SlideShare a Scribd company logo
1 of 94
0
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHAÂN VĂN
---------------------------------
LÊ THỊ MỸ KIM
LỄ HỘI TRUYỀN THỐNG ĐỐI VỚI
ĐỜI SỐNG NGƢỜI DÂN HUYỆN ĐÔNG ANH,
THÀNH PHỐ HÀ NỘI HIỆN NAY
LUẬN VĂN THẠC SĨ TÔN GIÁO HỌC
HÀ NỘI - 2019
0
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
---------------------------------
LÊ THỊ MỸ KIM
LỄ HỘI TRUYỀN THỐNG ĐỐI VỚI
ĐỜI SỐNG NGƢỜI DÂN HUYỆN ĐÔNG ANH,
THÀNH PHỐ HÀ NỘI HIỆN NAY
Chuyên ngành: Tôn giáo học
Mã số : 60 22 03 09
LUẬN VĂN THẠC SĨ TÔN GIÁO HỌC
CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG:
PGS.TS. NGUYỄN THANH XUÂN
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. TRẦN THỊ KIM OANH
HÀ NỘI - 2019
1
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi.
Các kết quả nghiên cứu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng.
Những kết luận khoa học trong luận văn chưa từng được công bố trên bất kỳ
công trình nào khác.
Tác giả luận văn
Lê Thị Mỹ Kim
2
LỜI CẢM ƠN
Tác giả xin trân thành cảm ơn các Thầy, Cô giáo trong Bộ môn Tôn
giáo học đã giảng dạy, trang bị kiến thức giúp tác giả nắm vững những vấn đề
lý luận và phương pháp luận để hoàn thành tốt luận văn này. Đặc biệt, tác giả
xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến PGS.TS. Trần Thị Kim Oanh – người thầy đã
tận tình hướng dẫn, chỉ bảo tác giả trong suốt quá trình làm luận văn.
Con xin đê đầu đảnh lễ và tri ân chư tôn Hòa Thượng, chư Thượng tọa
lãnh đạo Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam đã quan tâm, tạo nhiều
thuận duyên cho con trong suốt quá trình học tập, bên cạnh đó nhờ sự động
viên và trợ duyên quý báu của gia đình cũng như đàn na thí chủ.
Kính chúc Chư Liệt vị pháp thể khinh an, đạo lộ tấn pháp, chúng sinh
dị độ, Phật đạo viên thành!
Xin trân thành cảm ơn!
Tác giả
Lê Thị Mỹ Kim
3
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU........................................................................................................... 1
Chương 1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ ĐIỀU KIỆN KINH TẾ, XÃ HỘI,
VĂN HÓA VÀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ LỄ HỘI TRUYỀN THỐNG CỦA
HUYỆN ĐÔNG ANH, THÀNH PHỐ HÀ NỘI .............................................. 9
1.1. Khái quát chung về điều kiện kinh tế, xã hội, văn hóa của huyện
Đông Anh, thành phố Hà Nội ..................................................................... 9
1.1.1. Điều kiện kinh tế, xã hội của huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội .. 9
1.1.2. Đời sống văn hóa của người dân huyện Đông Anh, thành phố
Hà Nội......................................................................................................14
1.2. Lý luận chung về lễ hội truyền thống của huyện Đông Anh, thành
phố Hà Nội..................................................................................................18
1.2.1. Khái niệm và cách phân loại lễ hội ................................................18
1.2.2. Hệ thống các lễ hội truyền thống của huyện Đông Anh................22
1.2.3. Đặc trưng lễ hội truyền thống của huyện Đông Anh, thành phố
Hà Nội ......................................................................................................23
1.2.4. Một số lễ hội truyền thống tiêu biểu ..............................................26
Tiểu kết chƣơng 1 ......................................................................................33
Chương 2. VAI TRÕ CỦA LỄ HỘI TRUYỀN THỐNG ĐỐI VỚI ĐỜI
SỐNG NGƯỜI DÂN VÀ XU HƯỚNG BIẾN ĐỔI CỦA LỄ HỘI TRUYỀN
THỐNG HUYỆN ĐÔNG ANH, THÀNH PHỐ HÀ NỘI .............................35
2.1. Vai trò của lễ hội truyền thống đối với đời sống ngƣời dân huyện
Đông Anh, thành phố Hà Nội ...................................................................35
2.1.1. Vai trò của lễ hội truyền thống đối với đời sống tinh thần của người
dân huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội.................................................35
2.1.2. Vai trò của lễ hội truyền thống đối với đời sống vật chất của người
dân huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội.................................................49
4
2.2. Xu hƣớng biến đổi của lễ hội truyền thống huyện Đông Anh, thành
phố Hà Nội..................................................................................................53
2.2.1. Cơ sở dự báo xu hướng biến đổi của lễ hội truyền thống huyện
Đông Anh, thành phố Hà Nội. .................................................................53
2.2.2. Các xu hướng biến đổi cụ thể của lễ hội truyền thống huyện Đông
Anh, thành phố Hà Nội trong thời gian tới ..............................................59
Tiểu kết chƣơng 2. .....................................................................................61
Chương 3. VẤN ĐỀ BẢO TỒN, PHÁT HUY VAI TRÕ, GIÁ TRỊ CỦA LỄ
HỘI TRUYỀN THỐNG HUYỆN ĐÔNG ANH, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
HIỆN NAY......................................................................................................63
3.1. Đánh giá công tác bảo tồn, phát huy vai trò, giá trị của lễ hội
truyền thống huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội giai đoạn hiện nay 63
3.1.1. Những thành tựu đạt được trong công tác bảo tồn, phát huy vai trò,
giá trị của lễ hội truyền thống huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội giai
đoạn hiện nay............................................................................................63
3.1.2. Những vấn đề còn tồn tại trong công tác bảo tồn, phát huy vai
trò, giá trị của lễ hội truyền thống huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội
giai đoạn hiện nay ...................................................................................68
3.2. Các khuyến nghị nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả công tác bảo
tồn, phát huy vai trò, giá trị của lễ hội truyền thống huyện Đông Anh,
thành phố Hà Nội giai đoạn hiện nay ......................................................70
3.2.1. Khuyến nghị đối với các cơ quan chức năng huyện Đông Anh.70
3.2.2. Khuyến nghị đối với người dân huyện Đông Anh, thành phố Hà
Nội............................................................................................................75
Tiểu kết chƣơng 3 ......................................................................................77
KẾT LUẬN.....................................................................................................78
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................79
PHỤ LỤC
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong bối cảnh hiện nay, khi thế giới đang trong thời đại của sự hội
nhập mạnh mẽ, của sự kết nối toàn cầu, vấn đề bản sắc văn hóa được coi là
“chìa khóa” để các quốc gia, dân tộc trên thế giới bước vào “thế giới phẳng”
mà vẫn tự tin “không đánh mất chính mình”, để “hòa nhập chứ không hòa
tan”. Việt Nam là một quốc gia đã có bề dày văn hóa hàng nghìn năm lịch sử.
Bề dày văn hóa đó đã tạo nên cốt cách Việt Nam, linh hồn Việt Nam, sự
trường tồn của Việt Nam trước những bão táp phong ba của lịch sử, trước
những cuộc xâm lăng văn hóa dai dẳng của các nền văn hóa khác. Tiếp nối
lịch sử đó, việc gìn giữ các giá trị văn hóa truyền thống của Việt Nam trong
bối cảnh hiện nay mang ý nghĩa hết sức quan trọng.
Huyện Đông Anh là một huyện ngoại thành của thành phố Hà Nội,
có vị trí chiến lược quan trọng không chỉ về vị trí địa lý mà còn là sự tổng
hòa của các yếu tố tự nhiên và đặc trưng văn hóa riêng biệt đã tạo ra vị thế
đặc biệt của vùng đất này. Vì những yếu tố đó, trong lịch sử, Đông Anh đã
từng hai lần được chọn là kinh đô của nước Việt: lần một là Kinh đô Cổ
Loa thời An Dương Vương và lần hai là sau khi Ngô Quyền đánh tan quân
xâm lược Nam Hán trên dòng sông Bạch Đằng huyền thoại. “Khắc họa
những nét lịch sử trên cho phép chúng ta tự hào vì Đông Anh là vùng đất
có bề dày lịch sử và truyền thống văn hóa. Nơi đây những giá trị văn hóa
lớn của dân tộc đã được kết tinh trong sự kiện sáng tạo nên một công trình
vĩ đại: Cổ Loa - Kinh thành, Quân thành, Thị thành đầu tiên của dân tộc,
mở cơ đồ cho Nhà nước Âu Lạc, thúc đẩy nền văn hóa Đông Sơn, nền văn
minh lúa nước Việt Nam phát triển đến đỉnh cao” [17, tr.15]. Và “Kết quả
các cuộc khai quật khảo cổ học cho thấy, trên vùng đất này đã tồn tại nhiều
2
lớp văn hóa nối tiếp nhau, từ thời đại đồ đồng đến thời đại đồ sắt, trên
chặng đường gần 20 thế kỷ trước Công nguyên” [17, tr.13].
Vùng đất nơi đây không chỉ nổi tiếng bởi những khu di tích lịch sử
nổi tiếng như: Cổ Loa, các đình, chùa, miếu mạo,… những nét đẹp văn hóa
như hát ca trù, múa rối nước,… mà nơi đây còn nổi tiếng bởi những lễ hội
truyền thống độc đáo, chứa đựng nhiều giá trị văn hóa.
Trong bối cảnh hội nhập như hiện nay, các lễ hội truyền thống có ý
nghĩa văn hóa vô cùng sâu sắc: là nơi chứa đựng các giá trị, tinh túy, độc
đáo. Là sự khẳng định bản sắc văn hóa của vùng. Huyện Đông Anh với vai
trò sứ mệnh của mình, đang trong quá trình đô thị hóa mạnh mẽ, gây ra
nhiều biến đổi về mọi mặt, chính vì vậy, các lễ hội truyền thống huyện
Đông Anh có vai trò quan trọng đối với đời sống người dân trên cả hai
phương diện đời sống vật chất và đời sống tinh thần. Chính vì vậy, phát
huy vai trò, giá trị của lễ hội truyền thống trong bối cảnh hiện nay là việc
làm cần thiết và có ý nghĩa.
Là một người con đang sống trên mảnh đất Đông Anh giàu truyền
thống, được hưởng thụ nhiều giá trị văn hóa của mảnh đất lịch sử ngàn
năm, tôi thực sự yêu mảnh đất và con người nơi đây, và tôi đặc biệt ấn
tượng sâu sắc với các lễ hội truyền thống của mảnh đất này. Hơn nữa với
vai trò là một người tu hành Phật giáo, tôi có dịp được tham gia, trải
nghiệm với vai trò của người thực hiện nghi lễ trong các lễ hội truyền
thống đó bởi Phật giáo với văn hóa truyền thống Việt Nam từ lâu đã hòa
quyện như những người bạn tri kỷ. Mỗi lần cùng nhân dân nô nức chuẩn bị
cho lễ hội, hòa mình vào không khí linh thiêng nhưng vô cùng náo nhiệt
của mỗi lễ hội, trong tôi lại dấy lên những cảm xúc khó viết thành lời,…
Với những lý do trên đây, tôi lựa chọn đề tài "Lễ hội truyền thống đối
với đời sống người dân huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội hiện nay" làm đề
3
tài nghiên cứu cho luận văn của mình. Hy vọng nghiên cứu này với việc chỉ ra
những vai trò, giá trị của lễ hội truyền thống ở huyện Đông Anh, thành phố
Hà Nội, sẽ góp phần nhỏ vào công tác bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa ở
Đông Anh, Hà Nội nói riêng, Việt Nam nói chung hiện nay, đặc biệt trong bối
cảnh hội nhập văn hóa toàn cầu với những thách thức lớn, việc khẳng định
bản sắc văn hóa dân tộc là nhiệm vụ có ý nghĩa sống còn trong thời kỳ hội
nhập văn hóa toàn cầu như hiện nay, bởi: “bản sắc văn hóa góp phần tạo nên
bản lĩnh văn hóa, bản lĩnh dân tộc. Với ý nghĩa đó, bản lĩnh được coi là sức
sống, sự từng trải, sự đáp trả một cách vững vàng trước những thách đố của
xã hội, lịch sử của một cộng đồng, một nền văn hóa” [Xem 42].
2. Tình hình nghiên cứu
Với sự đa dạng, phong phú và đặc sắc của văn hóa lễ hội ở Việt
Nam, đề tài về các lễ hội ở Việt Nam nói chung, lễ hội truyền thống Việt
Nam nói riêng là đề tài thu hút sự chú ý của nhiều nhà nghiên cứu. Trong
đó có thể kể đến:
Cuốn Văn hóa làng Việt Nam qua lễ hội truyền thống của tác giả Vũ
Kim Yến (biên soạn), cuốn sách gồm 3 phần, phần 1 là vài nét về lễ hội
truyền thống của văn hóa Việt Nam; phần 2 là viết về một số lễ hội dân gian
đặc sắc cụ thể như lễ hội Lồng tồng, lễ hội đền Hùng, hội Gióng,… và cả lễ
hội đền Cổ Loa – một trong những lễ hội quan trọng, tiêu biểu của huyện
Đông Anh, phần thứ ba, viết về tác dụng tích cực của lễ hội và những tiêu cực
nảy sinh ở các lễ hội trong dòng chảy cuộc sống hiện đại, từ đó tác giả đưa ra
một số giải pháp nhằm hạn chế những tiêu cực của lễ hội hiện này để đảm bảo
giá trị nhân văn sâu sắc và yếu tố tâm linh của lễ hội. Trong cuốn sách đó tác
giả khẳng định: “Với tư tưởng uống nước nhớ nguồn, ăn quả nhớ người trồng
cây, ngày hội diễn ra sôi động bằng những sự tích, công trạng là dịp để con
người giao lưu, trao truyền những đạo lý, tình cảm, mỹ tục và khát vọng cao
4
đẹp, là cầu nối giữa quá khứ với hiện tại, làm cho thế hệ hôm nay hiểu được
công lao tổ tiên, thêm tự hào về truyền thống quê hương, đất nước của mình”
[tr.9].
Cuốn sách Bản sắc văn hóa qua lễ hội truyền thống người Việt của tác
giả Nguyễn Quang Lê. Cuốn sách là một cách tiếp cận mới của tác giả về vấn
đề lễ hội truyền thống: tiếp cận theo các lớp văn hóa được hình thành và phát
triển dưới tác động của sự tiếp biến, giao lưu văn hóa với các nền văn hóa
khác mà lịch sử văn hóa dân tộc đã trải qua, bao gồm: lớp văn hóa bản địa;
Lớp giao lưu văn hóa với Phật giáo trong bản sắc văn hóa, chính từ đó hình
thành nên lễ hội chùa; Lớp văn hóa giao lưu văn hóa với đạo giáo trong bản
sắc văn hóa, nền tảng hình thành nên lễ hội thờ các vị thánh Bất tử và Đức
Thánh Trần; lớp giao lưu văn hóa với Nho giáo trong bản sắc hóa: thể chế hóa
hệ thống nghi lễ trong lễ hội; lớp giao lưu văn hóa với tín ngưỡng Chăm trong
bản sắc văn hóa người Việt. Những vấn đề cơ bản về lễ hội cũng được đề cập
đến trong cuốn sách: nguồn gốc, bản chất của lễ hội, cấu trúc và nội dung của
lễ hội,… Việc bóc tách lớp văn hóa trong nghiên cứu lễ hội truyền thống cũng
phần nào giúp chúng ta hiểu về cơ chế hình thành và tiếp thu các yếu tố văn
hóa mới, ngoài văn hóa bản địa, đây là một nét bản sắc quan trọng của nền
văn hóa ở mỗi dân tộc.
GS. Ngô Đức Thịnh có cuốn sách Tín ngưỡng lễ hội cổ truyền Việt
Nam (2019), Nxb Tri thức, cuốn sách giới thiệu khái quát về tín ngưỡng dân
gian của các tộc người ở Việt Nam, một số hiện tượng văn hóa dân gian tổng
thể và đặc trưng giá trị của lễ hội cổ truyền,…
Năm 2016, Nhà xuất bản Hồng Đức xuất bản cuốn sách Cẩm nang Lễ
hội truyền thống Việt Nam của nhiều tác giả, cuốn sách tiếp cận các lễ hội
truyền thống Việt Nam theo trục thời gian một năm từ mùa xuân đến mùa
đông, phân chia thành bốn chương ứng với bốn mùa: Lễ hội mùa xuân, lễ hội
5
mùa hạ, lễ hội mùa thu, lễ hội mùa đông. Trong cuốn sách các lễ hội tiêu biểu
đều được trình bày khá đầy đủ, và khẳng định: lễ hội Việt Nam bao giờ cũng
hướng tới một đối tượng thiêng cần suy tôn; lễ hội mỗi vùng miền đều mang
đặc trưng văn hóa của vùng miền đó và khẳng định giá trị truyền thống quý
báu của lễ hội,…
Tác giả Nguyễn Phương (2018), có tác phẩm Tìm hiểu văn hóa lễ hội
truyền thống của người Việt (Lễ hội truyền thống của vùng miền qua bốn
mùa: Xuân, Hạ, Thu, Đông), Nxb Thế giới. Cuốn sách tiếp cận không chỉ ở
nội dung, điểm đặc sắc của các lễ hội truyền thống Việt Nam mà còn tiếp cận
về các vấn đề lý luận về lễ hội như các vấn đề các quy định của nhà nước về
việc quản lý, tổ chức; quy định ứng xử văn minh, thực hiện nếp sống văn
minh nơi công cộng, thanh tra, xử phạt trong lĩnh vực văn hóa, du lịch,…
Nhà nghiên cứu Thạch Phương và Lê Trung Vũ có tác phẩm: 60 lễ hội
truyền thống Việt Nam, Nxb Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh. Cuốn sách là
công trình miêu tả khá toàn diện và hệ thống về 60 lễ hội truyền thống tiêu
biểu của Việt Nam, của các vùng miền khác nhau trong cả nước.
Viết về Lễ hội Thăng Long – Hà Nội mà lễ hội Đông Anh là một phần
trong đó, tác giả Lê Trung Vũ (2005) có cuốn sách Lễ hội Thăng Long, Nxb
Hà Nội, cuốn sách là sự hệ thống khá đầy đủ về các lễ hội của mảnh đất
Thăng Long – Hà Nội nghìn năm văn hiến. Những nét đặc trưng tiêu biểu của
lễ hội vùng đất thủ đô cũng được thể hiện rõ trong công trình nghiên cứu công
phu này.
Liên quan trực tiếp đến đề tài có thể kể đến các công trình tiêu biểu:
Cuốn Đông Anh với nghìn năm Thăng Long – Hà Nội của Huyện ủy,
HĐND, UBND huyện Đông Anh, Nxb Hà Nội (2010) là bức tranh toàn cảnh
về đời sống văn hóa huyện Đông Anh từ lịch sử đến hiện tại trong bức tranh
lớn là văn hóa Thăng Long – Hà Nội nghìn năm văn hiến. Cuốn sách được
6
chia làm hai phần: Phần 1. Đông Anh một số vấn đề về địa lý hành chính và
các giá trị lịch sử - văn hóa, phần 2. Đông Anh trong lịch sử dựng nước và giữ
nước. Vấn đề lễ hội truyền thống được đề cập đến trong chương 6 (thuộc phần
1), Lễ hội và trò chơi dân gian Đông Anh, trong đó là phần khái quát về lễ hội
và trò chơi dân gian huyện Đông Anh, sau đó là đề cập đến một số lễ hội tiêu
biểu như: Hội Cổ Loa, hội Làng Đường Yên, hội Đình – đền làng Hội Phụ,
hội làng Thụy Hà,…
Cuốn sách mới nhất là cuốn Đông Anh Di tích và lễ hội của Ủy ban
Nhân dân Huyện Đông Anh (2019), Nxb Hà Nội. Cuốn sách cung cấp đầy đủ,
chính xác, chi tiết thông tin tư liệu hệ thống di tích lịch sử văn hóa, di tích
cách mạng kháng chiến, di tích lưu niệm và lễ hội truyền thống trên địa bàn
huyện Đông Anh. Đối với phần lễ hội truyền thống, huyện Đông Anh hiện có
93 lễ hội được phân loại theo tiêu chí không gian (địa điểm, địa danh) tổ chức
lễ hội, cùng tên gọi của các loại hình di tích (là đình, chùa, đền, miếu), bao
gồm: 74 lễ hội đình, 8 lễ hội chùa, 8 lễ hội đền và 3 lễ hội miếu. Trong cuốn
sách 15 lễ hội tiêu biểu được lựa chọn để trình bày.
Báo cáo tổng kết công tác lễ hội các năm từ 2001 – 2011 của Phòng
Văn hóa thông tin huyện Đông Anh cung cấp những thành tựu, hạn chế của
công tác lễ hội Đông Anh trong khoảng thời gian 10 năm, từ 2001 đến 2011.
Viết về các lễ hội cụ thể ở huyện Đông Anh còn phải kể đến các luận
văn “Lễ hội rước vua sống làng Nhội, thôn Thụy Lôi, xã Thụy Lâm, huyện
Đông Anh” của tác giả Nguyễn Thị Hải (2012), “Lễ hội truyền thống làng
Xuân Trạch, xã Xuân Canh, huyện Đông Anh” của tác giả Nguyễn Thị Thanh
Thủy (2013), Luận văn Thạc sĩ Quản lý Văn hóa của tác giả Nguyễn Thị
Phương Thảo (2018) với tên đề tài: “Quản lý Lễ hội Cổ Loa huyện Đông
Anh, thành phố Hà Nội”, …
Ngoài ra còn rất nhiều các tác phẩm, công trình nghiên cứu khác,…
7
Nhìn chung, với vị thế là vùng đất giàu truyền thống văn hóa, lại là
vùng đất thuộc vùng văn hóa nổi tiếng đất Đông ngàn, vì vậy vấn đề văn hóa
nói chung, lễ hội nói riêng của huyện Đông Anh ít nhiều được đề cập đến
trong rất nhiều các công trình nghiên cứu, các công trình kể trên đều cho ta
thấy bức tranh đa dạng, đầy màu sắc của các lễ hội truyền thống Việt Nam
nói chung, lễ hội truyền thống của huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội nói
riêng. Tuy nhiên, một công trình nghiên cứu chuyên sâu về để chỉ ra vai trò
của lễ hội đối với đời sống người dân huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội
thì còn vắng bóng. Vì thế nghiên cứu này sẽ góp phần bù đắp vào mảng
trống nói trên.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở lý luận và thực tiễn, luận văn chỉ ra vai trò của lễ hội truyền
thống đối với đời sống người dân, dự báo xu hướng biến đổi của lễ hội truyền
thống ở huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội. Trên cơ sở đánh giá về công tác
bảo tồn, phát huy vai trò, giá trị của lễ hội truyền thống, đề xuất những
khuyến nghị nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả công tác bảo tồn, phát huy vai
trò, giá trị của lễ hội truyền thống huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu:
Để thực hiện được mục đích, luận văn thực hiện những nhiệm vụ sau:
- Khái quát chung về điều kiện kinh tế, xã hội, văn hóa và lễ hội truyền
thống của huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội.
- Chỉ ra vai trò của lễ hội truyền thống đối vời đời sống người dân
huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội.
- Dự báo những xu hướng vận động của lễ hội truyền thống huyện
Đông Anh, thành phố Hà Nội hiện nay.
8
- Đánh giá về công tác bảo tồn, phát huy vai trò, giá trị lễ hội truyền
thống của huyện Đông Anh giai đoạn hiện nay và đưa ra những khuyến
nghị nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả của công tác bảo tồn, phát huy vai
trò, giá trị của lễ hội truyền thống huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội giai
đoạn hiện nay.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu:
Lễ hội truyền thống huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội.
4.1. Phạm vi nghiên cứu
Thời gian: từ năm 2000 đến nay
Không gian: huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận:
Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng, Nhà nước Việt Nam về
tôn giáo.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu liên ngành của tôn giáo
học và các phương pháp: thống nhất logic - lịch sử, so sánh, phân tích - tổng
hợp, khái quát hóa, điều tra xã hội học, phỏng vấn sâu,…
6. Đóng góp của luận văn
Luận văn góp phần nhỏ vào công tác nghiên cứu tôn giáo nói chung, lễ
hội tôn giáo nói riêng.
Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho việc học tập, giảng
dạy và nghiên cứu về tôn giáo, đặc biệt là về lễ hội tôn giáo.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, Nội dung
luận văn gồm 3 chương, 6 tiết.
9
Chƣơng 1.
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ ĐIỀU KIỆN KINH TẾ, XÃ HỘI, VĂN HÓA
VÀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ LỄ HỘI TRUYỀN THỐNG CỦA HUYỆN
ĐÔNG ANH, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
1.1. Khái quát chung về điều kiện kinh tế, xã hội, văn hóa của
huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội
1.1.1. Điều kiện kinh tế, xã hội của huyện Đông Anh, thành phố
Hà Nội
Về lịch sử, huyện Đông Anh ngày nay chính thức được thành lập tháng
10/1876 (tháng Chín, năm Bính Tý, đời Tự Đức) trên cơ sở tập hợp các xã
của các huyện: Đông Ngàn (phủ Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh), huyện Yên Phong
(phủ Từ Sơn), huyện Kim Hoa (phủ Bắc Hà), sự kiện này được ghi chép trong
lịch sử như sau: “đặt thêm huyện Đông Anh (thuộc phủ Từ Sơn). Khi ấy vì
thượng du Bắc Ninh, địa phận các phủ, huyện bãi bằng, đồng rộng, quân gian
dễ tụ họp, cho nên đặc cách đặt thêm (3 tổng huyện Đông Ngàn, 1 tổng huyện
Kim Anh, đều lấy toàn tổng). Lại lấy tổng Phù Lỗ thuộc Kim Anh (5 xã) đặt
làm tổng Xuân Nộn; tổng Phương La, thuộc Yên Phong đặt làm tổng Thư
Lâm, lệ thuộc vào, tất cả 38 xã thôn” [38, tr.196].
Trải qua nhiều thời kỳ lịch sử với nhiều biến động như sự thay đổi tên,
sự sát nhập, chia tách về hành chính, có thời kỳ Đông Anh là một huyện của
tỉnh Phúc Yên, sau này là Vĩnh Phúc. Đến năm 1961, thủ đô Hà Nội được mở
rộng, huyện Đông Anh được chuyển về Hà Nội, là một huyện ngoại thành với
23 xã.
Ngày nay, Đông Anh là một huyện ngoại thành của thủ đô Hà Nội, có
“diện tích tự nhiên khá rộng 185,62 km2, dân số 380.806 người phân bố tại
155 thôn làng, 40 tổ dân phố thuộc 23 xã và 1 thị trấn” [48, tr.11]. Huyện
10
Đông Anh có nhiều tiềm năng để phát triển kinh tế, xã hội và giao lưu văn
hóa: có vị trí địa lý thuận lợi, là cửa ngõ giao thông phía Bắc của thủ đô; có
nhiều tuyến đường giao thông huyết mạch như hệ thống đường cao tốc Hà
Nội – Lào Cai, Hà Nội – Thái Nguyên, Quốc lộ 3, cầu Thăng Long, cầu Nhật
Tân, cảng hàng không quốc tế Nội Bài, hệ thống đường thủy trên các sông
Hồng, sông Cà Lồ, sông Đuống,…; khí hậu nhiệt đới gió mùa với lượng mưa
vừa phải và đất đai màu mỡ do được các con sông bồi đắp thường xuyên
thuận lợi cho phát triển nông nghiệp;… tuy nhiên điều kiện tự nhiên ở vùng
đất này cũng đặt ra không ít khó khăn cho nhân dân: địa hình không thuần
nhất, cao từ phía Bắc và phía Tây hất xuống, xen lẫn là đồi, Phía Đông, Đông
Nam lại nhiều vùng trũng, có nhiều sông nên mùa lũ kéo dài,…
Với những đặc điểm về vị trí địa lý trọng yếu và tự nhiên phong phú
như trên, Đông Anh trở thành vùng đất được cư dân Việt cổ khai phá từ rất
sớm, đã từng hai lầm trở thành Kinh đô của đất nước.
Về kinh tế, nhờ được thiên nhiên ưu ái cho nhiều điều kiện tự nhiên
phong phú, huyện Đông Anh phát triển khá đa dạng về loại hình kinh tế: nông
nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp…
Nông nghiệp: người dân Đông Anh có nhiều loại cây trồng phù hợp với
từng loại đất và địa hình khác nhau: ở các vùng trũng, thâm canh lúa nước đã
trở thành truyền thống của người dân nơi đây, và cũng nhờ truyền thống ấy,
rất nhiều giống lúa đã trở thành đặc sản của vùng như lúa chiêm cút, lúa tẻ di,
lúa hương, lúa trắng,…; các vùng cao hơn có thể trồng các cây công nghiệp,
cây thực phẩm: chè ở Đông Ngàn, Kim Anh, mít, trám ở Cổ Loa, các loại rau,
mía, cà bẽ,…; ở các vùng ven sông có thể nuôi trồng thủy sản, đánh bắt cá,…
Thủ công nghiệp: huyện Đông Anh có nhiều nghề thủ công truyền
thống, lưu truyền, phát triển từ xa xưa đến tận ngày nay: nghề dệt vải (ở Thụy
Lôi, xã Thụy Lâm), chạm khắc gỗ mỹ nghệ (ở Thiết Öng, xã Vân Hà), sơn
11
mài (ở Châu Phong, xã Liên Hà), làm đậu phụ (làng Chài, xã Võng La), làm
bún (ở Mạch Tràng, xã Cổ Loa), nấu rượu,… sản phẩm của các ngành nghề
này đã trở thành thương hiệu:
Nón Xuân Canh lá hồ tơ miến
Làng Trùng Minh hương quyện mùi chi
Hay
Mã Đông Hồ gấm thêu hoa quyện
Cày làng Lê dựng nghiệp nông gia
Thương nghiệp: vị trí địa lý trọng yếu với hệ thống giao thông đa dạng,
thuận lợi đã tạo cho vùng đất Đông Anh lợi thế lớn để phát triển các ngành
thương nghiệp dịch vụ. Để trao đổi, lưu thông hàng hóa, hệ thống chợ đã
được hình thành dày đặc trong toàn huyện, mỗi cụm 5, 6 làng có vài chợ họp
luân phiên, một số chợ lớn của huyện được nhắc đến trong Đại Nam nhất
thống chí: chợ Cổ Loa, chợ Tó, chợ Kim, chợ Vân Trì,… và cũng đã đi vào ca
dao, tục ngữ:
Ch Dâu câu ch Tó
Ch Tó bó ch D c
Ch D c c c ch a
Ch a sà ch Cói
Ch Cói bói ch Dâu.
Ca dao
Các làng ven sông thì hình thành những bến sông buôn bán tấp nập:
bến Nhội, bến Mạnh Tân, bến Vạn Khê,…
Ngày nay, trong không khí phát triển sôi động của cả nước nói chung,
của thành phố Hà Nội nói riêng, huyện Đông Anh ra sức tập trung khai thác
những thế mạnh của mình trong đó có truyền thống nghìn năm vào công cuộc
đổi mới và phát triển, tập trung theo hướng: công nghiệp hóa, hiện đại hóa và
12
tiếp tục vun đắp, chung tay xây dựng đất nước: Giàu mạnh, xã hội công bằng,
dân chủ và văn minh. Bộ mặt kinh tế của huyện đã chuyển mình mạnh mẽ, cơ
sở hạ tầng được đầu tư bài bản, nhiều khu công nghiệp, cụm công nghiệp lớn
được hình thành thu hút nhiều đầu tư trong và ngoài nước, các khu đô thị, siêu
đô thị được hình thành,… Tốc độ phát triển kinh tế ổn định và giữ ở mức
tương đối cao (trên 10%/năm).
Các ngành kinh tế đạt được nhiều thành tựu: Nông nghiệp phát triển
mạnh theo hướng áp dụng khoa học kỹ thuật, chăn nuôi an toàn, chủ động
chuyển đổi mô hình cây trồng giá trị thấp sang trồng hoa, cây cảnh và các
giống lúa thơm, ngô nếp, khoai tây Đức, sản xuất nấm rơm… cho hiệu quả
kinh tế cao hơn. Đông Anh cũng là một trong bốn địa phương đầu tiên của
thành phố Hà Nội được công nhận là huyện nông thôn mới. Đối với ngành
công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp: Giá trị sản xuất ước tính10 tháng đầu năm
2018 đạt 18.540 tỷ đồng (tăng 11,2%); toàn huyện có 4.050 doanh nghiệp
đang hoạt động ổn định, tăng 5% so với cùng kỳ năm 2017; giá trị sản xuất
thương mại - dịch vụ đạt 10.171 tỷ đồng (tăng 15,8%). Nhờ vào vị trí đắc địa
