học, đó là nghiên cứu sự biến đổi văn hóa trong quá trình toàn cầu hóa, đặc biệt ở những xã hội đang chuyển đổi từ kinh tế nông nghiệp sang công nghiệp, từ xã hội truyền thống sang xã hội hiện đại. Dù biến đổi văn hóa trong quá trình hiện đại hóa là một thực tế không thể đảo ngược, song các tác giả đều khẳng định sự bền bỉ của những giá trị truyền thống và nó sẽ chi phối sự lựa chọn của từng xã hội cụ thể đến chiều hướng, quy mô, dạng thức biến đổi của văn hóa [68], [73], [69], [70]. Ở Việt Nam, trong thời gian gần đây đã xuất hiện những công trình nghiên cứu về biến đổi văn hóa nổi bật như: Văn hóa làng xã trước sự thách thức của đô thị hóa tại thành phố Hồ Chí Minh (1999) của Tôn Nữ Quỳnh Trân; Ảnh hưởng đô thị hóa đến nông thôn ngoại thành Hà Nội: Thực trạng và giải pháp (2002) của Lê Du Phong; Những biến đổi về giá trị văn hóa truyền thống ở các làng ven đô Hà Nội trong thời kỳ Đổi mới của (2007) Ngô Văn Giá; Văn hóa làng xã trước sự thách thức của đô thị hóa tại thành phố Hồ Chí Minh (2007) của Nguyễn Thanh Tuấn; Tác động của đô thị hóa - công nghiệp hóa tới phát triển kinh tế và biến đổi văn hóa - xã hội ở tỉnh Vĩnh Phúc (2009) của Nguyễn Ngọc Thanh, Nguyễn Thế Trường, Trần Hồng Thu; Biến đổi văn hóa ở các làng quê Việt Nam hiện nay (Trường hợp làng Đồng Kỵ, Trang Liệt và Đình Bảng thuộc huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh (2009) của Nguyễn Thị Phương Châm [53], [41], [20], [57], [46], [11],… Công trình Sự biến đổi các giá trị văn hóa trong xây dựng nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay (2008) của Nguyễn Duy Bắc. Đáng chú ý trong công trình của Nguyễn Duy Bắc, ông cho rằng: “Biến đổi văn hóa chính là quá trình thay đổi các phương thức sản xuất, bảo quản, truyền bá... các sản phẩm và các giá trị văn hóa phù hợp với những biến đổi về chính trị, kinh tế, xã hội ở những thời kỳ nhất định trong sự phát triển của các quốc gia dân tộc và nhân loại” [6, tr.36]. Công trình này nhận định bốn nhân tố tác động đến biến đổi văn hóa bao gồm: sự
  • 24. 18 vận động và phát triển của đời sống kinh tế - xã hội; nhân tố tư tưởng, chính trị; kỹ thuật và công nghệ mới; giao lưu văn hóa. Các lý thuyết, quan điểm khác nhau được minh hoạ ở trên có đã cho chúng tôi những cách tiếp cận/luận giải không giống nhau về tác nhân biến đổi, đòi hỏi phải xem xét từ nhiều góc độ để có câu trả lời thấu đáo về tính đa diện của hiện tượng/quá trình biến đổi văn hóa. Thiết nghĩ, sự vận động và biến đổi văn hóa của một xã hội là do các nhân tố cơ bản sau: (1) Những biến đổi của đời sống kinh tế - xã hội, thể hiện qua những chính sách đầu tư phát triển, về môi trường sống, về phương pháp, cách thức sản xuất, về nhu cầu nhận thức, giáo dục của con người nhằm đáp ứng đòi hỏi của trình độ phát triển xã hội. (2) Điều kiện về kỹ thuật và công nghệ mới. Đây là một tác nhân cơ bản dẫn đến biến đổi văn hóa. Trong cuộc sống, kỹ thuật công nghệ mới góp phần làm thay đổi trình độ nhận thức, tạo sự phát triển của sản xuất vật chất, có ảnh hưởng trực tiếp đến tính chất hoạt động của xã hội. (3) Sự giao lưu văn hóa: Khi một cộng đồng tiếp xúc với một cộng đồng khác, có thể diễn ra, hai quá trình đó là truyền bá văn hóa và tiếp biến văn hóa. Truyền bá văn hóa là quá trình mà các yếu tố văn hóa được vay mượn từ một xã hội khác hội nhập với văn hóa của cộng đồng tiếp nhận được gọi là truyền bá văn hóa. Còn tiếp biến văn hóa là một quá trình tiếp xúc văn hóa mang tính bất bình đẳng giữa hai xã hội. Trong tiếp biến văn hóa, không loại trừ trường hợp hai chủ thể cùng “vay mượn” lẫn nhau nhưng phổ biến hơn là chủ thể yếu tiếp nhận các giá trị văn hóa từ chủ thể mạnh. Để tiếp cận quan điểm lý thuyết trong các luận giải về văn hóa của các tác giả và công trình tiếp cận ở trên, luận văn này sẽ cố gắng tiếp cận sự biến đổi văn hóa Cơ tu tại điểm nghiên cứu dưới nhiều mặt như: thực trạng, nguyên nhân, hệ quả và xu hướng diễn ra. Đồng thời, áp dụng các luận điểm giải thích nguyên nhân biến đổi văn hóa ở trên, luận văn chỉ ra các tác nhân quan trọng dẫn đến sự biến đổi văn hóa vật chất của cộng đồng Cơ tu ở xã Hòa Bắc, huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng trong quá trình đô thị hóa hiện nay. Đó là sự phát triển kinh tế - xã hội, sự tiến bộ về
