4. Two of the
disciples of Jesus
were on their way
to a village called
Emmaus, seven
miles from
Jerusalem,Vào ngày thứ nhất
trong tuần, có hai người
trong nhóm môn đệ
đi đến một làng kia
tên là Em-mau,
cách Giê-ru-sa-lem
chừng mười một cây số.
5. Họ trò chuyện với nhau về tất cả
những sự việc mới xảy ra.
and they were talking together
about all that had happened.
6. Đang lúc họ trò chuyện và bàn tán, thì chính
Đức Giê-su tiến đến gần và cùng đi với họ.
Now as they talked this over, Jesus himself
came up and walked by their side;
7. Nhưng mắt họ còn bị ngăn cản,
không nhận ra Người.
but something prevented them
from recognising him.
8. Người hỏi họ:
"Các anh vừa đi vừa
trao đổi với nhau
về chuyện gì vậy?"
Họ dừng lại,
vẻ mặt buồn rầu.
He said to them,
‘What matters
are you
discussing as you
walk along?’
They stopped
short, their faces
downcast.
9. Một trong hai người tên
là Cơ-lê-ô-pát trả lời:
"Chắc ông là người duy
nhất trú ngụ tại
Giê-ru-sa-lem mà
không hay biết những
chuyện đã xảy ra trong
thành mấy bữa nay.
Then one of them,
called Cleopas,
answered him, ‘You
must be the only person
staying in Jerusalem
who does not know the
things that have been
happening there these
last few days.’
10. Đức Giê-su hỏi:
"Chuyện gì vậy?"
Họ thưa: "Chuyện ông
Giê-su Na-da-rét.
Người là một ngôn sứ đầy
uy thế trong việc làm cũng
như lời nói trước mặt Thiên
Chúa và toàn dân.
‘What things?’ he
asked. ‘All about Jesus
of Nazareth’ they
answered ‘who proved
he was a great prophet
by the things he said
and did in the sight of
God and of the whole
people;
11. Thế mà các thượng tế và thủ lãnh của chúng ta
đã nộp Người để Người bị án tử hình,
và đã đóng đinh Người vào thập giá.
and how our chief priests and our leaders
handed him over to be sentenced to death,
and had him crucified.
12. Phần chúng tôi,
trước đây vẫn hy vọng
rằng chính Người là Đấng
sẽ cứu chuộc Ít-ra-en.
Hơn nữa, những việc ấy
xảy ra đến nay là
ngày thứ ba rồi.
Our own hope
had been that he
would be the one
to set Israel free.
And this is not
all: two whole
days have gone
by since it all
happened;
13. Thật ra, cũng có mấy người đàn bà trong
nhóm chúng tôi đã làm chúng tôi kinh ngạc.
Các bà ấy ra mộ hồi sáng sớm,
and some women from our group have
astounded us: they went to the tomb
in the early morning,
14. không thấy xác Người đâu cả,
về còn nói là đã thấy thiên thần hiện ra
bảo rằng Người vẫn sống.
and when they did not find the body,
they came back to tell us they had seen
a vision of angels who declared he was alive.
15. Vài người trong nhóm chúng tôi đã ra mộ,
và thấy sự việc y như các bà ấy nói;
còn chính Người thì họ không thấy."
Some of our friends went to the tomb and
found everything exactly as the women had
reported, but of him they saw nothing.’
16. Bấy giờ Đức Giê-su nói với hai ông rằng:
"Các anh chẳng hiểu gì cả! Lòng trí các anh
thật là chậm tin vào lời các ngôn sứ !
Then he said to them, ‘You foolish men!
So slow to believe the full message
of the prophets!
17. Nào Đấng Ki-tô lại chẳng phải chịu khổ hình
như thế, rồi mới vào trong vinh quang
của Người sao?
Was it not ordained that the Christ should suffer
and so enter into his glory?’
18. Rồi bắt đầu từ ông Mô-sê và tất cả các ngôn sứ,
Người giải thích cho hai ông những gì
liên quan đến Người trong tất cả Sách Thánh.
Then, starting with Moses and going
through all the prophets, he explained to them
the passages throughout the scriptures
that were about himself.
19. Khi gần tới làng họ muốn đến,
Đức Giê-su làm như còn phải đi xa hơn nữa.
When they drew near to the village to which
they were going, he made as if to go on;
20. Họ nài ép Người rằng: "Mời ông ở lại với chúng
tôi, vì trời đã xế chiều, và ngày sắp tàn."
Bấy giờ Người mới vào và ở lại với họ.
but they pressed him to stay with them.
‘It is nearly evening’ they said ‘and the day
is almost over.’ So he went in to stay with them.
21. Khi đồng bàn với họ, Người cầm lấy bánh,
dâng lời chúc tụng, và bẻ ra trao cho họ.
Now while he was with them at table,
he took the bread and said the blessing;
then he broke it and handed it to them.
22. Mắt họ liền mở ra và họ nhận ra Người,
nhưng Người lại biến mất.
And their eyes were opened
and they recognised him;
but he had vanished from their sight.
23. Họ mới bảo nhau: "Dọc đường, khi Người nói
chuyện và giải thích Kinh Thánh cho chúng ta,
lòng chúng ta đã chẳng bừng cháy lên sao?"
Then they said to each other, ‘Did not our
hearts burn within us as he talked to us on the
road and explained the scriptures to us?’
24. Ngay lúc ấy,
họ đứng dậy,
quay trở lại
Giêrusalem,
gặp Nhóm mười một
và các bạn hữu đang
tụ họp tại đó.
They set out that
instant and returned
to Jerusalem.
There they found
the Eleven
assembled together
with their
companions,
25. Những người này
bảo hai ông:
"Chúa trỗi dậy
thật rồi, và đã
hiện ra với ông
Si-môn."
who said to
them, ‘Yes, it
is true.
The Lord has
risen and has
appeared to
Simon.’
26. Còn hai ông thì thuật lại những gì đã xảy ra
dọc đường và việc mình đã nhận ra Chúa
thế nào khi Người bẻ bánh…
Then they told their story of what had
happened on the road and how they had
recognised him at the breaking of bread…
27. 7
Chúa Nhật III Phục Sinh Năm A
Third Sunday of Easter - Year A