Sách Nguồn gốc người Việt-người Mường của Tạ Đức (N.x.b Trí thức-2014) cho rằng vùng đất này có tên Giao Chỉ là đất của người Dao- Tên đất là tên người. Còn Người Việt và người Mường xưa nay khác nhau, đều là sự tổng hòa của các nhóm di dân từ phương Bắc: Người Mường vốn là người Mon, Man đến trước, chủ nhân của văn hóa Phùng Nguyên, Người Việt vốn là người Lava, đến sau, chủ nhân của văn hóa Đông Sơn. Đó là một nhận thức sai trái, lỗi thời phản lại Lịch sử của dân tộc. Bài viết này Tác giả phản bác lại luận điểm sai trái của Tạ Đức, bằng việc dùng những di vật và hoa văn xuất hiện từ thời đồ đá cũ do Tổ Tiên chúng ta sáng tạo để lại trong lòng đất, do giới khảo cổ của ta khai quật trong các di chỉ ở lưu vực sông Hồng đem lại là cùng dòng tư tưởng với phong tục tập quán của xã hội người Kinh đương đại. Di vật và hoa văn là lời nói trung thực, khách quan nhất không thể chối cãi được.
Download luận văn thạc sĩ ngành du lịch với đề tài: Khai thác các giá trị văn hóa của nghệ thuật chèo cổ ở Vùng Đồng bằng bắc bộ Việt Nam phục vụ phát triển du lịch
Download luận văn thạc sĩ ngành du lịch với đề tài: Khai thác các giá trị văn hóa của nghệ thuật chèo cổ ở Vùng Đồng bằng bắc bộ Việt Nam phục vụ phát triển du lịch
GIÁO TRÌNH VĂN HỌC DÂN GIAN CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐlongvanhien
Giáo trình văn học dân gian các dân tộc thiều số Việt Nam. Tác giả: TS. Nguyễn Việt Hương (Chủ biên), GS.TSKH Phan Đăng Nhật, PGS.TS Nguyễn Thị Huế, TS. Phạm Việt Long.
Download luận văn thạc sĩ ngành văn học với đề tài: Tiểu thuyết của Thuận nhìn từ mã nhân vật và mã không gian – thời gian, cho các bạn làm luận văn tham khảo
50000507
Nhận viết luận văn đại học, thạc sĩ trọn gói, chất lượng, LH ZALO=>0909232620
Tham khảo dịch vụ, bảng giá tại: https://vietbaitotnghiep.com/dich-vu-viet-thue-luan-van
Download luận văn thạc sĩ ngành phương pháp dạy mĩ thuật với đề tài: Nghệ thuật chạm khắc trong chùa Thầy vận dụng vào dạy học phân môn Vẽ trang trí ở trường Trung học Cơ sở An Khánh, Hoài Đức, Hà Nội
Nhận viết luận văn Đại học , thạc sĩ - Zalo: 0917.193.864
Tham khảo bảng giá dịch vụ viết bài tại: vietbaocaothuctap.net
Download luận văn thạc sĩ ngành giáo dục học với đề tài: Dạy học đọc - hiểu thơ Đường theo đặc trưng thể loại, cho các bạn làm luận văn tham khảo
50000565
Nhận viết luận văn Đại học , thạc sĩ - Zalo: 0917.193.864
Tham khảo bảng giá dịch vụ viết bài tại: vietbaocaothuctap.net
Luận văn thạc sĩ ngành khảo cổ học: Những di tích thời đại Đá ở Thái Nguyên, cho các bạn tham khảo
Download luận văn thạc sĩ ngành chính sách công với đề tài: Thực hiện chính sách bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa truyền thống dân tộc Xơ Đăng, tỉnh Quảng Nam, cho các bạn làm luận văn tham khảo
Nhận viết luận văn đại học, thạc sĩ trọn gói, chất lượng, LH ZALO=>0909232620
Tham khảo dịch vụ, bảng giá tại: https://baocaothuctap.net
Nhận viết luận văn Đại học , thạc sĩ - Zalo: 0917.193.864
Tham khảo bảng giá dịch vụ viết bài tại: vietbaocaothuctap.net
Download luận án tiến sĩ ngành văn học dân gian với đề tài: So sánh dân ca trữ tình sinh hoạt của người Tày và người Thái ở Việt Nam, cho các bạn làm luận án tham khảo
Nhận viết luận văn Đại học , thạc sĩ - Zalo: 0917.193.864
Tham khảo bảng giá dịch vụ viết bài tại: vietbaocaothuctap.net
Download luận văn đồ án tốt nghiệp ngành du lịch với đề tài: Lễ hội Công giáo tại Việt Nam và những định hướng phát triển du lịch, cho các bạn làm luận văn tham khảo
Nhận viết luận văn đại học, thạc sĩ trọn gói, chất lượng, LH ZALO=>0909232620
Tham khảo dịch vụ, bảng giá tại: https://vietbaitotnghiep.com/dich-vu-viet-thue-luan-van
Download luận văn thạc sĩ ngành văn học nước ngoài với đề tài: Hình tượng người phụ nữ trong văn học hiện đại hàn quốc qua cái nhìn của các nhà văn nữ, cho các bạn làm luận văn tham khảo
Nhận viết luận văn đại học, thạc sĩ trọn gói, chất lượng, LH ZALO=>0909232620
Tham khảo dịch vụ, bảng giá tại: https://vietbaitotnghiep.com/dich-vu-viet-thue-luan-van
Download luận văn thạc sĩ ngành triết học với đề tài: Vấn đề phát huy giá trị văn hóa dân tộc Xơ Đăng ở tỉnh Kon Tum hiện nay, cho các bạn làm luận văn tham khảo
GIÁO TRÌNH VĂN HỌC DÂN GIAN CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐlongvanhien
Giáo trình văn học dân gian các dân tộc thiều số Việt Nam. Tác giả: TS. Nguyễn Việt Hương (Chủ biên), GS.TSKH Phan Đăng Nhật, PGS.TS Nguyễn Thị Huế, TS. Phạm Việt Long.
Download luận văn thạc sĩ ngành văn học với đề tài: Tiểu thuyết của Thuận nhìn từ mã nhân vật và mã không gian – thời gian, cho các bạn làm luận văn tham khảo
50000507
Nhận viết luận văn đại học, thạc sĩ trọn gói, chất lượng, LH ZALO=>0909232620
Tham khảo dịch vụ, bảng giá tại: https://vietbaitotnghiep.com/dich-vu-viet-thue-luan-van
Download luận văn thạc sĩ ngành phương pháp dạy mĩ thuật với đề tài: Nghệ thuật chạm khắc trong chùa Thầy vận dụng vào dạy học phân môn Vẽ trang trí ở trường Trung học Cơ sở An Khánh, Hoài Đức, Hà Nội
Nhận viết luận văn Đại học , thạc sĩ - Zalo: 0917.193.864
Tham khảo bảng giá dịch vụ viết bài tại: vietbaocaothuctap.net
Download luận văn thạc sĩ ngành giáo dục học với đề tài: Dạy học đọc - hiểu thơ Đường theo đặc trưng thể loại, cho các bạn làm luận văn tham khảo
50000565
Nhận viết luận văn Đại học , thạc sĩ - Zalo: 0917.193.864
Tham khảo bảng giá dịch vụ viết bài tại: vietbaocaothuctap.net
Luận văn thạc sĩ ngành khảo cổ học: Những di tích thời đại Đá ở Thái Nguyên, cho các bạn tham khảo
Download luận văn thạc sĩ ngành chính sách công với đề tài: Thực hiện chính sách bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa truyền thống dân tộc Xơ Đăng, tỉnh Quảng Nam, cho các bạn làm luận văn tham khảo
Nhận viết luận văn đại học, thạc sĩ trọn gói, chất lượng, LH ZALO=>0909232620
Tham khảo dịch vụ, bảng giá tại: https://baocaothuctap.net
Nhận viết luận văn Đại học , thạc sĩ - Zalo: 0917.193.864
Tham khảo bảng giá dịch vụ viết bài tại: vietbaocaothuctap.net
Download luận án tiến sĩ ngành văn học dân gian với đề tài: So sánh dân ca trữ tình sinh hoạt của người Tày và người Thái ở Việt Nam, cho các bạn làm luận án tham khảo
Nhận viết luận văn Đại học , thạc sĩ - Zalo: 0917.193.864
Tham khảo bảng giá dịch vụ viết bài tại: vietbaocaothuctap.net
Download luận văn đồ án tốt nghiệp ngành du lịch với đề tài: Lễ hội Công giáo tại Việt Nam và những định hướng phát triển du lịch, cho các bạn làm luận văn tham khảo
Nhận viết luận văn đại học, thạc sĩ trọn gói, chất lượng, LH ZALO=>0909232620
Tham khảo dịch vụ, bảng giá tại: https://vietbaitotnghiep.com/dich-vu-viet-thue-luan-van
Download luận văn thạc sĩ ngành văn học nước ngoài với đề tài: Hình tượng người phụ nữ trong văn học hiện đại hàn quốc qua cái nhìn của các nhà văn nữ, cho các bạn làm luận văn tham khảo
Nhận viết luận văn đại học, thạc sĩ trọn gói, chất lượng, LH ZALO=>0909232620
Tham khảo dịch vụ, bảng giá tại: https://vietbaitotnghiep.com/dich-vu-viet-thue-luan-van
Download luận văn thạc sĩ ngành triết học với đề tài: Vấn đề phát huy giá trị văn hóa dân tộc Xơ Đăng ở tỉnh Kon Tum hiện nay, cho các bạn làm luận văn tham khảo
Tài liệu này có tính phí xin vui lòng liên hệ facebook để được hỗ trợ Liên hệ page để nhận link download sách và tài liệu: https://www.facebook.com/garmentspace
https://www.facebook.com/garmentspace.blog
My Blog: http://garmentspace.blogspot.com/
Từ khóa tìm kiếm tài liệu : Wash jeans garment washing and dyeing, tài liệu ngành may, purpose of washing, definition of garment washing, tài liệu cắt may, sơ mi nam nữ, thiết kế áo sơ mi nam, thiết kế quần âu, thiết kế veston nam nữ, thiết kế áo dài, chân váy đầm liền thân, zipper, dây kéo trong ngành may, tài liệu ngành may, khóa kéo răng cưa, triển khai sản xuất, jacket nam, phân loại khóa kéo, tin học ngành may, bài giảng Accumark, Gerber Accumarkt, cad/cam ngành may, tài liệu ngành may, bộ tài liệu kỹ thuật ngành may dạng đầy đủ, vật liệu may, tài liệu ngành may, tài liệu về sợi, nguyên liệu dệt, kiểu dệt vải dệt thoi, kiểu dệt vải dệt kim, chỉ may, vật liệu dựng, bộ tài liệu kỹ thuật ngành may dạng đầy đủ, tiêu chuẩn kỹ thuật áo sơ mi nam, tài liệu kỹ thuật ngành may, tài liệu ngành may, nguồn gốc vải denim, lịch sử ra đời và phát triển quần jean, Levi's, Jeans, Levi Straus, Jacob Davis và Levis Strauss, CHẤT LIỆU DENIM, cắt may quần tây nam, quy trình may áo sơ mi căn bản, quần nam không ply, thiết kế áo sơ mi nam, thiết kế áo sơ mi nam theo tài liệu kỹ thuật, tài liệu cắt may,lịch sử ra đời và phát triển quần jean, vải denim, Levis strauss cha đẻ của quần jeans. Jeans skinny, street style áo sơ mi nam, tính vải may áo quần, sơ mi nam nữ, cắt may căn bản, thiết kế quần áo, tài liệu ngành may,máy 2 kim, máy may công nghiệp, two needle sewing machine, tài liệu ngành may, thiết bị ngành may, máy móc ngành may,Tiếng anh ngành may, english for gamrment technology, anh văn chuyên ngành may, may mặc thời trang, english, picture, Nhận biết
Kiểm tra hải quan về hồ sơ - giá thuế - hàng hoá. https://www.youtube.com/watch?v=PmxWzeI7cMc hoặc http://vietxnk.com/
- Kiểm tra hải quan về Hồ sơ: Khi làm thủ tục hải quan đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu, công chức hải quan chỉ được yêu cầu người khai hải quan nộp hoặc xuất trình các chứng từ thuộc hồ sơ hải quan theo quy định tại Luật Hải quan và các văn bản hướng dẫn, không được yêu cầu DN nộp hoặc xuất trình chứng từ khác ngoài quy định (như lệnh giao hàng - D/O...).
