SlideShare a Scribd company logo
1 of 63
LUẬN VĂN THẠC SĨ
ĐỀ TÀI : QUYỀN SỞ HỮU TÀI SẢN CỦA
NGƯỜI NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM
CHUYÊN NGÀNH : LUẬT QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ
NHẬN VIẾT THUÊ LUẬN VĂN
ZALO/TELEGRAM HỖ TRỢ : 0917.193.864
WEBSITE:LUANVANLUAT.COM
Đề tài: Quyền sở hữu tài sản của người nước ngoài tại Việt Nam
GVHD: Th.S Diệp Ngọc Dũng 1 SVTH: Lê Thị Diễm Trinh
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU....................................................................................................... 3
Chương 1 LÍ LUẬN CHUNG VỀ TÀI SẢN VÀ QUYỀN SỞ HỮU THEO
PHÁP LUẬT VIỆT NAM ................................................................................... 5
1.1 KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TÀI SẢN.......................................................... 5
1.1.1Khái niệm tài sản .................................................................................... 5
1.1.1.1 Khái niệm tài sản............................................................................. 5
1.1.1.2 Phân loại tài sản .............................................................................. 7
1.1.2 Động sản và bất động sản .................................................................... 13
1.1.2.1 Phân biệt động sản và bất động sản .............................................. 13
1.1.2.2 Những trường hợp ngoại lệ........................................................... 15
1.1.2.2.1 Bất động sản trở thành động sản ............................................ 15
1.1.2.2.2 Động sản trở thành bất động sản............................................ 15
1.2 KHÁI QUÁT CHUNG VỀ QUYỀN SỞ HỮU ......................................... 16
1.2.1 Khái niệm về quyền sở hữu ................................................................. 16
1.2.1.1 Khái niệm quyền sở hữu theo pháp luật Việt Nam....................... 17
1.2.1.2 Khái niệm quyền sở hữu theo pháp luật các nước........................ 17
1.2.2 Nội dung cơ bản của quyền sở hữu theo pháp luật Việt Nam............. 18
1.2.2.1 Quyền chiếm hữu.......................................................................... 18
1.2.2.2 Quyền sử dụng .............................................................................. 19
1.2.2.3 Quyền định đoạt............................................................................ 20
1.2.3 Giải quyết xung đột pháp luật về quyền sở hữu .................................. 22
1.2.3.1 Giải quyết theo pháp luật các nước............................................... 22
1.2.3.2 Giải quyết theo pháp luật Việt Nam ............................................. 24
Chương 2 PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ QUYỀN SỞ HỮU TÀI SẢN CỦA
NGƯỜI NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM....................................................... 28
2.1 QUYỀN SỞ HỮU TÀI SẢN LÀ ĐỘNG SẢN CỦA NGƯỜI NƯỚC
NGOÀI TẠI VIỆT NAM................................................................................. 30
2.2 QUYỀN SỞ HỮU TÀI SẢN LÀ BẤT ĐỘNG SẢN CỦA NGƯỜI NƯỚC
NGOÀI TẠI VIỆT NAM................................................................................. 34
2.2.1 Quyền sở hữu nhà ở............................................................................. 36
2.2.1.1 Đối tượng được mua và sở hữu nhà ở tại Việt Nam..................... 36
2.2.1.2 Trình tự, thủ tục và thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu
nhà ở.......................................................................................................... 39
2.2.1.3 Quyền và nghĩa vụ của chủ sở hữu nhà là tổ chức, cá nhân nước
ngoài.......................................................................................................... 43
2.2.1.3.1 Quyền của chủ sở hữu nhà ở là tổ chức, cá nhân nước ngoài 43
2.2.1.3.2 Nghĩa vụ của chủ sở hữu nhà ở là tổ chức, cá nhân nước ngoài
............................................................................................................... 45
2.2.2 Quyền sở hữu tài sản là bất động sản dùng để đầu tư ......................... 46
