QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
Bài giảng Ngữ văn 7 "Vội Vàng" - Xuân Diệu
1.
2.
3. I. TÌM HIỂU CHUNG:
1. Tiểu sử:
- Tên khai sinh: Ngô Xuân Diệu
- Quê: huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh
nhưng sống với mẹ ở Quy Nhơn.
- Bút danh : Trảo Nha
- Cha : Ngô Xuân Thọ
- Mẹ: Nguyễn Thị Hiệp
Xuất thân là nhà nho giáo.
4. - Năm 1937, Xuân Diệu ra Hà Nội học
trường Luật và viết báo, là thành viên
của Tự Lực Văn Đoàn.
- Cuối năm 1940, ông vào Mĩ Tho (nay là
Tiền Giang) làm viên chức tham tá
thương chánh.
- Năm 1942, ông quay lại Hà Nội sống
bằng nghề viết văn.
5. - Năm 1944, Xuân Diệu tham gia phong
trào Việt Minh.
- Trong kháng chiến, Xuân Diệu di tản
lên chiến khu Việt Bắc, hoạt động văn
nghệ cách mạng.
- Hòa bình lập lại, Xuân Diệu về sống và
làm việc tại Hà Nội đến khi mất.
6. 2. Sự nghiệp văn học:
a. Phong cách sáng tác:
- Ông đã đem đến cho thơ ca đương đại
một sức sống mới, một nguồn cảm xúc
mới, thể hiện một quan niệm sống mới
mẻ cùng với những cách tân nghệ thuật
đầy sáng tạo.
- Là nhà thơ của tình yêu, của mùa xuân
và tuổi trẻ với một giọng thơ sôi nổi,
đắm say, yêu đời thắm thiết.
7. b. Di sản văn học:
Tác phẩm tiêu biểu: Thơ thơ (1938), Gửi
hương cho gió (1945), Riêng chung (1960)...
Ngoài ra ông còn viết văn xuôi và tiểu luận
phê bình, nghiên cứu văn học.
8. 3. Vị trí và tầm ảnh hưởng:
- Là nhà thơ mới nhất trong các nhà
thơ mới.
- Là cây bút có sức sáng tạo mãnh liệt,
dồi dào, bền bỉ, có đóng góp to lớn
trên nhiều lĩnh vực đối với nền văn
học Việt Nam hiện đại.
- Là một nhà thơ lớn, một nghệ sĩ lớn,
một nhà văn hóa lớn.
- Ông được nhà nước trao tặng giải
thưởng Hồ Chí Minh về văn học và
nghệ thuật (1996).
9. II. GIỚI THIỆU VỀ BÀI THƠ VỘI VÀNG:
1. Xuất xứ:
- “Vội vàng” được trích từ tập Thơ thơ (1938) - tập thơ đầu tay của nhà
thơ Xuân Diệu.
- Bài thơ là lời giục giã hãy sống mãnh liệt, sống hết mình, hãy quý
trọng từng giây từng phút của cuộc đời mình, nhất là những năm
tháng tuổi trẻ của một hồn thơ yêu đời, ham sống cuồng nhiệt.
2. Bố cục:
Gồm 3 phần:
Phần 1. Từ đầu đến “Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân”: Tình yêu
tha thiết với cuộc sống nơi trần thế.
Phần 2. Tiếp theo cho đến “Chẳng bao giờ, ôi! Chẳng bao giờ nữa...”:
Quan niệm mới mẻ của Xuân Diệu về thời gian.
Phần 3. Còn lại: Khát vọng sống vội vàng, tận hưởng của nhà thơ.
10. 3. Thể thơ:
Bài thơ “Vội vàng” được sáng tác theo thể thơ tự do.
4. Ý nghĩa nhan đề:
- “Vội vàng” trước hết là một tính từ, có nghĩa là tỏ ra rất vội, muốn
tranh thủ tối đa thời gian để cho kịp.
- Đối với Xuân Diệu, nhan đề “Vội vàng” đã cho thấy một quan niệm
sống mới mẻ của nhà thơ.
- Sống vội vàng không có nghĩa là sống gấp sống vội hay sống ích kỉ
mà biết tận hưởng tất cả những giá trị tốt đẹp, tận hiến cho những giá
trị cuộc sống nơi trần gian. Đồng thời nhà thơ còn gián tiếp phê phán
lối sống thờ ơ, lãng quên thực tại.