và là cửa ngõ phía Bắc của Thủ Đô, việc cơ sở hạ tầng được nâng cấp ngày
một đồng bộ giúp cho Đông Anh những năm qua trở thành một trong những
điểm đến hấp dẫn cho các nhà đầu tư. Đối với ngành thương mại, dịch vụ:
Cùng với sự phát triển của ngành công nghiệp, thương mại dịch vụ cũng có
bước tiến vượt bậc ở tất cả các nhóm ngành nghề. Hoạt động du lịch cũng
được đẩy mạnh nhằm khai thác và phát huy giá trị lịch sử - văn hóa các di
tích. Thống kê từ đầu năm đến nay, đã có trên 13.000 lượt du khách đến với
Đông Anh, con số này đã liên tục tăng trong nhiều năm trở lại đây [Xem 58].
Trong quy hoạch chung của thành phố Hà Nội, Đông Anh được xác
định là đô thị lõi, có vị trí quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội của
thành phố. Đông Anh được kỳ vọng trở thành trung tâm thương mại, tài
chính, du lịch, dịch vụ chất lượng cao của khu vực phía Bắc thủ đô.
13
Về xã hội: Nằm trong vùng văn minh lúa nước sông Hồng, đại bộ phận
cư dân trong huyện Đông Anh là nông dân, “sống trong các làng. Mỗi làng là
một đơn vị tụ cư cơ bản có sự hết hợp giữa quan hệ láng giềng với quan hệ
huyết thống, mang tính tự quản và tính cộng đồng rất cao. Mỗi làng có hai
tên: tên Nôm (hay tên Việt cổ), dùng trong giao tiếp thường ngày và tên chữ
(hay tên Hán – Việt), dùng trong giấy tờ hành chính, văn bia, được phiên âm
từ tên Nôm, chẳng hạn, Chạ Chủ = Cổ Loa, Kẻ Dộc = Dục Tú, Kẻ Óng =
Thiết Öng, làng Nhội = Thụy Lôi…” [17, tr. 50].
Trước đây, cũng như các làng khác của xã hội Việt Nam truyền thống,
các làng của huyện Đông Anh cũng dựa trên thiết chế tổ chức huyết thống,
phường hội, láng giềng,... mỗi làng có hệ thống Hương ước riêng để quản lý.
Ngày nay, với sự phát triển của đất nước, lại với vị thế của một huyện
ngoại thành, cửa ngõ củ thủ đô, huyện Đông Anh có sứ mệnh đặc biệt quan
trọng vì vậy nhận được sự đầu tư lớn của thành phố Hà Nội, nhờ đó, đời sống
xã hội nơi đây có những chuyển biến lớn. Đời sống của người dân Đông Anh
ngày càng được cải thiện, thể hiện qua một số chỉ tiêu về đời sống như sau:
Bảng 1: Một số chỉ tiêu đời sống của người dân Đông Anh so sánh với
toàn thành phố và một số quận/huyện khác
Chỉ tiêu
Đơn vị
tính
Toàn
Thành
phố
Huyện
Đông
Anh
Huyện
Sóc
Sơn
Huyện
Hoài
Đức
Quận
Hoàng
Mai
Diện tích nhà ở bình quân m2
/người 20,8 20,1 16,7 17,4 26,6
Tỷ lệ hộ có nguồn nước
hợp vệ sinh
% 98,94 99,95 96,64 99,88 99,99
Tỷ lệ hộ có hố xí hợp vệ
sinh
% 76,72 72,75 44,99 79,07 99,51
Tỷ lệ hộ sử dụng Tivi % 92,64 92,32 94,48 91,86 94,64
Tỷ lệ hộ sử dụng điện thoại
cố định
% 62,74 68,66 60,31 50,09 78,82
Tỷ lệ hộ sử dụng Mô-tô/Xe
máy
% 79,70 79,09 79,99 77,05 89,76
14
Tỷ lệ hộ sử dụng Máy Vi
tính
% 31,86 18,30 9,75 17,40 54,23
Tỷ lệ hộ sử dụng Điều hoà
nhiệt độ
% 21,69 7,50 3,29 3,91 40,00
Tỷ lệ hộ sử dụng Máy giặt % 35,44 26,55 12,11 26,42 60,10
Tỷ lệ hộ sử dụng Tủ lạnh % 56,63 51,83 35,31 48,03 82,71
Nguồn: Kết quả Tổng điều tra dân số và nhà ở Tp Hà Nội 01/4/2009
Hệ thống y tế khám chữa bệnh cho người dân ngày càng được cải thiện,
chất lượng cũng ngày càng được nâng cao. Đến nay, 100% cơ sở y tế của các
xã, trị trấn trong huyện được công nhận đạt chuẩn quốc gia.
1.1.2. Đời sống văn hóa của người dân huyện Đông Anh, thành phố
Hà Nội
Đông Anh là vùng đất có truyền thống văn hóa, lịch sử, cách mạng.
Gần 20 thế kỷ trước Công nguyên, vùng đất này nằm trong xứ văn hóa Đông
Ngàn. Khi Thục Phán An Dương Vương lập ra nhà nước Âu Lạc, đã chọn
mảnh đất này làm kinh đô. Dấu tích kinh thành Cổ Loa sừng sững với sự tích
thần Kim Quy, nỏ thần đánh giặc – di tích lịch sử thời kỳ đầu dựng nước, đã
trở thành biểu tượng văn hóa của vùng đất linh thiêng.
Khái quát chung về văn hóa vùng đất Đông Anh, cuốn sách Đông Anh
với nghìn năm Thăng Long – Hà Nội có viết: “Qua hàng nghìn năm lịch sử,
các thế hệ cư dân Đông Anh đã tạo dựng được một cơ tầng văn hóa, dựa trên
cơ sở kinh tế là nông nghiệp ruộng nước và cơ cấu tổ chức làng xã. Văn hóa
làng của Đông Anh mang đặc trưng rõ nét của hai vùng Xứ Bắc và Xứ Đoài,
mà những đặc điểm nổi bật nhất là cấu trúc làng xóm theo từng loại hình làng:
làng nông nghiệp đồng mùa, đồng chiêm, làng ven sông đất bãi, làng nghề…;
ở hệ thống các di tích thờ cúng (đình, chùa, đền miếu, văn chỉ, nhà thờ các
dòng họ, nhà thờ các danh nhân). Gắn với các di tích này là các lễ thức thờ
cúng, các ngày hội làng tôn vinh các vị thành hoàng có công với dân với
15
nước. Nhiều hội có các trò diễn, các hình thức diễn xướng độc đáo, như hội
Cổ Loa, hội “Rước Vua” ở đền Sái. Văn hóa làng còn thể hiện ở các phong
tục tập quán tốt đẹp, gắn kết tình cảm và trách nhiệm của cá nhân với cộng
đồng dòng họ, làng xóm,…” [17, tr. 50].
Nếu tính theo mốc thời gian từ khi An Dương Vương dời đô về Cổ Loa
xây thành đắp lũy thì Đông Anh đến nay đã có hơn 2000 năm tuổi, từng ấy
thời gian đã tích tụ, bồi đắp nên một nền văn hóa có bề dày với tầng tầng, lớp
lớp. Điều đó được chứng minh bằng hệ thống di tích lịch sử văn hóa dày đặc
được phân bố trải đều khắp trong huyện. Theo thống kê, “trên địa bàn huyện
Đông Anh hiện có 293 di tích, trong đó có 108 di tích đã được xếp hạng.
Trong 108 di tích đã xếp hạng, theo cấp độ có:
 67 di tích xếp hạng cấp quốc gia,
 41 di tích xếp hạng cấp tỉnh (thành phố).
Chia theo loại hình có: 47 đình, 29 chùa, 22 đền, am, miếu, 4 nhà thờ
họ, 1 thành cổ, 4 di tích cách mạng và kháng chiến” [17, tr.180]. Trong đó
nổi bật nhất là thành Cổ Loa – một công trình kỳ vĩ, độc đáo – di sản của
nền văn hóa cổ đại, là một di sản văn hóa lớn, quan trọng bậc nhất của
nước ta:
Ai về qua huyện Đông Anh
Ghé xem phong cảnh Loa Thành Thục Vương
Cổ Loa thành ốc khác thường
Trải bao năm tháng nẻo đường còn đây
Ca dao
Con người Đông Anh, sinh ra trên mảnh đất anh hùng, giàu truyền
thống cũng đã tạo nên cho mình những giá trị văn hóa cao quý, mà PGS.TS.
Đào Duy Quát đã tổng quát: “… các thế hệ của người dân Đông Anh đã góp
phần hun đúc nên những giá trị văn hóa cao quý. Đó là:
16
 Lòng yêu nước nồng nàn, đức hy sinh cao thượng, tinh thần xả thân
cứu nước, bảo vệ Tổ quốc, lòng tự hào tự tôn, tự trọng tự cường, hào khí Cổ
Loa, Mê Linh, Vạn Xuân, Đại Việt, Thăng Long – Hà Nội;
 Lòng nhân ái, khoan dung, trọng nghĩa tình, đạo lý, khát vọng hòa
bình;
 Lao động cần cù, tài hoa, trí tuệ sáng tạo;
 Tinh thần đoàn kết cộng đồng, gắn kết cá nhân, gia đình, làng xã, tổ
quốc, ứng xử tinh tế, lối sống thanh lịch, giản dị.
Những giá trị cao quý này đã hun đúc nên tâm hồn, khí phách bản lĩnh
của người Cổ Loa, Đông Anh, Thăng Long, Hà Nội, Việt Nam; tạo nên sức
mạnh tinh thần, sức mạnh văn hóa vĩ đại, dựng nên nước Văn Lang, Âu Lạc,
Vạn Xuân, Đại Việt” [17, tr.16].
Đông Anh là vùng đất có truyền thống hiếu học. Trong các kỳ thi của
các triều đại phong kiến Việt Nam trước kia, địa bàn huyện Đông Anh đã có
56 người được công nhận học vị từ Tiến sĩ trở lên qua các kỳ thi. Đông Anh
là huyện có tổng số người thi đỗ tiến sĩ nhiều thứ hai trong tổng số 29 quận,
huyện của Hà Nội - theo quy hoạch đến năm 2012. Có thể thấy truyền thống
hiếu học của những người con trên mảnh đất Đông Anh qua số liệu thống kê
về Số tiến sĩ của huyện trong mối tương quan với số tiến sĩ của Thăng Long –
Hà Nội qua các thời kỳ1
:
Số
tiến sĩ
Chia theo thời kỳ
Lý,
Trần,
Hồ
Lê Sơ Mạc
Lê
Trung
Hƣng
Lê –
Trịnh
Nguyễn
Huyện Đông
Anh
56 1 22 7 - 22 4
1
Số liệu thống kê theo [17, tr. 126,127]
17
Thăng Long –
Hà Nội
666 16 230 90 6 243 81
Tỉ lệ Đông
Anh/ Thăng
Long – Hà Nội
8,4% 2,41% 34,53% 13,51% 0% 36,49% 12,16%
Nhìn vào bảng thống kê trên có thể thấy, Thăng Long – Hà Nội ngày
nay có đến 29 quận, huyện, thị xã, tỉ lệ Tiến sĩ của huyện Đông Anh trên tổng
số Tiến sĩ của Thăng Long – Hà Nội qua các thời kỳ rất cao, có những thời kỳ
đỉnh cao lên đến hơn 1/3 như thời Lê Sơ và thời Lê - Trịnh.
Nơi đây là quê hương của những tên tuổi lớn như: Nguyễn Thực, Vũ
Công Tể, Nguyễn Thạch Trụ, Ngô Thế Dụ,… trong đó hình thành nên các gia
đình, dòng họ khoa bảng, nghĩa là gia đình, dòng họ liên tục có người được
nêu tên trên bảng vàng, như họ Nguyễn làng Vân Điềm, họ Chử làng Cự
Trình, họ Trịnh làng Thái Bình,…
Tiếp nối truyền thống đó, các thế hệ con cháu hôm nay của huyện Đông
Anh vẫn giương cao ngọn cờ hiếu học. Bằng sự nỗ lực, cố gắng hết mình của
tập thể ngành giáo dục và đào tạo huyện Đông Anh, ngành Giáo dục – Đào
tạo huyện Đông Anh đã được Uỷ Ban Nhân dân thành phố Hà Nội tặng bằng
khen, được Bộ giáo dục và Đào tạo trao tặng Cờ thi đua xuất sắc vào năm
2016. Hàng năm, trong các kỳ thi quốc gia, quốc tế, huyện Đông Anh cũng
đạt được rất nhiều giải cao. Ví như năm học 2015 – 2016, toàn huyện có có 7
em đạt giải trong cuộc thi giải toán trên internet cấp Quốc gia, 2 giải Cuộc thi
viết thư Quốc tế UPU lần thứ 45 do Liên minh Bưu chính thế giới tổ chức,
cùng hàng chục giải thưởng tại các kỳ thi học sinh giỏi cấp thành phố.
Những người con của Đông Anh ngày hôm nay cũng có rất nhiều
những tên tuổi lớn, nối tiếp truyền thống cha ông, tiếp tục làm rạng danh quê
hương, như: Tổng bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng, GS. Đỗ Quốc
18
Sam, GS. Ngô Thế Dân, GS. Nguyễn Đình Xuyên, GS. Trịnh Xuân Thuận,
họa sĩ Lê Lam,...
Trong bối cảnh đổi mới toàn diện như hiện nay, trên lĩnh vực văn hóa,
toàn huyện tích cực hưởng ứng phong trào xây dựng nông thôn mới, làng văn
hóa, nếp sống văn minh, gia đình văn hóa. “100% thôn làng xây dựng và tổ
chức thực hiện tốt quy ước làng văn hóa thôn, làng được công nhận làng văn
hóa, 82% đạt tiêu chuẩn gia đình văn hóa. Nhiều nét đẹp văn hóa truyền thống
trong gia đình họ tộc, hương ước thôn làng và cộng đồng được kế thừa phát
triển” [17, tr.490]
1.2. Lý luận chung về lễ hội truyền thống của huyện Đông Anh,
thành phố Hà Nội
1.2.1. Khái niệm và cách phân loại lễ hội
- Khái niệm lễ hội truyền thống
+ Khái niệm lễ hội:
Có nhiều quan điểm khác nhau về khái niệm "lễ hội":
Trong cuốn sách: “Văn hóa Việt Nam hỏi và đáp”, để trả lời cho câu
hỏi: Lễ hội là gì? Nhóm tác giả đã đưa ra câu trả lời: “Lễ hội (hay hội lễ) là
một sinh hoạt văn hóa dân gian nguyên hợp mang tính cộng đồng cao của
nông dân hay thị dân, diễn ra trong những chu kỳ không gian, thời gian nhất
định để làm những nghi thức về nhân vật được sùng bái, để tỏ rõ những ước
vọng, để vui chơi trong tinh thần cộng mệnh và cộng cảm”. Trong khái niệm
trên chúng tôi quan tâm, nhấn mạnh đến ba yếu tố trong khái niệm của lễ
hội: tính cộng đồng, nghi thức về nhân vật được sùng bái và vui chơi trong
tinh thần cộng mệnh và cộng cảm. Có thể thấy, khái niệm này đã đề cập đến
một tính chất đặc trưng nhất của lễ hội là tính cộng đồng, cấu trúc của lễ hội
là gồm phần lễ (nghi thức về nhân vật được sùng bái) và phần hội (vui chơi
19
trong tinh thần cộng mệnh và cộng cảm). Trong đó phần lễ là chính, là “hạt
nhân”, giữ vai trò quyết định cho sự tồn tại và tính chất của lễ hội nói chung.
Nhìn nhận lễ hội dưới góc độ là sự kiện văn hóa được tổ chức mang
tính cộng đồng. "Lễ là hệ thống những hành vi, động tác nhằm biểu hiện sự
tôn kính của con người với thần linh, phản ánh những ước mơ chính đáng của
con người trước cuộc sống mà bản thân họ chưa có khả năng thực hiện. Hội là
sinh hoạt văn hóa, tôn giáo, nghệ thuật của cộng đồng, xuất phát từ nhu cầu
cuộc sống, từ sự tồn tại và phát triển của cộng đồng, sự bình yên cho từng cá
nhân, hạnh phúc cho từng gia đình, sự vững mạnh cho từng dòng họ, sự sinh
sôi nảy nở của gia súc, sự bội thu của mùa màng, mà từ bao đời nay quy tụ
niềm ước mơ chung vào bốn chữ “nhân khang, vật thịnh”. Lễ hội là hoạt động
của một tạp thể người, liên quan đến tín ngưỡng và tôn giáo” [12, tr.674].
Trong khái niệm này, tính cộng đồng và tính tôn giáo của lễ hội được nhấn
mạnh. Chức năng bù đắp của tôn giáo được thể hiện rõ nét qua chức năng của
lễ hội là nơi gửi gắm, phản ánh ước mơ, khát vọng của con người.
Hay có quan điểm cho rằng: Lễ hội là cuộc sống được tái hiện dưới
hình thức tế lễ và trò biểu diễn, đó là cuộc sống chiến đấu của cộng đồng cư
dân. Tuy nhiên bản thân cuộc sống không thể thành lễ hội được nếu chính nó
không được thăng hoa, liên kết và quy tụ lại thành thế giới tâm linh, tư tưởng
của các biểu tượng, vượt lên trên thế giới của những phương tiện và điều kiện
tất yếu. Đó là thế giới, là cuộc sống thứ hai thoát ly tạm thời thực tại hữu hiện,
đạt tới hiện thực lý tưởng mà ở đó, mọi thứ đều trở nên đẹp đẽ, lung linh, siêu
việt và cao cả.
Và còn nhiều quan niệm khác nhau dựa trên những góc tiếp cận khác
nhau về lễ hội,…
+ Khái niệm “truyền thống”:
20
Từ “truyền thống” tiếng Lating là “tradition”. Truyền thống được hiểu
là những thói quen, tư tưởng, lối sống, những giá trị văn hóa lâu đời được
truyền từ đời này qua đời khác, mang nhiều giá trị và được mọi người tôn
trọng, lưu giữ, kế thừa và phát huy...
Littré – (Maximilien – Paul – Emile, 1801-1881), nhà ngôn ngữ học và
nhà triết học thực chứng người Pháp, phân tích từ truyền thống ở bốn nghĩa
chính:
“1. “Sự giao một cái gì đó cho một người nào đó”;
2. “Sự lưu truyền những sự kiện lịch sử, những thuyết tôn giáo, những
truyền thuyết, từ thế hệ này sang thế hệ nọ bằng con đường truyền khẩu và
không có bằng cớ chính thức và thành văn”;
3. “Đặc biệt, trong giáo hội Giatô, sự lưu truyền từ thế kỷ này sang thế
kỷ khác sự hiểu biết những điều thuộc về đạo và không hề có trong thánh
thư”;
4. “Tất thảy những gì người ta biết hoặc làm theo truyền thống, tức là
bằng một sự lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ nọ nhờ ở lời nói hay làm
mẫu” [Xem 57].
Trong đó ta thấy nhấn mạnh đến sự “trao, truyền” của khái niệm truyền
thống, có nghĩa không chỉ “trao” lại những gì đã tồn tại, đang tồn tại mà còn
“bảo lưu”, “giữ gìn” những cái được trao đó.
Theo Từ điển Từ hải, khái niệm “truyền thống” được hiểu: “truyền
thống là sức mạnh của tập quán xã hội được lưu truyền lại từ lịch sử. Nó tồn
tại ở các lĩnh vực chế độ (chế độ xã hội), tư tưởng, văn hóa, đạo đức. Truyền
thống có tác dụng khống chế vô hình đến hành vi xã hội của con người.
Truyền thống là biểu hiện tính kế thừa của lịch sử” [42, tr. 18]. Khái niệm này
đề cập đến tính kế thừa, nối tiếp, sức mạnh vô hình của những gì thuộc về
truyền thống.
21
Với nhiều cách hiểu khác nhau về khái niệm lễ hội và truyền thống như
phân tích ở trên, vì vậy cũng xuất hiện rất nhiều cách tiếp cận khác nhau về
khái niệm “lễ hội truyền thống”, như Tiến sĩ Nguyễn Duy Quý định nghĩa về
lễ hội truyền thống: “Lễ hội truyền thống là một sinh hoạt văn hóa tổng hợp,
bao gồm các mặt tinh thần và vật chất, tôn giáo, tín ngưỡng và văn hóa nghệ
thuật, linh thiêng và đời thường. Đó còn là một sinh hoạt có quy mô lớn về
tầm vóc và có sức cuốn hút một số lượng lớn những hiện tượng của đời sống
xã hội” [55, tr.8].
Để hiểu một cách đơn giản khái niệm lễ hội truyền thống, chúng tôi đưa
ra cách hiểu: Lễ hội truyền thống được hiểu là sinh hoạt của một cộng đồng
dân cư, bao gồm các hoạt động nghi lễ hướng đến tôn vinh một đối tượng
thiêng và các hoạt động vui chơi giải trí mang tính cộng đồng, sinh hoạt này
đã có từ lâu đời, được truyền từ đời này sang đời khác, chứa đựng nhiều giá
trị văn hóa, cần được lưu giữ, bảo tồn và phát huy.
- Về phân loại lễ hội:
Có nhiều cách khác nhau để phân loại lễ hội dựa trên các tiêu chí khác
nhau. Ví như tác giả Đinh Gia Khánh, phân loại lễ hội theo nguồn gốc gắn với
tôn giáo hay không (trong cuốn Trên đường tìm hiểu văn hóa dân gian); Có
thể phân chia lễ hội theo thời gian xuất hiện: lễ hội truyền thống hay lễ hội
hiện đại; Có thể phân chia theo thời gian diễn ra lễ hội thành lễ hội mùa xuân,
lễ hội mùa hạ, lễ hội mùa thu, lễ hội mùa đông; Có thể phân chia theo tính
chất lễ hội: lễ hội nông nghiệp, lễ hội tôn giáo, lễ hội du lịch dịch vụ, lễ hội
lịch sử,...
-Trong phạm vi luận văn chúng tôi nghiên cứu lễ hội truyền thống đối
với đời sống người dân huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội hiện nay, nên sẽ
đề cập đến khái niệm đời sống. Danh từ “đời sống” có ý nghĩa rất rộng, có thể
chỉ toàn bộ những hiện tượng diễn ra ở cơ thể sinh vật trong suốt khoảng thời
22
gian sống, đối với con người, có thể coi là toàn bộ những điều kiện sinh hoạt
của con người và xã hội (cộng đồng người). Trong luận văn này, chúng tôi
không đi sâu vào bóc tách nội hàm của khái niệm đời sống, chúng tôi chỉ đưa
ra nội hàm chung nhất của khái niệm để thuận tiện cho việc triển khai vấn đề
nghiên cứu, chúng tôi chia đời sống của người dân thành hai lĩnh vực: đời
sống tinh thần và đời sống vật chất.
1.2.2. Hệ thống các lễ hội truyền thống của huyện Đông Anh
Theo thống kê, toàn huyện hiện có 93 lễ hội trên 23 xã, 1 thị trấn (22 xã
có lễ hội, 01 xã là Kim Nỗ và thị trấn thành lập sau nên không có lễ hội). Các
xã có lễ hội nhiều nhất là các xã thuộc các vùng đất là làng cổ xưa như Thụy
Lâm, Dục Tú, Mai Lâm, Cổ Loa, Xuân Nộn, Nguyên Khê,...
Cũng như các vùng quê khác ở đồng bằng bắc bộ, với đặc trưng là văn
hóa nông nghiệp lúa nước, các lễ hội thường diễn ra vào thời gian nông nhàn,
chủ yếu là mùa xuân và mùa thu, Các lễ hội của huyện Đông Anh cũng
thường diễn ra vào hai mùa, mùa xuân và mù thu, trong đó chủ yếu nhất là
mùa xuân với 82 lễ hội (88% tổng số lễ hội).
Huyện Đông Anh với số lượng lễ hội lớn, đa dạng và phong phú về
nguồn gốc, về thời gian tổ chức, về tính chất nên cũng có thể phân chia theo
nhiều cách khác nhau, nhưng trong luận văn này, chúng tôi phân chia lễ hội
truyền thống huyện Đông Anh dựa trên tiêu chí là không gian (địa điểm, địa
danh) nơi tổ chức lễ hội, cùng tên gọi các loại hình di tích2
từ đó có thể phân
loại như sau: lễ hội đình, lễ hội đền, lễ hội miếu, lễ hội chùa.
Lễ hội đình Lễ hội chùa Lễ hội đền Lễ hội miếu
Số lƣợng 74 8 8 3
Lễ hội
tiêu biểu
Lễ hội đình Thụy
Hà, Lễ hội đình
Lễ hội chùa
Quan Âm, Lễ
Lễ hội đền An
Dương Vương,
Lễ hội miếu
Mạch Lũng, Lễ
2
Theo cách phân chia trong cuốn UBND huyện Đông Anh (2019), Đông Anh di tích và lễ hội, Nxb Hà Nội
23
Lương Quy, Lễ
hội đình Viên
Nội,…
hội chùa Thái
Bình,…
Lễ hội đền Sái,
lễ hội đền Lê
Xá,…
hội miếu Lũng
Đông, Lễ hội
miếu Cổ Dương.
Về phân cấp lễ hội, ở huyện Đông Anh có 2 lễ hội được tổ chức quy
mô cấp huyện là lễ hội đền An Dương Vương và Lễ hội đền Sái. Còn lại là
các lễ hội cấp xã, thôn.
Cũng như các lễ hội truyền thống ở các địa phương khác trên khắp Việt
Nam, các lễ hội của huyện Đông Anh cũng thường bao gồm hai phần chính:
phần lễ và phần hội. Phần lễ là các nghi thức thiêng, bày tỏ lòng thành kính
của con người với đối tượng thờ cúng, thể hiện bằng các nghi lễ thờ cúng:
rước kiệu, tế lễ, tụng, niệm, hèm,…; phần hội là các trò chơi, trò diễn được tổ
chức cho dân làng và người đi hội tham gia, trong đó nổi bật là các trò chơi
dân gian đặc sắc.
1.2.3. Đặc trưng lễ hội truyền thống của huyện Đông Anh, thành phố
Hà Nội
Thứ nhất: Lễ hội truyền thống của huyện Đông Anh rất phong phú và
đa dạng
Như đã viết ở phần trên, Đông Anh là huyện có số lượng lễ hội lớn.
Các lễ hội truyền thống của huyện Đông Anh phong phú và đa dạng. Tính đa
dạng và phong phú đó được thể hiện ở nhiều khía cạnh.
Lễ hội truyền thống của huyện Đông Anh diễn ra ở nhiều khoảng thời
gian khác nhau trong năm (trong đó tập trung nhiều vào mùa xuân và mùa
thu, đặc biệt là Tháng Giêng, tháng Hai âm lịch). Thời gian tổ chức lễ hội ở
huyện Đông Anh cũng rất khác nhau: Nhiều lễ hội diễn ra một ngày chính hội
những cũng có lễ hội diễn ra nhiều ngày, như lễ hội đình Cổ Miếu (11-13/11);
có lễ hội được tổ chức hai lần trong năm ở hai khoảng thời gian khác nhau
24
như: Lễ hội đình Lỗ Khê (diễn ra vào ngày 12/1 và 10-12/8 âm lịch), lễ hội
đình Hương Trầm (11-13/11 và 12/8 âm lịch),…
Các lễ hội truyền thống của huyện Đông Anh có nhiều quy mô, cấp độ
khác nhau: có những lễ hội diễn ra ở cấp độ một làng; có những lễ hội diễn ra
cấp độ liên làng, hai làng kết chạ với nhau cũng tổ chức lễ hội; có những lễ
hội vùng như: vùng Nhội – Râm, vùng Giỗ - Quậy, vùng Kẻ Dộc, vùng Cối
Giang,… thường các vùng này tổ chức vào hội chung, sau đó các làng lại tổ
chức lễ hội riêng; có những lễ hội lớn như lễ hội Cổ Loa, có sự tham gia của
nhiều xã “bát xã hộ nhi”, bao gồm: Cổ Loa, Văn Thượng, Ngoại Sát, Mạch
Tràng, Đài Bi, Cầu Cả, Sằn Giã, Thư Cưu và làng Quậy.
Các lễ hội truyền thống của huyện Đông Anh có nguồn gốc, tính chất
cũng rất khác nhau: Với số lượng lớn và đa dạng về loại hình các di tích, vì
vậy các lễ hội của huyện Đông Anh cũng có nguồn gốc và tính chất khá đa
dạng: lễ hội tôn vinh các tổ nghề như lễ hội làng Thiết Öng xã Vân Hà thờ
Tổ nghề chạm khắc Lỗ Ban; lễ hội tôn vinh các nhân vật lịch sử: lễ hội Cổ
Loa tôn thờ Vua An Dương Vương, lễ hội đình Cổ Điển,...; lễ hội tôn giáo:
lễ hội chùa,...
Thứ hai, lễ hội truyền thống của huyện Đông Anh mang đặc thù của cư
dân nông nghiệp
Huyện Đông Anh nằm ở khu vực đồng bằng sông Hồng với nền văn
minh lúa nước, cư dân chủ yếu là cư dân nông nghiệp, chính vì vậy, các lễ hội
truyền thống của huyện Đông Anh mang đặc thù của cư dân nông nghiệp.
Điều đó thể hiện ở nhiều khía cạnh:
Về thời gian tổ chức lễ hội: chủ yếu mùa xuân và mùa thu, là thời gian
nông nhàn giữa hai vụ mùa, người nông dân được thảnh thơi, rảnh rỗi.
Với nội dung lễ hội:
25
Các vùng ven sông Hồng, sông Đuống có tục “Rước nước” tắm thánh.
Theo tác giả Toan Ánh trong cuốn Nếp Cũ - Hội Hè Đình Đám có ghi: Lễ
rước nước tức là có một đám rước, rước nước ở sông hoặc ở giếng về đền
được thực hiện trước khi làm lễ mộc dục. Bên cạnh ý nghĩa đó, theo cư dân
nơi đây tiến hành lễ rước nước là lấy dòng nước trong sạch, tinh khiết ở giữa
dòng sông về để tắm thánh, thể hiện lòng thành kính, biết ơn đến các vị thần
được thờ ở đình. Đồng thời, nói lên ước mơ nguyện vọng của cư dân định cư
canh tác nông nghiệp trong vùng sông nước cầu cho mưa thuận gió hoà, mùa
mang tươi tốt, bội thu. Các lễ hội truyền thống của huyện Đông Anh có nhiều
lễ hội có tục rước nước, ví như lễ hội cầu mát làng Quan Âm, nét độc đáo tại
lễ hội làng Quan Âm là lễ Rước Nước cầu mát cho mưa thuận gió hòa, cầu
cho Quốc thái dân an và ghi nhớ công ơn Thành Hoàng Làng hay lễ hội rước
nước làng Xuân Trạch, trong lễ hội, phải chọn nam thanh, nữ tú tham gia việc
rước nước về tắm thánh “Nét nổi bật nhất trong lễ hội làng Xuân Trạch là lễ
rước nước và lễ tắm thánh. Sáng ngày mùng 10, ban tổ chức, các cụ, các ban
ngành đoàn thể cùng đông đảo bà con dân làng tập trung tại sân đình làm lễ
khai hội, sau đó sắp xếp đội hình đi rước nước. Lễ rước nước về thờ cúng là
một hành động thiêng liêng của tín ngưỡng cầu nước có từ xa xưa trong tâm
thức người dân ven sông vùng Bắc Bộ với mong ước về một năm mưa thuận
gió hòa, mùa màng tươi tốt” [48, tr. 426].
Nhiều lễ hội còn có tục kết chạ (kết nghĩa anh em), là tục đặc trưng đã
có từ lâu giữa các làng cổ ở vùng đồng bằng Bắc Bộ. Tục này xuất phát từ
xa xưa, trong đời sống sản xuất nông nghiệp, công việc canh nông, thủy lợi
có vai trò quan trọng cần sự góp sức của nhiều cộng đồng cư dân cùng
chung sức, hai hay nhiều làng kết chạ với nhau, cùng gọi là anh, nhận mình
là em, khi khó khăn thì giúp đỡ, hỗ trợ lẫn nhau. Đây là nét đẹp văn hóa
truyền thống bao đời của cư dân nông nghiệp Việt Nam, thể hiện sự đoàn kết
26
tương trợ, tương thân tương ái, theo tinh thần “bầu ơi thương lấy bí cùng”
của người Việt….
Thứ ba, Lễ hội truyền thống của huyện Đông Anh còn lưu giữ đư c
nhiều yếu tố dân gian độc đáo, đặc sắc.
Một lễ hội về cơ bản gồm hai phần: phần lễ và phần hội. Phần lễ là các
nghi thức trang trọng, mang tính thiêng, là linh hồn của lễ hội. Phần hội là các
trò chơi, các trò diễn xướng,… tổ chức cho người tham gia hội cùng hòa vào
không khí vui chơi. Phần hội tạo nên sức hút của lễ hội. Với đặc trưng của
vùng đất cổ, có truyền thống văn hóa lâu đời, các lễ hội truyền thống ở huyện
Đông Anh có đặc điểm là đến nay vẫn lưu giữ được rất nhiều yếu tố dân gian
độc đáo, đặc sắc. Như: Hội cướp cầu làng Viên Nội, cuộc thi kéo lửa thổi cơm
thi ở hội đình Lương Quy, tục kén rể ở hội đình Đường Yên, hay các trò chơi
như chọi gà, đấu vật,…
Những yếu tố dân gian độc đáo được tái hiện trong các lễ hội làm sống
lại những giá trị truyền thống, là nơi lưu giữ và trao truyền cho thế hệ tương
lai về những giá trị tốt đẹp của văn hóa dân tộc.
1.2.4. Một số lễ hội truyền thống tiêu biểu
Với sự phong phú, đa dạng về số lượng lễ hội và những nét đặc sắc về
lễ hội như đã phân tích ở trên, việc lựa chọn một số lễ hội tiêu biểu cũng
mang tính chất tương đối. Với việc phân chia lễ hội như phần trên, chúng tôi
lựa chọn 4 lễ hội điển hình cho các loại hình lễ hội được phân loại: lễ hội
đình, lễ hội đền, lễ hội miếu, lễ hội chùa.
* Lễ hội đình: Lễ hội đình Thụy Hà
Đình làng Thụy Hà thờ các vị: Tướng Cao Sơn3
, hai bộ tướng Hỗn Độn
và Áp Quán, Tá Phụ Minh Thiên4
, thánh Tam Giang5
.
3
Theo truyền thuyết, tướng Cao Sơn sống thời Hùng Vương, chuyên coi việc binh, thấy đất Thụy Hà trọng
yếu nên chọn làm nơi đóng binh, tại khu Đồng Rộc của làng, ngài đã có trận thắng vang dội. Sau khi thắng,
ngài khao thưởng quân sĩ và các dòng họ trong làng. Nhớ công ơn Ngài, dân tôn Ngài là Thành hoàng làng.
27
 Thời gian diễn ra lễ hội: từ ngày mùng 8 đến ngày 13 tháng Giêng.
 Quy trình tổ chức lễ hội:
+ Chuẩn bị: Khoảng một tháng trước ngày hội làng, không khí chuẩn bị
đã vô cùng rộn ràng. Các vị chức sắc, đại diện các dòng họ, các giáp trong
làng chuẩn bị họp bàn, phân công nhiệm vụ chuẩn bị lễ hội, bầu ra các ban bệ
trong lễ hội theo những tiêu chuẩn nhất định. Ví như Ban tế phải là các cụ ông
trải qua hội tư văn, khỏe mạnh, từ 50 tuổi trở lên, am tường việc tế lễ,… Khi
công tác chuẩn bị đã tươm tất các khâu cũng là lúc ngày hội cận kề
+ Vào lễ hội:
 Phần lễ:
Buổi sáng sớm ngày mùng 8 tháng Giêng, dân làng tổ chức nghi lễ
“Rước đám rậm”, diễn lại sự tích thánh Cao Sơn đánh thắng giặc tại khu
Đồng Rộc của làng. Đám rước với đầy đủ ban bệ như đội nhạc lễ, đội rước
kiệu,… rước bài vị Thánh,… Đến nơi, hạ kiệu thực hiện trang nghiêm các
nghi lễ tế thần, múa gươm diễn lại tích đánh giặc của Thánh, tạ thánh rồi lại
rước kiệu trở về làng.
8 giờ sáng, 30 kiệu xuất phát từ các nhà thờ họ trong làng tập trung ở
cổng làng theo thứ tự đã được định sẵn, lễ rước bát hương tổ từ các nhà thờ
họ trong làng ra đình là một điểm độc đáo của lễ hội đình Thụy Hà mà rất ít
thấy ở các lễ hội khác. Đúng 9 giờ cuộc hành kiệu bắt đầu, lễ rước diễn ra
trong không khí trang nghiêm, tuân theo mệnh lệnh của người cầm cờ chỉ
huy. Đi đầu là đám ông Nghè (họ Nguyễn Duy chi trên), rồi đến ông Cống
(họ Nguyễn Dương), quan Tân Nhất (họ Nguyễn Đức), rồi đến các họ khác
theo thứ tự được sắp xếp trước. Các vật dụng, trang phục trong lễ rước cũng
4
Thời Hậu Lý Nam Đế, khi nhà Lương sang xâm lược nước ta, Ngài đã có công tiêu diệt giặc, bảo vệ xóm
làng
5
Tướng của Hai Bà Trưng
28
được quy định cụ thể, tỉ mỉ với từng đối tượng: tiến sĩ thì dùng khánh, hương
cống thì dùng đạc, hay họ Nguyễn Thịnh mặc trang phục màu xanh,…
Không khí trang nghiêm nhưng không kém phần tưng bừng, náo nhiệt.
Đến Đình thì các kiệu hạ xuống, lần lượt rước bát bát hương vào đình đặt theo