2.2.3 Các loại bất động sản khác. ................................................................. 48
Chương 3 THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ Ý KIẾN ĐỀ XUẤT....................... 51
3.1 THỰC TRẠNG .......................................................................................... 51
3.2 MỘT SỐ Ý KIẾN ĐỀ XUẤT .................................................................... 57
Đề tài: Quyền sở hữu tài sản của người nước ngoài tại Việt Nam
GVHD: Th.S Diệp Ngọc Dũng 2 SVTH: Lê Thị Diễm Trinh
KẾT LUẬN......................................................................................................... 62
Đề tài: Quyền sở hữu tài sản của người nước ngoài tại Việt Nam
GVHD: Th.S Diệp Ngọc Dũng 3 SVTH: Lê Thị Diễm Trinh
LỜI MỞ ĐẦU
Trong xu thế hội nhập hiện nay, quá trình giao lưu kinh tế, văn hóa, khoa
học công nghệ… của Việt Nam với các nước trên thế giới phát triển một cách
nhanh chóng. Đặc biệt, hiện nay nước ta đã hội nhập với thế giới và đã trở thành
thành viên của tổ chức thương mại thế giới WTO nên số lượng người nước ngoài
vào Việt Nam sẽ ngày càng tăng thông qua nhiều con đường khác nhau. Điều này
đòi hỏi nước ta phải có một quy chế pháp lí phù hợp cho những đối tượng này
nhất là trong lĩnh vực sở hữu tài sản. Bởi vì, đảm bảo quyền và lợi ích của nhóm
đối tượng này cũng chính là làm tăng thêm lợi ích của quốc gia. Đồng thời, ngày
càng thúc đẩy và mở rộng hơn quan hệ hợp tác của Việt Nam với các nước trên
nhiều lĩnh vực, từng bước nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Vấn
đề đặt ra là nhà nước ta đã có những chính sách hay quy định nào về quyền sở
hữu của những đối tượng này.
Việc nghiên cứu đề tài “quyền sở hữu tài sản của người nước ngoài tại
Việt Nam” sẽ giúp chúng ta hiểu rõ hơn những quy định của Việt Nam về quyền
sở hữu của người nước ngoài. Từ đó, góp phần hoàn thiện pháp luật cho phù hợp
với tình hình hiện nay, đảm bảo hơn chế độ đãi ngộ như công dân mà Việt Nam
dành cho người nước ngoài. Việc đảm bảo quyền sở hữu người nước ngoài trên
lãnh thổ Việt Nam cũng như chúng ta đảm bảo mối quan hệ với các nước là góp
phần làm Việt Nam ngày càng phát triển hơn
Nhằm để đảm bảo cho việc nghiên cứu có hiệu quả, đồng thời, giúp người
đọc có thể nắm rõ và hiểu sâu sắc vấn đề hơn. Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu
quyền sở hữu tài sản của người nước ngoài trên những tài sản hữu hình được
phân loại thành bất động sản và động sản. Và cũng trong phạm vi đề tài của
mình, người viết chỉ tìm hiểu quyền sở hữu tài sản mà nhà nước dành cho đối
tượng là nhà đầu tư nước ngoài và cá nhân nước ngoài là người chưa có quốc tịch
Việt Nam. Chủ thể có yếu tố nước ngoài bao gồm: người Việt Nam định cư ở
nước ngoài, người Việt Nam đã thôi quốc tịch Việt Nam, người Việt Nam mang
quốc tịch nước ngoài nhưng chưa thôi quốc tịch Việt Nam, người mang quốc tịch
nước ngoài, người không có quốc tịch … Tuy nhiên, do hạn chế về mặt thời gian
và phạm vi nghiên cứu của đề tài, người viết chỉ nghiên cứu quyền sở hữu tài sản
trên động sản và bất động sản của đối tượng là nhà đầu tư nước ngoài và người
nước ngoài, người mang quốc tịch nước ngoài nhưng chưa từng mang quốc tịch
Việt Nam, mà thôi.
Đề tài: Quyền sở hữu tài sản của người nước ngoài tại Việt Nam
GVHD: Th.S Diệp Ngọc Dũng 4 SVTH: Lê Thị Diễm Trinh
Với mục đích hoàn thiện bài viết một cách tốt nhất, người viết đã vận
dụng một số phương pháp như: phương pháp phân tích luật viết, thu thập tài liệu,
đánh giá, so sánh đối chiếu… để nghiên cứu đề tài của mình.
Bên cạnh lời nói đầu, kết luận, mục lục và danh mục tài liệu tham khảo,
luận văn được trình bày theo kết cấu gồm 3 chương
- Chương 1: “Lí luận chung về tài sản và quyền sở hữu theo pháp luật Việt
Nam”.Chương này tác giả giới thiệu một cách khái quát về tài sản và quyền sở
hữu giúp người đọc nắm được: tài sản là gì? Có các loại tài sản nào theo cách
phân loại của pháp luật Việt Nam, quyền sở hữu là gì? Nội dung cơ bản của
quyền sở hữu theo pháp luật Việt Nam và cách giải quyết xung đột về quyền sở
hữu của các nước như thế nào?