11. 5. Nội dung:
Bài thơ Vội vàng là lời giục giã hãy sống mãnh liệt, sống hết mình, hãy
quý trọng từng giây, từng phút của cuộc đời mình, nhất là năm tháng
tuổi trẻ. Đây là một trong những bài thơ tiêu biểu nhất của Xuân Diệu
trước Cách mạng. Đây là tiếng nói của một tâm hồn yêu đời, yêu sống
đến cuồng nhiệt, nhưng đằng sau đó là cả một quan niệm nhân sinh
mới chưa thấy trong thơ ca truyền thống.
6. Nghệ thuật:
- Hình ảnh gần gũi, tươi mới và tràn đầy sức sống.
- Ngôn từ giản dị, trong sáng và gần với lời nói hàng ngày.
- Nhịp điệu vui tươi, cuống quýt và dồn dập.
12. “Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất ;
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi.”
III. ĐỌC HIỂU VĂN BẢN:
1. Tình yêu thiên nhiên tha thiết và niềm say mê của tác giả:
- “Nắng” và “hương”: tinh túy được
kết tinh từ vẻ đẹp của thiên nhiên.
13. 1. Tình yêu thiên nhiên tha thiết và niềm say mê của tác giả:
- Điệp từ “tôi muốn” đi kèm với động
từ “tắt nắng đi”, “buộc gió lại”: thể
hiện khao khát mãnh liệt muốn đi
ngược lại với quy luật tự nhiên.
- “Màu đừng nhạt mất”, “hương đừng
bay đi”: bộc lộ sự tiếc nuối, không nỡ
để vụt mất hương sắc của đất trời.
“Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất ;
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi.”
14. “Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất ;
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi.”
1. Tình yêu thiên nhiên tha thiết và niềm say mê của tác giả:
Nhịp thơ hối hả, thể hiện sự “vội
vàng” của tác giả: ông muốn bất tử
hóa những nét đẹp mong manh, muốn
hữu hình hóa chúng để có thể níu giữ
chúng trước khi tàn lụi.
Xuân Diệu muốn cưỡng lại những
vận động của đất trời để lưu giữ
những vẻ đẹp tự nhiên của đất trời bên
mình một cách trọn vẹn, mãi mãi.
15. “Của ong bướm này đây tuần tháng mật ;
Này đây hoa của đồng nội xanh rì ;
Này đây lá của cành tơ phơ phất ;
Của yến anh này đây khúc tình si ;
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi,
Mỗi buổi sớm, thần Vui hằng gõ cửa ;
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần ;”
1. Tình yêu thiên nhiên tha thiết và niềm say mê của tác giả:
- Điệp từ “này đây” bộc lộ niềm vui trong trẻo, thơ ngây như đứa trẻ
khi được đắm mình trong khung cảnh tuyệt đẹp.
16. “Của ong bướm này đây tuần tháng mật ;
Này đây hoa của đồng nội xanh rì ;
Này đây lá của cành tơ phơ phất ;
Của yến anh này đây khúc tình si ;
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi,
Mỗi buổi sớm, thần Vui hằng gõ cửa ;
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần ;”
1. Tình yêu thiên nhiên tha thiết và niềm say mê của tác giả:
- “xanh rì”, “phơ phất”, “khúc tình si”, “ánh sáng chớp hàng mi”:
thông qua hai giác quan thị giác, thính giác và cách dùng từ giàu sức
gợi tả, tác giả đã xây dựng một khu vườn ngợp trong ánh sáng màu
nhiệm và những khúc hoan ca.
17. “Của ong bướm này đây tuần tháng mật ;
Này đây hoa của đồng nội xanh rì ;
Này đây lá của cành tơ phơ phất ;
Của yến anh này đây khúc tình si ;
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi,
Mỗi buổi sớm, thần Vui hằng gõ cửa ;
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần ;”
1. Tình yêu thiên nhiên tha thiết và niềm say mê của tác giả:
- Biện pháp tu từ nhân hóa “của ong bướm tuần tháng mật”, “hoa của
đồng nội xanh rì”, “của yến anh khúc tình si”, “ánh sáng chớp hàng
mi” Hình ảnh trữ tình, sống động. Bao quát những sự sống nhỏ bé
nhất trong khu vườn đó và kể lại chúng bằng ngôn từ đong đầy trìu
mến.
