Hiện nay, sự phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế và xu thế toàn cầu hóa vừa tạo ra những cơ hội, đồng thời cũng đặt ra những yêu cầu mới trong lĩnh vực đào tạo nguồn nhân lực. Sinh viên khối ngành kinh tế hiện nay cần trang bị thêm các kĩ năng mềm, nhằm phát triển năng lực bản thân, đáp ứng những đòi hỏi của nhà tuyển dụng cùng sự thay đổi của kinh tế - xã hội và đề xuất các giải pháp nhằm phát triển năng lực cho sinh viên khối ngành này. . Bài viết xác định các kĩ năng mềm cần phát triển cho sinh viên khối ngành kinh tế
DOI MOI HOAT DONG GIAO DUC KI NANG MEM CHO SINH VIEN HKOI NGANH KINH TE.pdf
1. VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt Tháng 09-2021 ISSN 2354-0753
1
ĐỔI MỚI HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KĨ NĂNG MỀM CHO SINH VIÊN KHỐI
NGÀNH KINH TẾ THEO ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC
SOLUTIONS TO INNOVATE SOFT SKILLS EDUCATION ACTIVITIES FOR
STUDENTS IN ECONOMIC SECTOR UNDER THE DIRECTION OF COMPETENCE
DEVELOPMENT
Lại Thế Luyện Trường Đại học Tài Chính - Marketing
Email: luyenlt@ufm.edu.vn
Article history
Received: 24/8/2021
Accepted: 04/9/2021
Published: 15/9./2021
Keywords
education, soft skills,
competency, student
Từ khóa
giáo dục, kĩ năng mềm, năng
lực, sinh viên
ABSTRACT
Currently, Vietnam's socio-economic development in the context of
international integration and globalization trends has created opportunities
and also set new requirements in the field of human resource training.
Nowadays, economics students need to be equipped with more soft skills, in
order to develop their own capacity, to meet the requirements of employers
and changes in the socio-economic situation. The article identifies the soft
skills that need to be developed for students of the economics sector and
proposes solutions to develop the capacity for students in this sector.
TÓM TẮT
Hiện nay, sự phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam trong bối cảnh hội nhập
quốc tế và xu thế toàn cầu hóa vừa tạo ra những cơ hội, đồng thời cũng đặt ra
những yêu cầu mới trong lĩnh vực đào tạo nguồn nhân lực. Sinh viên khối
ngành kinh tế hiện nay cần trang bị thêm các kĩ năng mềm, nhằm phát triển
năng lực bản thân, đáp ứng những đòi hỏi của nhà tuyển dụng cùng sự thay
đổi của kinh tế - xã hội. Bài viết xác định các kĩ năng mềm cần phát triển cho
sinh viên khối ngành kinh tế và đề xuất các giải pháp nhằm phát triển năng
lực cho sinh viên khối ngành này.
1. Mở đầu
Hiện nay, để thu hẹp khoảng cách giữa đào tạo nhân lực với yêu cầu của thị trường lao động thì cần thiết phải đổi
mới đào tạo theo định hướng phát triển năng lực của SV, từ chỗ chỉ quan tâm tới việc sinh viên “học được gì” đến
chỗ quan tâm tới việc sinh viên (SV) “làm được gì” thông qua việc học. Nói cách khác, trường đại học từ chỗ quan
tâm đến việc người học học được cái gì đến chỗ quan tâm người học vận dụng cái được học để làm được cái gì.
Trong khoảng mười năm trở lại đây, các trường đại học có đào tạo SV khối ngành kinh tế đã có sự quan tâm và
bước đầu đưa các môn kĩ năng mềm (KNM) vào giảng dạy cho SV. Vì vậy, các trường đại học khối ngành Kinh tế
cần thiết phải có những giải pháp cụ thể, đồng bộ để tiến hành hoạt động giáo dục KNM sao cho có thể phát triển
được các năng lực cho SV. Đây là một vấn đề có ý nghĩa cả về mặt lí luận và thực tiễn cho hoạt động giáo dục KNM
ở các trường đại học khối ngành kinh tế.