vị trí quy định. Sau khi thủ tục rước kiệu, đặt bát hương vào đình hoàn tất,
Ban tổ chức công bố khai mạc. Lễ tế thần diễn ra, trong các ngày hội, đều đặn
buổi sáng đều thực hiện lễ tế thần.
Đến ngày 13 tháng Giêng, là ngày giã hội. Đúng 13 giờ chiều là nghi
thức tế giã đám, hóa mã, rước bát hương ở đình lên kiệu. 18h30, nghi thức
rước kiệu vòng quanh đình để “từ thần” để trở về các nhà thờ họ. Đám rước đi
đến Cầu Cháy thì nổi đuốc thắp sáng cả đường làng. Đám rước diễn ra trong
âm thanh dập dìu của tiếng kèn, tiếng trống ngân vang, giục giã,… Về đến
nhà thờ họ các cụ cao niên trong họ làm lễ đón bát hương đặt lên bàn thờ họ.
 Phần hội:
Trong năm ngày hội, dân làng tổ chức các trò chơi dân gian, các hoạt
động văn hóa nghệ thuật: hát tuồng, đấu vật, hát chèo, hát giao duyên, chọi
gà, cờ tướng,… Các trò chơi thu hút đông đảo người dân không chỉ trong làng
mà còn có cả người dân các khu vực xung quanh tham gia.
* Lễ hội đền: Lễ hội Cổ Loa
Lễ hội Cổ Loa là lễ hội lớn nhất của huyện Đông Anh, với sự tham gia
của 8 xã “bát xã hộ nhi”, gồm các xã: Cổ Loa, Văn Thượng, Ngoại Sát, Mạch
Tràng, Đài Bi, Cầu Cả, Sằn Giã, Thư Cưu và làng Quậy – một làng gốc ở Cổ
Loa, khi vua Thục xây thành đã phải di dời đến vùng Hà Vĩ, trong đó làng
Quậy được các xã tôn là anh cả. “Bát xã hội nhi xuất phát từ lịch sử, “khi vua
An Dương Vương về đóng ở Cổ Loa đã giao cho 8 xã (trước đây các làng gọi
là xã, còn gọi là bát xã), có nhiệm vụ phục vụ và bảo vệ triều đình. Ngày nay,
“bát xã” ấy thuộc xã Cổ Loa, Xuân Canh và Uy Nỗ. Làng Quậy xã Liên Hà
29
tham gia lễ hội Cổ Loa với tư cách là “anh cả Quậy”. Do đặc trưng quan trọng
này nên lễ hội Cổ Loa là một lễ hội liên làng, tính chất liên làng được thể hiện
rất rõ nét và mang tính chất của một không gian gắn liền với lịch sử về sự ra
đời của nhà nước Âu Lạc” [48, tr. 353].
 Thời gian diễn ra lễ hội:
Trước đây, lễ hội diễn ra trong 12 ngày, từ ngày 6 đến ngày 18 tháng
Giêng, những năm quy mô nhỏ cũng diễn ra trong 6 ngày. Hiện nay, lễ hội
được tổ chức trong hai ngày: 5,6 tháng Giêng, trong đó mùng 6 là chính
hội. Người dân vùng Cổ Loa có câu: “Chết bỏ con bỏ cháu, sống không bỏ
mồng 6 tháng Giêng”. Lễ hội Cổ Loa trước đây được tổ chức thường niên,
nhưng có thời gian bị gián đoạn và được khôi phục từ đầu những năm 80
của thế kỷ XX.
 Quy trình tổ chức lễ hội:
+ Công tác chuẩn bị: Công tác chuẩn bị của lễ hội Cổ Loa được nhân
dân chuẩn bị từ nhiều tháng trước, thường từ tháng 10 Âm Lịch. Chuẩn bị về
mọi mặt: Ban chủ trì lễ hội, ban tế, đội rước,... Mỗi ban, mỗi đội được chuẩn
bị với những tiêu trí riêng và được chuẩn bị khắt khe, ví như: Ban chủ trì lễ
hội là bốn cụ cao niên ở làng Cổ Loa, gọi là cụ thượng, được chọn trong các
giáp của làng; đội rước là các thanh niên có sức khỏe, chưa có gia đình,... Các
làng tham gia lễ hội cũng được phân công các nhiệm vụ khác nhau, ví như: xã
Cổ Loa có nhiệm vụ thảo “chúc văn, làm chủ tế và cử Đông xướng; xã Văn
Thượng có nhiệm vụ đọc chúc khi tế vua gọi là “độc chúc”…
+ Vào lễ hội:
 Phần lễ:
Vào ngày hội chính, đội khiêng kiệu và dân làng tập trung khiêng
kiệu đến đền Thượng theo hai phía: bên phải, phía Tây, là các xã Sằn Giã,
Mạch Tràng, Đài Bi, Cầu Cả tập trung ở Thành Ngoại; bên trái, phía Đông
30
là các xã Văn Thượng, Ngoại Sát, Thư Cưu. Theo trống lệnh, hai đoàn rước
tiến vào đền Thượng, đến sát đền thì nhập vào làm một, theo thứ tự đã
được quy định sẵn.
Làng Quậy – anh cả sẽ được vào tế lễ trước khi đoàn kiệu của tám làng
vào. Sau đó là buổi đồng tế với số lượng 30 đến 40 người trong đội tế đã được
chuẩn bị từ trước.
Sau lễ tế là nghi thức tiến lễ: oản phẩm dâng vua6
, gọi là thi lễ cho bát
xã và tiến dâng các sản vật địa phương.
Cùng lúc đó, Ban Giám khảo được bầu từ trước sẽ chấm đểm thi cho
đoàn rước các làng dựa trên các tiêu chí như: trang nghiêm, đẹp mắt, đúng
quy trình,… Sau đó bỏng chủ sẽ được đưa về kiệu để rước về đình của các
làng, gọi là “lộc Vua”.
Sau đó là nghi lễ “Rước kiệu bát xã”. Nghi thức rước kiệu diễn ra trong
không khí trang nghiêm, long trọng với đầy đủ các thành phần: Đội thổi tù và
cầm tay thước đi trước, đội cờ thần, đội múa cờ, đội trống chiêng, đội rước
bát bửu, đội múa,… trong đó có kiệu vua An Dương Vương, kiệu Bà Chúa
Mỵ Châu,… Từ đền Thượng đi ra, các đoàn rước đi theo thứ tự do ban tổ
chức quy định, sau đó sẽ tỏa ra các hướng quy định để đi về đình làng của các
làng, riêng đoàn rước của Cổ Loa sẽ đi thẳng vào đình Ngự Triều Di Quy ngự
ở đó, tế xong đến chiều sẽ quay về đền Thượng. Còn các làng lại tiếp tục tổ
chức lễ hội ở đình của mình theo thời gian được phân chia từ ngày mùng 8
đến hết ngày 16 tháng Giêng.
 Phần hội:
Nếu như phần lễ được tổ chức với những lễ nghi long trọng, trang
nghiêm, thể hiện tính thiêng – linh hồn của lễ hội thì phần hội của lễ hội Cổ
6
Oản phẩm dâng vua là do nhân dân các làng thi nhau làm bỏng nén, còn gọi là bỏng Chủ, tương truyền là
một loại quân lương của quân đội Âu Lạc, được làm từ thóc nếp cái hoa vàng và mật đường Mai Lĩnh, thảo
quả, lạc rang, được làm theo quy trình kỹ lưỡng từ khâu chọn nguyên liệu đến các khâu chế biến.
31
Loa lại hấp dẫn người tham gia hội với nhiều trò chơi phong phú, mang nhiều
ý nghĩa. Các loại hình nghệ thuật truyền thống dân gian như hát ca trù, hát
tuồng được diễn ra ở sân đình vào buổi tối làm sống lại hình ảnh sân đình
làng quê xưa với những sinh hoạt văn hóa của cộng đồng. Ban ngày, các cụ
ông thảnh thơi ngồi chơi lại những trò chơi dân gian của một thời đã qua như
chơi bài, đánh cờ, tổ tôm,… các bà các mẹ xúng xính áo dài đi lễ; các thanh
thiếu niên cũng nhau chơi những trò chơi như đánh đu, kéo co, chọi gà,… Cả
vùng quê như sống dậy bức tranh dân gian sống động, đầy sắc màu.
* Lễ hội miếu: Lễ hội miếu Mạch Lũng
Miếu Mạch Lũng nằm ở xã Đại Mạch, huyện Đông Anh, miếu thờ ba
Đức Đại Vương là những tướng lĩnh thời vua Hùng đời thứ 18, ba vị văn võ
song toàn đã cầm quân đánh giặc cứu nước, có công hộ quốc an dân. Hiện
Miếu Mạch Lũng vẫn còn lưu giữ được 6 đạo sắc phong và nhiều cổ vật quý
giá như: Thần phả, Thần tích và Sắc Phong.
- Thời gian diễn ra lễ hội: 3 ngày, từ 10 đến 12 tháng 2 Âm lịch
- Quy trình tổ chức lễ hội:
+ Công tác chuẩn bị lễ hội: Gần đến ngày hội, dân trong làng náo nức
với các công việc chuẩn bị cho lễ hội, miếu được mở cửa dọn dẹp, làng thành
lập ban tổ chức, phân công các đội chuẩn bị các công việc khác nhau, tất cả
đều hướng đến ngày hội chung.
+ Vào lễ hội:
 Phần lễ:
Phần lễ được diễn ra với nghi lễ trang trọng, uy nghiêm với đủ các
nghi lễ truyền thống như dâng hương tế lễ, cúng khai quang nhập tịch và
cúng tống tịch, tế nam, tế nữ, tế cáo, rước kiệu. 5 năm thì có một lần tổ chức
rước kiệu lớn.
32
Trong suốt ba ngày lễ hội, các đoàn đại diện cho các tổ đội sản xuất,
nhóm đồng niên, đông ngũ, đồng môn…và các gia đình lần lượt mang lễ lên
miếu làm lễ dâng hương. Những gia đình làm ăn khá giả có thể dâng đến 5
mâm lớn với thủ lợn, xôi, gà, trầu cau, bánh cốm…và những gia đình nghèo
nhất cũng thể hiện lòng thành với đĩa xôi, khoanh thịt. Tất cả các việc đại sự
trong các gia đình như hiếu, hỉ, xây nhà…đều phải dừng lại để tập trung cho
ngày Thánh.
 Phần hội:
Phần hội có nhiều hoạt động văn hóa dân gian như: chọi gà, cờ tướng,
bịt mắt đập niêu, hát quan họ… thu hút đông đảo người dân và du khách
tham gia.
* Lễ hội chùa: Lễ hội chùa Quan Âm
Làng Quan Âm thuộc xã Bắc Hồng là một làng cổ nổi tiếng với lễ hội
Cầu mát với tục rước mã độc đáo, mang ý nghĩa cầu cho mưa thuận gió hòa,
dân khang vật thịnh. Đây là lễ hội độc đáo bởi nó là sự kết hợp giữa lễ hội
Phật giáo và lễ hội nông nghiệp.
Lễ hội Cầu mát làng Quan Âm bắt nguồn từ xưa kia, khi những cư dân
đầu tiên đến sinh sống ở vùng đất này, được một vị thần báo mộng có “mạch
nước mắt rồng”, nhân dân đào được mạch nước thiêng, trong vắt và đặc biệt
không bao giờ cạn, nhờ đó mà đời sống nhân dân được đảm bảo. Nhân dân
biết ơn, lập miếu thờ thần Giếng. Hằng năm, nhân dân đều tổ chức lễ rước
nước về tế thánh để cầu mong mưa thuận, gió hòa, mùa màng tươi tốt.
- Thời gian diễn ra lễ hội: Mồng 7 và mồng 8 tháng Hai âm lịch.
- Quy trình tổ chức lễ hội:
+ Công tác chuẩn bị: Trước lễ hội cả tháng, nhân dân trong làng đã tất
bật tiến hành công tác chuẩn bị cho lễ hội. Chuẩn bị lực lượng tham gia lễ hội:
33
đội tế, đội dâng hương, đội rước,… mỗi đội được lựa chọn với những tiêu chí
riêng. Chuẩn bị đồ mã: Ông Voi, Ông Ngựa, thuyền rồng,…
+ Vào lễ hội:
 Phần lễ:
Vào ngày hội, từ sáng, nhân dân trong làng đã tụ họp tại sân chùa Quan
Âm, những người được phân công nhiệm vụ trong các đội đều mặc quần áo
chỉnh tề, đúng theo quy định. Đội hình rước lễ sẵn sàng: đi đầu là các cụ bà
mặc trang phục đẹp mắt rước cờ thần. Đây là một điểm rất đặc biệt của lễ hội,
bởi các bà là lực lượng đứng đầu của buổi rước lễ, sau này cũng chính các bà
cũng đảm nhận vai trò tế lễ của đội dâng hương, điều này rất khác với các lễ
hội truyền thống khác. Tiếp đến là phường nhạc bát âm của các cụ bà, rồi đến
là đội nam thanh niên rước kiệu chóe đựng nước thờ, sau là đội rước ngựa
lớn, đội nữ rước thuyền rồng, tiếp đến là đội nam thanh niên rước Ông Voi
chiến. Đi sau cùng là các cụ ông, cụ bà, nhân dân và khách thập phương.
Đám rước đi từ chùa Quan Âm đến nơi cổng làng có giếng nước cổ để
lấy nước rồi đi một vòng quanh hồ rộng của làng (quãng đường quanh hồ
khoảng 2 km) rồi trở lại chùa.
Sau đó là các nghi thức tế lễ, dâng hương, đến chiều dân làng rước mã:
thuyền rồng, ngựa voi đi hóa.
 Phần hội:
Sau phần nghi lễ linh thiêng, người dự hội được hòa mình vào các trò
chơi dân gian vô cùng đặc sắc: chọi gà, đánh đu, bịt mắt đập niêu, cờ
người,…
Tiểu kết chƣơng 1
Đông Anh là vùng đất cổ, có vị trí chiến lược quan trọng về vị trí địa
lý, chính trị, kinh tế, văn hóa, là một phần của mảnh đất thủ đô ngàn năm
văn hiến.
34
Mảnh đất nơi đây đã sản sinh ra biết bao giá trị văn hóa đặc sắc, trong
đó điểm nhấn là các lễ hội truyền thống. Giống như các vùng quê khác của
Việt Nam, các lễ hội truyền thống là món ăn tinh thần không thể thiếu của
người dân đất Việt, nhưng với những vị thế đặc biệt, các lễ hội truyền thống
của huyện Đông Anh có những đặc trưng rất riêng. Các lễ hội truyền thống
của huyện Đông Anh đã trở thành một phần không thể thiếu của đời sống
người dân nơi đây.
Lễ hội truyền thống huyện Đông Anh rất phong phú và đa dạng, có
những đặc trưng riêng biệt, những đặc trưng độc đáo đó góp phần tạo nên bản
sắc văn hóa huyện Đông Anh.
35
Chƣơng 2.
VAI TRÕ CỦA LỄ HỘI TRUYỀN THỐNG ĐỐI VỚI ĐỜI SỐNG
NGƢỜI DÂN VÀ XU HƢỚNG BIẾN ĐỔI CỦA LỄ HỘI TRUYỀN
THỐNG HUYỆN ĐÔNG ANH, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
1.1. Vai trò của lễ hội truyền thống đối với đời sống ngƣời dân
huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội
1.1.1. Vai trò của lễ hội truyền thống đối với đời sống tinh thần của
người dân huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội.
Trước tiên, cần khẳng định lễ hội truyền thống là món ăn tinh thần
không thể thiếu của người dân huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội.
Trong một khảo sát phục vụ nghiên cứu, chúng tôi đặt ra câu hỏi cho
người dân huyện Đông Anh: Ông (Bà) có tham gia các lễ hội truyền thống
của địa phương không? Câu trả lời nhận được cho mức độ tham gia như sau.
Mức độ
Tỉ lệ
chung
Phân chia tỉ lệ theo độ tuổi
Dƣới 30 tuổi
Từ 30 đến
50 tuổi
Trên 50 tuổi
Thường xuyên 80% 67% 75% 98%
Thỉnh thoảng 15% 23% 20% 2%
Rất ít 4% 8% 3 % 0%
Chưa bao giờ 1% 2% 2% 0%
Từ số liệu bảng trên có thể cho thấy phần lớn người dân huyện Đông
Anh đều rất quan tâm đến các lễ hội truyền thống của địa phương mình, đặc
biệt là ở những người cao tuổi (trên 50 tuổi) – những người giàu kinh nghiệm
sống, họ thường xuyên tham gia các lễ hội truyền thống của làng mình, bởi họ
coi đó là sinh hoạt chung không thể thiếu của cộng đồng làng.
36
Hay khi được hỏi về đánh giá vai trò các lễ hội truyền thống đối với
đời sống người dân, có đến 68% người được hỏi lựa chọn phương án: vai trò
rất lớn.
Thứ hai, lễ hội truyền thống đáp ứng, thỏa mãn nhu cầu đời sống tâm
linh của người dân huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội
Bên cạnh đời sống vật chất, đời sống tinh thần, tư tưởng còn hiện hữu
đời sống tâm linh. Đó là đời sống con người hướng về cái cao cả, thiêng liêng
- chân thiện mỹ - thứ mà con người luôn ngưỡng mộ, ước vọng, tôn thờ. Viết
về khái niệm Tâm linh, cuốn Văn hóa gia đình Việt Nam và sự phát triển có
đề cập đến với nội hàm: “Trong đời sống con người, ngoài mặt hiện hữu còn
có mặt tâm linh. Về mặt cá nhân đã như vậy, mà mặt cộng đồng (gia đình,
làng xã, dân tộc) cũng như vậy. Nếu mặt hiện hữu của đời sống con người có
thể nhận thức qua những tiêu chuẩn cụ thể sờ mó được, có thể đánh giá qua
những cụ thể nhất định, thì về mặt tâm linh bao giờ cũng gắn với cái gì đó rất
trừu tượng, rất mông lung, nhưng lại không thiếu được ở con người. Con
người sở dĩ trở thành con người, một phần căn bản là do nó có đời sống tâm
linh. Nghĩa là tuân theo những giá trị bắt nguồn từ cái thiêng liêng, cái bí ẩn,
những giá trị tạo thành đời sống tâm linh của nó” [Trích theo 8, tr. 8-9]. Nhà
nghiên cứu Nguyễn Đăng Duy trong cuốn sách Văn hóa Tâm linh cũng đưa ra
khái niệm Tâm linh: “Tâm linh là cái thiêng liêng cao cả trong cuộc sống đời
thường, là niềm tin thiêng liêng trong cuộc sống tín ngưỡng tôn giáo” [8,
tr.11]. Cũng trong cuốn sách này, tác giả đã đề cập đến vai trò của tâm linh
trong mọi mặt của đời sống: đời sống cá nhân, đời sống gia đình, đời sống
cộng đồng làng xã, Tổ quốc giang sơn đất nước, văn hóa nghệ thuật, thế giới
tâm linh, tín ngưỡng tôn giáo,… trong đó chúng tôi đặc biệt quan tâm đến vai
trò của tâm linh trong đời sống cá nhân, đời sống gia đình và đời sống cộng
đồng làng xã, Tổ quốc giang sơn đất nước,…
37
Với đời sống cá nhân, đời sống tâm linh của con người xuất hiện cao
trào khi hoàn cảnh thiêng, thời gian thiêng xuất hiện, nó trở thành điểm tựa
tạo nên niềm tin, sức mạnh để cá nhân mỗi người vượt qua những khó khăn
gian khổ, hứng khởi niềm tin vào tương lai.
Với đời sống gia đình, các giá trị tâm linh đã trở thành “hằng số của
văn hóa gia đình” [8, tr.32], là biểu tượng thiêng liêng lôi cuốn các thành viên
trở về đoàn tụ, cố kết, củng cố các mối quan hệ trong gia đình.
Với đời sống cộng đồng làng xã, “…cái cột chặt con người trong làng
xã xưa kia không phải chỉ có quan hệ lãnh thổ, kinh tế mà còn có nhiều quan
hệ khác đó là thế giới tâm linh. Vậy tâm linh ở đây được biểu hiện ra những
gì? Đó là thần tượng thiêng liêng về các anh hùng có công dựng làng, giữ
nước đang được tôn thờ trong những không gian thiêng liêng, những ngôi
đình đền. Khuôn quanh những không gian thiêng liêng ấy, hàng năm lễ thần
và hội làng diễn ra, thì lại là những dịp niềm tin thiêng liêng được củng cố.
Thần thánh thiêng liêng nhắc nhở xóa bỏ những gì khúc mắc bất hòa. Đoàn tụ
gần gũi nhau hơn lại đến với những trái tim con người làng xóm” [8, tr. 33].
Với Tổ quốc giang sơn đất nước, sức mạnh tâm linh đã tạo nên niềm tin
vững chắc, cố kết tình đoàn kết dân tộc, giúp dân tộc ta vượt qua mọi phong
ba, bão táp, thắng mọi kẻ thù xâm lược. Những thời điểm thiêng, không gian
thiêng giúp củng cố, làm trỗi dậy tình yêu quê hương, đất nước.
Xét trên hệ quy chiếu trên, chúng ta đi vào phân tích vai trò của các lễ
hội truyền thống với đời sống tâm linh của người dân huyện Đông Anh, thành
phố Hà Nội.
Với đời sống cá nhân mỗi thành viên trong cộng đồng cư dân huyện
Đông Anh, thành phố Hà Nội, mỗi dịp lễ hội về là dịp để người dân được bày
tỏ lòng thành kính của mình với các vị thần. Khi thực hiện phần lễ trong lễ
hội là sự biểu hiện lòng tôn kính và tin tưởng của mọi người đối với thần linh
38
một cách có hệ thống, có bài bản. Thông qua những vật phẩm, nén nhang, qua
các hành động lễ nghi, con người biểu lộ được sự kính trọng của mình với
đấng siêu nhiên đáng kính. Thực hành nghi lễ trang nghiêm, người ta tin
tưởng các vị thần linh sẽ thấy được lòng thành kính của mình, sẽ che chở, bảo
vệ mình trước mọi tai ương, sóng gió. Người ta thấy mình như tịnh tâm, thanh
thản. Trong bầu không khí thiêng liêng, người ta thấy như những lời nguyện
cầu của mình gửi gắm được thần linh lắng nghe, thấu hiểu. Người hành lễ
thấy mình như đắm chìm vào thế giới khác: thế giới của bình yên, của tình
thương bao dung, của công bằng, khác hẳn với trạng thái tinh thần ở thực tại
mà họ đang phải chịu đựng.
Khi tham gia phần hội, con người hòa mình vào không khí vui tươi,
giải phóng tâm hồn mình khỏi những khổ đau, lo âu, phiền muộn của cuộc
sống hàng ngày, đắm mình trong những trò chơi, lời ca, điệu múa. Tâm hồn
con người như trẻ trung hơn, vui vẻ hơn... Người ta có thêm niềm tin, niềm hy
vọng để bước tiếp những bước đi trong cuộc sống đầy gian nan, vất vả.
Cần nhấn mạnh rằng, đối với mỗi cá nhân, con người có thể thực hiện
các nghi lễ thờ cúng đối với các vị thần của làng vào rất nhiều dịp trong năm,
chùa làng mở cửa đều đặn, đặc biệt là các dịp ngày tuần Rằm, Mồng Một,…
trong tháng, các đình, đền,… cũng vậy, tuy nhiên lễ hội là dịp đặc biệt nhất, là
dịp mà người ta tin rằng khoảng cách giữa họ và thánh thần được rút ngắn
nhất, nên đây là dịp để thỏa mãn nhu cầu tâm linh của cá nhân một cách lý
tưởng nhất. Như nhà nghiên cứu Đặng Nghiêm Vạn đã phân tích “Bước vào
lễ hội, ban đầu con người như cảm thấy như được trút bỏ cái gì còn đương
trăn trở trong cuộc đời trần tục, hoặc muốn chia sẻ những nỗi thầm kín của
đời thường với những đấng thiêng liêng, cầu mong những gì mình cảm thấy là
cần thiết cho cuộc đời trần tục, hoặc muốn chia sẻ những nỗi thầm kín của đời
thường với những đấng thiêng liêng, cầu mong những gì mình cảm thấy là
39
cần thiết cho cuộc đời trần tục cũng như đời sống tôn giáo. Tham dự lễ hội,
sống trong không khí khác đời thường; khi ra về con người cảm thấy thanh
thản như thấy được an ủi, giúp đỡ, khích lệ, được giải quyết những vướng
mắc ban đầu khi tới hội” [51, tr 17].
Đặc biệt trong bối cảnh hiện nay, trong guồng quay của cuộc sống công
nghiệp hóa, hiện đại hóa,... con người bị cuốn vào guồng quay gấp gáp của
cuộc sống công nghiệp cộng thêm những thiết bị công nghệ hiện đại như máy
tính, điện thoại thông minh,… đang đẩy con người, phần lớn là giới trẻ vào
tình trạng hạn chế các mối tiếp xúc, giao lưu với bên ngoài, với cộng đồng,
thay vào đó là nhốt mình trong những bức tường kín, sống với thế giới ảo như
facebook, zalo,… dần dần mối quan hệ cộng đồng, xã hội bị hạn hẹp lại, các
cá nhân ít chia sẻ, cảm thông với nhau hơn, hệ lụy là các cá nhân ngày càng bị
cô lập, cô đơn, tâm lý mất cân bằng, căng thẳng,… Lễ hội là dịp các cá nhân
cởi bỏ bức tường vô hình quanh mình để hòa vào không khí lễ hội, để giao
tiếp với thần linh trong không khí linh thiêng, để bày tỏ những ước vọng,
mong muốn của mình, để giải tỏa tâm lý, để cân bằng lại tâm lý.
Về vấn đề này, khi được hỏi: Khi tham gia các các lễ hội truyền thống
Ông/bà thường mong muốn điều gì? Có nhiều ý kiến trả lời với nội dung
mong muốn được ban phước lành, được thần linh chứng giám cho lòng thành,
phù hộ cho cá nhân, gia đình được mạnh khỏe bình an, cầu được ước thấy.
Như chị T.T.P: “Làng tôi năm nào cùng tổ chức hội, tôi tin các vị Thần, Phật
sẽ nghe thấy những điều dân làng cầu nguyện. Tôi chỉ mong ước gia đình
bình an, hạnh phúc, con cái khỏe mạnh, ngoan ngoãn”7
Đối với đời sống các gia đình huyện Đông Anh, các lễ hội truyền thống
cũng là lúc củng cố mạnh mẽ đời sống tâm linh trong gia đình. Đặc biệt rất
nhiều các lễ hội truyền thống của huyện Đông Anh gắn chặt với các tín
7
Phỏng vấn chị T.T.P tại lễ hội làng Quan Âm năm 2019.
40
ngưỡng thờ cúng trong gia đình. Bởi về nguồn gốc, các làng cổ của Việt Nam
thường được hình thành trên cơ sở các dòng họ, mỗi làng là sự tập hợp của
một vài họ cũng nhau sinh sống, làm ăn, sinh con đẻ cái, rồi tách thành các
chi, các họ nhánh. Điển hình là lễ hội Rước Kiệu làng Thụy Hà, trong lễ hội
có nghi thức rước bát hương tổ từ các nhà thờ dòng họ ra đình. Trong làng
Thụy Hà hiện nay còn có các họ như: họ Nguyễn Văn, họ Nguyễn Đức, họ
Nguyễn Duy chi trên, họ Nguyễn Duy chi dưới, họ Nguyễn Tiến, họ Nguyễn
Thế, họ Thịnh, họ Dương. Chính vì vậy mỗi dịp lễ hội về, là con cháu các họ
trong làng hân hoan về đoàn tụ, cũng nhau tân trang nhà thờ họ, sắm sửa lễ
vật chuẩn bị vào hội cùng cả làng. Đó là dịp để con cháu tưởng nhớ về tổ tiên,
về nguồn cội, củng cố lại các mối quan hệ ông bà, cô dì, chú bác trong dòng
họ, thắt chặt tình đoàn kết họ hàng, thêm tự hào về nguồn gốc, về dòng họ nơi
mình sinh ra, mang dòng máu đang chảy trong tim. Hay như lễ hội Rước Vua
giả đền Sái, “dòng họ nào được cử người tham gia đóng vua, chúa, quan đều
rất phấn khởi vì họ quan niệm rằng đó là niềm tự hào, vinh dự cho cả dòng
họ. Chính vì vậy ông trưởng họ phân công mỗi người một việc…” [48, tr.
366]. Trong các dịp lễ hội, các thành viên trong gia đình về hội tụ đông đủ,
quây quần bên mâm cơm đầm ấm, vui vẻ, tình cảm gia đình thêm gắn bó, yêu
thương.
Với đời sống cộng đồng làng xã, Đông Anh là một huyện ngoại thành
Hà Nội, quá trình đô thị hóa chỉ mới thực sự rầm rộ trong khoảng thời gian
vài thập kỷ trở lại đây, dáng dấp của làng xã vẫn còn hiện hữu trong cấu trúc
xã hội của vùng. Các làng, xã trong huyện đều có lịch sử từ lâu đời, chỉ có xã
Kim Nỗ và thị trấn Đông Anh là thành lập về sau. Theo thư tịch cổ, thì tất cả
các làng đều có lễ hội (trừ Kim Nỗ và thị trấn), nhưng hiện nay có nhiều lễ
hội đã bị thất truyền. Chính vì vậy, theo truyền thống các làng xưa, lễ hội là
dịp sinh hoạt cộng đồng đặc biệt của dân làng, là dịp thỏa mãn đời sống tâm
41
linh của cộng đồng làng. Chuẩn bị gần tới lễ hội, dân làng tấp nập chuẩn bị
các khâu, các công đoạn, tập rượt trước nhiều ngày. Đến ngày hội, cả làng
ngừng hết các công việc kinh tế, các con cháu xa quê cũng hứng khởi về quê
dự hội. Ai cũng chọn cho mình những bộ quần áo đẹp nhất, rực rỡ sắc màu
cùng nhau hòa mình vào các nghi lễ trang nghiêm với niềm tin mãnh liệt thực
hiện các nghi lễ đó, sẽ được các thần linh chứng giám, phù hộ cho cộng đồng
làng bình yên, ngày càng khấm khá. Sau các nghi lễ trang nghiêm, cả làng lại
nô nức cùng nhau tham gia các trò vui hội, các trò chơi dân gian như chọi gà,
thổi cơm thi, đánh đu,… được tái hiện. Những vất vả lo toan của cuộc sống
thường nhật tạm thời được gác lại, thay vào đó là bầu không khí vui tươi,
hứng khởi, đoàn kết. “Lễ hội truyền thống còn thể hiện chức năng đáp ứng
nhu cầu đời sống tinh thần, tâm linh, giải quyết những khát khao, những ước
mơ của cộng đồng các dân tộc ở địa phương... Thông qua đó, lễ hội truyền
thống tạo cho con người niềm lạc quan yêu đời, yêu chân lý, trọng cái thiện
và làm cho tâm hồn, nhân cách mỗi con người như được sưởi ấm tình nhân
đạo, nhân văn để rồi thẩm thấu vào cuộc sống đời thường, đáp ứng nhu cầu
đời sống văn hóa tinh thần, tâm linh về giao lưu, làm cho đời sống có ý nghĩa
hơn, tốt đẹp hơn” [51, tr 17].
Với đặc trưng “trống làng nào làng ấy đánh, thánh làng nào làng ấy
thờ” của văn hóa Bắc Bộ Việt Nam, tín ngưỡng thờ Thành Hoàng làng trở
thành điểm tựa tâm linh của văn hóa làng. Các tín ngưỡng thờ cúng truyền
thống và đỉnh cao là các lễ hội truyền thống là điểm tựa tâm linh cho cư dân
cộng đồng làng nhớ về nguồn cội, nhớ về ngôi làng thân thương, nơi chôn rau
cắt rốn. Bà N.N.V cho biết: “Tôi theo con cháu về ở nội thành đã gần chục
năm nay nhưng năm nào cứ vào dịp hội làng là tôi lại về, nó đã thành thói
quen, về tôi lại đư c cùng những người trong hội người cao tuổi cùng nhau
Luận văn thạc sĩ tôn giáo: Lễ hội truyền thống đối với đời sống người dân
Luận văn thạc sĩ tôn giáo: Lễ hội truyền thống đối với đời sống người dân
Luận văn thạc sĩ tôn giáo: Lễ hội truyền thống đối với đời sống người dân
Luận văn thạc sĩ tôn giáo: Lễ hội truyền thống đối với đời sống người dân
Luận văn thạc sĩ tôn giáo: Lễ hội truyền thống đối với đời sống người dân
Luận văn thạc sĩ tôn giáo: Lễ hội truyền thống đối với đời sống người dân
Luận văn thạc sĩ tôn giáo: Lễ hội truyền thống đối với đời sống người dân
Luận văn thạc sĩ tôn giáo: Lễ hội truyền thống đối với đời sống người dân
Luận văn thạc sĩ tôn giáo: Lễ hội truyền thống đối với đời sống người dân
Luận văn thạc sĩ tôn giáo: Lễ hội truyền thống đối với đời sống người dân
Luận văn thạc sĩ tôn giáo: Lễ hội truyền thống đối với đời sống người dân
Luận văn thạc sĩ tôn giáo: Lễ hội truyền thống đối với đời sống người dân
Luận văn thạc sĩ tôn giáo: Lễ hội truyền thống đối với đời sống người dân
Luận văn thạc sĩ tôn giáo: Lễ hội truyền thống đối với đời sống người dân
Luận văn thạc sĩ tôn giáo: Lễ hội truyền thống đối với đời sống người dân
Luận văn thạc sĩ tôn giáo: Lễ hội truyền thống đối với đời sống người dân
Luận văn thạc sĩ tôn giáo: Lễ hội truyền thống đối với đời sống người dân
Luận văn thạc sĩ tôn giáo: Lễ hội truyền thống đối với đời sống người dân
Luận văn thạc sĩ tôn giáo: Lễ hội truyền thống đối với đời sống người dân
Luận văn thạc sĩ tôn giáo: Lễ hội truyền thống đối với đời sống người dân
Luận văn thạc sĩ tôn giáo: Lễ hội truyền thống đối với đời sống người dân
Luận văn thạc sĩ tôn giáo: Lễ hội truyền thống đối với đời sống người dân
Luận văn thạc sĩ tôn giáo: Lễ hội truyền thống đối với đời sống người dân
Luận văn thạc sĩ tôn giáo: Lễ hội truyền thống đối với đời sống người dân
Luận văn thạc sĩ tôn giáo: Lễ hội truyền thống đối với đời sống người dân
Luận văn thạc sĩ tôn giáo: Lễ hội truyền thống đối với đời sống người dân
Luận văn thạc sĩ tôn giáo: Lễ hội truyền thống đối với đời sống người dân
Luận văn thạc sĩ tôn giáo: Lễ hội truyền thống đối với đời sống người dân
Luận văn thạc sĩ tôn giáo: Lễ hội truyền thống đối với đời sống người dân
Luận văn thạc sĩ tôn giáo: Lễ hội truyền thống đối với đời sống người dân
Luận văn thạc sĩ tôn giáo: Lễ hội truyền thống đối với đời sống người dân
Luận văn thạc sĩ tôn giáo: Lễ hội truyền thống đối với đời sống người dân
Luận văn thạc sĩ tôn giáo: Lễ hội truyền thống đối với đời sống người dân
Luận văn thạc sĩ tôn giáo: Lễ hội truyền thống đối với đời sống người dân
Luận văn thạc sĩ tôn giáo: Lễ hội truyền thống đối với đời sống người dân
Luận văn thạc sĩ tôn giáo: Lễ hội truyền thống đối với đời sống người dân
Luận văn thạc sĩ tôn giáo: Lễ hội truyền thống đối với đời sống người dân
Luận văn thạc sĩ tôn giáo: Lễ hội truyền thống đối với đời sống người dân
Luận văn thạc sĩ tôn giáo: Lễ hội truyền thống đối với đời sống người dân
Luận văn thạc sĩ tôn giáo: Lễ hội truyền thống đối với đời sống người dân
Luận văn thạc sĩ tôn giáo: Lễ hội truyền thống đối với đời sống người dân
Luận văn thạc sĩ tôn giáo: Lễ hội truyền thống đối với đời sống người dân
Luận văn thạc sĩ tôn giáo: Lễ hội truyền thống đối với đời sống người dân
Luận văn thạc sĩ tôn giáo: Lễ hội truyền thống đối với đời sống người dân
Luận văn thạc sĩ tôn giáo: Lễ hội truyền thống đối với đời sống người dân
Luận văn thạc sĩ tôn giáo: Lễ hội truyền thống đối với đời sống người dân
Luận văn thạc sĩ tôn giáo: Lễ hội truyền thống đối với đời sống người dân