18. “Của ong bướm này đây tuần tháng mật ;
Này đây hoa của đồng nội xanh rì ;
Này đây lá của cành tơ phơ phất ;
Của yến anh này đây khúc tình si ;
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi,
Mỗi buổi sớm, thần Vui hằng gõ cửa ;
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần ;”
1. Tình yêu thiên nhiên tha thiết và niềm say mê của tác giả:
- Từ “của” được lặp lại như khẳng định vạn vật đều có chốn về, đều cất
chứa tình cảm của riêng mình chứ không chỉ là những sinh vật vô tri.
19. “Của ong bướm này đây tuần tháng mật ;
Này đây hoa của đồng nội xanh rì ;
Này đây lá của cành tơ phơ phất ;
Của yến anh này đây khúc tình si ;
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi,
Mỗi buổi sớm, thần Vui hằng gõ cửa ;
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần ;”
1. Tình yêu thiên nhiên tha thiết và niềm say mê của tác giả:
- Phép so sánh độc đáo “Tháng Giêng ngon như một cặp môi gần”: cảm
nhận về mùa xuân được tác giả biểu đạt thông qua tình yêu đôi lứa
lung linh, qua những cử chỉ tình tứ hữu hình, nồng nàn mà thân mật.
Một cảnh tượng lãng mạn, thơ mộng và tràn ngập hạnh phúc.
20. “Của ong bướm này đây tuần tháng mật ;
Này đây hoa của đồng nội xanh rì ;
Này đây lá của cành tơ phơ phất ;
Của yến anh này đây khúc tình si ;
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi,
Mỗi buổi sớm, thần Vui hằng gõ cửa ;
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần ;”
1. Tình yêu thiên nhiên tha thiết và niềm say mê của tác giả:
Bức tranh thiên nhiên đầy ánh sáng rực rỡ, đầy âm thanh rộn rã, đầy
màu sắc, hương thơm. Trong bức tranh ấy, tất cả vạn vật dường như
đều căng tràn sự sống và đanh chếnh choáng trong men say của của
tình yêu.
21. 1. Tình yêu thiên nhiên tha thiết và niềm say mê của tác giả:
- Câu thơ bị ngắt làm hai, sau “Tôi sung sướng” bị để dở dang, theo
sau từ “Nhưng” như minh chứng cho sự “vội vàng” và đôi phần
thấp thỏm.
- Từ “một nửa” càng tăng thêm nét mơ hồ, lửng lơ cho câu thơ.
“Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa :
Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân.”
22. “Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa :
Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân.”
1. Tình yêu thiên nhiên tha thiết và niềm say mê của tác giả:
- Ẩn dụ “Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân”: tác giả nhớ mùa
xuân kể cả khi nó chưa đi qua, nhớ những khoảnh khắc tươi đẹp
ngay trước khi nó chưa lụi tắt.
Như Hoài Thanh đã nói, Xuân Diệu hết mình với những khát khao
trong đời, sống vội vàng, yêu vội vàng như thể đang sợ không được
tận hưởng chúng một cách trọn vẹn. Có lẽ vì vậy nên đan xen với
những cảm xúc nồng say của “Vội vàng”; thì đâu đó ta vẫn thấy thấp
thoáng nỗi e sợ lo âu.
23. 2. Nỗi bâng khuâng trước thời gian và cuộc đời:
“Xuân đương tới, nghĩa là xuân đương qua,
Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già,”
+ Mùa xuân của đất nước, mùa xuân
tuần hoàn mỗi năm, xuân đến rồi lại
đi.
“Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn”
+ Tuổi xuân của con người, một khi
đã qua đi thì không thể lấy lại được.
“Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại”
- “Xuân” mang hai nghĩa
Vừa là hoán dụ chỉ thời gian; vừa là ẩn dụ cho tuổi trẻ của con
người.
24. 2. Nỗi bâng khuâng trước thời gian và cuộc đời:
“Xuân đương tới, nghĩa là xuân đương qua,
Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già,”
Hai câu thơ nói lên cảm nhận của nhà thơ về thời gian và được
xem là tuyên ngôn về quan niệm thời gian của Xuân Diệu, điều đó
cũng được thể hiện qua các tác phẩm thơ của ông. Ví dụ như câu
thơ ông viết trong tác phẩm “Giục giã”
“Mau với chứ, vội vàng lên chứ
Em, em ơi, tình non đã già rồi”
Mỗi câu thơ của Xuân Diệu đều mang một nét vội vã xen vào đó
là một nỗi sợ vô hình về sự tàn phai, héo úa và qua đi của thời gian,
không gian.
