1. Phúc Âm Giăng
Tác giả: Peter Kuzmic
Giới Thiệu Khóa Trình
PHẦN MỘT: PHÚC ÂM GIĂNG
LỜI GIỚI THIỆU, CẤU TRÚC, VÀ LỜI MỞ ĐẦU
1 Giới thiệu sách Phúc Âm Giăng
2 Cấu trúc của Phúc Âm Giăng
3 Phần Mở Đầu: Ngôi Lời Trở Thành Xác Thịt
PHẦN HAI: CHỨC VỤ CÔNG KHAI CỦA CHÚA JESUS
SỰ XEM XÉT VÀ TRANH LUẬN
4 Giai đoạn xem xét Bắt Đầu
5 Chuyện Trò Với Những Người Có Lòng Tin
6 Giai đoạn Tranh Luận
PHẦN BA: CHỨC VỤ CÔNG KHAI CỦA CHÚA JESUS
XUNG ĐỘT VÀ KHỦNG HOẢNG
7 Giai Đoạn xung Đột Bắt Đầu
8 Sự Xung Đột Gia Tăng
9 Giai đoạn Khủng Hoảng
PHẦN BỐN: CHỨC VỤ CỦA CHÚA JESUS
THỜI KỲ CHUYỂN TIẾP VÀ CÁC CUỘC ĐÀM LUẬN
10 Thời Kỳ Chuyển Tiếp
11 Cuộc Đàm Luận Với Các Môn Đồ
12 Cuộc Đàm Luận: Sự Bày Tỏ và Lời Cầu Nguyện
PHẦN NĂM: SỨ MẠNG CỨU CHUỘC CỦA CHÚA JESUS
SỰ HOÀN THÀNH VÀ SỰ SỐNG LẠI
13 Giai đoạn Hoàn Thành
14 Sự Phục Sinh và Lời Kết
Từ Vựng
Thư Mục
Giới Thiệu Khoá Trình
Tầm Quan Trọng Của Sách Phúc Âm Giăng
Từ phúc âm (từ tiếng Hylạp Evxyyérrbbbbov) có nghĩa là "tin mừng". Nói
cụ thể hơn, đó là tin tức tốt lành về sự cứu chuộc dành cho mọi người đã
được đem đến trần gian bởi Con Đức Chúa Trời thành người, là Chúa Cứu
2. Thế Jesus. Trong ý nghĩa ấy, chỉ có một tin lành: đó là tin tức vui mừng về
Chúa Jêsus.
Từ Phúc âm cũng đã trở thành tên gọi của bốn quyển sách đầu của Tân ước:
Phúc âm theo Mathiơ, Mác, Luca, và Giăng. Mỗi một sách phúc âm nầy đều
được viết theo một cái nhìn khác nhau bởi một tác giả loài người khác nhau.
Mỗi sách truyền đạt các chi tiết quan trọng về cuộc đời, sự dạy dỗ và công
việc của Chúa Jêsus. Nếu chúng ta chưa được tiếp cận với những lẽ thật
được ghi chép trong các tài liệu quý báu nầy, thì chúng ta khó mà tìm được
bất cứ thông tin đáng tin cậy nào về Chúa Cứu Thế Jesus ngày nay.
Nghiên cứu bốn sách Phúc âm nầy là điều thật quan trọng bởi vì đó là nguồn
phương tiện tốt nhất để hiểu biết về nhân vật vĩ đại nhất đã từng đi lại trên
trái đất nầy. Các sách Phúc âm mô tả những sự kiện đã làm thay đổi toàn bộ
hướng đi của lịch sử thế giới, mặc khải chương trình của Đức Chúa Trời
nhằm đem lại sự cứu rỗi cho một thế giới hư mất. Chúng cũng là nền tảng
cho các sách còn lại của Tân ước và cho đức tin Cơ Đốc nói chung.
Trong giáo trình học tập nầy chúng ta sẽ xem xét tường tận những điều được
ký thuật trong sách Phúc âm sau cùng: Đó là sách Phúc âm Giăng một nhà
chú giải đã gọi sách nầy là "quyển sách sâu nhiệm nhất thế giới". Một nhà
chú giải khác đã so sánh nó với "một hồ nước trong đó một đứa trẻ có thể lội
đi và một chú voi có thể bơi được". Thật vậy, Phúc âm Giăng thật sâu
nhiệm, song đồng thời thật đơn sơ. Sách Giăng sẽ cảm động những cdn mới
bắt đầu, tiến tới đức tin lớn hơn và ban cho người môn đệ trưởng thành sức
mạnh, sự khôn ngoan và quyết tâm mới mẽ trong bước đường theo Chúa và
hầu việc Ngài.
Có lẽ phúc âm Giăng là sách được nhiều nhà giải kinh viết về hơn bất cứ
sách nào trong Kinh Thánh. Chúng tôi đã chọn sách giáo khoa của Merrill
C.Tenney vì nhiều lý do. Tiến sĩ Tenney là một giáo sư truyền giáo, người
đã kết hợp sự xuất sắc về học thuật với sự hiểu biết về thuộc linh. Một sự kết
hợp như thế là một đòi hỏi căn bản cho bất cứ một quyển sách chú giải có
giá trị nào về Phúc âm Giăng. Phương pháp phân tích của Tenney được bổ
sung bởi sự giúp đỡ có tính bình giải chi tiết nơi nào có cần. Điều đó hứa
hẹn với bạn nhiều giờ tập tành trí tuệ và thuộc linh nhằm giúp bạn trở thành
một môn đệ tốt hơn của nhân vật chính của Phúc âm - Chính mình Chúa
Cứu Thế Jesus. Nguyện bạn được phước khi bạn học tập câu chuyện vĩ đại
nhất từng được ký thuật nầy!
Mô Tả Môn Học
Phúc âm Giăng (mã số CA 1103 - Tín chỉ : 3giờ)
Giáo trình nầy trình bày một sự nghiên cứu mang tính giải thích sách Phúc
âm Giăng. Sự tập trung đặc biệt nhắm vào cấu trúc của sách Phúc âm và sự
3. khai triển tăng dần lên của các chủ đề chính của sách về niềm tin nơi Chúa
Cứu Thế Jesus và sự không tin cũng như sự xung đột có cân nhắc kết quả
của hai thái độ đó. Đời sống, tâm tính và sứ mạng cứu chuộc của Chúa Cứu
Thế Jesus được xem xét trong bối cảnh lịch sử của chúng và từ một cái nhìn
thánh như đã được mô tả bởi Giăng, người truyền giáo.
Các Mục Tiêu Của Bài Học
Khi học xong môn học nầy bạn có thể:
1. Nói lên bằng chứng liên quan đến niên đại của việc viết cũng như xuất xứ
của sách phúc âm Giăng
2. Thảo luận tính độc đáo trong ngôn từ của ông Giăng và cách dùng các dấu
hiệu, biểu tượng, và những cuộc phỏng vấn trong sách phúc âm của ông
3. Mô tả cấu trúc của sách phúc âm và ý nghĩa của nó
4. Phân tích câu chủ đề của tác giả và ông đạt được mục tiêu ấy như thế nào
5. Giải thích mục đích lời Mở Đầu của Giăng và điều được mặc khải về Lời
(Logos) hay Lời trở thành nhục thể
6. Nhận ra mối liên hệ giữa bảy dấu hiệu trong phúc âm Giăng với Lời dạy
của Chúa Jêsus cặp theo mỗi dấu hiệu
7. Thảo luận các nội dung chung của sách phúc âm nầy và tìm ra những
đoạn mấu chốt
8. Giải thích những vấn đề thần học nêu ra được trình bày trong sách phúc
âm nầy như thần tánh của Đấng Christ, mối liên hệ giữa Ngài với Đức Chúa
Cha, công việc của dtl và những hàm ý của sự chết và sự sống lại của Chúa
Cứu Thế
9. Giải thích cách chính xác và hiệu quả trong bài giảng, bài dạy, hoặc bài
làm chứng của bạn bất cứ khúc Kinh Thánh nào của sách phúc âm nầy
10. So sánh phúc âm Giăng với lời ký thuật của các sách Cộng Quan và giải
thích những điểm giống nhau hoặc khác nhau trong những lời ký thuật
11. Phân tích các kết quả của việc học tập nầy trên đức tin của chính bạn đặt
nơi Chúa cũng như trên việc môn đệ hóa của bạn.
Các Sách Giáo Khoa và Sách Hướng Dẫn Học Tập
Bạn sẽ sử dụng cuốn Phúc âm theo Giăng: Sách Hướng Dẫn Học Tập của
Peter Kuzmic với các sách giáo khoa được viết kèm theo
1. Giăng: Phúc âm của Niềm Tin (John: The Gospel of Belief) của Merrill
C.Tenney, Grand Rapids, Michigan: William B.Eerdmans Publishing
Company, 1976
2. Kinh Thánh bản American Standard (ASV) được dùng trong sách giáo
khoa của Tenney. Chúng ta đã dùng bản NIV (New International Version)
trong sách hướng dẫn học tập nầy trừ khi có những ghi chú khác
4. Thời Gian Học Tập
Chúng tôi đề nghị bạn nên có một thì giờ, học tập đều đặn. Tất nhiên bạn có
thể tận dụng những giờ phút rãnh rỗi để học nhưng những giờ đó không thể
thay thế cho thì giờ đều đặn được. Hãy cố gắng hoàn tất ít nhất mỗi tuần một
bài. Ở lớp, nên có hai hoặc ba buổi đến lớp cho mỗi bài. Nếu tự học không
có thầy, bạn có thể dành ra từ ba đến sáu giờ cho một bài học.
Bạn thật sự cần bao nhiêu thời gian cho mỗi bài học còn tùy thuộc và kiến
thức của bạn về đề tài nầy và khả năng khéo léo mà bạn có trước khi bắt đầu
môn học. Thì giờ bạn tiêu tốn cũng tùy thuộc vào mức độ bạn tuân theo
những chỉ dẫn và phát triển những kỹ năng cần thiết cho việc tự học. Hãy
hoạch định thời khóa biểu học tập và thì giờ sao cho có thể sử dụng đủ thời
gian để đạt được những mục tiêu đã được tác giả môn học nêu ra cũng như
các mục tiêu riêng của bạn.
Phương Pháp Học Tập
Hãy đọc kỹ những lời đề nghị về các phương pháp học tập được đề ra trong
tập tài liệu học viên của bạn. Chúng sẽ giúp bạn biết chương trình ICI mong
mỏi bạn học một bài học theo cách nào, việc ôn tập cho phần đánh giá tiến
bộ (bài trắc nghiệm) về từng nhóm bài học và việc chuẩn bị cho kỳ thi cuối
khóa bao gồm tất cả các bài học. Nếu bạn không quen học theo cách ICI đề
nghị, thì bạn cần điều chỉnh cách học của mình sao cho đạt được hiệu quả
cao nhất trong môn học.
Các Phương Pháp Học Môn Nầy
Nếu bạn tự học môn học của giáo trình ICI nầy, thì tất cả các bài làm của
bạn, ngoại trừ bài thi cuối khóa, có thể được hoàn tất qua đường bưu chính.
Dầu chương trình của ICI đã soạn giáo trình nầy để bạn tự học, bạn vẫn có
thể học tập các môn học nầy theo tổ hoặc theo lớp. Nếu học theo tổ, lớp,
giảng viên có thể chỉ dẫn thêm cho bạn. Trong trường hợp đó, bạn hãy tuân
theo sự chỉ dẫn của giảng viên
Cách Tổ Chức Bài Học và Khuôn Mẫu Học Tập
Mỗi bài học bao gồm 1) Đề bài, 2) Lời mở đầu, 3) Dàn bài, 4) Mục tiêu bài
học, 5) Sinh hoạt học tập, 6) Từ ngữ then chốt, 7) Khai triển bài học, 8) Bài
tự trắc nghiệm và 9) Giải đáp các câu hỏi của bài học
Phần dàn bài và mục tiêu bài học cho bạn một cái nhìn tổng quát về chủ đề,
giúp bạn tập trung chú ý vào những điểm quan trọng nhất trong khi học tập,
và cho bạn biết điều mình phải học
Phần khai triển bài học trong giáo trình giúp bạn dễ để học kỹ lưỡng tài liệu.