2. Nội dung nghiên cứu
2.1. Giáo dục kĩ năng mềm cho sinh viên khối ngành kinh tế theo định hướng phát triển năng lực
2.1.1. Khái niệm về kĩ năng mềm
KNM là một khái niệm có nội hàm rất rộng, có rất nhiều kĩ năng cụ thể. Tùy từng ngành đào tạo cụ thể, với đặc
thù chuyên môn khác nhau mà SV cần hình thành và rèn luyện những KNM tương ứng. KNM là khái niệm để chỉ
khả năng giao tiếp, làm việc nhóm, quản lí thời gian, vượt qua khủng hoảng, khả năng lãnh đạo, sáng tạo, đổi mới,
khả năng thích ứng với môi trường sống, môi trường làm việc, học tập,…đó là những yếu tố mang lại thành công
bên cạnh nền tảng kiến thức chuyên môn. Những KNM có vai trò rất quan trọng cho người học sau khi ra trường,
chính thức công tác tại các cơ quan, tổ chức kinh tế, xã hội…(Phạm Xuân Vũ, 2015). Theo Lê Thị Hoài Lan (2017),
KNM là hệ thống các kĩ năng được thực hiện tự giác dựa trên tri thức về công việc, khả năng hòa nhập xã hội, thái
độ và hành vi ứng xử hay tương tác với xã hội, cộng đồng, bạn bè, đồng nghiệp, đối tác, tổ chức của mỗi cá nhân,
nhằm phát huy tối đa hiệu quả công việc và thành đạt trong cuộc sống.
2. VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt Tháng 09-2021 ISSN 2354-0753
2
Nhìn chung, KNM (soft skills) là thuật ngữ dùng để chỉ một khía cạnh trong năng lực của cá nhân, qua đó cho
thấy khả năng tương tác, hòa nhập giữa cá nhân với người khác, với tập thể trong môi trường sống và làm việc một
cách linh hoạt và uyển chuyển. kĩ năng luôn gắn với một hành động hoặc một hoạt động nhất định nhằm đạt được
mục tiêu đã đặt ra. KNM thể hiện năng lực của cá nhân khi thực hiện thành công các hành động trong môi trường
học tập và làm việc thực tế.
2.1.2. Khái niệm về năng lực
Trước hết, theo Từ điển tiếng Việt, năng lực là khả năng, điều kiện chủ quan hoặc tự nhiên sẵn có để thực hiện
một hoạt động nào đó (Viện Ngôn ngữ học, 2003); là tổ hợp phức tạp những thuộc tính tâm lí của mỗi người phù
hợp với những các yêu cầu của một hoạt động nhất định, đảm bảo cho hoạt động đó diễn ra có kết quả (Ngô Xuân
Đông, 2017). Ngoài ra, có thể hiểu năng lực là tổng hợp những thuộc tính độc đáo của cá nhân phù hợp với những
yêu cầu đặc trưng của một hoạt động nhất định, nhằm đảm bảo việc hoàn thành có kết quả tốt trong lĩnh vực hoạt
động ấy (Nguyễn Như Ý, 1999).
Năng lực (competency) là thuộc tính cá nhân cho phép cá nhân thực hiện thành công hoạt động nhất định, đạt kết
quả mong muốn trong những điều kiện cụ thể. Thuộc tính đó thể hiện ở tổ hợp những hành động vật chất và tinh
thần tương ứng với dạng hoạt động nhất định dựa vào những đặc điểm cá nhân (sinh học, tâm lí và giá trị xã hội)
được thực hiện tự giác và dẫn đến kết quả phù hợp với trình độ thực tế của hoạt động (Đặng Thành Hưng, 2012).
Với một góc nhìn cụ thể hơn, năng lực được xem như là sự tích hợp sâu sắc của kiến thức - kĩ năng - thái độ làm nên
khả năng thực hiện một công việc và được thể hiện trong thực tiễn hoạt động (Hoàng Thị Tuyết, 2013). Kĩ năng là
một yếu tố cấu thành năng lực cá nhân.
Năng lực của SV khối ngành Kinh tế là một tập hợp các các kiến thức, kĩ năng, thái độ và đặc điểm cá nhân cần
để hoàn thành tốt một vai trò/công việc nào đó. Các năng lực cá nhân giúp SV có thể thích ứng được với những thay
đổi của thị trường lao động và bối cảnh kinh tế - xã hội.
