SlideShare a Scribd company logo
1 of 251
Download to read offline
Hướng Dẫn Học Công Vụ Các Sứ Đồ
Tác giả: John Hargreaves
Lời Mở Đầu
Cách Sử Dụng Tập Hướng Dẫn Nầy
Đọc Thêm
Dàn Y Sách Công Vụ Các Sứ Đồ
Phần Dẫn Nhập
Cong Cv 1:1-11 Mạng Lệnh Và Lời Hứa Của Đức Chúa Giê-Xu
1:12-26 Người Kế Nhiệm Giu-Đa
2:1-13 Sự Tuôn Đổ Đức Thánh Linh, Với Phụ Chú: “Tiếng Lạ”
2:14-41 Bài Giảng Đầu Tiên Của Phi-E-Rơ
2:42-47 Đặc Điểm Của Những Nhóm Cơ Đốc Nhân Đầu Tiên
3:1-26 Việc Chữa Lành Người Què, Với Phụ Chú: Chữa Lành
4:1-31 Phi-e-rơ và Giăng Bị Bắt, Với Phụ Chú: Chống Đối Và Bách Hại
4:32-5:42 Các Cơ Đốc Nhân Và Tòa Công Luận Do Thái
Chú Thích Đặc Biệt A: Lu-Ca, Nhà Sử Học
6:1-15 Việc Bổ Nhiệm Bảy Người
7:1-8:1a Bài Giảng Của Ê-Tiên Và Sự Chết Của Người, Với Phụ Chú: Luật
Pháp
8:1b-25 Sự Bách Hại Dẫn Đến Công Cuộc Truyền Giáo Tại Sa-Ma-Ri, Với
Phụ Chú: Phép Baptem
8:26-40 Phi-Lip Và “Hoạn Quan Ê-Thi-O-Pi”
9:1-19a Sự Cải Đạo Của Phao-Lô
Chú Thích Đặc Biệt B: Bối Cảnh Của Phao-Lô
9:19b-31 Sau Sự Cải Đạo Của Phao-Lô
9:32-11:18 Phi-E-Rơ Và Cọt-Nây
11:19-30 Công Cuộc Truyền Giáo Tại An-Ti-Ot Xứ Si-Ry
12:1-25 Hê-Rốt Ac-Rip-Pa I Bách Hại Hội Thánh
Bản Đồ: Vùng Đông Địa Trung Hải Vào Thời Tân Ước
13:1-12 Công Cuộc Truyền Giáo Tại Chíp-Rơ, Với Phụ Chú: Những Nhà
Lãnh Đạo Hội Thánh
13:13-52 Công Cuộc Truyền Giáo Tại An-Ti-Ot Xứ Bi-Si-Đi
14:1-28 Công Cuộc Truyền Giáo Tại Y-Cô-Ni Và Lit-Trơ
15:1-35 Giáo Hội Nghị Giê-Ru-Sa-Lem
15:36-16:10 Các Cơ Đốc Nhân Đem Phúc Am Về Hướng Tây
16:11-17:15 Phao-Lô Tại Ma-Xê-Đoan
17:16-34 Phao-Lô Tại A-Thên, Với Phụ Chú: Các Cơ Đốc Nhân Và Những
Người Theo Các Tôn Giáo Khác
18:1-28 Phao-Lô Tại Cô-Rin-Tô
19:1-41 Phao-Lô Tại Ê-Phê-Sô
Chú Thích Đặc Biệt C: Bản Thảo Sách Công Vụ
20:1-38 Hành Trình Của Phao-Lô Về Giê-Ru-Sa-Lem, Với Phụ Chú: Phép
Lạ
21:1-36 Phao-Lô Đến Giê-Ru-Sa-Lem
21:37-23:11 Hai Bài Giảng Của Phao-Lô Cho Người Do Thái
23:12-25:12 Các Tổng Đốc Lamã Xét Xử Phao-Lô
25:13-26:32 Phao-Lô Gặp Hê-Rốt Ac-Rip-Pa II, Với Phụ Chú: Cơ Đốc
Nhân Và Nhà Nước
27:1-28:31 Hành Trình Đến Lamã
Đường Thời Gian
Đáp An Cho Các Đề Nghị Nghiên Cứu
Phụ Lục
Lời Mở Đầu
Tôi xin chân thành cảm ơn mọi người đã giúp đỡ tôi chuẩn bị quyển sách
nầy, nhất là:
Hội chúng St Luke’s Church, Sevenoaks, Kent, đã dâng hiến rộng rãi để tôi
có thể đi thăm nhiều nơi tại Hi-lạp và Thổ-nhĩ-kỳ. Nhờ đó tôi thăm viếng
được hầu hết những chỗ đã được đề cập trong sách Công Vụ (sau khi đã làm
việc tại Giê-ru-sa-lem mấy năm);
Ban điều hành Inter-Church Travel, nhất là Canon Ron Brownrigg, đã tư vấn
và tổ chức chu đáo các chuyến đi;
Tiến sĩ Athanasius Delikostopoulos ở Athen, đã chia sẻ kiến thức về các
hành trình của Phao-lô, cũng như nhiều Cơ Đốc Nhân khác đang sống trong
những xứ mà Phao-lô đã thực thi công tác của mình;
Các sinh viên của Đại Học Selly Oak và các độc giả của Rochester Diocese
đã cùng tham gia học sách Công Vụ với tôi;
Những người đã phê bình quyển sách nầy qua kinh nghiệm của họ ở nhiều
vùng khác nhau trên thế giới: anh tôi, MS Cecil Hargreaves, trước đây dạy ở
Đại Học Bishops, Calcutta; MS Monrelle Williams ở Đại Học Codrington,
Barbados; và MS Pandang Yamsat ở Bukuru, Bắc Nigeria;
Cô Elizabeth Spence, đã đánh máy bản thảo đầu tiên với sự chính xác lâu
nay, và ông Stephen Ridout, đã có những đề nghị hữu ích trong việc tu chính
và sửa đổi;
MS Nick Beddow, chủ nhiệm tủ sách nầy, đã có những nhận xét thấu đáo;
Daphne Terry, người hơn ba mươi năm qua đã đem lại lợi ích lớn lao cho tôi
qua kỹ năng nghề nghiệp cũng như sự động viên và nhận xét tử tế (và thật sự
đã là một bà đỡ chuyên nghiệp cho toàn bộ tủ sách), và là người đã làm sống
động cuốn sách nầy bằng nhiều phương thức khác nhau.
JOHN HARGREAVES
Cách Sử Dụng Tập Hướng Dẫn Nầy
Dàn ý của quyển sách nầy đi theo cùng một khuôn mẫu như các sách hướng
dẫn học Kinh Thánh khác trong tủ sách (series) nầy.
Trong phần Dẫn Nhập chúng tôi xem xét các lý do vì sao Lu-ca viết “tập thứ
hai” của quyển sách có hai phần của ông, Phúc Âm và Công Vụ, và tại sao
nó được quan tâm và có tầm quan trọng đặc biệt đối với Hội Thánh trong thế
giới hiện đại.
Mỗi phần của sách Hướng Dẫn gồm có:
Một Bố cục tóm lược phân đoạn Kinh Thánh để làm sáng tỏ chuỗi sự kiện
Lu-ca đang mô tả và những chủ đề chính ông đang khai triển;
Một phần Giải nghĩa trong đó chúng tôi thảo luận mục đích chính của Lu-ca
khi viết, sứ điệp ông muốn truyền đạt và ý nghĩa của sứ điệp đó đối với độc
giả đương thời của ông, và cách chúng ta nên hiểu và áp dụng sứ điệp đó vào
cuộc sống của chính mình ngày nay;
Những chú thích về những từ đặc biệt và những câu dường như cần được
giải thích hoặc thảo luận thêm; và
Những lời đề nghị chỉnh lý cùng nghiên cứu thêm.
Những Chú Thích Đặc Biệt
Ba chú thích bối cảnh nầy, về độ chính xác của Lu-ca với tư cách một nhà sử
học, bối cảnh của Phao-lô, và bản thảo sách Công Vụ, nằm tách biệt với
những phần đề cập đến các phân đoạn Kinh Thánh bởi vì mỗi bối cảnh đều
liên hệ ít nhiều đến toàn thể quyển sách. Một số độc giả có thể thích đọc
chúng ngay sau phần dẫn nhập, trước khi đi vào phần nghiên cứu chi tiết bản
văn sách Công Vụ.
Những Phụ Chú Và Nghiên Cứu Từ Ngữ
Những chú thích mở rộng về chín chủ đề then chốt, được Lu-ca đặc biệt
quan tâm vì tầm quan trọng của chúng trong cuộc sống của Hội Thánh đầu
tiên - đồng thời cũng quan trọng như vậy ngày nay -theo sau các chú thích
thông thường tại các điểm thích hợp trong bản văn. Các chú thích thông
thường tự chúng đã bao gồm các nghiên cứu chi tiết về nhiều từ ngữ Kinh
Thánh quan trọng được Lu-ca sử dụng trong Công Vụ. Phần tham khảo
Index dành cho những nghiên cứu nầy và dành cho những chủ đề trong Phụ
Chú được in đậm.
Những Đề Nghị Nghiên Cứu
Những đề nghị nghiên cứu thêm xuất hiện ở cuối mỗi phần và mỗi Chú
Thích Đặc Biệt. Nhằm giúp đỡ những độc giả tự học có thể nghiên cứu kỹ
hơn và hiểu biết sứ điệp của Lu-ca rõ ràng hơn, cũng như giúp kiểm tra sự
tiến bộ của họ, chúng thật sự là một bộ phận của phần chú giải. Chúng cũng
có thể được sử dụng trong lớp học, và cung ứng đề tài cho việc nghiên cứu
và thảo luận theo nhóm. Chúng có ba loại chính:
On Lại Nội Dung : phần nầy nhằm giúp độc giả kiểm tra công việc họ đã
thực hiện, làm sâu nhiệm hơn sự hiểu biết của họ về những từ ngữ quan
trọng được sử dụng, và bảo đảm họ đã nắm bắt đầy đủ các ý tưởng và điểm
dạy dỗ đã cho;
Nghiên cứu Kinh Thánh : phần nầy liên hệ các ý tưởng và sự dạy dỗ trong
Công Vụ với các ý tưởng và sự dạy dỗ được tìm thấy trong các phần khác
của Kinh Thánh;
Thảo Luận Và Ap Dụng : phần nầy nhằm gợi ý cho độc giả nhận thức mối
liên hệ giữa Hội Thánh thời Lu-ca và Hội Thánh ngày nay, và suy nghĩ đến
việc áp dụng thực tiễn sứ điệp của Lu-ca vào chính cuộc sống Cơ Đốc của
mình. Chúng đặc biệt thích hợp cho các nhóm học tập.
Cách tốt nhất để sử dụng phần Đề Nghị Nghiên Cứu nầy là: trước hết, hãy
đọc lại phân đoạn Kinh Thánh; thứ hai, đọc phần thích hợp trong sách
Hướng Dẫn một hay hai lần; rồi sau đó thực hiện công tác được đề nghị,
hoặc là bằng bài viết hoặc bằng thảo luận theo nhóm, mà không nhìn vào
Sách Hướng Dẫn trừ phi được yêu cầu làm như vậy.
Phần Đáp Án cho Đề Nghị Nghiên Cứu (tr.233) sẽ giúp độc giả có thể kiểm
tra bài làm của mình đối với những câu hỏi có thể kiểm tra được theo cách
nầy. Trong hầu hết các trường hợp phần đáp án không đưa ra câu trả lời cho
một câu hỏi: nó chỉ chỗ tìm câu trả lời trong bản văn.
Bản Đồ và Đường Thời Gian
Bản đồ (tr.120) bao gồm tất cả các địa danh đề cập trong Công Vụ; đường
thời gian (tr.231) cho thấy thứ tự tương đối các sự kiện Lu-ca mô tả, trong
chừng mức ngày tháng của chúng có thể được xác định.
Đọc thêm
Mục lục sách tham khảo ở tr.x liệt kê một số sách mà độc giả có thể thấy là
hữu ích khi nghiên cứu thêm về sách Công Vụ .
Bản Dịch Kinh Thánh
Bản dịch tiếng Anh của Kinh Thánh được dùng trong sách Hướng Dẫn nầy
là bản Revised Standard Version Common Bible (Ecumenical Edition )
(RSV). Những bản dịch khác được dùng trong một ít trường hợp mà chúng
làm rõ nghĩa hơn là The New English Bible (NEB), Good News Bible
(GNB), New International Version (NIV), và bản của J.B. Phillips. Bản
Authorized Version (AV) cũng được đề cập. (Trong bản dịch Việt Ngữ của
sách hướng dẫn, Bản Kinh Thánh chính thức của Hội Thánh Tin Lành Việt
Nam được sử dụng- ND).
Phụ Lục
Phần Phụ Lục chỉ bao gồm những tên tuổi quan trọng hơn của những con
người và nơi chốn được đề cập và những chủ đề xuất hiện trong Công Vụ.
Phần tham khảo trang in đậm cho thấy chỗ mà đề tài cụ thể đó được trình
bày chi tiết.
ĐỌC THÊM
CÔNG VỤ
Bewes,R., The Church Reaches Out , London, Mowbrays 1981
Bruce, F.F., The Acts Of The Apostles , London, Marshall, Morgan and
Scott, 1954
-- Acts . London, scripture union 1982
Hanson, R.P.C., The Acts (New Clarendon Bible). Oxford University Press,
1967
Marshall, Howard, Acts . Leicester UK, Inter-Varsity Press 1980
Neil, William, Acts (New Century Bible). Basingstoke UK, Marshall
Pickering 1973.
THÁNH PHAO-LÔ
Grollenberg, L.H., Paul . London, SCM Press 1978
Pollock, J., The Apostle . Tring UK, Lion Publishing 1969
Dàn Ý Sách Công Vụ Các Sứ Đồ
Phần A. Sự khai sinh Hội Thánh Cơ Đốc (1:1-5-42)
SỰ CHUẨN BỊ
Những Mạng lệnh và lời hứa của Đức Chúa Giê-xu. 1:1-11
Người kế nhiệm Giu-đa. 1:12-26
HỘI THÁNH ĐƯỢC ĐẦY DẪY ĐỨC THÁNH LINH
Sự tuôn đổ Đức Thánh Linh. 2:1-13
Bài giảng đầu tiên của Phi-e-rơ. 2:14-41
Đặc Điểm Của Những Nhóm Cơ Đốc Nhân Đầu Tiên. 2:42-47
HỘI THÁNH TẠI GIÊ-RU-SA-LEM
Việc Chữa Lành Người Què. 3:1-26
Phi-e-rơ Và Giăng Bị Bắt. 4:1-31
Các Cơ Đốc Nhân Và Tòa Công Luận Do Thái. 4:32-5:42
Phần B. Sự phát triển Hội Thánh từ Giê-ru-sa-lem đến An-ti-ốt xứ Sy-ri
(6:1-12:25)
CÔNG CUỘC TRUYỀN GIÁO CHO NGƯỜI DO THÁI NÓI TIẾNG HI-
LẠP
Việc Bổ Nhiệm Bảy Người. 6:1-15
Bài Giảng Của Ê-Tiên Và Sự Chết Của Người. 7:1-8:1a
CÔNG CUỘC TRUYỀN GIÁO CHO NGƯỜI SA-MA-RI VÀ NGƯỜI Ê-
THI-Ô-PI
Sự Bách Hại Dẫn Đến Công Cuộc Truyền Giáo Tại Sa-Ma-Ri. 8:1b-25
Phi-Lip Và “Hoạn Quan Ê-thi-ô-pi”. 8:26-40
SỰ CẢI ĐẠO CỦA PHAO-LÔ
Sự Cải Đạo Của Phao-Lô. 9:1-19a
Sau Sự Cải Đạo Của Phao-Lô. 9:19b-31;
CÔNG CUỘC TRUYỀN GIÁO CHO DÂN NGOẠI
Phi-e-rơ Và Cọt-Nây. 9:32-11:18
Công Cuộc Truyền Giáo Tại An-Ti-Ot Xứ Si-Ry. 11:19-30
Hê-Rốt Ac-rip-pa I Bách Hại Hội Thánh. 12:1-25
Phần C. Sự lan truyền Phúc Âm từ An-ti-ốt xứ Sy-ri đến Lamã (13:1-28:31)
ĐẠI SỨ MẠNG “THỨ NHẤT” CỦA PHAO-LÔ - ĐẾN VỚI DÂN NGOẠI
Ở CHÂU Á
Công Cuộc Truyền Giáo Tại Chíp-Rơ. 13:1-12
Công Cuộc Truyền Giáo Tại An-Ti-Ot Xứ Bi-Si-Đi. 13:13-52
Công Cuộc Truyền Giáo Tại Y-Cô-Ni Và Lit-Trơ. 14:1-28
TRANH LUẬN
Giáo Hội Nghị Giê-Ru-Sa-Lem. 15:1-35
ĐẠI SỨ MẠNG THỨ NHÌ CỦA PHAO-LÔ - TẠI CHÂU ÂU
Các Cơ Đốc Nhân Đem Phúc Am Về Hướng Tây. 15:36-16:10
Phao-Lô Tại Ma-Xê-Đoan. 16:11-17:15
Phao-Lô Tại A-Thên. 17:16-34
Phao-Lô Tại Cô-Rin-Tô. 18:1-28
ĐẠI SỨ MẠNG THỨ BA CỦA PHAO-LÔ - TẠI CHÂU Á
Phao-Lô Tại Ê-Phê-Sô. 19:1-41
PHAO-LÔ BỊ BẮT
Hành Trình Của Phao-Lô Về Giê-Ru-Sa-Lem. 20:1-38
Phao-Lô Đến Giê-Ru-Sa-Lem. 21:1-36
Hai Bài Giảng Của Phao-Lô Cho Người Do Thái. 21:37-23:11
Các Tổng Đốc Lamã Xét Xử Phao-Lô. 23:12-25:12
Phao-Lô Gặp Hê-Rốt Ac-Rip-Pa II. 25:13-26:32
NGƯỜI TÙ PHAO-LÔ ĐẾN LAMÃ
Hành Trình Đến Lamã. 27:1-28:31
Tại sao Lu-ca viết Công Vụ Các Sứ Đồ?
Thỉnh thoảng có những cuộc cách mạng chính trị ở nước nầy hoặc nước kia,
và các đài phát thanh cũng như báo chí sôi nổi tường thuật lại những sự kiện
đó. Tác giả sách Công Vụ cũng đang tường thuật lại một cuộc cách mạng,
nhưng đó lại là một cuộc cách mạng thuộc một loại khác hẳn. Ong đang kể
lại sự thay đổi hết sức vĩ đại trong cung cách người ta nghĩ về Đức Chúa
Trời sau khi Đức Chúa Giê-xu đến. Tác giả, Lu-ca, là một người Hi-lạp đã
nhận biết rằng Đức Chúa Trời yêu thương và chăm sóc mọi chủng tộc chứ
không riêng gì người Do Thái. Đây là một tin tức tốt lành đối với Lu-ca, và
là một ý tưởng mới mẻ và cách mạng đối với ông, đến nổi ông dành phần
còn lại của cuộc đời mình để công bố nó ra. Có lẽ ông đã giúp Phao-lô rao
giảng Tin Lành nầy cho người Do Thái cũng như người không phải Do Thái,
và chắc chắn ông là tác giả của một quyển sách có hai phần.
Phần thứ nhất trong quyển sách có hai phần của Lu-ca là sách Phúc Âm
mang tên ông, phần thứ hai là sách Công Vụ Các Sứ Đồ. Trong cả hai phần
ông đều có mục đích đặc biệt nầy: để bày tỏ rằng Thánh Linh của Đức Chúa
Trời đã linh cảm (inspired) Đức Chúa Giê-xu và các môn đồ của Ngài nhằm
phá vỡ các rào chắn, tức là những điều phân rẽ con người thuộc các tôn giáo,
chủng tộc và quốc gia khác nhau. Điều đã diễn ra, và điều chúng ta đọc được
trong Công Vụ, nổi bật đến nỗi khi mô tả điều đó là “sự mở mang hội thánh”
(church spreading) thì chưa đủ. Nói rằng hội thánh đang “bùng nổ” thì chính
xác hơn.
Chúng ta nhìn thấy mục đích của Lu-ca trong sách Phúc Âm của ông từ
những phân đoạn như sau (những phân đoạn không có trong các sách Phúc
Âm khác): “làm ánh sáng trước mặt muôn dân ” (tức là, người không phải
Do Thái, LuLc 2:31), hoặc “Có một người trong bọn họ đến sấp mặt xuống
đất, nơi chơn Đức Chúa Giê-xu, mà tạ ơn Ngài. Vả, người đó là người Sa-
ma-ri ” (17:16).
Chúng ta tìm được sứ điệp y hệt như vậy trong Công Vụ, chẳng hạn, “Các
ngươi sẽ làm chứng về ta … cho đến cùng trái đất” (Cong Cv 1:8). Sau đó,
từ chương 2 cho đến cuối sách, Lu-ca cho chúng ta thấy các giai đoạn mà
các Cơ Đốc Nhân đã trải qua, khi họ vươn đến những cá nhân hoặc nhóm
người mới và nối liền những sự phân cách giữa người Do Thái với những
dân khác. Ông mô tả loại người mà Cơ Đốc Nhân vươn tới: “người mới theo
đạo Giu-đa” tại Giê-ru-sa-lem (những người không phải Do Thái sinh hoạt
với các nhà hội Do Thái, 2:10), người Sa-ma-ri (8:5-25), một “người Ê-thi-
ô-pi” (8:26-40), Phao-lô nhận lãnh sứ mạng đem danh Chúa đến cho dân
ngoại (9:15), người Lamã (10:1-11:18), dân ngoại tại Tiểu Á (13:46), dân
ngoại mà các Cơ Đốc Nhân Do Thái chấp nhận vào hội thánh tại giáo hội
nghị Giê-ru-sa-lem (15:19), dân ngoại tại châu Âu (15:36-18:38). Cuối cùng
Lu-ca tường thuật một cách đắc thắng cách Phao-lô đến Lamã, là trung tâm
để các nhà truyền giáo có thể từ đó vươn đến mọi phần của đế quốc Lamã
(28:14). (Để có một bản tóm tắt sơ khởi về sứ điệp trung tâm mà Lu-ca công
bố, xin xem phần Dàn Ý Sách Công Vụ Các Sứ Đồ, tr.xi).
Mặc dầu đây là mục đích chính yếu của Lu-ca khi viết sách, dường như ông
cũng có ba mục tiêu khác nữa:
Để bày tỏ rằng Thánh Linh của Đức Chúa Trời hành động trong cuộc đời
các Cơ Đốc Nhân đầu tiên, y như Ngài đã hành động trong cuộc đời Đức
Chúa Giê-xu. Lu-ca viết: “Mọi điều Đức Chúa Giê-xu đã làm và dạy từ ban
đầu …” (1:1), ý muốn nói rằng Đức Chúa Giê-xu tiếp tục công tác của Ngài
trong đời sống của các môn đồ Ngài. Vì lý do nầy, nhiều người gọi sách
Công Vụ là “Công Vụ Đức Thánh Linh” hơn là “Công Vụ Các Sứ Đồ”.
Để biện hộ cho các Cơ Đốc Nhân trước những người Lamã tố cáo họ bất
trung với Đế Quốc, và để cho thấy rằng các Cơ Đốc Nhân biết ơn những nhà
cầm quyền Lamã đã bảo vệ họ (xem chú thích ở 1:1a).
Để khích lệ các Cơ Đốc Nhân vào thời điểm các Sứ Đồ không còn ở đó nữa
để dẫn dắt họ (có lẽ Lu-ca viết vào khoảng 80-90 SC).
TẠI SAO NGÀY NAY CHÚNG TA ĐỌC SÁCH CÔNG VỤ?
Chúng ta nghiên cứu Công Vụ chủ yếu để mình có thể được mở ra với cùng
một Đức Thánh Linh là đấng đã linh cảm các Cơ Đốc Nhân đầu tiên và cảm
thúc họ hành động, và để chúng ta có thể được Ngài dẫn dắt. Lẽ tự nhiên
Thánh Linh Đức Chúa Trời sẽ dẫn dắt chúng ta làm nhiều điều như Ngài đã
dẫn dắt các Cơ Đốc Nhân đầu tiên, nhất là phá vỡ các rào chắn rất nghiêm
trọng giữa các quốc gia và chủng tộc ngay trong thế hệ chúng ta, và tạo ra sự
hiệp nhất và tình thông công giữa vòng nhiều nhánh phái của Hội Thánh
Đức Chúa Trời.
Nhưng các Cơ Đốc Nhân đầu tiên sống trong một thế giới khác biệt với thế
giới của chúng ta. Họ không có radio hoặc xe buýt, không có công đoàn
hoặc Liên Hiệp Quốc. Chúng ta nghiên cứu không phải để bắt chước chính
xác những điều họ đã làm. Thánh Linh Đức Chúa Trời là Linh hằng sống, và
có thể dẫn dắt chúng ta làm điều phù hợp với tình huống của chính mình. Vì
vậy chúng ta không nên trông mong tìm được trong Công Vụ những câu trả
lời cho mọi vấn nạn chúng ta đương đầu ngày hôm nay, chẳng hạn như: có
nên phong chức cho phụ nữ làm mục sư hoặc giám mục hay không, hoặc các
nước giàu có thể chia sẻ sự giàu có của mình với các nước nghèo hơn như
thế nào. Chúng ta phải tự tìm câu trả lời cho các vấn nạn đó, và chúng ta sẽ
làm như thế chủ yếu bằng cách dựa vào lời hứa của Đức Chúa Giê-xu: “Lúc
nào thần Lẽ Thật sẽ đến, thì Ngài dẫn các ngươi vào mọi lẽ thật” (GiGa
16:13).
Sách Công Vụ đặc biệt quan tâm đến và quan trọng cho các Cơ Đốc Nhân
ngày nay là thuộc viên của những hội chúng mới , hoặc là thuộc viên của
những hội thánh đang bắt đầu công tác mới . Các Cơ Đốc Nhân đầu tiên học
biết lệ thuộc vào Thánh Linh của Đức Chúa Trời bởi vì họ phải đương đầu
với những tình huống mới , và không còn có thể lệ thuộc vào các truyền
thống nữa. Dĩ nhiên truyền thống là quan trọng, và thật ngu xuẫn nếu bất
chấp truyền thống. Nhưng ngày nay diễn ra nhiều sự kiện mà truyền thống
không thể cung ứng sự hướng dẫn. Vì vậy những người đương đầu với
những tình huống mới trong thế kỷ nầy nên đọc sách Công Vụ để thấy cách
các Cơ Đốc Nhân đầu tiên sống, và bởi đọc nó họ có thể tìm được sự khích
lệ để tăng trưởng đức tin.
Một lý do nữa để đọc sách Công Vụ là chúng ta thấy trong đó cách các môn
đồ của Đức Chúa Giê-xu sống theo lời dạy dỗ mà chúng ta đọc được trong
các sách Phúc Âm (đây là lý do sách được gọi là “Công Vụ”). Tin tức tốt
lành nầy không chỉ là những điều Đức Chúa Giê-xu đã nói và làm, mà còn là
những điều Ngài đã ban cho và vẫn còn ban cho năng lực để tín đồ làm
được. Phúc Âm nói về những sự kiện hơn là những ý tưởng.
Ghi chú: Trong phần Dẫn Nhập nầy chúng ta chỉ mới cân nhắc đến hai câu
hỏi. Một số câu hỏi khác mà độc giả lưu tâm sẽ được xem xét trong phần
Các Ghi Chú Đặc Biệt, như là: “Lu-ca có đáng tin cậy với tư cách một nhà
sử học không?”, “Bối cảnh của các sự kiện được ghi lại trong Công Vụ là
gì?”.
NHỮNG ĐỀ NGHỊ NGHIÊN CỨU
ÔN LẠI NỘI DUNG
1. Tại sao chúng ta cần nghiên cứu Phúc Âm Lu-ca cùng với sách Công Vụ
?
2. (a) Lu-ca có mục đích đặc biệt gì khi viết quyển sách có hai phần của
ông?
(b) Hãy nghiên cứu Dàn Ý Sách Công Vụ (tr.xi). Dàn ý nầy cho thấy mục
đích đặc biệt của Lu-ca khi viết như thế nào?
NGHIÊN CỨU KINH THÁNH
3. Đọc LuLc 4:25-29.
(a) Tại sao Đức Chúa Giê-xu nhắc đến Ê-li-sê và Na-a-man (4:27)?
(b) Tại sao những người nghe Đức Chúa Giê-xu nổi giận với Ngài?
(c) Có mối liên hệ gì giữa phân đoạn nầy với sách Công Vụ?
THẢO LUẬN VÀ ÁP DỤNG
4. “Cùng một Đức Thánh Linh là đấng đã linh cảm các Cơ Đốc Nhân đầu
tiên … sẽ dẫn dắt chúng ta phá vỡ các rào chắn phân cách con người” - và
để đem Phúc Âm vượt qua những rào chắn nầy (tr.2). Ba loại “rào chắn”
phân cách con người ngày nay là: (1) những rào chắn giữa các nhóm hoặc
giai cấp người, (2) những rào chắn giữa các quốc gia và chủng tộc, (3)
những rào chắn giữa các giáo hội và hội chúng khác nhau.
(a) Có những loại rào chắn nào khác giữa con người khiến việc truyền bá
Phúc Âm bị ngăn trở?
(b) Các Cơ Đốc Nhân trong hội thánh bạn đang thực hiện điều gì, nếu có, để
phá vỡ một số những rào chắn nầy? Bạn nghĩ nên làm gì thêm?
5. Chúng ta đã xem xét một lý do chính khiến người ta đọc sách Công Vụ
(tr.2). Hãy đề nghị thêm một lý do tốt đẹp nữa.
Những Mạng Lệnh Và Lời Hứa
Của Đức Chúa Giê-Xu
Cong Cv 1:1-11
BỐ CỤC
1:1-3 Lu-ca nhắc nhở độc giả những điều ông đã nói về Đức Chúa Giê-xu
trong sách thứ nhất của ông (tức là Phúc Âm Lu-ca).
1:4-11 Những mạng lệnh và lời hứa của Đức Chúa Giê-xu.
GIẢI NGHĨA
Nhiều người, sau khi đọc suốt phân đoạn nầy, chỉ nhớ bản tường trình chi
tiết về Sự Thăng Thiên trong câu 2 và các câu 9-11. Nhưng, khi nghiên cứu
cẩn thận hơn, chúng ta thấy rằng Lu-ca không nhấn mạnh câu chuyện đó.
Điều ông đã làm là chia sẻ với độc giả ba tư tưởng đặc biệt:
Có một mối liên hệ chặt chẽ giữa các sự kiện được ghi lại trong các sách
Phúc Âm và những sự kiện được ghi lại trong Công Vu . Đức Chúa Giê-xu
là Đấng hoạt động trong suốt chức vụ trên đất của Ngài (“mọi điều Đức
Chúa Giê-xu đã làm và dạy từ lúc ban đầu”, c.1) chính là Đấng cũng họat
động trong đời sống của các môn đồ Ngài sau phục sinh. Như chúng ta đã
thấy, (tr.1 ở trên), Lu-ca nhấn mạnh lẽ thật nầy bằng cách viết một quyển
sách có hai phần, mô tả công tác của chỉ một thân vị, là Đức Chúa Giê-xu.
Đức Chúa Giê-xu truyền mạng lệnh cho các môn đồ Ngài . Những mạng
lệnh nầy là: (a) kiên nhẫn chờ đợi tại Giê-ru-sa-lem (c.4), (b) làm chứng
nhân cho Đức Chúa Giê-xu (c.8b), (c) đem lời chứng vượt qua biên giới các
quốc gia (c.8c).
Đức Chúa Giê-xu ban lời hứa , nghĩa là những người Ngài đã truyền làm
chứng nhân cũng sẽ được ban cho quyền năng để làm điều đó, “khi Đức
Thánh Linh giáng trên các ngươi” (c.8). Đức Chúa Trời không bao giờ giao
công việc cho chúng ta làm mà lại không cung ứng quyền năng để làm điều
đó. Trong những câu giới thiệu nầy Lu-ca chủ yếu trình bày những điều các
Cơ Đốc Nhân đầu tiên sắp thực hiện (như được ghi lại trong Công Vụ):
(a) Họ nương dựa đời sống mình nơi Đức Chúa Giê-xu, là Đấng họat động
cho họ cả trong quá khứ lẫn hiện tại (2:22-24 và 3:6).
(b) Họ thực hiện mạng lệnh làm chứng nhân (2:14).
(c) Họ có khả năng làm điều nầy bởi vì họ đã nhận lãnh Đức Thánh Linh
(2:4).
CHÚ THÍCH
1:1a: Thê-ô-phi-lơ. Lu-ca dành cả hai phần trong quyển sách của mình cho
Thê-ô-phi-lơ. Có lẽ ông là một viên chức Lamã (“quí nhân”, 1:3), và Lu-ca
hi vọng rằng ông sẽ khuyên giục nhà cầm quyền Lamã đối xử tử tế với các
Cơ Đốc Nhân. Tên Thê-ô-phi-lơ có nghĩa là “Người yêu mến Đức Chúa
Trời”.
1:1b: Đức Chúa Giê-xu đã làm và dạy từ ban đầu. Trong những từ nầy Lu-ca
đang nói đến những sự kiện ông đã ghi lại trong sách Phúc Âm của mình.
Bằng cách nói “Đức Chúa Giê-xu… từ ban đầu” (bản dịch tiếng Anh: Đức
Chúa Giê-xu bắt đầu làm ) ông muốn nói rằng “đó chỉ là khởi đầu của chức
vụ Ngài”. Vì vậy Cơ Đốc Nhân ngày nay không đi theo Đức Chúa Giê-xu là
Đấng từng một thời họat động, mà là Đức Chúa Giê-xu vẫn còn hoạt động
trong đời sống các môn đồ Ngài.
1:2a: cho đến ngày Ngài được cất lên trời. Cũng xem cc.9-11. Lu-ca là tác
giả Phúc Âm duy nhất ghi lại sự “thăng thiên” của Đức Chúa Giê-xu
(24:51), và là tác giả Tân Ước duy nhất giải thích đó là một điều người ta
thực sự chứng kiến.
Các tác giả Tân Ước khác nói về sự thăng thiên như là “sự tôn cao” của Đức
Chúa Giê-xu trong Đức Thánh Linh. Họ nhấn mạnh hai lẽ thật: (1) rằng Đức
Chúa Giê-xu đã hoàn tất cách đắc thắng công tác của Ngài trên thế gian,
chuyển giao quyền năng và thẩm quyền cho các Sứ Đồ để tiếp tục công tác
đó. Ngài không cần phải hữu hình với con người nữa (HeDt 12:2) (2) rằng
Đức Chúa Trời đã tiếp nhận Ngài “ngồi bên hữu Đức Chúa Trời”, tức là chia
sẻ thẩm quyền của chính Đức Chúa Trời (xem IPhi 1Pr 3:22).
Từ Cong Cv 2:33 và 5:31 chúng ta thấy rằng Lu-ca cũng tin như vậy. Nhưng
chúng ta phải giải thích bản ghi chép của Lu-ca về việc Đức Chúa Giê-xu
“được cất lên” trước sự hiện diện của các môn đồ như thế nào? Sau đây là
một vài lời giải thích khác nhau đã được đưa ra:
(a) Rằng đây là ngôn ngữ hình ảnh. “Đi lên” là điều một sinh viên năm thứ
nhất làm khi người ấy được cho lên năm thứ hai, và không ai nghĩ rằng
người ấy rời khỏi mặt đất. Khi chúng ta nói về Đức Chúa Trời, chúng ta chỉ
có thể dùng ngôn ngữ hình ảnh, nhưng lẽ thật nằm phía sau bức tranh mới là
phần quan trọng của bản ghi chép.
(b) Rằng ngôn ngữ hình ảnh của Lu-ca không ích lợi, bởi vì nó hàm ý rằng
Đức Chúa Trời có vị trí ở phía trên chúng ta về không gian, rằng “thiên
đàng” là một nơi ở trên các đám mây, và rằng Đức Chúa Giê-xu thăng lên
như một chiếc hỏa tiễn không gian. Nhưng Đức Chúa Trời là thần linh. Ngài
ở khắp mọi nơi. Ngài không “lên” nhiều hơn là Ngài “xuống” hoặc “ở chung
quanh”. Và “thiên đàng” là “nơi Đức Chúa Trời ngự” (chứ không phải là
một lãnh thổ).
(c) Rằng sự thăng thiên là một phép lạ. Nếu chúng ta cho rằng đó chỉ là ngôn
ngữ hình ảnh, chúng ta đang nói rằng Đức Chúa Trời không làm phép lạ.
1:2b: Các sứ đồ Ngài đã chọn. Khi Lu-ca sử dụng từ “Sứ Đồ” trong Công
Vụ, ông muốn nói đến “nhóm mười hai”, trừ ra trong 14:4 và 14:14 ông nói
đến Phao-lô và Ba-na-ba.
Nhưng từ Hi-lạp được dịch là “Sứ đồ” có nghĩa là “một người được sai đi”.
Vì vậy những tác giả khác sử dụng từ nầy cho các nhà lãnh đạo Cơ Đốc
khác, nhất là những người đem Phúc Âm đến những vùng đất mới (xem
IICo 2Cr 8:23, là nơi từ nầy được dịch là “sứ giả” trong RSV, và Cong Cv
4:33).
1:3a: Hiện đến với các sứ đồ trong bốn mươi ngày. Lu-ca ghi lại một số các
lần hiện ra (appearances) trong sách Phúc Âm của mình (ch.24), và có
những bản tường trình khác trong các Phúc Âm khác và trong ICo1Cr 15:5-
8. Lu-ca gọi những lần hiện ra nầy là “bằng chứng” rằng Đức Chúa Giê-xu
thật sự còn đang sống sau khi đã bị giết.
Nếu chúng ta hỏi loại thân thể đã “hiện ra” đó là loại thân thể nào thì không
có câu trả lời hoàn chỉnh. Trong LuLc 24:43 Lu-ca có ý nói rằng đó là một
thân thể bằng “thịt và huyết” (“Ngài ăn cá”), nhưng theo GiGa 20:19 thì
không phải, bởi vì thân thể nầy đi xuyên qua “cửa đã khóa” (NEB). Nhưng
sự thiếu hiểu biết của chúng ta về những lần hiện ra đó không có nghĩa là
không có sự hiện ra nào.
Chúng ta đọc thấy ở đây rằng Đức Chúa Giê-xu hiện ra trong “bốn mươi
ngày”, nhưng trong LuLc 24:1-53 thì dường như chỉ có một ngày. Có lẽ các
từ “đoạn, kế đó” trong 24:44 và 24:50 có nghĩa là “vào một lần khác” hơn là
“vào cùng ngày đó”.
1:3b: Phán bảo những sự về nước Đức Chúa Trời. Xem chú thích ở 28:23.
Nước Đức Chúa Trời là quyền chủ tể hoặc sự cai trị của Ngài trên nhân loại.
Nó không có nghĩa là một khu vực hoặc lãnh thổ. Nó đã tồn tại sẳn rồi (“ở
trong các ngươi”, 17:21) nhưng một ngày nào đó mới hoàn tất (“Nước Cha
được đến!”, 11:2). Hành động nầy của Đức Chúa Trời là điều Đức Chúa
Giê-xu rao giảng. Các Cơ Đốc Nhân đầu tiên chuyển tiếp lời rao giảng của
Đức Chúa Giê-xu về “nước (kingdom)” (xem Cong Cv 8:12), nhưng thường
thì họ giảng nhiều hơn về chính Đức Chúa Giê-xu.
1:4a: Lúc ở với các sứ đồ. Từ Hi-lạp được dịch là “ở” thật sự có nghĩa là
“lấy muối”, tức là, ăn bữa với họ. Đây là cách Đức Chúa Giê-xu thường gặp
gỡ và dạy dỗ các môn đồ (xem Mac Mc 2:15). Các bữa ăn luôn luôn có tầm
quan trọng trong việc tạo ra mối thông công giữa vòng các Cơ Đốc Nhân,
mối thông công mà trong đó việc học hỏi cũng có thể diễn ra, chẳng hạn như
trong các tu viện và một số đại học.
1:4b: Chờ điều Cha đã hứa. Các môn đồ phấn khởi với những điều đã xảy ra
và thấy khó lòng chờ đợi. Họ chỉ có thể làm như vậy, (a) bởi vì họ tin cậy
Đức Chúa Giê-xu, và (b) bởi vì họ biết rằng họ chưa nhận lãnh được quyền
năng mình cần.
Nhiều tân tín hữu cảm thấy rằng họ phải vươn ra và làm một điều gì đó hơn
là cứ ngồi chờ đợi cho đến khi họ được trang bị để hành động một cách có
hiệu quả. “Chờ đợi” có nghĩa là hi vọng nơi Đức Chúa Trời và tin cậy Ngài
(xem Thi Tv 130:5; HeDt 11:1).
Vị mục sư của một Hội Thánh tại Sri Lanka qua đời và hội chúng phải chờ
đợi mất bốn năm mới tìm được một vị mục sư mới thích hợp. Họ thấy việc
chờ đợi và tin cậy Đức Chúa Trời không dễ dàng chút nào. Nhưng trong suốt
thời gian đó họ thật vui mừng khám phá được rằng đã có biết bao thuộc viên
đóng góp được nhiều sự phục vụ có giá trị.
Lời hứa . Xem chú thích ở Cong Cv 13:23.
1:5: Chịu phép báp-têm bằng Đức Thánh Linh. Đây là một phần trong lời
hứa của Đức Chúa Giê-xu rằng các môn đồ của Ngài sẽ được ban cho quyền
năng để làm chứng cho Ngài (xem 3:16).
Một số Cơ Đốc Nhân dạy rằng trong những lời nầy Đức Chúa Giê-xu đã dự
định cho tất cả các môn đồ phải trải qua hai giai đoạn: thứ nhất, sự cải đạo,
với phép báp-têm bằng nước; thứ hai, phép báp-têm bằng Đức Thánh Linh.
Nhưng theo câu 5 Đức Chúa Giê-xu không nói về “hai giai đoạn”, Ngài chỉ
hứa ban “phép báp-têm bằng Đức Thánh Linh”. Xem Phụ Chú: “Phép Báp-
têm”, tr.79.
1:6: Có phải trong lúc nầy Chúa sẽ lập lại nước Y-sơ-ra-ên chăng? Các môn
đồ phạm hai lỗi lầm khi hỏi câu nầy:
Họ vẫn còn hi vọng rằng Đức Chúa Giê-xu có thể lãnh đạo một cuộc tấn
công chính trị vào nhà cầm quyền Lamã, để cho người Do Thái có thể trở
thành một quốc gia tự do. Nhưng đây không phải là công tác của Đức Chúa
Giê-xu. (Dĩ nhiên, điều nầy không có nghĩa là các thuộc viên của Hội Thánh