- Kiểm tra hải quan về trị giá tính thuế và thuế xuất:
- Kiểm tra hải quan về hàng hoá:
rong xu thế toàn cầu hóa, việc tiếp cận và tham khảo những tri thức đương đại từ những nước đã phát triển về sự chuyển động của thế giới (đang ở bước ngoặt từ “tròn” sang “phẳng”, như cách nói của tác giả) có lẽ sẽ giúp chúng ta có thêm những thông tin bổ ích để có sự chủ động trong quá trình hội nhập. Tác phẩm được xếp vào danh mục sách bán chạy nhất ở Mỹ (kể từ lần xuất bản đầu tiên tháng 4/ 2005 cho đến nay). Đây là bản dịch từ bản sách gốc mới nhất được sửa chữa, cập nhật và bổ sung hai chương mới nhất bởi chính tác giả.
Sách "Nguồn gốc người Việt-người Mường "của tác giả Tạ Đức công bố rừ năm 2014, được nhiều người khen, do không nghiên cứu sâu về vấn đề này, còn người phê phán là các nhà khoa học. Bởi nội dung sách không phải do Tạ Đức nghiên cứu mà truy cập qua mạng do các tác giả châu Âu...
Tạp chí Văn hóa Nghệ An đăng bài “12 luận điểm chính trong một cuốn sách mới về trống đồng Đông Sơn” của tác giả Tạ Đức, với lời của tác giả: hi vọng gợi ra những ý kiến trao đổi, phản biện. Nhưng không như sách Nguồn gốc người Việt –người Mường mà nói sai thì do lòng tự tôn dân tộc cho nên sách ấy bị nhiều người phản ứng. Còn sách nói về trống đồng này có thể nhiều người ủng hộ,
Truyen thuyet va_giai_thoai_ve_cac_nhan_vat_lich_su_nam_bo_tu_cuoi_the_ky_xix...Garment Space Blog0
Giá 10k/, tài liệu này đang ở dạng xem trước, vui lòng nạp thẻ cào để được xem full tài liệu www.facebook.com/garmentspace www.facebook.com/garmentspace www.facebook.com/garmentspace
Cơ sở lý luận về Quá trình hình thành và phát triển trang sức của người Việt. Trang sức là một loại hình di vật đặc biệt ko chỉ có mục đích làm đẹp cho con người, mà còn biểu thị trình độ thẩm mỹ và kỹ thuật chế tác qua từng thời kỳ, qua đó người xem có thể hình dung được sự phát triển về tư duy của người Việt. Bên cạnh cuộc sống mưu sinh vất vả thường nhật của con người thời đó. Từ đó vẫn còn lóe lên được cuộc sống tinh thần, tức là họ biết làm đẹp, biết trau truốt cho bản thân họ, tự tôn bản thân mình, toát lên vẻ sang trọng của người sử dụng trong giới quý tộc.
Download luận văn thạc sĩ ngành văn học Việt Nam với đề tài: Diện mạo và đặc điểm du ký biển đảo Nam Bộ nửa đầu thế kỷ XX, cho các bạn làm luận văn tham khảo
20301
Nhận viết luận văn đại học, thạc sĩ trọn gói, chất lượng, LH ZALO=>0909232620
Tham khảo dịch vụ, bảng giá tại: https://baocaothuctap.net
Download luận án tóm tắt ngành văn học Việt Nam với đề tài: Biểu tượng đá trong truyền thuyết dân gian Việt Nam, cho các bạn làm luận án tham khảo
đã chia sẻ đến cho các bạn nguồn tài liệu hoàn toàn miễn phí, chẳng những thế còn hay. Nếu các bạn có nhu cầu cần tải bài mẫu này vui lòng nhắn tin qua zalo/telegram : 0917.193.864 để được hỗ trợ tải nhanh nhất có thể nhé!
Tải bài luận văn thạc sĩ ngành văn học với đề tài: Những Đặc Trưng Cơ Bản Của Văn Học Dân Gian Bến Tre Qua Một Số Thể Loại Tiêu Biểu. ZALO/TELE 0917 193 864
Lễ hội Trò Trám là tên của địa phương, giới khoa học gọi là Lễ hội phồn thực, chúng tôi gọi là Lễ hội trò nhại Nõ Nường, nó là dòng Lễ hội vòng đời “hèm tục” phổ biến khắp vùng Đông Nam Á cổ, nhưng đã bị thất truyền từ giữa đầu thế kỷ XX do cuộc chiến tranh của Nhật ở vùng này.
Bài viết về Giám đốc Nhà hát Kịch Việt Nam Nguyễn Thế Vinh, người đã lãnh đạo "Anh cả đỏ" của nghệ thuật kịch Việt Nam suốt 5 năm đạt nhiều kết quả tốt đẹp.
Chính phủ vừa ban hành Nghị định số 109/2017/NĐ-CP quy định về bảo vệ và quản lý Di sản văn hóa và thiên nhiên thế giới ở Việt Nam. Có hiệu lực thi hành từ ngày 10.11.2017, với 4 chương, 24 điều,.
Bài viết về Thanh Hương, nguyên Phó Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa, Giáo dục, Thanh thiếu niên, Nhi đồng của Quố Hội, nhà viết kịch và một phụ nữ can trường.
Tiểu thuyết của Phạm Việt Long phản ánh một giai đoạn chuyển mình của đất nước từ bao cấp sang kinh tế thị trường. Tác phẩm được vào vòng Chung khảo cuộc thi Tiểu thuyết Việt Nam lần thứ 3 do Hội Nhà văn tổ chức.
Tiểu thuyết của Phạm Việt Long. Đoạt giải B (không có giải A) của Ủy ban toàn quốc Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật Việt Nam năm 1999 dành cho văn xuôi. Xuất bản lần đầu: NXB Thanh niên - 1999. Tái bản lần 1,2 3 - NXB Văn học. Tái bản lần thứ tư - năm 2013 - NXB Dân trí. Đã chuyển thể thành phim truyền hình 4 tập NHẬT KÝ CHIẾN TRƯỜNG.
Phản ánh hoạt động của nhà báo chiến trường và nhân dân miền Trung Trung bộ giai đoạn 1968 - 1975..
Tiểu thuyết của Phạm Việt Long. Đoạt giải B (không có giải A) của Ủy ban toàn quốc Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật Việt Nam năm 1999 dành cho văn xuôi. Xuất bản lần đầu: NXB Thanh niên - 1999. Tái bản lần 1,2 3 - NXB Văn học. Tái bản lần thứ tư - năm 2013 - NXB Dân trí. Đã chuyển thể thành phim truyền hình 4 tập NHẬT KÝ CHIẾN TRƯỜNG.
Phản ánh hoạt động của nhà báo chiến trường và nhân dân miền Trung Trung bộ giai đoạn 1968 - 1975..
Tiểu thuyết của Phạm Việt Long. Đoạt giải B (không có giải A) của Ủy ban toàn quốc Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật Việt Nam năm 1999 dành cho văn xuôi. Xuất bản lần đầu: NXB Thanh niên - 1999. Tái bản lần 1,2 3 - NXB Văn học. Tái bản lần thứ tư - năm 2013 - NXB Dân trí. Đã chuyển thể thành phim truyền hình 4 tập NHẬT KÝ CHIẾN TRƯỜNG.
Phản ánh hoạt động của nhà báo chiến trường và nhân dân miền Trung Trung bộ giai đoạn 1968 - 1975..
