Xung quanh sự kiện vua Mạc Đăng Dung thần phục nhà Minh năm 1540, một số nhà nghiên cứu đã phê phán, nhận xét, theo nếp cũ để kết tội nặng hoặc giảm tội cho Mạc Đăng Dung. Chúng tôi chứng minh rằng, Mạc Đăng Dung không những không có tội mà còn có công lớn đối với đất nước.
Theo dòng lịch sử, trải qua biết bao biến cố xã hội đó là sự đổi thay của Thăng Long, của Hà Nội, song song với nó là tên tuổi của các danh nhân dể lại ngàn tiếng thơm cho con cháu mai sau ...
Chuyên cung cấp dịch vụ và giải pháp VOIP, đầu số hotline 1800 và 1900 cho doanh nghiệp
TIME TRUE LIFE TECHNOLOGY JOINT STOCK COMPANY
Mr Long
Mobi: 0986883886 - 0905710588
Email: long.npb@ttlcorp.vn
Website: ttlcorp.vn
Theo dòng lịch sử, trải qua biết bao biến cố xã hội đó là sự đổi thay của Thăng Long, của Hà Nội, song song với nó là tên tuổi của các danh nhân dể lại ngàn tiếng thơm cho con cháu mai sau ...
Chuyên cung cấp dịch vụ và giải pháp VOIP, đầu số hotline 1800 và 1900 cho doanh nghiệp
TIME TRUE LIFE TECHNOLOGY JOINT STOCK COMPANY
Mr Long
Mobi: 0986883886 - 0905710588
Email: long.npb@ttlcorp.vn
Website: ttlcorp.vn
Lễ hội Trò Trám là tên của địa phương, giới khoa học gọi là Lễ hội phồn thực, chúng tôi gọi là Lễ hội trò nhại Nõ Nường, nó là dòng Lễ hội vòng đời “hèm tục” phổ biến khắp vùng Đông Nam Á cổ, nhưng đã bị thất truyền từ giữa đầu thế kỷ XX do cuộc chiến tranh của Nhật ở vùng này.
Bài viết về Giám đốc Nhà hát Kịch Việt Nam Nguyễn Thế Vinh, người đã lãnh đạo "Anh cả đỏ" của nghệ thuật kịch Việt Nam suốt 5 năm đạt nhiều kết quả tốt đẹp.
Chính phủ vừa ban hành Nghị định số 109/2017/NĐ-CP quy định về bảo vệ và quản lý Di sản văn hóa và thiên nhiên thế giới ở Việt Nam. Có hiệu lực thi hành từ ngày 10.11.2017, với 4 chương, 24 điều,.
Tạp chí Văn hóa Nghệ An đăng bài “12 luận điểm chính trong một cuốn sách mới về trống đồng Đông Sơn” của tác giả Tạ Đức, với lời của tác giả: hi vọng gợi ra những ý kiến trao đổi, phản biện. Nhưng không như sách Nguồn gốc người Việt –người Mường mà nói sai thì do lòng tự tôn dân tộc cho nên sách ấy bị nhiều người phản ứng. Còn sách nói về trống đồng này có thể nhiều người ủng hộ,
Bài viết về Thanh Hương, nguyên Phó Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa, Giáo dục, Thanh thiếu niên, Nhi đồng của Quố Hội, nhà viết kịch và một phụ nữ can trường.
Tiểu thuyết của Phạm Việt Long phản ánh một giai đoạn chuyển mình của đất nước từ bao cấp sang kinh tế thị trường. Tác phẩm được vào vòng Chung khảo cuộc thi Tiểu thuyết Việt Nam lần thứ 3 do Hội Nhà văn tổ chức.
Tiểu thuyết của Phạm Việt Long. Đoạt giải B (không có giải A) của Ủy ban toàn quốc Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật Việt Nam năm 1999 dành cho văn xuôi. Xuất bản lần đầu: NXB Thanh niên - 1999. Tái bản lần 1,2 3 - NXB Văn học. Tái bản lần thứ tư - năm 2013 - NXB Dân trí. Đã chuyển thể thành phim truyền hình 4 tập NHẬT KÝ CHIẾN TRƯỜNG.
Phản ánh hoạt động của nhà báo chiến trường và nhân dân miền Trung Trung bộ giai đoạn 1968 - 1975..
Tiểu thuyết của Phạm Việt Long. Đoạt giải B (không có giải A) của Ủy ban toàn quốc Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật Việt Nam năm 1999 dành cho văn xuôi. Xuất bản lần đầu: NXB Thanh niên - 1999. Tái bản lần 1,2 3 - NXB Văn học. Tái bản lần thứ tư - năm 2013 - NXB Dân trí. Đã chuyển thể thành phim truyền hình 4 tập NHẬT KÝ CHIẾN TRƯỜNG.