Bằng cách học tập từng phần một bạn có thể sử dụng tốt các khoảng thời
gian học tập ngắn bất cứ lúc nào có thì giờ, thay vì đợi cho đến lúc bạn có đủ
5. thì giờ để học nguyên cả bài một lần. Những lời bình giảng của bài tập và
các câu giải đáp đều được soạn nhằm giúp bạn đạt được các mục tiêu của bài
học
Hầu hết các câu hỏi ở phần khai triển bài học đều có thể trả lời vào những
chỗ trống cho sẵn trong sách hướng dẫn học tập, còn một số các câu khác
bạn cần có một quyển vở ghi chép để viết các câu trả lời vào. Khi viết câu
trả lời vào vở, nhớ ghi số thứ tự của bài học và tựa bài, và cũng hãy nhớ ghi
đúng theo số thứ tự của các câu hỏi. Điều nầy ích lợi cho bạn trong việc ôn
tập bài đánh giá tiến bộ từng phần.
Đừng xem trước câu giải đáp cho đến khi đã viết câu trả lời của mình. Nếu
bạn có câu trả lời của mình trước, bạn sẽ nhớ được những gì mình đã học
nhiều hơn, sau khi đã trả lời mỗi câu hỏi của bài học hãy đối chiếu câu trả
lời của bạn với lời giải đáp nằm cuối bài học. Rồi sửa những chỗ bạn đã làm
sai.
Các câu hỏi nầy rất quan trọng. Chúng giúp bạn phát triển sự hiểu biết và sự
hầu việc Chúa của mình. Các sinh hoạt được đề nghị cũng nhằm giúp bạn
đưa hiểu biết của mình vào thực tế.
Sau khi xong phần khai triển bài học, hãy làm bài tự trắc nghiệm, nhằm giúp
ôn lại bài học. Tuy nhiên trước khi làm bài trắc nghiệm, bạn phải ôn lại các
mục tiêu của bài học. Chúng cho bạn thấy những gì bạn phải học được trong
phần khai triển bài. Khi làm xong bài tự trắc nghiệm, hãy đối chiếu với các
lời giải cho sẵn trong tập học viên.
Tập Tài Liệu Học Viên
Nếu bạn đang sử dụng cả sách hướng dẫn học tập lẫn tập học viên dành cho
môn học nầy, thì bạn sẽ nhận được một tập học viên bao gồm các chỉ dẫn
cho việc làm bài thi đánh giá tiến bộ từng phần và bài thi cuối khóa. Tập tài
liệu nầy cũng gồm cả phần giải đáp của các bài tự trắc nghiệm, những chỉ
dẫn dành cho các đề án (nếu có), những bài đánh giá tiến bộ từng phần, các
tờ trả lời, và các biểu mẫu quan trọng khác. Hãy dùng danh sách kiểm ngoài
bìa của tập học viên để xác định những tài liệu nào bạn phải nộp lại cho
giảng viên và khi nào thì phải nộp.
Các Bài Đánh Giá Tiến Bộ Từng Phần và Bài Thi Cuối Khoá
Mặc dầu các số điểm của bạn trong các câu hỏi của bài học, các bài tự trắc
nghiệm và các bài đánh giá tiến bộ từng phần không được tính vào điểm xếp
hạng của khóa trình, bạn cũng nên gởi các tờ trả lời của bạn dành cho các bài
đánh giá tiến bộ từng phần về cho giảng viên của bạn để sữa chữa và có
những đề nghị liên quan đến việc học của bạn. Sau đó bạn có thể ôn lại các
tài liệu trong sách hướng dẫn học tập của mình và trong Kinh Thánh liên
quan đến những điểm bạn thấy khó. Việc ôn tập các mục tiêu bài học, các
6. bài tự trắc nghiệm và các bài đánh giá tiến bộ từng phần sẽ giúp bạn chuẩn
bị cho kỳ thi cuối khóa.
Tín Chỉ Cho Môn Học Nầy
Để đạt được tín chỉ của ICI cấp cho môn khóa nầy, bạn phải đậu trong kỳ thi
cuối khóa. Bài thi nầy phải là bài thi viết được thực hiện trước sự có mặt của
vị giám thị kỳ thi được chuẩn thuận của ICI. Vì chúng tôi có các vị giám thị
ở nhiều quốc gia nên có lẽ không khó để bạn gặp được một vị trong khu vực
của bạn. Giảng viên sẽ giúp bạn biết thêm các chi tiết.
Giáo trình nầy cũng có thể được học vì giá trị thực tiễn của nó chứ không
phải để lấy tín chỉ. Trong trường hợp đó, bạn không cần phải gửi bất cứ bài
vở nào và không cần phải dự kỳ thi cuối khóa. Việc học tập khóa trình nầy
sẽ làm phong phú đời sống bạn dù bạn có học để lấy chứng chỉ hay không
Tín Chỉ Được Cấp Qua Kỳ Thi
Bạn có thể được nhận tín chỉ của môn học nầy mà không phải học các tài
liệu của giáo trình. Việc nầy có thể được thực hiện do bạn thi đậu kỳ thi cuối
khóa. Tuy nhiên, vì các bài tập và bài thi trắc nghiệm của sách hướng dẫn
học tập đã được soạn nhằm chuẩn bị cho kỳ thi cuối khóa, nên bạn có thể
cần phải nghiên cứu các tài liệu nầy. Hãy hỏi ý kiến giám đốc ICI Quốc gia
của bạn để biết thêm chi tiết.
Xếp Hạng Cho Môn Học
Việc xếp hạng môn học của bạn đặt cơ sở trên bài thi cuối khóa có giám sát
và trên đề án trong các khóa trình có các đề án được chỉ định. Hạng điểm
của khóa học được xếp như sau: 90-100% là ưu hạng; 80-89% là trên trung
bình; 70-79% là trung bình; 60-69% là dưới trung bình; U là không được
nhận tín chỉ; NC: không hoàn thành trong thời gian giới hạn và W là rút lại
kỳ thi.
Chuyên Gia Soạn Nội Dung Cho Sách Hướng Dẫn Học Tập
Là một người dân bản xứ của nước Nam Tư, Peter Kuzmic là học giả Tin
lành đầu tiên trong xứ sở ấy và được xem là người có thẫm quyền về vấn đề
tranh luận giữa cdn và người theo chủ nghĩa Mác
Tiến sĩ Kuzmic, người thông thạo nhiều thứ tiếng và đã tốt nghiệp Trường
Kinh Thánh Erzhausen, Đức Quốc, trường Cao Đẳng Southern California ở
tại Costa, Mesa, bang California (Cử nhân văn chương), trường Wheaton
College Graduate tại Chicago, bang Illinois (cử nhân văn chương M.A), và
khoa Thần Học Thiên Chúa Giáo ở tại Zagreb, Nam tư (Thạc sĩ thần học;
Tiến sĩ Thần học) hoàn thành tất cả các môn học của mình đạt danh hiệu thủ
khoa.
7. Tiến sĩ Kuzmic đã là người sáng lập và hiện là giám đốc Viện Thánh Kinh
Thần học ở tại Osifek, tổ chức Tin lành độc nhất dành cho những người đã
tốt nghiệp đại học vào học, ở tại Nam Tư và Đông Âu. Tiến sĩ Kuzmic là tác
giả của nhiều tạp chí và sách báo khác nhau, gồm cả một quyển nghiên cứu
chủ yếu về ảnh hưởng của các bản dịch Kinh Thánh tiếng Slav trên văn
chương, ngôn ngữ và văn hóa của người Slav ông cũng là chuyên gia soạn
nội cho môn Giải Kinh của ICI và ông đã đóng góp cho rất nhiều bản trích
yếu, sách hướng dẫn và các tự điển bách khoa, ông cũng là người cộng tác
biên tập cho tờ Izvori, một tờ báo Cơ Đốc phát hành hàng tháng bằng ngôn
ngữ Serbo - Croat là ngôn ngữ chính của người Nam Tư
Kể từ năm 1986, Tiến sĩ Kuzmic đã phục vụ với tư cách chủ tịch ủy ban điều
hành của Theological Commission of World Evangelical Fellowship (WEF).
Ông là một thành viên của Hội Đồng Lausanne cho Tổ Chứa Truyền Giáo
Thế Giới và là một trong những ủy viên điều hành sáng lập tổ chức Hội
Đồng Cơ Đốc Truyền Giáo của Châu Âu
Tiến sĩ Kuzmic kết hợp một phương pháp tiếp cận tinh thông đối với Lời
Chúa với một lối tiếp cận thân mật, quan tâm đến cá nhân học viên khiến
cho tập hướng dẫn học tập nầy trở thành một công cụ thú vị nhất và vô cùng
quý báu cho việc nghiên cứu sách Phúc âm Giăng
Giảng Viên ICI Của Bạn
Giảng viên ICI của bạn rất vui lòng giúp bạn bằng bất cứ cách nào có thể
được. Hãy hỏi giảng viên của bạn bất cứ câu hỏi nào bạn đang thắc mắc về
việc dàn xếp cho kỳ thi cuối khóa của bạn. Hãy nhớ dành đủ thì giờ để thực
hiện được các kế hoạch theo dự tính. Nếu có một số người muốn cùng học
môn học nầy, hãy xin giảng viên của bạn sắp xếp cho việc học tập theo tổ.
Xin Đức Chúa Trời ban phước cho bạn khi bạn bắt đầu nghiên cứu Tập Phúc
Âm Giăng. Mong rằng cuốn sách nầy làm cho đời sống và chức vụ hầu việc
của bạn thêm phong phú và giúp bạn hoàn thành sự dự phần của bạn trong
thân thể Đấng Christ cách hiệu quả hơn.
GIỚI THIỆU PHÚC ÂM GIĂNG
Tác giả Phúc âm Giăng đồng nhất mình với sách không phải bởi tên gọi mà
với tư cách là "môn đồ Chúa Jesus yêu". Đó không phải là một lời xưng
nhận khoe khoang mà là sự biểu lộ một điều kỳ diệu, chính Chúa Jêsus con
Đức Chúa Trời, lại yêu một ngư phủ nghèo nàn như ông. Ông tin chắc vào
tình yêu thiên thượng ấy và cho chúng ta biết rằng hết thảy chúng ta đều có
thể nhận được tình yêu của Đức Chúa Trời :"Vì Đức Chúa Trời yêu thương
thế gian, đến nỗi đã ban Con Một của Ngài hầu cho hễ ai tin Con Ấy, không
bị hư mất mà được sự sống đời đời" (GiGa 3:16)
8. Tình yêu của Đức Chúa Trời và lòng tin đặt nơi Ngài là những chủ đề chi
phối phúc âm Giăng. Tác giả đã viết sách phúc âm nầy từ một vị trí của mối
tương giao gần gũi và thân mật với Thầy của mình. Ông đã đi nơi Chúa
Jêsus đi, ông đã chứng kiến những phép lạ hoặc "dấu lạ", và chính mắt ông
đã chứng thực sự vinh hiển của Con Đức Chúa Trời trên Núi Hóa Hình. Ông
đã thấy Chúa Cứu Thế bị đóng đinh trên cây thập tự và Chúa sống lại, đắc
thắng tiếp sau sự phục sinh. Cuối đời mình, ông đã viết lại những sự kiện
quan trọng từ đời sống và chức vụ của Đấng Christ hầu cho chúng ta cũng
"tin rằng Chúa Jêsus là Đấng Cứu Thế tức là Con Đức Chúa Trời và...nhờ
danh Ngài được sự sống" (20:31)
Trong phần giới thiệu môn học, bạn lưu ý thấy rằng Merrill C.Tenney, tác
giả sách giáo khoa mà tập hướng dẫn học tập nầy dựa trên đó, sử dụng
phương pháp phân tích. Trong sự phân tích của ông, ông nhấn mạnh đến cấu
trúc của sách phúc âm Giăng theo sáu giai đoạn khác nhau trong cuộc đời
của Chúa Cứu Thế. Sau đó, trong chương cuối, ông bàn luận vắn tắt xuất xứ,
văn phong, và những chủ đề mấu chốt của sách phúc âm Giăng. Chúng tôi
đã chọn để giới thiệu sách Phúc Âm Giăng với các chủ đề đó, và đi từ đó
sang bài nghiên cứu có tính phân tích của Tenney. Hiểu biết những điều nầy
sẽ giúp cho sự nghiên cứu của bạn được ích lợi.
- Bốn Sách Phúc Âm
Các Sách Cộng Quan
Sách Phúc âm Thứ Tư
- Xuất Xứ
Những Luận Thuyết Liên Quan Đến Xuất Xứ
Những bằng chứng nội tại và ngoại tại
Niên Đại và Nơi Chốn Viết Sách
- Văn Phong
- Các Bài Nghiên Cứu Theo Chủ Đề
Những Dấu Lạ và Biểu Tượng
Các Cuộc Đàm Luận
Khi học xong bài nầy bạn có thể:
- Nói được những điểm khác nhau giữa các sách Phúc âm cộng quan với
Phúc âm Giăng.