2.2. Các kĩ năng mềm cần thiết cho sinh viên khối ngành kinh tế
Để góp phần phát triển năng lực cho SV khối ngành kinh tế, các trường đại học khối ngành kinh tế cần xác định
được các KNM cần thiết cho SV. Để làm được điều này, các trường cần dựa trên cơ sở phân tích các nhiệm vụ mà
SV khối ngành kinh tế thường xuyên phải thực hiện trong môi trường làm việc sau khi tốt nghiệp. Theo Suciu (2014),
các KNM cần thiết cho SV khối ngành kinh tế gồm có kĩ năng giao tiếp, kĩ năng làm việc đồng đội, kĩ năng giải
quyết vấn đề và ra quyết định. Bởi lẽ, các KNM này sẽ giúp SV khối ngành kinh tế trở thành những người lao động
hoặc người quản lí thành công sau khi tốt nghiệp. Bên cạnh đó, theo Baartman và cộng sự (2006), các KNM cần thiết
cho SV khối ngành kinh tế, là : kĩ năng giải quyết vấn đề, kĩ năng giao tiếp, hợp tác, và tính linh hoạt và kĩ năng thích
ứng với sự thay đổi. Ngoài ra, nghiên cứu của nhóm tác giả McMurray và cộng sự (2016) đã chỉ ra các KNM mà
nhà tuyển dụng ở Scotland yêu cầu ở SV tốt nghiệp khối ngành kinh tế, bao gồm: kĩ năng đàm phán, kĩ năng giao
tiếp, kĩ năng làm việc đồng đội.
Kế thừa kết quả nghiên cứu của các tổ chức nói trên và vận dụng phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội tại VN,
có thể bước đầu xác định các KNM cần trang bị cho SV khối ngành kinh tế, bao gồm:
Kĩ năng mềm Mô tả
Kĩ năng giao tiếp trong kinh
doanh
Thể hiện ở khả năng giao tiếp hiệu quả với đồng nghiệp, cấp trên, cấp dưới và
khách hàng.
Kĩ năng đàm phán Thể hiện ở khả năng đạt được những thỏa thuận tốt nhất với đối tác.
Kĩ năng thuyết trình trong
kinh doanh
Thể hiện ở khả năng trình bày lưu loát trước thính giả, đồng nghiệp, khách hàng,
đối tác, nhà đầu tư,…
Kĩ năng làm việc đồng đội
Thể hiện ở khả năng làm việc trong một đội với tinh thần hợp tác và đạt được
mục tiêu chung của cả đội.
Kĩ năng quản lí thời gian
Thể hiện ở khả năng sắp xếp các hoạt động và sử dụng quỹ thời gian hợp lí, biết
cân bằng giữa cuộc sống cá nhân - công việc - gia đình.
Kĩ năng lập kế hoạch và tổ
chức
Thể hiện ở khả năng lập kế hoạch và quản lí các hoạt động một cách hiệu quả
Kĩnăng giải quyếtvấn đề và
ra quyết định
Thể hiện ở khả năng đánh giá vấn đề và phát triển kế hoạch hành động để giải
quyết vấn đề.
Kĩ năng tư duy sáng tạo và
đổi mới
Thể hiện ở khả năng tư duy để tìm kiếm những giải pháp sáng tạo trong giải
quyết các vấn đề liên quan đến kinh doanh và khởi nghiệp.
3. VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt Tháng 09-2021 ISSN 2354-0753
3
Kĩ năng lãnh đạo
Thể hiện ở khả năng ảnh hưởng và truyền cảm hứng cho người khác, là cách giúp
người khác gia tăng năng lực thực hiện công việc, biết đánh giá hiệu suất làm
việc của nhân viên và khiến nhân viên gia tăng sự mãn nguyện trong công việc.
Kĩ năng thích ứng với sự
thay đổi
Thể hiện ở khả năng thích ứng với những thay đổi của thị trường và môi trường
kinh doanh.
2.3. Các năng lực cần phát triển cho sinh viên khối ngành kinh tế
Để đảm bảo phát triển năng lực cho SV khối ngành kinh tế, bên cạnh việc xác định các KNM cần thiết cho SV
như đã xác định ở phần trên, các trường đại học khối ngành kinh tế cũng cần chỉ ra một cách cụ thể các loại năng lực
của SV khối ngành kinh tế. Các năng lực này thể hiện rõ nét những KNM mà các trường đại học khối ngành kinh tế
đã trang bị cho SV như đã phân tích ở phần trên. Công trình nghiên cứu của McMurray và cộng sự (2016) đã chỉ ra
các loại năng lực cần phát triển cho SV khối ngành kinh tế, bao gồm:
- Rèn luyện cho SV khối ngành kinh tế năng lực quản lí bản thân: thể hiện ở việc SV biết cách ứng phó trước
những tình huống căng thẳng, khó khăn trong công việc và cuộc sống hàng ngày; SV biết làm chủ bản thân; tự chủ
trong học tập, trong công việc và quản lí được các mối quan hệ.