Phản ánh hoạt động của nhà báo chiến trường và nhân dân miền Trung Trung bộ giai đoạn 1968 - 1975..
Tiểu thuyết của Phạm Việt Long. Đoạt giải B (không có giải A) của Ủy ban toàn quốc Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật Việt Nam năm 1999 dành cho văn xuôi. Xuất bản lần đầu: NXB Thanh niên - 1999. Tái bản lần 1,2 3 - NXB Văn học. Tái bản lần thứ tư - năm 2013 - NXB Dân trí. Đã chuyển thể thành phim truyền hình 4 tập NHẬT KÝ CHIẾN TRƯỜNG.
Phản ánh hoạt động của nhà báo chiến trường và nhân dân miền Trung Trung bộ giai đoạn 1968 - 1975..
HƯƠNG ƯỚC HÀ NỘI - MỘT DI SẢN VĂN HOÁ - Trương Sỹ HùngPham Long
Nghiên cứu hương ước của Hà Nội trước cách mạng tháng Tám năm 1945 cũng là dịp khơi nguồn văn hóa truyền thống, giúp cho người quan tâm đến lĩnh vực quan trọng này tiếp xúc trực tiếp với văn bản mà “gạn đục khơi trong”và từ đây có thể rút ra những điều cần thiết cho việc xây dựng những bản quy ước văn hóa mới cho mỗi xã, phường, thị trấn .
Người Đà Lạt rất năng động, họ không chỉ học theo mà còn sáng tạo làm theo cách của mình như tìm kiếm những loại giống cây mới, lạ, chất lượng như cà chua đen, ớt sừng bò, ớt chuông, dưa hấu Mỹ, bầu bí khổng lồ,… và đều thắng lớn. Những gia đình năng động đó có thu nhập không dưới 500 triệu đồng/ha/năm.
Tranh thiếu nhi về vhgt năm 2016 được giảiPham Long
Ban Tổ chức cuộc thi Thiếu nhi vẽ tranh về chủ đề văn hóa giao thông vừa công bố danh sách 68 tác phẩm đoạt giải của cuộc thi này. Được khởi xướng từ năm 2011, với sự tham gia của Ủy ban An toàn giao thông Quốc gia, Trung tâm Nghiên cứu bảo tồn và phát huy văn hóa dân tộc Việt Nam Cục Mỹ thuật (Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch), cuộc thi vẽ tranh này đã qua nhiều cuộc trao giải và triển lãm tranh, thu hút hàng vạn thiếu nhi cả nước tham gia.
Trên cơ sở giữ gìn và phát huy giá trị văn hoá truyền thống của dân tộc, Lễ hội Đền thờ Bát Hải Long Vương năm 2016 là một sân chơi đầy thú vị và thể hiện tín ngưỡng của người dân phường Phú Sơn.
Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt NamPham Long
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy “Văn hoá cũng là một mặt trận”. Chính vì vậy trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình Người đã sử dụng khá nhiều bài viết bằng các thể loại thơ để hƣớng dẫn, chỉ bảo và động viên mọi tầng lớp nhân dân cùng đoàn kết đấu tranh trong công cuộc giải phóng dân tộc và xây dựng đất nƣớc, trong đó có nhiều bài được viết bằng thể thơ Đường luật.
Sau này, tôi dự thính hai khóa sau đại học, các G.S dạy văn hóa Việt Nam, tôi thấy không mấy thầy dạy sâu sắc và truyền cảm như vị Thầy đầu tiên của tôi.
1. 1
THÁI TỔ MẠC ĐĂNG DUNG ĐẨY LÙI CUỘC XÂM LƯỢC
CỦA 22 VẠN QUÂN MINH, TRÁNH CHO ĐẤT NƯỚC
KHỎI THẢM HỌA CHIẾN TRANH NĂM 1540
GS.TSKH Phan Đăng Nhật
Xung quanh sự kiện vua Mạc Đăng Dung thần phục nhà Minh năm 1540, một
số nhà nghiên cứu đã phê phán, nhận xét, theo nếp cũ để kết tội nặng hoặc giảm tội
cho Mạc Đăng Dung. Chúng tôi chứng minh rằng, Mạc Đăng Dung không những
không có tội mà còn có công lớn đối với đất nước; với các ý kiến như sau đây:
- Phong kiến nhà Lê đã ra sức cầu viện nhà Minh.
- Sau nhiều đợt thảo luận kéo dài, vua Minh quyết đánh nước ta, mọi việc đã
sẵn sàng.
- Trong tình thế đó Mạc Đăng Dung đã vận dụng một chiến lược tổng hợp
thông minh, khéo léo, vừa thần phục vừa chuẩn bị chiến đấu, “thần phục giả vờ,
độc lập thật sự” (Trần Quốc Vượng), dâng đất khống. Kết quả là tránh được cho
đất nước một cuộc xâm lược của 22 vạn quân Minh.