- Sử dụng được các bằng chứng nội tại và ngoại tại để bảo vệ quan niệm
truyền khẩu cho rằng sứ đồ Giăng đã viết sách phúc âm mang tên ông.
- Thảo luận niên đại gần đúng cho việc viết sách Phúc âm Giăng và những
bằng chứng chứng tỏ niên đại ấy.
- Giải thích được tính độc đáo trong ngôn từ của Giăng và việc ông dùng các
ký hiệu, biểu tượng và các cuộc đàm luận trong sách phúc âm của mình.
9. 1. Bạn hãy đọc phần giới thiệu của tập hướng dẫn học tập nầy. Chú ý đặc
biệt đến phần Cách Tổ Chức Bài Học và Khuôn Mẫu Học Tập. Phần nầy
chứa đựng những chỉ dẫn quan trọng cho sự thành công của bạn trong môn
học nầy. Lưu ý những mục tiêu chung dành cho việc học tập môn học nầy
của bạn. Tất cả những mục tiêu đó đều quan trọng, song có lẽ có một số
quan trọng hơn đối với bạn. Hãy gạch dưới những mục tiêu bạn thấy đặc biệt
ích lợi cho mình. Có lẽ bạn cũng cần liệt kê ra những mục tiêu của riêng
mình.
2. Học phần dàn bài và các mục tiêu bài học. Những phần đó sẽ giúp bạn
thấy rõ những điều mình phải cố gắng học biết khi nghiên cứu bài học.
3. Nghiên cứu hết phần khai triển bài học. Bảo đảm phải đọc tất cả các phần
Kinh Thánh trưng dẫn được cho, làm các bài tập được yêu cầu, và kiểm tra
các câu trả lời của bạn.
4. Đọc một mạch toàn bộ 21 đoạn trong Phúc âm Giăng nếu có thể được,
trước khi bắt đầu bài học nầy. Cái nhìn tổng quát nầy sẽ giúp ích cho bạn khi
nghiên cứu quyển hướng dẫn học tập và phần đọc chỉ định của sách giáo
khoa. Kế đó, hãy đọc từ trang 7-16 trong sách giáo khoa Giăng. Sách phúc
âm Niềm tin của Merrill C.Tenney. Cũng đọc từ trang 297-316 khi được yêu
cầu đọc trong phần khai triển bài học. Chúng tôi sẽ gọi sách giáo khoa là
Tenney trong tập hướng dẫn nghiên cứu nầy.
5. Làm bài tự trắc nghiệm ở cuối bài học và đối chiếu kỹ các câu trả lời của
bạn với lời giải đã được cho sẵn trong tập học viên. Ôn lại bất cứ những chỗ
nào bạn trả lời chưa đúng.
Việc hiểu được những từ ngữ then chốt chúng tôi liệt kê ở đầu mỗi bài học
sẽ giúp ích cho bạn trong khi nghiên cứu. Bạn sẽ tìm thấy các từ ngữ then
chốt theo thứ tự abc được định nghĩa trong phần từ vựng ở cuối tập hướng
dẫn nghiên cứu nầy. Nếu bạn có nghi ngờ gì về ý nghĩa của bất cứ các từ
ngữ nào trong bảng liệt kê, thì bạn có thể tra xem ngay bây giờ hoặc khi bạn
gặp phải từ ấy trong khi đọc.
thư ký
khoảng
sự kết hợp (các sách phúc âm)
của sứ đồ Giăng
BỐN SÁCH TIN LÀNH
Tenney 7-16; 1:1-21:25
Lưu ý: Như đã nói ở đây, thủ tục của chúng tôi xuyên suốt mỗi bài học là sẽ
đưa ra phần đọc chỉ định dành cho mỗi phần ở đầu mỗi phần ngay dưới tựa
đề. Phần đọc chỉ định có thể bao gồm các trang trong sách giáo khoa Tenney
và các đoạn trích từ Kinh Thánh. Bạn sẽ được ích lợi nhờ đọc tài liệu được
10. chỉ định theo yêu cầu.
Sách Phúc âm Giăng thường được gọi là "sách Phúc âm Thứ Tư" bởi vì đi
trước nó trong Tân ước là các sách phúc âm của Mathiơ, Mác, và Luca. Tất
cả bốn sách phúc âm đều tập trung vào các sự kiện xảy ra trong cuộc đời và
chức vụ của Chúa Cứu Thế Jesus. Tuy nhiên, ba sách phúc âm đầu thường
được gọi là "các sách phúc âm Cộng quan" bởi vì chúng giống nhau theo rất
nhiều cách, trong khi phúc âm Giăng khác nhiều trong cách tiếp cận vấn đề
của sách. Trước khi xem xét xuất xứ của Phúc âm Giăng, việc hiểu biết mối
quan hệ giữa bốn sách phúc âm sẽ rất ích lợi cho bạn.
Các Sách Cộng Quan
Từ ngữ Cộng quan (Synoptic) đến từ gốc Syn nghĩa là "cùng nhau" và optic
có nghĩa là "nhìn xem"; vì vậy, từ ngữ cộng quan có nghĩa là "cùng nhau
nhìn xem". Từ nầy được áp dụng cho các sách phúc âm Mathiơ, Mác và
Luca bởi vì chúng rất giống nhau về cách diễn đạt, về nội dung, và thứ tự mà
theo đó các sự kiện được ký thuật. Theo bản Kinh Thánh Khảo Cứu NIV "91
phần trăm của phúc âm theo Mác được chứa đựng trong Mathiơ" và "53
phần trăm của sách Mác được tìm thấy trong Luca" (1985,1437).
Có rất nhiều luận thuyết nói về những điểm giống nhau nầy. Điều phổ thông
nhất trong những điểm giống nhau đó là Mathiơ và Luca đã dùng sách Phúc
âm Mác cùng với một nguồn phương tiện không ai biết, được các học giả
Thánh Kinh gọi là "Q") để biên soạn sách phúc âm của họ. Không ai có
được một câu trả lời tuyệt đối để giải thích những sự giống nhau đó. Song có
thể mỗi một tác giả của các sách phúc âm nầy đã chia xẻ thông tin với nhau,
đã thâu lượm các thông tin trong những lời truyền khẩu hoặc những đoạn rời
viết tay, hoặc những lời mô tả mắt thấy được ghi lại.
NHỮNG SỰ NHẤN MẠNH CỦA BỐN SÁCH TIN LÀNH
Mặc dầu các sách Cộng quan có nhiều điểm giống nhau, mỗi sách trong bốn
sách Phúc âm đều có một sự nhấn mạnh rõ nét riêng liên quan đến Chúa Cứu
Thế Jesus khung 1.1 tóm tắt những nhấn mạnh độc đáo làm cho mỗi sách
Phúc âm có một sự đóng góp quý báu cho phần ký thuật của Tân ước.
Sách Phúc Âm Thứ Tư
Nói chung, các sử gia Kinh Thánh đều cho rằng các sách phúc âm cộng quan
được viết ra vào một thời điểm sớm sủa hơn sách Phúc âm Giăng, và phúc
âm Mác được viết trước Mathiơ và Luca. Cũng có bằng chứng cho rằng
Giăng đã biết về các sách phúc âm cộng quan khi ông viết sách phúc âm của
mình. Có một số điều làm cho phúc âm Giăng tách rời với các sách cộng
quan. Trong số đó bao gồm cả văn phong đặc biệt của ông, cách diễn tả lập
đi lập lại của ông, và sự nhấn mạnh các ký hiệu, các biểu tượng, các cuộc
phỏng vấn riêng của Chúa Jêsus với những cá nhân. Về sau trong bài học
11. nầy chúng ta sẽ xem xét kỹ hơn mỗi trường hợp đàm luận.
1. Hãy hoàn tất câu sau
a. Từ ngữ synoptic có nghĩa
là.............................................................................
b. Ba sách phúc âm đầu được gọi là Synoptics (các sách cộng quan) bởi
vì......................................................................................................................
c. Những khả năng về cách sách phúc âm cộng quan được biên soạn bao
gồm..................................................................................................................
2. Ghép cặp mỗi chủ đề (trái) với sách phúc âm nào nhấn mạnh đến chủ đề
đó (phải)
...a. Nhân tánh của Chúa Cứu Thế
...b. Sự ứng nghiệm của Đấng Mêsia
...c. Tình yêu của Đức Chúa Trời; lòng tin nơi Chúa Cứu Thế Jesus
...d. Địa vị làm tôi tớ của Đấng Christ
3. Nói lên một phương cách chủ yếu qua đó Đấng Christ được mô tả trong
mỗi sách phúc âm sau:
a.
Mathiơ...............................................................................................................
b.
Mác..................................................................................................................
c.
Luca..................................................................................................................
d. Giăng
Giăng....................................................................................................
XUẤT XỨ
Tenney 297-303
SỨ ĐỒ GIĂNG
- Con trai Xêbêđê và Salômê (em gái Mary) Mat Mt 7:56; Mac Mc 1:19-20;
16:1; GiGa 19:25
- Anh họ Chúa Jêsus (Mat Mt 27:56 19:25
- Anh của Giacơ (Mac Mc 1:19-20)
- Một ngư phủ (1:19-20)
- Có thể là một môn đồ của Giăng Báptít (GiGa 1:35)
- Một người trong vòng các môn đệ thân tín của Chúa Jêsus, cùng với Phierơ
và Giacơ (Mat Mt 17:1; 26:37)
- "Môn đồ được Chúa Jêsus yêu" (GiGa 13:23)
- Được tin là tác giả của sách phúc âm Giăng, ba thư tín (I,II, IIIGiăng) và
sách Khải huyền (KhKh 1:4)
12. Chúng ta có thể đưa ra một số những lý do cho thấy vì sao tác giả của sách
Tin lành nầy đã không nhắc đến tên ông. Tenney đưa ra hai khả năng: 1) Tác
giả giữ theo khuôn mẫu của các sách Phúc âm khác, hoặc 2) ông đang muốn
tránh sự bắt bớ. Một lý do có sức thuyết phục hơn cho sự thiếu sót danh tánh
của ông là tính cách của tác giả và của chính sách Phúc âm. Thái độ của tác
giả dường như muốn nhắc lại lời tuyên bố của Giăng Báptít về Chúa Jêsus
(GiGa 3:30). Ngài phải dấy lên, ta phải hạ xuống". Tuy nhiên, thật kỳ lạ, tác
giả lại cho mình là "môn đồ được Chúa Jêsus yêu". Donald Guthrie, người
thừa nhận quan niệm theo truyền khẩu cho rằng sứ đồ Giăng chính là tác giả,
gợi ý rằng thành ngữ ấy không có ý bày tỏ một tình yêu ưu tiên đặc biệt nào
về phía Chúa Jêsus cả. Mà theo ông, là:
Sứ đồ Giăng, như Bức Thư Thứ Nhất của ông cho thấy, đã thấu hiểu một
điều gì đó về ý nghĩa của tình yêu Đức Chúa Trời trong Chúa Cứu Thế Jesus
và thành ngữ ấy có lẽ đã bật ra từ sự ngạc nhiên của ông vì sao Chúa Jêsus
lại buộc chặt tình yêu của Ngài vào ông (1970,247).
Những Luận Thuyết Liên Quan Đến Xuất Xứ
Chính tên gọi của bốn sách Tin lành cho chúng ta biết lời truyền khẩu ban
đầu của các Cơ Đốc Nhân đã quy cho ai là tác giả tác phẩm nầy. Nếu bạn
nhìn vào nhiều sách khác nhau trong Tân ước, bạn sẽ để ý thấy mặc dầu tên
các tác giả được nhắc đến trong các thư tín của Phaolô và trong hầu hết các
Thư Tín Tổng Quát song không có tác giả nào được nói rõ trong bất cứ sách
phúc âm nào. Trọng tâm của cách sách phúc âm nhắm vào Tin lành của
Chúa Jêsus, Đấng Mêsia và là Đấng Cứu Chuộc. Khi so sánh với Ngài, tên
của tác giả chịu trách nhiệm viết tin mừng nầy tương đối không quan trọng.
Tuy nhiên, dựa trên bằng chứng ngoại tại chúng ta có thể kết luận rằng các
Cơ Đốc Nhân đầu tiên đã biết tên tác giả cũng như nội dung của mỗi sách
phúc âm từ sự rao giảng của các sứ đồ. Điều nầy đã giúp họ khẳng quyết
tính xác thực của các tác phẩm nầy và bác bỏ những tác phẩm giả mạo.