- Rèn luyện cho SV khối ngành kinh tế năng lực giao tiếp: thể hiện ở việc SV biết cách ứng xử, phối hợp hiệu quả
với người khác trong môi trường làm việc. Năng lực này còn được gọi là năng lực hợp tác. Năng lực này còn thể
hiện ở chỗ SV có kĩ năng lập luận, sắp xếp ý tưởng, giao tiếp bằng văn bản và các phương tiện truyền thông, thuyết
trình, giao tiếp hiệu quả với các cá nhân và tổ chức.
- Rèn luyện cho SV khối ngành kinh tế năng lực tư duy sáng tạo, giải quyết vấn đề, có quyết định đúng đắn trước
những thách thức của công việc và cuộc sống: thể hiện ở việc SV biết tự do lựa chọn, suy nghĩ, biểu đạt, làm phát
triển hoàn toàn những năng lực sẵn có của mỗi em; để từ đó, SV tiếp tục trưởng thành trong học tập, trong công việc,
trong cuộc sống, biết vượt qua cái cũ, tạo ra giá trị mới...
- Rèn luyện cho SV khối ngành kinh tế năng lực thích ứng với sự thay đổi: thể hiện qua thái độ tích cực, tự tin,
cầu tiến, thích ứng tốt với môi trường và điều kiện làm việc sau khi tốt nghiệp, để thành đạt trong sự nghiệp. Ngoài
ra, năng lực thích ứng còn được hiểu là thích ứng với các hoạt động học tập, làm việc ngày càng mới mẻ, phức tạp;
thích ứng với các điều kiện, môi trường sống khác nhau; thích ứng với sự đa dạng văn hóa toàn cầu.
- Rèn luyện cho SV khối ngành kinh tế năng lực tự học suốt đời: Từ nhỏ, các em đã biết tự lĩnh hội kiến thức, kĩ
năng, thái độ qua các bài học, môn học, theo sự hướng dẫn của giáo viên ở các cấp phổ thông. Khi trưởng thành, SV
sẽ tự mình biết cách tìm tòi, lĩnh hội, thể hiện những điều mới mẻ trong suốt cả cuộc đời. Sau khi tốt nghiệp đại học,
SV có khả năng tự học suốt đời, tự nâng cao trình độ hoặc tiếp tục học lên những bậc học cao hơn.
- Rèn luyện cho SV khối ngành kinh tế năng lực lãnh đạo và quản lí: Đối với SV khối ngành kinh tế, “năng lực
này thể hiện thông qua khả năng vận dụng, sử dụng các phương pháp tổ chức - hành chính, tâm lí - giáo dục, kinh tế
trong quản lí, tổ chức, triển khai thực hiện các kế hoạch, chương trình hành động, đảm bảo thực hiện quy trình quản
lí khoa học, chuẩn xác, thực hiện tốt chức trách, thẩm quyền theo quy định, làm đúng những việc phải làm, thực hiện
tốt vai trò lãnh đạo và quản lí của mình” (Ngô Xuân Đông, 2017).
Như vậy, mục tiêu cao nhất của giáo dục KNM cho SV khối ngành kinh tế chính là góp phần phát triển năng lực
của mỗi SV, đáp ứng nhu cầu phát triển bản thân và nghề nghiệp của SV.
2.3. Các hình thức phát triển năng lực cho sinh viên khối ngành kinh tế
Sự hình thành và phát triển năng lực của mỗi cá nhân phải thông qua chính hoạt động của bản thân họ, cùng với
sự tương tác với người khác trong môi trường sống, môi trường học tập và làm việc. Để thực hiện được điều này,
đòi hỏi các trường đại học phải chỉ ra được các hình thức phát triển năng lực cho SV khối ngành kinh tế.
2.3.1. Phát triển năng lực cho sinh viên thông qua hoạt động giáo dục kĩ năng mềm chính khóa
Các trường đại học khối ngành kinh tế có thể tổ chức các khóa học ngắn hạn về KNM cho SV hoặc tích hợp
KNM vào các học phần chuyên môn. Có thể nói, con đường giáo dục trong nhà trường mới là con đường ngắn nhất
có khả năng tạo ra được những hoạt động đa dạng, phong phú cần thiết, tạo điểu kiện để rèn luyện KNM một cách
hệ thống, bài bản, có cơ sở khoa học và phát triển được những năng lực khác nhau ở SV khối ngành kinh tế, phù hợp
với nhu cầu phát triển của SV và yêu cầu của thị trường lao động.