  • 25. 19 khoa học - kỹ thuật và những chính sách có liên quan đến vùng cư trú dân tộc thiểu số của Nhà nước nói chung, chính quyền thành phố Đà Nẵng nói riêng. 1.2. Tổng quan về cộng đồng người Cơ tu tại xã Hòa Bắc, huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng 1.2.1. Vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên Thành phố Đà Nẵng nằm ở vị trí trung độ của đất nước, bắc giáp tỉnh Thừa Thiên Huế, tây và nam giáp tỉnh Quảng Nam, đông giáp biển Đông, cách Thủ đô Hà Nội 764 km về phía Bắc, cách Thành phố Hồ Chí Minh 964 km về phía nam. Không những nằm trên trục giao thông Bắc - Nam về đường bộ, đường sắt, đường biển và đường hàng không, Đà Nẵng còn là trung điểm của các di sản văn hóa vật thể và phi vật thể thế giới bao gồm Quần thể di tích cố đô Huế, Nhã nhạc cung đình Huế, Phố cổ Hội An, Thánh địa Mỹ Sơn và di sản thiên nhiên thế giới - Vườn quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng. Trong phạm vi khu vực và quốc tế, thành phố Đà Nẵng là một trong những cửa ngõ quan trọng hướng ra biển của Tây Nguyên và các nước Lào, Campuchia, Thái Lan, Myanma đến các nước vùng Đông Bắc Á thông qua hành lang kinh tế Đông Tây với điểm kết thúc là cảng biển Tiên Sa. Nhờ biết tận dụng vị trí thuận lợi này, Đà Nẵng đã sớm có những bước đô thị hóa nhanh chóng, vượt bậc. Trong những năm gần đây, quá trình đô thị hóa ở Đà Nẵng đã lan rộng ra các huyện ngoại thành, đặc biệt là huyện Hòa Vang, một huyện ngoại thành duy nhất nằm trên vùng đất liền của thành phố được nối bởi một hệ thống giao thông tương đối thuận lợi. Nhiều con đường liên xã, liên huyện và liên tỉnh đã được mở rộng như quốc lộ 1A, đường giao thông huyết mạch Bắc - Nam chạy từ Cầu Đỏ qua các xã Hòa Châu và Hòa Phước; quốc lộ 14B chạy qua các xã Hòa Khương, Hòa Phong, Hòa Nhơn nối Quảng Nam với Đà Nẵng; tuyến đường tránh Nam Hải Vân đi qua các xã Hòa Liên, Hòa Sơn, Hòa Nhơn; các tuyến đường ĐT 601, 602, 604, 605 do thành phố quản lý và hệ thống các tuyến đường giao thông liên huyện và liên xã. Xã Hòa Bắc được thành lập năm 1981, nằm ở phía tây bắc huyện Hòa Vang, có vị trí địa lý hành chính giáp với xã Hòa Liên, huyện Hòa Vang ở phía nam, giáp với quận Liên Chiểu ở phía đông. Ngoài ra, Hòa Bắc còn tiếp giáp hai huyện Nam Đông và Phú Lộc (tỉnh Thừa Thiên Huế) ở phía bắc và huyện Hiên
  • 26. 20 (tỉnh Quảng Nam) ở phía tây nam. Xã có diện tích khoảng 33,864 ha trong đó diện tích rừng chiếm trên 96%. Bao gồm 7 xã trong đó có 2 xã có cộng đồng người Cơ tu sinh sống. Bảng 1.1. Dân số trên toàn xã Hòa Bắc, huyện Hòa Vang, Đà Nẵng Dân số Thôn Hộ khẩu (Đvt: hộ) Nhân khẩu (Đvt: Người) An Định 65 214 Lộc Mỹ 68 230 Nam Mỹ 135 392 Nam Yên 436 1387 Phò Nam 320 1094 Tà Lang 113 356 Giàn Bí 134 438 Tổng số 1272 4202 Nguồn: Báo cáo UBND xã Hòa Bắc 6 tháng đầu năm 2018 Xã Hòa Bắc là nơi có cộng đồng Cơ tu di cư từ vùng núi cao phía tây Quảng Nam - Đà Nẵng đến định cư lập làng. Sau quá trình tản cư rồi sát nhập các dân làng còn sót lại từ nhiều thôn (Tà Lang, Giàn Bí, Hồ Ô, Khai Vô, Tổ Sơn, Sarây) thì hiện nay họ sinh sống cố định ở khu vực xã Hòa Bắc, với hai thôn lớn là Tà Lang và Giàn Bí. Thuộc toạ độ địa lý ở khoảng 160 11’ vĩ độ bắc, 1070 ,9’ kinh độ đông. Thôn Tà Lang - Giàn Bí ở độ cao khoảng 200m so với mực nước biển cách thành phố Đà Nẵng khoảng 20km, gần một giờ đi ôtô. Thôn nằm ngay trên tuyến đường Hồ Chí Minh (đoạn Sơn La - Tuý Loan và đường tỉnh lộ DT601) nên điều kiện giao lưu với đồng bằng thuận lợi. Hai thôn Tà Lang - Giàn Bí có vị trí địa lý đặc thù và nguồn tài nguyên tự nhiên đa dạng, phong phú. Là vùng đệm giữa khu bảo tồn thiên nhiên Bà Nà - Núi chúa và vườn quốc gia Bạch Mã. Hai thôn được hình thành từ những dãy núi với độ cao trung bình 200m so với mặt nước biển và các dòng sông, suối, tạo ra những thác ghềnh tuyệt đẹp, những cánh rừng nguyên sinh đa dạng.