2. 2
4.1. Một cuộc xâm lược khủng khiếp đang kề cổ
Phong kiến nhà Lê đã nhiều lần liên tục cho người đi cầu cứu nhà Minh đem
quân sang đánh ta. Với danh nghĩa là đánh Mạc, nhà Minh sẽ thừa cơ tàn sát tiêu
diệt luôn cả nước Việt. Đây là một mục đíchtruyền đời của phong kiến phương Bắc.
Nhà Lê thừa biết điều này, nhưng vì quyền lợi ích kỷ của vương quyền, vẫn cứ ra
sức van nài nhà Minh. “Nhà Mạc muốn tránh nguy hiểm trong cuộc đụng độ với nhà
Minh. Tuy nhiên, nguy cơ chiến tranh ngày càng thúc bách, một phần bởi những
mưu đồ thù địch của một số bề tôi trung thành với nhà Lê”1.
Rất nhiều lần phái đoàn vua Lê hoặc bề tôi cũ của nhà Lê đi sang Trung Quốc
để tố cáo nhà Mạc, kích động chiến tranh của nhà Minh. Riêng năm 1537 liên tiếp
có 3 lần (kể cả trường hợp Vũ Văn Uyên):
- “Năm 1529, Trịnh Ngung, bề tôi cũ của nhà Lê đã sang Trung Quốc để
tố cáo việc cướp ngôi của Mạc Đăng Dung”2.
- “Ngay sau khi trung hưng triều Lê, năm 1533, Trịnh Duy Liêu liền được cử
đi Trung Quốc để tiếp tục tố cáo việc cướp ngôi của Mạc Đăng Dung”3.
- “Ngày3 tháng2 năm Gia Tĩnhthứ16 (13- 3 - 1537), cháudòngđíchcủavuaAn
Nam tên là Lê Ninh (TrangTông)saingườitrong nước là bọnTrịnh Duy Liêu gồm10
người đến kinh đô xin hưng binh hỏi tội để cứu nguy nạn nước”4.
- “Tháng 6 năm 1537, phái bộ của Trịnh Duy Liêu do triều đình Lê phái sang
Yên Kinh”5.
- “Ngày 6 tháng 9 năm Gia Tĩnh thứ 16 (9 - 10 - 1537). Trước đó người Giao
chỉ Vũ Văn Uyên mang đồng đảng đến hàng... Văn Uyên có 10.000 quân, đợi thiên
binh xuống phía Nam, sai cháu là Vũ Tử Lăng đóng tại cửa ải Thạch Lang để nhập
theo”6.
Tóm lại, âm mưu của phong kiến nhà Lê “cõng rắn”, “rước voi” rất dai dẳng,
quyết liệt. Hơn nữa, không những chỉ van xin, mà còn ra sức tạo điều kiện vật chất,
cụ thể để quân Minh nhanh chóng và thuận lợi kéo sang đánh ta.
1 Đinh Khắc Thuân: Lịch sử triều Mạc... Nxb Khoa học Xã hội H, 2001, tr. 73.
2 Đinh Khắc Thuân: Lịch sử triều Mạc... Nxb Khoa học Xã hội H, 2001, tr. 73.
3 Đinh Khắc Thuân: Lịch sử triều Mạc... Nxb Khoa học Xã hội H, 2001, tr. 74.
4 Minh thực luc, v.80, t.4156 - 4157; Thế Tông q.197; t.1b-2a. Tư liệu Minh Thực Lục trong bài này được dẫn theo
hai tài liệu:
- Minh thực lục,quanhệ Trung Quốc -Viêt Namthế kỷ XIV -XVII, tập 3, Dịch và chú thích:Hồ Bạch thảo; hiệu đính và
bổ chú:PhạmHoàng Quân; PGS. TS. Nguyễn Minh Tường biên tậpnộidung,Nxb Hà Nội, 2010.
- Việt sử: tư liệu cùng lời bàn, quyển hạ, Hồ Bạch Thảo, Thư ấn quán, 2009. (Tư liệu do Chu Xuân Giao cung cấp).
5 Đinh Khắc Thuân: Lịch sử triều Mạc... Sđd tr.76.
6 Minh Thực Lục, v.80, t.4262; Thế Tông q.204, trang1b (Tiếp dẫn).
3. 3
4.2.Vận mệnh của đất nước nghìn cân treo sợi tóc
- Ý chí quyết xâm lược của nhà Minh:
Vua Minh ThếTôngcửThượngthưMao Bá Ônđichinh thảo. Trước khiMao Bá
Ôn đi đánh cướp nước ta, vua Minh tặng một bài thơ, đầy khí chất hách dịch. Ông coi
Mao Bá Ôn là kỳ lân, dân ta là kiến cỏ, đồng thờikhẳng định nhất định thắng, hẹn trở
về vua đích thân cởi áo bào cho Mao.