2.3.2. Phát triển năng lực cho sinh viên thông qua các hoạt động ngoại khóa
Hoạt động ngoại khóa là cơ hội để SV giải tỏa áp lực, tạo thêm hứng thú học tập, cải thiện tốt chất lượng học tập
và trở nên tích cực hơn trong các hoạt động khác. Hơn nữa, các hoạt động ngoại khóa tạo cơ hội cho mỗi cá nhân
giao tiếp, học hỏi và tương tác với những người xung quanh. Hoạt động ngoại khóa có ý nghĩa hỗ trợ cho giáo dục
4. VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt Tháng 09-2021 ISSN 2354-0753
4
chính khóa, góp phần phát triển và hoàn thiện nhân cách SV, nhất là để các em phát triển các KNM cần thiết trong
công việc và cuộc sống, nâng cao năng lực bản thân.
2.3.3. Phát triển năng lực cho sinh viên thông qua các hoạt động thực tế nghề nghiệp
Trong môi trường làm việc, KNM thể hiện qua hành vi ứng xử của mỗi con người, cách thức tương tác với bạn
bè, đồng nghiệp, cách làm việc với nhóm, đội hay trong tập thể lớn (doanh nghiệp, tổ chức,…). KNM thể hiện cách
giải quyết các các vấn đề nảy sinh trong công việc, biết cách phối hợp làm việc hiệu quả với đồng nghiệp,…. Đây là
con đường mà mỗi SV có thể tiếp tục hoàn thiện các năng lực của bản thân họ trong suốt cuộc đời. Khi dấn thân vào
môi trường làm việc, SV không chỉ vận dụng các kĩ năng nghề nghiệp để phục vụ cho công việc mà cần phải phát
huy tối đa các KNM mà bản thân đã tích lũy, đồng thời là cơ hội không ngừng học hỏi, rèn luyện những kĩ năng mới.
Các KNM không chỉ được phát triển trong môi trường học đường mà còn song hành với quá trình làm việc thực tế
làm việc của SV, như: làm cộng tác viên, làm việc bán thời gian, tự kinh doanh trực tuyến, thực tập sinh,... Qua đó,
SV có thể tích lũy cho bản thân các KNM từ đơn giản đến phức tạp, từ chưa hoàn thiện đến chỗ ngày càng hoàn
thiện hơn.
2.3.4. Phát triển năng lực cho sinh viên bằng hình thức hướng dẫn sinh viên tự học
Đối với hình thức này, SV khối ngành Kinh tế sẽ là chủ thể đóng vai trò chủ động và quyết định trong việc rèn
luyện KNM. Bên cạnh việc tìm kiếm tài liệu KNM từ các thư viện truyền thống, trước bối cảnh chuyển đổi số hiện
nay, việc tra cứu thông tin từ Internet đang là một lựa chọn phổ biến và hiệu quả của nhiều người do sự tiện lợi,
nhanh chóng, tính cập nhật mà nó mang lại. Từ những nguồn tài liệu phong phú này, dưới sự hướng dẫn của đội ngũ
GV, SV khối ngành Kinh tế sẽ tự lĩnh hội để biến thành vốn hiểu biết của riêng mình. Từ đó, SV sẽ tự tổ chức các
hoạt động thực hành để rèn luyện các KNM cho bản thân.
2.4. Một số giải pháp đổi mới giáo dục kĩ năng mềm theo định hướng phát triển năng lực cho sinh viên khối
ngành kinh tế
2.4.1. Xây dựng lại mục tiêu giáo dục kĩ năng mềm theo định hướng phát triển năng lực cho sinh viên khối ngành
kinh tế
Mục tiêu đào tạo được thể hiện thông qua mục tiêu đào tạo của từng chuyên ngành và các đề cương chi tiết học
phần. Do vậy, khi biên soạn đề cương chi tiết học phần và soạn giáo án các môn KNM, bên cạnh việc xác định các
mục tiêu về kiến thức, kĩ năng và thái độ như lâu nay, GV KNM cần biên soạn cần bổ sung thêm phần mục tiêu về
sự phát triển năng lực của SV khối ngành kinh tế ở từng chương, từng bài.