  • 27. 21 Nơi đây là điểm thượng nguồn của sông Cu Đê đổ vào vịnh Đà Nẵng, tạo thành một tuyến du lịch kết hợp đường bộ và đường sông. Khách du lịch sẽ có nhiều trải nghiệm thú vị, có dịp được chiêm ngưỡng cảnh đẹp của núi non, sông suối, vừa hùng vĩ nhưng cũng rất nên thơ. Trong tương lai, khi khu du lịch cộng đồng tại Tà Lang và Giàn Bí đi vào hoạt động sẽ đem lại cho khách du lịch ấn tượng không chỉ về cảnh đẹp của thiên nhiên mà còn cả biết bao sự bất ngờ, thú vị về văn hóa, phong tục tập quán của con người nơi đây. 1.2.2. Lịch sử hình thành tộc người Người Cơ tu ở nước ta hiện nay có khoảng 61.588 người (2009) [2, tr.34], thuộc nhóm ngôn ngữ Môn - Khơ me, ngữ hệ Nam Á. Lịch sử cư trú của họ về cơ bản chưa được xác định một cách chắc chắn. Theo L. Schrock và nhóm đồng tác giả nhận định rằng vùng sinh sống của họ vốn ở miền duyên hải nhưng vì những biến thiên của lịch sử (do áp lực của tộc người Việt trong quá trình Nam tiến hoặc do sự khắc nghiệt của khí hậu) buộc họ phải lên vùng cao [2, tr.35]. Dân tộc Cơ tu là cư dân cư trú lâu đời ở Việt Nam, chủ yếu sống ở vùng Quảng Nam (3 huyện: Đông Giang, Tây Giang và Nam Giang); huyện Hòa Vang của Đà Nẵng; số còn lại tập trung trên triền núi phía Tây huyện Phú lộc và tây nam huyện A Lưới, tỉnh Thừa Thiên Huế. Tộc danh Cơ tu đã được biết đến lâu đời trong lịch sử. Tên dân tộc này có nhiều cách gọi và viết khác nhau như: Katu, K’tu, Cà tu, Cơ tu, Cơ tu… Theo cách giải nghĩa của đồng bào, tu có nghĩa là “ngọn”. Cơ tu là “người sống đầu ngọn nước”, trên vùng rẻo cao. Về mặt nhân chủng học, người Cơ tu có tính thống nhất, trên cơ sở hai loại hình Andorediong và phân chủng Monggoloit phương Nam. Tiếng Cơ tu có thể được xem là đại diện cho nhóm Môn - Khmer ở Bắc Trung bộ và Trung Trung bộ Việt Nam. Mặc dầu ngôn ngữ có sự khác nhau giữa Cơ tu vùng cao và Cơ tu vùng thấp nhưng Cơ tu vẫn là dân tộc tương đối thống nhất về ngôn ngữ cũng như các mặt văn hóa xã hội. Trong luận văn này, chúng tôi thống nhất sử dụng tên gọi Cơ tu theo bảng danh mục thành phần các dân tộc Việt Nam (1979). Nói về nguồn gốc tộc người Cơ tu, trong công trình nghiên cứu “Vài nét về sự hình thành các dân tộc ít người Quảng Nam”, của tác giả Đặng Nghiêm Vạn, ông cho rằng người Cơ tu là cư dân bản địa miền Trung Đông Dương, có nguồn gốc với nhóm Việt
  • 28. 22 Mường. Tổ tiên của họ vốn cư trú trên một địa bàn rộng lớn nhưng tổ tiên người Chàm đã tách họ ra khỏi tổ tiên Việt - Mường [63, tr.20]. Cùng với quá trình phân tách này là sự co dần lãnh thổ của họ về phía núi. Sau đó, do xảy ra những xung đột về quyền lợi đất đai giữa các nhóm cư dân Môn - Kh’ mer; những cuộc chiến tranh với người Chàm (từ thế kỷ XII - XVI), với người Xiêm (thế kỷXVII - XIX), người Lào (thế kỷXVI - XVII) và người Việt (từ thế kỷ XVI trở đi), đã quy tụ họ trở lại trên địa bàn sinh sống chính là miền núi Quảng Nam hiện nay. Bàn về nguồn gốc tộc người Cơ tu, nhà Nhân học Mỹ Robert Mole cho rằng, người Cơ tu từng di cư xuống thung lũng của sông Mékong và sau đó họ lại dời lên núi trở lại hoặc có thể đi xuống tận bờ biển Trung Hoa và bị buộc phải trở lại núi [2, tr.35- 36]. Trong phạm vi cư trú của họ ở Việt Nam hiện nay, J.L. Schrock và nhóm đồng tác giả lại nhận định: vùng sinh sống của người Katu vốn ở vùng duyên hải và di chuyển đến vùng đất hiện nay do áp lực của tộc người Việt trong quá trình Nam tiến. Với địa hình hẹp như miền Trung Việt Nam, hiện tượng khai thác tập trung và làm cạn dần ưu thế ở những mặt bằng tương đối thuận lợi ở chân sườn đông của dãy Trường Sơn, sẽ dẫn con người tiến về đỉnh dốc. Đó chính là nguyên nhân tạo nên sự chuyển cư từ đông sang tây của những tộc người sống trên địa bàn này. Có ý kiến cho rằng, “Người Katu đã tồn tại một cách tương đối bất ổn định. Họ buộc phải tránh xa biển dần, nơi có những thung lũng ẩm thấp và tiến đến xây dựng làng ở những sườn núi cao, sinh sống bằng nghề trồng trọt, dù rất khó khăn và kém hiệu quả” [67, tr.108]. Trên bản đồ phân bố tộc người, ngoài bộ phận cư trú mật tập ở núi rừng phía tây Đà Nẵng và tây bắc Quảng Nam, người Cơ tu còn có hai nhóm cư trú về phía đông, khá cận biển. Đó là cộng đồng Cơ tu cư trú tại các xã Hòa Phú và Hòa Bắc, huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng. Sự hiện diện của họ ở các địa phương này nhắc nhở người nghiên cứu lưu tâm đến vùng đất sinh sống xưa kia của họ. Có thể nói rằng, quá trình phân ly tộc người Cơ tu trong lịch sử đã thể hiện xu hướng chia nhỏ và chia tách. Từ tộc người Cơ tu thống nhất được chia thành nhiều nhóm khác nhau như Cơ tu vùng cao, Cơ tu vùng thấp và Cơ tu vùng giữa (chủ yếu
  • 29. 23 là hai nhóm cao và thấp). Nguồn gốc của các nhóm Cơ tu cũng như các mối liên hệ được thể hiện rõ nét qua những người Cơ tu thuộc các vùng định cư hiện nay. Bên cạnh xu hướng phân chia như một quy luật phát triển tất yếu của lịch sử, quá trình tộc người Cơ tu còn biểu hiện xu hướng hợp nhất với ba trạng thái chủ yếu là cố kết, đồng hóa và hòa hợp. Quá trình cố kết cộng đồng Cơ tu từ các vùng cư trú của nhóm vùng cao, vùng thấp và với các tộc người có những quan hệ gần gũi với nhau về nguồn gốc, ngôn ngữ, văn hóa đã và đang diễn ra. Cùng với xu hướng cố kết cộng đồng thì tộc người còn có hiện tượng đồng hóa, sự đồng hóa khá mạnh mẽ thể hiện trong quá trình tiếp xúc, giao lưu cận cư lâu ngày với người Kinh đã tiếp thu và làm thay đổi một số thành tố văn hóa vật chất cũng như tinh thần như cách ăn mặc, nhà ở, tổ chức cúng giỗ, cưới hỏi… Tuy nhiên, trong quá trình tiếp xúc, giao lưu đó, dù có những biến đổi nhưng các phong tục truyền thống trong đời sống sinh hoạt vẫn được đồng bào ý thức, duy trì mang tính phù hợp song song với văn hóa Kinh. Vậy nên về cơ bản có thể nói rằng, quá trình lịch sử của tộc người diễn ra đồng thời hai xu hướng chính là sự cố kết và hòa hợp giữa các tộc người. 1.2.3. Đời sống kinh tế - xã hội 1.2.3.1. Về đời sống kinh tế Những năm đầu mới thành lập, vùng nông thôn miền núi Hòa Vang vô cùng nghèo nàn, lạc hậu cả về kinh tế lẫn văn hóa - xã hội. Toàn xã Hòa Bắc có dân số trên 4202 nhân khẩu [60] (trong đó cộng đồng Cơ tu có khoảng 749 nhân khẩu); xã Hòa Phú có 5343 nhân khẩu (trong đó cộng đồng Cơ tu có khoảng 443 nhân khẩu) không có một công trình cơ sở hạ tầng nào, ngoài tuyến đường độc đạo ĐT604 nối liền miền núi với miền xuôi được cấp phối đá hộc thì các tuyến giao thông còn lại hoàn toàn đường đất đỏ "nắng bụi, mưa bùn", thôn làng chỉ là những mái nhà sàn tranh tre lụp xụp, cuộc sống người dân khá khó khăn, kham khổ, đói ăn và thiếu mặc. Do sinh sống trong môi trường rừng núi với địa hình chính là đồi dốc nên đồng bào chọn canh tác nương rẫy làm sinh kế chính, khai thác các sản phẩm từ rừng. Năng suất lương thực thu được từ nương rẫy không ổn định.