Luận thuyết thứ nhất chúng ta sẽ xem xét liên quan đến xuất xứ của sách
phúc âm nầy là:
Chính mình Giăng đã viết phúc âm nầy, hoặc, có khả năng hơn nữa, với sự
giúp đỡ của một người thư ký . (sao chép)
Tenney trình bày một luận điểm vững chắc về xuất xứ Phúc âm Giăng của
sứ đồ Giăng (297-303) phấn lớn dựa trên những bằng chứng ngoại tại. Trước
khi xem xét các bằng chứng ấy, chúng ta cần biết rằng trong thế kỷ trước
một số các học giả đã nghi ngờ quan điểm của lời truyền khẩu. Tuy nhiên cơ
sở của những nghi ngờ của họ không được thuyết phục lắm.
Hai luận điểm chính của những người nghi ngờ xuất xứ của sứ đồ Giăng là:
13. 1. Một môn đệ của Giăng đã viết sách phúc âm mang tên ông, dựa trên lời
mô tả của ông ta về sự dạy dỗ và những hồi ký của sứ đồ Giăng. Lý luận nầy
gặp một số nan đề. Bằng chứng nội tại tỏ rõ rằng sách phúc âm nầy được
viết bởi một sự chứng kiến tận mắt các sự kiện, và sự liên quan của cá nhân
ông được bày tỏ bằng một cảm xúc sâu đậm. Cũng thật khó mà giải thích vì
sao một môn đệ của Giăng lại phải hết sức cẩn thận như vậy để tránh nhắc
đến tên của sứ đồ Giăng.
2. Không phải Sứ đồ Giăng, mà là một ông Giăng khác, được xem như vị
Trưởng Lão hay Giám Mục đã viết sách phúc âm nầy. Quan điểm nầy dựa
trên một bài bình luận ngắn của Papias, một nhà văn của thế kỷ thứ hai. Ông
được cho là đã đề cập đến hai nhân vật có tên Giăng, cả hai đều sống tại
thành Êphêsô. Một người là sứ đồ Giăng và người kia là một Trưỡng lão.
Những người ủng hộ lý luận nầy cũng cho rằng vị trưởng lão tên Giăng đã
viết thư II& III Giăng, chứ không phải sứ đồ Giăng. Tuy nhiên, những kết
luận nầy rất yếu ớt, bởi vì dẫn chứng của Papias về Giăng không rõ ràng.
Một người thậm chí có thể cãi lại từ lời nhận xét của Papias rằng anh ta
không hề nghĩ đến một trưởng lão nào khác ngoài chính mình sứ đồ Giăng
và anh ta không hề có ý định nêu lên một ông Giăng nào khác là tác giả.
Ngoài ra không có bằng chứng hậu thuẫn nào chứng minh rằng đã có một
nhân vật như thế từng tồn tại.
Nan đề từ cả hai luận thuyết nầy thậm chí còn lớn hơn việc chúng ta xem xét
những bằng chứng nội tại và ngoại tại cho thấy sứ đồ Giăng là tác giả của
sách phúc âm thứ tư.
Bằng Chứng Nội Tại và Ngoại Tại
Tenney 298-303
Bằng Chứng Nội Tại
Tenney trích nhiều dẫn chứng từ phúc âm Giăng hậu thuẫn cho xuất xứ của
sứ đồ Giăng. Những bằng chứng nội tại nầy có thể được tóm tắt như sau:
1. Tác giả là một người Do thái ở vùng Palestine. Ông ta rất quen thuộc với
các phong tục, lịch sử và đời sống tôn giáo của người Do thái, ông ta có một
hiểu biết vượt trội về địa lý vùng Palestine - nhất là về Giêrusalem và các
vùng phụ cận.
2. Tác giả phải là một người tận mắt chứng kiến, Ông kể một câu chuyện có
đầy những chi tiết tỉ mỉ liên quan đến những điều như thời gian, số lượng,
nơi chốn, tính cách và cảm xúc của người ta. Những điều nầy không thể do
bất cứ ai đưa ra ngoại trừ sự chứng kiến tận mắt. Ông ta cũng có một sự hiểu
biết riêng về một số đông người kể cả tên của họ.
Tác giả nhiều lần gộp chính mình vào tập thể của những người tận mắt
chứng kiến khá rõ ràng. Ví dụ, hãy xem GiGa 1:14 "ở giữa chúng ta...chúng
ta đã ngắm xem sự vinh hiển của Ngài" (in nghiêng là ý của tác giả). Ông kể
14. mình như một người tận mắt chứng kiến sự đóng đinh Chúa. Kẻ đã thấy thì
làm chứng về việc đó, (lời chứng của người là thật, và người vẫn biết mình
nói thật vậy) hầu cho các ngươi cũng tin" (19:35 đối chiếu với 21:24)
4. Tenney đưa ra hai sự suy luận gì về xuất xứ của sứ đồ Giăng từ 21:24?
...........................................................................................................................
...
...........................................................................................................................
...
3. Tác giả phải là một vị sứ đồ. Ông đã có một sự hiểu biết thân gần về Chúa
Jêsus, các môn đồ, và các sự việc xảy ra trong vòng, nội bộ những người
thân cận nhất với Chúa Jêsus. Ông là một người bạn đồng hành của Phierơ.
Tenney nói rằng "vị sứ đồ gắn bó với Phierơ trong sách Công vụ các sứ đồ là
Giăng. Không thể nào Phierơ lại thay đổi những người cùng làm việc với
mình trong có một ít ngày giữa sự kiện Chúa sống lại với Lễ Ngũ Tuần"
(302)
4. Tác giả không thể là ai ngoài sứ đồ Giăng. Ông nêu đúng tên của các sứ
đồ khác, song lại cho thấy sự có mặt của mình chỉ bằng cách gọi mình là
"môn đồ mà Chúa Jêsus yêu" (21:20).
Ai
Bằng Chứng Ngoại Tại
Theo một ý nghĩa nào đó, 21:24-25 giúp ích cho chúng ta như một bằng
chứng ngoại tại, cho thấy sứ đồ Giăng đã viết sách phúc âm nầy. Ở trang 298
Tenney gợi ý rằng hai câu cuối nầy của Phúc âm Giăng là một lời tái bút có
lẽ đã được các trưởng lão Hội Thánh Êphêsô thêm vào.
Về các nhà Cơ Đốc đầu tiên, trong các tác phẩm của ông Ignatius (khoảng
năm 107 - 115 S.C) và trong các tác phẩm của ông Justin (khoảng 150) bày
tỏ sự hiểu biết về phúc âm Giăng song không nói gì đến tác giả cả. Tatian sử
dụng Phúc âm Giăng cách bao quát nhằm nỗ lực kết hợp hài hòa bốn sách
Phúc âm (khoảng năm 160) (Dung hợp hài hòa các sách phúc âm có nghĩa là
thực hiện một bảng ký thuật duy nhất, ghi chép tất cả những sự kiện trong tất
cả bốn sách phúc âm theo trình tự thời gian mà không lập lại sự kiện nào cả)
Clement người Alexandria (khoảng năm 155-215) đã nói rằng Giăng "người
sau cùng...đã viết một cuốn phúc âm thuộc linh" (khoảng năm 190). Những
tài liệu đầu tiên đã làm chứng cho chính sách Phúc âm Giăng và xuất xứ của
Giăng là Canon Muratori và Anti- Marcionite Prologue to John, cả hai đều
có từ hậu bán thế kỷ thứ hai. Eusebius cũng cho chúng ta biết rằng
Polycrates người Êphêsô viết trong một lá thư gởi cho Giám Mục Victor
thành Lamã (khoảng năm 199) rằng Giăng là vị môn đồ gần gũi nhất với
Chúa Jêsus trong Bữa Ăn Tối Cuối Cùng. Giữa khoảng thời gian năm 190
15. S.C tới thế kỷ vừa qua không hề có một ai nghi ngờ về xuất xứ sứ đồ Giăng
của Phúc âm Giăng.
Chúng ta hãy nhấn mạnh chỉ một lần nữa thôi tầm quan trọng của lời làm
chứng của Irenaeus. Chỉ có một thế hệ các Cơ Đốc Nhân giữa sứ đồ Giăng
với Irenaeus. Ông có mối quan hệ gần gũi với học trò của Giăng là Polycarp
người Smyrna, và học trò của Polycarp là Pothinus người Lyons. Irenaeus
cũng chính là một học trò của Polycarp. Ông thuật lại thể nào Polycarp đã kể
cho ông và những người khác điều sứ đồ Giăng đã dạy về Chúa Jêsus ở tại
Êphêsô. Lời chứng của ông vì vậy có thể được coi là rất đáng tin cậy và có
sức thuyết phục.
5. Điều nào trong các luận thuyết sau đây về xuất xứ của sách phúc âm thứ
tư được hậu thuẫn tốt nhất bởi bằng chứng nội tại?
a) Có ai đó được biết đến như là vị Trưởng Lão Giăng người Êphêsô đã viết
sách Phúc âm nầy.
b) Một trong những môn đệ của sứ đồ Giăng đã viết phúc âm Giăng dựa trên
lời làm chứng rằng miệng của Giăng
c) Sứ đồ Giăng chính là tác giả sách phúc âm và có lẽ ông đã được một thư
ký giúp đỡ.
6. Những điều nào sau đây dường như cung cấp bằng chứng ngoại tại mạnh
mẽ nhất liên quan đến nguồn gốc tác giả của sứ đồ Giăng?
a) Các tác phẩm của Ignatius
b) Lời làm chứng của Clement người Alexandria
c) Lời làm chứng của Irenaeus
d) Lời tuyên bố của Papias vào thế kỷ thứ hai
e) Nội dung của Giăng 21:24-25
7. Hãy nêu lên một lý lẽ ủng hộ hoặc chống lại mỗi luận thuyết sau đây về
nguồn gốc tác giả của sứ đồ Giăng
a. Không phải sứ đồ Giăng mà là Trưởng Lão Giăng người Êphêsô đã viết
sách phúc âm Giăng
...........................................................................................................................
..
b. Một môn đồ của Sứ đồ Giăng đã viết Phúc âm Giăng
...........................................................................................................................
c. Sứ đồ Giăng đã viết Phúc âm Giăng, có lẽ với sự trợ giúp của một người
thư ký
...........................................................................................................................
8. Dựa vào lời bàn luận của Tenney về nguồn gốc tác giả của sách phúc âm
nầy, hãy khoanh tròn mẫu tự đứng trước câu nào ĐÚNG
a. Ai viết sách Giăng, đó phải là người đã tận mắt chứng kiến các sự kiện
được chép trong sách.
16. b. Có một bằng chứng nội tại đầy đủ để ủng hộ niềm tin cho rằng tác giả
phải là một phần tử thuộc vào "số người thân tín" trong vòng các môn đồ.
c. Chính lời truyền khẩu thừa nhận sứ đồ Giăng là tác giả thì tự nó đã là một
bằng chứng đầy đủ của chính nó, cho thấy ông thật sự đã viết sách Giăng.
d. 21:24-25 là lời tái bút của Phúc âm Giăng khẳng định tính xác thực của
lời tường thuật của tác giả và nhận chân ông là môn đồ được Chúa Jêsus
yêu.
e. Lời tuyên bố trong 1:14 "Chúng ta đã ngắm xem sự vinh hiển của Ngài"
có lẽ là lời ám chỉ đến sự hóa hình của Chúa Jêsus cũng đã được Phierơ đề
cập (IPhi 1Pr 1:16-18). Nếu từ đó mà chúng ta kết luận rằng tác giả của Phúc
âm Giăng đã chứng kiến sự Hóa Hình, thì ông phải hoặc là Giăng, hoặc là
Giacơ hay Phierơ.
f. Lời truyền khẩu liên quan đến Giăng, Giacơ và Phierơ hậu thuẫn cho quan
điểm rằng bất cứ người nào trong số họ cũng có thể là tác giả của sách phúc
âm thứ tư.