Đại tướng nam chinh khẳng khái sao
Lưng đeo sáng quắc Nhạn Linh đao
Gió lay trống trận, sơn hà chuyển
Chớp nhoáng cờ đồn, nhật nguyệt cao
Trời thẳm kỳ lân sinh giống sẵn
Hang sâu kiến cỏ trốn đàng nào?
Thái bình khi chiếu đòi về nước
Trẫm cởi giùm ông chiếc chiến bào7
Phụ hoạ cho khẩu khí đó, Mao Bá Ôn làm bài thơ vịnh bèo, coikhinh lực lượng
của nước ta như cánh bèo:
... Bèo đã không gốc rễ, không có lá, không có cả cành
Tuy rằng họp lại đấy nhưng tan rã cũng rất nhanh
Chỉ một trận gió là tan tác
Nếu lại gặp phải khi trời xấu, bão gió
Thì quét một trận là ra hồ, ra bể không ai còn thấy vết tích nữa”8.
Trạng nguyên Giáp Hải, hoạ lại9 thơ của Mao Bá Ôn, nêu cao sức mạnh và khí phách
của người Việt, trong đó có câu:
... Ngọn sóng dù lớn đến đâu cũng không phá nổi
Gió bão dù lớn tới đâu cũng không làm chìm nổi bèo”10.
7 Phạm Văn Sơn: Mạc Đăng Dung, trong sách Việt sử tân yên, quyển số 3, Sài Gòn, 159, tr.18-45.
8 Mao Bá Ôn: chuyển dẫntheoHoàng Lê,
Thử tìm hiểu việc bang giao của vương triều Mạc, trong sách Nhà Mạc và dòng họ Mạc trong lịch sử, Hội đồng lịch sử Thành
phố Hải Phòng, H, 1996, tr,124.
9 Thơ của Mao Bá Ôn và Giáp Hải: Trạng Nghè cống,Sở văn hoá - Thông tin Hà Bắc, xuất bản năm 1984. Chuyển
dẫn qua Hợp biên thế phả họ Mạc, Nxb Văn hoá dân tộc,H, 2007, tr.84.
10 Thử tìm hiểu việc bang giao..., Sách vừa dẫn, tr. 125.
4. 4
- Huy động quân đội và dân binh:
“Tháng 7 năm Gia Tĩnh 19, Hàm ninh hầu Cừu Loan và thượng thư bộ binh
Mao Bá Ôn đến Lưỡng Quảng và Vân Nam để kiểm tra việc chuẩn bị hậu cần, cùng
độingũ quân lính dự định cho cuộc chinh phạt phương Nam. Cừu Loan đã chuẩn bị
kế hoạch tác chiến như sau: “Chia chính binh ra làm ba đội tiễu binh, từ Quảng Tây
đi các xứ Bằng Tường, Long Châu và Tư Minh... Kể cả chính binh và kỳ binh là 22
vạn người” (Cương mục, tập 2, tr.114).
4.3. Các ý kiến khác nhau phía nhà Minh về việc đánh “An Nam”
Quyết tâm của vua Minh (tóm tắt) Ý kiến của quần thần (tóm tắt)
-16-11-1536.“Thiên tửphán: AnNam
chiếu sứ không thông, lại từ lâu không
đếncống, phản nghịch đãrõ ràng, hãy sai
sứ đến ngay hỏi tội. Việc chinh phạt sai
bộ binh bàn định gấp rồi tâu lên” (Minh
Thực Lục, Thế Tôngq.193).
- 7 - 12 - 1536.Bộ binhtâu: Cửmột quan
võ đại thần sung chức tổng binh. Cử một
quan văn đại thần cùng bàn bạc với tổng
binh. Sắc cho các xứ Phủ, Án cùng tướng
lãnh để chỉnh đốn quân binh (Minh thực
Lục, Thế Tông, q. 193).
-12-1-1537.Tảthị lang bộhộ, Đường Trụ
nêu 7 điều can gián. Trong đó, nhấn mạnh
đánh không được gì “quân đội chôn vùi, uy
danh thương tổn”, tình hình Trung Quốc
hiện thiếu thốn nhiều mặt (Minh Thực Lục,
Thế Tông, q.195).
- 13 - 3 - 1537. Trịnh Duy Liêu đến
kinh đô tâu, xin “hưng binh hỏi tội để
cứu nguy nạn nước”(Minh ThựcLục,
Thế Tông. q. 197).
- 20 - 5 - 1537. Theo lời tâu của Trịnh
Duy Liêu, hai bộ Lễ và bộ Binh tuyên
bố, Mạc Đăng Dung có 10 tội, không thể
khoan dung mà không đánh. (Minh thực
Lục, Thế Tông, q. 199).