  • 30. 24 Cùng với chủ trương định canh của nhà nước, cây lúa nước và nền nông nghiệp lúa nước đã từng bước thâm nhập, góp phần thay đổi cơ cấu kinh tế truyền thống của tộc người. Họ được hướng dẫn làm quen với cây lúa nước, với các kỹ thuật canh tác và chăm bón, song do nhiều nguyên nhân khác nhau (tâm lý và thói quen, tập quán, tín ngưỡng, vốn, công cụ, kỹ thuật…), cây lúa nước vẫn chưa là chỗ dựa hoàn toàn đáng tin cậy cho tộc người. Đồng bào vẫn xem nương rẫy là nguồn sống cơ bản của mình tuy rằng hoạt động sinh kế này không hoàn toàn đảm bảo được nguồn lương thực cơ bản cho đời sống cộng đồng. Do đó, để làm phong phú thêm cho hoạt động sinh kế, họ duy trì thêm hình thức hái lượm, săn bắt, đánh cá (ở sông, suối). Những hoạt động này tuy mang tính chất bổ trợ song có tác dụng rất quan trọng đối với tính chất tự túc của họ trong cuộc sống thường nhật hay trong những lúc mất mùa, giáp hạt. Hiện tại, trong cơ cấu kinh tế của xã Hòa Bắc nói chung, nơi cộng đồng người Cơ tu đang tập trung cư trú thì nông nghiệp vẫn đóng vai trò chủ yếu, với 85 ha diện tích đất trồng lúa, 300 ha diện tích đất trồng rau màu như mía, bắp, ớt, thuốc lá. Các hoạt động kinh tế khác gồm có chăn nuôi, đan lát, rèn, mộc và trao đổi hàng hóa. 1.2.3.2. Về đời sống xã hội Toàn xã Hòa Bắc có 9 thôn bố trí dọc ven sông Cu Đê. Dân số xã Hòa Bắc có hơn 1272 hộ, trong đó dân tộc Cơ tu là 247 hộ với trên 794 nhân khẩu, sinh sống ở hai thôn Tà Lang và Giàn Bí. Trong thời gian qua, tranh thủ nguồn vốn từ chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới của Trung ương, của thành phố, của huyện Hòa Vang, xã Hòa Bắc cũng đã từng bước đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng, cơ sở vật chất nâng cao đời sống cho người dân. Ở thôn Tà Lang - Giàn Bí hiện có nhiều thuận lợi từ hệ thống giao thông đến cơ sở hạ tầng điện nước, mạng điện thoại di động. Tình hình an ninh trật tự bảo đảm, không xuất hiện tệ nạn xã hội. Khu tái định cư Tà Lang - Giàn Bí đang được Hoàn thiện hạ tầng kỹ thuật, trở thành cụm dân cư khang trang, tạo điều kiện thuận lợi có thể phát triển loại hình lưu trú homesay trong tương lai. Đến nay tại địa bàn xã, hệ thống hạ tầng kỹ thuật được đầu tư và nâng cấp, đường giao thông được bê tông hóa 100%, trạm y tế đạt chuẩn quốc gia, 100% hộ dân sử
  • 31. 25 dụng điện lưới quốc gia, trường học đạt chuẩn theo quy định của ngành giáo dục thành phố. Cả xã được trang bị hệ thống trường học từ mầm non (01 trường mẫu giáo trung tâm và 07 trường lẻ phân bố tại 7 thôn xã), tiểu học (01 trường trung tâm và 07 trường lẻ phân bố ở 7 thôn) đến THCS (01 trường THCS trung tâm nằm ở thôn Phò Nam), có 01 trạm y tế trung tâm nằm gần trụ sở UBND xã Hòa Bắc và 01 trạm xá quân dân y kết hợp tại thôn Giàn Bí. Tuy có các thuận lợi ở trên song về cơ bản, Hòa Bắc vẫn là một xã miền núi với địa hình phức tạp, dân cư thưa thớt, vùng đồng bằng bị ngập lụt, vùng núi cao thiếu nước. Hiện nay người dân địa phương ở Tà Lang - Giàn Bí đa số vẫn nghèo bởi đời sống kinh tế phụ thuộc vào thiên nhiên, hiện tượng khai thác rừng quá mức để phục vụ sinh kế nhưng chưa gắn với ý thức bảo vệ tài nguyên và môi trường một cách phù hợp cho sự phát triển bền vững trong tương lai. Trình độ dân trí hạn chế nên còn khó khăn trong việc tiếp cận và giao lưu. Tổ chức cộng đồng người Cơ tu theo chế độ phụ hệ, con lấy họ theo cha, chỉ con trai mới được thừa hưởng gia tài. Mỗi dòng họ tộc người đều có tên gọi riêng, và có những kiêng cử riêng của dòng họ mình. Khi sống, các thành viên trong dòng họ có trách nhiệm cưu mang, giúp đỡ lẫn nhau, khi chết được chôn cất bên nhau trong bãi mộ chung của làng. Đồng bào có phong tục làm nhà mồ, chung quanh mộ dựng nhiều tượng gỗ, không có tục cúng giỗ, tảo mộ [45, tr.22]. Tiểu kết chương 1 Với sự tiếp cận đến các lý thuyết chung, các định nghĩa từ các nhà khoa học về tộc người, bản sắc và các yếu tố biến đổi bản sắc tộc người nói chung trong tiến trình đô thị hóa, bước đầu luận văn đã định hướng được các phương pháp chủ đạo để tìm kiếm các nội dung bao quát ban đầu về địa bàn cư trú, nguồn gốc tộc người, và giá trị văn hóa truyền thống của tộc người Cơ tu ở xã Hòa Bắc, huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng. Là một làng miền núi nằm ở phía tây thành phố Đà Nẵng, cộng đồng tộc người Cơ tu ở Hòa Bắc hiện nay khoảng 800 người. Với vị trí địa lý đặc thù và nguồn tài
  • 32. 26 nguyên tự nhiên đa dạng, phong phú, có tiềm năng để phát triển loại hình du lịch cộng đồng trong tương lai. Do địa bàn sinh sống gần gũi với người Kinh, đồng thời cùng với quá trình đô thị hóa diễn ra mạnh mẽ của Đà Nẵng dẫn đến những sự biến đổi mang tính tất yếu trên các mặt đời sống kinh tế xã hội. Tuy nhiên, dưới góc độ văn hóa, vấn đề mai một các giá trị truyền thống tộc người cần được nhìn nhận một cách sâu sắc và tổng thể để có định hướng phát triển phù hợp mà đồng thời vẫn bảo tồn được các giá trị đặc trưng của văn hóa tộc người Cơ tu nơi đây.