không bao giờ nên tham gia các họat động chính trị để dành tự do từ tay một
dạng chính quyền bất công.)
Họ muốn biết tương lai. Đức Chúa Giê-xu nói rằng việc “biết kỳ hạn và
ngày giờ” không dành cho họ (c.7, cũng xem Mac Mc 13:32). Cũng là lẽ tự
nhiên khi muốn biết điều gì sẽ xảy ra tiếp theo, chẳng hạn, để chuẩn bị cho
nó. Nhưng bổn phận của Cơ Đốc Nhân là phải cố gắng định hình tương lai
bằng những hành động của mình, chứ không phải bằng việc tiên đoán nó.
1:8: Khi Đức Thánh Linh giáng trên các ngươi, thì các ngươi sẽ nhận lấy
quyền phép, và làm chứng về ta tại thành Giê-ru-sa-lem … cho đến cùng trái
đất. Một câu nầy tóm tắt toàn bộ nội dung của sách Công Vụ.
Đức Thánh Linh . Sự giáng lâm của Đức Thánh Linh, mà Đức Chúa Giê-xu
đã hứa, diễn ra liên tục và không chỉ vào ngày Lễ Ngũ Tuần (xem chú thích
ở Cong Cv 2:4).
Chứng nhân , tức là những người công bố điều chính họ đã kinh nghiệm
hoặc nhìn thấy được, bằng lời nói và hành vi của mình. Đây chính là điều
các Sứ Đồ đã làm. Xem 1:22 và chú thích ở 23:11.
Tại Giê-ru-sa-lem … cho đến cùng trái đất . Đây là điều đã diễn ra. Các Sứ
Đồ làm chứng cho Đức Chúa Giê-xu trước tiên tại Giê-ru-sa-lem, rồi sau đó
đến các vùng chung quanh, rồi (khiến cho người ta ngạc nhiên) tại Sa-ma-ri,
và cuối cùng (sau khi đã làm chứng càng ngày càng xa Giê-ru-sa-lem) Phao-
lô mang lời chứng đến Lamã. Nhưng công tác của Hội Thánh thuộc mọi thời
đại là phải làm chứng cho “đến cùng trái đất”, nghĩa là xuyên qua mọi ranh
giới quốc gia và chủng tộc, như chúng ta thấy ở tr.1.
Quyền phép . Xem chú thích ở 3:12.
1:9-10: Một đám mây tiếp Ngài khuất đi … hai người nam hiện đến trước
mặt. Xuyên suốt cả Kinh Thánh, các tác giả sử dụng một đám mây như là
một dấu hiệu cho thấy chính Đức Chúa Trời đang hiện diện trong sự vinh
hiển Ngài, chẳng hạn, LuLc 9:34; KhKh 11:12. Vì vậy, Lu-ca muốn nói rằng
vào lúc nầy Đức Chúa Giê-xu chia sẻ sự vinh hiển và thẩm quyền của chính
Đức Chúa Trời.
“Hai người nam” là các thiên sứ (như trong LuLc 24:4), và trong Kinh
Thánh các thiên sứ là một dấu hiệu cho thấy Đức Chúa Trời đang truyền đạt
một sứ điệp cho nhân loại. Vì vậy Lu-ca đang nói ở đây rằng sứ điệp trong
câu 11 đến từ Đức Chúa Trời (xem chú thích ở Cong Cv 5:19).
Nhiều độc giả sẽ hỏi: “Đám mây và hai người nam là nhìn thấy được, hay
chỉ là ngôn ngữ hình ảnh?” Như chúng ta đã thấy, đây là một câu hỏi khiến
nhiều học giả bất đồng với nhau. Nhưng có một câu hỏi quan trọng hơn
nhiều là: “Có thật rằng, (a) Đức Chúa Giê-xu chia sẻ thẩm quyền của Đức
Chúa Trời , và (b) Đức Chúa Trời truyền thông với nhân loại không?” Ở cả
hai điểm nầy các tác giả Tân Ước đều đồng ý nói rằng: “Có”.
1:11a: Sao các ngươi đứng ngóng lên trời làm chi? Nghĩa là tại sao các
ngươi ngó chăm lên bầu trời thay vì làm trên đất điều Đức Chúa Giê-xu đã
bảo các ngươi làm? Đây là một lời cảnh cáo chống lại việc biến lời cầu
nguyện thành một lối thoát để tránh phải đáp ứng các nhu cầu của những
người ở chung quanh chúng ta.
1:11b: Jesus nầy, đã được cất lên trời khỏi giữa các ngươi, cũng sẽ trở lại.
Sự “đến” của Đức Chúa Giê-xu (hay “sự đến lần thứ hai” như một số Cơ
Đốc Nhân gọi) có nghĩa là thời điểm Đức Chúa Trời hoàn tất mọi điều Ngài
đang làm trên thế gian nầy. Trong câu nầy chúng ta học biết rằng Đức Chúa
Trời có một mục đích và có một kỳ cuối cùng mà Ngài đang dẫn chúng ta đi
tới. Chúng ta không nằm trong tay của Số Mệnh, nhưng nằm trong tay Ngài.
Đức Chúa Giê-xu khuyến cáo các môn đồ đừng hỏi: “Khi nào điều đó sẽ xảy
ra?” (c.7). Nếu chúng ta cũng hỏi cùng câu đó thì chúng ta không tin cậy
Đức Chúa Trời.
Trời (heaven ). Xem chú thích ở Cong Cv 1:2.
(lời chú thích phía dưới bức tranh ở trang 8:
“Để phá vỡ các rào chắn giữa các quốc gia và các chủng tộc…” (tr.2)
Những phần cuối cùng của cây cầu nầy đang được đặt vào đúng vị trí và đến
cuối cùng cây cầu nầy sẽ bắc ngang qua dòng sông mà hiện tại đang phân
cách con người ở nước nầy với những người ở một nước khác.)
ĐỀ NGHỊ NGHIÊN CỨU
ÔN LẠI NỘI DUNG
Tại sao Lu-ca nhắc đến “sách thứ nhất” của ông ở đầu sách Công Vụ ?
Tại sao Đức Chúa Giê-xu bảo các môn đồ phải chờ đợi tại Giê-ru-sa-lem?
Các môn đồ phạm phải lỗi lầm nào, theo phân đoạn nầy?
Câu Cong Cv 1:8 tóm tắt toàn bộ sách Công Vụ như thế nào?
Một đám mây tiêu biểu (signify) cho điều gì trong Kinh Thánh?
NGHIÊN CỨU KINH THÁNH
“Hiện đến với họ” (1:3). Hãy lập một danh sách những người hoặc nhóm
người mà Đức Chúa Giê-xu đã hiện ra, theo: Mat Mt 28:1-9 và 28:16-17;
LuLc 24:13-15 và 24:33-37; GiGa 20:11-16, 19; ICo1Cr 15:5-8.
Hãy đọc hai bản tường thuật về Sự Thăng Thiên mà Lu-ca đưa ra trong
LuLc 24:45-53 và Cong Cv 1:1-12. Những sự khác biệt chính yếu giữa
chúng là gì?
Những phân đoạn Kinh Thánh sau đây chứa đựng những cụm từ nào liên
quan đến Sự Thăng Thiên?
(a) 2:33 (b) 5:31 (c) RoRm 8:34 (d) Eph Ep 1:20 (e) HeDt 1:14 (f) 12:2 (g)
IPhi 1Pr 3:22
THẢO LUẬN VÀ ÁP DỤNG
9. Hãy đọc ba lời giải thích khác nhau nầy trong chú thích ở Cong Cv 1:2 về
bản tường trình trong Lu-ca về Sự Thăng Thiên.
(a) Bạn đồng ý với lời giải thích nào, và tại sao?
(b) Nếu bạn không đồng ý với bất kỳ lời giải thích nào trong số đó, hãy đưa
ra lời giải thích của riêng bạn, xin cho biết lý do.
10. Bạn hẳn đã có cảm nghĩ như thế nào nếu bạn là một trong những môn đồ
khi Đức Chúa Giê-xu “được cất lên khuất mắt” (Cong Cv 1:9)? Bạn giải
nghĩa LuLc 24:51-52 như thế nào?
11. “Ở với họ” (Cong Cv 1:4a) có lẽ có nghĩa là “ăn bữa với họ”.
(a) Trong những cơ hội nào (trừ Bữa Ăn Tối Cuối Cùng) Đức Chúa Giê-xu
ăn một bữa với các Bạn Ngài? Trưng dẫn, và đọc hết một hoặc hai trong số
những phân đoạn Kinh Thánh nầy.
(b) Theo kinh nghiệm của bạn “mối thông công và học hỏi” diễn ra trong
những bữa ăn chung khi nào và như thế nào?
12. “Kỳ hạn và ngày giờ là việc các ngươi chẳng nên biết” (1:7).
(a) Tại sao Đức Chúa Giê-xu nói điều nầy?
(b) Hãy đưa ra một ví dụ về một người hoặc nhóm người ngoan đạo ngày
nay tuyên bố rằng có thể đoán trước được tương lai.
Người Kế Nhiệm Giu-Đa
[dc Cong 1:12-26;
[tdc BỐ CỤC
1:12-14 Các môn đồ trở về Giê-ru-sa-lem
1:15-22 Bài phát biểu của Phi-e-rơ về Giu-đa.
1:23-26 Việc lựa chọn vị Sứ Đồ thứ mười hai.
GIẢI NGHĨA
Trong những câu nầy Lu-ca kể lại hai sự kiện: các Sứ Đồ trở về Giê-ru-sa-
lem và họ lựa chọn Ma-thia thế chỗ cho Giu-đa Ích-ca-ri-ốt.
CÁC SỨ ĐỒ TRỞ VỀ
Các Sứ Đồ đã ở trên núi Ô-li-ve với Đức Chúa Giê-xu, rồi thình lình họ
không còn nhìn thấy Ngài nữa, và chỉ có thể hồi tưởng lại chức vụ của Ngài
mà thôi. Lúc ấy họ đi bộ về Phòng Cao tại Giê-ru-sa-lem và bắt đầu một
cuộc sống mới tại đó khi họ chờ đợi sự ban cho (the gift of) Đức Thánh
Linh. Tương tự như vậy, các Cơ Đốc Nhân đúng khi hồi tưởng lại quá khứ,
lại chức vụ trên đất của Đức Chúa Giê-xu, mà cũng đúng khi sống cho hiện
tại vì từng ngày một họ nhận lãnh được sự ban cho Đức Thánh Linh.
VIỆC LỰA CHỌN VỊ SỨ ĐỒ THỨ MƯỜI HAI
Có mười hai chi phái Y-sơ-ra-ên và Đức Chúa Giê-xu đã chọn mười hai Sứ
Đồ làm những thành viên đầu tiên của nước Y-sơ-ra-ên mới (xem GaGl
6:16, trong đó Phao-lô gọi Hội Thánh là “Y-sơ-ra-ên của Đức Chúa Trời”).
Vì lý do nầy họ tin rằng cần phải chọn một Sứ Đồ khác khi Giu-đa chết.
Tên tuổi của mười một người được liệt kê trong c.13 giống y như danh sách
trong LuLc 6:13-16.
CHÚ THÍCH
1:12: Một quãng đường ước đi một ngày Sa-bát, tức là khoảng một kilomet.
Người Do Thái giữ điều răn thứ tư bằng cách không đi xa hơn mức nầy
(xem chú thích ở Cong Cv 13:14). Các Sứ Đồ đi xuống núi Ô-li-ve, băng
qua trũng Kết-rôn, rồi leo lên ngọn đồi dốc vào Giê-ru-sa-lem.
1:13: Lên phòng cao. Có lẽ lắm đây là căn phòng nơi Đức Chúa Giê-xu đã
ăn Bữa Ăn Tối Cuối Cùng với họ (LuLc 22:12), và nằm trong căn nhà của
Giăng Mác (Cong Cv 12:12). Ngày nay nhà thờ thánh Mác của Giáo Hội Sy-
ri có lẽ nằm ở chỗ nầy.
1:14a: Bền lòng mà cầu nguyện (hoặc “liên tục cùng nhau cầu nguyện” -
NEB, một bản dịch tốt hơn) có lẽ là tại Đền Thờ hoặc một nhà hội (cũng
xem 2:42).
Trong Phúc Âm nầy Lu-ca ghi lại nhiều gương mẫu cầu nguyện hơn các tác
giả Phúc Âm khác, và có nhiều gương mẫu như vậy trong Công Vụ. Hãy chú
ý kỹ: (a) cầu nguyện là một việc làm thường xuyên (chẳng hạn LuLc 11:1;
Cong Cv 10:9), (b) cầu nguyện trước khi quyết định (chẳng hạn 1:24; 13:3),
(c) cầu nguyện là cách chủ yếu để tiếp nhận Thánh Linh Đức Chúa Trời. Trừ
phi Cơ Đốc Nhân tiếp nhận Thánh Linh Ngài, họ không thể làm theo ý chỉ
Ngài.
1:14b: Với các người đàn bà … cùng anh em Ngài.
1. Sự kiện phụ nữ được bao gồm cho thấy một cuộc cách mạng đã diễn ra
giữa vòng các Cơ Đốc Nhân nhờ thái độ của Đức Chúa Giê-xu đối với phụ
nữ. Mặc dầu tất cả các Sứ Đồ đều là đàn ông, các phụ nữ giữ một vị trí quan
trọng giữa vòng các “anh em” (xem chú thích 16:14). Những phụ nữ nầy có
thể là vợ của các Sứ Đồ hoặc những người phụ nữ chúng ta đọc thấy trong
LuLc 8:2 và 24:10. Một người là Ma-ry, mẹ Đức Chúa Giê-xu.
2. Các em của chính Đức Chúa Giê-xu lúc đầu vốn chống đối Ngài (GiGa
7:5), nhưng đã đi đến chỗ tin Ngài. Điều gì đã thay đổi họ? Chắc chắn đó là
sự kiện Đức Chúa Giê-xu được khiến sống lại sau khi Ngài đã chết.
1:15a: Phi-e-rơ đứng dậy. Ngay sau khi các Sứ Đồ trở về Giê-ru-sa-lem, Phi-
e-rơ trở nên người lãnh đạo của họ. Thật lạ là Lu-ca chẳng nhắc gì đến ông
sau chương 15 (xem chú thích ở Cong Cv 15:7).
1:15b: Ước được một trăm hai mươi người. Con số những người đi theo Đức
Chúa Giê-xu nhiều hơn số 12 môn đồ (xem LuLc 10:1), và bây giờ 120
người trong số họ có đủ can đảm để liều mình chịu bị bắt và rời khỏi gia
đình mình.
Nhưng họ là một con số rất nhỏ trong số ba phần tư triệu người Do Thái
sống trong và quanh Giê-ru-sa-lem. Dầu vậy chính qua họ mà Hội Thánh
phát triển.
1:16a: Kinh Thánh phải được ứng nghiệm. Các Sứ Đồ quá bối rối bởi việc
Giu-đa phản bội Đức Chúa Giê-xu và bởi sự chết Ngài đến nổi họ phải tìm
cho ra một lời giải thích. Phi-e-rơ giải thích rằng nếu họ đọc Thi Thiên 69 và
109 thì họ sẽ không ngạc nhiên bởi những sự kiện như vậy. Những sự kiện
nầy làm “ứng nghiệm” điều đã được viết trong những Thi Thiên đó.
Những sự kiện đó được “ứng nghiệm” như thế nào?
1. Cả hai Thi Thiên đều nói đến việc chịu khổ và bị phản bội của dân Y-sơ-
ra-ên (không chỉ của một con người), chẳng hạn Thi Tv 69:1-5; 109:6-9.
Phi-e-rơ nói: “Từ những Thi Thiên đó chúng ta thấy rằng Y-sơ-ra-ên phải bị
phản bội và phải chịu khổ. Bởi vì Đức Chúa Giê-xu là Y-sơ-ra-ên mới và
thật, điều “phải có” là Ngài sẽ bị phản bội và chịu khổ (và kẻ phản bội Ngài
phải chịu sĩ nhục).”
Chúng ta có thể nói thêm rằng bất cứ khi nào những người tốt bị phản bội và
chịu khổ thì đó là “sự ứng nghiệm” điều được viết trong Thi Thiên dưới một
dạng nào đó.
2. Phi-e-rơ có lẽ cũng tin rằng tác giả những Thi Thiên nầy đã viết ra với ý
định tiên đóan, mặc dầu đối với chúng ta dường như chúng chỉ là những lời
kêu cứu hoặc lời rủa sả kẻ thù nghịch. Từ Cong Cv 2:16 và 3:18 chúng ta
thấy rằng các Cơ Đốc Nhân đầu tiên đã giải nghĩa phần lớn Cựu Ước như là
những lời tiên đóan.
Nhưng chúng ta cũng nên lưu ý rằng, (a) Giu-đa đã không bị “định mệnh”
phải phạm tội. Giống như tất cả chúng ta, ông được tự do lựa chọn giữa điều
phải và điều quấy. (b) Không có bằng chứng nào cho thấy tác giả các Thi
Thiên đó biết rằng có một người gọi là Giu-đa sẽ phản bội Đấng Mê-si-a.
1:16b: Nhờ miệng vua Đavit. Đó là tập quán gọi tất cả các Thi Thiên là “Thi
Thiên của Đavit” (xem Thi Tv 2:25; 4:25) mặc dầu nhiều Thi Thiên được
viết ra sau thời Đavit, chẳng hạn Thi Thiên 137 nói đến thời Lưu Đày (400
năm sau Đavit). Nhưng có lẽ những Thi Thiên nầy, 69 và 109, thật sự được
viết bởi chính Đavít.
1:16c: Giu-đa là đứa đã dẫn đường cho chúng bắt Đức Chúa Giê-xu.
1. Sự chết của Giu-đa . Lu-ca tường thuật lại một lần trong cc. 18 và 19, và
có một bản tường trình khác trong Mat Mt 27:5-8 (“treo cổ tự tử”). Khi có
những bản tường trình khác biệt về cùng một sự kiện trong Tân Ước, điều đó
không có nghĩa là sự kiện đó không xảy ra.
2. Việc sai phạm của Giu-đa . Trước hết ông phản bội Đức Chúa Giê-xu, thứ
hai ông không xin Đức Chúa Trời tha thứ. Phi-e-rơ chối Chúa, ăn năn và
được tha thứ: Giu-đa phản bội Ngài và tuyệt vọng.
1:17: Nhận phần trong chức vụ nầy. Xem ghi chú ở Cong Cv 21:9, “chức
vụ”. Ở đây chức vụ được nói là “nhận phần”, nghĩa là giữa vòng những Sứ
Đồ còn lại. Thật đáng buồn khi, trong Hội Thánh ngày nay, các mục sư thất
bại trong việc chia phần chức vụ của họ và cố gắng làm việc độc lập (xem
chú thích ở 6:2a).
1:22: Làm chứng về sự Ngài sống lại
1. Người thế chỗ cho Giu-đa phải: (a) đã ở với Đức Chúa Giê-xu kể từ lúc
bắt đầu chức vụ của Ngài (c.21), và (b) có thể nói rằng mình đã tận mắt thấy
Đức Chúa Giê-xu sau khi Ngài phục sinh (tường thuật lại những điều người
khác nói thì không đủ).
Ơ đây chúng ta thấy được điều các Cơ Đốc Nhân đầu tiên tin (“tín điều” đầu
tiên của họ), tức là Đức Chúa Giê-xu là một người từng phục vụ trong thế
giới của chúng ta, nhưng Ngài không giống như những người khác và sống
lại sau khi chết.
2. Theo Tân Ước (và nhất là trong Công Vụ) chính sự phục sinh của Đức
Chúa Giê-xu là điều được các môn đồ đầu tiên của Ngài rao giảng trên hết
mọi điều khác, chẳng hạn trong 2:24; ICo1Cr 15:14. Không có tác giả Kinh
Thánh nào giải thích Đức Chúa Giê-xu đã sống lại như thế nào , và họ đưa ra
những tường thuật khác nhau về các lần hiện ra của Ngài (xem chú thích ở
Cong Cv 1:3). Nhưng nếu không có sự sống lại thì cũng không có Hội
Thánh.
1:26: Họ bắt thăm. Cách các Sứ Đồ chọn người kế nhiệm Giu-đa chứa đựng
nhiều điều hơn là chỉ bắt thăm: (1) Phi-e-rơ quyết định loại người nào đủ
tiêu chuẩn (cc.21, 22); (2) một trăm hai mươi người đề cử hai ứng viên
(c.23); (3) tất cả họ đều cầu nguyện (c.24); (4) chỉ sau đó họ mới bắt thăm.
(Họ viết mỗi tên lên một viên đá, rồi lắc những viên đá đó trong một cái hũ
cho đến khi một viên rớt ra ngoài.)
Ngày nay các Hội Thánh sử dụng những phương pháp khác để lựa chọn
người lãnh đạo, nhưng các phương pháp của họ không phải lúc nào cũng tốt
hơn cách các Sứ Đồ đã dùng, chẳng hạn ở Thụy Điển chính quyền bổ nhiệm
các giám mục; ở Nhật Bản hàng giáo phẩm và một tín hữu từ mỗi hội chúng
họp lại bầu ra một giám mục mới.
CÁC ĐỀ NGHỊ NGHIÊN CỨU
ÔN LẠI NỘI DUNG
“Quãng đường một ngày Sa-bat” là bao xa?
Chúng ta biết gì về những người em của Đức Chúa Giê-xu?
Tại sao Phi-e-rơ trích dẫn Thi Thiên trong Cong Cv 1:20?
Tại sao việc tìm một người kế nhiệm Giu-đa là quan trọng?
Các Sứ Đồ tìm kiếm loại người nào để thế chỗ Giu-đa?
NGHIÊN CỨU KINH THÁNH
“Bền lòng đồng một ý mà cầu nguyện”( 1:14, NEB, xem tr.11). Hãy đọc
những câu sau đây trong Công Vụ và cho biết trong từng trường hợp ai đang
cầu nguyện, và, nếu được, tại sao họ đang cầu nguyện:
(a) 4:31 (b) 6:6 (c) 16:25-28 (d) 21:5
Rồi sau đó đọc các phân đoạn sau đây trong Phúc Âm Lu-ca và cho biết bạn
khám phá được gì về sự cầu nguyện trong mỗi phân đoạn:
(a) LuLc 3:21 (b) 6:12 (c) 18:1-8 (d) 22:31-32
Chúng ta tìm thấy niềm tin nào được diễn tả trong Cong Cv 1:16 và trong
2:16 và 13:33?
“Các môn đồ của Đức Chúa Giê-xu rao giảng sự phục sinh nhiều hơn mọi
điều khác” (tr.13).
(a) Những từ nào được lặp lại trong 2:24; 3:15 và 4:10?
(b) Người viết hoặc người nói trong các phân đoạn sau đây nói gì về sự phục
sinh? 10:40-41; ICo1Cr 15:4-5.
(c) Bạn trả lời thế nào với những người nói rằng họ không thể tin sự phục
sinh bởi vì các bản tường trình trong các sách Phúc Âm thiếu sự nhất trí?
THẢO LUẬN VÀ ÁP DỤNG
9. “Cầu nguyện là một việc làm thường xuyên” (tr.11). Trong kinh nghiệm
của bạn điều gì giúp bạn cầu nguyện đều đặn và kiên trì?
10. Một trăm hai mươi người đàn ông và đàn bà (c.15) là một thiểu số rất bé
nhỏ so với dân số, dầu vậy qua họ Hội Thánh phát triển.
(a) Hãy mô tả bất kỳ kinh nghiệm nào bạn có với, hoặc điều bạn biết về, một
vài Cơ Đốc Nhân tận hiến đã đạt được những kết quả quan trọng.
(b) Những thuận lợi và bất lợi của một hội chúng nhỏ là gì?
11. “Giu-đa không bị định mệnh” (tr.12)
(a) Tại sao Giu-đa phản bội Đức Chúa Giê-xu? (GiGa 12:6 chỉ đưa ra một
câu trả lời khả dĩ).
(b) Nếu bạn tin rằng hành vi của mình đã được định mệnh rồi thì điều đó sẽ
ảnh hưởng thế nào trên bạn?
(c) Bạn sẽ trả lời thế nào với một người nói rằng các Cơ Đốc Nhân nên cảm
ơn Giu-đa, vì không có ông ấy sẽ không có sự đóng đinh và, vì vậy, không
có sự cứu rỗi?
12. Chức vụ được “chia phần… giữa vòng các Sứ Đồ” (chú thích Cong Cv
1:17).
(a) Tại sao chức vụ phải được chia sẻ?
(b) Tại sao, theo ý bạn, một số mục sư không chia sẻ được chức vụ?
13. “Họ bắt thăm” (c.26).
(a) Hội Thánh của bạn chọn người lãnh đạo như thế nào?
(b) Những thuận lợi và bất lợi của phương pháp nầy là gì?
Sự Tuôn Đổ Đức Thánh Linh
2:1-13
BỐ CỤC
2:1-4 Đức Thánh Linh đầy dẫy các Sứ Đồ.
2:5-13 Đám đông kinh ngạc.
GIẢI NGHĨA
Nhiều Cơ Đốc Nhân xem đây là sự kiện quan trọng nhất trong tất cả các sự
kiện được Lu-ca ghi lại trong Công Vụ, bởi vì trong đó Hội Thánh đang
được tái sanh (re-born) hoặc được tái tạo, bắt đầu một giai đoạn mới. Chúng
ta cần nhớ rằng Hội Thánh được “sanh ra” khi Đức Chúa Trời kêu gọi Áp-
ra-ham (SaSt 12:1) và Hội Thánh được tái tạo khi Đức Chúa Giê-xu kêu gọi
Mười Hai Môn Đồ. Vì vậy để được chính xác hơn chúng ta phải nói rằng Lễ
Ngũ Tuần là câu chuyện về sự tái sanh (re-birth) của Hội Thánh hơn là “sự
khai sinh của Hội Thánh”. Nhưng chắc chắn chúng ta đọc được ở đây một
Hội Thánh được làm mới lại hoàn toàn, với những thành viên được đổi mới
một cách rõ ràng.
Phương cách chính để Hội Thánh được làm mới lại là các thuộc viên của nó
nhận được một quyền năng và sự can đảm mới mẻ từ bên ngoài. Lu-ca nhấn
mạnh điều nầy để giải thích sự kiện Phúc Âm vươn tới Lamã, là trung tâm
để Phúc Âm có thể tỏa ra khắp phần còn lại của thế giới. Không có một
quyền năng mới điều đó sẽ không bao giờ xảy ra (xem chú thích Cong Cv
3:12). Đây là quyền năng được gọi là Đức Thánh Linh ở trong họ, y như đã
ở trong Đức Chúa Giê-xu (LuLc 3:16). Nhưng quyền năng nầy được ban cho
không chỉ vào dịp nầy mà thôi. Đức Chúa Trời ban cho họ quyền năng Ngài
một cách liên tục, và cung ứng cho các Cơ Đốc Nhân ngày nay cùng một
quyền năng đó.
CHÚ THÍCH
2:1a: Ngày Lễ Ngũ Tuần. Có hai lễ hội mùa gặt của dân Do Thái: Lễ Ngũ
Tuần, mùa gặt lúa, khi họ nướng những ổ bánh lúa mạch đầu tiên và dâng
chúng làm lễ tạ ơn; và Lễ Lều Tạm (tabernacles), mùa thu họach trái cây
diễn ra trễ hơn trong năm.
Lễ Ngũ Tuần là một ngày lễ công cộng (LeLv 23:21), và Giê-ru-sa-lem đầy
những khách hành hương. Nhờ mùa đông đã qua nên họ có thể đi bằng
đường biển đến từ những vùng như Bắc Phi, Ý, vv… (xem cc.9-11). Vì vậy
có mặt tại Giê-ru-sa-lem vào lúc ấy cũng tương tự như có mặt trong một
thành phố hiện đại lúc diễn ra một liên hoan hoặc một sự kiện thể thao quốc
tế.
2:1b: Môn đồ nhóm họp tại một chỗ. Môn đồ có nghĩa hoặc là Mười Hai Sứ
Đồ với những người phụ nữ và gia đình Đức Chúa Giê-xu (Cong Cv 1:14),
hoặc là một trăm hai mươi người (1:15), hoặc là Mười Hai Sứ Đồ (2:14).
Nhóm họp . Họ đã sẳn sàng nhận sự ban cho của Đức Chúa Trời theo ba
cách, mà tất cả đều quan trọng:
Họ ở tại cùng một chỗ.
Họ có mối thông công với nhau. Các từ “tại một chỗ” có thể có nghĩa là tại
căn nhà của Giăng Mác (1:13), hoặc trong một cái sân lớn được bao quanh
bởi một số phòng khách. Nhưng các từ Hi-lạp cũng có thể có nghĩa là “như
một đoàn thể”, tức là trong mối thông công.
Họ đang ngồi trầm tĩnh, chờ đợi (c.2). Đức Chúa Trời đến với những người
đã chuẩn bị sẳn sàng. Sự chuẩn bị là cần thiết. Một chiếc máy bay không thể
hạ cánh xuống một sân bay trong mùa mưa (ngay cả với trang thiết bị hiện
đại) cho đến khi nước từ trận bảo mới đây đã được dọn sạch.
2:2-3: Có tiếng… như tiếng gió thổi ào ào … lưỡi bằng lửa. Khi con người
có một kinh nghiệm sâu nhiệm về sự hiện diện của Đức Chúa Trời, họ
không thể tìm được từ ngữ để diễn tả. Vì vậy ở đây Lu-ca chỉ có thể tường
thuật rằng điều đó “giống như “ một trận gió và “giống như ” lửa. Cả gió lẫn
lửa đều là những lực lượng thiên nhiên mạnh khủng khiếp, và Lu-ca sử dụng
những từ đó để nói đến quyền năng Đức Chúa Trời đang ban cho các Sứ Đồ.
Họ kinh nghiệm sự hiện diện của Đức Chúa Trời theo cách mọi người có thể
thấy được. Điều đó thật bất thường. Nhưng quyền năng của Đức Chúa Trời
cũng vẫn có thể hiện diện trong chúng ta y như vậy khi chẳng có điều gì bất
thường có thể thấy hoặc nghe được (xem chú thích 3 ở 2:4a).
2:3: Đậu trên mỗi người. Mặc dầu các Sứ Đồ gặp gỡ nhau trong một mối
thông công, mỗi người trong họ đều kinh nghiệm sự hiện diện và quyền
năng của Đức Chúa Trời một cách cá nhân.
2:4a: Hết thảy đều được đầy dẫy Đức Thánh Linh. Lu-ca đề cập đến Đức
Thánh Linh nhiều hơn các tác giả Tân Ước khác. Ông nhìn thấy hầu như
mọi hành động của các Sứ Đồ đều được Đức Thánh Linh hướng dẫn.
Từ các bài viết của ông, chúng ta để ý thấy:
Đức Thánh Linh là chính Đức Chúa Trời . Chúng ta có thể nói về việc tiếp
nhận từ Đức Chúa Trời “món quà” Đức Thánh Linh của Ngài, miễn là chúng
ta nhớ rằng món quà đó là Đức Chúa Trời đang ban cho chính Ngài. Đức
Thánh Linh không phải là “một điều gì đó” mà Ngài ban cho.
Khi người ta được “đầy dẫy” Đức Thánh Linh, họ kinh nghiệm Đức Chúa
Trời ở trong họ. Họ quen nghĩ về Đức Chúa Trời như ở phía trên họ (“trên
ngôi cao sang”, EsIs 6:1). Thật là một kinh nghiệm mới mẻ khi biết Ngài với
tư cách là Đấng ở trong họ.
Họ cũng kinh nghiệm Đức Chúa Trời đang hành động trong họ (không chỉ
hiện diện trong họ). Ngài hành động theo hai cách đặc biệt: (a) ban cho họ
quyền năng: “Đầy dẫy Đức Thánh Linh” họ “giảng một cách dạn dĩ” (Cong
Cv 4:31) (b) hướng dẫn họ: “Đức Thánh Linh phán: “Hãy đi…”” (8:29).
Trong một vài tôn giáo người ta tin rằng việc can thiệp vào đời sống con
người “nằm dưới phẩm cách của Đức Chúa Trời”. Nhưng kinh nghiệm của
một Cơ Đốc Nhân về Thánh Linh của Đức Chúa Trời là Ngài thật can thiệp
một cách tích cực. Đôi khi kết quả là bất thường (như trong 2:1-13). Vào
những lúc khác chúng ta kinh nghiệm Ngài đang tích cực cảm động chúng ta
trong những sự kiện thông thường. Một nhà hoạt động xã hội trong một
thành phố lớn phát biểu: “Trong công việc ngày nào tôi cũng có những quyết
định khó khăn phải chấp nhận. Khi tôi đi được một bước nhỏ tôi thấy rằng
mình là một phần trong sự chuyển động của Đức Chúa Trời và rằng tôi được
đẩy tới phía trước. Tôi gặp nhiều lỗi lầm, nhưng Ngài khiến chúng lìa xa
khỏi tôi.” Chúng ta thấy các kết quả sự hành động của Đức Thánh Linh
trong những sự kiện thông thường cũng nhiều như trong các sự kiện bất
thường.
Lu-ca biết rất rõ rằng Đức Thánh Linh đã họat động trên thế gian lâu lắm
trước lễ Ngũ Tuần, chẳng hạn, linh cảm để con người “nói tiên tri” (xem
Cong Cv 28:25), và, dĩ nhiên, linh cảm Đức Chúa Giê-xu (LuLc 4:1). Nhưng
họat động của Ngài vào ngày lễ Ngũ Tuần là một loại sự kiện mới mẻ.
Trước hết, nó được chia sẻ giữa vòng mọi loại người và không còn giới hạn
vào những tầng lớp người đặc biệt, như là các vua hoặc các tiên tri hoặc các
nhà ẩn tu nữa. Và thứ hai, hoạt động của Ngài đem lại một quyền năng liên
tục chứ không chỉ quyền năng cho một cơ hội đặc biệt.
Không phải người nào tuyên bố được Đức Thánh Linh dẫn dắt đều thật sự
được Ngài dẫn dắt. Alice Lakwena năm 1984 tin rằng cô được Đức Thánh
Linh dẫn dắt để lãnh đạo một đội quân chống chính phủ tại Uganda. Cô nói
rằng Đức Thánh Linh đã phán bảo cô cung cấp dầu phép thuật (magic) để
bảo vệ các chiến sĩ khỏi trúng đạn, và họ tin cô, và nhiều người bị chết.
2:4b: Họ khởi sự nói các thứ tiếng khác. Cũng xem “tiếng xứ mình” (c.6),
“tiếng riêng của xứ chúng ta” (c.8), “tiếng chúng ta” (c.11).
Các Sứ Đồ đang nói theo lối “xuất thần” (tức là, có âm thanh nhưng không
có những lời nói thông thường) hay là đang nói các ngoại ngữ? Các học giả
có ý kiến khác biệt về vấn đề nầy. Sau đây là ba ý kiến được chấp nhận rộng
rãi nhất:
Rằng điều đó không thành vấn đề. Sự kiện quan trọng là bằng một cách nào
đó họ truyền đạt được cho người khác điều đã xảy ra cho mình; “các thứ
tiếng” và “các ngôn ngữ” chỉ là những dấu hiệu của sự chia sẻ. Sự kiện nầy
là một ví dụ về việc “phá vỡ các rào chắn” giữa những con người được Lu-
ca ghi lại suốt cả Công Vụ.
Rằng họ nói bằng tiếng ngoại quốc. Nhiều Cơ Đốc Nhân ngày nay là những
người có chung kinh nghiệm được đầy dẫy Đức Thánh Linh như thế có đôi
lúc thật nói ra những từ ngữ của một ngoại ngữ, dầu chính họ chưa hề biết
ngoại ngữ đó. Đây là một phép lạ, và trong Cong Cv 2:1-13 Lu-ca mô tả một
phép lạ. Tin Đức Chúa Trời nghĩa là tin rằng Ngài thật làm phép lạ.
Rằng họ nói theo cách xuất thần, chứ không phải bằng những ngôn ngữ
khác. Một số lý do cho ý kiến nầy là:
(a) Những người trong đám đông hẳn đã không nói họ say rượu (c.11) nếu
họ đã nói bằng ngoại ngữ.
(b) Trong các phân đoạn khác trong Công Vụ “nói tiếng khác” rõ ràng có
nghĩa là nói xuất thần (xem 10:46; 19:6).
(c) Họ không cần sử dụng ngọai ngữ. Mọi người hành hương về dự lễ hội
nói ít nhất một trong số những ngôn ngữ mà các Sứ Đồ nói, tức là tiếng A-
ram hoặc tiếng Hi-lạp.
(d) Lu-ca không có mặt lúc xảy ra biến cố đó mà chỉ dựa vào những lời kể
lại (như ông nói trong LuLc 1:1-4) nên có lẽ lời tường thuật không được
chính xác đối với ngôn ngữ được dùng.
2:5: Từ các dân thiên hạ đến. Một lần nữa Lu-ca cho thấy rằng các môn đồ
của Đức Chúa Giê-xu đang vươn tới những con người vượt qua mọi biên
giới quốc gia, và rằng đây là điều ông kêu gọi các Cơ Đốc Nhân thực hiện
trong mọi thế hệ. Mặc dầu Lu-ca viết “các dân thiên hạ” ông chỉ có trong trí
các nước bao quanh vùng đông Địa Trung Hải là nơi người Do Thái sinh
sống. Xem cc.9-11 để biết tên các nước nầy.
2:6: Mỗi người đều nghe. Cũng xem cc.8 và 11: “chúng ta nghe”. Họ nghe
được gì? Lu-ca không nói cho chúng ta biết. Nhưng ông thật có nói cho
chúng ta biết những người đã nhận lãnh Đức Thánh Linh đều có thể truyền
thông với những người khác. Họ chia sẻ niềm tin của mình. Việc truyền
giảng Tin Lành (evangelism) chỉ diễn ra khi các Cơ Đốc Nhân đã học được
cách chia sẻ điều quan trọng đối với mình cho người khác.
2:11: Cả người Giu-đa hoặc người mới theo đạo Giu-đa. Có rất nhiều người
không phải Do Thái ngưỡng mộ những lời dạy dỗ của người Do Thái về
Đức Chúa Trời và cuộc sống gia đình họ cùng sự thờ phượng của họ, và là
những người muốn được gia nhập vào tôn giáo của họ. Nếu họ sẳn lòng giữ
“luật pháp” Do Thái, bao gồm phép cắt bì, họ được báp-têm và trở nên
“người mới theo đạo Giu-đa (Do Thái)” (cũng xem Cong Cv 13:43).
Những người không phải Do Thái khác, cũng muốn gia nhập vào tôn giáo
của người Do Thái, nhưng ít chặt chẽ hơn “những người mới theo đạo Do
Thái”, thì được gọi là những người kính sợ Đức Chúa Trời trong sách Công
Vụ (10:1) hoặc là những người thờ phượng Đức Chúa Trời (16:14).
Chủ yếu là những người không phải Do Thái như thế nầy (người mới theo
đạo Do Thái và những người khác) từ xứ Giu-đê và các nước chung quanh
về sau trở thành các Cơ Đốc Nhân.
PHỤ CHÚ : “TIẾNG LẠ ”
Việc nói tiếng lạ diễn ra thường xuyên trong những năm đầu tiên của Hội
Thánh và cứ tiếp tục từng hồi từng lúc cho đến hiện tại. Phao-lô có thể nói
“tiếng lạ” (ICo1Cr 14:18), nhưng bảo người Cô-rin-tô rằng trong đó có sự
nguy hiểm (14:9, 23).
Vậy thì đâu là con đường đúng đắn?
Đối tượng của việc nói tiếng lạ là để tôn vinh Đức Chúa Trời, chứ không
phải để đạt được một vị trí được tôn trọng (14:2).
Tiếng lạ chủ yếu được dùng cho sự thờ phượng riêng tư. Khi được sử dụng
nơi công cộng nó phải được giải nghĩa (14:13).
Đó là một ân tứ, và không được ban cho mọi Cơ Đốc Nhân, tuy nhiên, họ
vẫn có thể được đầy dẫy Đức Thánh Linh.
Đó không phải là một bằng chứng rằng người thờ phượng được đầy dẫy Đức
Thánh Linh. Các môn đồ của vị thần Hi-lạp Dionysius nói tiếng lạ, và nhiều
“đồng bóng (diviners)” trên khắp thế giới cũng vậy.
Nhiều Cơ Đốc Nhân nói tiếng lạ cho rằng khi làm như thế họ cảm thấy mình
đang cầu nguyện “đầy đủ” hơn lúc cầu nguyện thông thường khi họ đang sử
dụng tâm trí mình. Những người khác cho rằng đó là một cách thay thế hơn
là một cách thờ phượng đầy đủ hơn.
Trong những năm gần đây, số Cơ Đốc Nhân cho việc “nói tiếng lạ” là một
phần thông thường trong sự thờ phượng của họ đã gia tăng rất nhanh chóng
trên khắp thế giới. Sự thờ phượng của họ thường nổi bật không chỉ vì họ
“nói tiếng lạ”, mà còn vì sự tự do của họ khỏi những hình thức cố định, sự
thông công mật thiết của họ, sự vui mừng của họ, và sự trông mong của họ
