1. Lê Quỳnh Chi- Nguyễn Thị Nhật Linh
Năm học 2015- 2016
2. I.Cuộc đời
• 1) Tiểu sử .
• 2) Cuộc đời.
• 3) Thời đại.
• 4) Kết luận.
II.Sự
nghiệp
• 1) Tâm sự yêu
nước.
• 2)Thơ về làng
cảnh VN.
III. Tổng
kết
• 1) Nội dung.
• 2) Nghệ thuật.
3. 1) Tiểu sử: Nguyễn Khuyến (1835-1909)
• Tên: Nguyễn Thắng
• Hiệu: Quế Sơn
• Quê: Sinh ra tại làng Hoàng Xá - huyện Ý Yên– Nam Định, Lớn
lên sống ở làng Và –xã Yên Đồ- huyện Bình Lục- tỉnh Hà Nam.
• Gia đình: Có nhiều người đỗ đạt, làm quan to dưới triều nhà
Mạc, nhà Lê.Nhưng đến đời ông thân sinh thì nghèo
túng,sống bằng nghề dạy học.
4. • Con đường công danh:
+) Năm 1864: Đi thi hương và đỗ giải Nguyên ở trường
Nam Định
+) Năm 1871: Thi hội lần hai, đỗ Hội Nguyên và thi
đình đỗ Đình Nguyên
2) Cuộc đời:
=> Ông từng thi đỗ Tam nguyên nên
người ta gọi ông là Tam nguyên Yên Đổ.Và
được làm quan dưới triều vua Tự Đức.Là
người có phẩm chất trong sạch, mặc dù
ra làm quan nhưng ông nổi tiếng là người
thanh liêm chính trực,giàu nghị lực.
5. 3) Thời đại:
- Cuộc đời Nguyễn Khuyến chịu ảnh hưởng sâu sắc của những biến cố lịch
sử giai đoạn cuối TK XIX- đầu TK XX, đây là thời gian lịch sử nước ta có
nhiều biến động . Trong khoảng thời gian đó, ông đã ra làm quan khoảng
10 năm cho triều Nguyễn
- Dù luôn ấp ủ trong mình những hoài bão ,lý tưởng về giấc mơ trị quốc
bình thiên hạ nhưng ông không thực hiện được .
BI KỊCH 1 BI KỊCH 2
-Là người học rộng tài cao luôn ôm ấp hoài bão,
đem kiến thức giúp vua trợ dân >< khi làm quan
lại rơi vào mâu thuẫn:
+) làm quan sẽ làm tay sai cho giặc, Triều đình.
+) Cáo quan thì sẽ không giúp gì đc cho dân
Nhưng phần vì nhận ra sự mục rỗng của triều
đình, phần vì chưa làm đc gì để giúp dân cứu
nước nên ông đã cáo quan về sống tại quê nhà
vào năm 1884 để bảo toàn khí tiết.
=> Dẫn đến tâm trạng bất mãn đầy bế tắc
của nhà thơ
Trở về quên nhà, Nguyễn
Khuyến cảm thấy không đủ
dũng khí của một đấng nam
nhi khi đứng trước hoàn
cảnh đất nước có giặc ngoại
xâm.
=> Ông đành ôm mối sầu
trong lòng hòa mình với
thiên nhiên cây cỏ.
6. • Nguyễn Khuyến là một nhà nho có khí tiết vững vàng, sống
theo đạo nghĩa của nhân dân.
• Dù đi thi 9 lần mới đạt được thành công nhưng ông vẫn không
nản lòng => Ý chí, nghị lực học tập của ông thật đáng khâm
phục.
• Trước cảnh nước mất, ông đã từ quan về ở ẩn => tinh
thần bất hợp pháp với giặc, giữ cho mình nhân cách
trong sạch.
7. Đất nước ghi nhớ công ơn của Nguyễn Khuyến:
Ngôi nhà của Nguyễn Khuyến mà nay đã trở thành di tích lịch sử văn hoá
Quốc gia ở làng Vị Hạ, xã Trung Lương, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam
8.
9. • Sáng tác của ông khá phong phú, ông để lại hơn 800 tác phẩm gồm thơ,
câu đối, văn viết bằng chữ hán và chữ nôm. Phần lớn đều làm sau khi từ
quan về ở ẩn, đến nay mới giới thiệu được khoảng 400 tác phẩm.
• Các tác phẩm gồm có: Quế Sơn thi tập, Yên Đổ thi tập, Bách Liêu thi văn
tập, Cẩm Ngữ,"Bạn đến chơi nhà", và 3 bài thơ hay về thu: Thu điếu, Thu
ẩm và Thu vịnh cùng nhiều bài ca, hát ả đào, văn tế, câu đối truyền miệng.
=>Trong bộ phận thơ Nôm, Nguyễn Khuyến vừa là nhà thơ trào
phúng vừa là nhà thơ trữ tình, nhuỗm đậm tư tưởng Lão Trang và
triết lý Đông Phương. Thơ chữ Hán của ông hầu hết là thơ trữ tình.