More Related Content

What's hot

Japan-giao tiếp liên văn hóa
Japan-giao tiếp liên văn hóaJapan-giao tiếp liên văn hóa
Japan-giao tiếp liên văn hóaLenise Ngọc Thảo
 
Vùng văn hóa châu thổ bắc bộ - Nhóm Văn Hóa - HaUI
Vùng văn hóa châu thổ bắc bộ - Nhóm Văn Hóa - HaUIVùng văn hóa châu thổ bắc bộ - Nhóm Văn Hóa - HaUI
Vùng văn hóa châu thổ bắc bộ - Nhóm Văn Hóa - HaUIHuynh ICT
 
Luận án: Tuyên truyền giá trị văn hóa của tín ngưỡng thờ mẫu, HAY - Gửi miễn ...
Luận án: Tuyên truyền giá trị văn hóa của tín ngưỡng thờ mẫu, HAY - Gửi miễn ...Luận án: Tuyên truyền giá trị văn hóa của tín ngưỡng thờ mẫu, HAY - Gửi miễn ...
Luận án: Tuyên truyền giá trị văn hóa của tín ngưỡng thờ mẫu, HAY - Gửi miễn ...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
VĂN HÓA TÂM LINH TRONG “TRUYỆN KIỀU” VÀ “VĂN CHIÊU HỒN” CỦA NGUYỄN DU - TẢI F...
VĂN HÓA TÂM LINH TRONG “TRUYỆN KIỀU” VÀ “VĂN CHIÊU HỒN” CỦA NGUYỄN DU - TẢI F...VĂN HÓA TÂM LINH TRONG “TRUYỆN KIỀU” VÀ “VĂN CHIÊU HỒN” CỦA NGUYỄN DU - TẢI F...
VĂN HÓA TÂM LINH TRONG “TRUYỆN KIỀU” VÀ “VĂN CHIÊU HỒN” CỦA NGUYỄN DU - TẢI F...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Tác động kinh tế của phát triển du lịch tại Đà Nẵng
Tác động kinh tế của phát triển du lịch tại Đà NẵngTác động kinh tế của phát triển du lịch tại Đà Nẵng
Tác động kinh tế của phát triển du lịch tại Đà NẵngĐàm Liên
 

What's hot (20)

Japan-giao tiếp liên văn hóa
Japan-giao tiếp liên văn hóaJapan-giao tiếp liên văn hóa
Japan-giao tiếp liên văn hóa
 
Đề tài: Di tích lịch sử khu lăng mộ và đền thờ các vị vua triều Lý
Đề tài: Di tích lịch sử khu lăng mộ và đền thờ các vị vua triều LýĐề tài: Di tích lịch sử khu lăng mộ và đền thờ các vị vua triều Lý
Đề tài: Di tích lịch sử khu lăng mộ và đền thờ các vị vua triều Lý
 
Luận văn: Lễ Hằng Thuận trong cưới hỏi ở TPHCM hiện nay, 9đ
Luận văn: Lễ Hằng Thuận trong cưới hỏi ở TPHCM hiện nay, 9đLuận văn: Lễ Hằng Thuận trong cưới hỏi ở TPHCM hiện nay, 9đ
Luận văn: Lễ Hằng Thuận trong cưới hỏi ở TPHCM hiện nay, 9đ
 
Luận văn: Phát triển du lịch bền vững tỉnh Đồng Tháp, HOT, 9đ
Luận văn: Phát triển du lịch bền vững tỉnh Đồng Tháp, HOT, 9đLuận văn: Phát triển du lịch bền vững tỉnh Đồng Tháp, HOT, 9đ
Luận văn: Phát triển du lịch bền vững tỉnh Đồng Tháp, HOT, 9đ
 
Luận văn: Sinh hoạt Tín ngưỡng của người Hoa Triều Châu, HAY
Luận văn: Sinh hoạt Tín ngưỡng của người Hoa Triều Châu, HAYLuận văn: Sinh hoạt Tín ngưỡng của người Hoa Triều Châu, HAY
Luận văn: Sinh hoạt Tín ngưỡng của người Hoa Triều Châu, HAY
 
Luận văn: Quản lý nhà nước về văn hóa ở thị xã Phú Thọ, HOT, 9đ
Luận văn: Quản lý nhà nước về văn hóa ở thị xã Phú Thọ, HOT, 9đLuận văn: Quản lý nhà nước về văn hóa ở thị xã Phú Thọ, HOT, 9đ
Luận văn: Quản lý nhà nước về văn hóa ở thị xã Phú Thọ, HOT, 9đ
 
Vùng văn hóa châu thổ bắc bộ - Nhóm Văn Hóa - HaUI
Vùng văn hóa châu thổ bắc bộ - Nhóm Văn Hóa - HaUIVùng văn hóa châu thổ bắc bộ - Nhóm Văn Hóa - HaUI
Vùng văn hóa châu thổ bắc bộ - Nhóm Văn Hóa - HaUI
 
Luận án: Tuyên truyền giá trị văn hóa của tín ngưỡng thờ mẫu, HAY - Gửi miễn ...
Luận án: Tuyên truyền giá trị văn hóa của tín ngưỡng thờ mẫu, HAY - Gửi miễn ...Luận án: Tuyên truyền giá trị văn hóa của tín ngưỡng thờ mẫu, HAY - Gửi miễn ...
Luận án: Tuyên truyền giá trị văn hóa của tín ngưỡng thờ mẫu, HAY - Gửi miễn ...
 
Đề tài: Khai thác giá trị của Chùa Ba Vàng phát triển du lịch, HAY
Đề tài: Khai thác giá trị của Chùa Ba Vàng phát triển du lịch, HAYĐề tài: Khai thác giá trị của Chùa Ba Vàng phát triển du lịch, HAY
Đề tài: Khai thác giá trị của Chùa Ba Vàng phát triển du lịch, HAY
 
Luận văn: Quản lý về lễ hội truyền thống ở tỉnh Phú Thọ, HAY
Luận văn: Quản lý về lễ hội truyền thống ở tỉnh Phú Thọ, HAYLuận văn: Quản lý về lễ hội truyền thống ở tỉnh Phú Thọ, HAY
Luận văn: Quản lý về lễ hội truyền thống ở tỉnh Phú Thọ, HAY
 
VĂN HÓA TÂM LINH TRONG “TRUYỆN KIỀU” VÀ “VĂN CHIÊU HỒN” CỦA NGUYỄN DU - TẢI F...
VĂN HÓA TÂM LINH TRONG “TRUYỆN KIỀU” VÀ “VĂN CHIÊU HỒN” CỦA NGUYỄN DU - TẢI F...VĂN HÓA TÂM LINH TRONG “TRUYỆN KIỀU” VÀ “VĂN CHIÊU HỒN” CỦA NGUYỄN DU - TẢI F...
VĂN HÓA TÂM LINH TRONG “TRUYỆN KIỀU” VÀ “VĂN CHIÊU HỒN” CỦA NGUYỄN DU - TẢI F...
 
Đề tài: Quản lý văn hóa xã Chàng Sơn, Thạch Thất, Hà Nội, HOT
Đề tài: Quản lý văn hóa xã Chàng Sơn, Thạch Thất, Hà Nội, HOTĐề tài: Quản lý văn hóa xã Chàng Sơn, Thạch Thất, Hà Nội, HOT
Đề tài: Quản lý văn hóa xã Chàng Sơn, Thạch Thất, Hà Nội, HOT
 
Luận án: Sự biến đổi văn hóa làng nghề truyền thống ở Hà Nội
Luận án: Sự biến đổi văn hóa làng nghề truyền thống ở Hà NộiLuận án: Sự biến đổi văn hóa làng nghề truyền thống ở Hà Nội
Luận án: Sự biến đổi văn hóa làng nghề truyền thống ở Hà Nội
 
Luận văn: Hiệu quả khai thác ẩm thực dân gian Hà Nội, HAY
Luận văn: Hiệu quả khai thác ẩm thực dân gian Hà Nội, HAYLuận văn: Hiệu quả khai thác ẩm thực dân gian Hà Nội, HAY
Luận văn: Hiệu quả khai thác ẩm thực dân gian Hà Nội, HAY
 
Đề tài: Phát huy giá trị văn hóa nhà dài của người Êđê, HAY, 9đ
Đề tài: Phát huy giá trị văn hóa nhà dài của người Êđê, HAY, 9đĐề tài: Phát huy giá trị văn hóa nhà dài của người Êđê, HAY, 9đ
Đề tài: Phát huy giá trị văn hóa nhà dài của người Êđê, HAY, 9đ
 
Tác động kinh tế của phát triển du lịch tại Đà Nẵng
Tác động kinh tế của phát triển du lịch tại Đà NẵngTác động kinh tế của phát triển du lịch tại Đà Nẵng
Tác động kinh tế của phát triển du lịch tại Đà Nẵng
 
Đề tài: Quản lý di tích lịch sử đền thờ Hai Bà Trưng tại Hà Nội, HOT
Đề tài: Quản lý di tích lịch sử đền thờ Hai Bà Trưng tại Hà Nội, HOTĐề tài: Quản lý di tích lịch sử đền thờ Hai Bà Trưng tại Hà Nội, HOT
Đề tài: Quản lý di tích lịch sử đền thờ Hai Bà Trưng tại Hà Nội, HOT
 
Luận văn: Động cơ hiến máu nhân đạo của sinh viên, HAY, 9đ
Luận văn: Động cơ hiến máu nhân đạo của sinh viên, HAY, 9đLuận văn: Động cơ hiến máu nhân đạo của sinh viên, HAY, 9đ
Luận văn: Động cơ hiến máu nhân đạo của sinh viên, HAY, 9đ
 
Đề tài: Hoạt động văn hóa của trung tâm văn hóa TP Hải Dương
Đề tài: Hoạt động văn hóa của trung tâm văn hóa TP Hải DươngĐề tài: Hoạt động văn hóa của trung tâm văn hóa TP Hải Dương
Đề tài: Hoạt động văn hóa của trung tâm văn hóa TP Hải Dương
 
Đề tài: Xây dựng đời sống văn hóa cơ sở huyện Mỹ Đức, Hà Nội
Đề tài: Xây dựng đời sống văn hóa cơ sở huyện Mỹ Đức, Hà NộiĐề tài: Xây dựng đời sống văn hóa cơ sở huyện Mỹ Đức, Hà Nội
Đề tài: Xây dựng đời sống văn hóa cơ sở huyện Mỹ Đức, Hà Nội
 

Similar to Luận văn thạc sĩ tôn giáo: Lễ hội truyền thống đối với đời sống người dân

Xây dựng đời sống văn hóa tinh thần ở tỉnh Bắc Giang hiện nay
Xây dựng đời sống văn hóa tinh thần ở tỉnh Bắc Giang hiện nayXây dựng đời sống văn hóa tinh thần ở tỉnh Bắc Giang hiện nay
Xây dựng đời sống văn hóa tinh thần ở tỉnh Bắc Giang hiện nayDịch vụ Làm Luận Văn 0936885877
 
Luận Văn Thạc Sĩ văn hóa về Quản lý lễ hội Làng Duyên Phúc
Luận Văn Thạc Sĩ văn hóa về Quản lý lễ hội Làng Duyên PhúcLuận Văn Thạc Sĩ văn hóa về Quản lý lễ hội Làng Duyên Phúc
Luận Văn Thạc Sĩ văn hóa về Quản lý lễ hội Làng Duyên PhúcDịch vụ Làm Luận Văn 0936885877
 
Lễ Hội Đền Thờ Mạc Đĩnh Chi Xã Nam Tân, Huyện Nam Sách, Tỉnh Hải Dương Không ...
Lễ Hội Đền Thờ Mạc Đĩnh Chi Xã Nam Tân, Huyện Nam Sách, Tỉnh Hải Dương Không ...Lễ Hội Đền Thờ Mạc Đĩnh Chi Xã Nam Tân, Huyện Nam Sách, Tỉnh Hải Dương Không ...
Lễ Hội Đền Thờ Mạc Đĩnh Chi Xã Nam Tân, Huyện Nam Sách, Tỉnh Hải Dương Không ...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0936 885 877
 
QUÂN LÝ DI SÂN VĂN HỐ LÀNG CỦA NGƯỜI MƯỜNG TỈNH HỊA BÌNH VỚI PHÁT TRIỂN DU LỊ...
QUÂN LÝ DI SÂN VĂN HỐ LÀNG CỦA NGƯỜI MƯỜNG TỈNH HỊA BÌNH VỚI PHÁT TRIỂN DU LỊ...QUÂN LÝ DI SÂN VĂN HỐ LÀNG CỦA NGƯỜI MƯỜNG TỈNH HỊA BÌNH VỚI PHÁT TRIỂN DU LỊ...
QUÂN LÝ DI SÂN VĂN HỐ LÀNG CỦA NGƯỜI MƯỜNG TỈNH HỊA BÌNH VỚI PHÁT TRIỂN DU LỊ...TieuNgocLy
 
Luận Văn Vai Trò Của Hệ Thống Chính Trị Trong Việc Giữ Gìn Bản Sắc Văn Hóa Dâ...
Luận Văn Vai Trò Của Hệ Thống Chính Trị Trong Việc Giữ Gìn Bản Sắc Văn Hóa Dâ...Luận Văn Vai Trò Của Hệ Thống Chính Trị Trong Việc Giữ Gìn Bản Sắc Văn Hóa Dâ...
Luận Văn Vai Trò Của Hệ Thống Chính Trị Trong Việc Giữ Gìn Bản Sắc Văn Hóa Dâ...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0936 885 877
 

Similar to Luận văn thạc sĩ tôn giáo: Lễ hội truyền thống đối với đời sống người dân (20)

Đề tài: Quản lí lễ hội đình làng Ngọc Tân tỉnh Phú Thọ, HAY, 9đ
Đề tài: Quản lí lễ hội đình làng Ngọc Tân tỉnh Phú Thọ, HAY, 9đĐề tài: Quản lí lễ hội đình làng Ngọc Tân tỉnh Phú Thọ, HAY, 9đ
Đề tài: Quản lí lễ hội đình làng Ngọc Tân tỉnh Phú Thọ, HAY, 9đ
 
Xây dựng đời sống văn hóa tinh thần ở tỉnh Bắc Giang hiện nay
Xây dựng đời sống văn hóa tinh thần ở tỉnh Bắc Giang hiện nayXây dựng đời sống văn hóa tinh thần ở tỉnh Bắc Giang hiện nay
Xây dựng đời sống văn hóa tinh thần ở tỉnh Bắc Giang hiện nay
 
Luận văn: Lễ hội đền thờ Mạc Đĩnh Chi tỉnh Hải Dương, HAY
Luận văn: Lễ hội đền thờ Mạc Đĩnh Chi tỉnh Hải Dương, HAYLuận văn: Lễ hội đền thờ Mạc Đĩnh Chi tỉnh Hải Dương, HAY
Luận văn: Lễ hội đền thờ Mạc Đĩnh Chi tỉnh Hải Dương, HAY
 
Lễ hội đền thờ Mạc Đĩnh Chi Xã Nam Tân
Lễ hội đền thờ Mạc Đĩnh Chi Xã Nam TânLễ hội đền thờ Mạc Đĩnh Chi Xã Nam Tân
Lễ hội đền thờ Mạc Đĩnh Chi Xã Nam Tân
 
Lễ hội đền thờ Mạc Đĩnh Chi huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương, 9đ
Lễ hội đền thờ Mạc Đĩnh Chi huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương, 9đLễ hội đền thờ Mạc Đĩnh Chi huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương, 9đ
Lễ hội đền thờ Mạc Đĩnh Chi huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương, 9đ
 
Luận Văn Thạc Sĩ văn hóa về Quản lý lễ hội Làng Duyên Phúc
Luận Văn Thạc Sĩ văn hóa về Quản lý lễ hội Làng Duyên PhúcLuận Văn Thạc Sĩ văn hóa về Quản lý lễ hội Làng Duyên Phúc
Luận Văn Thạc Sĩ văn hóa về Quản lý lễ hội Làng Duyên Phúc
 
Đề tài: Di sản văn hóa Thái với du lịch lòng hồ sông Đà, HOT
Đề tài: Di sản văn hóa Thái với  du lịch lòng hồ sông Đà, HOTĐề tài: Di sản văn hóa Thái với  du lịch lòng hồ sông Đà, HOT
Đề tài: Di sản văn hóa Thái với du lịch lòng hồ sông Đà, HOT
 
Đề tài: Ca trù tại làng Đông Môn huyện Thủy Nguyên, Hải Phòng
Đề tài: Ca trù tại làng Đông Môn huyện Thủy Nguyên, Hải PhòngĐề tài: Ca trù tại làng Đông Môn huyện Thủy Nguyên, Hải Phòng
Đề tài: Ca trù tại làng Đông Môn huyện Thủy Nguyên, Hải Phòng
 
Đề tài: Lễ hội làng Duyên Phúc xã Khánh Hồng huyện Yên Khánh
Đề tài: Lễ hội làng Duyên Phúc xã Khánh Hồng huyện Yên KhánhĐề tài: Lễ hội làng Duyên Phúc xã Khánh Hồng huyện Yên Khánh
Đề tài: Lễ hội làng Duyên Phúc xã Khánh Hồng huyện Yên Khánh
 
Đề tài: Quản lý lễ hội Kỳ Phúc, làng Yên Liêu Thượng huyện Yên Mô
Đề tài: Quản lý lễ hội Kỳ Phúc, làng Yên Liêu Thượng huyện Yên MôĐề tài: Quản lý lễ hội Kỳ Phúc, làng Yên Liêu Thượng huyện Yên Mô
Đề tài: Quản lý lễ hội Kỳ Phúc, làng Yên Liêu Thượng huyện Yên Mô
 
Đề tài: Quản lý lễ hội Cổ Loa, huyện Đông Anh, Hà Nội, HAY, 9đ
Đề tài: Quản lý lễ hội Cổ Loa, huyện Đông Anh, Hà Nội, HAY, 9đĐề tài: Quản lý lễ hội Cổ Loa, huyện Đông Anh, Hà Nội, HAY, 9đ
Đề tài: Quản lý lễ hội Cổ Loa, huyện Đông Anh, Hà Nội, HAY, 9đ
 
Luận văn: Quản lý lễ hội truyền thống Phủ Quảng Cung, 9 ĐIỂM
Luận văn: Quản lý lễ hội truyền thống Phủ Quảng Cung, 9 ĐIỂMLuận văn: Quản lý lễ hội truyền thống Phủ Quảng Cung, 9 ĐIỂM
Luận văn: Quản lý lễ hội truyền thống Phủ Quảng Cung, 9 ĐIỂM
 
Đề tài: Quản lý lễ hội truyền thống Quán Giá tại Hà Nội, HOT, 9đ
Đề tài: Quản lý lễ hội truyền thống Quán Giá tại Hà Nội, HOT, 9đĐề tài: Quản lý lễ hội truyền thống Quán Giá tại Hà Nội, HOT, 9đ
Đề tài: Quản lý lễ hội truyền thống Quán Giá tại Hà Nội, HOT, 9đ
 
Lễ Hội Đền Thờ Mạc Đĩnh Chi Xã Nam Tân, Huyện Nam Sách, Tỉnh Hải Dương Không ...
Lễ Hội Đền Thờ Mạc Đĩnh Chi Xã Nam Tân, Huyện Nam Sách, Tỉnh Hải Dương Không ...Lễ Hội Đền Thờ Mạc Đĩnh Chi Xã Nam Tân, Huyện Nam Sách, Tỉnh Hải Dương Không ...
Lễ Hội Đền Thờ Mạc Đĩnh Chi Xã Nam Tân, Huyện Nam Sách, Tỉnh Hải Dương Không ...
 