- Chương 2: “Pháp luật Việt Nam về quyền sở hữu tài sản của người nước
ngoài”. Trong chương này, người đọc sẽ biết được người nước ngoài được quyền
sở hữu những động sản nào và những bất động sản nào. Đối với quyền sở hữu bất
động sản của người nước ngoài, người viết tập trung nghiên cứu những quy định
của Nghị quyết 19/2008/NQ-QH12 ngày 03/6/2008 về việc thí điểm cho tổ chức,
cá nhân nước ngoài mua và sở hữu nhà tại Việt Nam.
- Chương 3: “Thực trạng và một số ý kiến đề xuất”. Tác giả sẽ nêu lên thực
trạng quyền sở hữu của người nước ngoài tại Việt Nam hiện nay được bảo đảm
như thế nào và nêu một số ý kiến về vấn đề sở hữu tài sản của người nước ngoài
tại Việt Nam.
Mặc dù đã có nhiều nổ lực trong quá trình nghiên cứu nhưng do đây là đề
tài mới, thời gian và nguồn tài liệu tham khảo có hạn, bên cạnh đó do kiến thức
tác giả còn hạn hẹp, lại chưa có điều kiện tiếp xúc nhiều với thực tế nên những ý
tưởng trong đề tài này phần lớn còn mang tính lí thuyết và không tránh khỏi
những sai lầm thiếu sót mong quý thầy cô tận tình chỉ dẫn để bài viết được hoàn
thiện hơn
Sau cùng tác giả xin gửi lời cảm ơn chân thành đến Khoa luật Trường đại
học Cần Thơ và giáo viên hướng dẫn Th.S Diệp Ngọc Dũng đã tạo điều kiện cho
tác giả hoàn thành tốt đề tài này.
Xin chân thành cảm ơn!
Đề tài: Quyền sở hữu tài sản của người nước ngoài tại Việt Nam
GVHD: Th.S Diệp Ngọc Dũng 5 SVTH: Lê Thị Diễm Trinh
Chương 1
LÍ LUẬN CHUNG VỀ TÀI SẢN VÀ QUYỀN SỞ HỮU
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM
Ở Việt Nam, người nước ngoài được quyền sở hữu những nào và nội
dung quyền sở hữu của họ đối với những tài sản đó như thế nào đều do pháp luật
Việt Nam điều chỉnh. Vậy, theo pháp luật Việt Nam, tài sản là gì và quyền sở
hữu tài sản thực chất là những quyền năng gì?
1.1 KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TÀI SẢN
Tài sản, được coi là khách thể của quyền sở hữu đã được qui định tại Điều
163 BLDS năm 2005. Nhưng những qui định này chỉ mang tính chất liệt kê, xác
định những loại vật thể và quyền tài sản được coi là tài sản. Vậy tài sản là gì và
chúng được phân loại như thế nào trong pháp luật Việt Nam ?
1.1.1Khái niệm tài sản
Thật ra, từ khi bộ luật dân sự đầu tiên được ban hành cho đến bộ luật dân
sự hiện nay đang có hiệu lực thì không có bất kì điều luật nào nêu khái niệm tài
sản là gì. Khi đó, tài sản được người ta hiểu một cách chung nhất và luật chỉ nêu
ra quy định những gì là tài sản. Tuy nhiên, đó là cơ sở pháp lí quan trọng để ta
xác định một vật có phải là tài sản trong quan hệ pháp luật hay không.