Tóm lại, chúng ta thấy rằng lời truyền khẩu của Hội Thánh luôn luôn quy
sách phúc âm nầy cho sứ đồ Giăng. Các tài liệu từ thế kỷ ban đầu cũng như
thế kỷ thứ hai đều xem Giăng là "vị môn đồ được Chúa Jesus yêu" (GiGa
21:20). Trong Giăng đoạn 21 tác giả nói rằng môn đồ mà Chúa Jêsus yêu đã
viết lời ký thuận nầy (câu 24). 1:14 dường như ám chỉ sự kiện xảy ra trên núi
hóa hình. Mathiơ đoạn 17 cho chúng ta biết rằng Phierơ, Giacơ và Giăng đều
có mặt tại núi hóa hình. Tác giả là người đã tận mắt chứng kiến những sự
kiện mình ghi lại. Ông là một trong nhóm người ở tại Biển Tibêriát (cũng
gọi là Biển Galilê trong Giăng đoạn 21. Nhóm nầy gồm Phierơ và các con
trai của Xêbêđê (Giacơ và Giăng). Tác giả không thể là Phierơ bởi vì Phierơ
hỏi về môn đồ mà Chúa Jêsus yêu (21:20-21). Người ấy cũng không thể là
Giacơ, bởi vì Giacơ đã bị chém đầu trước khi sách phúc âm nầy được viết ra,
người ấy chỉ có thể là sứ đồ Giăng.
Niên Đại và Nơi Chốn Của Tác Phẩm
Tenney không bàn đến thời điểm và nơi chốn Phúc âm Giăng được viết ra,
song chúng tôi cần nói đến những vấn đề đó cách vắn tắt. Ở ĐÂU, KHI
NÀO
Niên Đại Của Tác Phẩm
Như chúng tôi đã nói ở phần đầu bài học nầy, các học giả Kinh Thánh nói
chung đều đồng ý rằng các sách Phúc âm Cộng Quan đã được viết ra vào
thời điểm sớm hơn thời điểm của Phúc âm Giăng. Một số những cố gắng đã
được thực hiện nhằm xác minh thế kỷ thứ hai là niên đại sách Giăng được
viết ra. Ví dụ, F.C.Baur thuộc Tubingen, một học giả Đức danh tiếng và có
cái nhìn rộng của thế kỷ thứ mười chín, đã xác định niên đại tác phẩm nầy
17. vào khoảng năm 170 S.C các niên đại của thế kỷ thứ hai hiện nay đã hoàn
toàn bị bác bỏ, đặc biệt là khi có những khám phá mới đây của ngành khảo
cổ về các bản thảo cổ. Hai đoạn rời là Ryland Papyrus 457 và Egerton
Papyrus 2 được xác định niên đại vào nửa đầu thế kỷ thứ hai, tức khoảng
năm 130, mảnh rời Ryland Papyrus, được tìm thấy ở tại Aicập, là một phần
rời của một bản thảo Phúc âm Giăng, và Egerton Papyrus gồm các phần
nhắc đến sách phúc âm nầy. Có lẽ có một khoảng thời gian nào đó đã trôi
qua giữa thời điểm viết bản phúc âm gốc với việc thực hiện bản sao Ryland
Papurus. Xét đến khoảng thời gian đó và khoảng thời gian phải có để lưu
hành bản sao chép ở Aicập, các học giả kết luận rằng sách Phúc âm Giăng
phải được viết trước cuối thế kỷ thứ nhất.
Một yếu tố khác cần được xem xét trong việc xác định niên đại của sách
phúc âm nầy, đó là cuộc hủy phá thành Giêrusalem vào năm 70 S.C không
được nhắc đến trong Phúc âm Giăng. Bởi vì không có thể nào sách phúc âm
nầy được viết ra trước biến cố đó, nên chúng ta có thể kết luận rằng có một
khoảng thời gian nào đó hẳn đã trôi qua giữa hai sự kiện nầy. Vì vậy, giả
định chung xét đến tất cả những thông tin sẵn có là sách phúc âm nầy đã
được viết ra vào thập kỷ cuối cùng của thế kỷ thứ nhất. Niên đại gần đúng
thường được ấn định cho phúc âm nầy năm 95 S.C.
Nơi Chốn Viết Sách
Theo sự trích dẫn của Irenaeus mà chúng tôi đã nhắc đến ở phần trước trong
bài nầy, phúc âm Giăng đã được viết tại thành Êphêsô, các nhà văn Cơ Đốc
đầu tiên khác cũng đều đồng ý như thế, vì vậy không có tranh luận nghiêm
trọng nào về kết luận nầy. Một vài bằng chứng muộn màng mà mơ hồ nào
đó cho rằng sứ đồ Giăng đã chết như một người tuận đạo vào lúc trẻ tuổi, và
như thế ông không thể nào đến Êphêsô được, điều nầy đã bị đa số các học
giả bác bỏ ngay.
Alexandria và Antiôt cũng đã được nêu lên như là các địa danh mà sách
phúc âm nầy được viết tại đó, song những lý do được đưa ra để ủng hộ cho
các quan điểm nầy quá yếu để xứng đáng có được bất cứ sự xem xét nghiêm
túc nào. Lời làm chứng của các giáo dục đều đồng ý rằng sách Phúc âm nầy
đã được viết tại Êphêsô. Polycarp, một đồ đệ của sứ đồ Giăng, đã chứng
minh sự cư trú của Giăng ở tại đó, và Polycarp cũng xác nhận rằng vị sứ đồ
nầy đã được chôn ở tại đó
9. Niên đại viết phúc âm Giăng được đồng ý nhiều nhất là vào
a) Một thời gian ngắn trước năm 70 S.C
b) Giữa khoảng 70 và 100 SC.
c) Giữa khoảng 90 và 100 SC.
10. Điều nào trong những điều sau đây KHÔNG được kể là cơ sở để xác
định niên đại được chấp nhận cách phổ quát của Phúc âm Giăng?
18. a) Bằng chứng cho thấy các sách cộng quan đã được viết ra trước phúc âm
Giăng.
b) Sự vắng mặt bất cứ lời ám chỉ nào về sự phá hủy thành Giêrusalem trong
phúc âm Giăng.
c) Hai mảnh rời của các bản chỉ thảo có các phần của Phúc âm Giăng hoặc
có nhắc đến Phúc âm Giăng.
d) Niềm tin theo lời truyền khẩu cho rằng sứ đồ Giăng đã chết như một
người tuận đạo vào những ngày đầu của Hội Thánh.
11. Số lượng bằng chứng lớn nhất có được cho thấy nơi viết sách phúc âm
Giăng là
a) Êphêsô
b) Antiốt
c) Alexandria
d) Giêrusalem
Những lời của Giám mục B.F.Westcott, nhà giải kinh vĩ đại của Phúc âm
Giăng, là một lời kết luận phù hợp cho sự bàn luận của chúng ta về thời gian
và nơi chốn của tác phẩm. Ông đã viết như sau vào năm 1908:
Phúc âm Giăng được viết ra sau ba sách phúc âm kia, ở tại Châu Á, theo yêu
cầu của các Hội Thánh Cơ Đốc tại đó, là một lời tóm tắt sự dạy dỗ của thánh
Giăng dựa trên cuộc đời của Chúa Cứu Thế, để đáp ứng một nhu cầu đã nổi
lên trong Hội Thánh vào cận Thời Kỳ Các Sứ Đồ.
VĂN PHONG
Tenney 303-311
Khi đọc xuyên suốt phúc âm Giăng bạn có thể để ý thấy những từ nhất định
cứ xuất hiện lặp đi lặp lại.
Sự lặp lại của những từ quan trọng giúp chúng ta nhận ra các chủ đề chính
của sách phúc âm. Tenney luận đến ba đặc điểm nổi bật của văn phong được
sử dụng trong Phúc âm Giăng (303-304): 1) Nó bị giới hạn; 2) Nó được lặp
đi lặp lại; và 3) Nó mang biểu tượng. Mỗi một đặc điểm nầy giúp làm nổi
bật các chủ đề chính yếu
12. Ghép cặp mỗi đặc điểm của văn phong sứ đồ Giăng với lời giải thích có
liên hệ của Tenney
...a Sứ đồ Giăng thường triển khai các chủ đề chính bằng cách xen lẫn các
chủ đề tương đương với các chủ đề tương phản.
...b Bằng lối diễn đạt tượng hình, sứ đồ Giăng sử dụng các từ bình thường để
chuyển đạt những hàm ý thuộc linh.
...c Không quá 35 từ ngữ xuất hiện hết sức thường xuyên trong phúc âm
Giăng đến nỗi chúng được xem là quan trọng.
...d Đặc điểm nầy được ví với các âm thanh trong âm nhạc kết hợp để tạo ra
19. một âm điệu giao hưởng.
...e Chỉ một từ duy nhất trong phúc âm Giăng thôi có thể đại diện cho một
khái niệm đơn sơ lẫn một ý nghĩa sâu nhiệm.
Việc bàn luận về những từ mang tính biểu tượng của Tenney trong Phúc âm
Giăng dựa trên một sự phân loại theo.
1. Các từ liên quan đến đức tin (304-306)
2. Các từ liên quan đến sự tương phản (306-307)
3. Các từ liên quan đến đáp ứng và sự đạt được về mặt thuộc linh (307-311)
1. Các từ liên quan đến đức tin. Tenney đưa các từ gốc Hylạp vào để giúp
chúng ta hiểu được những khác biệt tinh tế trong việc sử dụng từ ngữ.
Những từ ngữ then chốt trong phạm trù đức tin là "lòng tin (pisteuo); "làm
chứng" (maturia); và "lẽ thật" (aletheia). Một từ ngữ thứ tư chúng ta nên
nhắc đến trong mối liên hệ nầy là "còn ở lại" hay "cứ ở" (Meno). Từ nầy
được dùng 40 lần trong Phúc âm Giăng. Nó diễn tả tính lâu bền của mối
quan hệ giữa Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con và sự cần thiết của tính lâu
bền nầy trong mối quan hệ giữa người tin Chúa và Đức Chúa Con. Chúa
Jêsus đã dùng từ nầy thường xuyên trong các cuộc nói chuyện suốt Thời Kỳ
Đàm Luận (13:1-17:26).
2. Các từ liên quan đến sự tương phản. Ba cặp từ được đối chiếu thường
xuyên trong Phúc âm Giăng để nhấn mạnh sự tương phản giữa sự công bình
của Đức Chúa Trời và tội lỗi của loài người là :
1) "Sự sáng" và "sự tối tăm".
2) "Thánh Linh" và "xác thịt" và
3) "yêu thương" và "ghen ghét"
3. Các từ liên quan đến đáp ứng và thành đạt về mặt thuộc linh. Những từ
then chốt trong phạm trù nầy là "tin" (pisteuo) "đi theo" (akoloutheo) "nhận"
hoặc "giữ lấy" và "biết" (oida và ginosko). Hãy lưu ý lời luận của Tenney về
sự khác biệt "tinh vi nhưng thực hữu" giữa oida và ginosko (308-309) và
biểu đồ của ông (310) cung cấp một cơ sở hữu ích cho việc nghiên cứu sâu
hơn về các từ ngữ nầy.
Khung 1.4 minh họa cách sứ đồ Giăng sử dụng điệp từ trong sách phúc âm
của ông để nhấn mạnh các chủ đề chính về đức tin, mối xung đột, và sự đáp
ứng. Chúng ta đã so sánh một số từ mấu chốt của ông với việc sử dụng kết
hợp mỗi một từ ấy trong các sách phúc âm cộng quan. Chúng ta cũng đã
thêm một số các từ then chốt đáng chú ý khác vào số các từ được Tenney
nhắc đến vì cớ sự sử dụng thường xuyên và ý nghĩa đáng lưu ý của chúng.
Được gồm vào với các từ nầy là hai động từ Hylạp dành cho từ yêu thương
20. được sử dụng trong cuộc đối thoại giữa Chúa Jêsus và Phierơ tại bờ biển
Galilê (21:15-19)
Tính Thường Xuyên Của Việc Sử Dụng Các Từ Có Liên Quan Đến Đức Tin
Các Sách Cộng Quan, Sách Giăng
pisteuo (tin) 34; 98
aletheia (lẽ thật) 7; 25
alethes (đúng) 2; 14
alethinos (hiện thực) 1; 9
meno (cứ ở) 12; 40
Tính Thường Xuyên Của Việc Sử Dụng Các Từ Liên Quan Đến Sự Xung
Đột
phos (sự sáng) 15; 23
skotia (sự tối tăm) 3; 8
Tính Thường Xuyên Của Việc Sử Dụng Các Từ khác
kosmos (thế gian) 14; 77
Zoe (sự sống) 16; 36
entole (mạng lệnh) 16; 11
doxa (sự vinh hiển) 23; 18
agapcuo (tình yêu) 26; 36
phileo (tình yêu) 8; 13
;
13. Hoàn tất mỗi lời giải thích dưới đây bằng cách viết từ then chốt phù hợp
trong Phúc âm Giăng cùng với từ Hylạp mà nó đã được dịch sang
a. Khái niệm liên quan đến những lời xưng nhận về Chúa Cứu Thế và là nền
tảng cho đức tin là
..................................................................................................
b. Từ ngữ được sử dụng nhiều nhất trong Phúc âm Giăng và cũng diễn đạt
chủ đề trọng tâm của phúc âm là
.................................................................................
c. Từ được dùng ở phần kết để mô tả mối liên hệ giữa chiên với người chăn
là
...........................................................................................................................
d. Mối liên hệ giữa Chúa Cứu Thế và Đức Chúa Cha mặc khải nền tảng cho
sự kết hiệp hoặc hiệp nhất trong đời sống thuộc linh của cộng đồng Cơ Đốc
được mô tả bằng từ
...........................................................................................................................
e. Từ thường được dùng nhất có liên quan đến thuộc linh và được dùng với
21. từ đời đời trong Phúc âm Giăng là
...........................................................................................................................