Luận văn: Văn hóa vật chất của người Cơ tu ở xã Hòa Bắc, HAY
Luận văn: Văn hóa vật chất của người Cơ tu ở xã Hòa Bắc, HAYLuận văn: Văn hóa vật chất của người Cơ tu ở xã Hòa Bắc, HAY
Luận văn: Văn hóa vật chất của người Cơ tu ở xã Hòa Bắc, HAY
 
Luận văn: Quản lý di tích và lễ hội đình Giang Võng phường Hà Khánh, 9 ĐIỂM
Luận văn: Quản lý di tích và lễ hội đình Giang Võng phường Hà Khánh, 9 ĐIỂMLuận văn: Quản lý di tích và lễ hội đình Giang Võng phường Hà Khánh, 9 ĐIỂM
Luận văn: Quản lý di tích và lễ hội đình Giang Võng phường Hà Khánh, 9 ĐIỂM
 
QUÂN LÝ DI SÂN VĂN HỐ LÀNG CỦA NGƯỜI MƯỜNG TỈNH HỊA BÌNH VỚI PHÁT TRIỂN DU LỊ...
QUÂN LÝ DI SÂN VĂN HỐ LÀNG CỦA NGƯỜI MƯỜNG TỈNH HỊA BÌNH VỚI PHÁT TRIỂN DU LỊ...QUÂN LÝ DI SÂN VĂN HỐ LÀNG CỦA NGƯỜI MƯỜNG TỈNH HỊA BÌNH VỚI PHÁT TRIỂN DU LỊ...
QUÂN LÝ DI SÂN VĂN HỐ LÀNG CỦA NGƯỜI MƯỜNG TỈNH HỊA BÌNH VỚI PHÁT TRIỂN DU LỊ...
 
Luận văn: Quản lý khu di tích Tiên Động tỉnh Phú Thọ, HOT, 9đ
Luận văn: Quản lý khu di tích Tiên Động tỉnh Phú Thọ, HOT, 9đLuận văn: Quản lý khu di tích Tiên Động tỉnh Phú Thọ, HOT, 9đ
Luận văn: Quản lý khu di tích Tiên Động tỉnh Phú Thọ, HOT, 9đ
 
Luận Văn Vai Trò Của Hệ Thống Chính Trị Trong Việc Giữ Gìn Bản Sắc Văn Hóa Dâ...
Luận Văn Vai Trò Của Hệ Thống Chính Trị Trong Việc Giữ Gìn Bản Sắc Văn Hóa Dâ...Luận Văn Vai Trò Của Hệ Thống Chính Trị Trong Việc Giữ Gìn Bản Sắc Văn Hóa Dâ...
Luận Văn Vai Trò Của Hệ Thống Chính Trị Trong Việc Giữ Gìn Bản Sắc Văn Hóa Dâ...
 
Đề tài: Phát huy giá trị văn hóa của lễ hội chọi trâu xã Phù Ninh, HAY
Đề tài: Phát huy giá trị văn hóa của lễ hội chọi trâu xã Phù Ninh, HAYĐề tài: Phát huy giá trị văn hóa của lễ hội chọi trâu xã Phù Ninh, HAY
Đề tài: Phát huy giá trị văn hóa của lễ hội chọi trâu xã Phù Ninh, HAY
 

More from Dịch vụ Làm Luận Văn 0936885877

Báo cáo thực tập quản trị nhân sự tại công ty Bất Động Sản Win Home
Báo cáo thực tập quản trị nhân sự tại công ty Bất Động Sản Win HomeBáo cáo thực tập quản trị nhân sự tại công ty Bất Động Sản Win Home
Báo cáo thực tập quản trị nhân sự tại công ty Bất Động Sản Win HomeDịch vụ Làm Luận Văn 0936885877
 
Báo cáo thực tập Văn hóa doanh nghiệp tại công ty sữa Vinamilk
Báo cáo thực tập Văn hóa doanh nghiệp tại công ty sữa VinamilkBáo cáo thực tập Văn hóa doanh nghiệp tại công ty sữa Vinamilk
Báo cáo thực tập Văn hóa doanh nghiệp tại công ty sữa VinamilkDịch vụ Làm Luận Văn 0936885877
 
Luận văn thạc sĩ Giá trị đạo lý trong sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu với đời ...
Luận văn thạc sĩ Giá trị đạo lý trong sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu với đời ...Luận văn thạc sĩ Giá trị đạo lý trong sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu với đời ...
Luận văn thạc sĩ Giá trị đạo lý trong sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu với đời ...Dịch vụ Làm Luận Văn 0936885877
 
Luận văn văn hóa học ảnh hưởng của truyền thông đối với việc chọn nghề của họ...
Luận văn văn hóa học ảnh hưởng của truyền thông đối với việc chọn nghề của họ...Luận văn văn hóa học ảnh hưởng của truyền thông đối với việc chọn nghề của họ...
Luận văn văn hóa học ảnh hưởng của truyền thông đối với việc chọn nghề của họ...Dịch vụ Làm Luận Văn 0936885877
 
Luận văn thạc sĩ văn hóa học Di sản khảo cổ học trong bối cảnh Đương Đại
Luận văn thạc sĩ văn hóa học Di sản khảo cổ học trong bối cảnh Đương ĐạiLuận văn thạc sĩ văn hóa học Di sản khảo cổ học trong bối cảnh Đương Đại
Luận văn thạc sĩ văn hóa học Di sản khảo cổ học trong bối cảnh Đương ĐạiDịch vụ Làm Luận Văn 0936885877
 
Luận văn thạc sĩ ứng dụng thương mại điện tử trong bán lẻ Việt Nam
Luận văn thạc sĩ ứng dụng thương mại điện tử trong bán lẻ Việt NamLuận văn thạc sĩ ứng dụng thương mại điện tử trong bán lẻ Việt Nam
Luận văn thạc sĩ ứng dụng thương mại điện tử trong bán lẻ Việt NamDịch vụ Làm Luận Văn 0936885877
 
Luận văn thạc sĩ thương mại điện tử ý định mua sách trực tuyến
Luận văn thạc sĩ thương mại điện tử ý định mua sách trực tuyếnLuận văn thạc sĩ thương mại điện tử ý định mua sách trực tuyến
Luận văn thạc sĩ thương mại điện tử ý định mua sách trực tuyếnDịch vụ Làm Luận Văn 0936885877
 
Luận văn thạc sĩ chính trị học giáo dục Lý Luận Chính Trị Cho Cán Bộ Cấp Cơ Sở
Luận văn thạc sĩ chính trị học giáo dục Lý Luận Chính Trị Cho Cán Bộ Cấp Cơ SởLuận văn thạc sĩ chính trị học giáo dục Lý Luận Chính Trị Cho Cán Bộ Cấp Cơ Sở
Luận văn thạc sĩ chính trị học giáo dục Lý Luận Chính Trị Cho Cán Bộ Cấp Cơ SởDịch vụ Làm Luận Văn 0936885877
 
Luận văn Phát triển nông thôn Trong Xây Dựng Nông Thôn Mới
Luận văn Phát triển nông thôn Trong Xây Dựng Nông Thôn MớiLuận văn Phát triển nông thôn Trong Xây Dựng Nông Thôn Mới
Luận văn Phát triển nông thôn Trong Xây Dựng Nông Thôn MớiDịch vụ Làm Luận Văn 0936885877
 
Luận văn thạc sĩ ngành xã hội học về người có uy tín trên báo
Luận văn thạc sĩ ngành xã hội học về người có uy tín trên báoLuận văn thạc sĩ ngành xã hội học về người có uy tín trên báo
Luận văn thạc sĩ ngành xã hội học về người có uy tín trên báoDịch vụ Làm Luận Văn 0936885877
 
Luận văn thạc sĩ xã hội học Giao tiếp trong gia đình đô thị
Luận văn thạc sĩ xã hội học Giao tiếp trong gia đình đô thịLuận văn thạc sĩ xã hội học Giao tiếp trong gia đình đô thị
Luận văn thạc sĩ xã hội học Giao tiếp trong gia đình đô thịDịch vụ Làm Luận Văn 0936885877
 
Tiểu luận Thiết lập và thẩm định dự án đầu tư_ Dự án đầu tư cửa hàng bánh ngọt
Tiểu luận Thiết lập và thẩm định dự án đầu tư_ Dự án đầu tư cửa hàng bánh ngọtTiểu luận Thiết lập và thẩm định dự án đầu tư_ Dự án đầu tư cửa hàng bánh ngọt
Tiểu luận Thiết lập và thẩm định dự án đầu tư_ Dự án đầu tư cửa hàng bánh ngọtDịch vụ Làm Luận Văn 0936885877
 
Tiểu luận thẩm định dự án đầu tư trung tâm kỹ năng Anoz5
Tiểu luận thẩm định dự án đầu tư trung tâm kỹ năng Anoz5Tiểu luận thẩm định dự án đầu tư trung tâm kỹ năng Anoz5
Tiểu luận thẩm định dự án đầu tư trung tâm kỹ năng Anoz5Dịch vụ Làm Luận Văn 0936885877
 
Tiểu luận thẩm định dự án đầu tư quán ăn vặt Fastfood
Tiểu luận thẩm định dự án đầu tư quán ăn vặt FastfoodTiểu luận thẩm định dự án đầu tư quán ăn vặt Fastfood
Tiểu luận thẩm định dự án đầu tư quán ăn vặt FastfoodDịch vụ Làm Luận Văn 0936885877
 
Tiểu luận thẩm định dự án đầu tư cửa hàng thức ăn nhanh
Tiểu luận thẩm định dự án đầu tư cửa hàng thức ăn nhanhTiểu luận thẩm định dự án đầu tư cửa hàng thức ăn nhanh
Tiểu luận thẩm định dự án đầu tư cửa hàng thức ăn nhanhDịch vụ Làm Luận Văn 0936885877
 
Tiểu luận biểu hiện văn hóa doanh nghiệp của Tập Đoàn FPT
Tiểu luận biểu hiện văn hóa doanh nghiệp của Tập Đoàn FPTTiểu luận biểu hiện văn hóa doanh nghiệp của Tập Đoàn FPT
Tiểu luận biểu hiện văn hóa doanh nghiệp của Tập Đoàn FPTDịch vụ Làm Luận Văn 0936885877
 

More from Dịch vụ Làm Luận Văn 0936885877 (20)

Báo cáo thực tập quản trị nhân sự tại công ty Bất Động Sản Win Home
Báo cáo thực tập quản trị nhân sự tại công ty Bất Động Sản Win HomeBáo cáo thực tập quản trị nhân sự tại công ty Bất Động Sản Win Home
Báo cáo thực tập quản trị nhân sự tại công ty Bất Động Sản Win Home
 
Báo cáo thực tập Văn hóa doanh nghiệp tại công ty sữa Vinamilk
Báo cáo thực tập Văn hóa doanh nghiệp tại công ty sữa VinamilkBáo cáo thực tập Văn hóa doanh nghiệp tại công ty sữa Vinamilk
Báo cáo thực tập Văn hóa doanh nghiệp tại công ty sữa Vinamilk
 
Luận văn thạc sĩ Giá trị đạo lý trong sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu với đời ...
Luận văn thạc sĩ Giá trị đạo lý trong sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu với đời ...Luận văn thạc sĩ Giá trị đạo lý trong sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu với đời ...
Luận văn thạc sĩ Giá trị đạo lý trong sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu với đời ...
 
Luận văn văn hóa học ảnh hưởng của truyền thông đối với việc chọn nghề của họ...
Luận văn văn hóa học ảnh hưởng của truyền thông đối với việc chọn nghề của họ...Luận văn văn hóa học ảnh hưởng của truyền thông đối với việc chọn nghề của họ...
Luận văn văn hóa học ảnh hưởng của truyền thông đối với việc chọn nghề của họ...
 
Luận văn thạc sĩ văn hóa học Di sản khảo cổ học trong bối cảnh Đương Đại
Luận văn thạc sĩ văn hóa học Di sản khảo cổ học trong bối cảnh Đương ĐạiLuận văn thạc sĩ văn hóa học Di sản khảo cổ học trong bối cảnh Đương Đại
Luận văn thạc sĩ văn hóa học Di sản khảo cổ học trong bối cảnh Đương Đại
 
Luận văn thạc sĩ văn hóa học về chợ quê truyền thống
Luận văn thạc sĩ văn hóa học về chợ quê truyền thốngLuận văn thạc sĩ văn hóa học về chợ quê truyền thống
Luận văn thạc sĩ văn hóa học về chợ quê truyền thống
 
Luận văn thạc sĩ ứng dụng thương mại điện tử trong bán lẻ Việt Nam
Luận văn thạc sĩ ứng dụng thương mại điện tử trong bán lẻ Việt NamLuận văn thạc sĩ ứng dụng thương mại điện tử trong bán lẻ Việt Nam
Luận văn thạc sĩ ứng dụng thương mại điện tử trong bán lẻ Việt Nam
 
Luận văn thạc sĩ thương mại điện tử ý định mua sách trực tuyến
Luận văn thạc sĩ thương mại điện tử ý định mua sách trực tuyếnLuận văn thạc sĩ thương mại điện tử ý định mua sách trực tuyến
Luận văn thạc sĩ thương mại điện tử ý định mua sách trực tuyến
 
Luận văn thạc sĩ chính trị học giáo dục Lý Luận Chính Trị Cho Cán Bộ Cấp Cơ Sở
Luận văn thạc sĩ chính trị học giáo dục Lý Luận Chính Trị Cho Cán Bộ Cấp Cơ SởLuận văn thạc sĩ chính trị học giáo dục Lý Luận Chính Trị Cho Cán Bộ Cấp Cơ Sở
Luận văn thạc sĩ chính trị học giáo dục Lý Luận Chính Trị Cho Cán Bộ Cấp Cơ Sở
 
Luận văn Phát triển nông thôn Trong Xây Dựng Nông Thôn Mới
Luận văn Phát triển nông thôn Trong Xây Dựng Nông Thôn MớiLuận văn Phát triển nông thôn Trong Xây Dựng Nông Thôn Mới
Luận văn Phát triển nông thôn Trong Xây Dựng Nông Thôn Mới
 
Luận văn thạc sĩ phát triển nông thôn Kinh Tế Trang Trại
Luận văn thạc sĩ phát triển nông thôn Kinh Tế Trang TrạiLuận văn thạc sĩ phát triển nông thôn Kinh Tế Trang Trại
Luận văn thạc sĩ phát triển nông thôn Kinh Tế Trang Trại
 
Luận văn thạc sĩ ngành xã hội học về người có uy tín trên báo
Luận văn thạc sĩ ngành xã hội học về người có uy tín trên báoLuận văn thạc sĩ ngành xã hội học về người có uy tín trên báo
Luận văn thạc sĩ ngành xã hội học về người có uy tín trên báo
 
Luận văn thạc sĩ xã hội học Giao tiếp trong gia đình đô thị
Luận văn thạc sĩ xã hội học Giao tiếp trong gia đình đô thịLuận văn thạc sĩ xã hội học Giao tiếp trong gia đình đô thị
Luận văn thạc sĩ xã hội học Giao tiếp trong gia đình đô thị
 
Tiểu luận Thiết lập và thẩm định dự án đầu tư_ Dự án đầu tư cửa hàng bánh ngọt
Tiểu luận Thiết lập và thẩm định dự án đầu tư_ Dự án đầu tư cửa hàng bánh ngọtTiểu luận Thiết lập và thẩm định dự án đầu tư_ Dự án đầu tư cửa hàng bánh ngọt
Tiểu luận Thiết lập và thẩm định dự án đầu tư_ Dự án đầu tư cửa hàng bánh ngọt
 
Tiểu luận thẩm định dự án đầu tư trung tâm kỹ năng Anoz5
Tiểu luận thẩm định dự án đầu tư trung tâm kỹ năng Anoz5Tiểu luận thẩm định dự án đầu tư trung tâm kỹ năng Anoz5
Tiểu luận thẩm định dự án đầu tư trung tâm kỹ năng Anoz5
 
Tiểu luận thẩm định dự án đầu tư quán cafe
Tiểu luận thẩm định dự án đầu tư quán cafeTiểu luận thẩm định dự án đầu tư quán cafe
Tiểu luận thẩm định dự án đầu tư quán cafe
 
Tiểu luận thẩm định dự án đầu tư quán ăn vặt Fastfood
Tiểu luận thẩm định dự án đầu tư quán ăn vặt FastfoodTiểu luận thẩm định dự án đầu tư quán ăn vặt Fastfood
Tiểu luận thẩm định dự án đầu tư quán ăn vặt Fastfood
 
Tiểu luận thẩm định dự án đầu tư cửa hàng thức ăn nhanh
Tiểu luận thẩm định dự án đầu tư cửa hàng thức ăn nhanhTiểu luận thẩm định dự án đầu tư cửa hàng thức ăn nhanh
Tiểu luận thẩm định dự án đầu tư cửa hàng thức ăn nhanh
 
Tiểu luận văn hóa doanh nghiệp của Tập Đoàn TH
Tiểu luận văn hóa doanh nghiệp của Tập Đoàn THTiểu luận văn hóa doanh nghiệp của Tập Đoàn TH
Tiểu luận văn hóa doanh nghiệp của Tập Đoàn TH
 
Tiểu luận biểu hiện văn hóa doanh nghiệp của Tập Đoàn FPT
Tiểu luận biểu hiện văn hóa doanh nghiệp của Tập Đoàn FPTTiểu luận biểu hiện văn hóa doanh nghiệp của Tập Đoàn FPT
Tiểu luận biểu hiện văn hóa doanh nghiệp của Tập Đoàn FPT
 

Recently uploaded

BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...Nguyen Thanh Tu Collection
 
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...Nguyen Thanh Tu Collection
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoabài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa2353020138
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxTrích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxnhungdt08102004
 
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...hoangtuansinh1
 
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfhoangtuansinh1
 
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhvanhathvc
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdfNQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdfNguyễn Đăng Quang
 
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxChàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxendkay31
 
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líKiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líDr K-OGN
 
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...ThunTrn734461
 
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdfSơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdftohoanggiabao81
 

Recently uploaded (19)

BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
 
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoabài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
 
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
 
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxTrích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
 
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
 
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
 
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdfNQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
 
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxChàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
 
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líKiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
 
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
 
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
 
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
 
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdfSơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
 