HƯƠNG ƯỚC HÀ NỘI - MỘT DI SẢN VĂN HOÁ - Trương Sỹ HùngPham Long
Nghiên cứu hương ước của Hà Nội trước cách mạng tháng Tám năm 1945 cũng là dịp khơi nguồn văn hóa truyền thống, giúp cho người quan tâm đến lĩnh vực quan trọng này tiếp xúc trực tiếp với văn bản mà “gạn đục khơi trong”và từ đây có thể rút ra những điều cần thiết cho việc xây dựng những bản quy ước văn hóa mới cho mỗi xã, phường, thị trấn .
Xung quanh sự kiện vua Mạc Đăng Dung thần phục nhà Minh năm 1540, một số nhà nghiên cứu đã phê phán, nhận xét, theo nếp cũ để kết tội nặng hoặc giảm tội cho Mạc Đăng Dung. Chúng tôi chứng minh rằng, Mạc Đăng Dung không những không có tội mà còn có công lớn đối với đất nước.
Người Đà Lạt rất năng động, họ không chỉ học theo mà còn sáng tạo làm theo cách của mình như tìm kiếm những loại giống cây mới, lạ, chất lượng như cà chua đen, ớt sừng bò, ớt chuông, dưa hấu Mỹ, bầu bí khổng lồ,… và đều thắng lớn. Những gia đình năng động đó có thu nhập không dưới 500 triệu đồng/ha/năm.
Tranh thiếu nhi về vhgt năm 2016 được giảiPham Long
Ban Tổ chức cuộc thi Thiếu nhi vẽ tranh về chủ đề văn hóa giao thông vừa công bố danh sách 68 tác phẩm đoạt giải của cuộc thi này. Được khởi xướng từ năm 2011, với sự tham gia của Ủy ban An toàn giao thông Quốc gia, Trung tâm Nghiên cứu bảo tồn và phát huy văn hóa dân tộc Việt Nam Cục Mỹ thuật (Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch), cuộc thi vẽ tranh này đã qua nhiều cuộc trao giải và triển lãm tranh, thu hút hàng vạn thiếu nhi cả nước tham gia.
Trên cơ sở giữ gìn và phát huy giá trị văn hoá truyền thống của dân tộc, Lễ hội Đền thờ Bát Hải Long Vương năm 2016 là một sân chơi đầy thú vị và thể hiện tín ngưỡng của người dân phường Phú Sơn.
Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt NamPham Long
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy “Văn hoá cũng là một mặt trận”. Chính vì vậy trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình Người đã sử dụng khá nhiều bài viết bằng các thể loại thơ để hƣớng dẫn, chỉ bảo và động viên mọi tầng lớp nhân dân cùng đoàn kết đấu tranh trong công cuộc giải phóng dân tộc và xây dựng đất nƣớc, trong đó có nhiều bài được viết bằng thể thơ Đường luật.
Sau này, tôi dự thính hai khóa sau đại học, các G.S dạy văn hóa Việt Nam, tôi thấy không mấy thầy dạy sâu sắc và truyền cảm như vị Thầy đầu tiên của tôi.
Để xem full tài liệu Xin vui long liên hệ page để được hỗ trợ
:
https://www.facebook.com/garmentspace/
https://www.facebook.com/thuvienluanvan01
HOẶC
https://www.facebook.com/thuvienluanvan01
https://www.facebook.com/thuvienluanvan01
tai lieu tong hop, thu vien luan van, luan van tong hop, do an chuyen nganh
GIÁO TRÌNH 2-TÀI LIỆU SỬA CHỮA BOARD MONO TỦ LẠNH MÁY GIẶT ĐIỀU HÒA.pdf
https://dienlanhbachkhoa.net.vn
Hotline/Zalo: 0338580000
Địa chỉ: Số 108 Trần Phú, Hà Đông, Hà Nội
GIAO TRINH TRIET HOC MAC - LENIN (Quoc gia).pdfLngHu10
Chương 1
KHÁI LUẬN VỀ TRIẾT HỌC VÀ TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN
A. MỤC TIÊU
1. Về kiến thức: Trang bị cho sinh viên những tri thức cơ bản về triết học nói chung,
những điều kiện ra đời của triết học Mác - Lênin. Đồng thời, giúp sinh viên nhận thức được
thực chất cuộc cách mạng trong triết học do
C. Mác và Ph. Ăngghen thực hiện và các giai đoạn hình thành, phát triển triết học Mác - Lênin;
vai trò của triết học Mác - Lênin trong đời sống xã hội và trong thời đại ngày nay.
2. Về kỹ năng: Giúp sinh viên biết vận dụng tri thức đã học làm cơ sở cho việc nhận
thức những nguyên lý cơ bản của triết học Mác - Lênin; biết đấu tranh chống lại những luận
điểm sai trái phủ nhận sự hình thành, phát triển triết học Mác - Lênin.
3. Về tư tưởng: Giúp sinh viên củng cố niềm tin vào bản chất khoa học và cách mạng
của chủ nghĩa Mác - Lênin nói chung và triết học Mác - Lênin nói riêng.
B. NỘI DUNG
I- TRIẾT HỌC VÀ VẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA TRIẾT HỌC
1. Khái lược về triết học
a) Nguồn gốc của triết học
Là một loại hình nhận thức đặc thù của con người, triết học ra đời ở cả phương Đông và
phương Tây gần như cùng một thời gian (khoảng từ thế kỷ VIII đến thế kỷ VI trước Công
nguyên) tại các trung tâm văn minh lớn của nhân loại thời cổ đại. Ý thức triết học xuất hiện
không ngẫu nhiên, mà có nguồn gốc thực tế từ tồn tại xã hội với một trình độ nhất định của
sự phát triển văn minh, văn hóa và khoa học. Con người, với kỳ vọng được đáp ứng nhu
cầu về nhận thức và hoạt động thực tiễn của mình đã sáng tạo ra những luận thuyết chung
nhất, có tính hệ thống, phản ánh thế giới xung quanh và thế giới của chính con người. Triết
học là dạng tri thức lý luận xuất hiện sớm nhất trong lịch sử các loại hình lý luận của nhân
loại.
Với tư cách là một hình thái ý thức xã hội, triết học có nguồn gốc nhận thức và nguồn
gốc xã hội.
* Nguồn gốc nhận thức
Nhận thức thế giới là một nhu cầu tự nhiên, khách quan của con người. Về mặt lịch
sử, tư duy huyền thoại và tín ngưỡng nguyên thủy là loại hình triết lý đầu tiên mà con
người dùng để giải thích thế giới bí ẩn xung quanh. Người nguyên thủy kết nối những hiểu
biết rời rạc, mơ hồ, phi lôgích... của mình trong các quan niệm đầy xúc cảm và hoang
tưởng thành những huyền thoại để giải thích mọi hiện tượng. Đỉnh cao của tư duy huyền
thoại và tín ngưỡng nguyên thủy là kho tàng những câu chuyện thần thoại và những tôn
9
giáo sơ khai như Tô tem giáo, Bái vật giáo, Saman giáo. Thời kỳ triết học ra đời cũng là
thời kỳ suy giảm và thu hẹp phạm vi của các loại hình tư duy huyền thoại và tôn giáo
nguyên thủy. Triết học chính là hình thức tư duy lý luận đầu tiên trong lịch sử tư tưởng
nhân loại thay thế được cho tư duy huyền thoại và tôn giáo.
Trong quá trình sống và cải biến thế giới, từng bước con người có kinh nghiệm và có
tri thức về thế giới. Ban đầu là những tri thức cụ thể, riêng lẻ, cảm tính. Cùng với sự tiến
bộ của sản xuất và đời sống, nhận thức của con người dần dần đạt đến trình độ cao hơn
trong việc giải thích thế giới một cách hệ thống
CÁC BIỆN PHÁP KỸ THUẬT AN TOÀN KHI XÃY RA HỎA HOẠN TRONG.pptxCNGTRC3
Cháy, nổ trong công nghiệp không chỉ gây ra thiệt hại về kinh tế, con người mà còn gây ra bất ổn, mất an ninh quốc gia và trật tự xã hội. Vì vậy phòng chông cháy nổ không chỉ là nhiệm vụ mà còn là trách nhiệm của cơ sở sản xuất, của mổi công dân và của toàn thể xã hội. Để hạn chế các vụ tai nạn do cháy, nổ xảy ra thì chúng ta cần phải đi tìm hiểu nguyên nhân gây ra các vụ cháy nố là như thế nào cũng như phải hiểu rõ các kiến thức cơ bản về nó từ đó chúng ta mới đi tìm ra được các biện pháp hữu hiệu nhất để phòng chống và sử lý sự cố cháy nổ.
Mục tiêu:
- Nêu rõ các nguy cơ xảy ra cháy, nổ trong công nghiệp và đời sống; nguyên nhân và các biện pháp đề phòng phòng;
- Sử dụng được vật liệu và phương tiện vào việc phòng cháy, chữa cháy;
- Thực hiện được việc cấp cứa khẩn cấp khi tai nạn xảy ra;
- Rèn luyện tính kỷ luật, kiên trì, cẩn thận, nghiêm túc, chủ động và tích cực sáng tạo trong học tập.
CÁC BIỆN PHÁP KỸ THUẬT AN TOÀN KHI XÃY RA HỎA HOẠN TRONG.pptx
Bàn thên về “Nguồn gốc người Việt- người Mường” của Tạ Đức
1. Bàn thêm về
“Nguồn gốc người Việt- người Mường”củaTạ Đức
Nhạc sĩ Dương Đình Minh Sơn
Nhà Dân tộc-Âm nhạc học
Tóm tắt
Sách Nguồn gốc người Việt-người Mường của Tạ Đức (N.x.b Trí thức-2014) cho
rằng vùng đất này có tên Giao Chỉ là đất của người Dao- Tên đất là tên
người. Còn Người Việt và người Mường xưa nay khác nhau, đều là sự tổng
hòa của các nhóm di dân từ phương Bắc: Người Mường vốn là người Mon,
Man đến trước, chủ nhân của văn hóa Phùng Nguyên, Người Việt vốn là
người Lava, đến sau, chủ nhân của văn hóa Đông Sơn. Đó là một nhận thức
sai trái, lỗi thời phản lại Lịch sử của dân tộc. Bài viết này Tác giả phản bác
lại luận điểm sai trái của Tạ Đức, bằng việc dùng những di vật và hoa văn
xuất hiện từ thời đồ đá cũ do Tổ Tiên chúng ta sáng tạo để lại trong lòng đất,
do giới khảo cổ của ta khai quật trong các di chỉ ở lưu vực sông Hồng đem
lại là cùng dòng tư tưởng với phong tục tập quán của xã hội người Kinh
đương đại. Di vật và hoa văn là lời nói trung thực, khách quan nhất không
thể chối cãi được.