..
f. Lãnh vực phi thuộc linh của đời sống loài người được biểu thị bằng từ ngữ
...........................................................................................................................
g. Từ ngữ tượng trưng cho sự mặc khải soi sáng của Đức Chúa Trời là
...........................................................................................................................
.
14. Ghép cặp mỗi một từ ngữ then chốt của Phúc âm Giăng với lời giải thích
của từ đó
...a Hai ý nghĩa của nó phân biệt giữa sự tiếp nhận các sự kiện với việc hiểu
các sự kiện
...b Từ nầy thường được dùng với ý nghĩa tượng trưng cho "sự bối rối, lộn
lạo" hay "điều ác" hơn là theo nghĩa đen của nó.
...c Từ nầy được dùng để mô tả nhân loại nói chung và tượng trưng cho một
hệ thống chống lại ý muốn và mục đích của Đức Chúa Trời
. ...d Từ nầy khi được dùng trong Giăng đôi lúc ám chỉ một phẩm chất
"nghịch với sự dối trá" nhưng thường được dùng để nhấn mạnh rằng thực tế
xác minh hoàn toàn cho sự biết chắc
. ...e Từ nầy mô tả tính lâu bền trong mối quan hệ giữa người tin Chúa với
Chúa Cứu Thế
...f Từ nầy diễn tả sự tiếp nhận tích cực trước sự ban cho chân lý cách nhưng
không của Đức Chúa Trời
...g Nó ám chỉ cả thực hữu bên trong con người, lẫn Đức Thánh Linh, nhấn
mạnh đến yếu tố siêu nhiên trong từng trải của con người
15. Câu "Sự sáng soi trong tối tăm, nhưng tối tăm chẳng hề nhận lấy sự
sáng" (GiGa 1:5) giới thiệu chủ đề nào sau đây của Phúc âm Giăng?
a) Đức tin
b) Sự tương phản
c) Lòng tin
d) Sự đáp ứng về mặt thuộc linh
CÁC BÀI NGHIÊN CỨU THEO CHỦ ĐỀ
Tenney 311-315
Những Dấu Lạ và Biểu Tượng
Tenney 311-314
Những Dấu Hiệu
Các dấu lạ trong Phúc âm Giăng thực ra là các phép lạ mô tả con người và
quyền năng của Chúa Cứu Thế. Trong các bài sau chúng ta sẽ thảo luận đầy
đủ hơn ý nghĩa của các dấu lạ trong sách phúc âm nầy. Chúng ta để ý thấy
22. Chúa Jêsus đã làm nhiều phép lạ nữa mà Giăng không ghi chép. Vị sứ đồ
nầy là người đã chọn lọc ghi chép bảy dấu lạ nầy để mặc khải "Đức Chúa
Trời hành động" nhằm đáp ứng nhu cầu của con người. Biểu đồ của Tenney
trên trang 312 cho ta trình tự thời gian của các dấu lạ cũng như kết quả của
mỗi dấu lạ. Ở phần trước chúng ta đã có nói rằng, theo cách phân tích của
Tenney, cấu trúc của Phúc âm Giăng được chia thành sáu giai đoạn phân
biệt biểu đồ của ông về các dấu lạ, cho thấy các dấu lạ đều đã xuất hiện
trong các giai đoạn "xem xét, tranh cãi" và "xung đột"
16. Hãy đọc mỗi đoạn Kinh Thánh sau đây nói về 7 dấu lạ và nghiên cứu
biểu đồ của Tenney trên trang 312. Sau đó hãy cho biết dấu lạ nào bày tỏ
quyền năng của Chúa Jêsus trên mỗi một yếu tố được liệt kê bên dưới đây.
a. Quyền năng trên thiên nhiên
............................................................................
b. Quyền năng trên thì giờ
....................................................................................
c. Quyền năng trên chất lượng
..............................................................................
d. Quyền năng trên sự chết
...................................................................................
e. Quyền năng trên số lượng
...................................................................................
e. Quyền năng trên không gian
............................................................................
g. Quyền năng trên sự bất hạnh
............................................................................
17. Có bao nhiêu dấu lạ đã dẫn đến sự đáp ứng của
a. Lòng tin?
..........................................................................................................
b. Sự vô tín?
...........................................................................................................
Các Biểu Tượng
Tenney 313-314
Tenney nhắc đến tám biểu tượng Chúa Jêsus dùng được Phúc âm Giăng ghi
chép. Biểu đồ của ông trên trang 314 cho thấy sự phân bố biểu tượng quan
trọng nhất, là sự sáng, và cách biểu tượng ấy được dùng.
18. Vì sao Chúa Jêsus lại dùng các biểu tượng để mô tả chính mình Ngài
(Tenney, 313)?
......................................................................................................................
19. Biểu tượng nào được Tenney liệt kê không thể ứng dụng cho Chúa
Jêsus?
23. ...........................................................................................................................
...
Các Biểu Tượng Trong Phúc Âm Giăng
Câu nói " TA LÀ" của Chúa Jêsus Christ
Các Cuộc Đàm Luận
Tenney 313-316
Trong các sách Tin lành Cộng quan, chúng ta thường thấy Chúa Jêsus nói
chuyện với các đoàn dân đông; tuy nhiên trong Phúc âm Giăng chúng ta
khám phá rằng Chúa Jêsus cũng đã dành thì giờ để trả lời cho những cá nhân
cũng như những đoàn dân đông. Đây là một bằng chứng cho thấy sự vĩ đại
của Ngài, năng lực lãnh đạo của Ngài và sự khiêm nhường của Ngài khi cảm
thông với con người từ mọi nẻo đường đời.
20. Có bao nhiêu cuộc đàm luận của Chúa Jêsus với những cá nhân hoặc
những tập thể được chép trong Phúc âm Giăng?
...........................................................................................................................
...
Hãy nghiên cứu các cuộc đàm luận nầy trên biểu đồ của Tenney (316). Để ý
nhân vật nào hoặc những người nào được Chúa Jêsus trò chuyện , chủ đề của
cuộc trao đổi và kết quả. Bạn sẽ lưu ý sự khác nhau của người ta cùng những
vấn đề khác nhau. Trong tất cả những cuộc đàm luận nầy, Chúa Jêsus để lại
một tấm gương tuyệt vời cho chúng ta về cách tiếp cận với con người trong
đời sống hàng ngày và trong chức vụ của mình.
21. Câu nào sau đây KHÔNG được kể vào trong khuôn mẫu của những cuộc
đàm luận của Chúa Jêsus với những cá nhân hoặc những tập thể?
a) Một người hoặc những người nào đó được đưa vào mối tiếp xúc với Chúa
Jêsus.
b) Chúa Jêsus đã quyết định Ngài có muốn trao đổi với một cá nhân hoặc tập
thể đó hay không.
c) Chúa Jêsus đã đưa ra một nhận xét hoặc một câu hỏi bày tỏ điều gì đó về
tâm tánh của người đó.
d) Tất cả những cuộc phỏng vấn đều dẫn đến lòng tin hoặc sự vô tín ngay
lập tức.
22. Dựa trên biểu đồ của Tenney (316), hãy tìm ra mỗi phản ứng sau mỗi
cuộc đàm luận và viết vào từng chỗ trống dưới đây chữ
T nếu lập tức có một sự đáp ứng của lòng tin
V nếu lập tức có phản ứng của lòng vô tín
...a Những người Do thái (5:19-46)
...b Thầy tế lễ cả (18:19-23)
...c Simôn Phierơ (1:35-42)
24. ...d Người đàn bà Samari (4:1-26)
...e Mary và Mathê (11:17-45)
...f Philát (18:28-19:6)
...g Mary Mađơlen (20:11-18)
...h Một người quý tộc (quan thị vệ) (4:46-54)
23. Nói lên kết quả của mỗi cuộc gặp gỡ trao đổi đàm luận của Chúa Jêsus
sau đây:
a. Với Nicôđem (2:23-
3:15)......................................................................................
b. Với đoàn dân đông (12:20-
50).............................................................................
c. Với nhiều môn đồ (6:60-
70)................................................................................
24. Có bao nhiêu trong số các cuộc gặp gỡ với Chúa Jêsus cũng đã dẫn đến
sự chữa lành về nhu cầu thuộc thể cho con người.
...........................................................................................................................
...
Bài Tự Trắc Nghiệm
Sau khi đã ôn lại bài học nầy, bạn hãy làm bài tự trắc nghiệm. Sau đó kiểm
tra lại các câu trả lời của bạn với lời giải được cho phía sau bài hướng dẫn
học tập nầy. Ôn lại bất cứ những câu hỏi nào bạn làm chưa đúng.
CÂU LỰA CHỌN
Khoanh tròn mẫu tự đứng trước câu trả lời đúng nhất dành cho mỗi câu hỏi.
1. Niềm tin vào lời truyền khẩu cho rằng sách phúc âm đầu tiên được viết ra
là phúc âm của
a) Mathiơ
b) Mác
c) Luca
d) Giăng
2. Chín mươi mốt phần trăm của Phúc âm Mác được chứa đựng trong sách
phúc âm của
a) Mathiơ
b) Luca
c) Giăng
d) Cả Mathiơ lẫn Luca
3. Điều nào sau đây là sự nhấn mạnh chính yếu của sách phúc âm Giăng
a) Nhân tính của Đấng Christ
b) Tư cách người tôi tớ của Đấng Christ
25. c) Lòng tin đặt nơi Chúa Cứu Thế Jesus
d) Sự ứng nghiệm về Đấng Mêsia
4. Câu trích trong 13:23 về "vị môn đồ mà Chúa Jêsus yêu" được tin là một
lời mô tả dành cho
a) Phierơ
b) Giacơ
c) Giăng
d) Mathiơ
5. Câu "Chúng ta đã ngắm xem sự vinh hiển của Ngài" (1:14) giúp chúng ta
xác định ai là tác giả sách phúc âm thứ tư nếu câu nầy ám chỉ
a) Sự giáng sinh của Chúa Cứu Thế
b) Các phép lạ của Chúa Cứu Thế
c) Sự hóa hình của Chúa Cứu Thế
d) Báp tem của của Chúa Cứu Thế
6. Tất cả những lời sau đây về tác giả của sách phúc âm Giăng đều đặt cơ sở
trên bằng chứng nội tại TRỪ LỜI tuyên bố cho rằng ông
a) Đã viết phúc âm nầy tại thành Êphêsô
b) Là một người Do thái sống ở vùng Palestin
c) Là một bạn đồng hành của sứ đồ Phierơ
d) Phải là một người tận mắt chứng kiến
7. Người nào dưới đây đã từng là một học trò của sứ đồ Giăng và đã kể cho
Irenaeus điều Giăng đã dạy dỗ về Chúa Jêsus ở tại thành Êphêsô?
a) Ignatius
b) Justin
c) Tatian
d) Polycarp
8. Từ được dùng trong Phúc âm Giăng để mô tả nhân loại nói chung và để
biểu thị cho một hệ thống nghịch lại với ý muốn và mục đích của Đức Chúa
Trời là
a) Xác thịt
b) Thế gian
c) Tâm linh
d) Sự tối tăm
9. Tenney cho thấy dấu lạ hoặc mặc khải bởi sự chữa lành của Chúa Jêsus
trên con trai quan thị vệ là quyền năng của Ngài trên
a) Sự chết
b) Thiên nhiên
c) Không gian
d) Thời gian
10. Tất cả những biểu tượng nầy trong Phúc âm Giăng đều mặc khải các
26. phương diện của chức vụ Chúa Jêsus NGOẠI TRỪ biểu tượng về
a) Bánh
b) Cái cửa
c) Gốc nho thật
d) Sự tối tăm
CÂU ĐÚNG SAI - Hãy viết chữ Đ vào chỗ trống trước câu nào ĐÚNG.