Luận văn thạc sĩ tôn giáo: Lễ hội truyền thống đối với đời sống người dân

  • 1. 0 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHAÂN VĂN --------------------------------- LÊ THỊ MỸ KIM LỄ HỘI TRUYỀN THỐNG ĐỐI VỚI ĐỜI SỐNG NGƢỜI DÂN HUYỆN ĐÔNG ANH, THÀNH PHỐ HÀ NỘI HIỆN NAY LUẬN VĂN THẠC SĨ TÔN GIÁO HỌC HÀ NỘI - 2019
  • 2. 0 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN --------------------------------- LÊ THỊ MỸ KIM LỄ HỘI TRUYỀN THỐNG ĐỐI VỚI ĐỜI SỐNG NGƢỜI DÂN HUYỆN ĐÔNG ANH, THÀNH PHỐ HÀ NỘI HIỆN NAY Chuyên ngành: Tôn giáo học Mã số : 60 22 03 09 LUẬN VĂN THẠC SĨ TÔN GIÁO HỌC CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG: PGS.TS. NGUYỄN THANH XUÂN NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. TRẦN THỊ KIM OANH HÀ NỘI - 2019
  • 3. 1 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các kết quả nghiên cứu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng. Những kết luận khoa học trong luận văn chưa từng được công bố trên bất kỳ công trình nào khác. Tác giả luận văn Lê Thị Mỹ Kim
  • 4. 2 LỜI CẢM ƠN Tác giả xin trân thành cảm ơn các Thầy, Cô giáo trong Bộ môn Tôn giáo học đã giảng dạy, trang bị kiến thức giúp tác giả nắm vững những vấn đề lý luận và phương pháp luận để hoàn thành tốt luận văn này. Đặc biệt, tác giả xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến PGS.TS. Trần Thị Kim Oanh – người thầy đã tận tình hướng dẫn, chỉ bảo tác giả trong suốt quá trình làm luận văn. Con xin đê đầu đảnh lễ và tri ân chư tôn Hòa Thượng, chư Thượng tọa lãnh đạo Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam đã quan tâm, tạo nhiều thuận duyên cho con trong suốt quá trình học tập, bên cạnh đó nhờ sự động viên và trợ duyên quý báu của gia đình cũng như đàn na thí chủ. Kính chúc Chư Liệt vị pháp thể khinh an, đạo lộ tấn pháp, chúng sinh dị độ, Phật đạo viên thành! Xin trân thành cảm ơn! Tác giả Lê Thị Mỹ Kim
  • 5. 3 MỤC LỤC MỞ ĐẦU........................................................................................................... 1 Chương 1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ ĐIỀU KIỆN KINH TẾ, XÃ HỘI, VĂN HÓA VÀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ LỄ HỘI TRUYỀN THỐNG CỦA HUYỆN ĐÔNG ANH, THÀNH PHỐ HÀ NỘI .............................................. 9 1.1. Khái quát chung về điều kiện kinh tế, xã hội, văn hóa của huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội ..................................................................... 9 1.1.1. Điều kiện kinh tế, xã hội của huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội .. 9 1.1.2. Đời sống văn hóa của người dân huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội......................................................................................................14 1.2. Lý luận chung về lễ hội truyền thống của huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội..................................................................................................18 1.2.1. Khái niệm và cách phân loại lễ hội ................................................18 1.2.2. Hệ thống các lễ hội truyền thống của huyện Đông Anh................22 1.2.3. Đặc trưng lễ hội truyền thống của huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội ......................................................................................................23 1.2.4. Một số lễ hội truyền thống tiêu biểu ..............................................26 Tiểu kết chƣơng 1 ......................................................................................33 Chương 2. VAI TRÕ CỦA LỄ HỘI TRUYỀN THỐNG ĐỐI VỚI ĐỜI SỐNG NGƯỜI DÂN VÀ XU HƯỚNG BIẾN ĐỔI CỦA LỄ HỘI TRUYỀN THỐNG HUYỆN ĐÔNG ANH, THÀNH PHỐ HÀ NỘI .............................35 2.1. Vai trò của lễ hội truyền thống đối với đời sống ngƣời dân huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội ...................................................................35 2.1.1. Vai trò của lễ hội truyền thống đối với đời sống tinh thần của người dân huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội.................................................35 2.1.2. Vai trò của lễ hội truyền thống đối với đời sống vật chất của người dân huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội.................................................49
  • 6. 4 2.2. Xu hƣớng biến đổi của lễ hội truyền thống huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội..................................................................................................53 2.2.1. Cơ sở dự báo xu hướng biến đổi của lễ hội truyền thống huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội. .................................................................53 2.2.2. Các xu hướng biến đổi cụ thể của lễ hội truyền thống huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội trong thời gian tới ..............................................59 Tiểu kết chƣơng 2. .....................................................................................61 Chương 3. VẤN ĐỀ BẢO TỒN, PHÁT HUY VAI TRÕ, GIÁ TRỊ CỦA LỄ HỘI TRUYỀN THỐNG HUYỆN ĐÔNG ANH, THÀNH PHỐ HÀ NỘI HIỆN NAY......................................................................................................63 3.1. Đánh giá công tác bảo tồn, phát huy vai trò, giá trị của lễ hội truyền thống huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội giai đoạn hiện nay 63 3.1.1. Những thành tựu đạt được trong công tác bảo tồn, phát huy vai trò, giá trị của lễ hội truyền thống huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội giai đoạn hiện nay............................................................................................63 3.1.2. Những vấn đề còn tồn tại trong công tác bảo tồn, phát huy vai trò, giá trị của lễ hội truyền thống huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội giai đoạn hiện nay ...................................................................................68 3.2. Các khuyến nghị nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả công tác bảo tồn, phát huy vai trò, giá trị của lễ hội truyền thống huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội giai đoạn hiện nay ......................................................70 3.2.1. Khuyến nghị đối với các cơ quan chức năng huyện Đông Anh.70 3.2.2. Khuyến nghị đối với người dân huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội............................................................................................................75 Tiểu kết chƣơng 3 ......................................................................................77 KẾT LUẬN.....................................................................................................78 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................79 PHỤ LỤC
  • 7. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong bối cảnh hiện nay, khi thế giới đang trong thời đại của sự hội nhập mạnh mẽ, của sự kết nối toàn cầu, vấn đề bản sắc văn hóa được coi là “chìa khóa” để các quốc gia, dân tộc trên thế giới bước vào “thế giới phẳng” mà vẫn tự tin “không đánh mất chính mình”, để “hòa nhập chứ không hòa tan”. Việt Nam là một quốc gia đã có bề dày văn hóa hàng nghìn năm lịch sử. Bề dày văn hóa đó đã tạo nên cốt cách Việt Nam, linh hồn Việt Nam, sự trường tồn của Việt Nam trước những bão táp phong ba của lịch sử, trước những cuộc xâm lăng văn hóa dai dẳng của các nền văn hóa khác. Tiếp nối lịch sử đó, việc gìn giữ các giá trị văn hóa truyền thống của Việt Nam trong bối cảnh hiện nay mang ý nghĩa hết sức quan trọng. Huyện Đông Anh là một huyện ngoại thành của thành phố Hà Nội, có vị trí chiến lược quan trọng không chỉ về vị trí địa lý mà còn là sự tổng hòa của các yếu tố tự nhiên và đặc trưng văn hóa riêng biệt đã tạo ra vị thế đặc biệt của vùng đất này. Vì những yếu tố đó, trong lịch sử, Đông Anh đã từng hai lần được chọn là kinh đô của nước Việt: lần một là Kinh đô Cổ Loa thời An Dương Vương và lần hai là sau khi Ngô Quyền đánh tan quân xâm lược Nam Hán trên dòng sông Bạch Đằng huyền thoại. “Khắc họa những nét lịch sử trên cho phép chúng ta tự hào vì Đông Anh là vùng đất có bề dày lịch sử và truyền thống văn hóa. Nơi đây những giá trị văn hóa lớn của dân tộc đã được kết tinh trong sự kiện sáng tạo nên một công trình vĩ đại: Cổ Loa - Kinh thành, Quân thành, Thị thành đầu tiên của dân tộc, mở cơ đồ cho Nhà nước Âu Lạc, thúc đẩy nền văn hóa Đông Sơn, nền văn minh lúa nước Việt Nam phát triển đến đỉnh cao” [17, tr.15]. Và “Kết quả các cuộc khai quật khảo cổ học cho thấy, trên vùng đất này đã tồn tại nhiều
  • 8. 2 lớp văn hóa nối tiếp nhau, từ thời đại đồ đồng đến thời đại đồ sắt, trên chặng đường gần 20 thế kỷ trước Công nguyên” [17, tr.13]. Vùng đất nơi đây không chỉ nổi tiếng bởi những khu di tích lịch sử nổi tiếng như: Cổ Loa, các đình, chùa, miếu mạo,… những nét đẹp văn hóa như hát ca trù, múa rối nước,… mà nơi đây còn nổi tiếng bởi những lễ hội truyền thống độc đáo, chứa đựng nhiều giá trị văn hóa. Trong bối cảnh hội nhập như hiện nay, các lễ hội truyền thống có ý nghĩa văn hóa vô cùng sâu sắc: là nơi chứa đựng các giá trị, tinh túy, độc đáo. Là sự khẳng định bản sắc văn hóa của vùng. Huyện Đông Anh với vai trò sứ mệnh của mình, đang trong quá trình đô thị hóa mạnh mẽ, gây ra nhiều biến đổi về mọi mặt, chính vì vậy, các lễ hội truyền thống huyện Đông Anh có vai trò quan trọng đối với đời sống người dân trên cả hai phương diện đời sống vật chất và đời sống tinh thần. Chính vì vậy, phát huy vai trò, giá trị của lễ hội truyền thống trong bối cảnh hiện nay là việc làm cần thiết và có ý nghĩa. Là một người con đang sống trên mảnh đất Đông Anh giàu truyền thống, được hưởng thụ nhiều giá trị văn hóa của mảnh đất lịch sử ngàn năm, tôi thực sự yêu mảnh đất và con người nơi đây, và tôi đặc biệt ấn tượng sâu sắc với các lễ hội truyền thống của mảnh đất này. Hơn nữa với vai trò là một người tu hành Phật giáo, tôi có dịp được tham gia, trải nghiệm với vai trò của người thực hiện nghi lễ trong các lễ hội truyền thống đó bởi Phật giáo với văn hóa truyền thống Việt Nam từ lâu đã hòa quyện như những người bạn tri kỷ. Mỗi lần cùng nhân dân nô nức chuẩn bị cho lễ hội, hòa mình vào không khí linh thiêng nhưng vô cùng náo nhiệt của mỗi lễ hội, trong tôi lại dấy lên những cảm xúc khó viết thành lời,… Với những lý do trên đây, tôi lựa chọn đề tài "Lễ hội truyền thống đối với đời sống người dân huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội hiện nay" làm đề
  • 9. 3 tài nghiên cứu cho luận văn của mình. Hy vọng nghiên cứu này với việc chỉ ra những vai trò, giá trị của lễ hội truyền thống ở huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội, sẽ góp phần nhỏ vào công tác bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa ở Đông Anh, Hà Nội nói riêng, Việt Nam nói chung hiện nay, đặc biệt trong bối cảnh hội nhập văn hóa toàn cầu với những thách thức lớn, việc khẳng định bản sắc văn hóa dân tộc là nhiệm vụ có ý nghĩa sống còn trong thời kỳ hội nhập văn hóa toàn cầu như hiện nay, bởi: “bản sắc văn hóa góp phần tạo nên bản lĩnh văn hóa, bản lĩnh dân tộc. Với ý nghĩa đó, bản lĩnh được coi là sức sống, sự từng trải, sự đáp trả một cách vững vàng trước những thách đố của xã hội, lịch sử của một cộng đồng, một nền văn hóa” [Xem 42]. 2. Tình hình nghiên cứu Với sự đa dạng, phong phú và đặc sắc của văn hóa lễ hội ở Việt Nam, đề tài về các lễ hội ở Việt Nam nói chung, lễ hội truyền thống Việt Nam nói riêng là đề tài thu hút sự chú ý của nhiều nhà nghiên cứu. Trong đó có thể kể đến: Cuốn Văn hóa làng Việt Nam qua lễ hội truyền thống của tác giả Vũ Kim Yến (biên soạn), cuốn sách gồm 3 phần, phần 1 là vài nét về lễ hội truyền thống của văn hóa Việt Nam; phần 2 là viết về một số lễ hội dân gian đặc sắc cụ thể như lễ hội Lồng tồng, lễ hội đền Hùng, hội Gióng,… và cả lễ hội đền Cổ Loa – một trong những lễ hội quan trọng, tiêu biểu của huyện Đông Anh, phần thứ ba, viết về tác dụng tích cực của lễ hội và những tiêu cực nảy sinh ở các lễ hội trong dòng chảy cuộc sống hiện đại, từ đó tác giả đưa ra một số giải pháp nhằm hạn chế những tiêu cực của lễ hội hiện này để đảm bảo giá trị nhân văn sâu sắc và yếu tố tâm linh của lễ hội. Trong cuốn sách đó tác giả khẳng định: “Với tư tưởng uống nước nhớ nguồn, ăn quả nhớ người trồng cây, ngày hội diễn ra sôi động bằng những sự tích, công trạng là dịp để con người giao lưu, trao truyền những đạo lý, tình cảm, mỹ tục và khát vọng cao
  • 10. 4 đẹp, là cầu nối giữa quá khứ với hiện tại, làm cho thế hệ hôm nay hiểu được công lao tổ tiên, thêm tự hào về truyền thống quê hương, đất nước của mình” [tr.9]. Cuốn sách Bản sắc văn hóa qua lễ hội truyền thống người Việt của tác giả Nguyễn Quang Lê. Cuốn sách là một cách tiếp cận mới của tác giả về vấn đề lễ hội truyền thống: tiếp cận theo các lớp văn hóa được hình thành và phát triển dưới tác động của sự tiếp biến, giao lưu văn hóa với các nền văn hóa khác mà lịch sử văn hóa dân tộc đã trải qua, bao gồm: lớp văn hóa bản địa; Lớp giao lưu văn hóa với Phật giáo trong bản sắc văn hóa, chính từ đó hình thành nên lễ hội chùa; Lớp văn hóa giao lưu văn hóa với đạo giáo trong bản sắc văn hóa, nền tảng hình thành nên lễ hội thờ các vị thánh Bất tử và Đức Thánh Trần; lớp giao lưu văn hóa với Nho giáo trong bản sắc hóa: thể chế hóa hệ thống nghi lễ trong lễ hội; lớp giao lưu văn hóa với tín ngưỡng Chăm trong bản sắc văn hóa người Việt. Những vấn đề cơ bản về lễ hội cũng được đề cập đến trong cuốn sách: nguồn gốc, bản chất của lễ hội, cấu trúc và nội dung của lễ hội,… Việc bóc tách lớp văn hóa trong nghiên cứu lễ hội truyền thống cũng phần nào giúp chúng ta hiểu về cơ chế hình thành và tiếp thu các yếu tố văn hóa mới, ngoài văn hóa bản địa, đây là một nét bản sắc quan trọng của nền văn hóa ở mỗi dân tộc. GS. Ngô Đức Thịnh có cuốn sách Tín ngưỡng lễ hội cổ truyền Việt Nam (2019), Nxb Tri thức, cuốn sách giới thiệu khái quát về tín ngưỡng dân gian của các tộc người ở Việt Nam, một số hiện tượng văn hóa dân gian tổng thể và đặc trưng giá trị của lễ hội cổ truyền,… Năm 2016, Nhà xuất bản Hồng Đức xuất bản cuốn sách Cẩm nang Lễ hội truyền thống Việt Nam của nhiều tác giả, cuốn sách tiếp cận các lễ hội truyền thống Việt Nam theo trục thời gian một năm từ mùa xuân đến mùa đông, phân chia thành bốn chương ứng với bốn mùa: Lễ hội mùa xuân, lễ hội
  • 11. 5 mùa hạ, lễ hội mùa thu, lễ hội mùa đông. Trong cuốn sách các lễ hội tiêu biểu đều được trình bày khá đầy đủ, và khẳng định: lễ hội Việt Nam bao giờ cũng hướng tới một đối tượng thiêng cần suy tôn; lễ hội mỗi vùng miền đều mang đặc trưng văn hóa của vùng miền đó và khẳng định giá trị truyền thống quý báu của lễ hội,… Tác giả Nguyễn Phương (2018), có tác phẩm Tìm hiểu văn hóa lễ hội truyền thống của người Việt (Lễ hội truyền thống của vùng miền qua bốn mùa: Xuân, Hạ, Thu, Đông), Nxb Thế giới. Cuốn sách tiếp cận không chỉ ở nội dung, điểm đặc sắc của các lễ hội truyền thống Việt Nam mà còn tiếp cận về các vấn đề lý luận về lễ hội như các vấn đề các quy định của nhà nước về việc quản lý, tổ chức; quy định ứng xử văn minh, thực hiện nếp sống văn minh nơi công cộng, thanh tra, xử phạt trong lĩnh vực văn hóa, du lịch,… Nhà nghiên cứu Thạch Phương và Lê Trung Vũ có tác phẩm: 60 lễ hội truyền thống Việt Nam, Nxb Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh. Cuốn sách là công trình miêu tả khá toàn diện và hệ thống về 60 lễ hội truyền thống tiêu biểu của Việt Nam, của các vùng miền khác nhau trong cả nước. Viết về Lễ hội Thăng Long – Hà Nội mà lễ hội Đông Anh là một phần trong đó, tác giả Lê Trung Vũ (2005) có cuốn sách Lễ hội Thăng Long, Nxb Hà Nội, cuốn sách là sự hệ thống khá đầy đủ về các lễ hội của mảnh đất Thăng Long – Hà Nội nghìn năm văn hiến. Những nét đặc trưng tiêu biểu của lễ hội vùng đất thủ đô cũng được thể hiện rõ trong công trình nghiên cứu công phu này. Liên quan trực tiếp đến đề tài có thể kể đến các công trình tiêu biểu: Cuốn Đông Anh với nghìn năm Thăng Long – Hà Nội của Huyện ủy, HĐND, UBND huyện Đông Anh, Nxb Hà Nội (2010) là bức tranh toàn cảnh về đời sống văn hóa huyện Đông Anh từ lịch sử đến hiện tại trong bức tranh lớn là văn hóa Thăng Long – Hà Nội nghìn năm văn hiến. Cuốn sách được
  • 12. 6 chia làm hai phần: Phần 1. Đông Anh một số vấn đề về địa lý hành chính và các giá trị lịch sử - văn hóa, phần 2. Đông Anh trong lịch sử dựng nước và giữ nước. Vấn đề lễ hội truyền thống được đề cập đến trong chương 6 (thuộc phần 1), Lễ hội và trò chơi dân gian Đông Anh, trong đó là phần khái quát về lễ hội và trò chơi dân gian huyện Đông Anh, sau đó là đề cập đến một số lễ hội tiêu biểu như: Hội Cổ Loa, hội Làng Đường Yên, hội Đình – đền làng Hội Phụ, hội làng Thụy Hà,… Cuốn sách mới nhất là cuốn Đông Anh Di tích và lễ hội của Ủy ban Nhân dân Huyện Đông Anh (2019), Nxb Hà Nội. Cuốn sách cung cấp đầy đủ, chính xác, chi tiết thông tin tư liệu hệ thống di tích lịch sử văn hóa, di tích cách mạng kháng chiến, di tích lưu niệm và lễ hội truyền thống trên địa bàn huyện Đông Anh. Đối với phần lễ hội truyền thống, huyện Đông Anh hiện có 93 lễ hội được phân loại theo tiêu chí không gian (địa điểm, địa danh) tổ chức lễ hội, cùng tên gọi của các loại hình di tích (là đình, chùa, đền, miếu), bao gồm: 74 lễ hội đình, 8 lễ hội chùa, 8 lễ hội đền và 3 lễ hội miếu. Trong cuốn sách 15 lễ hội tiêu biểu được lựa chọn để trình bày. Báo cáo tổng kết công tác lễ hội các năm từ 2001 – 2011 của Phòng Văn hóa thông tin huyện Đông Anh cung cấp những thành tựu, hạn chế của công tác lễ hội Đông Anh trong khoảng thời gian 10 năm, từ 2001 đến 2011. Viết về các lễ hội cụ thể ở huyện Đông Anh còn phải kể đến các luận văn “Lễ hội rước vua sống làng Nhội, thôn Thụy Lôi, xã Thụy Lâm, huyện Đông Anh” của tác giả Nguyễn Thị Hải (2012), “Lễ hội truyền thống làng Xuân Trạch, xã Xuân Canh, huyện Đông Anh” của tác giả Nguyễn Thị Thanh Thủy (2013), Luận văn Thạc sĩ Quản lý Văn hóa của tác giả Nguyễn Thị Phương Thảo (2018) với tên đề tài: “Quản lý Lễ hội Cổ Loa huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội”, … Ngoài ra còn rất nhiều các tác phẩm, công trình nghiên cứu khác,…
  • 13. 7 Nhìn chung, với vị thế là vùng đất giàu truyền thống văn hóa, lại là vùng đất thuộc vùng văn hóa nổi tiếng đất Đông ngàn, vì vậy vấn đề văn hóa nói chung, lễ hội nói riêng của huyện Đông Anh ít nhiều được đề cập đến trong rất nhiều các công trình nghiên cứu, các công trình kể trên đều cho ta thấy bức tranh đa dạng, đầy màu sắc của các lễ hội truyền thống Việt Nam nói chung, lễ hội truyền thống của huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội nói riêng. Tuy nhiên, một công trình nghiên cứu chuyên sâu về để chỉ ra vai trò của lễ hội đối với đời sống người dân huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội thì còn vắng bóng. Vì thế nghiên cứu này sẽ góp phần bù đắp vào mảng trống nói trên. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài 3.1. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở lý luận và thực tiễn, luận văn chỉ ra vai trò của lễ hội truyền thống đối với đời sống người dân, dự báo xu hướng biến đổi của lễ hội truyền thống ở huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội. Trên cơ sở đánh giá về công tác bảo tồn, phát huy vai trò, giá trị của lễ hội truyền thống, đề xuất những khuyến nghị nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả công tác bảo tồn, phát huy vai trò, giá trị của lễ hội truyền thống huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu: Để thực hiện được mục đích, luận văn thực hiện những nhiệm vụ sau: - Khái quát chung về điều kiện kinh tế, xã hội, văn hóa và lễ hội truyền thống của huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội. - Chỉ ra vai trò của lễ hội truyền thống đối vời đời sống người dân huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội. - Dự báo những xu hướng vận động của lễ hội truyền thống huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội hiện nay.
  • 14. 8 - Đánh giá về công tác bảo tồn, phát huy vai trò, giá trị lễ hội truyền thống của huyện Đông Anh giai đoạn hiện nay và đưa ra những khuyến nghị nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả của công tác bảo tồn, phát huy vai trò, giá trị của lễ hội truyền thống huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội giai đoạn hiện nay. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu: Lễ hội truyền thống huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội. 4.1. Phạm vi nghiên cứu Thời gian: từ năm 2000 đến nay Không gian: huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội. 5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu 5.1. Cơ sở lý luận: Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng, Nhà nước Việt Nam về tôn giáo. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu liên ngành của tôn giáo học và các phương pháp: thống nhất logic - lịch sử, so sánh, phân tích - tổng hợp, khái quát hóa, điều tra xã hội học, phỏng vấn sâu,… 6. Đóng góp của luận văn Luận văn góp phần nhỏ vào công tác nghiên cứu tôn giáo nói chung, lễ hội tôn giáo nói riêng. Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho việc học tập, giảng dạy và nghiên cứu về tôn giáo, đặc biệt là về lễ hội tôn giáo. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, Nội dung luận văn gồm 3 chương, 6 tiết.
  • 15. 9 Chƣơng 1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ ĐIỀU KIỆN KINH TẾ, XÃ HỘI, VĂN HÓA VÀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ LỄ HỘI TRUYỀN THỐNG CỦA HUYỆN ĐÔNG ANH, THÀNH PHỐ HÀ NỘI 1.1. Khái quát chung về điều kiện kinh tế, xã hội, văn hóa của huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội 1.1.1. Điều kiện kinh tế, xã hội của huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội Về lịch sử, huyện Đông Anh ngày nay chính thức được thành lập tháng 10/1876 (tháng Chín, năm Bính Tý, đời Tự Đức) trên cơ sở tập hợp các xã của các huyện: Đông Ngàn (phủ Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh), huyện Yên Phong (phủ Từ Sơn), huyện Kim Hoa (phủ Bắc Hà), sự kiện này được ghi chép trong lịch sử như sau: “đặt thêm huyện Đông Anh (thuộc phủ Từ Sơn). Khi ấy vì thượng du Bắc Ninh, địa phận các phủ, huyện bãi bằng, đồng rộng, quân gian dễ tụ họp, cho nên đặc cách đặt thêm (3 tổng huyện Đông Ngàn, 1 tổng huyện Kim Anh, đều lấy toàn tổng). Lại lấy tổng Phù Lỗ thuộc Kim Anh (5 xã) đặt làm tổng Xuân Nộn; tổng Phương La, thuộc Yên Phong đặt làm tổng Thư Lâm, lệ thuộc vào, tất cả 38 xã thôn” [38, tr.196]. Trải qua nhiều thời kỳ lịch sử với nhiều biến động như sự thay đổi tên, sự sát nhập, chia tách về hành chính, có thời kỳ Đông Anh là một huyện của tỉnh Phúc Yên, sau này là Vĩnh Phúc. Đến năm 1961, thủ đô Hà Nội được mở rộng, huyện Đông Anh được chuyển về Hà Nội, là một huyện ngoại thành với 23 xã. Ngày nay, Đông Anh là một huyện ngoại thành của thủ đô Hà Nội, có “diện tích tự nhiên khá rộng 185,62 km2, dân số 380.806 người phân bố tại 155 thôn làng, 40 tổ dân phố thuộc 23 xã và 1 thị trấn” [48, tr.11]. Huyện
  • 16. 10 Đông Anh có nhiều tiềm năng để phát triển kinh tế, xã hội và giao lưu văn hóa: có vị trí địa lý thuận lợi, là cửa ngõ giao thông phía Bắc của thủ đô; có nhiều tuyến đường giao thông huyết mạch như hệ thống đường cao tốc Hà Nội – Lào Cai, Hà Nội – Thái Nguyên, Quốc lộ 3, cầu Thăng Long, cầu Nhật Tân, cảng hàng không quốc tế Nội Bài, hệ thống đường thủy trên các sông Hồng, sông Cà Lồ, sông Đuống,…; khí hậu nhiệt đới gió mùa với lượng mưa vừa phải và đất đai màu mỡ do được các con sông bồi đắp thường xuyên thuận lợi cho phát triển nông nghiệp;… tuy nhiên điều kiện tự nhiên ở vùng đất này cũng đặt ra không ít khó khăn cho nhân dân: địa hình không thuần nhất, cao từ phía Bắc và phía Tây hất xuống, xen lẫn là đồi, Phía Đông, Đông Nam lại nhiều vùng trũng, có nhiều sông nên mùa lũ kéo dài,… Với những đặc điểm về vị trí địa lý trọng yếu và tự nhiên phong phú như trên, Đông Anh trở thành vùng đất được cư dân Việt cổ khai phá từ rất sớm, đã từng hai lầm trở thành Kinh đô của đất nước. Về kinh tế, nhờ được thiên nhiên ưu ái cho nhiều điều kiện tự nhiên phong phú, huyện Đông Anh phát triển khá đa dạng về loại hình kinh tế: nông nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp… Nông nghiệp: người dân Đông Anh có nhiều loại cây trồng phù hợp với từng loại đất và địa hình khác nhau: ở các vùng trũng, thâm canh lúa nước đã trở thành truyền thống của người dân nơi đây, và cũng nhờ truyền thống ấy, rất nhiều giống lúa đã trở thành đặc sản của vùng như lúa chiêm cút, lúa tẻ di, lúa hương, lúa trắng,…; các vùng cao hơn có thể trồng các cây công nghiệp, cây thực phẩm: chè ở Đông Ngàn, Kim Anh, mít, trám ở Cổ Loa, các loại rau, mía, cà bẽ,…; ở các vùng ven sông có thể nuôi trồng thủy sản, đánh bắt cá,… Thủ công nghiệp: huyện Đông Anh có nhiều nghề thủ công truyền thống, lưu truyền, phát triển từ xa xưa đến tận ngày nay: nghề dệt vải (ở Thụy Lôi, xã Thụy Lâm), chạm khắc gỗ mỹ nghệ (ở Thiết Öng, xã Vân Hà), sơn
  • 17. 11 mài (ở Châu Phong, xã Liên Hà), làm đậu phụ (làng Chài, xã Võng La), làm bún (ở Mạch Tràng, xã Cổ Loa), nấu rượu,… sản phẩm của các ngành nghề này đã trở thành thương hiệu: Nón Xuân Canh lá hồ tơ miến Làng Trùng Minh hương quyện mùi chi Hay Mã Đông Hồ gấm thêu hoa quyện Cày làng Lê dựng nghiệp nông gia Thương nghiệp: vị trí địa lý trọng yếu với hệ thống giao thông đa dạng, thuận lợi đã tạo cho vùng đất Đông Anh lợi thế lớn để phát triển các ngành thương nghiệp dịch vụ. Để trao đổi, lưu thông hàng hóa, hệ thống chợ đã được hình thành dày đặc trong toàn huyện, mỗi cụm 5, 6 làng có vài chợ họp luân phiên, một số chợ lớn của huyện được nhắc đến trong Đại Nam nhất thống chí: chợ Cổ Loa, chợ Tó, chợ Kim, chợ Vân Trì,… và cũng đã đi vào ca dao, tục ngữ: Ch Dâu câu ch Tó Ch Tó bó ch D c Ch D c c c ch a Ch a sà ch Cói Ch Cói bói ch Dâu. Ca dao Các làng ven sông thì hình thành những bến sông buôn bán tấp nập: bến Nhội, bến Mạnh Tân, bến Vạn Khê,… Ngày nay, trong không khí phát triển sôi động của cả nước nói chung, của thành phố Hà Nội nói riêng, huyện Đông Anh ra sức tập trung khai thác những thế mạnh của mình trong đó có truyền thống nghìn năm vào công cuộc đổi mới và phát triển, tập trung theo hướng: công nghiệp hóa, hiện đại hóa và