rằng Đức Chúa Trời sẽ ban sự chữa lành thân thể qua lời cầu nguyện. Một số
người, chứ không phải là tất cả, tin rằng các thuộc viên đã được cải đạo cần
phải có một “phép báp-têm thứ hai” (hoặc phép báp-têm bằng Đức Thánh
Linh) mà trong phép báp-têm đó thường thì họ sẽ nói tiếng lạ (xem chú thích
Cong Cv 8:16).
Một số Cơ Đốc Nhân nói tiếng lạ thuộc về “các Hội Thánh Ngũ Tuần” (vào
lúc viết quyển sách nầy, có 22 triệu thuộc viên trên thế giới), một số thuộc
về các nhóm Hội Thánh Độc Lập, nhất là ở Châu Phi (82 triệu thuộc viên),
và một số, thường được gọi là “các nhóm ân tứ”, thuộc về các Hội Thánh
truyền thống chính yếu nhưng cũng gặp gỡ theo từng nhóm là chỗ họ thờ
phượng theo lối nầy (11 triệu).
Loại thờ phượng nầy, giống như sự thờ phượng của Hội Thánh tại Cô-rin-tô,
có những mối nguy hiểm cũng như sự vinh quang của nó. Nhiều thuộc viên
có thể trở nên tách biệt với các Cơ Đốc Nhân khác và tin rằng họ cao cấp
hơn những người còn lại, và một số có thể được xếp loại cao hơn những
người khác, chẳng hạn, bởi vì họ nói tiếng lạ. Hoặc họ có thể trở nên quá
quan tâm đến kinh nghiệm riêng của mình đến nổi họ lãng quên các nghĩa vụ
công dân; họ cũng có thể ý thức quá sâu sắc về sự hành động của Đức Thánh
Linh ở hiện tại đến nổi họ lãng quên sự dẫn dắt của Đức Thánh Linh trong
quá khứ và cho mọi lúc; họ có thể tuyên bố được Đức Thánh Linh dẫn dắt
trong khi họ thật sự đang bày tỏ những ước muốn riêng của mình. Chúng ta
cần chú ý những mối nguy cơ đó trong khi cùng lúc đó vẫn coi trọng các lời
dạy của Phao-lô: “Đừng dập tắt Đức Thánh Linh” (ITe1Tx 5:19).
NHỮNG ĐỀ NGHỊ NGHIÊN CỨU
ÔN LẠI NỘI DUNG
Lời dạy dỗ quan trọng nhất mà Lu-ca đưa ra cho độc giả trong những câu
nầy là gì?
Lễ Ngũ Tuần là một loại lễ hội gì?
Sự giáng lâm của Đức Thánh Linh là một sự kiện mới mẻ theo hai cách nào?
Vì hai lý do nào mà nhiều người tin rằng các Sứ Đồ nói trong cơn “xuất
thần” chứ không phải bằng tiếng nước ngoài?
Những người mới theo đạo Do Thái là ai?
NGHIÊN CỨU THÁNH KINH
“Đức Thánh Linh đã họat động trên thế gian lâu lắm trước lễ Ngũ Tuần”
(tr.17). Theo mỗi phân đoạn Cựu Ước sau đây, Đức Thánh Linh làm việc
trong người nào và có kết quả gì?
(a) XuXh 31:1-5 (b) Dan Ds 11:25 (c) Cac Tl 6:34-35 (d) Exe Ed 2:1-2
Đức Thánh Linh hành động theo hai cách đặc biệt: ban cho họ quyền năng…
hướng dẫn họ” (tr.16).
Hãy đọc những phân đoạn sau đây trong Công Vụ và cho biết trong mỗi
trường hợp ai nhận lãnh được sự ban cho (the gift), và Đức Thánh Linh có
ban “quyền năng” hoặc sự “hướng dẫn” hay không.
(a) Cong Cv 4:31 (b) 8:29 (c) 10:44 (d) 11:28 (e) 13:1-3 (f) 19:1-6
THẢO LUẬN VÀ ÁP DỤNG
Mọi người đều có thể kinh nghiệm như các Sứ Đồ vào ngày Lễ Ngũ Tuần
tới mức độ nào?
Bạn trả lời như thế nào với một người hỏi bạn: “Tôi là một Cơ Đốc Nhân và
tôi tin rằng bất cứ một điều tốt nào tôi có thể làm chính là Đức Chúa Trời
hành động trong tôi, nhưng tôi chưa hề có một kinh nghiệm đặc biệt nào về
sự “đầy dẫy”; tôi còn thiếu một điều gì chăng?”?
Có ba lời giải nghĩa khác nhau về “nói tiếng lạ” (2:4 và những cụm từ tương
tự trong 2:6; 2:8; 2:11) được đưa ra trong phần chú thích ở 2:4b.
(a) Bạn chấp nhận lời giải thích nào, và tại sao?
(b) Nếu bạn không chấp nhận bất kỳ lời giải nghĩa nào trong ba lời trên, vậy
thì lời giải nghĩa của riêng bạn là gì?
Hiện nay có ít nhất 115 triệu Cơ Đốc Nhân Ngũ Tuần hoặc Ân Tứ trên thế
giới (xem tr.19).
(a) Tại sao bạn nghĩ rằng họ đã tăng lên?
(b) Những thuận lợi và bất lợi khi họ tự do khỏi những hình thức thờ phượng
cố định là gì?
(c) Làm thế nào loại thờ phượng nầy có thể liên hiệp các Cơ Đốc Nhân lại,
hơn là chia rẽ họ?
Bài Giảng Đầu Tiên Của Phi-e-rơ
Cong Cv 2:14-41
BỐ CỤC
2:14-36 Bài giảng của Phi-e-rơ:
(a) Tôi sẽ giải nghĩa những sự kiện nầy (c.14-15).
(b) Chúng là một phần trong mục đích của Đức Chúa Trời và Giô-ên đã tiên
báo chúng (cc.16-21).
(c) Chúng là kết quả sự đến của Đức Chúa Giê-xu (cc.22-24).
(d) Sự phục sinh của Ngài là một phần trong mục đích của Đức Chúa Trời,
và Đavit đã tiên báo điều đó trong Thi Tv 16:1-11 (cc.25-32).
(e) Chính Đức Chúa Giê-xu đã ban Đức Thánh Linh cho chúng tôi (c.33).
(f) Đức Chúa Giê-xu là Đấng Mê-si-a và Đavít đã tiên báo sự đến của Ngài
trong 110:1-7 (cc.34-35).
(g) Ấy chính là đấng Mê-si-a mà các ngươi đã giết (c.36).
Cong Cv 2:37 Câu hỏi của đám đông.
2:38-40 Câu trả lời của Phi-e-rơ.
2:41 Đáp ứng của đám đông.
GIẢI NGHĨA
Phi-e-rơ đứng dậy ngoài trời, đối mặt với đám đông; một số là khách hành
hương từ các nước khác đến, một số là cư dân Giê-ru-sa-lem. Chung quanh
ông là các Sứ Đồ khác. Bài giảng đầu tiên nhất từng được rao giảng bởi các
môn đồ của Đức Chúa Giê-xu đã bắt đầu như thế.
1. LÀM THẾ NÀO LU-CA BIẾT ĐƯỢC ĐIỀU PHI-E-RƠ ĐÃ NÓI?
Lu-ca viết một thời gian lâu sau khi xảy ra các sự kiện ông đang tường thuật.
Vậy ông lấy thông tin ở đâu?
Một số người có mặt có lẽ đã giao cho ông một văn bản tường thuật sự kiện
đó bằng tiếng A-ram (ngôn ngữ Phi-e-rơ sử dụng); những cụm từ như “lắng
tai nghe lời ta” (c.14), “dây trói của sự chết” (c.24), “(các từng) trời” (số
nhiều, c.34) là những lời dịch các cụm từ A-ram. Hoặc nhiều nhóm khác có
lẽ đã kể cho Lu-ca nghe bài giảng đầu tiên nhất ra làm sao, và ông tóm tắt nó
lại. Như được ghi lại ở đây bài giảng chỉ mất có bốn phút, và cc. 14-41 rõ
ràng là một bản tóm tắt chứ không phải là bài giảng hoàn chỉnh. Cũng vậy,
theo c.40 Phi-e-rơ nói nhiều hơn điều Lu-ca ghi lại ở đây.
2. BÀI GIẢNG NẦY VÀ NHỮNG BÀI GIẢNG KHÁC TRONG CÔNG
VỤ
Bài giảng nầy rất giống những bài giảng khác, và vì vậy chúng ta có thể thấy
loại rao giảng được thực hiện vào thời gian theo sau Lễ Ngũ Tuần. Nếu
chúng ta so sánh bài giảng nầy với sáu bài giảng chính khác (từ trong số 21
bài giảng trong Công Vụ) chúng ta thấy hầu như tất cả chúng đều có chung
một dàn ý:
(a) Sự ứng nghiệm : Trong các biến cố liên quan đến Đức Chúa Giê-xu và sự
ban cho Đức Thánh Linh thì mục đích của Đức Chúa Trời đã được ứng
nghiệm (xem Cong Cv 3:12-26; 10:43; 13:23-34; 26:22 cũng xem ICo1Cr
15:3-4; RoRm 1:2).
(b) Đức Chúa Giê-xu : Đức Chúa Giê-xu là Đấng Mê-si-a, đã sống lại và
được tôn cao, là trung tâm sự giảng dạy của chúng tôi (xem 3:13-18; 5:30;
10:36-40; 13:23-37; 17:31; 26:23 cũng xem RoRm 1:3-4; Phi Pl 2:9-10).
(c) Kinh Nghiệm : Chúng tôi giảng từ kinh nghiệm - “chúng tôi là những
chứng nhân” (xem Cong Cv 3:15; 5:32; 10:39-41; 13:31; 26:9-23 cũng xem
ICo1Cr 15:5-9).
(d) Tương lai : Đức Chúa Trời có một kế hoạch cho tương lai, bao gồm sự
phán xét và chiến thắng cuối cùng của Ngài trên điều ác (xem Cong Cv
3:21-23; 10:42; 13:40; 17:31 cũng xem ITe1Tx 1:9-10).
(e) Sự ăn năn : Hãy thay đổi hướng đi trong cuộc đời của quí vị (xem chú
thích ở c.38).
3. NHỮNG BÀI GIẢNG NẦY VÀ NHỮNG VĂN BẢN TÂN ƯỚC KHÁC
Khi chúng ta so sánh những bài giảng nầy với các văn bản Tân Ước sau nầy
như các thư tín của Phao-lô, Phúc Âm Giăng, và Thư Hê-bơ-rơ, chúng ta
thấy có một số khác biệt. Một số sự dạy dỗ không có trong các bài giảng
nầy, chẳng hạn:
(a) Đức Chúa Giê-xu : Ở đây Ngài được xưng bằng những danh hiệu như
“con người” và “Chúa” và “Đấng Mê-si-a”, nhưng không gọi là “Con Đức
Chúa Trời” trừ một bản tường thuật do Lu-ca viết (Cong Cv 9:20).
(b) Thập tự giá : Ở đây sự chết của Đức Chúa Giê-xu là một tội ác, nhưng
không có lời dạy dỗ nào rằng “Ngài chết thay cho chúng ta” như trong
RoRm 5:6.
(c) Đức tin : Những người ở đây được khuyên giục phải “ăn năn” chứ không
phải “có đức tin” (so với 5:1).
(d) Tội lỗi : Ở đây người Do Thái xứ Giu-đa là “những tội nhân”, nhưng
người ta không nói rằng “mọi người đều đã phạm tội” như trong 3:9.
Khi chúng ta nghiên cứu những sự khác biệt nầy thì dường như sự rao giảng
và lời dạy dỗ Cơ Đốc thay đổi và phát triển sau thời kỳ đầu tiên và trong
những thế kỷ tiếp theo sau. Chúng ta phải suy nghĩ gì về sự phát triển như
thế? Chúng ta tìm kiếm lẽ thật ở đâu? Sau đây là ba trong số nhiều ý kiến
của các Cơ Đốc Nhân:
Rằng sự rao giảng ban đầu là Phúc Âm thật sự bởi vì nó gần với thời của
chính Đức Chúa Giê-xu nhất, và rằng sự rao giảng sau nầy và tín điều của
Hội Thánh chứa đựng nhiều khoản thêm vào không cần thiết.
Rằng Đức Chúa Trời đã dự định và vẫn còn dự định sự phát triển phải diễn
ra dưới sự hướng dẫn của Đức Thánh Linh (xem GiGa 16:13).
Rằng Đức Chúa Trời dự định sự phát triển phải diễn ra khi mọi nhánh phái
của Hội Thánh đều nhất trí về sự phát triển như thế, nhưng nếu không có sự
nhất trí thì không được có sự phát triển nào. (Theo quan điểm nầy Bài Tín
Điều là một sự phát triển tốt nhưng không có sự phát triển nào được cho
phép ngày nay.)
Một lý do khiến các Cơ Đốc Nhân ngày nay bị chia rẽ là vì họ không thể
nhất trí về “sự phát triển”.
CHÚ THÍCH
2:16: Đây là điều đấng tiên tri đã nói. Trong quá khứ Phi-e-rơ có nhiều kinh
nghiệm đặc biệt đã thay đổi đời sống ông, chẳng hạn như ông đã nhận thức
rằng Đức Chúa Giê-xu là Đấng Mê-si-a (LuLc 9:20), ông đã nhìn thấy Đức
Chúa Giê-xu phục sinh, và ông đã nhận lãnh sự ban cho Đức Thánh Linh.
Mục tiêu của ông trong bài giảng nầy là nhằm giải thích những sự kiện nầy
cho những người nghe. Nhưng họ không có kinh nghiệm như ông, vì vậy
ông cần trình bày lời công bố của mình sao cho họ có thể hiểu được. Đây là
lý do ông trưng dẫn ba phân đoạn Kinh Thánh Cựu Ước. Ông giải nghĩa
những phân đoạn nầy như là lời tiên đóan tương lai, vì đây là cách các thầy
thông giáo Do Thái (“Ra-bi”) thường hay giải nghĩa Cựu Ước.
Phân đoạn đầu tiên Phi-e-rơ trưng dẫn (Cong Cv 2:17-21) là từ Gio Ge 2:1-
31, được ông giải nghĩa là một lời tiên tri về sự giáng lâm của Đức Thánh
Linh.
Phân đoạn thứ hai (Cong Cv 2:25-28) trích từ Thi Thiên 16, được ông giải
nghĩa là lời tiên báo về sự phục sinh của Đức Chúa Giê-xu.
Phân đoạn thứ ba (2:34-35) trích từ Thi Thiên 110, được ông giải nghĩa là
lời tiên báo về chức vụ Mê-si-a của Đức Chúa Giê-xu.
Chúng ta nghĩ gì về lời tuyên bố của Phi-e-rơ?
(a) Chúng ta chắc chắn có thể tin : rằng những sự kiện mà Phi-e-rơ nói đến
đã thật sự diễn ra; rằng những sự kiện nầy là một phần trong mục đích của
Đức Chúa Trời; và rằng chúng làm ứng nghiệm các văn bản của các nhà tiên
tri và các nhà Thi Thiên. (b) Nhưng chúng ta không cần thiết : đi theo các
phương pháp giải nghĩa của các Ra-bi Do Thái, cũng không cần tin rằng các
tiên tri và nhà Thi Thiên biết được các văn bản của họ sẽ được ứng nghiệm
như thế nào.
2:17: Mọi xác thịt. Phi-e-rơ không nghĩ đến những người không phải Do
Thái khi ông nói điều nầy, bởi vì vào lúc nầy ông chưa khám phá được rằng
Đức Thánh Linh cũng được dành cho họ (xem chương 10). “Mọi xác thịt”
có nghĩa là mọi tạo vật của Đức Chúa Trời, vì vậy ông không chỉ nghĩ đến
những nhóm người đặc biệt như là các đấng tiên tri và các nhà ẩn tu và các
vua, mà còn đến mọi người tìm kiếm Ngài. Vì vậy ngày hôm nay Đức Chúa
Trời cung ứng Đức Thánh Linh Ngài cho mọi người, không chỉ cho những
người có học, hoặc người giàu có hoặc các nhà lãnh đạo Hội Thánh.
2:18: Chúng nó đều nói lời tiên tri. “Nói tiên tri” có nhiều ý nghĩa (xem chú
thích ở 15:32). Ở đây nó có nghĩa “nói tiếng lạ” (xuất thần). Nhưng trong
c.30 “tiên tri” có nghĩa là một người tiên đoán tương lai.
(lời chú dưới khung hình ở trang 24:
“Những người nhận lãnh Đức Thánh Linh đều có thể truyền thông với
những người khác… họ chia sẻ niềm tin của mình - và tài sản của mình. Các
cộng đồng Cơ Đốc căn bản đang chia sẻ loại hình thông công nầy ngày hôm
nay” (tr.18 và 31).
Các thành viên của “cộng đồng căn bản” nầy ở Mexico, như nhiều nhóm
khác ở nhiều nơi trên thế giới, nhóm lại để cùng thờ phượng và chia sẻ các ý
tưởng cho những hành động tương lai.)
2:22: Đức Chúa Giê-xu ở Na-xa-rét, tức là người mà Đức Chúa Trời đã dùng
việc quyền phép để làm chứng cho Người trong vòng các ngươi.
1. Lu-ca gọi Đức Chúa Giê-xu là “một người”. Thỉnh thoảng các Cơ Đốc
Nhân thật sâu nhiệm (keen) khi gọi Đức Chúa Giê-xu là “Đức Chúa Trời”
đến nổi họ quên mất rằng Ngài thật sự là một con người. Mặt khác những
người không phải là Cơ Đốc Nhân thường nhìn thấy Đức Chúa Giê-xu
không có gì hơn một người (xem chú thích ở c.36).
2 “Làm chứng cho các ngươi bởi việc quyền phép”, nghĩa là được chứng
minh là tôi tớ Đức Chúa Trời bởi những phép lạ Ngài đã thi thố. Nhưng
chính Đức Chúa Giê-xu không muốn được “chứng minh” bởi các phép lạ
của Ngài. Chúng ta nhìn thấy trong LuLc 11:15 rằng việc Ngài đuổi quỉ
chẳng chứng minh Đức Chúa Trời đã sai Ngài đến chút nào cả. Cần phải có
một điều lớn hơn phép lạ mới thuyết phục được người ta tin Ngài là Đấng
Mê-si-a của Đức Chúa Trời (xem phụ chú: Phép Lạ, pp.189, 190).
2:23a: Đức Chúa Giê-xu nầy, bị nộp theo ý định trước … của Đức Chúa
Trời, mà các ngươi đóng đinh trên thập tự giá. Những lời nầy cho chúng ta
thấy hai lẽ thật quan trọng về thập tự giá:
1. Điều đó không có gì đáng ngạc nhiên. Sự chịu khổ là một phần của bản
tính Đức Chúa Trời, và khi Ngài trở thành người thì dĩ nhiên việc chịu khổ
và chịu chết theo sau. Phi-e-rơ phải giải thích điều nầy, bởi vì người Do Thái
nghĩ rằng việc một người gọi là Đấng Mê-si-a phải chịu khổ và chịu chết là
điều không thể xảy ra được.
2. Đó là một tội ác, và những người chịu trách nhiệm về điều đó đều phạm
tội. Một số người cho rằng Đức Chúa Trời “sai Đức Chúa Giê-xu đến thế
gian để chết”, tức là, để Đức Chúa Trời nhận được một sinh tế cho tội lỗi
của thế gian. Nhưng nếu điều nầy là đúng, thì thật bất công khi đổ lỗi cho
những người đã giết Ngài.
2:23b: Các ngươi đóng đinh trên thập tự giá. Ai đóng đinh Đức Chúa Giê-
xu? Ai chịu trách nhiệm? Khi Phi-e-rơ nói “các ngươi” trong câu nầy, khi
ông gọi họ là “người Y-sơ-ra-ên” (Cong Cv 2:22 và 3:12), ông đang nói đến
những người Giu-đa tại Giê-ru-sa-lem (xem c.14, “người Giu-đa”). (Chính
Phi-e-rơ là một người Ga-li-lê.) Sau nầy ông cho thấy mình tố cáo những
người Giu-đa nào đã chủ tâm giết Đức Chúa Giê-xu: “các quan” (4:8-10) và
“tòa công luận” (5:27-30). Có lẽ cũng có những người mà Phi-e-rơ nói đến
là những người có mặt lúc Đức Chúa Giê-xu bị xét xử mà chẳng làm điều gì
cả để cứu Ngài.
Nhưng tố cáo toàn thể quốc gia Do Thái đã giết Đức Chúa Giê-xu thì hoàn
toàn sai lầm. Các Cơ Đốc Nhân thường hay đưa ra lời tố cáo bất công nầy,
và do đó đã phạm nhiều tội ác khủng khiếp chống lại người Do Thái, ngay
cả trong thế kỷ thứ 20. Theo Công Vụ, những người Do Thái phạm tội duy
nhất là một số người Giu-đa.
Tuy nhiên, đó chính là Phi-lát, người Lamã mới thật sự chịu trách nhiệm.
Chỉ một mình ông mới có quyền phóng thích Đức Chúa Giê-xu hoặc tuyên
án Ngài (13:28).
2:24: Đức Chúa Trời đã khiến Người sống lại. Trong bài giảng của mình,
Phi-e-rơ nhấn mạnh đến sự phục sinh (hơn là sự giáng sinh hoặc sự chết
hoặc sự thăng thiên của Ngài hoặc sự giáng lâm của Đức Thánh Linh).
Lời tuyên bố rõ ràng “Đức Chúa Trời đã khiến Người sống lại” là một
gương mẫu cho mọi bài giảng Cơ Đốc tốt, nghĩa là, nó tuyên bố các sự kiện
(hơn là các ý tưởng) và công bố Tin Lành (hơn là những lời khuyên hữu
ích). Những điểm khác về một bài giảng tốt mà chúng ta tìm thấy trong bài
giảng của Phi-e-rơ là: (a) Ông đặt chính mình đứng chung với người nghe
bằng cách nói đến một điều mà cả ông lẫn họ đều có chung, trong trường
hợp nầy là những sự kiện đã được ghi lại trong cc.5-13. (b) Ông sử dụng
ngôn ngữ mà người nghe cũng sử dụng, chẳng hạn như ông nhắc đến “lời
tiên tri” của Đavít trong c.31. (c) Ông nói từ kinh nghiệm của mình: “Chúng
tôi là nhân chứng” (c.32). (d) Ông mời gọi một sự đáp ứng và một thái độ
thay đổi từ nơi những người nghe (cc. 37-41).
Chúng ta nên đặc biệt chú ý các từ “Đức Chúa Trời khiến Ngài sống lại”,
chứ không phải “Ngài sống lại”. Đây là cách dùng từ trong c.32 và trong hầu
như mọi câu Tân Ước nói đến sự sống lại.
2:29: Ta thật có thể nói cách vững vàng với anh em. “Cách vững vàng
(confidently)” là một từ quan trọng, bày tỏ sự thay đổi lạ thường của Phi-e-
rơ. Hãy so sánh nó với LuLc 22:60. Bây giờ Phi-e-rơ đã có thể nói “cách
vững vàng” bởi vì Đức Chúa Giê-xu đã sống lại và bởi vì ông được “đầy
dẫy” Đức Thánh Linh. Từ Hi-lạp được dịch là “cách vững vàng” cũng được
dịch là “công khai (openly)”, “rõ ràng (plainly)” “dạn dĩ (boldly)” trong
những câu Kinh Thánh Tân Ước khác (chẳng hạn GiGa 10:24; Cong Cv
4:13).
2:31: Đavit … đã thấy trước và nói trước về sự sống lại của Đấng Christ.
Xem chú thích ở 2:16 về “Đavit thấy trước” và ở 2:36 về danh hiệu “Christ”.
Toàn bộ Thi Thiên đều có tựa đề “các Thi Thiên của Đavít” trong tiếng Hê-
bơ-rơ, mặc dầu Đavit có lẽ chỉ sáng tác một ít trong đó.
2:33: Được đem lên bên hữu Đức Chúa Trời. Xem chú thích ở 1:9. Các tác
giả Tân Ước không quan tâm nhiều lắm đến cách Đức Chúa Giê-xu “thăng
thiên”. Lẽ thật rằng bây giờ Ngài “được tôn cao”, nghĩa là chia sẻ thẩm
quyền của Đức Chúa Trời, còn quan trọng hơn nhiều đối với họ.
2:36: Đức Chúa Trời đã tôn Ngài làm Chúa và Đấng Christ. Theo các bài
giảng trong Công Vụ, các Cơ Đốc Nhân đầu tiên sử dụng ít nhất tám tên
hoặc danh hiệu cho Đức Chúa Giê-xu. “Chúa” và “Đấng Christ” là hai trong
số đó.
Chúa . Cũng xem 10:36 và 20:21, nghĩa là người đáng nhận toàn bộ lòng
trung thành, người mà chúng ta vâng lời vượt trên Sê-sa. Đó là một từ dịch
từ chữ Hi-lạp “Kyrios” mà người ta sử dụng khi nói về Đức Chúa Trời.
Nhưng trong những ngày đầu tiên của Hội Thánh người Do Thái có lẽ không
muốn gọi Đức Chúa Giê-xu là “Đức Chúa Trời” nên họ gọi Ngài là “Chúa”.
Đấng Christ . Cũng xem 3:18; 10:36; 20:21; 26:23. Ngày nay chúng ta
thường dùng danh hiệu nầy dường như đó là tên họ của Đức Chúa Giê-xu,
nhưng đó là một tước vị. Nó có nghĩa là “Đấng Mê-si-a được xức dầu”, là sứ
giả từ Đức Chúa Trời đến mà người Do Thái đã mong đợi hàng bao thế kỷ
nay. Ngài là người sẽ “lập lại nước Y-sơ-ra-ên” (1:6). Một số người nghĩ
rằng Ngài sẽ là một lãnh tụ quân sự, những người khác nghĩ rằng Ngài sẽ là
một thủ lĩnh thuộc linh (LuLc 2:25-32). Người Do Thái ngày nay, trừ một ít
người đã tiếp nhận Đức Chúa Giê-xu làm đấng Mê-si-a, vẫn đang mong chờ
đấng Mê-si-a của họ.
Những danh hiệu khác dành cho Đức Chúa Giê-xu mà chúng ta tìm thấy
trong Công Vụ là:
Con Người (2:22; 17:31). Xem chú thích ở câu 22 và ITi1Tm 2:5.
Tôi tớ (Cong Cv 3:13), tôi tớ của Đức Chúa Trời. Xem LuLc 22:27.
Đấng Thánh (Cong Cv 3:14) và Đấng Công Bình (3:14; 7:52).
Nhà Lãnh Đạo hoặc Chúa Của Sự Sống (3:15; 5:31).
Cứu Chúa . Xem chú thích 5:31.
Thêm vào đó Lu-ca sử dụng tước hiệu “Con Đức Chúa Trời” (9:20) khi mô
tả sự rao giảng của Phao-lô tại Đa-mách (cũng xem chú thích ở 8:36).
2:37: Chúng ta phải làm chi? Phi-e-rơ giảng mạnh mẽ đến nổi đến cuối bài
giảng thì những người nghe đều khao khát sự thay đổi trong đời sống họ,
dầu cho sự thay đổi đó có khó chịu đến đâu đi nữa. Bất kỳ nhà truyền đạo
nào nghe được hội chúng nói như thế đều biết rằng mình đã đạt được một
điều gì đó.
2:38a: Hãy hối cải. Chính là các nhà lãnh đạo tôn giáo Do Thái đã gây nên
cái chết của Đức Chúa Giê-xu. Hầu hết những người nghe Phi-e-rơ đều
không liên quan gì đến sự chết của Ngài. Vì vậy tại sao họ lại “ cảm động
trong lòng (cut to the heart)” (c.37)? Có lẽ vì họ đã chẳng làm gì để ngăn
chận sự chết của Ngài. Không làm gì cả trong khi điều ác đang được họach
định tức là chia sẻ với điều ác đó. Tội lỗi không chỉ là điều sai quấy, mà còn
là điều lành chúng ta không chịu làm.
“Ăn năn (hối cải)” là gì? Chủ yếu đó là thay đổi hướng đi trong đời sống
chúng ta, có một đối tượng sống tươi mới. (Nó không giống y như cảm giác
khốn khổ mà chúng ta thường có sau khi làm điều quấy). Có bốn giai đoạn:
(1) xoay bỏ tội lỗi quá khứ (3:19); (2) tin cậy Đức Chúa Trời rằng Ngài tha
thứ hết mọi tội lỗi chúng ta và ban cho chúng ta một khởi đầu mới (5:31;
11:18); (3) quyết định cư xử theo một cách mới mẻ; (4) cởi mở để tiếp nhận
Đức Thánh Linh là đấng khiến cho việc sống theo đời mới nầy là khả dĩ.
Xem những từ cuối cùng của câu nầy.
2:38b: Phải nhơn danh Đức Chúa Giê-xu chịu phép báp-têm. Xem chú thích
ở 8:12 cho chữ “báp-têm”, và ở 3:6b cho chữ “nhơn danh Đức Chúa Giê-
xu”.
2:39: Lời hứa thuộc về các ngươi, con cái các ngươi, và thuộc về hết thảy
mọi người ở xa, tức là bao nhiêu người mà Chúa sẽ gọi.
Con cái các ngươi , tức là các thế hệ tương lai. (Câu nầy không chứng minh
rằng phép bap-têm cho trẻ nhỏ (infants) là ý chỉ của Đức Chúa Trời hoặc
rằng đó không phải là ý chỉ Ngài.)
Những người ở xa , nghĩa là những người khác, không chỉ những người
nghe bài giảng nầy.
Bao nhiêu người mà Chúa sẽ gọi , tức là “tất cả chúng ta”. Nó có cùng một ý
nghĩa như “mọi xác thịt” trong c.17, tức là mọi hạng người. Điều đó không
có nghĩa là Đức Chúa Trời kêu gọi một số người đến nhận sự cứu rỗi còn để
những người khác phải bị hư mất.
2:41: Ba ngàn người. Điều nầy không có nghĩa rằng họ đều chịu báp-têm
ngày hôm đó hoặc tại một chỗ. Nó có nghĩa rằng kể từ ngày đó một số lớn
con người đã tiếp nhận Đức Chúa Giê-xu làm đấng Mê-si-a và cuối cùng
chịu báp-têm.
ĐỀ NGHỊ NGHIÊN CỨU
ÔN LẠI NỘI DUNG
Theo Phi-e-rơ, ai có tội trong sự chết của Đức Chúa Giê-xu?
Hạng người nào nghe Phi-e-rơ giảng?
Điều gì cho thấy rằng cc.14-40 là một bản tóm tắt chứ không phải một bản
tường thuật đầy đủ?
Hãy đề cập hai sự khác biệt giữa lời dạy dỗ trong các bài giảng trong Công
Vụ với lời dạy dỗ chúng ta tìm thấy trong các văn bản sau nầy.
Huong dan hoc cong vu cac xu do
Huong dan hoc cong vu cac xu do
Huong dan hoc cong vu cac xu do
Huong dan hoc cong vu cac xu do
Huong dan hoc cong vu cac xu do
Huong dan hoc cong vu cac xu do
Huong dan hoc cong vu cac xu do
Huong dan hoc cong vu cac xu do
Huong dan hoc cong vu cac xu do
Huong dan hoc cong vu cac xu do
Huong dan hoc cong vu cac xu do
Huong dan hoc cong vu cac xu do
Huong dan hoc cong vu cac xu do
Huong dan hoc cong vu cac xu do
Huong dan hoc cong vu cac xu do
Huong dan hoc cong vu cac xu do
Huong dan hoc cong vu cac xu do
Huong dan hoc cong vu cac xu do
Huong dan hoc cong vu cac xu do
Huong dan hoc cong vu cac xu do
Huong dan hoc cong vu cac xu do
Huong dan hoc cong vu cac xu do
Huong dan hoc cong vu cac xu do
Huong dan hoc cong vu cac xu do
Huong dan hoc cong vu cac xu do
Huong dan hoc cong vu cac xu do
Huong dan hoc cong vu cac xu do
Huong dan hoc cong vu cac xu do
Huong dan hoc cong vu cac xu do
Huong dan hoc cong vu cac xu do
Huong dan hoc cong vu cac xu do
Huong dan hoc cong vu cac xu do
Huong dan hoc cong vu cac xu do
Huong dan hoc cong vu cac xu do
Huong dan hoc cong vu cac xu do
Huong dan hoc cong vu cac xu do
Huong dan hoc cong vu cac xu do
Huong dan hoc cong vu cac xu do
Huong dan hoc cong vu cac xu do
Huong dan hoc cong vu cac xu do
Huong dan hoc cong vu cac xu do
Huong dan hoc cong vu cac xu do
Huong dan hoc cong vu cac xu do
Huong dan hoc cong vu cac xu do
Huong dan hoc cong vu cac xu do
Huong dan hoc cong vu cac xu do
Huong dan hoc cong vu cac xu do
Huong dan hoc cong vu cac xu do
Huong dan hoc cong vu cac xu do
Huong dan hoc cong vu cac xu do
Huong dan hoc cong vu cac xu do
Huong dan hoc cong vu cac xu do
Huong dan hoc cong vu cac xu do
Huong dan hoc cong vu cac xu do
Huong dan hoc cong vu cac xu do
Huong dan hoc cong vu cac xu do
Huong dan hoc cong vu cac xu do
Huong dan hoc cong vu cac xu do
Huong dan hoc cong vu cac xu do
Huong dan hoc cong vu cac xu do
Huong dan hoc cong vu cac xu do
Huong dan hoc cong vu cac xu do
Huong dan hoc cong vu cac xu do
Huong dan hoc cong vu cac xu do
Huong dan hoc cong vu cac xu do
Huong dan hoc cong vu cac xu do
Huong dan hoc cong vu cac xu do
Huong dan hoc cong vu cac xu do
Huong dan hoc cong vu cac xu do
Huong dan hoc cong vu cac xu do
Huong dan hoc cong vu cac xu do
Huong dan hoc cong vu cac xu do
Huong dan hoc cong vu cac xu do
Huong dan hoc cong vu cac xu do
Huong dan hoc cong vu cac xu do
Huong dan hoc cong vu cac xu do
Huong dan hoc cong vu cac xu do
Huong dan hoc cong vu cac xu do
Huong dan hoc cong vu cac xu do
Huong dan hoc cong vu cac xu do
Huong dan hoc cong vu cac xu do
Huong dan hoc cong vu cac xu do
Huong dan hoc cong vu cac xu do
Huong dan hoc cong vu cac xu do
Huong dan hoc cong vu cac xu do
Huong dan hoc cong vu cac xu do
Huong dan hoc cong vu cac xu do
Huong dan hoc cong vu cac xu do
Huong dan hoc cong vu cac xu do
Huong dan hoc cong vu cac xu do
Huong dan hoc cong vu cac xu do
Huong dan hoc cong vu cac xu do
Huong dan hoc cong vu cac xu do
Huong dan hoc cong vu cac xu do
Huong dan hoc cong vu cac xu do
Huong dan hoc cong vu cac xu do
Huong dan hoc cong vu cac xu do
Huong dan hoc cong vu cac xu do
Huong dan hoc cong vu cac xu do
Huong dan hoc cong vu cac xu do
Huong dan hoc cong vu cac xu do
Huong dan hoc cong vu cac xu do
Huong dan hoc cong vu cac xu do
Huong dan hoc cong vu cac xu do
Huong dan hoc cong vu cac xu do
Huong dan hoc cong vu cac xu do
Huong dan hoc cong vu cac xu do
Huong dan hoc cong vu cac xu do
Huong dan hoc cong vu cac xu do
Huong dan hoc cong vu cac xu do
Huong dan hoc cong vu cac xu do
Huong dan hoc cong vu cac xu do
Huong dan hoc cong vu cac xu do
Huong dan hoc cong vu cac xu do
Huong dan hoc cong vu cac xu do
Huong dan hoc cong vu cac xu do
Huong dan hoc cong vu cac xu do
Huong dan hoc cong vu cac xu do
Huong dan hoc cong vu cac xu do
Huong dan hoc cong vu cac xu do
Huong dan hoc cong vu cac xu do
Huong dan hoc cong vu cac xu do
Huong dan hoc cong vu cac xu do
Huong dan hoc cong vu cac xu do
Huong dan hoc cong vu cac xu do
Huong dan hoc cong vu cac xu do
Huong dan hoc cong vu cac xu do
Huong dan hoc cong vu cac xu do
Huong dan hoc cong vu cac xu do
Huong dan hoc cong vu cac xu do
Huong dan hoc cong vu cac xu do
Huong dan hoc cong vu cac xu do
Huong dan hoc cong vu cac xu do
Huong dan hoc cong vu cac xu do
Huong dan hoc cong vu cac xu do
Huong dan hoc cong vu cac xu do
Huong dan hoc cong vu cac xu do
Huong dan hoc cong vu cac xu do
Huong dan hoc cong vu cac xu do
Huong dan hoc cong vu cac xu do
Huong dan hoc cong vu cac xu do
Huong dan hoc cong vu cac xu do
Huong dan hoc cong vu cac xu do
Huong dan hoc cong vu cac xu do
Huong dan hoc cong vu cac xu do
Huong dan hoc cong vu cac xu do
Huong dan hoc cong vu cac xu do
Huong dan hoc cong vu cac xu do
Huong dan hoc cong vu cac xu do
Huong dan hoc cong vu cac xu do
Huong dan hoc cong vu cac xu do
Huong dan hoc cong vu cac xu do
Huong dan hoc cong vu cac xu do
Huong dan hoc cong vu cac xu do
Huong dan hoc cong vu cac xu do
Huong dan hoc cong vu cac xu do
Huong dan hoc cong vu cac xu do
Huong dan hoc cong vu cac xu do
Huong dan hoc cong vu cac xu do
Huong dan hoc cong vu cac xu do
Huong dan hoc cong vu cac xu do
Huong dan hoc cong vu cac xu do
Huong dan hoc cong vu cac xu do
Huong dan hoc cong vu cac xu do
Huong dan hoc cong vu cac xu do
Huong dan hoc cong vu cac xu do
Huong dan hoc cong vu cac xu do
Huong dan hoc cong vu cac xu do
Huong dan hoc cong vu cac xu do
Huong dan hoc cong vu cac xu do
Huong dan hoc cong vu cac xu do
Huong dan hoc cong vu cac xu do
Huong dan hoc cong vu cac xu do
Huong dan hoc cong vu cac xu do
Huong dan hoc cong vu cac xu do
Huong dan hoc cong vu cac xu do
Huong dan hoc cong vu cac xu do
Huong dan hoc cong vu cac xu do
Huong dan hoc cong vu cac xu do
Huong dan hoc cong vu cac xu do
Huong dan hoc cong vu cac xu do
Huong dan hoc cong vu cac xu do
Huong dan hoc cong vu cac xu do
Huong dan hoc cong vu cac xu do
Huong dan hoc cong vu cac xu do
Huong dan hoc cong vu cac xu do
Huong dan hoc cong vu cac xu do
Huong dan hoc cong vu cac xu do
Huong dan hoc cong vu cac xu do
Huong dan hoc cong vu cac xu do
Huong dan hoc cong vu cac xu do
Huong dan hoc cong vu cac xu do
Huong dan hoc cong vu cac xu do
Huong dan hoc cong vu cac xu do
Huong dan hoc cong vu cac xu do
Huong dan hoc cong vu cac xu do
Huong dan hoc cong vu cac xu do
Huong dan hoc cong vu cac xu do
Huong dan hoc cong vu cac xu do
Huong dan hoc cong vu cac xu do
Huong dan hoc cong vu cac xu do
Huong dan hoc cong vu cac xu do
Huong dan hoc cong vu cac xu do
Huong dan hoc cong vu cac xu do
Huong dan hoc cong vu cac xu do
Huong dan hoc cong vu cac xu do
Huong dan hoc cong vu cac xu do
Huong dan hoc cong vu cac xu do
Huong dan hoc cong vu cac xu do
Huong dan hoc cong vu cac xu do
Huong dan hoc cong vu cac xu do
Huong dan hoc cong vu cac xu do
Huong dan hoc cong vu cac xu do
Huong dan hoc cong vu cac xu do
Huong dan hoc cong vu cac xu do
Huong dan hoc cong vu cac xu do
Huong dan hoc cong vu cac xu do