  • 33. 27 Chương 2 VĂN HÓA VẬT CHẤT TRUYỀN THỐNG CỦA NGƯỜI CƠ TU TẠI XÃ HÒA BẮC HUYỆN HÒA VANG, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG Khi bàn về văn hóa truyền thống của tộc người, các nhà nghiên cứu văn hóa nói chung, nghiên cứu Việt Nam học nói riêng thường đề cập đến nội hàm văn hóa truyền thống bao gồm 2 thành tố, 3 thành tố hoặc hơn 3 thành tố… Ví dụ nội hàm có 2 thành tố là văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần; 3 thành tố là văn hóa vật chất, văn hóa tinh thần, văn hóa xã hội; trên 3 thành tố là văn hóa vật chất, văn hóa tinh thần, văn hóa sản xuất, văn hóa xã hội. Trong luận văn này, để làm rõ hơn những điểm nhấn nổi bật trong giá trị văn hóa vật chất rất đa dạng, phong phú của tộc người Cơ tu tại địa bàn nghiên cứu, chúng tôi sẽ tiếp cận nghiên cứu nội hàm văn hóa vật chất của đồng bào theo biểu hiện sau: Hình 2.1. Sơ đồ các thành tố văn hóa vật chất 2.1. Làng, nhà ở Làng (tiếng Cơ tu gọi là vel hay vil) là tổ chức xã hội quan trọng nhất trong số những hợp phần tổ chức cấu thành nên văn hóa, xã hội tộc người. Đây là một đơn vị kinh tế độc lập, tách biệt, tự cung tự cấp và có một quá trình hình thành lâu dài trong lịch sử. Mỗi làng có một ranh giới được phân định bằng con sông, ngọn núi, quả đồi, khu rừng, gốc cây cổ thụ hay tảng đá lớn… Mọi sự vi phạm cương vực của làng đều được xét xử với nhiều hình phạt tuỳ theo mức độ nặng nhẹ. Làng có một nguồn nước chung, khu rừng thiêng, vùng núi săn bắn, các vùng đất canh tác của các thành viên làng, và ngôi nhà sinh hoạt chung của làng (Gươl). Tên gọi làng thường lấy theo tên khe suối, thác nước, loại cây rừng… các tên gọi gắn liền nơi sinh sống gắn bó sâu Phương tiện đi lại Làng, nhà cửa Trang phục Văn hoá vật chất Công cụ lao động sản xuất Ẩm thực
  • 34. 28 sắc với cộng đồng qua thời gian [2; tr. 74]. Làng Cơ tu truyền thống là dạng làng phòng thủ, nhà ở xếp theo hình bán nguyệt, bầu dục, thường là hình vành khuyên, chung quanh có hàng rào kiên cố bảo vệ. Mỗi làng là một tập hợp các gia đình phụ hệ cư trú chung và giữa các gia đình thường có quan hệ họ hàng thân thuộc, gần xa bởi huyết thống và hôn nhân. Chế độ tự quản của làng được thực thi đơn giản nhưng chặt chẽ, hiệu quả thông qua vai trò của già làng (Tacóh pơơ), vận hành trên cơ sở luật tục dưới dạng phong tục tập quán, đề cao truyền thống trọng người già và tập tính cộng đồng cao. Về cơ bản, cấu trúc ngôi làng truyền thống thường phải đảm bảo đủ các thành tố là cổng làng (mở về hướng mặt trời mọc), hàng rào làng, máng nước, kho thóc và nghĩa địa chung. Hình 2.2: Bình đồ một làng truyền thống của người Cơ tu Nguồn: [19; tr. 77 ] Gươl (hay gual/ gol) về cả tên gọi và chức năng đều gần gũi với ron/ rong (Bana, Bru, Tarai), kong (Khmu)… Trong tiếng Cơ tu, gươl có nghĩa là cộng đồng, điều này còn thể hiện rõ nét qua chức năng của gươl. Gươl được xây dựng sau khi các ngôi nhà trong làng xây xong và là công trình của tập thể với sự góp công sức của toàn thể dân làng, gắn ba chức năng chính, gắn kết với nhau: chức năng hành chính, chức năng sinh hoạt văn hóa cộng đồng và chức năng bảo tồn văn hóa. Chính vì lẽ đó mà nhà gươl là nơi tụ họp của dân làng, nơi tiếp khách, nơi diễn ra những nghi lễ linh thiêng… Bên cạnh đó, đây còn là nhà dành riêng cho những chàng trai chưa vợ, đồng thời những thanh niên này cũng có nhiệm vụ trông coi và săn sóc chu đáo cho ngôi nhà chung của làng. Nhà gươl được xem là chốn linh thiêng, nơi trú ngụ của hồn tổ tiên, những người chết tốt, nên phụ nữ không được vào.