  • 18. 12 tiếp tục vun đắp, chung tay xây dựng đất nước: Giàu mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh. Bộ mặt kinh tế của huyện đã chuyển mình mạnh mẽ, cơ sở hạ tầng được đầu tư bài bản, nhiều khu công nghiệp, cụm công nghiệp lớn được hình thành thu hút nhiều đầu tư trong và ngoài nước, các khu đô thị, siêu đô thị được hình thành,… Tốc độ phát triển kinh tế ổn định và giữ ở mức tương đối cao (trên 10%/năm). Các ngành kinh tế đạt được nhiều thành tựu: Nông nghiệp phát triển mạnh theo hướng áp dụng khoa học kỹ thuật, chăn nuôi an toàn, chủ động chuyển đổi mô hình cây trồng giá trị thấp sang trồng hoa, cây cảnh và các giống lúa thơm, ngô nếp, khoai tây Đức, sản xuất nấm rơm… cho hiệu quả kinh tế cao hơn. Đông Anh cũng là một trong bốn địa phương đầu tiên của thành phố Hà Nội được công nhận là huyện nông thôn mới. Đối với ngành công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp: Giá trị sản xuất ước tính10 tháng đầu năm 2018 đạt 18.540 tỷ đồng (tăng 11,2%); toàn huyện có 4.050 doanh nghiệp đang hoạt động ổn định, tăng 5% so với cùng kỳ năm 2017; giá trị sản xuất thương mại - dịch vụ đạt 10.171 tỷ đồng (tăng 15,8%). Nhờ vào vị trí đắc địa và là cửa ngõ phía Bắc của Thủ Đô, việc cơ sở hạ tầng được nâng cấp ngày một đồng bộ giúp cho Đông Anh những năm qua trở thành một trong những điểm đến hấp dẫn cho các nhà đầu tư. Đối với ngành thương mại, dịch vụ: Cùng với sự phát triển của ngành công nghiệp, thương mại dịch vụ cũng có bước tiến vượt bậc ở tất cả các nhóm ngành nghề. Hoạt động du lịch cũng được đẩy mạnh nhằm khai thác và phát huy giá trị lịch sử - văn hóa các di tích. Thống kê từ đầu năm đến nay, đã có trên 13.000 lượt du khách đến với Đông Anh, con số này đã liên tục tăng trong nhiều năm trở lại đây [Xem 58]. Trong quy hoạch chung của thành phố Hà Nội, Đông Anh được xác định là đô thị lõi, có vị trí quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội của thành phố. Đông Anh được kỳ vọng trở thành trung tâm thương mại, tài chính, du lịch, dịch vụ chất lượng cao của khu vực phía Bắc thủ đô.
  • 19. 13 Về xã hội: Nằm trong vùng văn minh lúa nước sông Hồng, đại bộ phận cư dân trong huyện Đông Anh là nông dân, “sống trong các làng. Mỗi làng là một đơn vị tụ cư cơ bản có sự hết hợp giữa quan hệ láng giềng với quan hệ huyết thống, mang tính tự quản và tính cộng đồng rất cao. Mỗi làng có hai tên: tên Nôm (hay tên Việt cổ), dùng trong giao tiếp thường ngày và tên chữ (hay tên Hán – Việt), dùng trong giấy tờ hành chính, văn bia, được phiên âm từ tên Nôm, chẳng hạn, Chạ Chủ = Cổ Loa, Kẻ Dộc = Dục Tú, Kẻ Óng = Thiết Öng, làng Nhội = Thụy Lôi…” [17, tr. 50]. Trước đây, cũng như các làng khác của xã hội Việt Nam truyền thống, các làng của huyện Đông Anh cũng dựa trên thiết chế tổ chức huyết thống, phường hội, láng giềng,... mỗi làng có hệ thống Hương ước riêng để quản lý. Ngày nay, với sự phát triển của đất nước, lại với vị thế của một huyện ngoại thành, cửa ngõ củ thủ đô, huyện Đông Anh có sứ mệnh đặc biệt quan trọng vì vậy nhận được sự đầu tư lớn của thành phố Hà Nội, nhờ đó, đời sống xã hội nơi đây có những chuyển biến lớn. Đời sống của người dân Đông Anh ngày càng được cải thiện, thể hiện qua một số chỉ tiêu về đời sống như sau: Bảng 1: Một số chỉ tiêu đời sống của người dân Đông Anh so sánh với toàn thành phố và một số quận/huyện khác Chỉ tiêu Đơn vị tính Toàn Thành phố Huyện Đông Anh Huyện Sóc Sơn Huyện Hoài Đức Quận Hoàng Mai Diện tích nhà ở bình quân m2 /người 20,8 20,1 16,7 17,4 26,6 Tỷ lệ hộ có nguồn nước hợp vệ sinh % 98,94 99,95 96,64 99,88 99,99 Tỷ lệ hộ có hố xí hợp vệ sinh % 76,72 72,75 44,99 79,07 99,51 Tỷ lệ hộ sử dụng Tivi % 92,64 92,32 94,48 91,86 94,64 Tỷ lệ hộ sử dụng điện thoại cố định % 62,74 68,66 60,31 50,09 78,82 Tỷ lệ hộ sử dụng Mô-tô/Xe máy % 79,70 79,09 79,99 77,05 89,76
  • 20. 14 Tỷ lệ hộ sử dụng Máy Vi tính % 31,86 18,30 9,75 17,40 54,23 Tỷ lệ hộ sử dụng Điều hoà nhiệt độ % 21,69 7,50 3,29 3,91 40,00 Tỷ lệ hộ sử dụng Máy giặt % 35,44 26,55 12,11 26,42 60,10 Tỷ lệ hộ sử dụng Tủ lạnh % 56,63 51,83 35,31 48,03 82,71 Nguồn: Kết quả Tổng điều tra dân số và nhà ở Tp Hà Nội 01/4/2009 Hệ thống y tế khám chữa bệnh cho người dân ngày càng được cải thiện, chất lượng cũng ngày càng được nâng cao. Đến nay, 100% cơ sở y tế của các xã, trị trấn trong huyện được công nhận đạt chuẩn quốc gia. 1.1.2. Đời sống văn hóa của người dân huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội Đông Anh là vùng đất có truyền thống văn hóa, lịch sử, cách mạng. Gần 20 thế kỷ trước Công nguyên, vùng đất này nằm trong xứ văn hóa Đông Ngàn. Khi Thục Phán An Dương Vương lập ra nhà nước Âu Lạc, đã chọn mảnh đất này làm kinh đô. Dấu tích kinh thành Cổ Loa sừng sững với sự tích thần Kim Quy, nỏ thần đánh giặc – di tích lịch sử thời kỳ đầu dựng nước, đã trở thành biểu tượng văn hóa của vùng đất linh thiêng. Khái quát chung về văn hóa vùng đất Đông Anh, cuốn sách Đông Anh với nghìn năm Thăng Long – Hà Nội có viết: “Qua hàng nghìn năm lịch sử, các thế hệ cư dân Đông Anh đã tạo dựng được một cơ tầng văn hóa, dựa trên cơ sở kinh tế là nông nghiệp ruộng nước và cơ cấu tổ chức làng xã. Văn hóa làng của Đông Anh mang đặc trưng rõ nét của hai vùng Xứ Bắc và Xứ Đoài, mà những đặc điểm nổi bật nhất là cấu trúc làng xóm theo từng loại hình làng: làng nông nghiệp đồng mùa, đồng chiêm, làng ven sông đất bãi, làng nghề…; ở hệ thống các di tích thờ cúng (đình, chùa, đền miếu, văn chỉ, nhà thờ các dòng họ, nhà thờ các danh nhân). Gắn với các di tích này là các lễ thức thờ cúng, các ngày hội làng tôn vinh các vị thành hoàng có công với dân với
  • 21. 15 nước. Nhiều hội có các trò diễn, các hình thức diễn xướng độc đáo, như hội Cổ Loa, hội “Rước Vua” ở đền Sái. Văn hóa làng còn thể hiện ở các phong tục tập quán tốt đẹp, gắn kết tình cảm và trách nhiệm của cá nhân với cộng đồng dòng họ, làng xóm,…” [17, tr. 50]. Nếu tính theo mốc thời gian từ khi An Dương Vương dời đô về Cổ Loa xây thành đắp lũy thì Đông Anh đến nay đã có hơn 2000 năm tuổi, từng ấy thời gian đã tích tụ, bồi đắp nên một nền văn hóa có bề dày với tầng tầng, lớp lớp. Điều đó được chứng minh bằng hệ thống di tích lịch sử văn hóa dày đặc được phân bố trải đều khắp trong huyện. Theo thống kê, “trên địa bàn huyện Đông Anh hiện có 293 di tích, trong đó có 108 di tích đã được xếp hạng. Trong 108 di tích đã xếp hạng, theo cấp độ có:  67 di tích xếp hạng cấp quốc gia,  41 di tích xếp hạng cấp tỉnh (thành phố). Chia theo loại hình có: 47 đình, 29 chùa, 22 đền, am, miếu, 4 nhà thờ họ, 1 thành cổ, 4 di tích cách mạng và kháng chiến” [17, tr.180]. Trong đó nổi bật nhất là thành Cổ Loa – một công trình kỳ vĩ, độc đáo – di sản của nền văn hóa cổ đại, là một di sản văn hóa lớn, quan trọng bậc nhất của nước ta: Ai về qua huyện Đông Anh Ghé xem phong cảnh Loa Thành Thục Vương Cổ Loa thành ốc khác thường Trải bao năm tháng nẻo đường còn đây Ca dao Con người Đông Anh, sinh ra trên mảnh đất anh hùng, giàu truyền thống cũng đã tạo nên cho mình những giá trị văn hóa cao quý, mà PGS.TS. Đào Duy Quát đã tổng quát: “… các thế hệ của người dân Đông Anh đã góp phần hun đúc nên những giá trị văn hóa cao quý. Đó là:
  • 22. 16  Lòng yêu nước nồng nàn, đức hy sinh cao thượng, tinh thần xả thân cứu nước, bảo vệ Tổ quốc, lòng tự hào tự tôn, tự trọng tự cường, hào khí Cổ Loa, Mê Linh, Vạn Xuân, Đại Việt, Thăng Long – Hà Nội;  Lòng nhân ái, khoan dung, trọng nghĩa tình, đạo lý, khát vọng hòa bình;  Lao động cần cù, tài hoa, trí tuệ sáng tạo;  Tinh thần đoàn kết cộng đồng, gắn kết cá nhân, gia đình, làng xã, tổ quốc, ứng xử tinh tế, lối sống thanh lịch, giản dị. Những giá trị cao quý này đã hun đúc nên tâm hồn, khí phách bản lĩnh của người Cổ Loa, Đông Anh, Thăng Long, Hà Nội, Việt Nam; tạo nên sức mạnh tinh thần, sức mạnh văn hóa vĩ đại, dựng nên nước Văn Lang, Âu Lạc, Vạn Xuân, Đại Việt” [17, tr.16]. Đông Anh là vùng đất có truyền thống hiếu học. Trong các kỳ thi của các triều đại phong kiến Việt Nam trước kia, địa bàn huyện Đông Anh đã có 56 người được công nhận học vị từ Tiến sĩ trở lên qua các kỳ thi. Đông Anh là huyện có tổng số người thi đỗ tiến sĩ nhiều thứ hai trong tổng số 29 quận, huyện của Hà Nội - theo quy hoạch đến năm 2012. Có thể thấy truyền thống hiếu học của những người con trên mảnh đất Đông Anh qua số liệu thống kê về Số tiến sĩ của huyện trong mối tương quan với số tiến sĩ của Thăng Long – Hà Nội qua các thời kỳ1 : Số tiến sĩ Chia theo thời kỳ Lý, Trần, Hồ Lê Sơ Mạc Lê Trung Hƣng Lê – Trịnh Nguyễn Huyện Đông Anh 56 1 22 7 - 22 4 1 Số liệu thống kê theo [17, tr. 126,127]
  • 23. 17 Thăng Long – Hà Nội 666 16 230 90 6 243 81 Tỉ lệ Đông Anh/ Thăng Long – Hà Nội 8,4% 2,41% 34,53% 13,51% 0% 36,49% 12,16% Nhìn vào bảng thống kê trên có thể thấy, Thăng Long – Hà Nội ngày nay có đến 29 quận, huyện, thị xã, tỉ lệ Tiến sĩ của huyện Đông Anh trên tổng số Tiến sĩ của Thăng Long – Hà Nội qua các thời kỳ rất cao, có những thời kỳ đỉnh cao lên đến hơn 1/3 như thời Lê Sơ và thời Lê - Trịnh. Nơi đây là quê hương của những tên tuổi lớn như: Nguyễn Thực, Vũ Công Tể, Nguyễn Thạch Trụ, Ngô Thế Dụ,… trong đó hình thành nên các gia đình, dòng họ khoa bảng, nghĩa là gia đình, dòng họ liên tục có người được nêu tên trên bảng vàng, như họ Nguyễn làng Vân Điềm, họ Chử làng Cự Trình, họ Trịnh làng Thái Bình,… Tiếp nối truyền thống đó, các thế hệ con cháu hôm nay của huyện Đông Anh vẫn giương cao ngọn cờ hiếu học. Bằng sự nỗ lực, cố gắng hết mình của tập thể ngành giáo dục và đào tạo huyện Đông Anh, ngành Giáo dục – Đào tạo huyện Đông Anh đã được Uỷ Ban Nhân dân thành phố Hà Nội tặng bằng khen, được Bộ giáo dục và Đào tạo trao tặng Cờ thi đua xuất sắc vào năm 2016. Hàng năm, trong các kỳ thi quốc gia, quốc tế, huyện Đông Anh cũng đạt được rất nhiều giải cao. Ví như năm học 2015 – 2016, toàn huyện có có 7 em đạt giải trong cuộc thi giải toán trên internet cấp Quốc gia, 2 giải Cuộc thi viết thư Quốc tế UPU lần thứ 45 do Liên minh Bưu chính thế giới tổ chức, cùng hàng chục giải thưởng tại các kỳ thi học sinh giỏi cấp thành phố. Những người con của Đông Anh ngày hôm nay cũng có rất nhiều những tên tuổi lớn, nối tiếp truyền thống cha ông, tiếp tục làm rạng danh quê hương, như: Tổng bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng, GS. Đỗ Quốc
  • 24. 18 Sam, GS. Ngô Thế Dân, GS. Nguyễn Đình Xuyên, GS. Trịnh Xuân Thuận, họa sĩ Lê Lam,... Trong bối cảnh đổi mới toàn diện như hiện nay, trên lĩnh vực văn hóa, toàn huyện tích cực hưởng ứng phong trào xây dựng nông thôn mới, làng văn hóa, nếp sống văn minh, gia đình văn hóa. “100% thôn làng xây dựng và tổ chức thực hiện tốt quy ước làng văn hóa thôn, làng được công nhận làng văn hóa, 82% đạt tiêu chuẩn gia đình văn hóa. Nhiều nét đẹp văn hóa truyền thống trong gia đình họ tộc, hương ước thôn làng và cộng đồng được kế thừa phát triển” [17, tr.490] 1.2. Lý luận chung về lễ hội truyền thống của huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội 1.2.1. Khái niệm và cách phân loại lễ hội - Khái niệm lễ hội truyền thống + Khái niệm lễ hội: Có nhiều quan điểm khác nhau về khái niệm "lễ hội": Trong cuốn sách: “Văn hóa Việt Nam hỏi và đáp”, để trả lời cho câu hỏi: Lễ hội là gì? Nhóm tác giả đã đưa ra câu trả lời: “Lễ hội (hay hội lễ) là một sinh hoạt văn hóa dân gian nguyên hợp mang tính cộng đồng cao của nông dân hay thị dân, diễn ra trong những chu kỳ không gian, thời gian nhất định để làm những nghi thức về nhân vật được sùng bái, để tỏ rõ những ước vọng, để vui chơi trong tinh thần cộng mệnh và cộng cảm”. Trong khái niệm trên chúng tôi quan tâm, nhấn mạnh đến ba yếu tố trong khái niệm của lễ hội: tính cộng đồng, nghi thức về nhân vật được sùng bái và vui chơi trong tinh thần cộng mệnh và cộng cảm. Có thể thấy, khái niệm này đã đề cập đến một tính chất đặc trưng nhất của lễ hội là tính cộng đồng, cấu trúc của lễ hội là gồm phần lễ (nghi thức về nhân vật được sùng bái) và phần hội (vui chơi
  • 25. 19 trong tinh thần cộng mệnh và cộng cảm). Trong đó phần lễ là chính, là “hạt nhân”, giữ vai trò quyết định cho sự tồn tại và tính chất của lễ hội nói chung. Nhìn nhận lễ hội dưới góc độ là sự kiện văn hóa được tổ chức mang tính cộng đồng. "Lễ là hệ thống những hành vi, động tác nhằm biểu hiện sự tôn kính của con người với thần linh, phản ánh những ước mơ chính đáng của con người trước cuộc sống mà bản thân họ chưa có khả năng thực hiện. Hội là sinh hoạt văn hóa, tôn giáo, nghệ thuật của cộng đồng, xuất phát từ nhu cầu cuộc sống, từ sự tồn tại và phát triển của cộng đồng, sự bình yên cho từng cá nhân, hạnh phúc cho từng gia đình, sự vững mạnh cho từng dòng họ, sự sinh sôi nảy nở của gia súc, sự bội thu của mùa màng, mà từ bao đời nay quy tụ niềm ước mơ chung vào bốn chữ “nhân khang, vật thịnh”. Lễ hội là hoạt động của một tạp thể người, liên quan đến tín ngưỡng và tôn giáo” [12, tr.674]. Trong khái niệm này, tính cộng đồng và tính tôn giáo của lễ hội được nhấn mạnh. Chức năng bù đắp của tôn giáo được thể hiện rõ nét qua chức năng của lễ hội là nơi gửi gắm, phản ánh ước mơ, khát vọng của con người. Hay có quan điểm cho rằng: Lễ hội là cuộc sống được tái hiện dưới hình thức tế lễ và trò biểu diễn, đó là cuộc sống chiến đấu của cộng đồng cư dân. Tuy nhiên bản thân cuộc sống không thể thành lễ hội được nếu chính nó không được thăng hoa, liên kết và quy tụ lại thành thế giới tâm linh, tư tưởng của các biểu tượng, vượt lên trên thế giới của những phương tiện và điều kiện tất yếu. Đó là thế giới, là cuộc sống thứ hai thoát ly tạm thời thực tại hữu hiện, đạt tới hiện thực lý tưởng mà ở đó, mọi thứ đều trở nên đẹp đẽ, lung linh, siêu việt và cao cả. Và còn nhiều quan niệm khác nhau dựa trên những góc tiếp cận khác nhau về lễ hội,… + Khái niệm “truyền thống”:
  • 26. 20 Từ “truyền thống” tiếng Lating là “tradition”. Truyền thống được hiểu là những thói quen, tư tưởng, lối sống, những giá trị văn hóa lâu đời được truyền từ đời này qua đời khác, mang nhiều giá trị và được mọi người tôn trọng, lưu giữ, kế thừa và phát huy... Littré – (Maximilien – Paul – Emile, 1801-1881), nhà ngôn ngữ học và nhà triết học thực chứng người Pháp, phân tích từ truyền thống ở bốn nghĩa chính: “1. “Sự giao một cái gì đó cho một người nào đó”; 2. “Sự lưu truyền những sự kiện lịch sử, những thuyết tôn giáo, những truyền thuyết, từ thế hệ này sang thế hệ nọ bằng con đường truyền khẩu và không có bằng cớ chính thức và thành văn”; 3. “Đặc biệt, trong giáo hội Giatô, sự lưu truyền từ thế kỷ này sang thế kỷ khác sự hiểu biết những điều thuộc về đạo và không hề có trong thánh thư”; 4. “Tất thảy những gì người ta biết hoặc làm theo truyền thống, tức là bằng một sự lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ nọ nhờ ở lời nói hay làm mẫu” [Xem 57]. Trong đó ta thấy nhấn mạnh đến sự “trao, truyền” của khái niệm truyền thống, có nghĩa không chỉ “trao” lại những gì đã tồn tại, đang tồn tại mà còn “bảo lưu”, “giữ gìn” những cái được trao đó. Theo Từ điển Từ hải, khái niệm “truyền thống” được hiểu: “truyền thống là sức mạnh của tập quán xã hội được lưu truyền lại từ lịch sử. Nó tồn tại ở các lĩnh vực chế độ (chế độ xã hội), tư tưởng, văn hóa, đạo đức. Truyền thống có tác dụng khống chế vô hình đến hành vi xã hội của con người. Truyền thống là biểu hiện tính kế thừa của lịch sử” [42, tr. 18]. Khái niệm này đề cập đến tính kế thừa, nối tiếp, sức mạnh vô hình của những gì thuộc về truyền thống.
  • 27. 21 Với nhiều cách hiểu khác nhau về khái niệm lễ hội và truyền thống như phân tích ở trên, vì vậy cũng xuất hiện rất nhiều cách tiếp cận khác nhau về khái niệm “lễ hội truyền thống”, như Tiến sĩ Nguyễn Duy Quý định nghĩa về lễ hội truyền thống: “Lễ hội truyền thống là một sinh hoạt văn hóa tổng hợp, bao gồm các mặt tinh thần và vật chất, tôn giáo, tín ngưỡng và văn hóa nghệ thuật, linh thiêng và đời thường. Đó còn là một sinh hoạt có quy mô lớn về tầm vóc và có sức cuốn hút một số lượng lớn những hiện tượng của đời sống xã hội” [55, tr.8]. Để hiểu một cách đơn giản khái niệm lễ hội truyền thống, chúng tôi đưa ra cách hiểu: Lễ hội truyền thống được hiểu là sinh hoạt của một cộng đồng dân cư, bao gồm các hoạt động nghi lễ hướng đến tôn vinh một đối tượng thiêng và các hoạt động vui chơi giải trí mang tính cộng đồng, sinh hoạt này đã có từ lâu đời, được truyền từ đời này sang đời khác, chứa đựng nhiều giá trị văn hóa, cần được lưu giữ, bảo tồn và phát huy. - Về phân loại lễ hội: Có nhiều cách khác nhau để phân loại lễ hội dựa trên các tiêu chí khác nhau. Ví như tác giả Đinh Gia Khánh, phân loại lễ hội theo nguồn gốc gắn với tôn giáo hay không (trong cuốn Trên đường tìm hiểu văn hóa dân gian); Có thể phân chia lễ hội theo thời gian xuất hiện: lễ hội truyền thống hay lễ hội hiện đại; Có thể phân chia theo thời gian diễn ra lễ hội thành lễ hội mùa xuân, lễ hội mùa hạ, lễ hội mùa thu, lễ hội mùa đông; Có thể phân chia theo tính chất lễ hội: lễ hội nông nghiệp, lễ hội tôn giáo, lễ hội du lịch dịch vụ, lễ hội lịch sử,... -Trong phạm vi luận văn chúng tôi nghiên cứu lễ hội truyền thống đối với đời sống người dân huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội hiện nay, nên sẽ đề cập đến khái niệm đời sống. Danh từ “đời sống” có ý nghĩa rất rộng, có thể chỉ toàn bộ những hiện tượng diễn ra ở cơ thể sinh vật trong suốt khoảng thời
  • 28. 22 gian sống, đối với con người, có thể coi là toàn bộ những điều kiện sinh hoạt của con người và xã hội (cộng đồng người). Trong luận văn này, chúng tôi không đi sâu vào bóc tách nội hàm của khái niệm đời sống, chúng tôi chỉ đưa ra nội hàm chung nhất của khái niệm để thuận tiện cho việc triển khai vấn đề nghiên cứu, chúng tôi chia đời sống của người dân thành hai lĩnh vực: đời sống tinh thần và đời sống vật chất. 1.2.2. Hệ thống các lễ hội truyền thống của huyện Đông Anh Theo thống kê, toàn huyện hiện có 93 lễ hội trên 23 xã, 1 thị trấn (22 xã có lễ hội, 01 xã là Kim Nỗ và thị trấn thành lập sau nên không có lễ hội). Các xã có lễ hội nhiều nhất là các xã thuộc các vùng đất là làng cổ xưa như Thụy Lâm, Dục Tú, Mai Lâm, Cổ Loa, Xuân Nộn, Nguyên Khê,... Cũng như các vùng quê khác ở đồng bằng bắc bộ, với đặc trưng là văn hóa nông nghiệp lúa nước, các lễ hội thường diễn ra vào thời gian nông nhàn, chủ yếu là mùa xuân và mùa thu, Các lễ hội của huyện Đông Anh cũng thường diễn ra vào hai mùa, mùa xuân và mù thu, trong đó chủ yếu nhất là mùa xuân với 82 lễ hội (88% tổng số lễ hội). Huyện Đông Anh với số lượng lễ hội lớn, đa dạng và phong phú về nguồn gốc, về thời gian tổ chức, về tính chất nên cũng có thể phân chia theo nhiều cách khác nhau, nhưng trong luận văn này, chúng tôi phân chia lễ hội truyền thống huyện Đông Anh dựa trên tiêu chí là không gian (địa điểm, địa danh) nơi tổ chức lễ hội, cùng tên gọi các loại hình di tích2 từ đó có thể phân loại như sau: lễ hội đình, lễ hội đền, lễ hội miếu, lễ hội chùa. Lễ hội đình Lễ hội chùa Lễ hội đền Lễ hội miếu Số lƣợng 74 8 8 3 Lễ hội tiêu biểu Lễ hội đình Thụy Hà, Lễ hội đình Lễ hội chùa Quan Âm, Lễ Lễ hội đền An Dương Vương, Lễ hội miếu Mạch Lũng, Lễ 2 Theo cách phân chia trong cuốn UBND huyện Đông Anh (2019), Đông Anh di tích và lễ hội, Nxb Hà Nội
  • 29. 23 Lương Quy, Lễ hội đình Viên Nội,… hội chùa Thái Bình,… Lễ hội đền Sái, lễ hội đền Lê Xá,… hội miếu Lũng Đông, Lễ hội miếu Cổ Dương. Về phân cấp lễ hội, ở huyện Đông Anh có 2 lễ hội được tổ chức quy mô cấp huyện là lễ hội đền An Dương Vương và Lễ hội đền Sái. Còn lại là các lễ hội cấp xã, thôn. Cũng như các lễ hội truyền thống ở các địa phương khác trên khắp Việt Nam, các lễ hội của huyện Đông Anh cũng thường bao gồm hai phần chính: phần lễ và phần hội. Phần lễ là các nghi thức thiêng, bày tỏ lòng thành kính của con người với đối tượng thờ cúng, thể hiện bằng các nghi lễ thờ cúng: rước kiệu, tế lễ, tụng, niệm, hèm,…; phần hội là các trò chơi, trò diễn được tổ chức cho dân làng và người đi hội tham gia, trong đó nổi bật là các trò chơi dân gian đặc sắc. 1.2.3. Đặc trưng lễ hội truyền thống của huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội Thứ nhất: Lễ hội truyền thống của huyện Đông Anh rất phong phú và đa dạng Như đã viết ở phần trên, Đông Anh là huyện có số lượng lễ hội lớn. Các lễ hội truyền thống của huyện Đông Anh phong phú và đa dạng. Tính đa dạng và phong phú đó được thể hiện ở nhiều khía cạnh. Lễ hội truyền thống của huyện Đông Anh diễn ra ở nhiều khoảng thời gian khác nhau trong năm (trong đó tập trung nhiều vào mùa xuân và mùa thu, đặc biệt là Tháng Giêng, tháng Hai âm lịch). Thời gian tổ chức lễ hội ở huyện Đông Anh cũng rất khác nhau: Nhiều lễ hội diễn ra một ngày chính hội những cũng có lễ hội diễn ra nhiều ngày, như lễ hội đình Cổ Miếu (11-13/11); có lễ hội được tổ chức hai lần trong năm ở hai khoảng thời gian khác nhau
  • 30. 24 như: Lễ hội đình Lỗ Khê (diễn ra vào ngày 12/1 và 10-12/8 âm lịch), lễ hội đình Hương Trầm (11-13/11 và 12/8 âm lịch),… Các lễ hội truyền thống của huyện Đông Anh có nhiều quy mô, cấp độ khác nhau: có những lễ hội diễn ra ở cấp độ một làng; có những lễ hội diễn ra cấp độ liên làng, hai làng kết chạ với nhau cũng tổ chức lễ hội; có những lễ hội vùng như: vùng Nhội – Râm, vùng Giỗ - Quậy, vùng Kẻ Dộc, vùng Cối Giang,… thường các vùng này tổ chức vào hội chung, sau đó các làng lại tổ chức lễ hội riêng; có những lễ hội lớn như lễ hội Cổ Loa, có sự tham gia của nhiều xã “bát xã hộ nhi”, bao gồm: Cổ Loa, Văn Thượng, Ngoại Sát, Mạch Tràng, Đài Bi, Cầu Cả, Sằn Giã, Thư Cưu và làng Quậy. Các lễ hội truyền thống của huyện Đông Anh có nguồn gốc, tính chất cũng rất khác nhau: Với số lượng lớn và đa dạng về loại hình các di tích, vì vậy các lễ hội của huyện Đông Anh cũng có nguồn gốc và tính chất khá đa dạng: lễ hội tôn vinh các tổ nghề như lễ hội làng Thiết Öng xã Vân Hà thờ Tổ nghề chạm khắc Lỗ Ban; lễ hội tôn vinh các nhân vật lịch sử: lễ hội Cổ Loa tôn thờ Vua An Dương Vương, lễ hội đình Cổ Điển,...; lễ hội tôn giáo: lễ hội chùa,... Thứ hai, lễ hội truyền thống của huyện Đông Anh mang đặc thù của cư dân nông nghiệp Huyện Đông Anh nằm ở khu vực đồng bằng sông Hồng với nền văn minh lúa nước, cư dân chủ yếu là cư dân nông nghiệp, chính vì vậy, các lễ hội truyền thống của huyện Đông Anh mang đặc thù của cư dân nông nghiệp. Điều đó thể hiện ở nhiều khía cạnh: Về thời gian tổ chức lễ hội: chủ yếu mùa xuân và mùa thu, là thời gian nông nhàn giữa hai vụ mùa, người nông dân được thảnh thơi, rảnh rỗi. Với nội dung lễ hội:
  • 31. 25 Các vùng ven sông Hồng, sông Đuống có tục “Rước nước” tắm thánh. Theo tác giả Toan Ánh trong cuốn Nếp Cũ - Hội Hè Đình Đám có ghi: Lễ rước nước tức là có một đám rước, rước nước ở sông hoặc ở giếng về đền được thực hiện trước khi làm lễ mộc dục. Bên cạnh ý nghĩa đó, theo cư dân nơi đây tiến hành lễ rước nước là lấy dòng nước trong sạch, tinh khiết ở giữa dòng sông về để tắm thánh, thể hiện lòng thành kính, biết ơn đến các vị thần được thờ ở đình. Đồng thời, nói lên ước mơ nguyện vọng của cư dân định cư canh tác nông nghiệp trong vùng sông nước cầu cho mưa thuận gió hoà, mùa mang tươi tốt, bội thu. Các lễ hội truyền thống của huyện Đông Anh có nhiều lễ hội có tục rước nước, ví như lễ hội cầu mát làng Quan Âm, nét độc đáo tại lễ hội làng Quan Âm là lễ Rước Nước cầu mát cho mưa thuận gió hòa, cầu cho Quốc thái dân an và ghi nhớ công ơn Thành Hoàng Làng hay lễ hội rước nước làng Xuân Trạch, trong lễ hội, phải chọn nam thanh, nữ tú tham gia việc rước nước về tắm thánh “Nét nổi bật nhất trong lễ hội làng Xuân Trạch là lễ rước nước và lễ tắm thánh. Sáng ngày mùng 10, ban tổ chức, các cụ, các ban ngành đoàn thể cùng đông đảo bà con dân làng tập trung tại sân đình làm lễ khai hội, sau đó sắp xếp đội hình đi rước nước. Lễ rước nước về thờ cúng là một hành động thiêng liêng của tín ngưỡng cầu nước có từ xa xưa trong tâm thức người dân ven sông vùng Bắc Bộ với mong ước về một năm mưa thuận gió hòa, mùa màng tươi tốt” [48, tr. 426]. Nhiều lễ hội còn có tục kết chạ (kết nghĩa anh em), là tục đặc trưng đã có từ lâu giữa các làng cổ ở vùng đồng bằng Bắc Bộ. Tục này xuất phát từ xa xưa, trong đời sống sản xuất nông nghiệp, công việc canh nông, thủy lợi có vai trò quan trọng cần sự góp sức của nhiều cộng đồng cư dân cùng chung sức, hai hay nhiều làng kết chạ với nhau, cùng gọi là anh, nhận mình là em, khi khó khăn thì giúp đỡ, hỗ trợ lẫn nhau. Đây là nét đẹp văn hóa truyền thống bao đời của cư dân nông nghiệp Việt Nam, thể hiện sự đoàn kết
  • 32. 26 tương trợ, tương thân tương ái, theo tinh thần “bầu ơi thương lấy bí cùng” của người Việt…. Thứ ba, Lễ hội truyền thống của huyện Đông Anh còn lưu giữ đư c nhiều yếu tố dân gian độc đáo, đặc sắc. Một lễ hội về cơ bản gồm hai phần: phần lễ và phần hội. Phần lễ là các nghi thức trang trọng, mang tính thiêng, là linh hồn của lễ hội. Phần hội là các trò chơi, các trò diễn xướng,… tổ chức cho người tham gia hội cùng hòa vào không khí vui chơi. Phần hội tạo nên sức hút của lễ hội. Với đặc trưng của vùng đất cổ, có truyền thống văn hóa lâu đời, các lễ hội truyền thống ở huyện Đông Anh có đặc điểm là đến nay vẫn lưu giữ được rất nhiều yếu tố dân gian độc đáo, đặc sắc. Như: Hội cướp cầu làng Viên Nội, cuộc thi kéo lửa thổi cơm thi ở hội đình Lương Quy, tục kén rể ở hội đình Đường Yên, hay các trò chơi như chọi gà, đấu vật,… Những yếu tố dân gian độc đáo được tái hiện trong các lễ hội làm sống lại những giá trị truyền thống, là nơi lưu giữ và trao truyền cho thế hệ tương lai về những giá trị tốt đẹp của văn hóa dân tộc. 1.2.4. Một số lễ hội truyền thống tiêu biểu Với sự phong phú, đa dạng về số lượng lễ hội và những nét đặc sắc về lễ hội như đã phân tích ở trên, việc lựa chọn một số lễ hội tiêu biểu cũng mang tính chất tương đối. Với việc phân chia lễ hội như phần trên, chúng tôi lựa chọn 4 lễ hội điển hình cho các loại hình lễ hội được phân loại: lễ hội đình, lễ hội đền, lễ hội miếu, lễ hội chùa. * Lễ hội đình: Lễ hội đình Thụy Hà Đình làng Thụy Hà thờ các vị: Tướng Cao Sơn3 , hai bộ tướng Hỗn Độn và Áp Quán, Tá Phụ Minh Thiên4 , thánh Tam Giang5 . 3 Theo truyền thuyết, tướng Cao Sơn sống thời Hùng Vương, chuyên coi việc binh, thấy đất Thụy Hà trọng yếu nên chọn làm nơi đóng binh, tại khu Đồng Rộc của làng, ngài đã có trận thắng vang dội. Sau khi thắng, ngài khao thưởng quân sĩ và các dòng họ trong làng. Nhớ công ơn Ngài, dân tôn Ngài là Thành hoàng làng.