Tạ Đức, nhà Dân tộc học nghiên cứu độc lập, năm 1999 đã có sách “Nguồn gốc
và sự phát triển của kiến trúc biểu tượng và ngôn ngữ Đông Sơn” trên 400 trang khổ lớn
(Hội Dân Tộc học Việt Nam); sách giải mã những hiện vật văn hóa biểu tượng: Đông-
Tây, kim - cổ do vài nhà nghiên cứu trong nước, còn lại là các nhà nghiên cứu của thế
gới thực hiện. Những giải mã ấy đúng sai không ai biết, vì không quan hệ gì đến Việt
Nam. Theo mạch nguồn ấy, nay cũng từ những cứ liệu thông tin của một số tác giả khảo
cổ học phương Tây trong việc kết luận sai trái, thiếu trách nhiệm về Chủ nhân của nền
văn hóa Đông Sơn là không phải dân tộc Kinh của chúng ta. Tư tưởng ấy hòa nhập tư
tưởng Đồng hóa của thế lực phương Bắc được đưa lên Intnet, Tạ Đức truy cập xào xáo
lại (Nếu không xào xáo như thế thì Tạ Đức không có cuốn sách nào cả!), tạo nên
“Nguồn gốc người Việt- người Mường” 800 trang (N.x.b Trí thức 2014), sách vừa công
bố lập tức bị nhiều lời phản ứng gay gắt của giới học giả, trong đó có giới Dân tộc học.
Những luận điểm sai trái ấy trước đây cũng đã bị các học giả cự phách của nước ta kịch
liệt phê phán như G.S.Viện sĩ Phạm Huy Thông và G.S Hà Văn Tấn.
1
2. Bởi đây là vấn đề hệ trọng, không chỉ thuộc phạm trù nghiên cứu khoa học lịch
sử mà đụng chạm đến những vấn đề vô cùng thiêng liêng thuộc về vận mệnh lịch sử
nguồn gốc dân tộc và giống nòi của Tổ quốc, đất nước, lòng tự tôn về Tổ Tiên giống nòi
là Rồng- Tiên, đã được bao thế hệ hun đúc tạo nên bề dày Lịch sử; Không chỉ bằng lời
văn trong sử sách mà cả bằng cứ liệu khảo cổ do Tổ Tiên của chúng ta sáng tạo để lại
trong lòng đất với lời Di huấn “Ăn quả phải nhớ người trồng cây”, hoặc “Ăn cây nào
phải rào cây ấy” mà nhận thức đầy đủ về Lịch sử cội nguồn của dân tộc: qua hành văn
trong sử sách và di vật khảo cổ, nâng lên thành giá trị tổng hợp mới, khẳng định nguồn
cội của dân tộc Kinh chúng ta từ khởi thủy cho đến dương đại là một dòng trực hệ. Đó
mới là trách nhiệm của cháu con hiếu để với Tổ Tiên, ông bà giống nòi.
Từ thập kỉ 60 của thế kỉ XX trở đi, giới khảo cổ học của ta đã khai quật đưa lên
mặt bàn nền văn hóa sông Hồng, chỉ nói riêng vật hèm trống đồng đã làm cho một số
nhà khoa học uyên thâm, chân chính của thế giới phải thay đổi nhận thức. Nhà bác học
Pháp L.Bezacier có những hiểu biết sâu rộng về lịch sử văn minh Việt Nam, cuối đời,
năm 1972 khi hệ thống lại các công trình của mình, trong đó có bộ sách Giáo khoa về
khảo cổ học ở Viễn Đông, nhan đề: Việt Nam - Từ tiền sử đến cuối thời Trung Hoa chiếm
đóng cũng đã phải thốt lên lời chua chát rằng: Phương Tây sau gần một thế kỷ (giữa thế
kỷ XIX đến giữa thế kỷ XX) nghiên cứu, hoàn toàn không hiểu, không biết gì chắc chắn
cả về nguồn gốc của trống đồng, cũng như về công dụng và ý nghĩa của nó (1)
. Đến Giáo
sư H. H.E.Loofs-Wwiosowa người Australia, gốc Đức từng ở trong đội quân viễn chinh
Pháp có nhiều hiểu biết về văn hoá Việt Nam (1983), với thuyết Biểu chương vương
quyền (regalia) coi trống đồng là vật tượng trưng cho quyền lực hợp pháp. Ông cho rằng
có một quyền uy tôn giáo tồn tại ở bắc Việt Nam trong thời cổ, tương tự với quyền uy của
giáo hoàng phương Tây. Theo ông các Tù trưởng bộ lạc ở nhiều vùng Đông Nam Á đã cử
sứ bộ đến bắc Việt Nam để xin ban các trống đồng mà với chúng, họ có thể làm vua hợp
pháp (2)
. Còn trước đó, là Fr. Heger, học giả Đức gốc Áo, cố vấn của trường Viễn đông
Bác Cổ (EEEO), và Hội nghị nghiên cứu về Viễn Đông lần thứ nhất năm 1932 ở Hà Nội
(ảnh 1a). Trong công trình Những trống kim khí ở Đông Nam Á (1902): khi đó, với 165
chiếc trống đồng ở các bảo Tàng của châu Á, châu Âu và ở các sưu tập của tư gia, Heger
khảo tả chi tiết về các yếu tố kết cấu, hình dáng (cao, to, thắt eo) và vẽ lại hoa văn của
từng chiếc.Trên cơ sở đó, ông phân trống đồng làm bốn loại, ký hiệu I, II, III, IV và coi
trống đồng loại I ra đời đầu tiên ở miền Bắc Việt Nam (3)
.
Bởi lẽ, vật hèm trống đồng là đỉnh điểm của nền văn hóa Văn Lang, trong đó khởi
nguyên là vật hèm Ngọc Lũ: hoa văn tinh xảo kì bí, giàu sang quyền quý, kiệt tác có một
không hai của nhân loại, cho nên khi nói vật hèm (trống đồng) là nói về dân tộc Kinh Việt
Nam. Cho nên, các nhà khoa học tài năng, chân chính, đạt tầm kiến thức của các nước
mới phát biểu như thế; vì rằng hoa văn khởi thủy (ảnh 2a 2b ) và liên tục đến (ảnh 3a,
3b), hoặc di vật biểu tượng sinh thực khí – Nõ nường (ảnh 4 a 4b) Truyền nối đến thời
đương đại là cái cuốc chim và lưỡi cày bướm (ảnh 5a 5b) là một dòng tư tưởng.
Vậy một câu hỏi đặt ra. Tại sao Tạ Đức chấp nhận nền văn hóa sông Hồng là của
dân tộc Mã Lai và của người Thái rồi biến thái thành người Mường là là Mon, Man và
2
3. người Kinh là Lava còn vùng đất này là của người Dao? Đó là do tính dân tộc non kém,
thiếu vững vàng về tri thức, khi bị sa vào một phương pháp luận sai lầm của những nhà
nghiên cứu phương Tây thì Tạ Đức trượt dốc lao theo. Vì thế, để làm sáng rõ vấn đề này,
theo ý chúng tôi, ta cần tìm hiểu các công trình nghiên cứu về văn hóa Việt Nam của một
số nhà khảo cổ học phương Tây.
1. Những nhận định sai về nền văn hóa sông Hồng
Ngay từ khi những ý kiến sai trái của một số nhà khảo cổ học phương Tây đưa ra,
Viện sĩ Phạm Huy Thông đã từng kịch liệt phê phán trong nhiều tư liệu và ở đây rằng:
“Người phương Tây trong khi tiến hành công viêc khảo cổ ở Việt Nam, nhưng không hiểu
gì về thực địa của vùng ấy; lại càng không biết gì chắc chắn cả về lịch sử xã hội và nguồn
gốc của cư dân ở đó, cho nên những giả thuyết của họ đưa ra thường có vẻ có lý, nhưng
cũng đều chỉ có cơ sở chủ quan mong manh như thế cả(4)
.
Tiêu biểu cho tính “chủ quan mong manh” này là nhà khảo cổ học người Thụy
Điền OIov Janse trong cuốn “Việt Nam carrefour des peuples et de civilisations” é,
d.
France đã kết luận : “Về Việt Nam thì nền văn minh Đông Sơn hình như phần lớn của dân
nguyên thủy Mã Lai, và tầng văn minh về sau là của chủng tộc phần lớn nguồn gốcThái”.
Trong một số giai đoạn lịch sử người Đông Sơn có quan hệ gắn bó với các nước ở Viễn
Đông và các nước có nền văn hóa chính thống như Trung Quốc (Classic) (5)
.Lời nhận định
sai lầm của OIov Janse là nằm trong một số nhận định sai lầm khác của các nhà khảo cổ
của phương Tây nói về hoa văn vật hèm Thần Đồng (trống đồng) Đông Sơn, như Hainơ
Ghendéc thì khẳng định rằng đó là họa tiết phổ biến của đồ đồng châu Âu như văn hoá
Hanxtát ở bắc Âu và phong cách Hy Lạp "(6)
, còn Cacsgren thì cho từ nghệ thuật sông
Hoài của Trung Quốc đưa sang(7)
!