2.4.2. Chuẩn hóa lại nội dung chương trình giáo dục kĩ năng mềm theo hướng phát triển năng lực
Biên soạn các giáo trình KNM chuyên sâu, phù hợp với đặc thù của SV khối ngành kinh tế, có khảo sát ý kiến
của các doanh nghiệp sử dụng lao động. Đặc biệt, muốn đổi mới nội dung chương trình ĐT KNM thì phải thực hiện
theo một quy trình chặt chẽ của nghiên cứu khoa học, từ khâu điều tra, khảo sát thực tiễn, để xác định yêu cầu của
xã hội về các sản phẩm đào tạo, về năng lực của SV, tới khâu xây dựng, thiết kế, biên soạn, tổ chức và đánh giá nội
dung chương trình giáo dục KNM theo định hướng phát triển năng lực cho SV khối ngành kinh tế.
2.4.3. Đổi mới các phương pháp giáo dục kĩ năng mềm theo hướng phát triển năng lực cho sinh viên khối ngành
kinh tế
GV nói chung, GV KNM nói riêng cần quyết tâm áp dụng các phương pháp, mô hình giảng dạy mới; thường
xuyên tham dự các hội thảo giới thiệu các phương pháp học qua trải nghiệm, học qua dự án, cá nhân hóa quá trình
học tập; tận dụng tối đa các ứng dụng của công nghệ thông tin trong quá trình đào tạo và trong việc nâng cao hiệu
quả đào tạo. Đặc biệt, một số kĩ thuật dạy học tích cực, như: làm việc nhóm, đóng vai, trò chơi mô phỏng, động não,
chia sẻ theo cặp… sẽ lấy người học làm trung tâm, tạo điều kiện và cơ hội cho SV được thực hành, được trải nghiệm,
tương tác với nhau trong quá trình giáo dục KNM. Từ đó, SV sẽ không chỉ dừng lại ở mức độ hiểu được mà còn làm
được, vận dụng được các KNM đã học vào thực tế hoạt động học tập, nghề nghiệp và cuộc sống của bản thân.
2.4.4. Đổi mới công tác kiểm tra, đánh giá kết quả giáo dục kĩ năng mềm của sinh viên theo hướng phát triển năng
lực
Việc đánh giá năng lực từng SV cần đánh giá cả quá trình từ kết quả đầu vào, trong thời gian học và sau khi hoàn
thành một KNM cụ thể. Mục tiêu của đánh giá là đưa ra bằng chứng định tính và định lượng về các loại năng lực của
SV, từ đó giúp cho SV được cải thiện. Đánh giá năng lực của SV là yếu tố quan trọng để mỗi SV nhận thức rõ về
các KNM của bản thân. Công tác đánh giá kết quả giáo dục KNM cho SV ở các trường đại học khối ngành kinh tế
chỉ thực sự có giá trị nếu chỉ ra được những tiêu chí đánh giá rõ ràng, đánh giá đúng những gì cần đánh giá trong cấu
trúc năng lực của SV. Do vậy, các trường đại học có đào tạo SV khối ngành kinh tế cần tiếp tục nghiên cứu các biểu
5. VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt Tháng 09-2021 ISSN 2354-0753
5
hiện cụ thể của từng năng lực ở SV khối ngành kinh tế, xây dựng các thang đo cụ thể cho từng năng lực, để làm cơ
sở khoa học cho việc đánh giá kết quả giáo dục KNM của SV khối ngành kinh tế. Việc định lượng hóa mỗi loại năng
lực có ý nghĩa thực tiễn trong việc chỉ ra rõ những điểm mạnh, điểm yếu; để từ đó, mỗi SV khối ngành kinh tế có
phương hướng nhằm tự khắc phục, tự cải thiện, nâng cao năng lực của bản thân.
2.4.5. Nâng cao năng lực đội ngũ giảng viên ở các trường đại học khối ngành kinh tế
Việc đổi mới giáo dục KNM theo định hướng phát triển năng lực của SV ở các trường đại học khối ngành Kinh
tế muốn đạt hiệu quả, đòi hỏi GV không chỉ có trình độ chuyên môn vững vàng, mà còn cần ở họ sự tâm huyết,
không ngừng tìm tòi, đổi mới và sáng tạo. Bên cạnh đó, GV cần có năng lực thiết kế, tổ chức các hoạt động giáo dục
KNM, biết cách lồng ghép, tích hợp KNM trong các học phần mà mình giảng dạy. Chỉ khi đội ngũ GV KNM thực
sự có năng lực thì họ mới có thể phát triển năng lực cho SV khối ngành Kinh tế.