Viết chữ S trước câu nào SAI
...11. Xét về trọng tâm nhắm vào Chúa Cứu Thế Jesus trong Phúc âm Giăng,
thì có lý để mà kết luận rằng tác giả sách phúc âm nầy đã quyết định không
nhắc đến tên của mình, bởi vì ông không muốn sự sự chú ý về mình.
...12. Tenney cho thấy rằng Phúc âm Giăng có một văn phong hạn chế về
những từ được dùng để diễn đạt những tư tưởng vừa đơn giản vừa sâu
nhiệm, rằng có nhiều từ được lập đi lập lại nhiều lần, và rằng cách diễn đạt
có tính biểu tượng thường được sử dụng.
...13. Một đặc điểm chung của tất cả các cuộc gặp trao đổi của Chúa Jêsus là
chúng đều dẫn đến lòng tin.
...14. Trong những lần gặp gỡ trao đổi của Ngài với những cá nhân, Chúa
Jêsus thường đưa ra một lời nhận định hoặc một câu hỏi bày tỏ điều gì đó về
đặc điểm của con người đó.
...15. Người đàn bà Samari đã bác bỏ những lời của Chúa Jêsus và bỏ đi với
lòng vô tín.
...16. Các cuộc gặp gỡ của Chúa Jêsus với các cá nhân và các tập thể đã bị
giới hạn trong ba giai đoạn đầu của cuộc đời Ngài, là cuộc đời kết thúc bằng
giai đoạn xung đột.
CÂU GHÉP CẶP. Ghép cặp mỗi từ được lập lại từ trong Phúc âm Giăng với
sự sắp xếp mà Tenney dành cho nó
...a Sự sáng (phos) và Sự Tối Tăm (skotia)
...b Đi theo (akoloutheo)
...c Biết (ginosko)
...d Làm chứng (marturia)
...e Lẽ thật (aletheia)
...f Xác thịt (sarx) và Thánh Linh (pneuma)
...g Tồn tại hoặc cứ ở (meno)
18. CÂU HỎI CHO BÀI TIỂU LUẬN - Bạn hãy trả lời câu hỏi nầy trong
vòng 50-100 từ. Hãy giải thích ý nghĩa của từ Cộng Quan khi từ nầy được áp
dụng cho ba sách phúc âm đầu, và đối chiếu các sách phúc âm Cộng Quan
với sách Phúc Âm Thứ Tư. Nêu ít nhất bốn đặc điểm nổi bật của Phúc âm
Giăng.
...........................................................................................................................
28. 5. c) Sứ đồ Giăng chính là tác giả và có lẽ ông đã được một người thư ký
giúp đỡ
6. c) Lời làm chứng của Irenaeus
e) Nội dung của 21:24-25
7. a Lời kết luận nầy rất yếu ớt bởi vì nó dựa vào một lời tuyên bố khá mơ
hồ của Papias, một văn sĩ vào thế kỷ thứ hai. Không có một bằng chứng rõ
ràng nào để chứng minh rằng có một vị trưởng lão tên là Giăng và một
Giăng khác là sứ đồ, từng tồn tại.
b. Luận thuyết nầy cũng không vững bởi vì vị môn đồ của Giăng sẽ không
phải là người chứng kiến tận mắt các sự kiện được ghi chép, và ông cũng sẽ
không phải tránh việc nhắc đến tên của sứ đồ Giăng.
c. Lý luận nầy được hậu thuẫn bởi những bằng chứng nội tại và ngoại tại
vững chắc
8. a,b,d và e là những câu đúng
9. d) Giữa khoảng 90 và 100 SC.
10. Niềm tin theo lời truyền khẩu cho rằng sứ đồ Giăng đã chết vì tuận đạo
vào những ngày đầu của Hội Thánh (Truyền khẩu nói rằng khi qua đời ông
đã là một ông cụ già)
11. a) Êphêsô
12. a 2) Lặp đi lặp lại
b 3) Mang tính biểu tượng
c 1) Bị giới hạn
d 2) Lặp đi lặp lại
e 1) Bị giới hạn
13. a Làm chứng (marturia)
b. Tin (pisteus)
c. Đi theo (akoloutheo)
d. Yêu thương (agapao)
e. Sự sống (zoe)
f. Xác thịt (sarx0
g. Sự sáng (phos)
14. a 6) Biết
b 3) Sự tối tăm
c 1) Thế gian
d 2) Lẽ thật
15. b Sự tương phản
16. a Chúa Jêsus đi bộ trên mặt nước
b Chúa Jêsus chữa lành người đàn ông bên ao
c Chúa Jêsus biến nước thành rượu
d Chúa Jêsus khiến Laxarơ sống lại từ kẻ chết
29. e Chúa Jêsus nuôi năm ngàn người
f Chúa Jêsus chữa lành con trai quan thị vệ
g Chúa Jêsus chữa lành người mù từ thuở sinh ra
17. a Cả bảy dấu lạ
b Bốn
18. a Mục đích của Ngài là minh chứng nhiều phương diện khác nhau của
chức vụ Ngài
19. Sự tối tăm
20. Hai mươi bảy
21. b) Chúa Jêsus đã quyết định Ngài có muốn trao đổi với cá nhân hoặc tập
thể đó hay không (Không có biểu lộ gì cho thấy Ngài từ chối một cuộc gặp
gỡ đàm luận như vậy)
22. a V
b V
c T
d T
e T
f V
g T
h T
23. a Có lẽ là tin, mặc dầu điều nầy không được tuyên bố rõ
b Có người tin, có người bác bỏ lẽ thật
c Một số tiếp nhận, một số khác bác bỏ
24. Bốn: con trai quan thị vệ, người đàn ông bên ao nước, người mù, và
Laxarơ, người sống lại từ kẻ chết.
CẤU TRÚC CỦA PHÚC ÂM GIĂNG
Mọi việc đều được thực hiện theo một kế hoạch riêng biệt và được cấu thành
bởi các phần theo một cấu trúc. Những ví dụ về điều nầy chính là cơ thể của
bạn, công trình kiến tạo mà bạn hiện sống trong đó, và những quyển sách mà
bạn đọc. Mỗi một điều đó minh họa cho sự sắp xếp theo một kế hoạch đặt cơ
sở trên chức năng và mục tiêu của tổng thể.
Điều nầy cũng có thể được áp dụng cho sách phúc âm Giăng. Cấu trúc của
sách có thể đã bắt nguồn từ chức năng và mục tiêu của sách. Khi bạn tiếp tục
nghiên cứu sách phúc âm nầy, bạn sẽ khám phá rằng tác giả đã không viết
chỉ vì muốn ghi lại những ý tưởng nẩy ra. Mà ông đã dành cả một sự cân
nhắc cẩn thận cho nội dung của sách dưới sự soi dẫn của Đức Thánh Linh.
Phúc âm nầy được viết ra nhằm đạt được một mục tiêu riêng biệt, và cấu
trúc của nó vốn là kết quả của sự hợp tác giữa Thánh Linh với tác giả cũng
30. như ảnh hưởng trên tác giả trong toàn bộ tiến trình ghi nhớ, chọn lọc, sắp
xếp và ghi chép các sự kiện vào sách phúc âm.
Tenney trình bày nhiều phương pháp khác nhau đối với cấu trúc của Phúc
âm Giăng. Chúng ta sẽ xem xét tất cả các phương pháp đó trong bài nầy.
Phương pháp ông giữ theo trong phần phân tích bản văn sách Phúc âm là
theo các đoạn nói về sự hành động. Điều nầy liên quan đến các giai đoạn
hoạt động trong cả chức vụ trước công chúng lẫn chức vụ âm thầm của Chúa
Cứu Thế Jesus như đã được khai triển trong Phúc âm Giăng. Các bài học
còn lại trong môn nầy đều dựa trên nhiều đoạn phân chia khác nhau về các
hoạt động.
Phần nghiên cứu về câu chủ đề của tác giả sẽ cho thấy rằng sách phúc âm
nầy có một sự kêu gọi mạnh mẽ về trách nhiệm truyền giáo. Sứ điệp của
sách không những thu hút mạnh mẽ những người nam và người nữ đến một
sự hiểu biết về sự cứu rỗi trong Chúa Cứu Thế Jesus, mà còn gây dựng các
tín hữu trong đức tin của họ. Hãy ghi nhớ những điều đó trong khi học tập
về cấu trúc và mục tiêu của sách Phúc âm nầy.
Ba Bằng Chứng về Cấu Trúc
Câu Chủ Đề của Tác Giả
Ngôn Ngữ được sử dụng
Chìa Khóa Các Dấu Lạ
Phương Cách: Tin
Mục Tiêu: Sự Sống
Cấu Trúc Theo Những Đoạn Được Phân Chia
Các Đoạn Nói Về Sự Hoạt Động
Các Đoạn Trình Bày Theo Trình Tự Thời Gian
Các Đoạn Chia Theo Địa Hình
Tầm Quan Trọng Của Cấu Trúc
Khi học xong bài nầy bạn có thể
- Giải thích được những cách khác nhau để hình thành cơ cấu nội dung của
Phúc âm Giăng.
- Thảo luận về ngôn ngữ, chìa khóa, phương cách, và mục tiêu của câu chủ
đề của Giăng.
- Phác thảo dàn bài của Phúc âm Giăng bởi các phần chia của nó theo hoạt
động, trình tự thời gian, và địa hình.
- Mô tả tầm quan trọng về cấu trúc của Phúc âm Giăng khi có liên quan đến
cốt truyện.
1. Đọc Tenney trang 21-53 và các đoạn Kinh Thánh được cho trong phúc âm
Giăng khi được yêu cầu đọc trong phần khai triển bài học.
31. 2. Tuân theo cùng một khuôn mẫu nghiên cứu dành cho bài nầy như đã cho
trong phần sinh hoạt học tập của Bài 1. Bảo đảm phải tra xem nghĩa của
những từ then chốt mà bạn chưa biết trong phần từ vựng nằm cuối sách
hướng dẫn học tập nầy.
3. Làm bài tự trắc nghiệm và kiểm tra lại các câu trả lời của bạn
biện giải
được chứng thực
hoàn thành
tranh luận
đáng tin cậy
BA BẰNG CHỨNG VỀ CẤU TRÚC
Tenney 21-27
Làm thế nào để chúng ta khám phá được cấu trúc của sách Phúc âm Giăng.
Hầu hết các sách vở hiện đại đều bao gồm một bảng mục lục dùng như một
chỉ dẫn về cấu trúc của các sách. Song các trước giả Thánh Kinh đã không
cung cấp cho chúng ta những dàn bài, chúng ta thấy trong các bản dịch hiện
đại của Kinh Thánh là những phần bổ sung được nhiều dịch giả khác nhau
thực hiện để trợ giúp chúng ta trong việc học tập nghiên cứu.
Tenney cho thấy rằng lần đầu tiên khi Giăng viết ra sách phúc âm của mình,
các độc giả của sách này "đã không gặp trở ngại do việc phải sử dụng bản
dịch" (21). Họ không cần những dàn bài hoặc các bài chú giải để giải nghĩa
cho họ. Họ hiểu rõ ngôn ngữ Giăng sử dụng và những thời điểm ông viết
đến, song chúng ta có thể tìm biết cấu trúc của Phúc âm Giăng, hoặc của bất
cứ sách nào, bằng cách sử dụng phương pháp nghiên cứu dạng phân tích mà
Tenney đã dùng. Phương pháp nầy bao gồm việc tìm kiếm 1) câu chủ đề của
chính tác giả, 2) những phần chia tự nhiên bên trong sách, và 3) cách diễn
đạt lặp đi lặp lại được sử dụng trong sách.
1. Hãy trả lời các câu hỏi sau đây, dựa trên trang 22-23 của Tenney
a. Chìa khóa để giải thích sách Giăng vào thời điểm sách được viết ra là gì?
(22)
...........................................................................................................................
.....
b. Loại cấu trúc nào là chính yếu để có được thành công khi đọc sách phúc
âm nầy cho dân chúng?
.....................................................................................................
c. Để việc đọc sách phúc âm này trở nên có ý nghĩa trong nơi riêng tư, người
đọc cần phải có những điều gì?
...........................................................................................................................
32. ......
2. Ba bằng chứng nội tại về cấu trúc trong sách Giăng mà Tenney tìm thấy là
gì?
...........................................................................................................................
.....