- “đương tới” >< “đương qua”: động từ đối lập diễn tả sự trôi đi
của thời gian.
- “còn non” >< “sẽ già”: tính từ đối lập nỗi âu lo của Xuân Diệu
về sự phai tànm héo úa của không gian.
- Điệp từ “nghĩa là”: mang nghĩa so sánh sự ngang bằng giữa 2 vế.
25. 2. Nỗi bâng khuâng trước thời gian và cuộc đời:
“Mà xuân hết, nghĩa là tôi cũng mất.”
- “xuân hết” “tôi cũng mất” : Hồn thơ gắn liền với những đắm
say, sôi nổi của tuổi trẻ.
Một lần nữa thể hiện rõ ràng quan niệm thơ của Xuân Diệu, niềm
khao khát của một nhà thơ yêu đời, trân trọng tuổi trẻ với những
đam mê, khát vọng.
26. 2. Nỗi bâng khuâng trước thời gian và cuộc đời:
“Còn trời đất, nhưng chẳng còn tôi mãi,
Nên bâng khuâng tôi tiếc cả trời đất ;”
- Một cảm quan về thời gian khi không còn “tôi”, cảm nhận được sự
đau đớn, ngậm ngùi của Xuân Diệu khi tuổi trẻ qua đi.
27. 2. Nỗi bâng khuâng trước thời gian và cuộc đời:
- “tháng năm”: hoán dụ chỉ thời gian.
- “Mùi tháng năm”
- “vị chia phôi”
- Động từ “rớm”: thời gian như gợi lên những giọt lệ buồn.
Phép ẩn dụ cảm giác, gợi lên cho ta thấy ở đây thời gian như hữu
hình, một thứ mà ta có thể cảm nhận được bằng các giác quan.
“Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi,”
Thời gian được cảm nhận bằng khứu
giác và vị giác.
28. “Khắp sông núi vẫn than thầm tiễn biệt...
Con gió xinh thì thào trong gió biếc,
Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi ?
Chim rộn rang bỗng dứt tiếng reo thi,
Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa ?”
2. Nỗi bâng khuâng trước thời gian và cuộc đời:
- Những câu thơ trên gợi ra không gian mang một sự nuối tiếc, không
gian mang một màu tiễn biệt, biểu hiện của sự ra đi của tuổi trẻ.
29. 2. Nỗi bâng khuâng trước thời gian và cuộc đời:
“Chẳng bao giờ, ôi ! Chẳng bao giờ nữa...”
- “Chẳng bao giờ”: Cấu trúc điệp và thán từ “Ôi!” mang tâm tư, sự
tiếc nuối miên man của Xuân Diệu trước sự ra đi của thời gian, tuổi
trẻ.
Xúc cảm của nhà thơ, niềm tiếc nuối của tác giả với tuổi trẻ đã qua
đi thì không bao giờ trở lại.
Thể hiện lên quan niệm của một con người luôn có ý thức cao độ
về giá trị, ý nghĩa của sự tồn tại cá nhân, không chấp nhận một lối
sống tạm bợ khi tuổi trẻ còn nhiệt huyết, mang đầy hương sắc.
30. 3. Khát vọng sống cuồng nhiệt của tác giả:
“Mau đi thôi ! Mùa mưa ngả chiều hôm,
Ta muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn ;
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn,
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu,
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
Và non nước, và cây, và cỏ rạng,
Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng,
Cho no nê thanh sắc của thời tươi ;
– Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi !”
- “Mau đi thôi!’’:
Câu cầu khiến bộc
lộ sự “vội vàng”,
gấp gáp, chạy đua
với thời gian để
bắt kịp những nét
đẹp xanh tươi khi
chúng chưa tàn úa.
31. “Mau đi thôi ! Mùa mưa ngả chiều hôm,
Ta muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn ;
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn,
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu,
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
Và non nước, và cây, và cỏ rạng,
Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng,
Cho no nê thanh sắc của thời tươi ;
– Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi !”