  • 35. 29 Nhà gươl truyền thống bao giờ cũng được xây cất rất cẩn thận. Toàn bộ vật liệu dùng cho việc xây dựng đều có nguồn gốc từ núi rừng. Đặc điểm lớn nhất của nhà gươl là dạng nhà sàn lớn tựa trên một cột cái - cột biểu tượng cho sức mạnh cộng đồng. Hai mái nhà gươl dốc, hai đầu hồi hình vòng cung. Hệ thống cột, xà, vì kèo liên kết với nhau bằng kĩ thuật khá đơn giản. Nét độc đáo nhất của nhà gươl chính là cây cột giữa, được người Cơ tu gọi là cây “cột bố” - thể hiện chế độ phụ hệ. Hình dáng và trang trí của nó có các motif thiêng như mặt trời, mặt trăng, ngôi sao, chim, gà, rắn, rồng, rùa, dương vật, trống, cối giã gạo… Theo già làng Bùi Văn Cầm - ở thôn Giàn Bí xã Hòa Bắc chia sẻ: “Thời gian để xây dựng nhà gươl thường mất khoảng 2-3 tháng và thường tổ chức khi mặt trời vừa mọc”. Quy trình dựng nhà bắt đầu bằng việc dựng cây cột bố, sau khi cây cột này được dựng ngay ngắn, già làng sẽ lấy nước nguồn tinh khiết tắm cho cột cái, sau đó cầu mong thần linh phù hộ cho làng. Sau đó sáu cây “cột cái” và 6 “cột con” được dựng song song hai bên theo hướng từ đông sang tây. Nhà gươl thường có ba xà dọc và một xà ngang ghép với đầu cột hai cây cột chính đầu hồi. Hệ thống xà, cột và các đòn nóc là cơ sở tạo cho kiến trúc ngôi nhà thêm vững chắc. Phía trên có 3-5 kèo để đặt mái. Mái được đan lát công phu và lợp bằng hai lớp mái (mây, tranh) phía dưới là sàn nhà với hình chữ nhật, được lót bằng những tấm đan lồ ô, vỏ cây đập dập hoặc ván gỗ được nâng đỡ bởi một hệ thống dầm ngang và dọc ở dưới gầm. Vách nhà Gươl được dựng một lớp lồ ô đan hoặc gỗ ván. Đối với loại vách làm bằng gỗ ván dọc mọc, dày khoảng 10cm, đòi hỏi phải đẽo gọt tinh tế, trên bề mặt có kết hợp điêu khắc và trang trí hoa văn. Có thể nói gươl tượng trưng cho sức mạnh cộng đồng. Gươl càng cao to, hoành tráng thì càng chứng tỏ tiềm lực và sức mạnh đoàn kết của dân làng. Đặc biệt, các cột cái, nhiều người cho rằng nó tượng trưng cho uy thế của chủ làng và sự hưng thịnh của làng. Nó càng to, càng đẹp bao nhiêu thì thân phận của làng càng vững chắc, vị thế của làng càng được củng cố. Về cơ bản, vai trò chức năng của ngôi nhà là thống nhất nhưng những motif trang trí điêu khắc thường thấy trên các cột cái của nhà Gươl là không giống nhau, có thể lý giải bằng tín ngưỡng nội bộ cộng đồng làng hay sự kiêng kị thờ cúng của người Cơ tu.
  • 36. 30 Trước nhà gươl luôn có một cột tế. Cột tế thường làm bằng gỗ của một loại cây đặc biệt gọi là kron/kloong trong tiếng Cơ tu, play/bloong trong tiếng Bana, Jarai, gòn trong tiếng Việt miền Trung và Nam và gạo trong tiếng Việt miền Bắc. Với đặc điểm mềm, dẻo nên gỗ gạo rất hợp cho việc điêu khắc cột tế. Bên cạnh sinh hoạt cộng đồng chung và nhà gươl, mỗi gia đình, nhiều nhất là ba bốn thế hệ sẽ cùng chung sống trong một ngôi nhà ở riêng, đó là nhà sàn. Đây là phương tiện cư trú gắn với bản làng đồng bào. Theo luật tục, các thành viên trong làng có quyền tự do lựa chọn đất đai trong phạm vi để xây dựng ngôi nhà của mình và có nghĩa vụ tuân theo các quy định của luật tục. Nhà sàn được xây dựng cũng như nhà gươl với sự tham gia góp sức của cả cộng đồng nhưng quy mô nhỏ hơn. Trước đây, sàn thường cao trên 2m, được làm theo kiểu mái tròn, độ dài ngắn, cao thấp của các nhà không hoàn toàn giống nhau tùy thuộc vào số người trong nhà và các nguyên liệu sẵn có trong vùng. Nhà ở của người Cơ tu nhỏ và thấp, phần lớn là một gia đình cư trú. Nóc hình “mai rùa” giống như nhà người Giẻ - Triêng. Bộ khung nhà có kết cấu đơn giản, các cột được chôn sâu xuống đất nhằm tạo sự vững chãi và tăng khả năng chống chịu với tự nhiên. Sàn nhà thông thóang được làm bằng nứa đập dập lát trên hệ thống xà ngang, dọc cách mặt đất chừng 50cm. Để tăng khả năng chịu lực cho sàn, người ta thường chôn các cột phụ có chiều cao đến mặt sàn để làm giá đỡ cho cả sàn. Phần liên kết sàn có thể khoét những ngoãm đỡ, gá đỡ hoặc được khoét các mộng hở. Ngoài hai hàng cột sau và trước, các cột đầu hồi cũng có tác dụng chịu lực quan trọng từ bộ mái. Ở hai đầu hồi, người ta còn tạo một cánh cung bằng gỗ để liên kết các cột đầu hồi với hai cây cột hành trước, sau kề sát và được uốn cong khi gỗ còn tươi nhằm tránh nứt, vỡ. Ngôi nhà được che kín bởi các liếp tre nứa nối từ sàn đến bờ mép mái. Mái lợp bằng tranh, lá nón, lá kè… trên hệ thống đòn tay, rui, mè, bằng tre, nứa uốn hình bầu dục phía hai đầu hồi. Bên dưới những thanh nứa uốn cong này là các thanh gỗ nhỏ xếp thành hình rẽ quạt nối từ đòn nóc đến các cột con. Ngôi nhà sàn thường có hai cửa ra vào và cửa thông gió ở phía đầu hồi nhưng nhìn chung không gian nội thất thường thiếu ánh sáng, chật chội.