Sở dĩ có những sai lầm như thế là do, họ nghiên cứu văn hoá Đông Sơn mà theo
phương pháp đồng đạị, bỏ qua lịch đại của nền văn hoá ấy, lại mang nặng tư tưởng xem
thường cư dân thuộc địa, nên không thấy những di vật do Chủ nhân là Tổ Tiên chúng ta
sáng tạo mà cho từ văn hoá Hanxtát ở bắc Âu và phong cách Hy Lạp, hoặc từ nghệ thuật
sông Hoài của Trung Quốc đưa sang,
và dân tộc nguyên thủy Mã Lai v.v.
Nhưng căn cứ vào các di vật do ngành khảo cổ của ta đã khai quật được ở nhiều di
chỉ ở lưu vực sông Hồng được đánh giá có niên đạị rất sớm thì rõ ràng Tổ Tiên ta người
Kinh - Mường đã hình thành từ thời sơ khai là rất lâu dài.Tuy nhiên, do những điều kiện
đặc thù về lịch sử của nước ta - với những biến động quá lớn trong quá trình hình thành và
phát triển kinh tế xã hội, lại bị phương Bắc nô dịch hàng ngàn năm, mọi cứ liệu thư tịch,
hiện vật đều bị tàn phá, đập nát và xuyên tạc. Phải đến khi dân tộc ta giành lại được quyền
tự chủ, những bậc Tiên triết của chúng ta nhặt nhạnh từng mảnh vụn chắp nối lại thành
Nguồn gốc dân tộc của chúng ta từ Họ Hồng Bàng, sau đó dần dà chắp nối thêm. Cho
nên, ngày nay để tìm hiểu đánh giá nguồn gốc hình thành dân tộc, ngoài các tài liệu của
các bậc tiền bối sử gia để lại thì còn có yếu tố vô cùng quan trọng, đó là giải mã những
hiện vật của các thời kì lịch sử đã khai quật được mà tư tưởng của nó là cùng nguồn với
các tập quán, thói quen đã hình thành của các thế hệ người Kinh bằng zen di truyền tồn tại
3
4. đến ngày nay. Đó chính là nguồn Lịch sử chính xác nhất: di vật, hoa văn và tập quán là lời
nói trung thực, khách quan không thể chối cãi được.
Cũng phải thừa nhận rằng, có một số nhà khảo cổ học của phương Tây chân chính
đã để lại những dấu ấn đáng kính nể về khảo cổ học ở Việt Nam. Đến năm 1932, Trường
Viễn Đông Bác Cổ, trong đó có học giả Victor Goloubew và nữ học giả Madeleine
Colani, đã phát hiện di vật của thời đại đồ đá cũ(8)
, ở núi Bắc Sơn Thái Nguyên xuất hiện
5 đến 4 vạn năm (9)
và bà Madeleine Colani cho khai quật di chỉ Xóm Trại, Lạc Thủy,
Hòa Bính, nền nông nghiệp ra đời 10.0000 năm Tr. C.N, cách nền nông nghiệp Lưỡng
Hà khoảng 3.000 năm. Hội nghị quốc tế về Tiền sử Viễn Đông lần thứ I tại Hà Nội
(1932) công nhận (cứ liệu do Viện Bảo tàng Quốc gia Hà Nội cung cấp, kèm - ảnh 1a).
Nhưng OIov Janse không kết hợp, mà lấy hiện vật khảo cổ nằm trong ba, bốn thế kỉ
trước và sau C.N - với hiện vật chủ yểu của thời đại đồ đồng, đồ sắt, để khẳng định Chủ
nhân của nền văn minh Đông Sơn là dân tộc nguyên thủy Mã Lai và nền văn hóa tiếp theo
là của người Thái. Lời nhận định sai của OIov Janse, nhưng lại có sức nặng bởi sự “bảo
lãnh” của Viện Bảo tàng Quốc gia Pháp và Viện Bảo tàng Quốc gia Mỹ. Hai Viện Bảo
tàng ấy đã ủy thác cho ông nhiệm vụ khảo cổ ở Đông Dương và Đông Nam Á, tiến hành
từ tháng 10 năm 1934 – đến tháng 8 năm 1940. Sau đó OIov Janse sống ở Mỹ với tư cách
là Giáo sư danh dự, cán bộ Bảo tàng và hợp tác với UNESCO (10)
.
Trước đó, những năm cuối thập kỉ 40 của thế kỉ 20, OIov Janse từng thuyết giảng
truyền bá những nhận định ấy cho các Trường Đại học ở Sài Gòn, cho nên sách Lịch sử
tư tưởng Việt Nam của Nguyễn Đăng Thục (Sài Gòn 1963) dẫn lại nguyên xi ý kiến ấy.
Đến khi sang Mỹ, OIov Janse giảng ở các Trường Đại học của Mỹ, của Pháp. Mặc dù ý
kiến ấy sai, nhưng có sự “bảo lãnh” thì tất cả các nhà khoa học của châu Âu đều nghe và
dẫn lại, rồi xào xáo, gia cố và cụ thể hóa các chi tiết bằng việc thay đổi tên dân tộc Mã
Lai, chủ nhân của nền văn hóa Đông Sơn, thành dân tộc Mon, Man, Lava rồi Hồ Động
Đình nước Xích Qủy, Xuy Vưu, vua Kinh Dương Vương v.v, và đúc chiếc trống đồng
hai mặt như trống da (ảnh 1b), là do sau khi Mã Viện gọi loại vật hèm ấy của dân tộc
Kinh là trống đồng (đồng cổ) được ghi trong sách Hậu Hán thư. Đó là một từ mới. Cho
nên đến nay các từ điển Trung Quốc cổ điển giải thích từ điều “Đồng Cổ” như Từ
Nguyên đều dẫn đoạn văn Truyện Mã Viện (11)
. Vì thế, nó không thể có hàng mấy ngàn
năm trước Công Nguyên được như Tạ Đức nói, hoặc con cóc, thế giới gọi là con ếch.
Không xào xáo như thế thì họ không có sách. Đến nay phương tiện Internet trợ giúp thì
những xào xáo dựa theo nhận xét của OIov Janse nó như vật phẩm phong phú đặc sắc
trong “siêu thị” về văn hóa học, khảo cổ học, dân tộc học.Tạ Đức nhặt về “xào xáo”
thành món hàng hiếm quý Nguồn gốc người Việt- người Mường, “món hàng” mà hiện
nay mọi người ở nước ta đang háo hức muốn biết về Tổ Tiên của mình. Nhưng không
may cho độc giả là Tạ Đức nhặt phải “hàng rởm”, như chính tác giả tự công nhận, là
50% nguồn tư liệu tham khảo, lại khai thác từ internet (trang 15) - không nhặt thế thì
không có đầu sách này.
4
5. Ảnh 1a. Hội nghi Viễn Đông. Ảnh 1b. Trống đồng Xuy Vưu.
Về vật hèm (trống đồng) thì mỗi dân tộc trong thời tiền sử thường có một vật linh
biểu tượng quyền uy của vị đứng đầu một tôn giáo hoặc tù trưởng: Có tộc, vật linh là
chiếc gậy, có tộc, vật linh là chiếc mũ. Vật linh ấy nếu kèm theo một câu Thần chú thì tạo
nên sự linh nghiệm vô song như chiếc gậy, cái nón của Chử Đồng Tử–Tiên Dung (Việt
Nam). Về sau chiếc gậy, cái mũ ấy là cây Vương trượng và chiếc mũ Miện: Khi bị lột mũ
Miện, cất cây Vương trượng thì người đó không còn uy quyền gì nữa. Đó là giá trị của vật
linh biểu trưng Vương quyền. Đến thời cổ đại, khi có tổ chức Nhà nước, thì xuất hiện loại
vật linh Ấn tín của nhà vua, như Đỉnh đồng thời nhà Thương Trung Quốc và Thần Đồng-
Ngọc Lũ của vua Hùng Văn Lang. Đặc biệt hoa văn Thần Đồng-Ngọc Lũ từ thời chưa có
chữ viết, bằng những kí hiệu “mật mã” tạo nên hàm nghĩa bản Sử thi của dân tộc Kinh-
Văn Lang biểu đạt về khởi nguyên và tiến trình vòng đời của con người; Đồng thời qua
đó, mà hình dung về lịch sử hình thành và phát triển của dân tộc từ khởi thủy cho đến
ngày vua Hùng Tuyên bố thành lập nước Văn Lang- Tức là bản Tuyên ngôn trong ngày
thành lập nước (xem chú thích 21).
2. Bốn điểm sai của Tạ Đức
Những sai trái trong sách của Tạ Đức Trần Trọng Dương có bài viết trích dẫn
từng mục (Trang điện tử Văn hóa Nghệ An), bài viết này chúng tôi chỉ nêu khái quát
bốn điểm sai trái của Tạ Đức, rồi dẫn chứng bốn điểm về di vật và hoa văn khảo cổ của
địa vực sồng Hồng để chứng minh luận điểm sai của Tạ Đức như sau:
Điểm thứ nhất. Tạ Đức cho rằng : Người Việt và người Mường từ xưa đến nay
luôn là hai tộc người khác nhau và đều là sự tổng hòa các nhóm di dân từ phương Bắc.
Người Mường vốn là người Mon, Man hay Mân Việt, là di dân đường biển, đến trước,
chủ nhân của các văn hóa Phùng Nguyên, Đồng Đậu và Gò Mun. Người Việt vốn là
người Lava hay Lạc Việt, đến sau, là chủ nhân chính của văn hóa Đông Sơn (Tạ Đức,
Book Hun ter).
Nguyên điểm này Tạ Đức gần như đã phủ định những tài liệu Lịch sử của dân
tộc đã được hệ thống lại trong bốn tập sách Hùng Vương Dựng Nước- lại được chứng
minh bằng hệ thống Di vật khảo cổ do Tổ Tiên chúng ta dân tộc Kinh sáng tạo: Di vật
và hoa văn là “bộ sử” tuyệt đối chính xác; dấu ấn về bản sắc, tư tưởng và hành xử trong
phong tục tập quán của một dân tộc được xác lập ngay từ khởi thủy, thể hiện trong từng
di vật văn hóa hằng số chẵn (đôi và Tứ) hướng đầu sang bên phải. Đó là những “viên
gạch” đặt nền móng cho tầng văn minh đồ đồng Đông Sơn. Thế mà Tạ Đức cho “người
5
6. Lava hay Lạc Việt đến sau tạo ra, nền văn hóa Đông Sơn. Vậy họ là vị “thần Đèn”
chăng, chẳng cần thời gian chuẩn bị !