More Related Content

What's hot

Kinh thanh va dao duc hoc
Kinh thanh va dao duc hocKinh thanh va dao duc hoc
Kinh thanh va dao duc hocco_doc_nhan
 
Chien luot ht tang truong
Chien luot ht tang truongChien luot ht tang truong
Chien luot ht tang truongco_doc_nhan
 
Nguyen tac tho phuong
Nguyen tac tho phuongNguyen tac tho phuong
Nguyen tac tho phuongco_doc_nhan
 
Nhung nguyen tac lanh dao
Nhung nguyen tac lanh daoNhung nguyen tac lanh dao
Nhung nguyen tac lanh daoco_doc_nhan
 
Chu giai 1 va 2 cotinhto
Chu giai 1 va 2 cotinhtoChu giai 1 va 2 cotinhto
Chu giai 1 va 2 cotinhtoco_doc_nhan
 
Co van day do va dan dat
Co van day do va dan datCo van day do va dan dat
Co van day do va dan datco_doc_nhan
 
Toi muon la co doc nhan
Toi muon la co doc nhanToi muon la co doc nhan
Toi muon la co doc nhanco_doc_nhan
 
Hieu biet kinh thanh
Hieu biet kinh thanhHieu biet kinh thanh
Hieu biet kinh thanhco_doc_nhan
 

What's hot (9)

Kinh thanh va dao duc hoc
Kinh thanh va dao duc hocKinh thanh va dao duc hoc
Kinh thanh va dao duc hoc
 