5. 5
- 20 - 5 - 1537. Thiên tử phán: An
Nam từ lâu không đến cống tại sân
đình, theo phép đáng hỏi tội. Nay
nước này tâu rằng, nghịch thần Mạc
Đăng Dung soán đoạt... tiếm xưng
danh hiệu, tội ác rõ ràng, mệnh tướng
xuất sư chinh thảo” (Minh Thực Lục,
Thế Tông q. 199).
- 21 - 5 - 1537. Bộ Binh trình 11 điều,
cụ thể hoá việc đi đánh (Minh thực Lục,.
Thế Tông q.199).
- 21 - 5 - 1537. Tảthịlang bộ Binh, Phan
Trân dâng sớ khuyên can. Thiên tử giáng
chỉ trách là không rành sự thế, có những
lời mê hoặc, bị lột chức và thôi việc.
(Minh thực Lục, Thế Tông, q. 199).
- 16 -6 -1537Mao BáÔnđiềutrần6điểm
tổ chức việc đánh gồm: nay mệnh tướng
xuất sư đánh Mạc Đăng Dung, các vùng
cần huy động lính, dùng người, phương
diện tài vật, thưởng phạt, đồngnhất mệnh
lệnh. (Minh thựcLục, Thế Tông, q.200).
6. 6
- 4 - 7 - 1537. Từ Cửu Cao can ngăn,
Thiên tử cho rằng, nội dung có sự dối
trá bất kính, dùng lời nhục mạ, cắt
lương bổng Từ Cửu Cao 2 tháng.
(Minh thực Lục, Thế Tông, q. 200).
- 8 - 9 - 1939. HoàngOản, thượng thư
bộ Lễ, được cử đi sứ Việt Nam để
thông báo tin vua Minh tôn vinh danh
hiệu Thượng Hoàng Thiên Thượng
Đế cho ông nội vua (không liên quan
đến việc đánh nhà Mạc) mà quá sợMạc
Đăng Dung, coi như đi vào An Nam là
vào chỗ chết nên quanh co.Thiên tửgiận
phán rằng: Oản nhận việc đi sứ An
Nam, nhậnđược mệnhkhôngtiếnhành
gấp, lúc đến thì kiếm nhiều lý do đểtừ
chối. Y sợ hãi quanh co, lại bày ra
những thỉnh cầu khác. Nay cách chức
không dùng trở lại nữa”. (Minh thực
Lục, Thế Tông, q,224).
- 20 - 10 - 1540 Khi Cừu Loan đến
Quảng Tây, đeo ấn tín, bèn ra lệnh
cho Trấn thủ Vân Nam, đề đốc Liễu
Tuần, quỳtrình diện trước hàng quân.
Tuần làm đơn khiếu nại. Thiên tử
khiển trách Loan không thể tin cậy
được, triệu về kinh, giao cho Liễu
Tuần thay Loan. (Minh thực Lục, Thế
Tông, q.241).
7. 7
Về việc này, Cừu Loan, một trong
những người cầm đầu độiquân chinh
phạt, lại là bậc đại thần hiểu rất rõ uy
nghi, binh pháp, lại làm một điều quá
khinh xuất như vậy là tại sao? Chính
vì Cừu Loan quá sợ phải đi đánh với
Mạc Đăng Dung, bày đặt ra để được
về kinh, trốn thoát việc đi An Nam,
trút việc đi đánh cho Liễu Tuần.
Nhận xét
Qua bảng tóm tắt trên đây chúng ta có thể rút ra một số điểm sau:
1. Việc “chinhphạtAnNam”là quyếttâmsắtđácủatriềuđìnhnhàMinh, màMinh
Thế Tông là đại diện. Do đó, khi một số người đưa ra lẽ phải - trái bàn bạc, có người
ngăn cản, nhưng nếu trái ý, đều bị vua Minh gạt đi và xử phạt.
2. Quyết tâm xâm lược được tăng cường thêm, sau khi quần thần nhà Lê liên
tục xin cầu viện.
3. Trong khi cân nhắc, bọn Minh sợ nhất là lực lượng quân sự trong nước, do
Mạc Đăng Dung cầm đầu. Họ nghe danh tài năng quân sự của vua Mạc và đội ngũ
tướng lĩnh của ông. Các trường hợp Phan Trân, Từ Cửu Cao, Hoàng Oản và đặc biệt
Cừu Loan, tìm mọi cách trốn tránh là tiêu biểu cho tinh thần lo sợ của tướng lĩnh
Minh. Chắc số lượng những người như thế này trong thực tế không ít. Biết rõ điều
đó, nên Mạc Đăng Dung luôn luôn quan tâm tăng cường lực lượng chiến đấu đối
phó với giặc và cũng tìm cách lộ ra điều này để cho địch biết.