2.4.6. Đổi mới hoạt động hợp tác doanh nghiệp tạo cơ hội cho sinh viên rèn luyện và phát triển năng lực
Quản lí sự phối hợp giữa các lực lượng giáo dục làm công tác giáo dục KNM cho SV khối ngành Kinh tế, đòi
hỏi các trường đại học khối ngành Kinh tế phải huy động được các nguồn lực to lớn của doanh nghiệp, các tổ chức
xã hội cùng tham gia vào hoạt động giáo dục KNM cho SV. Vấn đề cơ bản hàng đầu của sự phối hợp, đó là tất cả
các lực lượng giáo dục nói trên phải phát huy tinh thần trách nhiệm, chủ động tạo ra những mối quan hệ phối hợp
vì mục tiêu giáo dục SV khối ngành Kinh tế trở thành những người lao động thành công, những công dân hữu ích
cho đất nước. Tuy nhiên, sự phối hợp này không diễn ra môt cách tự phát, mà các trường đại học khối ngành Kinh
tế cần nắm vai trò chủ đạo trong sự phối hợp nói trên. Trên thực tế, công tác này có thể phân công cho phòng Công
tác sinh viên và Quan hệ doanh nghiệp làm đầu mối phụ trách, triển khai công tác phối hợp.
3. Kết luận
Trước mục tiêu không ngừng nâng cao chất lượng đào tạo, các trường đại học có đào tạo SV khối ngành kinh tế
cần quan tâm giáo dục KNM và phát triển năng lực cho SV. Từ đó, SV mới có thể đáp ứng những đòi hỏi thực tế
của công việc sau khi tốt nghiệp. Việc thực hiện đồng bộ các giải pháp nêu trên sẽ góp phần phát triển năng lực của
SV ở các trường đại học khối ngành kinh tế, đáp ứng nhu cầu về nguồn nhân lực chất lượng cao để phát triển kinh tế
- xã hội ở đất nước ta hiện nay.
Tài liệu tham khảo
Baartman, L. K. J., Bastiaens, T. J., Kirschner, P. A., Vander, C. P. M. V. (2006). The Wheel of Competency
Assessment: Presenting Quality Criteria for Competency Assessment Programs. Studies in Educational
Evaluation, 32(2), 153.
Đặng Thành Hưng (2012). Năng lực và giáo dục theo tiếp cận năng lực. Tạp chí Quản lí Giáo dục, 43, 18-26.
Hoàng Thị Tuyết (2013). Phát triển chương trình đại học theo cách tiếp cận năng lực Xu thế và nhu cầu. Tạp chí
Phát triển & Hội nhập, 9(19), 80-87.
Lê Thị Hoài Lan (2017). Phát triển Kĩ năng mềm cho sinh viên khoa Kinh tế trường đại học Đồng Nai theo tiếp cận
chuẩn đầu ra. Tạp chí khoa học, Trường Đại học Đồng Nai, 6, 80-94.
McMurray, S., Dutton, M. McQuaid, R.W., Richard, A. (2016). Employer Demands from Business Graduates.
Education and Training, 15(1). https://doi.org/10.1108/ET-02-2014-0017.
Ngô Xuân Đông (2017). Đổi mới hoạt động bồi dưỡng hiệu trưởng trường Trung học cơ sở theo tiếp cận năng lực.
Tạp chí Khoa học, Trường Đại học Vinh, 46(3), 37-43.
Nguyễn Như Ý (1999). Đại từ điển tiếng Việt. NXB Văn Hóa Thông Tin.
Phạm Xuân Vũ (2015). Hợp tác - Một kĩ năng cần thiết cho sinh viên trong quá trình học tập và nghiên cứu ở trường
đại học. Tạp chí khoa học, Trường Đại học Đồng Tháp, 17, 44-47.
Suciu, M.C. (2014). Soft skills and economic education. polish journal of management studies, 10(1), 161-168.
Trần Trọng Thủy (1998). Tâm lí học đại cương. NXB Giáo dục.
Viện Ngôn ngữ học (2003). Từ điển Tiếng Việt. NXB Đà Nẵng.