Điểm thứ hai. Tạ Đức cho Thánh Gióng chính là vị thần Trống Đồng-Thần
Chiến tranh-Thần Bảo hộ, một biểu tượng của Xuy Vưu-Xích Quỉ-Viêm Đế, Ông Tổ
huyền thoại của người Bách Việt; dẫn chứng một chiếc trống đồng đúc theo kiểu trống
da (ảnh 1b), lối đúc này chỉ được ra đời sau khi Mã Viện gọi vật hèm Ấn tín và báu vật
truyền ngôi của thời đại Hùng Vương là đồng cổ (trống đồng trong lần y đưa quân sang
Giao Chỉ đàn áp cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng (40-43 C.N).
Dân tộc ta chưa bao giờ coi Thánh Gióng là Thần trống đồng cả mà tôn vinh
trống đồng là vị Thần Đồng, từ thời Văn Lang, vua Hùng đã cho lập đền thờ Ngài trên
núi Khả Lao, huyện Yên Định -Thanh Hóa, đến nhà Lý có đền thờ vọng Ngài ở sau
chùa Thánh Thọ, nay là 353 đường Thụy Khuê, quận Tây Hồ, Hà Nội, vua Lý Thái
Tông (1028-1054) phong cho Ngài là Minh chủ Linh ứng Chiêu cảm Đại Vượng, cho
nên chỉ nước ta mới có đền thờ Ngài, còn bên Xuy Vưu, Xích Quỷ Viêm Đế làm gì có
đền thờ Ngài. Về đề tài này, trước đây Tạ Đức có bài Trống đồng một nhạc khí bằng
chứng rõ ràng. Sau khi dẫn cứ liệu đánh trống đồng của vùng Lưỡng Quãng (viết trống
đồng Việt Nam mà lấy tư liệu bên xứ Quảng), sau lại dẫn tiếp ở sách Đại Nam nhất
thống chí-mục Thanh hóa chí rằng: Ngày xưa vua Hùng đi đánh Chiêm Thành ban đêm
đóng quân ở núi Khả Lao nằm mộng thấy một vị Thần xin đánh trống đồng giúp vương
đánh thắng…(12)
Điểm sai ở đoạn trích dẫn này là Hùng Vương đi đánh Chiêm Thành,
nhưng nước Chiêm Thành mới có ở thế kỉ thứ VI. C.N(13)
. Chúng tôi phê phán điểm sai
ấy, nên N.x.b Thuận Hóa 2006 in Đại Nam nhất thống chí đã bỏ đoạn đó. Dẫn lại điểm
này để thấy Tạ Đức hễ thấy cứ liệu là dẫn lấy được, không cần biết đúng sai. Bản tính ấy
của Tạ Đức vẫn thể hiện trong “Nguồn gốc người Việt- người Mường”.
Điểm thứ ba. Tạ Đức cho thuật ngữ Giao Chỉ là đất của người Dao-tên đất là tên
người. Nghĩa Là vùng đất hiện nay chúng ta dang sinh sống theo Tạ Đức là đất của
người Dao (facebook Tạ Đức).
Thuật ngữ Giao Chỉ do người Trung Quốc đặt ra để gọi người Lạc Việt. Chữ
Giao (交) nghĩa là giao nhau, qua lại, kết hợp với nhau (lãnh địa gần kề với Trung
Quốc). Ý kiến quan trọng khác, chữ Giao trong Giao chỉ liên quan đến Giao Long là
một linh vật của vùng này mà sau này phổ biến rộng rãi hơn trong vùng được biết như là
con Rồng. Riêng chữ Chỉ không được giải nghĩa từ đầu (nghĩa của từ Chỉ sau tự suy
đoán rồi thống nhất.)
Vậy ở đây, phải chăng để hiểu thuật ngữ Giao Chỉ cần tìm về tư duy của người
Kinh là đôi, thể hiện trong các đôi biểu tượng văn hóa và đôi trong ngôn ngữ là từ “láy”.
Như: đi đứng, cây cối thì từ “đứng” và từ “cối” là không có nghĩa. Cho nên, khi người
Trung Quốc gọi lãnh thổ của dân tộc ta là “Giao” thì họ giải thích từ Giao còn “chỉ” là
từ láy thêm vào sau, hoặc sự kiện nhà Tây Hán (năm 110 Tr.C.N) đưa quân vượt núi
Ngũ Lĩnh chiếm vùng Lĩnh Nam, cả vùng đất rộng lớn này trong đó có đất Giao Chỉ (14)
nhà Hán thiết lập thành một Châu, trụ sở của Châu đặt ở Luy Lâu (Dâu) đất của Giao
Chỉ nên gọi là Giao Châu. Ở đây từ Giao là đủ nghĩa, không cần Giao Chỉ Châu.
6
7. Vậy Giao Chỉ thì Giao là “gi” nghĩa là gần kề, giao nhau, còn người Dao thì
Dao là (d trên) là như ca dao, vài câu thơ - nó không có nghĩa rộng, sâu sắc như Giao (g
dưới) là giao thoa, giao nhau, giao hữu v.v.
Điểm thứ tư. Những hiện vật và hoa vănTạ Đức dẫn trong “Nguồn gốc người
Việt- người Mường” là của các vùng người Việt hiện nay nằm ở phía Nam Trung Quốc:
Di vật mặt người (ảnh 2 a) và đồ ngọc Chiết Giang (ảnh 2b), thần thái của nó khác hẳn
hoàn toàn thần thái di vật và hoa văn ở vùng châu thổ sông Hồng, ngay chiếc rìu xéo
của vùng sông Hồng (ảnh 2c). Chiếc rìu xéo (ảnh 2c) Tạ Đức cho là của người Việt
vùng Chiết Giang, nhưng thần thái của nó khác xa hình mặt người (ảnh 2a) và đồ ngọc
(ảnh 2b) thì nó là cùng dòng với (ảnh 2e) của vùng châu thổ sông Hồng và hướng sang
bên phải. Loại rìu xéo ấy hiện tại cư dân ở vùng châu thổ sông Hông vẫn đang sử dụng
với các tên gọi như: mai, mống, vòi (15)
.
Ảnh 2a. Mặt người. Ảnh 2b. Đồ ngọc Chiết Giang . Ảnh 2c và 2e. Rìu sông Hồng
Thế mà Tạ Đức biện luận rằng: Con cháu của người Việt Hà Mẫu Độ là người
Việt Lương Chử, chủ nhân của văn hóa Lương Chử (3400-2250 TCN) ở Giang Tô
-Thượng Hải- Chiết Giang. Ba đồ ngọc tiêu biểu của văn hóa Lương Chử là rìu Việt,
ống Tông và đĩa Bích. Ống Tông và đĩa Bích chính là nguyên mẫu của Bánh Chưng-
Bánh Dày. Từ chỉ ống Tông và đĩa Bích trong tiếng Hoa có gốc từ hai từ chỉ Vuông-Dẹt
trong tiếng Việt Nam. Người Lương Chử đã có tục thờ Rồng-Chim, cội nguồn của hai
biểu tượng Lạc Long-Âu Cơ, của các khái niệm Con Lạc-cháu Hồng, con Rồng-cháu
Tiên ẩn chứa niềm tự hào sâu sa của người Việt (Book Hunter Club). Sai trái qúa đỗi,
khi Tạ Đức cho ống Tông đĩa Bích là nguyên mẫu của Bánh Chưng-Bánh Dày. Với lý
luận kiểu ấy thì chuyện Tấm Cám Tạ Đức sẽ cho chúng ta lấy của thế giới.
3. Nguồn gốc của các loại rìu
Chiếc rìu xéo là của người Kinh, nhưng trong thời kì người Hán đang hình thành
chữ viết, họ thấy chiếc rìu xéo (ảnh 3 a) mà tạo ra chữ việt (ảnh 3 b) rồi gọi tất cả các dân
tộc ở phia Nam sông Dương Tử là người Việt –Bách Việt. Vậy tên Việt ấy không dính líu
gì đến dân tộc Kinh chúng ta. Nhưng một số người phương Tây sau này nghiên cứu về
văn hóa vùng Nam sông Dương Tử lại cho chiếc rìu xéo ấy là của người Việt ở vùng ấy,
ngay các tác giả của ta cũng hùa theo dẫn lại nhận xét ấy, như Trần Quang Trân trong
sách Nghiên cứu Việt Nam thời tiền sử , dẫn tư liệu củaTrần Ngọc Thêm (16)
thì Tạ Đức
7
8. cũng theo đó mà lấy văn hóa của dân tộc Kinh chúng ta trao cho các dân tộc Việt ở vùng
Chiết Giang
Ảnh 3 a. . Ảnh 3b. .. Ảnh 3c
Sự ra đời chiếc rìu xéo là Tổ tiên ta còn cho biết nguồn gốc của nó. Đó là khi lội
xuống bùn đặc, nhắc chân lên thấy dấu chân trong ấy, cho nên người xưa đã tạo ra chiếc rìu như
dấu chân có hoa văn (ảnh 3 c) để làm kỉ niệm. Loại rìu xéo có hoa văn là không chặt bổ được vì
có 25% nguyên liệu chì –chì mềm điền đầy hoa văn. Còn loại rìu xéo để chặt bổ là có 20 % kim
loại thiếc - thiếc cứng và không có kim loại chì (xem chú 20).