4. Qua diễn biến phức tạp của tình hình trên đây, chúng ta thấy rõ , quyết tâm
xâm lược của triều Minh rất cao, quyết tâm xâm lược này luôn luôn được “hun nóng”
bởi sự van xin lạy lục của phong kiến nhà Lê. Vậy, khẳng định “nhà Minh rõ ràng
không dám xâm phạm đến nước ta”11 là vô căn cứ, chỉ là ý kiến chủ quan của nhóm
biên soạn.
4.5 Chiến lược của Mạc Đăng Dung
Mạc Đăng Dung thực hiện một chiến lược vừa đánh vừa hoà.
- Chuẩn bị đánh: “Lê triều thông sử cũng cho biết Mạc Đăng Doanh đã tu sửa
trại, sách, luyện tập thuỷ quân; trưng cầu hết thảy những cựu thần lão tướng để cùng
bàn việc nước”12. Phục chức cho Thái bảo tĩnh quốc công Vũ Hộ, cử làm tả đô đốc
11 Uỷ ban khoa học xã hội Việt Nam: Lị ch sử Việt Nam tập 1, Nxb Khoa học Xã hội, 1971, tr, 288 - 291.
12 Đại Việt thông sử, bản dịch, 1968, t.4, tr.139 - 141.
8. 8
Đông quân Chưởng phụ sự.
“Thù vực chu tư lục cho biết triều đình nhà Minh còn tranh cãi khá gay gắt
về việc đánh hay không đánh. Khi Mao Bá Ôn đến Nam Ninh đã thấy quân dân
Việt chuẩn bị chống lại quyết liệt, lấy thuốc độc, bã đậu13 bỏ vào suối nước, đào
hố chôn cọc tre để ngựa sa hố, lại phao ngôn sẽ theo đường biển tập kích Quảng
Đông. Như vậy, chứng tỏ khi ấy nhà Mạc chuẩn bị sẵn sàng hai kế sách chiến và
hoà”14.
- Lập nhiều đồn luỹ ở biên giới mà trong “Vãng giao chỉ đồ”, in ở An Nam đồ
chí, nhà Minh gọi là “tặc doanh”.
- Cho người làm nhiệm vụ tình báo “dò la bám sát các hoạt động quân sự
của nhà Minh, như trường hợp tri châu Nguyễn Cảnh, năm 1537, được nhà Mạc
bí mật phái sang đất Minh để thu thập tin tức bị thổ quan của Vân Nam giữ lại”15.
4.6. CÁCH LỰA CHỌN TÀI TÌNH CỦA MẠC ĐĂNG DUNG
Một số người buộc Mạc Đăng Dung về “tội” đầu hàng và dâng đất. Hãy căn cứ
vào tư liệu lịch sử chính xác để xem xét hai sự kiện này.
4.7. Thực chất việc thần phục, dâng đất
Ngô Đăng Lợi viết: “Quaghi chép của Nghiêm TôngGiản, thì Mạc Đăng Dung
cùng đoàn tuỳ tùng không được mặc phẩm phục, cổ đeo dây lụa tượng trưng cho sự
đầu hàng đến lậy và cúi đầu (ngũ bái, tam khấu đầu) trước long đình che lọng vàng,
tượng trưng cho hoàng đế nhà Minh, chứ không phải quỳ lạy viên tướng nhà
Minh”16, cũng không phải cởi trần tự trói.
- Dâng đất khống:
* “Bốn động biên giới đã bị nhà Minh lấy lại từ trước, thành chuyện đã rồi đối
với nhà Mạc. Mạc Đăng Dung thực sự không hề mắc tội phản quốc, mà trái lại đã
góp một phần quan trọng trong việc ổn định tình hình chính trị - xã hội trong nước,
cũng như tái lập quan hệ bang giao với nhà Minh”17. Còn Lê - Trịnh mãi đến 1597
mới được nhà Minh xét công nhận (xem thêm ở phần sau).
* Trong biểu tâu vua Minh, Mạc Đăng Dung cũng viết đúng là bốn động vốn
thuộc nhà Minh, mà họ đã lấy lại từ trước và ông đã nêu cụ thể lời của tri châu châu
13
14 Ngô Đăng Lợi: Việc nhà Mạc giao thiệp với nhà Minh... Trong sách Nhà Mạc và dòng họ Mạc trong lịch sử, Hội
đồng lịch sử thành phố Hải Phòng xuất bản, H,1996, tr. 134.
15 Đinh Khắc Thuân: Vương triều Mạc qua thư tịch và văn bia, Sđd, tr78, 79.
16 Ngô Đăng Lợi: Việc nhà Mạc giao thiệp với nhà Minh... Sđd, tr.135.
17 Đinh Khắc Thuân: Vương triều Mạc qua..., Sđd, tr.88.