CÂU CHỦ ĐỀ CỦA TÁC GIẢ
Tenney 27-36; 20:30-31
Ngôn Ngữ Được Sử Dụng
Tenney 27-28; 34-36
Câu chủ đề của sứ đồ Giăng được tìm thấy gần cuối lời ký thuật của sách
phúc âm của ông trong 20:30-31. Hiểu được câu nầy là căn bản để hiểu toàn
bộ sách, vì nó bày tỏ ý định và phương thức của tác giả. Hãy xem xét phân
tích về mặt văn phạm của Tenney về đoạn nầy (27-28). Sau đó hãy so sánh
câu chủ đề của Giăng với câu chủ đề của Luca viết ở phần đầu phúc âm
Luca (LuLc 1:1-4)
3. Ghép cặp mỗi lời mô tả hoặc hàm ý với câu chủ đề mà nó mô tả đúng nhất
...a Chúa Jesus là chủ đề trọng tâm
...b Tác giả thừa nhận rằng có các bản ký thuật tương tự khác được viết ra
...c Mục đích chính của tác giả là để nuôi dưỡng đức tin
...d Mục tiêu của tác giả là để xác nhận thần tính của Chúa Jesus
...e Việc chọn lọc phần ký thuật được nhấn mạnh
...f Thứ tự của phần ký thuật được nhấn mạnh
...g Mục tiêu chính của tác giả là lẽ thật
Các dấu lạ, lòng tin, và sự sống là ba từ then chốt trong câu chủ đề của
Giăng, và chúng xuất hiện lặp đi lặp lại xuyên suốt Phúc âm Giăng. Chúng
đặc trưng cho mục đích của toàn bộ Phúc âm Giăng và có ý nghĩa quan
trọng về mặt Thần học. Tenney tuyên bố:
Những sự dạy dỗ nhấn mạnh xung quanh các dấu lạ nhằm giải thích những
hiện tượng ám chỉ các lẽ thật thuộc linh. Qua lòng tin, và đối nghịch với nó,
lòng vô tín, là những hành động và những phản ứng được nhìn thấy trong
câu chuyện ký thuật. Qua sự sống và điều tương phản của nó, là sự chết, kết
quả của số phận được quyết định bởi lòng tin hoặc lòng vô tín được bày
tỏ...Ba từ ngữ nầy: các dấu lạ, lòng tin, sự sống cung cấp một sự sắp xếp hợp
lý (lôgic) của sách Phúc âm Thứ Tư. Qua các dấu lạ xuất hiện sự mặc khải
của Đức Chúa Trời, qua lòng tin, có những phản ứng mà các dấu lạ phải dấy
lên, qua sự sống, là kết quả do lòng tin mang lại (33-34).
4. Trên các trang từ 34-36 Tenney luận về những cách mà ngôn ngữ trong
câu chủ đề của Giăng giúp chúng ta hiểu được phúc âm nầy. Hãy ghép cặp
33. từng manh mối để hiểu với lời giải thích của nó.
...a Sách phúc âm giải thích đời sống Chúa Jesus liên quan đến Đấng Mêsia
được dự báo trong Cựu ước và được dân tộc Do thái trông đợi.
...b Sách Phúc âm trình bày những sự kiện một cách trung thực để xác lập
lòng tin quyết.
...c Tác giả đưa vào những sự kiện được chọn để đạt được một mục tiêu rõ
ràng và ông tránh lập lại những sự kiện của sách Phúc âm khác.
...d Sách phúc âm nầy trình bày Chúa Jesus không phải với tư cách của một
con cái của Đức Chúa Trời, mà là Con Đức Chúa Trời.
...e Hết thảy các dấu lạ đều đã được thực hiện trước sự có mặt của những
nhân chứng trực tiếp đáng tin cậy.
Chìa Khóa: Các Dấu Lạ
Tenney 28-31
Những Từ Tương Tự Trong Tân Ước
Tenney 28-29
Các phép lạ là sự kiện chọn lựa hàng đầu của Giăng để viết sách Phúc âm.
Từ ngữ đặc trưng của sứ đồ Giăng dành cho chữ phép lạ là từ Semeion trong
tiếng Hylạp. Bauer định nghĩa semeion là "một dấu hiệu nổi bật để qua nó,
điều gì đó được nhìn biết" (1957,755). Trong sách Phúc âm Giăng, từ dấu lạ
hay semeion được dùng để cho thấy sức mạnh và uy quyền của Chúa Cứu
Thế. Những phép lạ được sứ đồ Giăng ghi chép không được trình bày nhằm
lôi cuốn những người thèm khát cảm xúc mạnh. Mà các phép lạ đã được
thực hiện để đáp ứng những nhu cầu của con người, và Giăng đã chép lại các
dấu lạ ấy để mặc thị Jesus là ai và những gì Ngài có thể làm. Các dấu lạ ấy là
lời làm chứng thiết yếu để nhấn mạnh lẽ thật thuộc linh" (Tenney, 29)
TỪ NGỮ HY LẠP VÀ NHỮNG PHẦN TRÍCH DẪN
Tenney luận đến ba từ ngữ Hylạp khác được dùng trong Tân ước chỉ về các
phép lạ. Khung 2.2 đưa ra một số dẫn chứng trong Kinh Thánh dành cho
mỗi từ đó, cũng như cách chúng được dịch trong bản Kinh Thánh NIV mà
chúng tôi đang sử dụng cho môn học nầy (Tenney dùng bảng American
Standard Version cho các phần trưng dẫn của ông), và trong các bản phổ
thông khác.
Ông Vine đưa ra sự phân biệt như sau giữa Semion, dunamis và teras: Dấu
lạ (semeion) được định để kêu gọi sự hiểu biết, sự lạ lùng (teras) lôi cuốn
khả năng hình dung, và quyền năng (dunamis) biểu thị nguồn gốc của nó là
siêu nhiên" (1984, 1240)
5. Hãy ghép cặp mỗi lời giải thích với từ Hylạp mà nó diễn tả
...a Nhấn mạnh bản chất trái ngược của phép lạ.
...b Biểu thị một lời kêu gọi đối với sự hiểu biết.
34. ...c Nhấn mạnh năng lực thuộc linh hoặc sức mạnh đằng sau phép lạ.
...d Cho thấy một điều lạ lùng nằm ngoài quy trình bình thường của các sự
kiện.
...e Cho thấy nguồn gốc siêu nhiên của phép lạ.
...f Tỏ rõ rằng phép lạ là điều thứ yếu so với quyền lực hoặc ý nghĩa đàng
sau phép lạ.
...g Biểu lộ một sự kêu gọi về khả năng tưởng tượng.
Sự Chọn Lọc Các Dấu Lạ Của Giăng
Tenney 29-31, 312
Câu mục tiêu của tác giả (GiGa 20:30-31) tiết lộ rằng, mặc dầu Chúa Jesus
đã làm nhiều phép lạ, Giăng chỉ chép những phép lạ nhất định vào sách Phúc
âm của ông và ông đã có một mục đích riêng biệt trong việc chọn lọc các
dấu lạ. Về điều nầy Tenney nói rằng "Những việc làm nhất định được Jesus
người Naxarét thực hiện, lạ lùng đến nỗi chúng đáng phải được lưu ý đặc
biệt, và đòi hỏi phải được giải thích" (30). Khi bạn đọc lời ký thuật về mỗi
dấu lạ nầy, hãy tự hỏi mình "Vì sao trong tất cả các phép lạ được Chúa Jesus
làm, Giăng chỉ chọn có điều nầy như là một dấu lạ để đưa vào sách Phúc âm
của ông ta?"
Nhiều nhà giải kinh gọi mười một đoạn đầu của sách Giăng là "Quyển sách
của Các Dấu Lạ" bởi vì tất cả bảy dấu lạ đều được chép trong đó. Các đoạn
nầy tập trung vào chức vụ công khai của Chúa Jesus. Trong khi đó phần còn
lại của sách Phúc âm nhấn mạnh đến chức vụ riêng của Ngài với các môn đồ
Ngài trước khi Ngài chịu đóng đinh và phục sinh. Mười đoạn cuối thường
được xem là "Cuốn Sách Của sự vinh hiển" liên quan đến các chủ đề như
Chúa Jesus trở về nơi Cha Ngài hoặc sự làm cho vinh hiển của Ngài.
Raymond E. Brown mô tả mối liên hệ giữa hai phần như sau:
Những dấu lạ trong quyển sách thứ nhất dự kiến sự vinh hiển của Chúa Jesus
theo một phương cách tượng hình cho những người có đức tin để nhìn thấu
các dấu lạ mà thấy được ý nghĩa của chúng (2:11; 11:4, 40),...Sự vận động
của quyển sách thứ hai, trực tiếp hướng những người đã tin vào các dấu lạ
trong sách thứ nhất, hoàn thành trong thực tiễn điều đã được dự kiến bởi các
dấu lạ của sách thứ nhất, hầu cho đoạn mở đầu có thể kêu lên rằng :"Chúng
ta đã ngắm xem sự vinh hiển của Ngài, thật như vinh hiển của Con Một đến
từ nơi Cha" (1:14) (1966 cxxxix)
6. Đọc lời luận của Tenney về các dấu lạ ở trang 30-31 và phần ký thuật của
Kinh Thánh về mỗi dấu lạ. Cũng hãy nghiên cứu biểu đồ của Tenney trên
trang 312 mà chúng ta đã xem qua ở Bài 1. Ghi nhớ đề tựa của mỗi dấu lạ,
câu Kinh Thánh trưng dẫn và điều nó mặc khải về Chúa Jesus. Sau đó hãy
hoàn tất biểu đồ dưới đây bằng trí nhớ.
35. BẢY DẤU LẠ TRONG PHÚC ÂM GIĂNG
7. Khoanh tròn mẫu tự đứng trước mỗi câu ĐÚNG liên quan đến các dấu lạ
dựa trên lời bàn của Tenney và của chúng ta trong phần nầy.
a. Mỗi dấu lạ trong Phúc âm Giăng đều có cặp theo một sự mặc khải về lẽ
thật thuộc linh được bày tỏ qua dấu lạ đó.
b. Trong Phúc âm Giăng, lòng tin và lòng vô tín được xem như những hành
động và phản ứng trước các dấu lạ.
c. Phúc âm Giăng ghi lại tất cả các phép lạ Chúa Jesus đã làm.
d. Những sự kiện được ghi chép có tính lịch sử trong Phúc âm Giăng đều tập
trung xung quanh một số dấu là mà Chúa Jesus đã làm.
e. Một trong các mục đích của phép lạ là để đáp ứng trước lòng khao khát
của con người, muốn xem những điều lạ lùng.
f. Giăng đã dùng từ semeion để nhấn mạnh đặc tính siêu nhiên của các phép
lạ được Chúa Cứu Thế thực hiện.
g. Các dấu lạ chứng tỏ quyền tể trị vượt trội hoặc quyền tối cao của Chúa
Cứu Thế trên những yếu tố ảnh hưởng đến đời sống con người.
Phương Cách: Lòng Tin
Tenney 31-32
Bảy phép lạ được chép trong Phúc âm Giăng tiết lộ một số những đặc điểm
hết sức quan trọng về quyền năng của Chúa Jesus và chúng khẳng định thần
tính của Ngài. Chúng cũng có một mục tiêu hết sức dứt khoát. Đó là thúc
đẩy người ta đến một phản ứng hoặc tiếp nhận hoặc khước từ; hoặc tin hoặc
không tin.
8. Điền vào những chỗ trống
a. Chúa Jesus đã làm các phép lạ đó trước sự có mặt của các môn đồ Ngài để
đem lại....................................................cho họ, và Giăng đã chép các điều
đó để bạn có
thể......................................................................................................................
....
b. Phần ký thuật của Kinh Thánh cho biết rằng có hai loại phản ứng của con
người trước các dấu lạ. Đó là...........................và
...............................................................
Cả hai phản ứng đó đều được tìm thấy trong Phúc âm Giăng, không những
chỉ khi Chúa Cứu Thế thực hiện các dấu lạ mà cả khi Ngài dạy dỗ về các dấu
lạ nữa. Chúng ta biết có nhiều người khi đã chứng kiến các phép lạ thì phản
ứng bằng sự vô tín. Điều nầy cũng đúng với nhiều người ngày nay khi nghe
sứ điệp phúc âm. Trong IICo 2Cr 4:4 Phaolô cho chúng ta biết vì sao như
vậy. Nói về Satan ông nói "Chúa đời nầy đã làm mù lòng những kẻ chẳng
tin, hầu cho họ không trông thấy sự vinh hiển chói lói của Tin lành Đấng