Vậy, để đánh giá nguồn cứ liệu với những hiện vật biểu tượng mà Tạ Đức đã dẫn
là sai, là áp đặt cho nền văn hóa của dân tộc Kinh của chúng ta thì phải có một nguồn cứ
liệu đích thực, chắc chắn do Chủ nhân là Tổ Tiên của chúng ta - dân tộc Kinh (Việt) -
sáng tạo từ cuối thời đồ đá cũ sang đồ đá mới, đến đồ đồng và truyền nối đến thời đương
đại cả về hình dáng và tư tưởng của biểu tượng là một dòng. Đó mới là “Nguồn gốc của
người Việt-người Mường”. Hiện vật và hoa văn là lời nói khách quan trung thực nhất, chí
ít cũng từ cuối thời đại đồ đá cũ sang thời đại đồ đá mới, nhằm chứng minh cho sự sai trái
của Tạ Đức để độc giả lớp trẻ cảnh tỉnh về những nguồn thông tin “rởm” trong Nguồn
gốc người Việt-người Mường.
4. Vật biểu tượng khởi thủy và đương đại ở châu thổ sông Hồng là một dòng tư
tưởng
Cũng cần nói thêm về việc tôn vinh nơi SINH RA con người là của cả nhân loại,
nhưng riêng người phương Đông còn lấy đó làm bùa chú trừ đuổi tà ma, triệt tiêu hiểm
họa cho cộng đồng: Ấn Độ gọi là Linga Yony (17)
hóa thân thành thần Siva, vị thần đánh
đông, dẹp bắc diệt trừ cái ác, bảo vệ điều thiện cho con người (ảnh 4).
Ở Trung Quốc gọi là Sinh thực khí, trong Hán tự biểu tượng bằng chữ “tổ” ( )
trong chữ “tổ” có bộ thả ( ) nguyên ý là chỉ bộ phận sinh thực của nam giới (tượng
hình) (18)
. Song ở các nước đó chỉ thờ cúng hiện vật nơi sinh ra con người thôi, còn dân tộc
ta người Kinh gọi là Nõ nường, lấy đó làm cơ sở xây dưng nền tảng văn hóa tư tưởng của
dân tộc và xuất hiện rất sớm.: Ảnh dưới đây là chỗ sinh đẻ của người mẹ, gọi là hình “Oa”
(ảnh 5).
8
9. Ảnh 4. Thần Siva. Ảnh 5 : Hoa văn hình “Nường” (Oa) Phùng Nguyên và hình hài
nhi.
Hình “Oa” được biểu tượng thành giếng “Oa” làm vật linh thờ cúng, đặt dưới
gầm bàn thờ trong hậu cung của các ngôi đền – đình: ở Hà Nội là đền Cây Si, chùa Xã
Đàn (Đống Đa), đình Phú Gia (Từ Liêm), đình Tây Đằng (Ba Vì), đình Hồng Lô (Phú
Thọ) (19)
vv.. Giếng “Oa” là cơ sở tạo nên vật hèm Thần Đồng Ngọc Lũ hình người mẹ
thắt dáy lưng ong(20)
.
Việc ra đời vật hèm Thần Đồng- Ngọc Lũ là một hiện tượng "đột biến" của nền
văn hoá Sông Hồng đến giai đoạn văn minh Đông Sơn- Sự đột biến, nhưng là kết quả của
cả quá trình hình thành và phát triển nền văn hoá tư tưởng của dân tộc Kinh-Văn Lang cư
ngụ ở châu thổ sông Hồng. Vậy để có vật hèm Ngọc Lũ, Tổ Tiên chúng ta - dân tộc Kinh
- phải trải qua một quá trình chuẩn bị lâu dài, từ khởi thủy là hoa văn Núi Đọ Thanh Hóa
(ảnh 6 )- ở ảnh 6 này số lượng (cánh sao) chưa rõ.
Ảnh 6: nguồn Hoàng Xuân Chinh
Tiếp theo là hoa văn của Thanh Hóa giai đoạn cao hơn cùng với hoa văn ở Phùng
Nguyên Phú Thọ (ảnh 7 a, b, c ) hình a tìm thấy ở khu mộ Đông Sơn, các cánh chưa rõ,
nhưng đến hoa văn Phùng Nguyên hình b gần rõ 12 cánh và hình c là 14 cánh. Hình 14
cánh văn hoá Phùng Nguyên nó là cơ sở của hình 14 cánh trên hoa văn Thần Đồng Ngọc
Lũ (Hà Văn Tấn).
Ảnh 7 a,b,c.
Ảnh 7 a Nguồn của V.Gôlubép (V.Goloubew chân dung ở trang sau), ảnh 7 b và 7 c
Nguồn của Hà Văn Tấn, sách “Theo dấu các văn hoá cổ”, Nxb Khoa học xã hội, 1998-
hình 3 a trang 602, hình 3b trang 612 và hình c hình 34 trang 659.
9
10. Tiếp sau là các vùng văn hóa Đồng Đậu, Gò Mun mà đỉnh cao là nền văn hóa
Đông Sơn thì mạch nguồn Đông Sơn sẽ tỏa sáng cho nền văn hóa tiếp theo (xem chú 21).
5.Thời điểm xuất hiện văn hoá biểu tượng Nõ nường
5.1. Chứng tích
Chứng tích là đôi thỏi đá hóa thạch phom hình người (ảnh 8,a ) do Trường Viễn
Đông Bác Cổ phát hiện, trong đó có người Pháp gốc Nga Victor Goloubew (chân dung
a) và đôi bàn nghiền bằng đá ở các hang động Hòa Bình (ảnh 8,b) do Bà Madeleine
Colani ( chân dung b) và giới Khảo cổ Việt Nam phát hiện.
Victor Goloubew (internet) Madeleine Colani (internet)
Ảnh 8a . Đôi thỏi đá: Ảnh 8b . Đôi bàn nghiền bằng đá Bảo tàng.
Nguồn Trần Tiêu- Đăng Kỉnh. Ảnh của tác giả.
Tư tưởng văn hóa Nõ nường xuất hiện từ thời khởi thủy, truyền nối đến thờ
đương đại là cái cuốc chim (ảnh 9 a) và lưỡi cày bướm (ảnh 9b)..
10
11. Ảnh 9a. Cái cuốc chim: Ảnh 9 b: Lưỡi cày bướm:
Ảnh của tác giả Nguồn của Hà Văn Tấn
5.2. Ngôn ngữ
Đại từ nhân xưng thân tộc cũng gọi theo tên Nõ nường. Đứa bé sanh ra đặt tên:
Cò- Hĩm. Cha mẹ của đứa bé cũng gọi theo tên con là anh chị Cò, anh chi Hĩm, cụ già 80
tuổi có đứa cháu trai thì gọi là Cụ Chắt Cò. Thậm chí đến nơi cư trú, ngôi nhà cũng gọi là
ở “hẽm” nọ “hẽm” kia ; “hẽm” chuyển thành “hèm” trong tục hèm của lễ hội; “hèm” là
vật linh, bùa chú; hèm là từ khóa: kiêng dè, cấm kị húy. Cũng từ đó mà Hồ Xuân Hương
chuyển thành, Hẽm trống, Khe trạo, lạch đào nguyên.
5. 3. Biểu tượng văn hóa thuộc hằng số chẵn: 2, 4. 8.
Dân tộc ta quan niệm hằng số lẻ là số chết, nhất là số 3. Thể hiện ở câu ca: Chớ
đi ngày 7 chớ về ngày 3/ Đi chơi cũng lỗ huống là đi buôn. Cho nên lập mâm ngũ quả
và thắp hương 1 cây 3 cây là dùng cho người chết - Tổ tiên.
Còn lại mọi biểu tựng đều là 2, 4, 8 (đôi, tứ, tám): Đôi thỏi đá phom hình người
(ảnh 8a), đôi bàn nghiền bằng đá hình ba góc (ảnh 8b), truyền nối đến đương đại là cái
cuốc chim (ảnh 9a) lưỡi cày bướm (ảnh 9b), đôi chữ “S” (ảnh 10a) đôi rồng trên tang
Thần Đồng Ngọc Lũ (ảnh 10b); Hằng số 4. bốn người trên hoa văn Thần Đồng Ngọc Lũ
(ảnh 10c); Tứ linh, Tứ bình, Tứ quý, Tứ bất tử v.v. Hằng số 8, là 8 binh khí thờ ở đền
quan Võ (ảnh 10e).
Ảnh 10 a. đôi chữ S. Ảnh 10b đôi rồng. Ảnh 10c. 4 người 4 vật. Ảnh 10e . 8 binh
khí
11
12. Cỗ bàn trong đãi khách cũng tiến hành theo 2 món và 4 món. Sách Việt Nam
phong tục của Phan Kế Bính ghi: Cỗ mặn 2 món thit lợn và thịt bò. Cổ chay 4 món: Đĩa
mứt, đĩa mía, đĩa lạc luộc, đĩa trám (xem chú 20).
5. 4. Hướng vận hành vòng tròn ngược chiều kim đồng hồ
Người châu Âu và người phương Bắc đều vận hành vòng tròn theo chiều xuôi
kim đồng hồ và khi gọt vỏ trái cây họ đặt lưỡi dao quay vào. Còn người phương Nam
trung tâm là người Kinh vận hành vòng tròn theo chiều ngược kim đồng hồ, nên gọt vỏ
trái cây đặt lưỡi dao quay ra. Tinh thần đó của người Kinh xuất hiện từ khởi thủy, như
đôi thỏi đá hướng sang bên phải (ảnh 3) và đôi chữ “S” cũng thế. Đến thời đồ đồng
được ghi lại trên hoa văn Thần Đồng tiêu biểu là Thần Đồng (trống đồng) Ngọc Lũ rồi
truyền nối đến thời đương đại. Đó là vận hành trong lễ hội, hoặc xay lúa, dần sàng gạo,
xoay bàn làm đồ gốm, đi thể dục quanh bờ hồ. v.v. Tâm thức vận hành vòng tròn ngược
chiều kim đồng hồ đã thấm vào máu thành zen di truyền. Khi đứng dậy đi, là chân phải
bước trước. Điều ấy bắt đầu từ thuở bé mới tập đi, không ai dạy. Qua hiện tượng ấy, để
thấy zen di truyền là đặc điểm về bản sắc của một dân tộc.