Có thể nói cả trên hai lĩnh vực, Nguyễn Khuyến đều thành
công.
10. 1. Tâm sự yêu nước, u hoài trước sự đổi thay của thời cuộc
• Trước hoàn cảnh mất nước, tuy là nhà nho đỗ đạt cao , từng ra
làm quan và đã về hưu, nhưng trong lòng Nguyễn Khuyến vẫn
luôn canh cánh mặc cảm về sự bất lực của mình trước hiện tình
đất nước.
Vốn không thực học phù đời loạn,
Uổng chút hư danh đỗ đại khoa.
(Cận thuật- dịch thơ chữ Hán)
• Sự đối lập “thực học” với “hư danh” thể hiện rất rõ khuynh
hướng tư tưởng của nhà thơ. Ông tự chế giễu cái danh vị hão
của mình-một vị đại quan.
Cũng cờ cũng biển cũng cân đai,
Cũng gọi ông nghè có kém ai.
[... ] Nghĩ rằng đồ thật hóa đồ chơi!
(Tiến sĩ giấy)
=> Tuy cáo quan về quê nhưng mắt ông vẫn chứng kiến bao nhiêu
cảnh trái ngang, nhà thơ bồi hồi thổn thức khi nghe từng tin thất
trận của nghĩa quân, nhức nhối với bao nỗi đau của dân lành
11. • Ông cũng thấy sự vô nghĩa của việc làm quan dưới ách đô hộ- chẳng
qua là vua quan phường chèo, không có thực quyền:
Vua chèo còn chẳng ra gì
Quan chèo vai nhọ khác chi thằng hề
(Lời vợ người hát chèo)
• Là một nhà nho, Nguyễn Khuyến có ý thức giữ trọn chứ “tiết” trong thời
loạn
2) Nhà thơ lớn của dân tình làng cảnh Việt Nam
• Thơ ông đầy ắp tình cảm và cảnh sống hằng ngày gần gũi thân thuộc
ở thôn quê , không khí thanh bình nơi thôn xóm đã khơi nguồn cảm
hứng để ông gưỉ gắm tâm sự. Bức tranh làng cảnh trong thơ ông luôn
đẹo vẻ đẹp của sự bình yên
Năm nay cày cấy vẫn chân thua,
Chiêm mất đằng chiêm mùa mất mùa.
Nửa công đứa ở, nửa thuê bò.
Sớm trưa dưa muối cho qua bữa,
Chợ búa trầu chè chẳng dám mua.
(Chốn quê)
=> Với những bài thơ chân thực, mới mẻ như những phát hiện lần đầu về
sinh hoạt và tâm tình ngươi nông dân, Nguyễn Khuyến đã trở thành nhà
thơ của làng quê Việt Nam
12. 3) NGÒI BÚT TRÀO PHÚNG THÂM THÚY:
• Thơ trào phúng của Nguyễn Khuyến mang giọng điệu thâm thuý với nội
dung trào phúng rất sâu cay. Ông thường phê phán nhữung biểu hiện
suy đồi của đạo đức xã hội, nhất là chuyện khoa cử, quan tước
• Đồng thời, với tâm trạng của một nhà nho bất lực trước thời cuộc ông
đã viết những vần thơ tự trào để vừa tự chế giễu sự bất lực của mình, sự
bạo nhược của bản thân như một tiếng cười chua chát.
Tiếng cười của ông là tiếng cười của lương tâm của ý thức liêm sỉ thâm thúy
và thấm đẫm nước mắt.
4) Nghệ thuật thơ văn nôm bậc thầy:
Nguyễn Khuyến thành công hơn cả là ở thơ văn viết bằng chữ Nôm.
Phân lớn những tác phẩm xuất sắc của ông đều được sáng tác trong
thời kì ông đã cáo quan về ở ẩn.
ông đã “đưa tiếng nói sinh hoạt dân dã, bình dị vào thơ một cách tinh
tế, sâu sắc, nhiều khi hóm hỉnh, tự nhiên mà thành thơ”
Dù viết thể thơ cổ điển những thơ ông vẫn luôn rất thoải mái, không có
cảm giác gò bó.
13. III.TỔNG KẾT:
1) Nội dung:
Chia làm 2 mảng chính:
+) Tiếng nói day dứt u hoài của lương tâm, trách nhiệm
của người trí thức trước vận mệnh của đất nước.
+) Thể hiện tình cảm gắn bó thân thiết đối với con người
và làng quê VN.
2) Nghệ thuật:
Là bậc thầy chơi chữ sành bút pháp ước lệ truyền thống , tả thực và rất giỏi
trong việc sử dụng hư từ. Vận dụng nhiều thủ pháp nghệ thuật của thơ ca
dân gian và ngôn ngữ thuần Việt điêu luyện ,giàu chất tạo hình
=> Là nhà thơ của dân tình làng cảnh Việt Nam. Nguyễn Khuyến đã đưa
thơ Nôm, ngôn ngữ thơ đến một trình độ mới, tinh tế và rất hiện đại.