Chien luot ht tang truong
Chien luot ht tang truongChien luot ht tang truong
Chien luot ht tang truong
 
Nguyen tac tho phuong
Nguyen tac tho phuongNguyen tac tho phuong
Nguyen tac tho phuong
 
Nhung nguyen tac lanh dao
Nhung nguyen tac lanh daoNhung nguyen tac lanh dao
Nhung nguyen tac lanh dao
 
Chu giai 1 va 2 cotinhto
Chu giai 1 va 2 cotinhtoChu giai 1 va 2 cotinhto
Chu giai 1 va 2 cotinhto
 
Co van day do va dan dat
Co van day do va dan datCo van day do va dan dat
Co van day do va dan dat
 
Toi muon la co doc nhan
Toi muon la co doc nhanToi muon la co doc nhan
Toi muon la co doc nhan
 
Phuc am giang
Phuc am giangPhuc am giang
Phuc am giang
 
Hieu biet kinh thanh
Hieu biet kinh thanhHieu biet kinh thanh
Hieu biet kinh thanh
 

Similar to Huong dan hoc cong vu cac xu do

Thong hieu kinh thanh
Thong hieu kinh thanhThong hieu kinh thanh
Thong hieu kinh thanhco_doc_nhan
 
Sách những chủ đề trong thần học cựu ước
Sách những chủ đề trong thần học cựu ướcSách những chủ đề trong thần học cựu ước
Sách những chủ đề trong thần học cựu ướcNguyen Kim Son
 
Tan uoc ( luot khao)
Tan uoc ( luot khao)Tan uoc ( luot khao)
Tan uoc ( luot khao)co_doc_nhan
 
Nguyen tac doc va hieu kinh thanh
Nguyen tac doc va hieu kinh thanhNguyen tac doc va hieu kinh thanh
Nguyen tac doc va hieu kinh thanhco_doc_nhan
 
Toi muon la co doc nhan
Toi muon la co doc nhanToi muon la co doc nhan
Toi muon la co doc nhanLong Do Hoang
 
Cac sach phuc am
Cac sach phuc amCac sach phuc am
Cac sach phuc amco_doc_nhan
 
Vuong quoc quyen nang va vinh hien
Vuong quoc quyen nang va vinh hienVuong quoc quyen nang va vinh hien
Vuong quoc quyen nang va vinh hienLong Do Hoang
 
Vuong quoc quyen nang va vinh hien
Vuong quoc quyen nang va vinh hienVuong quoc quyen nang va vinh hien
Vuong quoc quyen nang va vinh hienco_doc_nhan
 
đức đạt lai lạt ma
đức đạt lai lạt mađức đạt lai lạt ma
đức đạt lai lạt malyquochoang
 
Các đạo sư của sự thiền định
Các đạo sư của sự thiền địnhCác đạo sư của sự thiền định
Các đạo sư của sự thiền địnhleolove04
 
Các Đạo Sư Của Sự Thiền Định Và Những Điều Huyền Diệu (Tulku Thondup)
Các Đạo Sư Của Sự Thiền Định Và Những Điều Huyền Diệu (Tulku Thondup)Các Đạo Sư Của Sự Thiền Định Và Những Điều Huyền Diệu (Tulku Thondup)
Các Đạo Sư Của Sự Thiền Định Và Những Điều Huyền Diệu (Tulku Thondup)Phật Ngôn
 
Dao duc co doc giao voi cac van de can dai
Dao duc co doc giao voi cac van de can daiDao duc co doc giao voi cac van de can dai
Dao duc co doc giao voi cac van de can daiLong Do Hoang
 
Dao duc co doc giao voi cac van de can dai
Dao duc co doc giao voi cac van de can daiDao duc co doc giao voi cac van de can dai
Dao duc co doc giao voi cac van de can daico_doc_nhan
 
Chết an bình tái sinh hạnh phúc
Chết an bình tái sinh hạnh phúcChết an bình tái sinh hạnh phúc
Chết an bình tái sinh hạnh phúcleolove04
 
The Tibetan Book of the Dead (Vietnamese)
The Tibetan Book of the Dead (Vietnamese)The Tibetan Book of the Dead (Vietnamese)
The Tibetan Book of the Dead (Vietnamese)Little Daisy
 
Thiền và pháp môn vô niệm luận giải về pháp bảo đàn kinh của lục tổ huệ năng
Thiền và pháp môn vô niệm luận giải về pháp bảo đàn kinh của lục tổ huệ năngThiền và pháp môn vô niệm luận giải về pháp bảo đàn kinh của lục tổ huệ năng
Thiền và pháp môn vô niệm luận giải về pháp bảo đàn kinh của lục tổ huệ năngjackjohn45
 

Similar to Huong dan hoc cong vu cac xu do (20)

Thong hieu kinh thanh
Thong hieu kinh thanhThong hieu kinh thanh
Thong hieu kinh thanh
 
Sách những chủ đề trong thần học cựu ước
Sách những chủ đề trong thần học cựu ướcSách những chủ đề trong thần học cựu ước
Sách những chủ đề trong thần học cựu ước
 
Tan uoc ( luot khao)
Tan uoc ( luot khao)Tan uoc ( luot khao)
Tan uoc ( luot khao)
 
Nguyen tac doc va hieu kinh thanh
Nguyen tac doc va hieu kinh thanhNguyen tac doc va hieu kinh thanh
Nguyen tac doc va hieu kinh thanh
 
Da goc nha
Da goc nhaDa goc nha
Da goc nha
 
Toi muon la co doc nhan
Toi muon la co doc nhanToi muon la co doc nhan
Toi muon la co doc nhan
 
Cac sach phuc am
Cac sach phuc amCac sach phuc am
Cac sach phuc am
 
Vuong quoc quyen nang va vinh hien
Vuong quoc quyen nang va vinh hienVuong quoc quyen nang va vinh hien
Vuong quoc quyen nang va vinh hien
 
Vuong quoc quyen nang va vinh hien
Vuong quoc quyen nang va vinh hienVuong quoc quyen nang va vinh hien
Vuong quoc quyen nang va vinh hien
 
đức đạt lai lạt ma
đức đạt lai lạt mađức đạt lai lạt ma
đức đạt lai lạt ma
 
Các đạo sư của sự thiền định
Các đạo sư của sự thiền địnhCác đạo sư của sự thiền định
Các đạo sư của sự thiền định
 
Các Đạo Sư Của Sự Thiền Định Và Những Điều Huyền Diệu (Tulku Thondup)
Các Đạo Sư Của Sự Thiền Định Và Những Điều Huyền Diệu (Tulku Thondup)Các Đạo Sư Của Sự Thiền Định Và Những Điều Huyền Diệu (Tulku Thondup)
Các Đạo Sư Của Sự Thiền Định Và Những Điều Huyền Diệu (Tulku Thondup)
 
Tho phuong dct
Tho phuong dctTho phuong dct
Tho phuong dct
 
Tho phuong dct
Tho phuong dctTho phuong dct
Tho phuong dct
 
Dao duc co doc giao voi cac van de can dai
Dao duc co doc giao voi cac van de can daiDao duc co doc giao voi cac van de can dai
Dao duc co doc giao voi cac van de can dai
 
Dao duc co doc giao voi cac van de can dai
Dao duc co doc giao voi cac van de can daiDao duc co doc giao voi cac van de can dai
Dao duc co doc giao voi cac van de can dai
 
Chết an bình tái sinh hạnh phúc
Chết an bình tái sinh hạnh phúcChết an bình tái sinh hạnh phúc
Chết an bình tái sinh hạnh phúc
 
The Tibetan Book of the Dead (Vietnamese)
The Tibetan Book of the Dead (Vietnamese)The Tibetan Book of the Dead (Vietnamese)
The Tibetan Book of the Dead (Vietnamese)
 
Tử Thư Tây Tạng
Tử Thư Tây TạngTử Thư Tây Tạng
Tử Thư Tây Tạng
 
Thiền và pháp môn vô niệm luận giải về pháp bảo đàn kinh của lục tổ huệ năng
Thiền và pháp môn vô niệm luận giải về pháp bảo đàn kinh của lục tổ huệ năngThiền và pháp môn vô niệm luận giải về pháp bảo đàn kinh của lục tổ huệ năng
Thiền và pháp môn vô niệm luận giải về pháp bảo đàn kinh của lục tổ huệ năng
 

More from co_doc_nhan

Vai net ve hoi thanh dau tien
Vai net ve hoi thanh dau tienVai net ve hoi thanh dau tien
Vai net ve hoi thanh dau tienco_doc_nhan
 
Truong dang christ
Truong dang christTruong dang christ
Truong dang christco_doc_nhan
 
Su phuc hung hau den
Su phuc hung hau denSu phuc hung hau den
Su phuc hung hau denco_doc_nhan
 
Su phat trien tu nhien cua hoi thanh
Su phat trien tu nhien cua hoi thanhSu phat trien tu nhien cua hoi thanh
Su phat trien tu nhien cua hoi thanhco_doc_nhan
 
Phuong phap day dao
Phuong phap day daoPhuong phap day dao
Phuong phap day daoco_doc_nhan
 
Phuong cach rao giang loi chua
Phuong cach rao giang loi chuaPhuong cach rao giang loi chua
Phuong cach rao giang loi chuaco_doc_nhan
 
Nhung dieu tot lanh den voi cac nhom nho
Nhung dieu tot lanh den voi cac nhom nhoNhung dieu tot lanh den voi cac nhom nho
Nhung dieu tot lanh den voi cac nhom nhoco_doc_nhan
 
Nhiem vu giao duc
Nhiem vu giao ducNhiem vu giao duc
Nhiem vu giao ducco_doc_nhan
 
Nhan lanh va gin giu su chua lanh
Nhan lanh va gin giu su chua lanhNhan lanh va gin giu su chua lanh
Nhan lanh va gin giu su chua lanhco_doc_nhan
 
Nguyen tac giang day
Nguyen tac giang dayNguyen tac giang day
Nguyen tac giang dayco_doc_nhan
 
Nguyen tac day do
Nguyen tac day doNguyen tac day do
Nguyen tac day doco_doc_nhan
 
Nguyen tac cua cai
Nguyen tac cua caiNguyen tac cua cai
Nguyen tac cua caico_doc_nhan
 
Nghe thuat chan bay
Nghe thuat chan bayNghe thuat chan bay
Nghe thuat chan bayco_doc_nhan
 
Nep song cua nguoi lanh dao
Nep song cua nguoi lanh daoNep song cua nguoi lanh dao
Nep song cua nguoi lanh daoco_doc_nhan
 
Lanh dao thuot linh va goi chung
Lanh dao thuot linh va goi chungLanh dao thuot linh va goi chung
Lanh dao thuot linh va goi chungco_doc_nhan
 

More from co_doc_nhan (20)

Vai net ve hoi thanh dau tien
Vai net ve hoi thanh dau tienVai net ve hoi thanh dau tien
Vai net ve hoi thanh dau tien
 
Truong dang christ
Truong dang christTruong dang christ
Truong dang christ
 
Su phuc hung hau den
Su phuc hung hau denSu phuc hung hau den
Su phuc hung hau den
 
Su phat trien tu nhien cua hoi thanh
Su phat trien tu nhien cua hoi thanhSu phat trien tu nhien cua hoi thanh
Su phat trien tu nhien cua hoi thanh
 
Phuong phap day dao
Phuong phap day daoPhuong phap day dao
Phuong phap day dao
 
Phuong cach rao giang loi chua
Phuong cach rao giang loi chuaPhuong cach rao giang loi chua
Phuong cach rao giang loi chua
 
Phuc vu chua
Phuc vu chuaPhuc vu chua
Phuc vu chua
 
Phuc vu chua
Phuc vu chuaPhuc vu chua
Phuc vu chua
 
Nhung dieu tot lanh den voi cac nhom nho
Nhung dieu tot lanh den voi cac nhom nhoNhung dieu tot lanh den voi cac nhom nho
Nhung dieu tot lanh den voi cac nhom nho
 
Nhom thanh cong
Nhom thanh congNhom thanh cong
Nhom thanh cong
 
Nhiem vu giao duc
Nhiem vu giao ducNhiem vu giao duc
Nhiem vu giao duc
 
Nhan lanh va gin giu su chua lanh
Nhan lanh va gin giu su chua lanhNhan lanh va gin giu su chua lanh
Nhan lanh va gin giu su chua lanh
 
Nguyen tac giang day
Nguyen tac giang dayNguyen tac giang day
Nguyen tac giang day
 
Nguyen tac day do
Nguyen tac day doNguyen tac day do
Nguyen tac day do
 
Nguyen tac cua cai
Nguyen tac cua caiNguyen tac cua cai
Nguyen tac cua cai
 
Nghe thuat chan bay
Nghe thuat chan bayNghe thuat chan bay
Nghe thuat chan bay
 
Nep song cua nguoi lanh dao
Nep song cua nguoi lanh daoNep song cua nguoi lanh dao
Nep song cua nguoi lanh dao
 
Lanh dao
Lanh daoLanh dao
Lanh dao
 
Lanh dao thuot linh va goi chung
Lanh dao thuot linh va goi chungLanh dao thuot linh va goi chung
Lanh dao thuot linh va goi chung
 