- Điệp từ “ta
muốn” đi cùng với
hàng loạt những
hình ảnh mang
tính biểu cảm
nỗi khát khao cháy
bỏng, muốn sống,
muốn yêu, muốn
đi ngược với tự
nhiên và tạo hóa
để giành lấy tuổi
trẻ.
3. Khát vọng sống cuồng nhiệt của tác giả:
32. 3. Khát vọng sống cuồng nhiệt của tác giả:
“Mau đi thôi ! Mùa mưa ngả chiều hôm,
Ta muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn ;
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn,
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu,
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
Và non nước, và cây, và cỏ rạng,
Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng,
Cho no nê thanh sắc của thời tươi ;
– Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi !”
- “ôm” – “riết” –
“say” – “thâu” –
“cắn” động từ
mạnh theo cấp độ
tăng dần thể hiện
sắc thái cảm xúc
bùng nổ.
33. “Mau đi thôi ! Mùa mưa ngả chiều hôm,
Ta muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn ;
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn,
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu,
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
Và non nước, và cây, và cỏ rạng,
Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng,
Cho no nê thanh sắc của thời tươi ;
– Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi !”
3. Khát vọng sống cuồng nhiệt của tác giả:
- Thay xưng hô “ta
– ngươi” thay vì
“tôi”: thay cho
xưng hô tôi dùng
để giãi bày những
cảm xúc riêng tư ở
đầu bài. Xưng hô
“ta” lại là một bản
thể khách quan của
tác giả, dùng để đối
chọi với những quy
luật của tự nhiên.
Biểu hiện của
một cái tôi khát
khao sống, khát
khao tận hưởng
những vẻ đẹp giữa
chốn trần gian.
34. “Mau đi thôi ! Mùa mưa ngả chiều hôm,
Ta muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn ;
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn,
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu,
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
Và non nước, và cây, và cỏ rạng,
Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng,
Cho no nê thanh sắc của thời tươi ;
– Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi !”
3. Khát vọng sống cuồng nhiệt của tác giả:
- Cách dùng từ độc
đáo “xuân hồng” :
trung hòa những
cảm xúc nồng
nhiệt bằng cách gọi
âu yếm.
35. “Mau đi thôi ! Mùa mưa ngả chiều hôm,
Ta muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn ;
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn,
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu,
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
Và non nước, và cây, và cỏ rạng,
Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng,
Cho no nê thanh sắc của thời tươi ;
– Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi !”
3. Khát vọng sống cuồng nhiệt của tác giả:
- “chếnh chánh mùi
thơm”, “đã đầy ánh
sáng”, “no nê thanh
sắc” : qua ngôn từ
giàu sức gợi hình, tác
giả đã chiêu đãi một
bữa tiệc thịnh soạn
của mùi hương, âm
thanh, ánh sáng. Tạo
cho người đọc cảm
giác được hòa vào
khao khát được chén
căng nhựa sống của
“xuân hồng”.
36. “Mau đi thôi ! Mùa mưa ngả chiều hôm,
Ta muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn ;
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn,
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu,
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
Và non nước, và cây, và cỏ rạng,
Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng,
Cho no nê thanh sắc của thời tươi ;
– Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi !”
3. Khát vọng sống cuồng nhiệt của tác giả:
Diễn tả một cách
trọn vẹn và sâu sắc
lời giục giã sống vội
vàng, sống sôi nổi và
luôn trân quý thời
gian, tuổi trẻ của của
tác giả.
37. IV. TỔNG KẾT:
1. Nghệ thuật:
- Thiên nhiên được Xuân Diệu tái tạo bằng bút pháp mĩ nhân hóa.
- Miêu tả sự vật bằng các giác quan.
- Cách dùng từ và đặt câu mới mẻ.
38. III. TỔNG KẾT:
2. Nội dung:
- Nói lên tiếng nói cá nhân tự ý thức Đặc sản thơ Xuân Diệu.
- Thể hiện lên tư tưởng nhân sinh mới mẻ, tạo bước phát triển cho
văn học dân tộc.
- Ý nghĩa và giá trị của một đời người không thể hiện ở chỗ sống bao
lâu mà được nói lên qua cách sống, thái độ sống và chất lượng sống,
mà chất lượng sống ở đây chính là những đam mê, nhiệt huyết, sự
hết mình của tuổi trẻ.