9. 9
Khâm, Lâm Hy Nguyên, làm nhân chứng, chắc chắn đó là sự thật: “Mới đây thần
nghe tri châu châu Khâm tỉnh Quảng Đông, Lâm Hy Nguyên, xưng rằng, các động
Ti Lẫm, Kim Lặc, Cổ Sâm, Liễu Cát thuộc hai đô Như Tích, Chiêm Lãng là đất cũ
của châu Khâm; nếu đúng như vậy, thần xin vâng lời”18.
* “Quả là Mạc Đăng Dung chưa hề cắt đất cho nhà Minh, nhưng ông đã bó tay
và buộc phải chấp nhận sự kiện các động trưởng của bốn động (tức là bản-miền núi)
sát biên giới Đông Bắc trở lại với nhà Minh... Làm sao nhà Mạc có thể giữ lại được
bốn động trên khi mà các động trưởng đã bỏ về với nhà Minh? Thực tế chỉ có bốn
động thuộc hai đô như vừa trình bày ở trên trả lại đất châu Khâm”19.
Nếu đốichiếu các điều kiện thần phục, trongtìnhhình đốinội, đốingoại quá gay
gắt và phức tạp như vậy, thì việc thần phục của vua Mạc đã mất một số hư danh mà
được nhiều thắng lợi thực tế. Trong đó, quan trọng là tránh được một cuộc chiến tranh
thảm khốc, bao gồmlực lượng của quân Minh bên ngoàiép vào và quânLê - Trịnh từ
trong đánh ra.
Xét trong lịch sử ngoại giao của chúng ta với phong kiến Trung Quốc có nhiều
trường hợp phải hết sức lựa chiều, khéo léo.
“Bình Định vương Lê Lợi đại thắng quân đô hộ Minh nhưng vẫn phải cấp tàu
xe, lương thảo cho Vương Thông rút quân, phải trả lừa, ngựa, binh khí, tù binh cho
y; lại phải thực hiện danh nghĩa phù Trần diệt Hồ của nhà Minh mà dựng Trần Cảo
làm vua, phải cống người vàng...”20.
Về việc này, Phan Huy Chú nhận định: “Xét: Buổi đầu Lê, sau khi đã bình
giặc Ngô, chưa tiện nói rõ cầu phong, bấy giờ phải quyền nghi cho xong việc,
cho nên trước hết giả lập con cháu họ Trần; dùng lời nói dịu dàng, mềm dẻo để
nhà Minh thôi việc binh mà nhận việc hoà hiếu. Đến khi Trần Cảo chết mới lại
một phen bày tỏ, nói rõ cầu phong, thế mà vua Minh hãy còn lần lữa chưa cho,
trải 3 năm mà mới cho tạm quyền việc nước, chưa chính thức phong vương vị.
Thế cũng đủ thấy sự thế bây giờ là khó”21.
Hoàn cảnh lịch sử của Vua Lê thuận lợi hơn hẳn Vua Mạc, thế mà phải hết sức
mềm dẻo. Vì vậy, “Mạc Đăng Dung thần phục giả vờ để giữ độc lập thực sự” (Trần
Quốc Vượng) là kế sách tuyệt diệu.
Vua Mạc Đăng Dung nhận các điều kiện thần phục, nhưng các vua Mạc vẫn
xưng đế hiệu, dùng ấn vàng, phong tước vương cho các con, toàn quyền điều hành
18 Minh Thực Lục, V.82, t.4966 - 4973, Thế Tông, q.248, t.1b-5a (chuyển dẫn).
19 Phạm Xuân Hằng (chủ biên): Hoạt động đối ngoại trên đất Thăng Long - Hà Nội, chương trình khoa học cấp nhà
nước KX.09, Nxb Hà Nội, 2010, tr.150.
20 Ngô Đăng Lợi: Chính sách ngoại giao nhà Mạc, bài học lịch sử giá trị, trong sách Kỷ yếu Hội thảo khoa học
Vương triều Mạc trong Lịch sử Việt Nam, H, 9 - 2010, tr.218.
21 Phan Huy Chú: Bang giao chí, (bản dịch), Nxb Sử học,1961. dẫn theo Ngô Đăng Lợi, Sđd, tr.218.
10. 10
đất nước về mọi mặt, nhà Minh không can thiệp và đặc biệt là không có bóng quan
quân Minh trên đất nước Việt.
“Thế là nhà Mạc được nhà Minh công nhận, nhà Lê - Trịnh thì không, mãi đến
1597 mới được nhàThanhxét và phảitheo lệ cũthờiLê sơ, cốngngườivàng đềnmạng
Liễu Thăng”22.