Lanh dao co doc
Lanh dao co docLanh dao co doc
Lanh dao co doc
 

Huong dan hoc cong vu cac xu do

  • 1. Hướng Dẫn Học Công Vụ Các Sứ Đồ Tác giả: John Hargreaves Lời Mở Đầu Cách Sử Dụng Tập Hướng Dẫn Nầy Đọc Thêm Dàn Y Sách Công Vụ Các Sứ Đồ Phần Dẫn Nhập Cong Cv 1:1-11 Mạng Lệnh Và Lời Hứa Của Đức Chúa Giê-Xu 1:12-26 Người Kế Nhiệm Giu-Đa 2:1-13 Sự Tuôn Đổ Đức Thánh Linh, Với Phụ Chú: “Tiếng Lạ” 2:14-41 Bài Giảng Đầu Tiên Của Phi-E-Rơ 2:42-47 Đặc Điểm Của Những Nhóm Cơ Đốc Nhân Đầu Tiên 3:1-26 Việc Chữa Lành Người Què, Với Phụ Chú: Chữa Lành 4:1-31 Phi-e-rơ và Giăng Bị Bắt, Với Phụ Chú: Chống Đối Và Bách Hại 4:32-5:42 Các Cơ Đốc Nhân Và Tòa Công Luận Do Thái Chú Thích Đặc Biệt A: Lu-Ca, Nhà Sử Học 6:1-15 Việc Bổ Nhiệm Bảy Người 7:1-8:1a Bài Giảng Của Ê-Tiên Và Sự Chết Của Người, Với Phụ Chú: Luật Pháp 8:1b-25 Sự Bách Hại Dẫn Đến Công Cuộc Truyền Giáo Tại Sa-Ma-Ri, Với Phụ Chú: Phép Baptem 8:26-40 Phi-Lip Và “Hoạn Quan Ê-Thi-O-Pi” 9:1-19a Sự Cải Đạo Của Phao-Lô Chú Thích Đặc Biệt B: Bối Cảnh Của Phao-Lô 9:19b-31 Sau Sự Cải Đạo Của Phao-Lô 9:32-11:18 Phi-E-Rơ Và Cọt-Nây 11:19-30 Công Cuộc Truyền Giáo Tại An-Ti-Ot Xứ Si-Ry 12:1-25 Hê-Rốt Ac-Rip-Pa I Bách Hại Hội Thánh Bản Đồ: Vùng Đông Địa Trung Hải Vào Thời Tân Ước 13:1-12 Công Cuộc Truyền Giáo Tại Chíp-Rơ, Với Phụ Chú: Những Nhà Lãnh Đạo Hội Thánh 13:13-52 Công Cuộc Truyền Giáo Tại An-Ti-Ot Xứ Bi-Si-Đi 14:1-28 Công Cuộc Truyền Giáo Tại Y-Cô-Ni Và Lit-Trơ 15:1-35 Giáo Hội Nghị Giê-Ru-Sa-Lem 15:36-16:10 Các Cơ Đốc Nhân Đem Phúc Am Về Hướng Tây 16:11-17:15 Phao-Lô Tại Ma-Xê-Đoan 17:16-34 Phao-Lô Tại A-Thên, Với Phụ Chú: Các Cơ Đốc Nhân Và Những Người Theo Các Tôn Giáo Khác 18:1-28 Phao-Lô Tại Cô-Rin-Tô
  • 2. 19:1-41 Phao-Lô Tại Ê-Phê-Sô Chú Thích Đặc Biệt C: Bản Thảo Sách Công Vụ 20:1-38 Hành Trình Của Phao-Lô Về Giê-Ru-Sa-Lem, Với Phụ Chú: Phép Lạ 21:1-36 Phao-Lô Đến Giê-Ru-Sa-Lem 21:37-23:11 Hai Bài Giảng Của Phao-Lô Cho Người Do Thái 23:12-25:12 Các Tổng Đốc Lamã Xét Xử Phao-Lô 25:13-26:32 Phao-Lô Gặp Hê-Rốt Ac-Rip-Pa II, Với Phụ Chú: Cơ Đốc Nhân Và Nhà Nước 27:1-28:31 Hành Trình Đến Lamã Đường Thời Gian Đáp An Cho Các Đề Nghị Nghiên Cứu Phụ Lục Lời Mở Đầu Tôi xin chân thành cảm ơn mọi người đã giúp đỡ tôi chuẩn bị quyển sách nầy, nhất là: Hội chúng St Luke’s Church, Sevenoaks, Kent, đã dâng hiến rộng rãi để tôi có thể đi thăm nhiều nơi tại Hi-lạp và Thổ-nhĩ-kỳ. Nhờ đó tôi thăm viếng được hầu hết những chỗ đã được đề cập trong sách Công Vụ (sau khi đã làm việc tại Giê-ru-sa-lem mấy năm); Ban điều hành Inter-Church Travel, nhất là Canon Ron Brownrigg, đã tư vấn và tổ chức chu đáo các chuyến đi; Tiến sĩ Athanasius Delikostopoulos ở Athen, đã chia sẻ kiến thức về các hành trình của Phao-lô, cũng như nhiều Cơ Đốc Nhân khác đang sống trong những xứ mà Phao-lô đã thực thi công tác của mình; Các sinh viên của Đại Học Selly Oak và các độc giả của Rochester Diocese đã cùng tham gia học sách Công Vụ với tôi; Những người đã phê bình quyển sách nầy qua kinh nghiệm của họ ở nhiều vùng khác nhau trên thế giới: anh tôi, MS Cecil Hargreaves, trước đây dạy ở Đại Học Bishops, Calcutta; MS Monrelle Williams ở Đại Học Codrington, Barbados; và MS Pandang Yamsat ở Bukuru, Bắc Nigeria; Cô Elizabeth Spence, đã đánh máy bản thảo đầu tiên với sự chính xác lâu nay, và ông Stephen Ridout, đã có những đề nghị hữu ích trong việc tu chính và sửa đổi; MS Nick Beddow, chủ nhiệm tủ sách nầy, đã có những nhận xét thấu đáo; Daphne Terry, người hơn ba mươi năm qua đã đem lại lợi ích lớn lao cho tôi
  • 3. qua kỹ năng nghề nghiệp cũng như sự động viên và nhận xét tử tế (và thật sự đã là một bà đỡ chuyên nghiệp cho toàn bộ tủ sách), và là người đã làm sống động cuốn sách nầy bằng nhiều phương thức khác nhau. JOHN HARGREAVES Cách Sử Dụng Tập Hướng Dẫn Nầy Dàn ý của quyển sách nầy đi theo cùng một khuôn mẫu như các sách hướng dẫn học Kinh Thánh khác trong tủ sách (series) nầy. Trong phần Dẫn Nhập chúng tôi xem xét các lý do vì sao Lu-ca viết “tập thứ hai” của quyển sách có hai phần của ông, Phúc Âm và Công Vụ, và tại sao nó được quan tâm và có tầm quan trọng đặc biệt đối với Hội Thánh trong thế giới hiện đại. Mỗi phần của sách Hướng Dẫn gồm có: Một Bố cục tóm lược phân đoạn Kinh Thánh để làm sáng tỏ chuỗi sự kiện Lu-ca đang mô tả và những chủ đề chính ông đang khai triển; Một phần Giải nghĩa trong đó chúng tôi thảo luận mục đích chính của Lu-ca khi viết, sứ điệp ông muốn truyền đạt và ý nghĩa của sứ điệp đó đối với độc giả đương thời của ông, và cách chúng ta nên hiểu và áp dụng sứ điệp đó vào cuộc sống của chính mình ngày nay; Những chú thích về những từ đặc biệt và những câu dường như cần được giải thích hoặc thảo luận thêm; và Những lời đề nghị chỉnh lý cùng nghiên cứu thêm. Những Chú Thích Đặc Biệt Ba chú thích bối cảnh nầy, về độ chính xác của Lu-ca với tư cách một nhà sử học, bối cảnh của Phao-lô, và bản thảo sách Công Vụ, nằm tách biệt với những phần đề cập đến các phân đoạn Kinh Thánh bởi vì mỗi bối cảnh đều liên hệ ít nhiều đến toàn thể quyển sách. Một số độc giả có thể thích đọc chúng ngay sau phần dẫn nhập, trước khi đi vào phần nghiên cứu chi tiết bản văn sách Công Vụ. Những Phụ Chú Và Nghiên Cứu Từ Ngữ Những chú thích mở rộng về chín chủ đề then chốt, được Lu-ca đặc biệt quan tâm vì tầm quan trọng của chúng trong cuộc sống của Hội Thánh đầu tiên - đồng thời cũng quan trọng như vậy ngày nay -theo sau các chú thích thông thường tại các điểm thích hợp trong bản văn. Các chú thích thông thường tự chúng đã bao gồm các nghiên cứu chi tiết về nhiều từ ngữ Kinh Thánh quan trọng được Lu-ca sử dụng trong Công Vụ. Phần tham khảo
  • 4. Index dành cho những nghiên cứu nầy và dành cho những chủ đề trong Phụ Chú được in đậm. Những Đề Nghị Nghiên Cứu Những đề nghị nghiên cứu thêm xuất hiện ở cuối mỗi phần và mỗi Chú Thích Đặc Biệt. Nhằm giúp đỡ những độc giả tự học có thể nghiên cứu kỹ hơn và hiểu biết sứ điệp của Lu-ca rõ ràng hơn, cũng như giúp kiểm tra sự tiến bộ của họ, chúng thật sự là một bộ phận của phần chú giải. Chúng cũng có thể được sử dụng trong lớp học, và cung ứng đề tài cho việc nghiên cứu và thảo luận theo nhóm. Chúng có ba loại chính: On Lại Nội Dung : phần nầy nhằm giúp độc giả kiểm tra công việc họ đã thực hiện, làm sâu nhiệm hơn sự hiểu biết của họ về những từ ngữ quan trọng được sử dụng, và bảo đảm họ đã nắm bắt đầy đủ các ý tưởng và điểm dạy dỗ đã cho; Nghiên cứu Kinh Thánh : phần nầy liên hệ các ý tưởng và sự dạy dỗ trong Công Vụ với các ý tưởng và sự dạy dỗ được tìm thấy trong các phần khác của Kinh Thánh; Thảo Luận Và Ap Dụng : phần nầy nhằm gợi ý cho độc giả nhận thức mối liên hệ giữa Hội Thánh thời Lu-ca và Hội Thánh ngày nay, và suy nghĩ đến việc áp dụng thực tiễn sứ điệp của Lu-ca vào chính cuộc sống Cơ Đốc của mình. Chúng đặc biệt thích hợp cho các nhóm học tập. Cách tốt nhất để sử dụng phần Đề Nghị Nghiên Cứu nầy là: trước hết, hãy đọc lại phân đoạn Kinh Thánh; thứ hai, đọc phần thích hợp trong sách Hướng Dẫn một hay hai lần; rồi sau đó thực hiện công tác được đề nghị, hoặc là bằng bài viết hoặc bằng thảo luận theo nhóm, mà không nhìn vào Sách Hướng Dẫn trừ phi được yêu cầu làm như vậy. Phần Đáp Án cho Đề Nghị Nghiên Cứu (tr.233) sẽ giúp độc giả có thể kiểm tra bài làm của mình đối với những câu hỏi có thể kiểm tra được theo cách nầy. Trong hầu hết các trường hợp phần đáp án không đưa ra câu trả lời cho một câu hỏi: nó chỉ chỗ tìm câu trả lời trong bản văn. Bản Đồ và Đường Thời Gian Bản đồ (tr.120) bao gồm tất cả các địa danh đề cập trong Công Vụ; đường thời gian (tr.231) cho thấy thứ tự tương đối các sự kiện Lu-ca mô tả, trong chừng mức ngày tháng của chúng có thể được xác định. Đọc thêm Mục lục sách tham khảo ở tr.x liệt kê một số sách mà độc giả có thể thấy là hữu ích khi nghiên cứu thêm về sách Công Vụ . Bản Dịch Kinh Thánh Bản dịch tiếng Anh của Kinh Thánh được dùng trong sách Hướng Dẫn nầy
  • 5. là bản Revised Standard Version Common Bible (Ecumenical Edition ) (RSV). Những bản dịch khác được dùng trong một ít trường hợp mà chúng làm rõ nghĩa hơn là The New English Bible (NEB), Good News Bible (GNB), New International Version (NIV), và bản của J.B. Phillips. Bản Authorized Version (AV) cũng được đề cập. (Trong bản dịch Việt Ngữ của sách hướng dẫn, Bản Kinh Thánh chính thức của Hội Thánh Tin Lành Việt Nam được sử dụng- ND). Phụ Lục Phần Phụ Lục chỉ bao gồm những tên tuổi quan trọng hơn của những con người và nơi chốn được đề cập và những chủ đề xuất hiện trong Công Vụ. Phần tham khảo trang in đậm cho thấy chỗ mà đề tài cụ thể đó được trình bày chi tiết. ĐỌC THÊM CÔNG VỤ Bewes,R., The Church Reaches Out , London, Mowbrays 1981 Bruce, F.F., The Acts Of The Apostles , London, Marshall, Morgan and Scott, 1954 -- Acts . London, scripture union 1982 Hanson, R.P.C., The Acts (New Clarendon Bible). Oxford University Press, 1967 Marshall, Howard, Acts . Leicester UK, Inter-Varsity Press 1980 Neil, William, Acts (New Century Bible). Basingstoke UK, Marshall Pickering 1973. THÁNH PHAO-LÔ Grollenberg, L.H., Paul . London, SCM Press 1978 Pollock, J., The Apostle . Tring UK, Lion Publishing 1969 Dàn Ý Sách Công Vụ Các Sứ Đồ Phần A. Sự khai sinh Hội Thánh Cơ Đốc (1:1-5-42) SỰ CHUẨN BỊ Những Mạng lệnh và lời hứa của Đức Chúa Giê-xu. 1:1-11 Người kế nhiệm Giu-đa. 1:12-26 HỘI THÁNH ĐƯỢC ĐẦY DẪY ĐỨC THÁNH LINH Sự tuôn đổ Đức Thánh Linh. 2:1-13 Bài giảng đầu tiên của Phi-e-rơ. 2:14-41 Đặc Điểm Của Những Nhóm Cơ Đốc Nhân Đầu Tiên. 2:42-47 HỘI THÁNH TẠI GIÊ-RU-SA-LEM Việc Chữa Lành Người Què. 3:1-26
  • 6. Phi-e-rơ Và Giăng Bị Bắt. 4:1-31 Các Cơ Đốc Nhân Và Tòa Công Luận Do Thái. 4:32-5:42 Phần B. Sự phát triển Hội Thánh từ Giê-ru-sa-lem đến An-ti-ốt xứ Sy-ri (6:1-12:25) CÔNG CUỘC TRUYỀN GIÁO CHO NGƯỜI DO THÁI NÓI TIẾNG HI- LẠP Việc Bổ Nhiệm Bảy Người. 6:1-15 Bài Giảng Của Ê-Tiên Và Sự Chết Của Người. 7:1-8:1a CÔNG CUỘC TRUYỀN GIÁO CHO NGƯỜI SA-MA-RI VÀ NGƯỜI Ê- THI-Ô-PI Sự Bách Hại Dẫn Đến Công Cuộc Truyền Giáo Tại Sa-Ma-Ri. 8:1b-25 Phi-Lip Và “Hoạn Quan Ê-thi-ô-pi”. 8:26-40 SỰ CẢI ĐẠO CỦA PHAO-LÔ Sự Cải Đạo Của Phao-Lô. 9:1-19a Sau Sự Cải Đạo Của Phao-Lô. 9:19b-31; CÔNG CUỘC TRUYỀN GIÁO CHO DÂN NGOẠI Phi-e-rơ Và Cọt-Nây. 9:32-11:18 Công Cuộc Truyền Giáo Tại An-Ti-Ot Xứ Si-Ry. 11:19-30 Hê-Rốt Ac-rip-pa I Bách Hại Hội Thánh. 12:1-25 Phần C. Sự lan truyền Phúc Âm từ An-ti-ốt xứ Sy-ri đến Lamã (13:1-28:31) ĐẠI SỨ MẠNG “THỨ NHẤT” CỦA PHAO-LÔ - ĐẾN VỚI DÂN NGOẠI Ở CHÂU Á Công Cuộc Truyền Giáo Tại Chíp-Rơ. 13:1-12 Công Cuộc Truyền Giáo Tại An-Ti-Ot Xứ Bi-Si-Đi. 13:13-52 Công Cuộc Truyền Giáo Tại Y-Cô-Ni Và Lit-Trơ. 14:1-28 TRANH LUẬN Giáo Hội Nghị Giê-Ru-Sa-Lem. 15:1-35 ĐẠI SỨ MẠNG THỨ NHÌ CỦA PHAO-LÔ - TẠI CHÂU ÂU Các Cơ Đốc Nhân Đem Phúc Am Về Hướng Tây. 15:36-16:10 Phao-Lô Tại Ma-Xê-Đoan. 16:11-17:15 Phao-Lô Tại A-Thên. 17:16-34 Phao-Lô Tại Cô-Rin-Tô. 18:1-28 ĐẠI SỨ MẠNG THỨ BA CỦA PHAO-LÔ - TẠI CHÂU Á Phao-Lô Tại Ê-Phê-Sô. 19:1-41 PHAO-LÔ BỊ BẮT Hành Trình Của Phao-Lô Về Giê-Ru-Sa-Lem. 20:1-38 Phao-Lô Đến Giê-Ru-Sa-Lem. 21:1-36 Hai Bài Giảng Của Phao-Lô Cho Người Do Thái. 21:37-23:11 Các Tổng Đốc Lamã Xét Xử Phao-Lô. 23:12-25:12
  • 7. Phao-Lô Gặp Hê-Rốt Ac-Rip-Pa II. 25:13-26:32 NGƯỜI TÙ PHAO-LÔ ĐẾN LAMÃ Hành Trình Đến Lamã. 27:1-28:31 Tại sao Lu-ca viết Công Vụ Các Sứ Đồ? Thỉnh thoảng có những cuộc cách mạng chính trị ở nước nầy hoặc nước kia, và các đài phát thanh cũng như báo chí sôi nổi tường thuật lại những sự kiện đó. Tác giả sách Công Vụ cũng đang tường thuật lại một cuộc cách mạng, nhưng đó lại là một cuộc cách mạng thuộc một loại khác hẳn. Ong đang kể lại sự thay đổi hết sức vĩ đại trong cung cách người ta nghĩ về Đức Chúa Trời sau khi Đức Chúa Giê-xu đến. Tác giả, Lu-ca, là một người Hi-lạp đã nhận biết rằng Đức Chúa Trời yêu thương và chăm sóc mọi chủng tộc chứ không riêng gì người Do Thái. Đây là một tin tức tốt lành đối với Lu-ca, và là một ý tưởng mới mẻ và cách mạng đối với ông, đến nổi ông dành phần còn lại của cuộc đời mình để công bố nó ra. Có lẽ ông đã giúp Phao-lô rao giảng Tin Lành nầy cho người Do Thái cũng như người không phải Do Thái, và chắc chắn ông là tác giả của một quyển sách có hai phần. Phần thứ nhất trong quyển sách có hai phần của Lu-ca là sách Phúc Âm mang tên ông, phần thứ hai là sách Công Vụ Các Sứ Đồ. Trong cả hai phần ông đều có mục đích đặc biệt nầy: để bày tỏ rằng Thánh Linh của Đức Chúa Trời đã linh cảm (inspired) Đức Chúa Giê-xu và các môn đồ của Ngài nhằm phá vỡ các rào chắn, tức là những điều phân rẽ con người thuộc các tôn giáo, chủng tộc và quốc gia khác nhau. Điều đã diễn ra, và điều chúng ta đọc được trong Công Vụ, nổi bật đến nỗi khi mô tả điều đó là “sự mở mang hội thánh” (church spreading) thì chưa đủ. Nói rằng hội thánh đang “bùng nổ” thì chính xác hơn. Chúng ta nhìn thấy mục đích của Lu-ca trong sách Phúc Âm của ông từ những phân đoạn như sau (những phân đoạn không có trong các sách Phúc Âm khác): “làm ánh sáng trước mặt muôn dân ” (tức là, người không phải Do Thái, LuLc 2:31), hoặc “Có một người trong bọn họ đến sấp mặt xuống đất, nơi chơn Đức Chúa Giê-xu, mà tạ ơn Ngài. Vả, người đó là người Sa- ma-ri ” (17:16). Chúng ta tìm được sứ điệp y hệt như vậy trong Công Vụ, chẳng hạn, “Các ngươi sẽ làm chứng về ta … cho đến cùng trái đất” (Cong Cv 1:8). Sau đó, từ chương 2 cho đến cuối sách, Lu-ca cho chúng ta thấy các giai đoạn mà các Cơ Đốc Nhân đã trải qua, khi họ vươn đến những cá nhân hoặc nhóm người mới và nối liền những sự phân cách giữa người Do Thái với những dân khác. Ông mô tả loại người mà Cơ Đốc Nhân vươn tới: “người mới theo đạo Giu-đa” tại Giê-ru-sa-lem (những người không phải Do Thái sinh hoạt với các nhà hội Do Thái, 2:10), người Sa-ma-ri (8:5-25), một “người Ê-thi-
  • 8. ô-pi” (8:26-40), Phao-lô nhận lãnh sứ mạng đem danh Chúa đến cho dân ngoại (9:15), người Lamã (10:1-11:18), dân ngoại tại Tiểu Á (13:46), dân ngoại mà các Cơ Đốc Nhân Do Thái chấp nhận vào hội thánh tại giáo hội nghị Giê-ru-sa-lem (15:19), dân ngoại tại châu Âu (15:36-18:38). Cuối cùng Lu-ca tường thuật một cách đắc thắng cách Phao-lô đến Lamã, là trung tâm để các nhà truyền giáo có thể từ đó vươn đến mọi phần của đế quốc Lamã (28:14). (Để có một bản tóm tắt sơ khởi về sứ điệp trung tâm mà Lu-ca công bố, xin xem phần Dàn Ý Sách Công Vụ Các Sứ Đồ, tr.xi). Mặc dầu đây là mục đích chính yếu của Lu-ca khi viết sách, dường như ông cũng có ba mục tiêu khác nữa: Để bày tỏ rằng Thánh Linh của Đức Chúa Trời hành động trong cuộc đời các Cơ Đốc Nhân đầu tiên, y như Ngài đã hành động trong cuộc đời Đức Chúa Giê-xu. Lu-ca viết: “Mọi điều Đức Chúa Giê-xu đã làm và dạy từ ban đầu …” (1:1), ý muốn nói rằng Đức Chúa Giê-xu tiếp tục công tác của Ngài trong đời sống của các môn đồ Ngài. Vì lý do nầy, nhiều người gọi sách Công Vụ là “Công Vụ Đức Thánh Linh” hơn là “Công Vụ Các Sứ Đồ”. Để biện hộ cho các Cơ Đốc Nhân trước những người Lamã tố cáo họ bất trung với Đế Quốc, và để cho thấy rằng các Cơ Đốc Nhân biết ơn những nhà cầm quyền Lamã đã bảo vệ họ (xem chú thích ở 1:1a). Để khích lệ các Cơ Đốc Nhân vào thời điểm các Sứ Đồ không còn ở đó nữa để dẫn dắt họ (có lẽ Lu-ca viết vào khoảng 80-90 SC). TẠI SAO NGÀY NAY CHÚNG TA ĐỌC SÁCH CÔNG VỤ? Chúng ta nghiên cứu Công Vụ chủ yếu để mình có thể được mở ra với cùng một Đức Thánh Linh là đấng đã linh cảm các Cơ Đốc Nhân đầu tiên và cảm thúc họ hành động, và để chúng ta có thể được Ngài dẫn dắt. Lẽ tự nhiên Thánh Linh Đức Chúa Trời sẽ dẫn dắt chúng ta làm nhiều điều như Ngài đã dẫn dắt các Cơ Đốc Nhân đầu tiên, nhất là phá vỡ các rào chắn rất nghiêm trọng giữa các quốc gia và chủng tộc ngay trong thế hệ chúng ta, và tạo ra sự hiệp nhất và tình thông công giữa vòng nhiều nhánh phái của Hội Thánh Đức Chúa Trời. Nhưng các Cơ Đốc Nhân đầu tiên sống trong một thế giới khác biệt với thế giới của chúng ta. Họ không có radio hoặc xe buýt, không có công đoàn hoặc Liên Hiệp Quốc. Chúng ta nghiên cứu không phải để bắt chước chính xác những điều họ đã làm. Thánh Linh Đức Chúa Trời là Linh hằng sống, và có thể dẫn dắt chúng ta làm điều phù hợp với tình huống của chính mình. Vì vậy chúng ta không nên trông mong tìm được trong Công Vụ những câu trả lời cho mọi vấn nạn chúng ta đương đầu ngày hôm nay, chẳng hạn như: có
  • 9. nên phong chức cho phụ nữ làm mục sư hoặc giám mục hay không, hoặc các nước giàu có thể chia sẻ sự giàu có của mình với các nước nghèo hơn như thế nào. Chúng ta phải tự tìm câu trả lời cho các vấn nạn đó, và chúng ta sẽ làm như thế chủ yếu bằng cách dựa vào lời hứa của Đức Chúa Giê-xu: “Lúc nào thần Lẽ Thật sẽ đến, thì Ngài dẫn các ngươi vào mọi lẽ thật” (GiGa 16:13). Sách Công Vụ đặc biệt quan tâm đến và quan trọng cho các Cơ Đốc Nhân ngày nay là thuộc viên của những hội chúng mới , hoặc là thuộc viên của những hội thánh đang bắt đầu công tác mới . Các Cơ Đốc Nhân đầu tiên học biết lệ thuộc vào Thánh Linh của Đức Chúa Trời bởi vì họ phải đương đầu với những tình huống mới , và không còn có thể lệ thuộc vào các truyền thống nữa. Dĩ nhiên truyền thống là quan trọng, và thật ngu xuẫn nếu bất chấp truyền thống. Nhưng ngày nay diễn ra nhiều sự kiện mà truyền thống không thể cung ứng sự hướng dẫn. Vì vậy những người đương đầu với những tình huống mới trong thế kỷ nầy nên đọc sách Công Vụ để thấy cách các Cơ Đốc Nhân đầu tiên sống, và bởi đọc nó họ có thể tìm được sự khích lệ để tăng trưởng đức tin. Một lý do nữa để đọc sách Công Vụ là chúng ta thấy trong đó cách các môn đồ của Đức Chúa Giê-xu sống theo lời dạy dỗ mà chúng ta đọc được trong các sách Phúc Âm (đây là lý do sách được gọi là “Công Vụ”). Tin tức tốt lành nầy không chỉ là những điều Đức Chúa Giê-xu đã nói và làm, mà còn là những điều Ngài đã ban cho và vẫn còn ban cho năng lực để tín đồ làm được. Phúc Âm nói về những sự kiện hơn là những ý tưởng. Ghi chú: Trong phần Dẫn Nhập nầy chúng ta chỉ mới cân nhắc đến hai câu hỏi. Một số câu hỏi khác mà độc giả lưu tâm sẽ được xem xét trong phần Các Ghi Chú Đặc Biệt, như là: “Lu-ca có đáng tin cậy với tư cách một nhà sử học không?”, “Bối cảnh của các sự kiện được ghi lại trong Công Vụ là gì?”. NHỮNG ĐỀ NGHỊ NGHIÊN CỨU ÔN LẠI NỘI DUNG 1. Tại sao chúng ta cần nghiên cứu Phúc Âm Lu-ca cùng với sách Công Vụ ? 2. (a) Lu-ca có mục đích đặc biệt gì khi viết quyển sách có hai phần của ông? (b) Hãy nghiên cứu Dàn Ý Sách Công Vụ (tr.xi). Dàn ý nầy cho thấy mục đích đặc biệt của Lu-ca khi viết như thế nào? NGHIÊN CỨU KINH THÁNH 3. Đọc LuLc 4:25-29.
  • 10. (a) Tại sao Đức Chúa Giê-xu nhắc đến Ê-li-sê và Na-a-man (4:27)? (b) Tại sao những người nghe Đức Chúa Giê-xu nổi giận với Ngài? (c) Có mối liên hệ gì giữa phân đoạn nầy với sách Công Vụ? THẢO LUẬN VÀ ÁP DỤNG 4. “Cùng một Đức Thánh Linh là đấng đã linh cảm các Cơ Đốc Nhân đầu tiên … sẽ dẫn dắt chúng ta phá vỡ các rào chắn phân cách con người” - và để đem Phúc Âm vượt qua những rào chắn nầy (tr.2). Ba loại “rào chắn” phân cách con người ngày nay là: (1) những rào chắn giữa các nhóm hoặc giai cấp người, (2) những rào chắn giữa các quốc gia và chủng tộc, (3) những rào chắn giữa các giáo hội và hội chúng khác nhau. (a) Có những loại rào chắn nào khác giữa con người khiến việc truyền bá Phúc Âm bị ngăn trở? (b) Các Cơ Đốc Nhân trong hội thánh bạn đang thực hiện điều gì, nếu có, để phá vỡ một số những rào chắn nầy? Bạn nghĩ nên làm gì thêm? 5. Chúng ta đã xem xét một lý do chính khiến người ta đọc sách Công Vụ (tr.2). Hãy đề nghị thêm một lý do tốt đẹp nữa. Những Mạng Lệnh Và Lời Hứa Của Đức Chúa Giê-Xu Cong Cv 1:1-11 BỐ CỤC 1:1-3 Lu-ca nhắc nhở độc giả những điều ông đã nói về Đức Chúa Giê-xu trong sách thứ nhất của ông (tức là Phúc Âm Lu-ca). 1:4-11 Những mạng lệnh và lời hứa của Đức Chúa Giê-xu. GIẢI NGHĨA Nhiều người, sau khi đọc suốt phân đoạn nầy, chỉ nhớ bản tường trình chi tiết về Sự Thăng Thiên trong câu 2 và các câu 9-11. Nhưng, khi nghiên cứu cẩn thận hơn, chúng ta thấy rằng Lu-ca không nhấn mạnh câu chuyện đó. Điều ông đã làm là chia sẻ với độc giả ba tư tưởng đặc biệt: Có một mối liên hệ chặt chẽ giữa các sự kiện được ghi lại trong các sách Phúc Âm và những sự kiện được ghi lại trong Công Vu . Đức Chúa Giê-xu là Đấng hoạt động trong suốt chức vụ trên đất của Ngài (“mọi điều Đức Chúa Giê-xu đã làm và dạy từ lúc ban đầu”, c.1) chính là Đấng cũng họat động trong đời sống của các môn đồ Ngài sau phục sinh. Như chúng ta đã thấy, (tr.1 ở trên), Lu-ca nhấn mạnh lẽ thật nầy bằng cách viết một quyển
  • 11. sách có hai phần, mô tả công tác của chỉ một thân vị, là Đức Chúa Giê-xu. Đức Chúa Giê-xu truyền mạng lệnh cho các môn đồ Ngài . Những mạng lệnh nầy là: (a) kiên nhẫn chờ đợi tại Giê-ru-sa-lem (c.4), (b) làm chứng nhân cho Đức Chúa Giê-xu (c.8b), (c) đem lời chứng vượt qua biên giới các quốc gia (c.8c). Đức Chúa Giê-xu ban lời hứa , nghĩa là những người Ngài đã truyền làm chứng nhân cũng sẽ được ban cho quyền năng để làm điều đó, “khi Đức Thánh Linh giáng trên các ngươi” (c.8). Đức Chúa Trời không bao giờ giao công việc cho chúng ta làm mà lại không cung ứng quyền năng để làm điều đó. Trong những câu giới thiệu nầy Lu-ca chủ yếu trình bày những điều các Cơ Đốc Nhân đầu tiên sắp thực hiện (như được ghi lại trong Công Vụ): (a) Họ nương dựa đời sống mình nơi Đức Chúa Giê-xu, là Đấng họat động cho họ cả trong quá khứ lẫn hiện tại (2:22-24 và 3:6). (b) Họ thực hiện mạng lệnh làm chứng nhân (2:14). (c) Họ có khả năng làm điều nầy bởi vì họ đã nhận lãnh Đức Thánh Linh (2:4). CHÚ THÍCH 1:1a: Thê-ô-phi-lơ. Lu-ca dành cả hai phần trong quyển sách của mình cho Thê-ô-phi-lơ. Có lẽ ông là một viên chức Lamã (“quí nhân”, 1:3), và Lu-ca hi vọng rằng ông sẽ khuyên giục nhà cầm quyền Lamã đối xử tử tế với các Cơ Đốc Nhân. Tên Thê-ô-phi-lơ có nghĩa là “Người yêu mến Đức Chúa Trời”. 1:1b: Đức Chúa Giê-xu đã làm và dạy từ ban đầu. Trong những từ nầy Lu-ca đang nói đến những sự kiện ông đã ghi lại trong sách Phúc Âm của mình. Bằng cách nói “Đức Chúa Giê-xu… từ ban đầu” (bản dịch tiếng Anh: Đức Chúa Giê-xu bắt đầu làm ) ông muốn nói rằng “đó chỉ là khởi đầu của chức vụ Ngài”. Vì vậy Cơ Đốc Nhân ngày nay không đi theo Đức Chúa Giê-xu là Đấng từng một thời họat động, mà là Đức Chúa Giê-xu vẫn còn hoạt động trong đời sống các môn đồ Ngài. 1:2a: cho đến ngày Ngài được cất lên trời. Cũng xem cc.9-11. Lu-ca là tác giả Phúc Âm duy nhất ghi lại sự “thăng thiên” của Đức Chúa Giê-xu (24:51), và là tác giả Tân Ước duy nhất giải thích đó là một điều người ta thực sự chứng kiến. Các tác giả Tân Ước khác nói về sự thăng thiên như là “sự tôn cao” của Đức Chúa Giê-xu trong Đức Thánh Linh. Họ nhấn mạnh hai lẽ thật: (1) rằng Đức Chúa Giê-xu đã hoàn tất cách đắc thắng công tác của Ngài trên thế gian, chuyển giao quyền năng và thẩm quyền cho các Sứ Đồ để tiếp tục công tác đó. Ngài không cần phải hữu hình với con người nữa (HeDt 12:2) (2) rằng Đức Chúa Trời đã tiếp nhận Ngài “ngồi bên hữu Đức Chúa Trời”, tức là chia
  • 12. sẻ thẩm quyền của chính Đức Chúa Trời (xem IPhi 1Pr 3:22). Từ Cong Cv 2:33 và 5:31 chúng ta thấy rằng Lu-ca cũng tin như vậy. Nhưng chúng ta phải giải thích bản ghi chép của Lu-ca về việc Đức Chúa Giê-xu “được cất lên” trước sự hiện diện của các môn đồ như thế nào? Sau đây là một vài lời giải thích khác nhau đã được đưa ra: (a) Rằng đây là ngôn ngữ hình ảnh. “Đi lên” là điều một sinh viên năm thứ nhất làm khi người ấy được cho lên năm thứ hai, và không ai nghĩ rằng người ấy rời khỏi mặt đất. Khi chúng ta nói về Đức Chúa Trời, chúng ta chỉ có thể dùng ngôn ngữ hình ảnh, nhưng lẽ thật nằm phía sau bức tranh mới là phần quan trọng của bản ghi chép. (b) Rằng ngôn ngữ hình ảnh của Lu-ca không ích lợi, bởi vì nó hàm ý rằng Đức Chúa Trời có vị trí ở phía trên chúng ta về không gian, rằng “thiên đàng” là một nơi ở trên các đám mây, và rằng Đức Chúa Giê-xu thăng lên như một chiếc hỏa tiễn không gian. Nhưng Đức Chúa Trời là thần linh. Ngài ở khắp mọi nơi. Ngài không “lên” nhiều hơn là Ngài “xuống” hoặc “ở chung quanh”. Và “thiên đàng” là “nơi Đức Chúa Trời ngự” (chứ không phải là một lãnh thổ). (c) Rằng sự thăng thiên là một phép lạ. Nếu chúng ta cho rằng đó chỉ là ngôn ngữ hình ảnh, chúng ta đang nói rằng Đức Chúa Trời không làm phép lạ. 1:2b: Các sứ đồ Ngài đã chọn. Khi Lu-ca sử dụng từ “Sứ Đồ” trong Công Vụ, ông muốn nói đến “nhóm mười hai”, trừ ra trong 14:4 và 14:14 ông nói đến Phao-lô và Ba-na-ba. Nhưng từ Hi-lạp được dịch là “Sứ đồ” có nghĩa là “một người được sai đi”. Vì vậy những tác giả khác sử dụng từ nầy cho các nhà lãnh đạo Cơ Đốc khác, nhất là những người đem Phúc Âm đến những vùng đất mới (xem IICo 2Cr 8:23, là nơi từ nầy được dịch là “sứ giả” trong RSV, và Cong Cv 4:33). 1:3a: Hiện đến với các sứ đồ trong bốn mươi ngày. Lu-ca ghi lại một số các lần hiện ra (appearances) trong sách Phúc Âm của mình (ch.24), và có những bản tường trình khác trong các Phúc Âm khác và trong ICo1Cr 15:5- 8. Lu-ca gọi những lần hiện ra nầy là “bằng chứng” rằng Đức Chúa Giê-xu thật sự còn đang sống sau khi đã bị giết. Nếu chúng ta hỏi loại thân thể đã “hiện ra” đó là loại thân thể nào thì không có câu trả lời hoàn chỉnh. Trong LuLc 24:43 Lu-ca có ý nói rằng đó là một thân thể bằng “thịt và huyết” (“Ngài ăn cá”), nhưng theo GiGa 20:19 thì không phải, bởi vì thân thể nầy đi xuyên qua “cửa đã khóa” (NEB). Nhưng sự thiếu hiểu biết của chúng ta về những lần hiện ra đó không có nghĩa là không có sự hiện ra nào. Chúng ta đọc thấy ở đây rằng Đức Chúa Giê-xu hiện ra trong “bốn mươi ngày”, nhưng trong LuLc 24:1-53 thì dường như chỉ có một ngày. Có lẽ các