  • 37. 31 Nhà của người Cơ tu thường có khoảng 3 cửa ra vào trong đó cửa chính được mở ngay vách trước hai cửa phụ ở phía đầu hồi, các cửa được đóng và mở bằng các lớp phên tre. Do sàn nhà không quá cao nên cầu thang lên xuống tương đối đơn giản, đó có thể là thanh gỗ đẽo những gờ đơn giản hay thang tre, thỉnh thoảng mới có cây gỗ với những bậc thang tạo hình đầu trâu cách điệu. Cũng như gươl, nhà sàn cũng có nhiều bếp lửa, gồm hai bếp lửa đối xứng theo chiều ngang qua cây cột cái, một bếp dành cho người đàn ông và khách ở phía phải ngôi nhà bếp, bếp còn lại dành cho người phụ nữ. Nơi thiêng liêng nhất của ngôi nhà là khoảng không gian từ cây cột cái đến vách sau. Đây cũng là nơi cất giữ những đồ vật quý (gùi của cải và lúa giống), là nơi đồng bào thực hiện những nghi lễ liên quan đến chu kỳ đời người. 2.2. Ẩm thực Bên cạnh nhu cầu tất yếu của con người để đảm bảo sự sinh tồn và phát triển, thì ẩm thực còn mang một giá trị văn hóa độc đáo riêng của mỗi cộng đồng góp phần tạo nên bản sắc vùng miền. Sống trong điều kiện tự nhiên khác nhau đã khiến cho mỗi dân tộc có một cách kiếm sống phù hợp và trong ăn uống cũng có những đặc trưng riêng biệt. Xuất phát từ nền kinh tế nương rẫy, điểm nổi bật trong cách ăn uống của người Cơ tu là mang đậm yếu tố tự cung tự cấp, đóng kín. Trước khi định canh định cư như bây giờ, nguồn thức ăn chủ yếu của đồng bào là sản phẩm từ nương rẫy và một ít từ săn bắn, hái lượm. Họ quan niệm ăn uống chỉ là phương tiện để sinh tồn nên cơ cấu bữa ăn khá đơn giản theo kiểu mùa nào thức nấy. Với các đặc tính sau: - Đặc tính đơn giản, ít nghi thức, mang đậm yếu tố tự cung tự cấp trong cơ cấu bữa ăn, trong cách thức tổ chức bữa ăn. Đây chính là sự thích nghi trong ăn uống của con người với môi trường sống. Theo già làng Bùi Văn Cầm 85 tuổi, ở thôn Giàn Bí chia sẻ: Những đồ ăn thức uống của tộc người là những thứ được chế biến từ sản phẩm của núi rừng, là những sản phẩm do đồng bào tự làm ra, không phải qua mua bán. Đó là các loại lương thực, thực phẩm từ trồng trọt, chăn nuôi, săn bắn, thu nhặt từ núi rừng, sông suối như: lúa, ngô, khoai, sắn, các loại thịt rừng, thịt gia súc, gia cầm, cá hay các loại nhuyễn thể… Vào mùa xuân, mùa hạ thì nguồn rau, thực phẩm
  • 38. 32 dồi dào, bữa ăn đa dạng, phong phú. Vào mùa thu, mùa đông, ăn uống trở nên đạm bạc, đơn giản do ít rau củ, ít thú săn… Những lúc được mùa thì gia đình nào cũng ăn nhiều, ăn no, lúc mất mùa, lúc giáp hạt thì không đủ lương thực ăn. Họ có thói quen ăn hai bữa chính (sáng và chiều), bữa trưa là bữa ăn phụ. Điều này bị chi phối bởi tính chất của công việc canh tác nương rẫy quy định, họ thường phải đi bộ vào rừng làm rẫy, rừng, cách khu định cư khoảng 2-3km vì vậy để tiết kiệm thời gian trong ngày thì họ hạn chế về nhà nấu bữa trưa. Trong các bữa ăn, đồng bào chú ý số lượng hơn là chất lượng thức ăn. Khi ăn uống họ ít mời mọc, ít có sự phân biệt ngôi thứ, tuổi tác, chỉ những lúc cần thiết tại khu vực linh thiêng (như nhà gươl) thì mới có sự phân công vai vế già trẻ… Trong bữa ăn tính đơn giản thể hiện rõ nhất trong cách chế biến món ăn, đồng bào ít pha chế, ít dùng gia vị, chủ yếu chỉ có luộc và nướng thức ăn. - Tính cộng đồng được thể hiện rất cao. Đây là đặc tính tiêu biểu trong ăn uống của tộc người được thể hiện qua bày biện thức ăn: Thức ăn bày ra chỉ chú ý tới tính tiện dụng, đơn giản. Đặc biệt, đồng bào có tục chia phần ăn trong các ngày lễ hội của làng. Khi chia phần ăn dù có mặt hay không, mọi thành viên trong cộng đồng đều có phần. Già làng Bùi Văn Cầm cho biết: “Thời kỳ trước đây đứa trẻ còn nằm trong bụng mẹ, hay khách đến chơi đều được chia phần như các thành viên khác”. Tính cộng đồng còn được thể hiện trong không gian ăn uống, trong số lượng người tham gia vào các bữa ăn. Khi ăn uống, nam nữ ăn riêng. Bữa tối, đàn ông thường mang đồ ăn thức uống ra nhà gươl để cùng ăn và trò chuyện. Tộc người rất hiếu khách, vì thế khi khách đến chơi sẽ được bố trí ở nhà “gươl” và đến bữa các gia đình sẽ mang đồ ăn ra nhà “gươl” cho khách vì thế khách sẽ ăn của mỗi nhà một ít. Vào các dịp lễ tết, hội hè, ma chay, cưới xin…, các gia đình dù ít dù nhiều đều chung nhau đóng góp và có mặt đông đủ tại gia chủ đứng ra chủ trì. Ở cả ba vùng Quảng Nam, Đà Nẵng, Nam Đông biểu hiện văn hóa đều giống nhau ở khía cạnh này. Hình 2.3. Sơ đồ bố trí bàn ăn của người Cơ tu (trong nhà và ngoài sân)