4.8. Nguyên nhân thắng lợi của chiến lược nhà Mạc
Nhờ đâu mà đập tan được âm mưu nhà Lê cầu xin Minh, đấy lùi được quyết tâm
xâm lược sắt đá của nhà Minh?
- Trước hếtlà ý chí củanhà Mạc, bằng mọi giá không cho giặc đặtchân vào đất
nước ta, như Mạc Ngọc Liễn là Đô uý thái phó ĐàQuốccông, đồngthờilà phò mã, khi
lâm chungcó dichúc lại: “... Lạichớ nên mời ngườiMinh vào trongnước ta mà đểdân
ta phải lầm than đau khổ, đó cũng là tội lớn không gì nặng bằng”23. Mạc Ngọc Liễn
không phát ngôn ý kiến cá nhân mà tuyên bố tư tưởng lớn của nhà Mạc. Đinh Khắc
Thuânnhận định đúngnhư vậy: “Lờitrốitrăng cuốicùngnày củaMạc Ngọc Liễn cũng
chính là ý nguyện của nhà Mạc nhằm tránh một cuộc chiến tranh ngoại bang”24.
Thứ hai, là chủ trương vô cùng sáng suốt của Thái tổ Mạc Đăng Dung, chiến
hoà kết hợp, hoà nhưng sẵn sàng chiến đấu. “Đầu hàng giả, chiến đấu thật”. Trong
hoà không hại gì cho đất nước, chỉ dâng đất khống.
Thứ ba, Mạc Thái Tổ cũng dùng cả đấu tranh chính trị, đưa trạng nguyên Giáp
Hải đi, để biểu lộ ý chí quyết tâm bảo vệ đất nước qua việc hoạ thơ. Có người nói
bài thơ đã đuổi được giặc. Không thật đúng. Bài thơ là một bộ phận của cuộc đấu
tranh toàn diện, có vai trò nhất định trong cuộc đấu tranh này.
Thái Tổ Mạc Đăng Dung đã lựa chọn một phương thức đấu tranh tổng hợp rất
thông minh, vừa làm cho địch đủ ngại ngần, lo sợ, vừa đủ cho Thiên triều hống hách
đỡ mất mặt. Ông lại đặt quyền lợi tối cao của đất nước lên trên sỹ diện cá nhân. Nhờ
vậy mà đẩy lùi đươc 22 vạn quân Minh, mà không tốn một mũi tên, không mất một
giọt máu.
Có thể nói, vua Mạc Đăng Dung và nhà Mạc đã đấu tranh rất thông minh, đặc
biệt năng động, nhờ vậy cứu đất nước khỏi một thảm hoạ chiến tranh đã liền kề. Lịch
sử nước nhà cần ghi đậm công ơn này.
4.9. Thaylời kết: ý kiến của GS.VS Phan Huy Lê và PGS NguyễnHải Kế
22 Ngô Đăng Lợi: Chính sách ngoại giao nhà Mạc..., trong sách Kỷ yếu Hội thảo... Sđd, tr217.
23 Đại việt sử ký toàn thư, tr.189.
24 Đinh Khắc Thuân: Lịch sử triều Mạc... Sđd, tr81.
11. 11
Về sự kiện Mạc Đăng Dung đẩy lùi 22 vạn quân Minh, GS Phan Huy Lê và
PGS Nguyễn Hải Kế cho rằng nhà Mạc đã ứng xử phù hợp với tình cảm và trí tuệ
đương thời, lấy đại cục và lợi ích cơ bản làm mục tiêu cao nhất:
“Với nhà Minh thì bên cạnh việc tăng cường phòng bị, bằng hàng loạt các
biện pháp chính tri- ngoại giao mà triều đình nhà Mạc đã triển khai để tránh được
một cuộc chiến tranh , mà trên thực tế vẫn bảo vệ được chủ quyền quốc gia. Đặt
trong bối cảnh thế kỷ XVI, những khu xử mà nhà Mạc đạt được là kết quả thực tiễn
của tình cảm và trí tuệ đương thời”25
“Trong tình hình đối nội, đối ngoại phức tạp lúc đó, triều đình nhà Mạc với
nhà Minh, dựa trên tinh toán lấy đại cục và lợi ích cơ bản làm mục tiêu cao nhất
nhằm lấy lại vị thế của mình trong quan hệ bang giao theo thông lệ, gạt được sang
một bên sự tiếp tay của nhà Minh với thế lực Lê-Trịnh không chỉ trong lúc này mà
cả thời kỳ tồn tại của nhà Mạc” 26
P.Đ.N.
25
Phan Huy Lê (chủ biên): Lịch sử Việt Nam, tập II, NXB Giáo dục Việt Nam, tr .238
26
Phan Huy Lê (chủ biên): Lịch sử Việt Nam, tập II, NXB Giáo dục Việt Nam, tr .237.