  • 13. từ “đoạn, kế đó” trong 24:44 và 24:50 có nghĩa là “vào một lần khác” hơn là “vào cùng ngày đó”. 1:3b: Phán bảo những sự về nước Đức Chúa Trời. Xem chú thích ở 28:23. Nước Đức Chúa Trời là quyền chủ tể hoặc sự cai trị của Ngài trên nhân loại. Nó không có nghĩa là một khu vực hoặc lãnh thổ. Nó đã tồn tại sẳn rồi (“ở trong các ngươi”, 17:21) nhưng một ngày nào đó mới hoàn tất (“Nước Cha được đến!”, 11:2). Hành động nầy của Đức Chúa Trời là điều Đức Chúa Giê-xu rao giảng. Các Cơ Đốc Nhân đầu tiên chuyển tiếp lời rao giảng của Đức Chúa Giê-xu về “nước (kingdom)” (xem Cong Cv 8:12), nhưng thường thì họ giảng nhiều hơn về chính Đức Chúa Giê-xu. 1:4a: Lúc ở với các sứ đồ. Từ Hi-lạp được dịch là “ở” thật sự có nghĩa là “lấy muối”, tức là, ăn bữa với họ. Đây là cách Đức Chúa Giê-xu thường gặp gỡ và dạy dỗ các môn đồ (xem Mac Mc 2:15). Các bữa ăn luôn luôn có tầm quan trọng trong việc tạo ra mối thông công giữa vòng các Cơ Đốc Nhân, mối thông công mà trong đó việc học hỏi cũng có thể diễn ra, chẳng hạn như trong các tu viện và một số đại học. 1:4b: Chờ điều Cha đã hứa. Các môn đồ phấn khởi với những điều đã xảy ra và thấy khó lòng chờ đợi. Họ chỉ có thể làm như vậy, (a) bởi vì họ tin cậy Đức Chúa Giê-xu, và (b) bởi vì họ biết rằng họ chưa nhận lãnh được quyền năng mình cần. Nhiều tân tín hữu cảm thấy rằng họ phải vươn ra và làm một điều gì đó hơn là cứ ngồi chờ đợi cho đến khi họ được trang bị để hành động một cách có hiệu quả. “Chờ đợi” có nghĩa là hi vọng nơi Đức Chúa Trời và tin cậy Ngài (xem Thi Tv 130:5; HeDt 11:1). Vị mục sư của một Hội Thánh tại Sri Lanka qua đời và hội chúng phải chờ đợi mất bốn năm mới tìm được một vị mục sư mới thích hợp. Họ thấy việc chờ đợi và tin cậy Đức Chúa Trời không dễ dàng chút nào. Nhưng trong suốt thời gian đó họ thật vui mừng khám phá được rằng đã có biết bao thuộc viên đóng góp được nhiều sự phục vụ có giá trị. Lời hứa . Xem chú thích ở Cong Cv 13:23. 1:5: Chịu phép báp-têm bằng Đức Thánh Linh. Đây là một phần trong lời hứa của Đức Chúa Giê-xu rằng các môn đồ của Ngài sẽ được ban cho quyền năng để làm chứng cho Ngài (xem 3:16). Một số Cơ Đốc Nhân dạy rằng trong những lời nầy Đức Chúa Giê-xu đã dự định cho tất cả các môn đồ phải trải qua hai giai đoạn: thứ nhất, sự cải đạo, với phép báp-têm bằng nước; thứ hai, phép báp-têm bằng Đức Thánh Linh. Nhưng theo câu 5 Đức Chúa Giê-xu không nói về “hai giai đoạn”, Ngài chỉ hứa ban “phép báp-têm bằng Đức Thánh Linh”. Xem Phụ Chú: “Phép Báp- têm”, tr.79. 1:6: Có phải trong lúc nầy Chúa sẽ lập lại nước Y-sơ-ra-ên chăng? Các môn
  • 14. đồ phạm hai lỗi lầm khi hỏi câu nầy: Họ vẫn còn hi vọng rằng Đức Chúa Giê-xu có thể lãnh đạo một cuộc tấn công chính trị vào nhà cầm quyền Lamã, để cho người Do Thái có thể trở thành một quốc gia tự do. Nhưng đây không phải là công tác của Đức Chúa Giê-xu. (Dĩ nhiên, điều nầy không có nghĩa là các thuộc viên của Hội Thánh không bao giờ nên tham gia các họat động chính trị để dành tự do từ tay một dạng chính quyền bất công.) Họ muốn biết tương lai. Đức Chúa Giê-xu nói rằng việc “biết kỳ hạn và ngày giờ” không dành cho họ (c.7, cũng xem Mac Mc 13:32). Cũng là lẽ tự nhiên khi muốn biết điều gì sẽ xảy ra tiếp theo, chẳng hạn, để chuẩn bị cho nó. Nhưng bổn phận của Cơ Đốc Nhân là phải cố gắng định hình tương lai bằng những hành động của mình, chứ không phải bằng việc tiên đoán nó. 1:8: Khi Đức Thánh Linh giáng trên các ngươi, thì các ngươi sẽ nhận lấy quyền phép, và làm chứng về ta tại thành Giê-ru-sa-lem … cho đến cùng trái đất. Một câu nầy tóm tắt toàn bộ nội dung của sách Công Vụ. Đức Thánh Linh . Sự giáng lâm của Đức Thánh Linh, mà Đức Chúa Giê-xu đã hứa, diễn ra liên tục và không chỉ vào ngày Lễ Ngũ Tuần (xem chú thích ở Cong Cv 2:4). Chứng nhân , tức là những người công bố điều chính họ đã kinh nghiệm hoặc nhìn thấy được, bằng lời nói và hành vi của mình. Đây chính là điều các Sứ Đồ đã làm. Xem 1:22 và chú thích ở 23:11. Tại Giê-ru-sa-lem … cho đến cùng trái đất . Đây là điều đã diễn ra. Các Sứ Đồ làm chứng cho Đức Chúa Giê-xu trước tiên tại Giê-ru-sa-lem, rồi sau đó đến các vùng chung quanh, rồi (khiến cho người ta ngạc nhiên) tại Sa-ma-ri, và cuối cùng (sau khi đã làm chứng càng ngày càng xa Giê-ru-sa-lem) Phao- lô mang lời chứng đến Lamã. Nhưng công tác của Hội Thánh thuộc mọi thời đại là phải làm chứng cho “đến cùng trái đất”, nghĩa là xuyên qua mọi ranh giới quốc gia và chủng tộc, như chúng ta thấy ở tr.1. Quyền phép . Xem chú thích ở 3:12. 1:9-10: Một đám mây tiếp Ngài khuất đi … hai người nam hiện đến trước mặt. Xuyên suốt cả Kinh Thánh, các tác giả sử dụng một đám mây như là một dấu hiệu cho thấy chính Đức Chúa Trời đang hiện diện trong sự vinh hiển Ngài, chẳng hạn, LuLc 9:34; KhKh 11:12. Vì vậy, Lu-ca muốn nói rằng vào lúc nầy Đức Chúa Giê-xu chia sẻ sự vinh hiển và thẩm quyền của chính Đức Chúa Trời. “Hai người nam” là các thiên sứ (như trong LuLc 24:4), và trong Kinh Thánh các thiên sứ là một dấu hiệu cho thấy Đức Chúa Trời đang truyền đạt một sứ điệp cho nhân loại. Vì vậy Lu-ca đang nói ở đây rằng sứ điệp trong câu 11 đến từ Đức Chúa Trời (xem chú thích ở Cong Cv 5:19). Nhiều độc giả sẽ hỏi: “Đám mây và hai người nam là nhìn thấy được, hay
  • 15. chỉ là ngôn ngữ hình ảnh?” Như chúng ta đã thấy, đây là một câu hỏi khiến nhiều học giả bất đồng với nhau. Nhưng có một câu hỏi quan trọng hơn nhiều là: “Có thật rằng, (a) Đức Chúa Giê-xu chia sẻ thẩm quyền của Đức Chúa Trời , và (b) Đức Chúa Trời truyền thông với nhân loại không?” Ở cả hai điểm nầy các tác giả Tân Ước đều đồng ý nói rằng: “Có”. 1:11a: Sao các ngươi đứng ngóng lên trời làm chi? Nghĩa là tại sao các ngươi ngó chăm lên bầu trời thay vì làm trên đất điều Đức Chúa Giê-xu đã bảo các ngươi làm? Đây là một lời cảnh cáo chống lại việc biến lời cầu nguyện thành một lối thoát để tránh phải đáp ứng các nhu cầu của những người ở chung quanh chúng ta. 1:11b: Jesus nầy, đã được cất lên trời khỏi giữa các ngươi, cũng sẽ trở lại. Sự “đến” của Đức Chúa Giê-xu (hay “sự đến lần thứ hai” như một số Cơ Đốc Nhân gọi) có nghĩa là thời điểm Đức Chúa Trời hoàn tất mọi điều Ngài đang làm trên thế gian nầy. Trong câu nầy chúng ta học biết rằng Đức Chúa Trời có một mục đích và có một kỳ cuối cùng mà Ngài đang dẫn chúng ta đi tới. Chúng ta không nằm trong tay của Số Mệnh, nhưng nằm trong tay Ngài. Đức Chúa Giê-xu khuyến cáo các môn đồ đừng hỏi: “Khi nào điều đó sẽ xảy ra?” (c.7). Nếu chúng ta cũng hỏi cùng câu đó thì chúng ta không tin cậy Đức Chúa Trời. Trời (heaven ). Xem chú thích ở Cong Cv 1:2. (lời chú thích phía dưới bức tranh ở trang 8: “Để phá vỡ các rào chắn giữa các quốc gia và các chủng tộc…” (tr.2) Những phần cuối cùng của cây cầu nầy đang được đặt vào đúng vị trí và đến cuối cùng cây cầu nầy sẽ bắc ngang qua dòng sông mà hiện tại đang phân cách con người ở nước nầy với những người ở một nước khác.) ĐỀ NGHỊ NGHIÊN CỨU ÔN LẠI NỘI DUNG Tại sao Lu-ca nhắc đến “sách thứ nhất” của ông ở đầu sách Công Vụ ? Tại sao Đức Chúa Giê-xu bảo các môn đồ phải chờ đợi tại Giê-ru-sa-lem? Các môn đồ phạm phải lỗi lầm nào, theo phân đoạn nầy? Câu Cong Cv 1:8 tóm tắt toàn bộ sách Công Vụ như thế nào? Một đám mây tiêu biểu (signify) cho điều gì trong Kinh Thánh? NGHIÊN CỨU KINH THÁNH “Hiện đến với họ” (1:3). Hãy lập một danh sách những người hoặc nhóm người mà Đức Chúa Giê-xu đã hiện ra, theo: Mat Mt 28:1-9 và 28:16-17; LuLc 24:13-15 và 24:33-37; GiGa 20:11-16, 19; ICo1Cr 15:5-8. Hãy đọc hai bản tường thuật về Sự Thăng Thiên mà Lu-ca đưa ra trong
  • 16. LuLc 24:45-53 và Cong Cv 1:1-12. Những sự khác biệt chính yếu giữa chúng là gì? Những phân đoạn Kinh Thánh sau đây chứa đựng những cụm từ nào liên quan đến Sự Thăng Thiên? (a) 2:33 (b) 5:31 (c) RoRm 8:34 (d) Eph Ep 1:20 (e) HeDt 1:14 (f) 12:2 (g) IPhi 1Pr 3:22 THẢO LUẬN VÀ ÁP DỤNG 9. Hãy đọc ba lời giải thích khác nhau nầy trong chú thích ở Cong Cv 1:2 về bản tường trình trong Lu-ca về Sự Thăng Thiên. (a) Bạn đồng ý với lời giải thích nào, và tại sao? (b) Nếu bạn không đồng ý với bất kỳ lời giải thích nào trong số đó, hãy đưa ra lời giải thích của riêng bạn, xin cho biết lý do. 10. Bạn hẳn đã có cảm nghĩ như thế nào nếu bạn là một trong những môn đồ khi Đức Chúa Giê-xu “được cất lên khuất mắt” (Cong Cv 1:9)? Bạn giải nghĩa LuLc 24:51-52 như thế nào? 11. “Ở với họ” (Cong Cv 1:4a) có lẽ có nghĩa là “ăn bữa với họ”. (a) Trong những cơ hội nào (trừ Bữa Ăn Tối Cuối Cùng) Đức Chúa Giê-xu ăn một bữa với các Bạn Ngài? Trưng dẫn, và đọc hết một hoặc hai trong số những phân đoạn Kinh Thánh nầy. (b) Theo kinh nghiệm của bạn “mối thông công và học hỏi” diễn ra trong những bữa ăn chung khi nào và như thế nào? 12. “Kỳ hạn và ngày giờ là việc các ngươi chẳng nên biết” (1:7). (a) Tại sao Đức Chúa Giê-xu nói điều nầy? (b) Hãy đưa ra một ví dụ về một người hoặc nhóm người ngoan đạo ngày nay tuyên bố rằng có thể đoán trước được tương lai. Người Kế Nhiệm Giu-Đa [dc Cong 1:12-26; [tdc BỐ CỤC 1:12-14 Các môn đồ trở về Giê-ru-sa-lem 1:15-22 Bài phát biểu của Phi-e-rơ về Giu-đa. 1:23-26 Việc lựa chọn vị Sứ Đồ thứ mười hai. GIẢI NGHĨA Trong những câu nầy Lu-ca kể lại hai sự kiện: các Sứ Đồ trở về Giê-ru-sa- lem và họ lựa chọn Ma-thia thế chỗ cho Giu-đa Ích-ca-ri-ốt.
  • 17. CÁC SỨ ĐỒ TRỞ VỀ Các Sứ Đồ đã ở trên núi Ô-li-ve với Đức Chúa Giê-xu, rồi thình lình họ không còn nhìn thấy Ngài nữa, và chỉ có thể hồi tưởng lại chức vụ của Ngài mà thôi. Lúc ấy họ đi bộ về Phòng Cao tại Giê-ru-sa-lem và bắt đầu một cuộc sống mới tại đó khi họ chờ đợi sự ban cho (the gift of) Đức Thánh Linh. Tương tự như vậy, các Cơ Đốc Nhân đúng khi hồi tưởng lại quá khứ, lại chức vụ trên đất của Đức Chúa Giê-xu, mà cũng đúng khi sống cho hiện tại vì từng ngày một họ nhận lãnh được sự ban cho Đức Thánh Linh. VIỆC LỰA CHỌN VỊ SỨ ĐỒ THỨ MƯỜI HAI Có mười hai chi phái Y-sơ-ra-ên và Đức Chúa Giê-xu đã chọn mười hai Sứ Đồ làm những thành viên đầu tiên của nước Y-sơ-ra-ên mới (xem GaGl 6:16, trong đó Phao-lô gọi Hội Thánh là “Y-sơ-ra-ên của Đức Chúa Trời”). Vì lý do nầy họ tin rằng cần phải chọn một Sứ Đồ khác khi Giu-đa chết. Tên tuổi của mười một người được liệt kê trong c.13 giống y như danh sách trong LuLc 6:13-16. CHÚ THÍCH 1:12: Một quãng đường ước đi một ngày Sa-bát, tức là khoảng một kilomet. Người Do Thái giữ điều răn thứ tư bằng cách không đi xa hơn mức nầy (xem chú thích ở Cong Cv 13:14). Các Sứ Đồ đi xuống núi Ô-li-ve, băng qua trũng Kết-rôn, rồi leo lên ngọn đồi dốc vào Giê-ru-sa-lem. 1:13: Lên phòng cao. Có lẽ lắm đây là căn phòng nơi Đức Chúa Giê-xu đã ăn Bữa Ăn Tối Cuối Cùng với họ (LuLc 22:12), và nằm trong căn nhà của Giăng Mác (Cong Cv 12:12). Ngày nay nhà thờ thánh Mác của Giáo Hội Sy- ri có lẽ nằm ở chỗ nầy. 1:14a: Bền lòng mà cầu nguyện (hoặc “liên tục cùng nhau cầu nguyện” - NEB, một bản dịch tốt hơn) có lẽ là tại Đền Thờ hoặc một nhà hội (cũng xem 2:42). Trong Phúc Âm nầy Lu-ca ghi lại nhiều gương mẫu cầu nguyện hơn các tác giả Phúc Âm khác, và có nhiều gương mẫu như vậy trong Công Vụ. Hãy chú ý kỹ: (a) cầu nguyện là một việc làm thường xuyên (chẳng hạn LuLc 11:1; Cong Cv 10:9), (b) cầu nguyện trước khi quyết định (chẳng hạn 1:24; 13:3), (c) cầu nguyện là cách chủ yếu để tiếp nhận Thánh Linh Đức Chúa Trời. Trừ phi Cơ Đốc Nhân tiếp nhận Thánh Linh Ngài, họ không thể làm theo ý chỉ Ngài. 1:14b: Với các người đàn bà … cùng anh em Ngài. 1. Sự kiện phụ nữ được bao gồm cho thấy một cuộc cách mạng đã diễn ra giữa vòng các Cơ Đốc Nhân nhờ thái độ của Đức Chúa Giê-xu đối với phụ nữ. Mặc dầu tất cả các Sứ Đồ đều là đàn ông, các phụ nữ giữ một vị trí quan
  • 18. trọng giữa vòng các “anh em” (xem chú thích 16:14). Những phụ nữ nầy có thể là vợ của các Sứ Đồ hoặc những người phụ nữ chúng ta đọc thấy trong LuLc 8:2 và 24:10. Một người là Ma-ry, mẹ Đức Chúa Giê-xu. 2. Các em của chính Đức Chúa Giê-xu lúc đầu vốn chống đối Ngài (GiGa 7:5), nhưng đã đi đến chỗ tin Ngài. Điều gì đã thay đổi họ? Chắc chắn đó là sự kiện Đức Chúa Giê-xu được khiến sống lại sau khi Ngài đã chết. 1:15a: Phi-e-rơ đứng dậy. Ngay sau khi các Sứ Đồ trở về Giê-ru-sa-lem, Phi- e-rơ trở nên người lãnh đạo của họ. Thật lạ là Lu-ca chẳng nhắc gì đến ông sau chương 15 (xem chú thích ở Cong Cv 15:7). 1:15b: Ước được một trăm hai mươi người. Con số những người đi theo Đức Chúa Giê-xu nhiều hơn số 12 môn đồ (xem LuLc 10:1), và bây giờ 120 người trong số họ có đủ can đảm để liều mình chịu bị bắt và rời khỏi gia đình mình. Nhưng họ là một con số rất nhỏ trong số ba phần tư triệu người Do Thái sống trong và quanh Giê-ru-sa-lem. Dầu vậy chính qua họ mà Hội Thánh phát triển. 1:16a: Kinh Thánh phải được ứng nghiệm. Các Sứ Đồ quá bối rối bởi việc Giu-đa phản bội Đức Chúa Giê-xu và bởi sự chết Ngài đến nổi họ phải tìm cho ra một lời giải thích. Phi-e-rơ giải thích rằng nếu họ đọc Thi Thiên 69 và 109 thì họ sẽ không ngạc nhiên bởi những sự kiện như vậy. Những sự kiện nầy làm “ứng nghiệm” điều đã được viết trong những Thi Thiên đó. Những sự kiện đó được “ứng nghiệm” như thế nào? 1. Cả hai Thi Thiên đều nói đến việc chịu khổ và bị phản bội của dân Y-sơ- ra-ên (không chỉ của một con người), chẳng hạn Thi Tv 69:1-5; 109:6-9. Phi-e-rơ nói: “Từ những Thi Thiên đó chúng ta thấy rằng Y-sơ-ra-ên phải bị phản bội và phải chịu khổ. Bởi vì Đức Chúa Giê-xu là Y-sơ-ra-ên mới và thật, điều “phải có” là Ngài sẽ bị phản bội và chịu khổ (và kẻ phản bội Ngài phải chịu sĩ nhục).” Chúng ta có thể nói thêm rằng bất cứ khi nào những người tốt bị phản bội và chịu khổ thì đó là “sự ứng nghiệm” điều được viết trong Thi Thiên dưới một dạng nào đó. 2. Phi-e-rơ có lẽ cũng tin rằng tác giả những Thi Thiên nầy đã viết ra với ý định tiên đóan, mặc dầu đối với chúng ta dường như chúng chỉ là những lời kêu cứu hoặc lời rủa sả kẻ thù nghịch. Từ Cong Cv 2:16 và 3:18 chúng ta thấy rằng các Cơ Đốc Nhân đầu tiên đã giải nghĩa phần lớn Cựu Ước như là những lời tiên đóan. Nhưng chúng ta cũng nên lưu ý rằng, (a) Giu-đa đã không bị “định mệnh” phải phạm tội. Giống như tất cả chúng ta, ông được tự do lựa chọn giữa điều phải và điều quấy. (b) Không có bằng chứng nào cho thấy tác giả các Thi Thiên đó biết rằng có một người gọi là Giu-đa sẽ phản bội Đấng Mê-si-a.
  • 19. 1:16b: Nhờ miệng vua Đavit. Đó là tập quán gọi tất cả các Thi Thiên là “Thi Thiên của Đavit” (xem Thi Tv 2:25; 4:25) mặc dầu nhiều Thi Thiên được viết ra sau thời Đavit, chẳng hạn Thi Thiên 137 nói đến thời Lưu Đày (400 năm sau Đavit). Nhưng có lẽ những Thi Thiên nầy, 69 và 109, thật sự được viết bởi chính Đavít. 1:16c: Giu-đa là đứa đã dẫn đường cho chúng bắt Đức Chúa Giê-xu. 1. Sự chết của Giu-đa . Lu-ca tường thuật lại một lần trong cc. 18 và 19, và có một bản tường trình khác trong Mat Mt 27:5-8 (“treo cổ tự tử”). Khi có những bản tường trình khác biệt về cùng một sự kiện trong Tân Ước, điều đó không có nghĩa là sự kiện đó không xảy ra. 2. Việc sai phạm của Giu-đa . Trước hết ông phản bội Đức Chúa Giê-xu, thứ hai ông không xin Đức Chúa Trời tha thứ. Phi-e-rơ chối Chúa, ăn năn và được tha thứ: Giu-đa phản bội Ngài và tuyệt vọng. 1:17: Nhận phần trong chức vụ nầy. Xem ghi chú ở Cong Cv 21:9, “chức vụ”. Ở đây chức vụ được nói là “nhận phần”, nghĩa là giữa vòng những Sứ Đồ còn lại. Thật đáng buồn khi, trong Hội Thánh ngày nay, các mục sư thất bại trong việc chia phần chức vụ của họ và cố gắng làm việc độc lập (xem chú thích ở 6:2a). 1:22: Làm chứng về sự Ngài sống lại 1. Người thế chỗ cho Giu-đa phải: (a) đã ở với Đức Chúa Giê-xu kể từ lúc bắt đầu chức vụ của Ngài (c.21), và (b) có thể nói rằng mình đã tận mắt thấy Đức Chúa Giê-xu sau khi Ngài phục sinh (tường thuật lại những điều người khác nói thì không đủ). Ơ đây chúng ta thấy được điều các Cơ Đốc Nhân đầu tiên tin (“tín điều” đầu tiên của họ), tức là Đức Chúa Giê-xu là một người từng phục vụ trong thế giới của chúng ta, nhưng Ngài không giống như những người khác và sống lại sau khi chết. 2. Theo Tân Ước (và nhất là trong Công Vụ) chính sự phục sinh của Đức Chúa Giê-xu là điều được các môn đồ đầu tiên của Ngài rao giảng trên hết mọi điều khác, chẳng hạn trong 2:24; ICo1Cr 15:14. Không có tác giả Kinh Thánh nào giải thích Đức Chúa Giê-xu đã sống lại như thế nào , và họ đưa ra những tường thuật khác nhau về các lần hiện ra của Ngài (xem chú thích ở Cong Cv 1:3). Nhưng nếu không có sự sống lại thì cũng không có Hội Thánh. 1:26: Họ bắt thăm. Cách các Sứ Đồ chọn người kế nhiệm Giu-đa chứa đựng nhiều điều hơn là chỉ bắt thăm: (1) Phi-e-rơ quyết định loại người nào đủ tiêu chuẩn (cc.21, 22); (2) một trăm hai mươi người đề cử hai ứng viên (c.23); (3) tất cả họ đều cầu nguyện (c.24); (4) chỉ sau đó họ mới bắt thăm. (Họ viết mỗi tên lên một viên đá, rồi lắc những viên đá đó trong một cái hũ cho đến khi một viên rớt ra ngoài.)
  • 20. Ngày nay các Hội Thánh sử dụng những phương pháp khác để lựa chọn người lãnh đạo, nhưng các phương pháp của họ không phải lúc nào cũng tốt hơn cách các Sứ Đồ đã dùng, chẳng hạn ở Thụy Điển chính quyền bổ nhiệm các giám mục; ở Nhật Bản hàng giáo phẩm và một tín hữu từ mỗi hội chúng họp lại bầu ra một giám mục mới. CÁC ĐỀ NGHỊ NGHIÊN CỨU ÔN LẠI NỘI DUNG “Quãng đường một ngày Sa-bat” là bao xa? Chúng ta biết gì về những người em của Đức Chúa Giê-xu? Tại sao Phi-e-rơ trích dẫn Thi Thiên trong Cong Cv 1:20? Tại sao việc tìm một người kế nhiệm Giu-đa là quan trọng? Các Sứ Đồ tìm kiếm loại người nào để thế chỗ Giu-đa? NGHIÊN CỨU KINH THÁNH “Bền lòng đồng một ý mà cầu nguyện”( 1:14, NEB, xem tr.11). Hãy đọc những câu sau đây trong Công Vụ và cho biết trong từng trường hợp ai đang cầu nguyện, và, nếu được, tại sao họ đang cầu nguyện: (a) 4:31 (b) 6:6 (c) 16:25-28 (d) 21:5 Rồi sau đó đọc các phân đoạn sau đây trong Phúc Âm Lu-ca và cho biết bạn khám phá được gì về sự cầu nguyện trong mỗi phân đoạn: (a) LuLc 3:21 (b) 6:12 (c) 18:1-8 (d) 22:31-32 Chúng ta tìm thấy niềm tin nào được diễn tả trong Cong Cv 1:16 và trong 2:16 và 13:33? “Các môn đồ của Đức Chúa Giê-xu rao giảng sự phục sinh nhiều hơn mọi điều khác” (tr.13). (a) Những từ nào được lặp lại trong 2:24; 3:15 và 4:10? (b) Người viết hoặc người nói trong các phân đoạn sau đây nói gì về sự phục sinh? 10:40-41; ICo1Cr 15:4-5. (c) Bạn trả lời thế nào với những người nói rằng họ không thể tin sự phục sinh bởi vì các bản tường trình trong các sách Phúc Âm thiếu sự nhất trí? THẢO LUẬN VÀ ÁP DỤNG 9. “Cầu nguyện là một việc làm thường xuyên” (tr.11). Trong kinh nghiệm của bạn điều gì giúp bạn cầu nguyện đều đặn và kiên trì? 10. Một trăm hai mươi người đàn ông và đàn bà (c.15) là một thiểu số rất bé nhỏ so với dân số, dầu vậy qua họ Hội Thánh phát triển. (a) Hãy mô tả bất kỳ kinh nghiệm nào bạn có với, hoặc điều bạn biết về, một vài Cơ Đốc Nhân tận hiến đã đạt được những kết quả quan trọng. (b) Những thuận lợi và bất lợi của một hội chúng nhỏ là gì?
  • 21. 11. “Giu-đa không bị định mệnh” (tr.12) (a) Tại sao Giu-đa phản bội Đức Chúa Giê-xu? (GiGa 12:6 chỉ đưa ra một câu trả lời khả dĩ). (b) Nếu bạn tin rằng hành vi của mình đã được định mệnh rồi thì điều đó sẽ ảnh hưởng thế nào trên bạn? (c) Bạn sẽ trả lời thế nào với một người nói rằng các Cơ Đốc Nhân nên cảm ơn Giu-đa, vì không có ông ấy sẽ không có sự đóng đinh và, vì vậy, không có sự cứu rỗi? 12. Chức vụ được “chia phần… giữa vòng các Sứ Đồ” (chú thích Cong Cv 1:17). (a) Tại sao chức vụ phải được chia sẻ? (b) Tại sao, theo ý bạn, một số mục sư không chia sẻ được chức vụ? 13. “Họ bắt thăm” (c.26). (a) Hội Thánh của bạn chọn người lãnh đạo như thế nào? (b) Những thuận lợi và bất lợi của phương pháp nầy là gì? Sự Tuôn Đổ Đức Thánh Linh 2:1-13 BỐ CỤC 2:1-4 Đức Thánh Linh đầy dẫy các Sứ Đồ. 2:5-13 Đám đông kinh ngạc. GIẢI NGHĨA Nhiều Cơ Đốc Nhân xem đây là sự kiện quan trọng nhất trong tất cả các sự kiện được Lu-ca ghi lại trong Công Vụ, bởi vì trong đó Hội Thánh đang được tái sanh (re-born) hoặc được tái tạo, bắt đầu một giai đoạn mới. Chúng ta cần nhớ rằng Hội Thánh được “sanh ra” khi Đức Chúa Trời kêu gọi Áp- ra-ham (SaSt 12:1) và Hội Thánh được tái tạo khi Đức Chúa Giê-xu kêu gọi Mười Hai Môn Đồ. Vì vậy để được chính xác hơn chúng ta phải nói rằng Lễ Ngũ Tuần là câu chuyện về sự tái sanh (re-birth) của Hội Thánh hơn là “sự khai sinh của Hội Thánh”. Nhưng chắc chắn chúng ta đọc được ở đây một Hội Thánh được làm mới lại hoàn toàn, với những thành viên được đổi mới một cách rõ ràng. Phương cách chính để Hội Thánh được làm mới lại là các thuộc viên của nó nhận được một quyền năng và sự can đảm mới mẻ từ bên ngoài. Lu-ca nhấn mạnh điều nầy để giải thích sự kiện Phúc Âm vươn tới Lamã, là trung tâm để Phúc Âm có thể tỏa ra khắp phần còn lại của thế giới. Không có một quyền năng mới điều đó sẽ không bao giờ xảy ra (xem chú thích Cong Cv
  • 22. 3:12). Đây là quyền năng được gọi là Đức Thánh Linh ở trong họ, y như đã ở trong Đức Chúa Giê-xu (LuLc 3:16). Nhưng quyền năng nầy được ban cho không chỉ vào dịp nầy mà thôi. Đức Chúa Trời ban cho họ quyền năng Ngài một cách liên tục, và cung ứng cho các Cơ Đốc Nhân ngày nay cùng một quyền năng đó. CHÚ THÍCH 2:1a: Ngày Lễ Ngũ Tuần. Có hai lễ hội mùa gặt của dân Do Thái: Lễ Ngũ Tuần, mùa gặt lúa, khi họ nướng những ổ bánh lúa mạch đầu tiên và dâng chúng làm lễ tạ ơn; và Lễ Lều Tạm (tabernacles), mùa thu họach trái cây diễn ra trễ hơn trong năm. Lễ Ngũ Tuần là một ngày lễ công cộng (LeLv 23:21), và Giê-ru-sa-lem đầy những khách hành hương. Nhờ mùa đông đã qua nên họ có thể đi bằng đường biển đến từ những vùng như Bắc Phi, Ý, vv… (xem cc.9-11). Vì vậy có mặt tại Giê-ru-sa-lem vào lúc ấy cũng tương tự như có mặt trong một thành phố hiện đại lúc diễn ra một liên hoan hoặc một sự kiện thể thao quốc tế. 2:1b: Môn đồ nhóm họp tại một chỗ. Môn đồ có nghĩa hoặc là Mười Hai Sứ Đồ với những người phụ nữ và gia đình Đức Chúa Giê-xu (Cong Cv 1:14), hoặc là một trăm hai mươi người (1:15), hoặc là Mười Hai Sứ Đồ (2:14). Nhóm họp . Họ đã sẳn sàng nhận sự ban cho của Đức Chúa Trời theo ba cách, mà tất cả đều quan trọng: Họ ở tại cùng một chỗ. Họ có mối thông công với nhau. Các từ “tại một chỗ” có thể có nghĩa là tại căn nhà của Giăng Mác (1:13), hoặc trong một cái sân lớn được bao quanh bởi một số phòng khách. Nhưng các từ Hi-lạp cũng có thể có nghĩa là “như một đoàn thể”, tức là trong mối thông công. Họ đang ngồi trầm tĩnh, chờ đợi (c.2). Đức Chúa Trời đến với những người đã chuẩn bị sẳn sàng. Sự chuẩn bị là cần thiết. Một chiếc máy bay không thể hạ cánh xuống một sân bay trong mùa mưa (ngay cả với trang thiết bị hiện đại) cho đến khi nước từ trận bảo mới đây đã được dọn sạch. 2:2-3: Có tiếng… như tiếng gió thổi ào ào … lưỡi bằng lửa. Khi con người có một kinh nghiệm sâu nhiệm về sự hiện diện của Đức Chúa Trời, họ không thể tìm được từ ngữ để diễn tả. Vì vậy ở đây Lu-ca chỉ có thể tường thuật rằng điều đó “giống như “ một trận gió và “giống như ” lửa. Cả gió lẫn lửa đều là những lực lượng thiên nhiên mạnh khủng khiếp, và Lu-ca sử dụng những từ đó để nói đến quyền năng Đức Chúa Trời đang ban cho các Sứ Đồ. Họ kinh nghiệm sự hiện diện của Đức Chúa Trời theo cách mọi người có thể thấy được. Điều đó thật bất thường. Nhưng quyền năng của Đức Chúa Trời cũng vẫn có thể hiện diện trong chúng ta y như vậy khi chẳng có điều gì bất
  • 23. thường có thể thấy hoặc nghe được (xem chú thích 3 ở 2:4a). 2:3: Đậu trên mỗi người. Mặc dầu các Sứ Đồ gặp gỡ nhau trong một mối thông công, mỗi người trong họ đều kinh nghiệm sự hiện diện và quyền năng của Đức Chúa Trời một cách cá nhân. 2:4a: Hết thảy đều được đầy dẫy Đức Thánh Linh. Lu-ca đề cập đến Đức Thánh Linh nhiều hơn các tác giả Tân Ước khác. Ông nhìn thấy hầu như mọi hành động của các Sứ Đồ đều được Đức Thánh Linh hướng dẫn. Từ các bài viết của ông, chúng ta để ý thấy: Đức Thánh Linh là chính Đức Chúa Trời . Chúng ta có thể nói về việc tiếp nhận từ Đức Chúa Trời “món quà” Đức Thánh Linh của Ngài, miễn là chúng ta nhớ rằng món quà đó là Đức Chúa Trời đang ban cho chính Ngài. Đức Thánh Linh không phải là “một điều gì đó” mà Ngài ban cho. Khi người ta được “đầy dẫy” Đức Thánh Linh, họ kinh nghiệm Đức Chúa Trời ở trong họ. Họ quen nghĩ về Đức Chúa Trời như ở phía trên họ (“trên ngôi cao sang”, EsIs 6:1). Thật là một kinh nghiệm mới mẻ khi biết Ngài với tư cách là Đấng ở trong họ. Họ cũng kinh nghiệm Đức Chúa Trời đang hành động trong họ (không chỉ hiện diện trong họ). Ngài hành động theo hai cách đặc biệt: (a) ban cho họ quyền năng: “Đầy dẫy Đức Thánh Linh” họ “giảng một cách dạn dĩ” (Cong Cv 4:31) (b) hướng dẫn họ: “Đức Thánh Linh phán: “Hãy đi…”” (8:29). Trong một vài tôn giáo người ta tin rằng việc can thiệp vào đời sống con người “nằm dưới phẩm cách của Đức Chúa Trời”. Nhưng kinh nghiệm của một Cơ Đốc Nhân về Thánh Linh của Đức Chúa Trời là Ngài thật can thiệp một cách tích cực. Đôi khi kết quả là bất thường (như trong 2:1-13). Vào những lúc khác chúng ta kinh nghiệm Ngài đang tích cực cảm động chúng ta trong những sự kiện thông thường. Một nhà hoạt động xã hội trong một thành phố lớn phát biểu: “Trong công việc ngày nào tôi cũng có những quyết định khó khăn phải chấp nhận. Khi tôi đi được một bước nhỏ tôi thấy rằng mình là một phần trong sự chuyển động của Đức Chúa Trời và rằng tôi được đẩy tới phía trước. Tôi gặp nhiều lỗi lầm, nhưng Ngài khiến chúng lìa xa khỏi tôi.” Chúng ta thấy các kết quả sự hành động của Đức Thánh Linh trong những sự kiện thông thường cũng nhiều như trong các sự kiện bất thường. Lu-ca biết rất rõ rằng Đức Thánh Linh đã họat động trên thế gian lâu lắm trước lễ Ngũ Tuần, chẳng hạn, linh cảm để con người “nói tiên tri” (xem Cong Cv 28:25), và, dĩ nhiên, linh cảm Đức Chúa Giê-xu (LuLc 4:1). Nhưng họat động của Ngài vào ngày lễ Ngũ Tuần là một loại sự kiện mới mẻ. Trước hết, nó được chia sẻ giữa vòng mọi loại người và không còn giới hạn vào những tầng lớp người đặc biệt, như là các vua hoặc các tiên tri hoặc các nhà ẩn tu nữa. Và thứ hai, hoạt động của Ngài đem lại một quyền năng liên