  • 33. 27  Thời gian diễn ra lễ hội: từ ngày mùng 8 đến ngày 13 tháng Giêng.  Quy trình tổ chức lễ hội: + Chuẩn bị: Khoảng một tháng trước ngày hội làng, không khí chuẩn bị đã vô cùng rộn ràng. Các vị chức sắc, đại diện các dòng họ, các giáp trong làng chuẩn bị họp bàn, phân công nhiệm vụ chuẩn bị lễ hội, bầu ra các ban bệ trong lễ hội theo những tiêu chuẩn nhất định. Ví như Ban tế phải là các cụ ông trải qua hội tư văn, khỏe mạnh, từ 50 tuổi trở lên, am tường việc tế lễ,… Khi công tác chuẩn bị đã tươm tất các khâu cũng là lúc ngày hội cận kề + Vào lễ hội:  Phần lễ: Buổi sáng sớm ngày mùng 8 tháng Giêng, dân làng tổ chức nghi lễ “Rước đám rậm”, diễn lại sự tích thánh Cao Sơn đánh thắng giặc tại khu Đồng Rộc của làng. Đám rước với đầy đủ ban bệ như đội nhạc lễ, đội rước kiệu,… rước bài vị Thánh,… Đến nơi, hạ kiệu thực hiện trang nghiêm các nghi lễ tế thần, múa gươm diễn lại tích đánh giặc của Thánh, tạ thánh rồi lại rước kiệu trở về làng. 8 giờ sáng, 30 kiệu xuất phát từ các nhà thờ họ trong làng tập trung ở cổng làng theo thứ tự đã được định sẵn, lễ rước bát hương tổ từ các nhà thờ họ trong làng ra đình là một điểm độc đáo của lễ hội đình Thụy Hà mà rất ít thấy ở các lễ hội khác. Đúng 9 giờ cuộc hành kiệu bắt đầu, lễ rước diễn ra trong không khí trang nghiêm, tuân theo mệnh lệnh của người cầm cờ chỉ huy. Đi đầu là đám ông Nghè (họ Nguyễn Duy chi trên), rồi đến ông Cống (họ Nguyễn Dương), quan Tân Nhất (họ Nguyễn Đức), rồi đến các họ khác theo thứ tự được sắp xếp trước. Các vật dụng, trang phục trong lễ rước cũng 4 Thời Hậu Lý Nam Đế, khi nhà Lương sang xâm lược nước ta, Ngài đã có công tiêu diệt giặc, bảo vệ xóm làng 5 Tướng của Hai Bà Trưng
  • 34. 28 được quy định cụ thể, tỉ mỉ với từng đối tượng: tiến sĩ thì dùng khánh, hương cống thì dùng đạc, hay họ Nguyễn Thịnh mặc trang phục màu xanh,… Không khí trang nghiêm nhưng không kém phần tưng bừng, náo nhiệt. Đến Đình thì các kiệu hạ xuống, lần lượt rước bát bát hương vào đình đặt theo vị trí quy định. Sau khi thủ tục rước kiệu, đặt bát hương vào đình hoàn tất, Ban tổ chức công bố khai mạc. Lễ tế thần diễn ra, trong các ngày hội, đều đặn buổi sáng đều thực hiện lễ tế thần. Đến ngày 13 tháng Giêng, là ngày giã hội. Đúng 13 giờ chiều là nghi thức tế giã đám, hóa mã, rước bát hương ở đình lên kiệu. 18h30, nghi thức rước kiệu vòng quanh đình để “từ thần” để trở về các nhà thờ họ. Đám rước đi đến Cầu Cháy thì nổi đuốc thắp sáng cả đường làng. Đám rước diễn ra trong âm thanh dập dìu của tiếng kèn, tiếng trống ngân vang, giục giã,… Về đến nhà thờ họ các cụ cao niên trong họ làm lễ đón bát hương đặt lên bàn thờ họ.  Phần hội: Trong năm ngày hội, dân làng tổ chức các trò chơi dân gian, các hoạt động văn hóa nghệ thuật: hát tuồng, đấu vật, hát chèo, hát giao duyên, chọi gà, cờ tướng,… Các trò chơi thu hút đông đảo người dân không chỉ trong làng mà còn có cả người dân các khu vực xung quanh tham gia. * Lễ hội đền: Lễ hội Cổ Loa Lễ hội Cổ Loa là lễ hội lớn nhất của huyện Đông Anh, với sự tham gia của 8 xã “bát xã hộ nhi”, gồm các xã: Cổ Loa, Văn Thượng, Ngoại Sát, Mạch Tràng, Đài Bi, Cầu Cả, Sằn Giã, Thư Cưu và làng Quậy – một làng gốc ở Cổ Loa, khi vua Thục xây thành đã phải di dời đến vùng Hà Vĩ, trong đó làng Quậy được các xã tôn là anh cả. “Bát xã hội nhi xuất phát từ lịch sử, “khi vua An Dương Vương về đóng ở Cổ Loa đã giao cho 8 xã (trước đây các làng gọi là xã, còn gọi là bát xã), có nhiệm vụ phục vụ và bảo vệ triều đình. Ngày nay, “bát xã” ấy thuộc xã Cổ Loa, Xuân Canh và Uy Nỗ. Làng Quậy xã Liên Hà
  • 35. 29 tham gia lễ hội Cổ Loa với tư cách là “anh cả Quậy”. Do đặc trưng quan trọng này nên lễ hội Cổ Loa là một lễ hội liên làng, tính chất liên làng được thể hiện rất rõ nét và mang tính chất của một không gian gắn liền với lịch sử về sự ra đời của nhà nước Âu Lạc” [48, tr. 353].  Thời gian diễn ra lễ hội: Trước đây, lễ hội diễn ra trong 12 ngày, từ ngày 6 đến ngày 18 tháng Giêng, những năm quy mô nhỏ cũng diễn ra trong 6 ngày. Hiện nay, lễ hội được tổ chức trong hai ngày: 5,6 tháng Giêng, trong đó mùng 6 là chính hội. Người dân vùng Cổ Loa có câu: “Chết bỏ con bỏ cháu, sống không bỏ mồng 6 tháng Giêng”. Lễ hội Cổ Loa trước đây được tổ chức thường niên, nhưng có thời gian bị gián đoạn và được khôi phục từ đầu những năm 80 của thế kỷ XX.  Quy trình tổ chức lễ hội: + Công tác chuẩn bị: Công tác chuẩn bị của lễ hội Cổ Loa được nhân dân chuẩn bị từ nhiều tháng trước, thường từ tháng 10 Âm Lịch. Chuẩn bị về mọi mặt: Ban chủ trì lễ hội, ban tế, đội rước,... Mỗi ban, mỗi đội được chuẩn bị với những tiêu trí riêng và được chuẩn bị khắt khe, ví như: Ban chủ trì lễ hội là bốn cụ cao niên ở làng Cổ Loa, gọi là cụ thượng, được chọn trong các giáp của làng; đội rước là các thanh niên có sức khỏe, chưa có gia đình,... Các làng tham gia lễ hội cũng được phân công các nhiệm vụ khác nhau, ví như: xã Cổ Loa có nhiệm vụ thảo “chúc văn, làm chủ tế và cử Đông xướng; xã Văn Thượng có nhiệm vụ đọc chúc khi tế vua gọi là “độc chúc”… + Vào lễ hội:  Phần lễ: Vào ngày hội chính, đội khiêng kiệu và dân làng tập trung khiêng kiệu đến đền Thượng theo hai phía: bên phải, phía Tây, là các xã Sằn Giã, Mạch Tràng, Đài Bi, Cầu Cả tập trung ở Thành Ngoại; bên trái, phía Đông
  • 36. 30 là các xã Văn Thượng, Ngoại Sát, Thư Cưu. Theo trống lệnh, hai đoàn rước tiến vào đền Thượng, đến sát đền thì nhập vào làm một, theo thứ tự đã được quy định sẵn. Làng Quậy – anh cả sẽ được vào tế lễ trước khi đoàn kiệu của tám làng vào. Sau đó là buổi đồng tế với số lượng 30 đến 40 người trong đội tế đã được chuẩn bị từ trước. Sau lễ tế là nghi thức tiến lễ: oản phẩm dâng vua6 , gọi là thi lễ cho bát xã và tiến dâng các sản vật địa phương. Cùng lúc đó, Ban Giám khảo được bầu từ trước sẽ chấm đểm thi cho đoàn rước các làng dựa trên các tiêu chí như: trang nghiêm, đẹp mắt, đúng quy trình,… Sau đó bỏng chủ sẽ được đưa về kiệu để rước về đình của các làng, gọi là “lộc Vua”. Sau đó là nghi lễ “Rước kiệu bát xã”. Nghi thức rước kiệu diễn ra trong không khí trang nghiêm, long trọng với đầy đủ các thành phần: Đội thổi tù và cầm tay thước đi trước, đội cờ thần, đội múa cờ, đội trống chiêng, đội rước bát bửu, đội múa,… trong đó có kiệu vua An Dương Vương, kiệu Bà Chúa Mỵ Châu,… Từ đền Thượng đi ra, các đoàn rước đi theo thứ tự do ban tổ chức quy định, sau đó sẽ tỏa ra các hướng quy định để đi về đình làng của các làng, riêng đoàn rước của Cổ Loa sẽ đi thẳng vào đình Ngự Triều Di Quy ngự ở đó, tế xong đến chiều sẽ quay về đền Thượng. Còn các làng lại tiếp tục tổ chức lễ hội ở đình của mình theo thời gian được phân chia từ ngày mùng 8 đến hết ngày 16 tháng Giêng.  Phần hội: Nếu như phần lễ được tổ chức với những lễ nghi long trọng, trang nghiêm, thể hiện tính thiêng – linh hồn của lễ hội thì phần hội của lễ hội Cổ 6 Oản phẩm dâng vua là do nhân dân các làng thi nhau làm bỏng nén, còn gọi là bỏng Chủ, tương truyền là một loại quân lương của quân đội Âu Lạc, được làm từ thóc nếp cái hoa vàng và mật đường Mai Lĩnh, thảo quả, lạc rang, được làm theo quy trình kỹ lưỡng từ khâu chọn nguyên liệu đến các khâu chế biến.
  • 37. 31 Loa lại hấp dẫn người tham gia hội với nhiều trò chơi phong phú, mang nhiều ý nghĩa. Các loại hình nghệ thuật truyền thống dân gian như hát ca trù, hát tuồng được diễn ra ở sân đình vào buổi tối làm sống lại hình ảnh sân đình làng quê xưa với những sinh hoạt văn hóa của cộng đồng. Ban ngày, các cụ ông thảnh thơi ngồi chơi lại những trò chơi dân gian của một thời đã qua như chơi bài, đánh cờ, tổ tôm,… các bà các mẹ xúng xính áo dài đi lễ; các thanh thiếu niên cũng nhau chơi những trò chơi như đánh đu, kéo co, chọi gà,… Cả vùng quê như sống dậy bức tranh dân gian sống động, đầy sắc màu. * Lễ hội miếu: Lễ hội miếu Mạch Lũng Miếu Mạch Lũng nằm ở xã Đại Mạch, huyện Đông Anh, miếu thờ ba Đức Đại Vương là những tướng lĩnh thời vua Hùng đời thứ 18, ba vị văn võ song toàn đã cầm quân đánh giặc cứu nước, có công hộ quốc an dân. Hiện Miếu Mạch Lũng vẫn còn lưu giữ được 6 đạo sắc phong và nhiều cổ vật quý giá như: Thần phả, Thần tích và Sắc Phong. - Thời gian diễn ra lễ hội: 3 ngày, từ 10 đến 12 tháng 2 Âm lịch - Quy trình tổ chức lễ hội: + Công tác chuẩn bị lễ hội: Gần đến ngày hội, dân trong làng náo nức với các công việc chuẩn bị cho lễ hội, miếu được mở cửa dọn dẹp, làng thành lập ban tổ chức, phân công các đội chuẩn bị các công việc khác nhau, tất cả đều hướng đến ngày hội chung. + Vào lễ hội:  Phần lễ: Phần lễ được diễn ra với nghi lễ trang trọng, uy nghiêm với đủ các nghi lễ truyền thống như dâng hương tế lễ, cúng khai quang nhập tịch và cúng tống tịch, tế nam, tế nữ, tế cáo, rước kiệu. 5 năm thì có một lần tổ chức rước kiệu lớn.
  • 38. 32 Trong suốt ba ngày lễ hội, các đoàn đại diện cho các tổ đội sản xuất, nhóm đồng niên, đông ngũ, đồng môn…và các gia đình lần lượt mang lễ lên miếu làm lễ dâng hương. Những gia đình làm ăn khá giả có thể dâng đến 5 mâm lớn với thủ lợn, xôi, gà, trầu cau, bánh cốm…và những gia đình nghèo nhất cũng thể hiện lòng thành với đĩa xôi, khoanh thịt. Tất cả các việc đại sự trong các gia đình như hiếu, hỉ, xây nhà…đều phải dừng lại để tập trung cho ngày Thánh.  Phần hội: Phần hội có nhiều hoạt động văn hóa dân gian như: chọi gà, cờ tướng, bịt mắt đập niêu, hát quan họ… thu hút đông đảo người dân và du khách tham gia. * Lễ hội chùa: Lễ hội chùa Quan Âm Làng Quan Âm thuộc xã Bắc Hồng là một làng cổ nổi tiếng với lễ hội Cầu mát với tục rước mã độc đáo, mang ý nghĩa cầu cho mưa thuận gió hòa, dân khang vật thịnh. Đây là lễ hội độc đáo bởi nó là sự kết hợp giữa lễ hội Phật giáo và lễ hội nông nghiệp. Lễ hội Cầu mát làng Quan Âm bắt nguồn từ xưa kia, khi những cư dân đầu tiên đến sinh sống ở vùng đất này, được một vị thần báo mộng có “mạch nước mắt rồng”, nhân dân đào được mạch nước thiêng, trong vắt và đặc biệt không bao giờ cạn, nhờ đó mà đời sống nhân dân được đảm bảo. Nhân dân biết ơn, lập miếu thờ thần Giếng. Hằng năm, nhân dân đều tổ chức lễ rước nước về tế thánh để cầu mong mưa thuận, gió hòa, mùa màng tươi tốt. - Thời gian diễn ra lễ hội: Mồng 7 và mồng 8 tháng Hai âm lịch. - Quy trình tổ chức lễ hội: + Công tác chuẩn bị: Trước lễ hội cả tháng, nhân dân trong làng đã tất bật tiến hành công tác chuẩn bị cho lễ hội. Chuẩn bị lực lượng tham gia lễ hội:
  • 39. 33 đội tế, đội dâng hương, đội rước,… mỗi đội được lựa chọn với những tiêu chí riêng. Chuẩn bị đồ mã: Ông Voi, Ông Ngựa, thuyền rồng,… + Vào lễ hội:  Phần lễ: Vào ngày hội, từ sáng, nhân dân trong làng đã tụ họp tại sân chùa Quan Âm, những người được phân công nhiệm vụ trong các đội đều mặc quần áo chỉnh tề, đúng theo quy định. Đội hình rước lễ sẵn sàng: đi đầu là các cụ bà mặc trang phục đẹp mắt rước cờ thần. Đây là một điểm rất đặc biệt của lễ hội, bởi các bà là lực lượng đứng đầu của buổi rước lễ, sau này cũng chính các bà cũng đảm nhận vai trò tế lễ của đội dâng hương, điều này rất khác với các lễ hội truyền thống khác. Tiếp đến là phường nhạc bát âm của các cụ bà, rồi đến là đội nam thanh niên rước kiệu chóe đựng nước thờ, sau là đội rước ngựa lớn, đội nữ rước thuyền rồng, tiếp đến là đội nam thanh niên rước Ông Voi chiến. Đi sau cùng là các cụ ông, cụ bà, nhân dân và khách thập phương. Đám rước đi từ chùa Quan Âm đến nơi cổng làng có giếng nước cổ để lấy nước rồi đi một vòng quanh hồ rộng của làng (quãng đường quanh hồ khoảng 2 km) rồi trở lại chùa. Sau đó là các nghi thức tế lễ, dâng hương, đến chiều dân làng rước mã: thuyền rồng, ngựa voi đi hóa.  Phần hội: Sau phần nghi lễ linh thiêng, người dự hội được hòa mình vào các trò chơi dân gian vô cùng đặc sắc: chọi gà, đánh đu, bịt mắt đập niêu, cờ người,… Tiểu kết chƣơng 1 Đông Anh là vùng đất cổ, có vị trí chiến lược quan trọng về vị trí địa lý, chính trị, kinh tế, văn hóa, là một phần của mảnh đất thủ đô ngàn năm văn hiến.
  • 40. 34 Mảnh đất nơi đây đã sản sinh ra biết bao giá trị văn hóa đặc sắc, trong đó điểm nhấn là các lễ hội truyền thống. Giống như các vùng quê khác của Việt Nam, các lễ hội truyền thống là món ăn tinh thần không thể thiếu của người dân đất Việt, nhưng với những vị thế đặc biệt, các lễ hội truyền thống của huyện Đông Anh có những đặc trưng rất riêng. Các lễ hội truyền thống của huyện Đông Anh đã trở thành một phần không thể thiếu của đời sống người dân nơi đây. Lễ hội truyền thống huyện Đông Anh rất phong phú và đa dạng, có những đặc trưng riêng biệt, những đặc trưng độc đáo đó góp phần tạo nên bản sắc văn hóa huyện Đông Anh.
  • 41. 35 Chƣơng 2. VAI TRÕ CỦA LỄ HỘI TRUYỀN THỐNG ĐỐI VỚI ĐỜI SỐNG NGƢỜI DÂN VÀ XU HƢỚNG BIẾN ĐỔI CỦA LỄ HỘI TRUYỀN THỐNG HUYỆN ĐÔNG ANH, THÀNH PHỐ HÀ NỘI 1.1. Vai trò của lễ hội truyền thống đối với đời sống ngƣời dân huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội 1.1.1. Vai trò của lễ hội truyền thống đối với đời sống tinh thần của người dân huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội. Trước tiên, cần khẳng định lễ hội truyền thống là món ăn tinh thần không thể thiếu của người dân huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội. Trong một khảo sát phục vụ nghiên cứu, chúng tôi đặt ra câu hỏi cho người dân huyện Đông Anh: Ông (Bà) có tham gia các lễ hội truyền thống của địa phương không? Câu trả lời nhận được cho mức độ tham gia như sau. Mức độ Tỉ lệ chung Phân chia tỉ lệ theo độ tuổi Dƣới 30 tuổi Từ 30 đến 50 tuổi Trên 50 tuổi Thường xuyên 80% 67% 75% 98% Thỉnh thoảng 15% 23% 20% 2% Rất ít 4% 8% 3 % 0% Chưa bao giờ 1% 2% 2% 0% Từ số liệu bảng trên có thể cho thấy phần lớn người dân huyện Đông Anh đều rất quan tâm đến các lễ hội truyền thống của địa phương mình, đặc biệt là ở những người cao tuổi (trên 50 tuổi) – những người giàu kinh nghiệm sống, họ thường xuyên tham gia các lễ hội truyền thống của làng mình, bởi họ coi đó là sinh hoạt chung không thể thiếu của cộng đồng làng.
  • 42. 36 Hay khi được hỏi về đánh giá vai trò các lễ hội truyền thống đối với đời sống người dân, có đến 68% người được hỏi lựa chọn phương án: vai trò rất lớn. Thứ hai, lễ hội truyền thống đáp ứng, thỏa mãn nhu cầu đời sống tâm linh của người dân huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội Bên cạnh đời sống vật chất, đời sống tinh thần, tư tưởng còn hiện hữu đời sống tâm linh. Đó là đời sống con người hướng về cái cao cả, thiêng liêng - chân thiện mỹ - thứ mà con người luôn ngưỡng mộ, ước vọng, tôn thờ. Viết về khái niệm Tâm linh, cuốn Văn hóa gia đình Việt Nam và sự phát triển có đề cập đến với nội hàm: “Trong đời sống con người, ngoài mặt hiện hữu còn có mặt tâm linh. Về mặt cá nhân đã như vậy, mà mặt cộng đồng (gia đình, làng xã, dân tộc) cũng như vậy. Nếu mặt hiện hữu của đời sống con người có thể nhận thức qua những tiêu chuẩn cụ thể sờ mó được, có thể đánh giá qua những cụ thể nhất định, thì về mặt tâm linh bao giờ cũng gắn với cái gì đó rất trừu tượng, rất mông lung, nhưng lại không thiếu được ở con người. Con người sở dĩ trở thành con người, một phần căn bản là do nó có đời sống tâm linh. Nghĩa là tuân theo những giá trị bắt nguồn từ cái thiêng liêng, cái bí ẩn, những giá trị tạo thành đời sống tâm linh của nó” [Trích theo 8, tr. 8-9]. Nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Duy trong cuốn sách Văn hóa Tâm linh cũng đưa ra khái niệm Tâm linh: “Tâm linh là cái thiêng liêng cao cả trong cuộc sống đời thường, là niềm tin thiêng liêng trong cuộc sống tín ngưỡng tôn giáo” [8, tr.11]. Cũng trong cuốn sách này, tác giả đã đề cập đến vai trò của tâm linh trong mọi mặt của đời sống: đời sống cá nhân, đời sống gia đình, đời sống cộng đồng làng xã, Tổ quốc giang sơn đất nước, văn hóa nghệ thuật, thế giới tâm linh, tín ngưỡng tôn giáo,… trong đó chúng tôi đặc biệt quan tâm đến vai trò của tâm linh trong đời sống cá nhân, đời sống gia đình và đời sống cộng đồng làng xã, Tổ quốc giang sơn đất nước,…
  • 43. 37 Với đời sống cá nhân, đời sống tâm linh của con người xuất hiện cao trào khi hoàn cảnh thiêng, thời gian thiêng xuất hiện, nó trở thành điểm tựa tạo nên niềm tin, sức mạnh để cá nhân mỗi người vượt qua những khó khăn gian khổ, hứng khởi niềm tin vào tương lai. Với đời sống gia đình, các giá trị tâm linh đã trở thành “hằng số của văn hóa gia đình” [8, tr.32], là biểu tượng thiêng liêng lôi cuốn các thành viên trở về đoàn tụ, cố kết, củng cố các mối quan hệ trong gia đình. Với đời sống cộng đồng làng xã, “…cái cột chặt con người trong làng xã xưa kia không phải chỉ có quan hệ lãnh thổ, kinh tế mà còn có nhiều quan hệ khác đó là thế giới tâm linh. Vậy tâm linh ở đây được biểu hiện ra những gì? Đó là thần tượng thiêng liêng về các anh hùng có công dựng làng, giữ nước đang được tôn thờ trong những không gian thiêng liêng, những ngôi đình đền. Khuôn quanh những không gian thiêng liêng ấy, hàng năm lễ thần và hội làng diễn ra, thì lại là những dịp niềm tin thiêng liêng được củng cố. Thần thánh thiêng liêng nhắc nhở xóa bỏ những gì khúc mắc bất hòa. Đoàn tụ gần gũi nhau hơn lại đến với những trái tim con người làng xóm” [8, tr. 33]. Với Tổ quốc giang sơn đất nước, sức mạnh tâm linh đã tạo nên niềm tin vững chắc, cố kết tình đoàn kết dân tộc, giúp dân tộc ta vượt qua mọi phong ba, bão táp, thắng mọi kẻ thù xâm lược. Những thời điểm thiêng, không gian thiêng giúp củng cố, làm trỗi dậy tình yêu quê hương, đất nước. Xét trên hệ quy chiếu trên, chúng ta đi vào phân tích vai trò của các lễ hội truyền thống với đời sống tâm linh của người dân huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội. Với đời sống cá nhân mỗi thành viên trong cộng đồng cư dân huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội, mỗi dịp lễ hội về là dịp để người dân được bày tỏ lòng thành kính của mình với các vị thần. Khi thực hiện phần lễ trong lễ hội là sự biểu hiện lòng tôn kính và tin tưởng của mọi người đối với thần linh
  • 44. 38 một cách có hệ thống, có bài bản. Thông qua những vật phẩm, nén nhang, qua các hành động lễ nghi, con người biểu lộ được sự kính trọng của mình với đấng siêu nhiên đáng kính. Thực hành nghi lễ trang nghiêm, người ta tin tưởng các vị thần linh sẽ thấy được lòng thành kính của mình, sẽ che chở, bảo vệ mình trước mọi tai ương, sóng gió. Người ta thấy mình như tịnh tâm, thanh thản. Trong bầu không khí thiêng liêng, người ta thấy như những lời nguyện cầu của mình gửi gắm được thần linh lắng nghe, thấu hiểu. Người hành lễ thấy mình như đắm chìm vào thế giới khác: thế giới của bình yên, của tình thương bao dung, của công bằng, khác hẳn với trạng thái tinh thần ở thực tại mà họ đang phải chịu đựng. Khi tham gia phần hội, con người hòa mình vào không khí vui tươi, giải phóng tâm hồn mình khỏi những khổ đau, lo âu, phiền muộn của cuộc sống hàng ngày, đắm mình trong những trò chơi, lời ca, điệu múa. Tâm hồn con người như trẻ trung hơn, vui vẻ hơn... Người ta có thêm niềm tin, niềm hy vọng để bước tiếp những bước đi trong cuộc sống đầy gian nan, vất vả. Cần nhấn mạnh rằng, đối với mỗi cá nhân, con người có thể thực hiện các nghi lễ thờ cúng đối với các vị thần của làng vào rất nhiều dịp trong năm, chùa làng mở cửa đều đặn, đặc biệt là các dịp ngày tuần Rằm, Mồng Một,… trong tháng, các đình, đền,… cũng vậy, tuy nhiên lễ hội là dịp đặc biệt nhất, là dịp mà người ta tin rằng khoảng cách giữa họ và thánh thần được rút ngắn nhất, nên đây là dịp để thỏa mãn nhu cầu tâm linh của cá nhân một cách lý tưởng nhất. Như nhà nghiên cứu Đặng Nghiêm Vạn đã phân tích “Bước vào lễ hội, ban đầu con người như cảm thấy như được trút bỏ cái gì còn đương trăn trở trong cuộc đời trần tục, hoặc muốn chia sẻ những nỗi thầm kín của đời thường với những đấng thiêng liêng, cầu mong những gì mình cảm thấy là cần thiết cho cuộc đời trần tục, hoặc muốn chia sẻ những nỗi thầm kín của đời thường với những đấng thiêng liêng, cầu mong những gì mình cảm thấy là
  • 45. 39 cần thiết cho cuộc đời trần tục cũng như đời sống tôn giáo. Tham dự lễ hội, sống trong không khí khác đời thường; khi ra về con người cảm thấy thanh thản như thấy được an ủi, giúp đỡ, khích lệ, được giải quyết những vướng mắc ban đầu khi tới hội” [51, tr 17]. Đặc biệt trong bối cảnh hiện nay, trong guồng quay của cuộc sống công nghiệp hóa, hiện đại hóa,... con người bị cuốn vào guồng quay gấp gáp của cuộc sống công nghiệp cộng thêm những thiết bị công nghệ hiện đại như máy tính, điện thoại thông minh,… đang đẩy con người, phần lớn là giới trẻ vào tình trạng hạn chế các mối tiếp xúc, giao lưu với bên ngoài, với cộng đồng, thay vào đó là nhốt mình trong những bức tường kín, sống với thế giới ảo như facebook, zalo,… dần dần mối quan hệ cộng đồng, xã hội bị hạn hẹp lại, các cá nhân ít chia sẻ, cảm thông với nhau hơn, hệ lụy là các cá nhân ngày càng bị cô lập, cô đơn, tâm lý mất cân bằng, căng thẳng,… Lễ hội là dịp các cá nhân cởi bỏ bức tường vô hình quanh mình để hòa vào không khí lễ hội, để giao tiếp với thần linh trong không khí linh thiêng, để bày tỏ những ước vọng, mong muốn của mình, để giải tỏa tâm lý, để cân bằng lại tâm lý. Về vấn đề này, khi được hỏi: Khi tham gia các các lễ hội truyền thống Ông/bà thường mong muốn điều gì? Có nhiều ý kiến trả lời với nội dung mong muốn được ban phước lành, được thần linh chứng giám cho lòng thành, phù hộ cho cá nhân, gia đình được mạnh khỏe bình an, cầu được ước thấy. Như chị T.T.P: “Làng tôi năm nào cùng tổ chức hội, tôi tin các vị Thần, Phật sẽ nghe thấy những điều dân làng cầu nguyện. Tôi chỉ mong ước gia đình bình an, hạnh phúc, con cái khỏe mạnh, ngoan ngoãn”7 Đối với đời sống các gia đình huyện Đông Anh, các lễ hội truyền thống cũng là lúc củng cố mạnh mẽ đời sống tâm linh trong gia đình. Đặc biệt rất nhiều các lễ hội truyền thống của huyện Đông Anh gắn chặt với các tín 7 Phỏng vấn chị T.T.P tại lễ hội làng Quan Âm năm 2019.
  • 46. 40 ngưỡng thờ cúng trong gia đình. Bởi về nguồn gốc, các làng cổ của Việt Nam thường được hình thành trên cơ sở các dòng họ, mỗi làng là sự tập hợp của một vài họ cũng nhau sinh sống, làm ăn, sinh con đẻ cái, rồi tách thành các chi, các họ nhánh. Điển hình là lễ hội Rước Kiệu làng Thụy Hà, trong lễ hội có nghi thức rước bát hương tổ từ các nhà thờ dòng họ ra đình. Trong làng Thụy Hà hiện nay còn có các họ như: họ Nguyễn Văn, họ Nguyễn Đức, họ Nguyễn Duy chi trên, họ Nguyễn Duy chi dưới, họ Nguyễn Tiến, họ Nguyễn Thế, họ Thịnh, họ Dương. Chính vì vậy mỗi dịp lễ hội về, là con cháu các họ trong làng hân hoan về đoàn tụ, cũng nhau tân trang nhà thờ họ, sắm sửa lễ vật chuẩn bị vào hội cùng cả làng. Đó là dịp để con cháu tưởng nhớ về tổ tiên, về nguồn cội, củng cố lại các mối quan hệ ông bà, cô dì, chú bác trong dòng họ, thắt chặt tình đoàn kết họ hàng, thêm tự hào về nguồn gốc, về dòng họ nơi mình sinh ra, mang dòng máu đang chảy trong tim. Hay như lễ hội Rước Vua giả đền Sái, “dòng họ nào được cử người tham gia đóng vua, chúa, quan đều rất phấn khởi vì họ quan niệm rằng đó là niềm tự hào, vinh dự cho cả dòng họ. Chính vì vậy ông trưởng họ phân công mỗi người một việc…” [48, tr. 366]. Trong các dịp lễ hội, các thành viên trong gia đình về hội tụ đông đủ, quây quần bên mâm cơm đầm ấm, vui vẻ, tình cảm gia đình thêm gắn bó, yêu thương. Với đời sống cộng đồng làng xã, Đông Anh là một huyện ngoại thành Hà Nội, quá trình đô thị hóa chỉ mới thực sự rầm rộ trong khoảng thời gian vài thập kỷ trở lại đây, dáng dấp của làng xã vẫn còn hiện hữu trong cấu trúc xã hội của vùng. Các làng, xã trong huyện đều có lịch sử từ lâu đời, chỉ có xã Kim Nỗ và thị trấn Đông Anh là thành lập về sau. Theo thư tịch cổ, thì tất cả các làng đều có lễ hội (trừ Kim Nỗ và thị trấn), nhưng hiện nay có nhiều lễ hội đã bị thất truyền. Chính vì vậy, theo truyền thống các làng xưa, lễ hội là dịp sinh hoạt cộng đồng đặc biệt của dân làng, là dịp thỏa mãn đời sống tâm
  • 47. 41 linh của cộng đồng làng. Chuẩn bị gần tới lễ hội, dân làng tấp nập chuẩn bị các khâu, các công đoạn, tập rượt trước nhiều ngày. Đến ngày hội, cả làng ngừng hết các công việc kinh tế, các con cháu xa quê cũng hứng khởi về quê dự hội. Ai cũng chọn cho mình những bộ quần áo đẹp nhất, rực rỡ sắc màu cùng nhau hòa mình vào các nghi lễ trang nghiêm với niềm tin mãnh liệt thực hiện các nghi lễ đó, sẽ được các thần linh chứng giám, phù hộ cho cộng đồng làng bình yên, ngày càng khấm khá. Sau các nghi lễ trang nghiêm, cả làng lại nô nức cùng nhau tham gia các trò vui hội, các trò chơi dân gian như chọi gà, thổi cơm thi, đánh đu,… được tái hiện. Những vất vả lo toan của cuộc sống thường nhật tạm thời được gác lại, thay vào đó là bầu không khí vui tươi, hứng khởi, đoàn kết. “Lễ hội truyền thống còn thể hiện chức năng đáp ứng nhu cầu đời sống tinh thần, tâm linh, giải quyết những khát khao, những ước mơ của cộng đồng các dân tộc ở địa phương... Thông qua đó, lễ hội truyền thống tạo cho con người niềm lạc quan yêu đời, yêu chân lý, trọng cái thiện và làm cho tâm hồn, nhân cách mỗi con người như được sưởi ấm tình nhân đạo, nhân văn để rồi thẩm thấu vào cuộc sống đời thường, đáp ứng nhu cầu đời sống văn hóa tinh thần, tâm linh về giao lưu, làm cho đời sống có ý nghĩa hơn, tốt đẹp hơn” [51, tr 17]. Với đặc trưng “trống làng nào làng ấy đánh, thánh làng nào làng ấy thờ” của văn hóa Bắc Bộ Việt Nam, tín ngưỡng thờ Thành Hoàng làng trở thành điểm tựa tâm linh của văn hóa làng. Các tín ngưỡng thờ cúng truyền thống và đỉnh cao là các lễ hội truyền thống là điểm tựa tâm linh cho cư dân cộng đồng làng nhớ về nguồn cội, nhớ về ngôi làng thân thương, nơi chôn rau cắt rốn. Bà N.N.V cho biết: “Tôi theo con cháu về ở nội thành đã gần chục năm nay nhưng năm nào cứ vào dịp hội làng là tôi lại về, nó đã thành thói quen, về tôi lại đư c cùng những người trong hội người cao tuổi cùng nhau