  • 39. 33 - Ăn uống của người Cơ tu thường không có kế hoạch, lãng phí dẫn đến tình trạng thừa mà lại thiếu. Điều này thể hiện trong các dịp lễ hội, đồng bào thường bỏ ra một khối lượng thức ăn rất lớn, vượt ra ngoài yêu cầu cần thiết. Đây cũng là những dịp họ ăn uống thoải mái thừa thải, mà không nghĩ đến việc tích trữ tiêu dùng vào những vụ giáp hạt, đói kém… Đối với cộng đồng, ý thức tiết kiệm hầu như không được chú trọng phù hợp. Hiện nay tình trạng này vẫn còn khá phổ biến. Vào những dịp hội hè, ma chay, cưới hỏi… họ tổ chức ăn uống thoải mái, thậm chí chấp nhận phải trả nợ đến mấy năm sau. Hộp số 1: Phỏng vấn anh Đinh Văn Như - thôn Giàn Bí
  • 40. 34 Trưởng thôn Giàn Bí (xã Hòa Bắc), anh Đinh Văn Như kể lại rằng: “Khi đến những ngày lễ hội ví như mừng lúa mới, buôn anh thường chuẩn bị rất nhiều thức ăn làm lễ cúng tế thần linh: trai tráng vào rừng săn thú, phụ nữ bắt ốc, cá, ủ rượu, nấu xôi, làm bánh, làm thịt nhiều heo, gà… chuẩn bị gọt đẽo cây đâm một con trâu lớn để ăn mừng sau khi nghi lễ đâm trâu Hoàn thành, cầu mong những điều tốt lành cho dân làng, mong mùa bội thu, mưa thuận gió Hòa để làm ăn sinh sống, mùa nào thức nấy cũng sum suê no cơm ấm bụng cho tất cả mọi người”. Chính vì vậy, họ không tiếc công sức, của cải chuẩn bị thật nhiều, và dư dã hơn cả số lượng người dân làng, vì quan niệm như vậy thì cả năm sẽ luôn được no nê sung sướng, không thiếu ăn thiếu mặc. (Nguồn: Tài liệu điền dã tháng 4/2018). - Ăn bằng tay (ăn bốc) là tập quán khá phổ biến trong các thời kỳ trước đây của đồng bào. Ăn bốc là tập quán từ xa xưa của đồng bào, họ ít dùng bát đũa như người Kinh. Tập quán này có cái lợi là gọn nhẹ, dễ xử lý trong khi ăn. Họ cũng quan niệm gạo là hạt ngọc trời ban vì vậy phải ăn bằng tay (ăn bốc) nâng niu những thứ quý giá trời đất ban tặng để luôn được đầy đủ sung túc. - Ăn uống của người Cơ tu mang tính thực dụng nhiều hơn là thẩm mỹ và đôi lúc còn mang tính tâm linh. Trong một khoảng thời gian dài trước đây, đối với đồng bào, ăn uống chỉ là nhu cầu tất yếu, là điều kiện đảm bảo sự sinh tồn. Sống giữa vùng núi non, luôn bị cái đói đe doạ, hành hạ nên họ chưa xem ăn uống như là một nghệ thuật, một chuẩn mực xã hội. Họ chỉ kiêng ăn những động, thực vật mà tộc người xem là tổ vật, vật kiêng được truyền dạy từ quan niệm lâu đời của tổ tiên. Hộp số 2: Phỏng vấn già làng Bùi Văn Cầm - thôn Giàn Bí
  • 41. 35 Già làng lớn tuổi nhất hiện nay tại thôn Giàn Bí (xã Hòa Bắc) - ông Bùi Văn Cầm kể lại rằng: “Trước đây, đi săn được gì thì ăn nấy, săn thú lớn (sơn dương, trâu rừng, heo rừng, nai…) thì để đầu, xương lại thờ ở gươl hoặc nhà chủ nhân để thể hiện tài năng, còn thịt sẽ đem chia đều cho cả làng (nội tạng thì kỵ chỉ ăn mỗi thứ một nửa còn một nửa chia ra nhà khác). Dân ở đây thường mổ trâu, lợn, gà ăn mừng vào những ngày làng có việc vui; nhưng vào những dịp ấy kỵ nhất là ăn thịt bò vì con bò có da màu đỏ không được ăn, đồng bào cho đó là con vật biểu hiện tin xấu như trường hợp làng có tang ma “chết xấu”, ví như khi làng có phụ nữ mang thai rồi chết hay làng có người bị các tai nạn hay tự tử chết thì cả làng phải bỏ đi đốt hết làng để tìm đất tốt hơn lập làng mới (hoặc đợi 3 tháng 10 ngày nhờ người làng khác đến dùng rượu tắm từng người trong làng để hóa phép cho sạch điềm xấu rồi mới được cất làng mới ở), chỉ những ngày như thế hay mổ bò ăn. Hay phụ nữ Cơ tu kỵ ăn con trút (tê tê) vì con vật này thường có tập quán sống trong hang ăn kiến chỉ đến chu kỳ mồng 5, ngày 30, ngày rằm mới chui ra ngoài kiếm ăn vì vậy phụ nữ ăn sẽ khó sinh con…” (Nguồn: Tài liệu điền dã tháng 4/2018). - Do nhiều nguyên nhân tác động nên đối với người Cơ tu, khâu chế biến, nhất là bảo quản thức ăn ít được chú ý. Đối với đồng bào đồ ăn trong các bữa ăn thường “chặt to, kho mặn”. Họ ít có kinh nghiệm trong việc bảo quản thức ăn. Phương thức để dành chủ yếu là phơi khô hay dầm muối hoặc treo lên dàn bếp. Hộp số 3: Phỏng vấn chị Đinh Thị Hồng - thôn Giàn Bí Khi quan sát sự chuẩn bị món ăn của các mâm cỗ ngày cưới truyền thống, hay những bữa ăn hằng ngày của đồng bào hiện nay, chúng tôi cũng dễ dàng nhận thấy những món ăn cùng cách chế biến đơn giản, nhanh gọn của họ… Chị Đinh Thị Hồng (tên Cơ tu là Y vân Hồng) 31 tuổi, thôn Giàn Bí chia sẻ: “Thức ăn ở đây làm rất đơn giản, ít cầu kỳ trong gia vị sao cho nhanh và tiện”. Ví dụ: “cá bắt từ sông suối về sẽ được làm sạch sơ, xuyên que ngang nướng mọi trên dàn bếp chín rồi ăn kèm với muối ớt, thịt heo rừng sau khi giết mổ làm sạch, chia nhỏ thành miếng lớn khổ dài”. Có 2 cách chế biến: 1 là “để nguyên khổ thịt móc lên thanh sắt dàn bếp để tháng này qua tháng nọ hun khói bếp nóng khô (săn thịt) thịt và chín”, hoặc “chặt thành nhiều cục nhỏ hơn thêm mắm muối kho lại ăn”. Ngoài ra, có thể “muối” thịt bỏ hũ ngâm cho mặn dự trữ ăn dần… Các loại nước nấu từ lá cây như chè dây, đậu mùn thì chỉ cần làm sạch, đun với nước sôi là uống được. (Nguồn: Tài liệu điền dã tháng 4/2018). - Uống rượu và hút thuốc là một trong những tập quán khá phổ biến và lâu đời của đồng bào.