  • 24. tục chứ không chỉ quyền năng cho một cơ hội đặc biệt. Không phải người nào tuyên bố được Đức Thánh Linh dẫn dắt đều thật sự được Ngài dẫn dắt. Alice Lakwena năm 1984 tin rằng cô được Đức Thánh Linh dẫn dắt để lãnh đạo một đội quân chống chính phủ tại Uganda. Cô nói rằng Đức Thánh Linh đã phán bảo cô cung cấp dầu phép thuật (magic) để bảo vệ các chiến sĩ khỏi trúng đạn, và họ tin cô, và nhiều người bị chết. 2:4b: Họ khởi sự nói các thứ tiếng khác. Cũng xem “tiếng xứ mình” (c.6), “tiếng riêng của xứ chúng ta” (c.8), “tiếng chúng ta” (c.11). Các Sứ Đồ đang nói theo lối “xuất thần” (tức là, có âm thanh nhưng không có những lời nói thông thường) hay là đang nói các ngoại ngữ? Các học giả có ý kiến khác biệt về vấn đề nầy. Sau đây là ba ý kiến được chấp nhận rộng rãi nhất: Rằng điều đó không thành vấn đề. Sự kiện quan trọng là bằng một cách nào đó họ truyền đạt được cho người khác điều đã xảy ra cho mình; “các thứ tiếng” và “các ngôn ngữ” chỉ là những dấu hiệu của sự chia sẻ. Sự kiện nầy là một ví dụ về việc “phá vỡ các rào chắn” giữa những con người được Lu- ca ghi lại suốt cả Công Vụ. Rằng họ nói bằng tiếng ngoại quốc. Nhiều Cơ Đốc Nhân ngày nay là những người có chung kinh nghiệm được đầy dẫy Đức Thánh Linh như thế có đôi lúc thật nói ra những từ ngữ của một ngoại ngữ, dầu chính họ chưa hề biết ngoại ngữ đó. Đây là một phép lạ, và trong Cong Cv 2:1-13 Lu-ca mô tả một phép lạ. Tin Đức Chúa Trời nghĩa là tin rằng Ngài thật làm phép lạ. Rằng họ nói theo cách xuất thần, chứ không phải bằng những ngôn ngữ khác. Một số lý do cho ý kiến nầy là: (a) Những người trong đám đông hẳn đã không nói họ say rượu (c.11) nếu họ đã nói bằng ngoại ngữ. (b) Trong các phân đoạn khác trong Công Vụ “nói tiếng khác” rõ ràng có nghĩa là nói xuất thần (xem 10:46; 19:6). (c) Họ không cần sử dụng ngọai ngữ. Mọi người hành hương về dự lễ hội nói ít nhất một trong số những ngôn ngữ mà các Sứ Đồ nói, tức là tiếng A- ram hoặc tiếng Hi-lạp. (d) Lu-ca không có mặt lúc xảy ra biến cố đó mà chỉ dựa vào những lời kể lại (như ông nói trong LuLc 1:1-4) nên có lẽ lời tường thuật không được chính xác đối với ngôn ngữ được dùng. 2:5: Từ các dân thiên hạ đến. Một lần nữa Lu-ca cho thấy rằng các môn đồ của Đức Chúa Giê-xu đang vươn tới những con người vượt qua mọi biên giới quốc gia, và rằng đây là điều ông kêu gọi các Cơ Đốc Nhân thực hiện trong mọi thế hệ. Mặc dầu Lu-ca viết “các dân thiên hạ” ông chỉ có trong trí các nước bao quanh vùng đông Địa Trung Hải là nơi người Do Thái sinh sống. Xem cc.9-11 để biết tên các nước nầy.
  • 25. 2:6: Mỗi người đều nghe. Cũng xem cc.8 và 11: “chúng ta nghe”. Họ nghe được gì? Lu-ca không nói cho chúng ta biết. Nhưng ông thật có nói cho chúng ta biết những người đã nhận lãnh Đức Thánh Linh đều có thể truyền thông với những người khác. Họ chia sẻ niềm tin của mình. Việc truyền giảng Tin Lành (evangelism) chỉ diễn ra khi các Cơ Đốc Nhân đã học được cách chia sẻ điều quan trọng đối với mình cho người khác. 2:11: Cả người Giu-đa hoặc người mới theo đạo Giu-đa. Có rất nhiều người không phải Do Thái ngưỡng mộ những lời dạy dỗ của người Do Thái về Đức Chúa Trời và cuộc sống gia đình họ cùng sự thờ phượng của họ, và là những người muốn được gia nhập vào tôn giáo của họ. Nếu họ sẳn lòng giữ “luật pháp” Do Thái, bao gồm phép cắt bì, họ được báp-têm và trở nên “người mới theo đạo Giu-đa (Do Thái)” (cũng xem Cong Cv 13:43). Những người không phải Do Thái khác, cũng muốn gia nhập vào tôn giáo của người Do Thái, nhưng ít chặt chẽ hơn “những người mới theo đạo Do Thái”, thì được gọi là những người kính sợ Đức Chúa Trời trong sách Công Vụ (10:1) hoặc là những người thờ phượng Đức Chúa Trời (16:14). Chủ yếu là những người không phải Do Thái như thế nầy (người mới theo đạo Do Thái và những người khác) từ xứ Giu-đê và các nước chung quanh về sau trở thành các Cơ Đốc Nhân. PHỤ CHÚ : “TIẾNG LẠ ” Việc nói tiếng lạ diễn ra thường xuyên trong những năm đầu tiên của Hội Thánh và cứ tiếp tục từng hồi từng lúc cho đến hiện tại. Phao-lô có thể nói “tiếng lạ” (ICo1Cr 14:18), nhưng bảo người Cô-rin-tô rằng trong đó có sự nguy hiểm (14:9, 23). Vậy thì đâu là con đường đúng đắn? Đối tượng của việc nói tiếng lạ là để tôn vinh Đức Chúa Trời, chứ không phải để đạt được một vị trí được tôn trọng (14:2). Tiếng lạ chủ yếu được dùng cho sự thờ phượng riêng tư. Khi được sử dụng nơi công cộng nó phải được giải nghĩa (14:13). Đó là một ân tứ, và không được ban cho mọi Cơ Đốc Nhân, tuy nhiên, họ vẫn có thể được đầy dẫy Đức Thánh Linh. Đó không phải là một bằng chứng rằng người thờ phượng được đầy dẫy Đức Thánh Linh. Các môn đồ của vị thần Hi-lạp Dionysius nói tiếng lạ, và nhiều “đồng bóng (diviners)” trên khắp thế giới cũng vậy. Nhiều Cơ Đốc Nhân nói tiếng lạ cho rằng khi làm như thế họ cảm thấy mình đang cầu nguyện “đầy đủ” hơn lúc cầu nguyện thông thường khi họ đang sử dụng tâm trí mình. Những người khác cho rằng đó là một cách thay thế hơn là một cách thờ phượng đầy đủ hơn. Trong những năm gần đây, số Cơ Đốc Nhân cho việc “nói tiếng lạ” là một
  • 26. phần thông thường trong sự thờ phượng của họ đã gia tăng rất nhanh chóng trên khắp thế giới. Sự thờ phượng của họ thường nổi bật không chỉ vì họ “nói tiếng lạ”, mà còn vì sự tự do của họ khỏi những hình thức cố định, sự thông công mật thiết của họ, sự vui mừng của họ, và sự trông mong của họ rằng Đức Chúa Trời sẽ ban sự chữa lành thân thể qua lời cầu nguyện. Một số người, chứ không phải là tất cả, tin rằng các thuộc viên đã được cải đạo cần phải có một “phép báp-têm thứ hai” (hoặc phép báp-têm bằng Đức Thánh Linh) mà trong phép báp-têm đó thường thì họ sẽ nói tiếng lạ (xem chú thích Cong Cv 8:16). Một số Cơ Đốc Nhân nói tiếng lạ thuộc về “các Hội Thánh Ngũ Tuần” (vào lúc viết quyển sách nầy, có 22 triệu thuộc viên trên thế giới), một số thuộc về các nhóm Hội Thánh Độc Lập, nhất là ở Châu Phi (82 triệu thuộc viên), và một số, thường được gọi là “các nhóm ân tứ”, thuộc về các Hội Thánh truyền thống chính yếu nhưng cũng gặp gỡ theo từng nhóm là chỗ họ thờ phượng theo lối nầy (11 triệu). Loại thờ phượng nầy, giống như sự thờ phượng của Hội Thánh tại Cô-rin-tô, có những mối nguy hiểm cũng như sự vinh quang của nó. Nhiều thuộc viên có thể trở nên tách biệt với các Cơ Đốc Nhân khác và tin rằng họ cao cấp hơn những người còn lại, và một số có thể được xếp loại cao hơn những người khác, chẳng hạn, bởi vì họ nói tiếng lạ. Hoặc họ có thể trở nên quá quan tâm đến kinh nghiệm riêng của mình đến nổi họ lãng quên các nghĩa vụ công dân; họ cũng có thể ý thức quá sâu sắc về sự hành động của Đức Thánh Linh ở hiện tại đến nổi họ lãng quên sự dẫn dắt của Đức Thánh Linh trong quá khứ và cho mọi lúc; họ có thể tuyên bố được Đức Thánh Linh dẫn dắt trong khi họ thật sự đang bày tỏ những ước muốn riêng của mình. Chúng ta cần chú ý những mối nguy cơ đó trong khi cùng lúc đó vẫn coi trọng các lời dạy của Phao-lô: “Đừng dập tắt Đức Thánh Linh” (ITe1Tx 5:19). NHỮNG ĐỀ NGHỊ NGHIÊN CỨU ÔN LẠI NỘI DUNG Lời dạy dỗ quan trọng nhất mà Lu-ca đưa ra cho độc giả trong những câu nầy là gì? Lễ Ngũ Tuần là một loại lễ hội gì? Sự giáng lâm của Đức Thánh Linh là một sự kiện mới mẻ theo hai cách nào? Vì hai lý do nào mà nhiều người tin rằng các Sứ Đồ nói trong cơn “xuất thần” chứ không phải bằng tiếng nước ngoài? Những người mới theo đạo Do Thái là ai? NGHIÊN CỨU THÁNH KINH “Đức Thánh Linh đã họat động trên thế gian lâu lắm trước lễ Ngũ Tuần” (tr.17). Theo mỗi phân đoạn Cựu Ước sau đây, Đức Thánh Linh làm việc
  • 27. trong người nào và có kết quả gì? (a) XuXh 31:1-5 (b) Dan Ds 11:25 (c) Cac Tl 6:34-35 (d) Exe Ed 2:1-2 Đức Thánh Linh hành động theo hai cách đặc biệt: ban cho họ quyền năng… hướng dẫn họ” (tr.16). Hãy đọc những phân đoạn sau đây trong Công Vụ và cho biết trong mỗi trường hợp ai nhận lãnh được sự ban cho (the gift), và Đức Thánh Linh có ban “quyền năng” hoặc sự “hướng dẫn” hay không. (a) Cong Cv 4:31 (b) 8:29 (c) 10:44 (d) 11:28 (e) 13:1-3 (f) 19:1-6 THẢO LUẬN VÀ ÁP DỤNG Mọi người đều có thể kinh nghiệm như các Sứ Đồ vào ngày Lễ Ngũ Tuần tới mức độ nào? Bạn trả lời như thế nào với một người hỏi bạn: “Tôi là một Cơ Đốc Nhân và tôi tin rằng bất cứ một điều tốt nào tôi có thể làm chính là Đức Chúa Trời hành động trong tôi, nhưng tôi chưa hề có một kinh nghiệm đặc biệt nào về sự “đầy dẫy”; tôi còn thiếu một điều gì chăng?”? Có ba lời giải nghĩa khác nhau về “nói tiếng lạ” (2:4 và những cụm từ tương tự trong 2:6; 2:8; 2:11) được đưa ra trong phần chú thích ở 2:4b. (a) Bạn chấp nhận lời giải thích nào, và tại sao? (b) Nếu bạn không chấp nhận bất kỳ lời giải nghĩa nào trong ba lời trên, vậy thì lời giải nghĩa của riêng bạn là gì? Hiện nay có ít nhất 115 triệu Cơ Đốc Nhân Ngũ Tuần hoặc Ân Tứ trên thế giới (xem tr.19). (a) Tại sao bạn nghĩ rằng họ đã tăng lên? (b) Những thuận lợi và bất lợi khi họ tự do khỏi những hình thức thờ phượng cố định là gì? (c) Làm thế nào loại thờ phượng nầy có thể liên hiệp các Cơ Đốc Nhân lại, hơn là chia rẽ họ? Bài Giảng Đầu Tiên Của Phi-e-rơ Cong Cv 2:14-41 BỐ CỤC 2:14-36 Bài giảng của Phi-e-rơ: (a) Tôi sẽ giải nghĩa những sự kiện nầy (c.14-15). (b) Chúng là một phần trong mục đích của Đức Chúa Trời và Giô-ên đã tiên báo chúng (cc.16-21). (c) Chúng là kết quả sự đến của Đức Chúa Giê-xu (cc.22-24). (d) Sự phục sinh của Ngài là một phần trong mục đích của Đức Chúa Trời,
  • 28. và Đavit đã tiên báo điều đó trong Thi Tv 16:1-11 (cc.25-32). (e) Chính Đức Chúa Giê-xu đã ban Đức Thánh Linh cho chúng tôi (c.33). (f) Đức Chúa Giê-xu là Đấng Mê-si-a và Đavít đã tiên báo sự đến của Ngài trong 110:1-7 (cc.34-35). (g) Ấy chính là đấng Mê-si-a mà các ngươi đã giết (c.36). Cong Cv 2:37 Câu hỏi của đám đông. 2:38-40 Câu trả lời của Phi-e-rơ. 2:41 Đáp ứng của đám đông. GIẢI NGHĨA Phi-e-rơ đứng dậy ngoài trời, đối mặt với đám đông; một số là khách hành hương từ các nước khác đến, một số là cư dân Giê-ru-sa-lem. Chung quanh ông là các Sứ Đồ khác. Bài giảng đầu tiên nhất từng được rao giảng bởi các môn đồ của Đức Chúa Giê-xu đã bắt đầu như thế. 1. LÀM THẾ NÀO LU-CA BIẾT ĐƯỢC ĐIỀU PHI-E-RƠ ĐÃ NÓI? Lu-ca viết một thời gian lâu sau khi xảy ra các sự kiện ông đang tường thuật. Vậy ông lấy thông tin ở đâu? Một số người có mặt có lẽ đã giao cho ông một văn bản tường thuật sự kiện đó bằng tiếng A-ram (ngôn ngữ Phi-e-rơ sử dụng); những cụm từ như “lắng tai nghe lời ta” (c.14), “dây trói của sự chết” (c.24), “(các từng) trời” (số nhiều, c.34) là những lời dịch các cụm từ A-ram. Hoặc nhiều nhóm khác có lẽ đã kể cho Lu-ca nghe bài giảng đầu tiên nhất ra làm sao, và ông tóm tắt nó lại. Như được ghi lại ở đây bài giảng chỉ mất có bốn phút, và cc. 14-41 rõ ràng là một bản tóm tắt chứ không phải là bài giảng hoàn chỉnh. Cũng vậy, theo c.40 Phi-e-rơ nói nhiều hơn điều Lu-ca ghi lại ở đây. 2. BÀI GIẢNG NẦY VÀ NHỮNG BÀI GIẢNG KHÁC TRONG CÔNG VỤ Bài giảng nầy rất giống những bài giảng khác, và vì vậy chúng ta có thể thấy loại rao giảng được thực hiện vào thời gian theo sau Lễ Ngũ Tuần. Nếu chúng ta so sánh bài giảng nầy với sáu bài giảng chính khác (từ trong số 21 bài giảng trong Công Vụ) chúng ta thấy hầu như tất cả chúng đều có chung một dàn ý: (a) Sự ứng nghiệm : Trong các biến cố liên quan đến Đức Chúa Giê-xu và sự ban cho Đức Thánh Linh thì mục đích của Đức Chúa Trời đã được ứng nghiệm (xem Cong Cv 3:12-26; 10:43; 13:23-34; 26:22 cũng xem ICo1Cr 15:3-4; RoRm 1:2). (b) Đức Chúa Giê-xu : Đức Chúa Giê-xu là Đấng Mê-si-a, đã sống lại và được tôn cao, là trung tâm sự giảng dạy của chúng tôi (xem 3:13-18; 5:30;
  • 29. 10:36-40; 13:23-37; 17:31; 26:23 cũng xem RoRm 1:3-4; Phi Pl 2:9-10). (c) Kinh Nghiệm : Chúng tôi giảng từ kinh nghiệm - “chúng tôi là những chứng nhân” (xem Cong Cv 3:15; 5:32; 10:39-41; 13:31; 26:9-23 cũng xem ICo1Cr 15:5-9). (d) Tương lai : Đức Chúa Trời có một kế hoạch cho tương lai, bao gồm sự phán xét và chiến thắng cuối cùng của Ngài trên điều ác (xem Cong Cv 3:21-23; 10:42; 13:40; 17:31 cũng xem ITe1Tx 1:9-10). (e) Sự ăn năn : Hãy thay đổi hướng đi trong cuộc đời của quí vị (xem chú thích ở c.38). 3. NHỮNG BÀI GIẢNG NẦY VÀ NHỮNG VĂN BẢN TÂN ƯỚC KHÁC Khi chúng ta so sánh những bài giảng nầy với các văn bản Tân Ước sau nầy như các thư tín của Phao-lô, Phúc Âm Giăng, và Thư Hê-bơ-rơ, chúng ta thấy có một số khác biệt. Một số sự dạy dỗ không có trong các bài giảng nầy, chẳng hạn: (a) Đức Chúa Giê-xu : Ở đây Ngài được xưng bằng những danh hiệu như “con người” và “Chúa” và “Đấng Mê-si-a”, nhưng không gọi là “Con Đức Chúa Trời” trừ một bản tường thuật do Lu-ca viết (Cong Cv 9:20). (b) Thập tự giá : Ở đây sự chết của Đức Chúa Giê-xu là một tội ác, nhưng không có lời dạy dỗ nào rằng “Ngài chết thay cho chúng ta” như trong RoRm 5:6. (c) Đức tin : Những người ở đây được khuyên giục phải “ăn năn” chứ không phải “có đức tin” (so với 5:1). (d) Tội lỗi : Ở đây người Do Thái xứ Giu-đa là “những tội nhân”, nhưng người ta không nói rằng “mọi người đều đã phạm tội” như trong 3:9. Khi chúng ta nghiên cứu những sự khác biệt nầy thì dường như sự rao giảng và lời dạy dỗ Cơ Đốc thay đổi và phát triển sau thời kỳ đầu tiên và trong những thế kỷ tiếp theo sau. Chúng ta phải suy nghĩ gì về sự phát triển như thế? Chúng ta tìm kiếm lẽ thật ở đâu? Sau đây là ba trong số nhiều ý kiến của các Cơ Đốc Nhân: Rằng sự rao giảng ban đầu là Phúc Âm thật sự bởi vì nó gần với thời của chính Đức Chúa Giê-xu nhất, và rằng sự rao giảng sau nầy và tín điều của Hội Thánh chứa đựng nhiều khoản thêm vào không cần thiết. Rằng Đức Chúa Trời đã dự định và vẫn còn dự định sự phát triển phải diễn ra dưới sự hướng dẫn của Đức Thánh Linh (xem GiGa 16:13). Rằng Đức Chúa Trời dự định sự phát triển phải diễn ra khi mọi nhánh phái của Hội Thánh đều nhất trí về sự phát triển như thế, nhưng nếu không có sự nhất trí thì không được có sự phát triển nào. (Theo quan điểm nầy Bài Tín Điều là một sự phát triển tốt nhưng không có sự phát triển nào được cho phép ngày nay.)
  • 30. Một lý do khiến các Cơ Đốc Nhân ngày nay bị chia rẽ là vì họ không thể nhất trí về “sự phát triển”. CHÚ THÍCH 2:16: Đây là điều đấng tiên tri đã nói. Trong quá khứ Phi-e-rơ có nhiều kinh nghiệm đặc biệt đã thay đổi đời sống ông, chẳng hạn như ông đã nhận thức rằng Đức Chúa Giê-xu là Đấng Mê-si-a (LuLc 9:20), ông đã nhìn thấy Đức Chúa Giê-xu phục sinh, và ông đã nhận lãnh sự ban cho Đức Thánh Linh. Mục tiêu của ông trong bài giảng nầy là nhằm giải thích những sự kiện nầy cho những người nghe. Nhưng họ không có kinh nghiệm như ông, vì vậy ông cần trình bày lời công bố của mình sao cho họ có thể hiểu được. Đây là lý do ông trưng dẫn ba phân đoạn Kinh Thánh Cựu Ước. Ông giải nghĩa những phân đoạn nầy như là lời tiên đóan tương lai, vì đây là cách các thầy thông giáo Do Thái (“Ra-bi”) thường hay giải nghĩa Cựu Ước. Phân đoạn đầu tiên Phi-e-rơ trưng dẫn (Cong Cv 2:17-21) là từ Gio Ge 2:1- 31, được ông giải nghĩa là một lời tiên tri về sự giáng lâm của Đức Thánh Linh. Phân đoạn thứ hai (Cong Cv 2:25-28) trích từ Thi Thiên 16, được ông giải nghĩa là lời tiên báo về sự phục sinh của Đức Chúa Giê-xu. Phân đoạn thứ ba (2:34-35) trích từ Thi Thiên 110, được ông giải nghĩa là lời tiên báo về chức vụ Mê-si-a của Đức Chúa Giê-xu. Chúng ta nghĩ gì về lời tuyên bố của Phi-e-rơ? (a) Chúng ta chắc chắn có thể tin : rằng những sự kiện mà Phi-e-rơ nói đến đã thật sự diễn ra; rằng những sự kiện nầy là một phần trong mục đích của Đức Chúa Trời; và rằng chúng làm ứng nghiệm các văn bản của các nhà tiên tri và các nhà Thi Thiên. (b) Nhưng chúng ta không cần thiết : đi theo các phương pháp giải nghĩa của các Ra-bi Do Thái, cũng không cần tin rằng các tiên tri và nhà Thi Thiên biết được các văn bản của họ sẽ được ứng nghiệm như thế nào. 2:17: Mọi xác thịt. Phi-e-rơ không nghĩ đến những người không phải Do Thái khi ông nói điều nầy, bởi vì vào lúc nầy ông chưa khám phá được rằng Đức Thánh Linh cũng được dành cho họ (xem chương 10). “Mọi xác thịt” có nghĩa là mọi tạo vật của Đức Chúa Trời, vì vậy ông không chỉ nghĩ đến những nhóm người đặc biệt như là các đấng tiên tri và các nhà ẩn tu và các vua, mà còn đến mọi người tìm kiếm Ngài. Vì vậy ngày hôm nay Đức Chúa Trời cung ứng Đức Thánh Linh Ngài cho mọi người, không chỉ cho những người có học, hoặc người giàu có hoặc các nhà lãnh đạo Hội Thánh. 2:18: Chúng nó đều nói lời tiên tri. “Nói tiên tri” có nhiều ý nghĩa (xem chú thích ở 15:32). Ở đây nó có nghĩa “nói tiếng lạ” (xuất thần). Nhưng trong c.30 “tiên tri” có nghĩa là một người tiên đoán tương lai.
  • 31. (lời chú dưới khung hình ở trang 24: “Những người nhận lãnh Đức Thánh Linh đều có thể truyền thông với những người khác… họ chia sẻ niềm tin của mình - và tài sản của mình. Các cộng đồng Cơ Đốc căn bản đang chia sẻ loại hình thông công nầy ngày hôm nay” (tr.18 và 31). Các thành viên của “cộng đồng căn bản” nầy ở Mexico, như nhiều nhóm khác ở nhiều nơi trên thế giới, nhóm lại để cùng thờ phượng và chia sẻ các ý tưởng cho những hành động tương lai.) 2:22: Đức Chúa Giê-xu ở Na-xa-rét, tức là người mà Đức Chúa Trời đã dùng việc quyền phép để làm chứng cho Người trong vòng các ngươi. 1. Lu-ca gọi Đức Chúa Giê-xu là “một người”. Thỉnh thoảng các Cơ Đốc Nhân thật sâu nhiệm (keen) khi gọi Đức Chúa Giê-xu là “Đức Chúa Trời” đến nổi họ quên mất rằng Ngài thật sự là một con người. Mặt khác những người không phải là Cơ Đốc Nhân thường nhìn thấy Đức Chúa Giê-xu không có gì hơn một người (xem chú thích ở c.36). 2 “Làm chứng cho các ngươi bởi việc quyền phép”, nghĩa là được chứng minh là tôi tớ Đức Chúa Trời bởi những phép lạ Ngài đã thi thố. Nhưng chính Đức Chúa Giê-xu không muốn được “chứng minh” bởi các phép lạ của Ngài. Chúng ta nhìn thấy trong LuLc 11:15 rằng việc Ngài đuổi quỉ chẳng chứng minh Đức Chúa Trời đã sai Ngài đến chút nào cả. Cần phải có một điều lớn hơn phép lạ mới thuyết phục được người ta tin Ngài là Đấng Mê-si-a của Đức Chúa Trời (xem phụ chú: Phép Lạ, pp.189, 190). 2:23a: Đức Chúa Giê-xu nầy, bị nộp theo ý định trước … của Đức Chúa Trời, mà các ngươi đóng đinh trên thập tự giá. Những lời nầy cho chúng ta thấy hai lẽ thật quan trọng về thập tự giá: 1. Điều đó không có gì đáng ngạc nhiên. Sự chịu khổ là một phần của bản tính Đức Chúa Trời, và khi Ngài trở thành người thì dĩ nhiên việc chịu khổ và chịu chết theo sau. Phi-e-rơ phải giải thích điều nầy, bởi vì người Do Thái nghĩ rằng việc một người gọi là Đấng Mê-si-a phải chịu khổ và chịu chết là điều không thể xảy ra được. 2. Đó là một tội ác, và những người chịu trách nhiệm về điều đó đều phạm tội. Một số người cho rằng Đức Chúa Trời “sai Đức Chúa Giê-xu đến thế gian để chết”, tức là, để Đức Chúa Trời nhận được một sinh tế cho tội lỗi của thế gian. Nhưng nếu điều nầy là đúng, thì thật bất công khi đổ lỗi cho những người đã giết Ngài. 2:23b: Các ngươi đóng đinh trên thập tự giá. Ai đóng đinh Đức Chúa Giê- xu? Ai chịu trách nhiệm? Khi Phi-e-rơ nói “các ngươi” trong câu nầy, khi ông gọi họ là “người Y-sơ-ra-ên” (Cong Cv 2:22 và 3:12), ông đang nói đến những người Giu-đa tại Giê-ru-sa-lem (xem c.14, “người Giu-đa”). (Chính
  • 32. Phi-e-rơ là một người Ga-li-lê.) Sau nầy ông cho thấy mình tố cáo những người Giu-đa nào đã chủ tâm giết Đức Chúa Giê-xu: “các quan” (4:8-10) và “tòa công luận” (5:27-30). Có lẽ cũng có những người mà Phi-e-rơ nói đến là những người có mặt lúc Đức Chúa Giê-xu bị xét xử mà chẳng làm điều gì cả để cứu Ngài. Nhưng tố cáo toàn thể quốc gia Do Thái đã giết Đức Chúa Giê-xu thì hoàn toàn sai lầm. Các Cơ Đốc Nhân thường hay đưa ra lời tố cáo bất công nầy, và do đó đã phạm nhiều tội ác khủng khiếp chống lại người Do Thái, ngay cả trong thế kỷ thứ 20. Theo Công Vụ, những người Do Thái phạm tội duy nhất là một số người Giu-đa. Tuy nhiên, đó chính là Phi-lát, người Lamã mới thật sự chịu trách nhiệm. Chỉ một mình ông mới có quyền phóng thích Đức Chúa Giê-xu hoặc tuyên án Ngài (13:28). 2:24: Đức Chúa Trời đã khiến Người sống lại. Trong bài giảng của mình, Phi-e-rơ nhấn mạnh đến sự phục sinh (hơn là sự giáng sinh hoặc sự chết hoặc sự thăng thiên của Ngài hoặc sự giáng lâm của Đức Thánh Linh). Lời tuyên bố rõ ràng “Đức Chúa Trời đã khiến Người sống lại” là một gương mẫu cho mọi bài giảng Cơ Đốc tốt, nghĩa là, nó tuyên bố các sự kiện (hơn là các ý tưởng) và công bố Tin Lành (hơn là những lời khuyên hữu ích). Những điểm khác về một bài giảng tốt mà chúng ta tìm thấy trong bài giảng của Phi-e-rơ là: (a) Ông đặt chính mình đứng chung với người nghe bằng cách nói đến một điều mà cả ông lẫn họ đều có chung, trong trường hợp nầy là những sự kiện đã được ghi lại trong cc.5-13. (b) Ông sử dụng ngôn ngữ mà người nghe cũng sử dụng, chẳng hạn như ông nhắc đến “lời tiên tri” của Đavít trong c.31. (c) Ông nói từ kinh nghiệm của mình: “Chúng tôi là nhân chứng” (c.32). (d) Ông mời gọi một sự đáp ứng và một thái độ thay đổi từ nơi những người nghe (cc. 37-41). Chúng ta nên đặc biệt chú ý các từ “Đức Chúa Trời khiến Ngài sống lại”, chứ không phải “Ngài sống lại”. Đây là cách dùng từ trong c.32 và trong hầu như mọi câu Tân Ước nói đến sự sống lại. 2:29: Ta thật có thể nói cách vững vàng với anh em. “Cách vững vàng (confidently)” là một từ quan trọng, bày tỏ sự thay đổi lạ thường của Phi-e- rơ. Hãy so sánh nó với LuLc 22:60. Bây giờ Phi-e-rơ đã có thể nói “cách vững vàng” bởi vì Đức Chúa Giê-xu đã sống lại và bởi vì ông được “đầy dẫy” Đức Thánh Linh. Từ Hi-lạp được dịch là “cách vững vàng” cũng được dịch là “công khai (openly)”, “rõ ràng (plainly)” “dạn dĩ (boldly)” trong những câu Kinh Thánh Tân Ước khác (chẳng hạn GiGa 10:24; Cong Cv 4:13). 2:31: Đavit … đã thấy trước và nói trước về sự sống lại của Đấng Christ. Xem chú thích ở 2:16 về “Đavit thấy trước” và ở 2:36 về danh hiệu “Christ”.
  • 33. Toàn bộ Thi Thiên đều có tựa đề “các Thi Thiên của Đavít” trong tiếng Hê- bơ-rơ, mặc dầu Đavit có lẽ chỉ sáng tác một ít trong đó. 2:33: Được đem lên bên hữu Đức Chúa Trời. Xem chú thích ở 1:9. Các tác giả Tân Ước không quan tâm nhiều lắm đến cách Đức Chúa Giê-xu “thăng thiên”. Lẽ thật rằng bây giờ Ngài “được tôn cao”, nghĩa là chia sẻ thẩm quyền của Đức Chúa Trời, còn quan trọng hơn nhiều đối với họ. 2:36: Đức Chúa Trời đã tôn Ngài làm Chúa và Đấng Christ. Theo các bài giảng trong Công Vụ, các Cơ Đốc Nhân đầu tiên sử dụng ít nhất tám tên hoặc danh hiệu cho Đức Chúa Giê-xu. “Chúa” và “Đấng Christ” là hai trong số đó. Chúa . Cũng xem 10:36 và 20:21, nghĩa là người đáng nhận toàn bộ lòng trung thành, người mà chúng ta vâng lời vượt trên Sê-sa. Đó là một từ dịch từ chữ Hi-lạp “Kyrios” mà người ta sử dụng khi nói về Đức Chúa Trời. Nhưng trong những ngày đầu tiên của Hội Thánh người Do Thái có lẽ không muốn gọi Đức Chúa Giê-xu là “Đức Chúa Trời” nên họ gọi Ngài là “Chúa”. Đấng Christ . Cũng xem 3:18; 10:36; 20:21; 26:23. Ngày nay chúng ta thường dùng danh hiệu nầy dường như đó là tên họ của Đức Chúa Giê-xu, nhưng đó là một tước vị. Nó có nghĩa là “Đấng Mê-si-a được xức dầu”, là sứ giả từ Đức Chúa Trời đến mà người Do Thái đã mong đợi hàng bao thế kỷ nay. Ngài là người sẽ “lập lại nước Y-sơ-ra-ên” (1:6). Một số người nghĩ rằng Ngài sẽ là một lãnh tụ quân sự, những người khác nghĩ rằng Ngài sẽ là một thủ lĩnh thuộc linh (LuLc 2:25-32). Người Do Thái ngày nay, trừ một ít người đã tiếp nhận Đức Chúa Giê-xu làm đấng Mê-si-a, vẫn đang mong chờ đấng Mê-si-a của họ. Những danh hiệu khác dành cho Đức Chúa Giê-xu mà chúng ta tìm thấy trong Công Vụ là: Con Người (2:22; 17:31). Xem chú thích ở câu 22 và ITi1Tm 2:5. Tôi tớ (Cong Cv 3:13), tôi tớ của Đức Chúa Trời. Xem LuLc 22:27. Đấng Thánh (Cong Cv 3:14) và Đấng Công Bình (3:14; 7:52). Nhà Lãnh Đạo hoặc Chúa Của Sự Sống (3:15; 5:31). Cứu Chúa . Xem chú thích 5:31. Thêm vào đó Lu-ca sử dụng tước hiệu “Con Đức Chúa Trời” (9:20) khi mô tả sự rao giảng của Phao-lô tại Đa-mách (cũng xem chú thích ở 8:36). 2:37: Chúng ta phải làm chi? Phi-e-rơ giảng mạnh mẽ đến nổi đến cuối bài giảng thì những người nghe đều khao khát sự thay đổi trong đời sống họ, dầu cho sự thay đổi đó có khó chịu đến đâu đi nữa. Bất kỳ nhà truyền đạo nào nghe được hội chúng nói như thế đều biết rằng mình đã đạt được một điều gì đó. 2:38a: Hãy hối cải. Chính là các nhà lãnh đạo tôn giáo Do Thái đã gây nên cái chết của Đức Chúa Giê-xu. Hầu hết những người nghe Phi-e-rơ đều
  • 34. không liên quan gì đến sự chết của Ngài. Vì vậy tại sao họ lại “ cảm động trong lòng (cut to the heart)” (c.37)? Có lẽ vì họ đã chẳng làm gì để ngăn chận sự chết của Ngài. Không làm gì cả trong khi điều ác đang được họach định tức là chia sẻ với điều ác đó. Tội lỗi không chỉ là điều sai quấy, mà còn là điều lành chúng ta không chịu làm. “Ăn năn (hối cải)” là gì? Chủ yếu đó là thay đổi hướng đi trong đời sống chúng ta, có một đối tượng sống tươi mới. (Nó không giống y như cảm giác khốn khổ mà chúng ta thường có sau khi làm điều quấy). Có bốn giai đoạn: (1) xoay bỏ tội lỗi quá khứ (3:19); (2) tin cậy Đức Chúa Trời rằng Ngài tha thứ hết mọi tội lỗi chúng ta và ban cho chúng ta một khởi đầu mới (5:31; 11:18); (3) quyết định cư xử theo một cách mới mẻ; (4) cởi mở để tiếp nhận Đức Thánh Linh là đấng khiến cho việc sống theo đời mới nầy là khả dĩ. Xem những từ cuối cùng của câu nầy. 2:38b: Phải nhơn danh Đức Chúa Giê-xu chịu phép báp-têm. Xem chú thích ở 8:12 cho chữ “báp-têm”, và ở 3:6b cho chữ “nhơn danh Đức Chúa Giê- xu”. 2:39: Lời hứa thuộc về các ngươi, con cái các ngươi, và thuộc về hết thảy mọi người ở xa, tức là bao nhiêu người mà Chúa sẽ gọi. Con cái các ngươi , tức là các thế hệ tương lai. (Câu nầy không chứng minh rằng phép bap-têm cho trẻ nhỏ (infants) là ý chỉ của Đức Chúa Trời hoặc rằng đó không phải là ý chỉ Ngài.) Những người ở xa , nghĩa là những người khác, không chỉ những người nghe bài giảng nầy. Bao nhiêu người mà Chúa sẽ gọi , tức là “tất cả chúng ta”. Nó có cùng một ý nghĩa như “mọi xác thịt” trong c.17, tức là mọi hạng người. Điều đó không có nghĩa là Đức Chúa Trời kêu gọi một số người đến nhận sự cứu rỗi còn để những người khác phải bị hư mất. 2:41: Ba ngàn người. Điều nầy không có nghĩa rằng họ đều chịu báp-têm ngày hôm đó hoặc tại một chỗ. Nó có nghĩa rằng kể từ ngày đó một số lớn con người đã tiếp nhận Đức Chúa Giê-xu làm đấng Mê-si-a và cuối cùng chịu báp-têm. ĐỀ NGHỊ NGHIÊN CỨU ÔN LẠI NỘI DUNG Theo Phi-e-rơ, ai có tội trong sự chết của Đức Chúa Giê-xu? Hạng người nào nghe Phi-e-rơ giảng? Điều gì cho thấy rằng cc.14-40 là một bản tóm tắt chứ không phải một bản tường thuật đầy đủ? Hãy đề cập hai sự khác biệt giữa lời dạy dỗ trong các bài giảng trong Công Vụ với lời dạy dỗ chúng ta tìm thấy trong các văn bản sau nầy.