Một chuyện vui các cụ kể lại. Thời Pháp, lính Khố đỏ tập đi đều. Người Pháp
bước chân trái trước, nhưng lính người Kinh nghe hô đi đều bước, thì đưa chân phải
trước. Người Pháp phải cho buộc cái lá chuối bên chân trái. Hô đi đều –lá chuối, mãi
mới tập được –bước chân trái trước. Nhưng con của người lính ấy mẹ nó sinh ra nó vẫn
theo máu di truyền của dân tộc bước chân phải trước. Kể dài dòng để nói người Kinh từ
khởi thủy đến đương đại là một dòng.
Biểu tượng Hình mặt người (ảnh 2a) và Đồ ngọc (ảnh 2b ) của người Ngô Việt
vùng Lương Chử Chiết Giang thì thần thái và hoa văn không giống thần thái hoa văn đôi
chim trên nóc nhà sàn châu thổ sông Hồng (ảnh 11a) và Đồ ngọc (ảnh 11b) Đồ gốm
(ảnh 11c), Đôi rắn quấn nhau nuốt voi (ảnh 11 e) .
Ảnh 11a. Đôi chim. Đồ ngọc.Ảnh 11 b. Ảnh 11c. Đồ gốm. Ảnh 11e. Đôi rắn quấn nhau.
Những hiện vật biểu tượng của nền văn hóa sông Hồng chúng tôi trích dẫn ở bài
viết này thì thần thái của những biểu tượng ấy khác hoàn toàn thần thái trong biểu tượng
12
13. của Tạ Đức dẫn ở Nguồn gốc người Việt- người Mường.
6. Nhận xét các biểu tượng đã dẫn
Ý thức, tình cảm chỉ đạo hành vi. Đó là người Kinh lấy hiện vật nơi SINH RA
con người đặt làm nền tảng cho việc xây dựng nền văn hóa tư tưởng của dân tộc (không
có dân tộc nào làm như thế), cho nên hiện vật biểu tượng ở địa vực sông Hồng xuất hiện
từ 5 đến 4 vạn năm đều biểu tượng Nõ nường: đôi thỏi đá phom hình người- đôi bàn
nghiền bằng đá hình ba góc vẫn truyền nối đến thời đương đại ở trong đời sống của
người Việt (Kinh) là cái cuốc chim và lưỡi cày bướm. Về hính dáng và thần thái của
biểu tượng nó hoàn toàn khác hiện vật biểu tượng văn hóa của cư dân người Bách Việt ở
phia Tây Nam của Trung Quốc.
Về nguồn Zen di truyền là tư tưởng vận hành vòng tròn ngược chiều kim đồng
hồ khi dừng lại là hướng sang bên phải có từ đôi thỏi đá hóa thạch phom hình người
(ảnh 8 a) và đôi chữ “S” (ảnh 10 a) Truyền nối trong đời sống: xay lúa, dần sàng gạo,
bàn nghiền làm đồ gốm cổ và đi tập thể dục trên bờ hồ đều theo chiều ngược kim đồng
hồ, điều đặc biệt là đứa trẻ mới tập đi thì chân phải bước trước- nguồn Zen di truyền thật
là điều huyền bí.. Đã tạo bản sắc của dân tộc Kinh ở Việt Nam. Phong tục, tập quán diễn
ra hàng ngày quá đơn giản, nhỏ nhặt nhưng khi tập hợp lại nâng lên thành giá trị tổng
hợp mới. Đó là ý thức, tình cảm tạo nên hành vi.
Chúng ta, hậu duệ của dân tộc Kinh, phải bảo vệ Tổ Tiên nòi giống của mình.
Không nên nghe số người nói sai để có sách, nếu họ không nói sai bằng việc xào xáo cái
sai ban đầu của OIov Janse thì họ không có cuốn sách nào cả. Hai cuốn sách lớn của Tạ
Đức chỉ có công tập hợp tư liệu của các tác giả nước ngoài qua Intnet: sách trước là giải
mã hầu hết các biểu tượng của các nước, cho nên sai đúng mình không biết, nhưng sách
sau là nguồn tư liệu sai khi nói về Nguồn gốc người Việt-người Mường.
Bởi lẽ ý nghĩa của các công cụ, đồ vật và hiện vật biểu tượng văn hóa ở địa vực
sông Hồng do Tổ Tiên của chúng ta sáng tạo thì ý niệm được truyền nối trong tiềm thức,
ăn sâu vào cõi vô thức của từng thế hệ. Như biểu tượng “Đôi rắn quấn nhau nuốt voi”
(ảnh 11e) thì chúng ta mới hiểu ý nghĩa còn người ngoài làm sao giải mã được. Đôi rắn
cuốn nhau là biểu tượng dây Tơ hồng- dây Tơ hồng là hình ảnh của đôi vợ Chồng:
Thuận vợ thuận chồng tát bề đông cũng cạn, hồ nuốt con voi thì thấm vào đâu. Biểu
tượng ra đời nhằm trấn an, ở thời Tổ Tiên chúng ta kiếm sống trong rừng, phải có tính
cộng đồng thì sẽ giết được loài ác thú hại người.
Như vậy, việc nhận thức về nguồn gốc người Việt người Mường là cả một hệ
thống cấu trúc gồm bốn yếu tố: Một là sử sách; Hai là ngôn ngữ; Ba là tập tục; Bốn là di
vật. Trong đó di vật xuất hiện từ thời đồ đá cũ truyền nối đến đương đại là là một dòng
tư tưởng- Tức là hiện vật Nõ nường và cái cuốc chim –lưỡi cày bướm (ảnh 8 a,b).
Kết luận: Văn hóa Ấn Độ là kiến trúc đền đài điện ngọc cao sang, văn hóa
Trung Hoa là chữ nghĩa giả sử - sử sách tàng thư, văn hóa Việt Nam là biểu tượng sâu
xa thâm thúy minh triết.
13
14. Bài viết này đáng lẽ phải có từ năm 2014, nhưng chúng tôi bận hoàn thành sách
Giải mã biểu tượng văn hóa Nỏ Nường nên nay mới có.
Tư liêu tham khảo và trích dẫn
1. Dẫn theo Phạm Huy Thông Lời giới thiệu sách Dong Son Drums in Việt Nam, Viện
khoa học xã hội Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội 1998, tr274.
2. H.H.E Looc—Wiosowa. The distribủrion of Dong Son drums :somes thoughts in
Peter Snoy (cd) Ethnologie und Geshiete (Sự phân bố của trống Đông Sơn : vài suy
nghĩ) Trong Perter ( chủ biên) “ Dân tộc học và lịch sử ” Wicsbaden 1983 tr 410-417.
Dẫn theo Lịch sử tư tưởng Việt Nam .
.
3. P.Heger, Những trống kim khí ở Đông Nam Á (chữ Đức) Laixich, 1902, bản sao lưu tại
Viện bảo Tàng lịch sử Việt Nam, Tiến sĩ Ngô Thế Phong cung cấp.
4. Phạm Huy Thông, Lời giới thiệu sách Dong Son Drums in Việt Nam,N.x.b Khoa học xã
hội Hà Nội 1998 tr 274.
5. R.Hainơ Ghenđéc (R Hecine Geldern): Vấn đề người Tokhara và cuộc thiên di từ biển
Đen (chữ Dức)- .Thế kỷ, 1951, tập 2 tr 233- 244, dẫn theo Hà Văn Tấn Theo dấu các văn
hoá cổ s.đ.d. tr 566..
6. B. Cácgren ( B. Kagren ) Niên đại của văn hoá Đông Sơn sớm (chữ Anh )-Tạp chí Bảo tàng
cổ vật Viễn Đông , số 14 Xốckhôn. 1942 tr 8, dẫn theo Hà Văn Tấn Theo dấu các văn hoá cổ
s.đ.d.tr 641...
7..Lịch sử tư tưởng Việt Nam Viện Khoa Học Xã Hội Việt Nam Viện Triết học,
N.x.b.K.H.X.H Hà Nội 1993 tr 38-40.
8.
Bảo tàng lịch sử Quốc gia Hà Nội ghi tại nơi trưng bày hiện vật văn hóa thời đồ đá cũ
Di chỉ núi Bắc Sơn Thái Nguyên.
9.OIov Janse, Bí mật của cây đèn hình người, Bảo tàng Lịch sử Việt Nam 200tr 2.
10. Phạm Việp, Hậu Hán thư, bản chữ Hán (ký hiệu H.T.V-51) mục truyện Mã Viện 8 (10)
Thư viện Viện Sử học Việt Nam 38 Hàng Chuối Hà Nội.
11.Nguyễn Duy Hinh, Trống đồng quốc bảo Việt Nam N.x.b Khoa học xã hội 2001tr 18.
12 . Kỉ yếu Hội thảo khoa học Trống đồng với văn hóa Việt Nam Trung tâm Văn hóa
người Cao tuổi Việt Nam Hà Nội tháng 12/ 2008, tr 72.
13. Văn hóa Chăm,N.x.b Khoa học xã hội T.P.H.C.M. 1992, tr 14.
14. Đại Việt sử kí toàn thư N.x.b. Văn hóa T.T. 2003 Tập 1 tr 210.
15. Diệp Đình Hoa, Người Việt vùng đồng bằng Bắc bộ, N,x.b Khoa học xã hội Hà Nội
2000, tr 38
16. Trần Quang Trân , Nghiên cứu về Việt Nam trước Công Nguyên N.xb Thanh niên
2001, tr 25-30
17.Kiều Ngọc dịch, Tập tục dâ gian và ý nghĩa tượng trưng của hoa sen,Tạp chí Văn hóa
Nghệ thuật số 1 /1994, tr 24-27.
14
15. 18.Trần Chí Lương (Trung Quốc), Đối thoại với Tiên triết về văn hoá phương Đông thế
kỉ XXI, N.x.b Đại học quốc gia Hà Nội 1999 tr 49.
19. Nguyễn Ngọc Chương, Trầu cau Việt điện thư, N.x.b T.P.H.C.M 1997, tr 170.
20. Dương Đình Minh Sơn Văn hóa Nõ Nường N.x.b. Kkoa học xã hội 2008.
15