1.1.1.1 Khái niệm tài sản
Theo từ điển Tiếng Việt, nhà xuất bản Đà Nẵng-Trung tâm điện tử tin học
xuất bản năm 1997 thì tài sản được khái niệm như sau: “Tài sản là của cải vật
chất dùng vào mục đích sản xuất hoặc tiêu dùng”. Theo khái niệm này thì thuật
ngữ tài sản có thể được hiểu theo hai cách:
 Thứ nhất, về phương diện pháp lý, tài sản là của cải được con người sử
dụng. “Của cải” là một khái niệm luôn biến đổi và tự hoàn thiện cùng với sự
hoàn thiện về giá trị vật chất. Ở La Mã cổ xưa, nhắc đến tài sản người ta liên
tưởng ngay đến những của cải trong gia đình như ruộng đất, nhà cửa gia súc…
Còn trong xã hội hiện đại ngày nay, ngoài của cải trong gia đình, chúng ta còn có
một số tài sản đặc biệt như, năng lượng hạt nhân, phần mềm máy vi tính…
 Thứ hai, trong ngôn ngữ thông dụng hàng ngày, tài sản là một vật cụ thể
mà có thể nhận biết bằng các giác quan và được con người sử dụng trong đời
sống hàng ngày như bàn ghế, xe máy1
,…
1
Nguyễn Ngọc Điện, Bình luận khoa học về tài sản trong luật Dân sự Việt Nam, nxb trẻ, 2001, trang 5
Đề tài: Quyền sở hữu tài sản của người nước ngoài tại Việt Nam
GVHD: Th.S Diệp Ngọc Dũng 6 SVTH: Lê Thị Diễm Trinh
Theo BLDS Việt Nam thì không định nghĩa tài sản là gì nhưng tại điều
172 Bộ luật Dân sự (BLDS) 1995 có qui định: “tài sản bao gồm vật có thực, tiền,
giấy tờ trị giá được bằng tiền và các quyền tài sản”. Khi BLDS 2005 ra đời có
hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm 2006 thay thế BLDS 1995 thì tài sản được qui
định bao gồm “vật, tiền giấy tờ có giá và các quyền tài sản”. Như vậy, BLDS
1995 và BLDS 2005 đều qui định tài sản gồm có vật. Tuy nhiên, điều 163 BLDS
2005 qui định tài sản là “vật”, mà không qui định “vật có thực” như qui định tại
điều 172 BLDS 2005. Việc bỏ qui định vật có thực đã mở rộng nội hàm của vật,
vật có thể đang tồn tại hiện thực và vật chắc chắn được hình thành trong tương lai
có thể xác định được. Qui định về vật tại điều 163 BLDS 2005 về vật phù hợp
hơn với đời sống thực tế và các giao lưu dân sự trong cơ chế thị trường, theo định
hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay, các bên tham gia giao dịch có thể
thỏa thuận về đối tượng của giao dịch là vật được hình thành trong tương lai.
Theo luật định thì “tài sản bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài
sản”.
Vật là những vật chất đang tồn tại trong tự nhiên hoặc đang được hình
thành trong tương lai. Tuy nhiên, không phải mọi vật đều là tài sản. Vật là tài sản
phải thỏa mãn các dấu hiệu sau đây:
- Vật đó phải tồn tại khách quan hoặc vật đó chắc chắn được hình thành
trong tương lai
- Vật đó con người phải chi phối được, phải kiểm soát được và phải chiếm
hữu được
- Vật đó phải xác định được giá trị thanh toán hay giá trị trao đổi, vật đó
phải khai thác được về phương diện tài sản như dân sự, thương mại, tiêu dùng…
đáp ứng nhu cầu vật chất và tinh thần con người
- Vật đó là vật được phép lưu thông dân sự và mang giá trị tài sản, có thể
trao đổi được cho nhau dưới dạng vật chất hay qui đổi được thành tiền2
Tiền, theo kinh tế học, là giá trị đại diện cho giá trị thực của hàng hóa và
là phương tiện lưu thông trong đời sống của con người3
. Về mặt chính trị, đó còn
là đại diện cho chủ quyền của một quốc gia, đòi hỏi người có tiền không thể có
toàn quyền định đoạt loại tài sản đặc biệt này mà phải tuân thủ những qui định
nghiêm ngặt của Nhà nước. Do đó, tiền có một vị trí quan trọng trong nền kinh tế
quốc dân.
2
Phùng Trung Tập, Tạp chí Tòa án nhân dân số 2 tháng 11/2007, trang 22
3
Giáo trình kinh tế chính trị, nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, 2002
Đề tài: Quyền sở hữu tài sản của người nước ngoài tại Việt Nam
GVHD: Th.S Diệp Ngọc Dũng 7 SVTH: Lê Thị Diễm Trinh
Giấy tờ có giá bao gồm: cổ phiếu, trái phiếu, tín phiếu, kì phiếu, công
trái4
…Điều 163 BLDS 2005 thay cụm từ: “giấy tờ trị giá được bằng tiền” ở điều
172 BLDS 1995 bằng cụm từ “giấy tờ có giá” làm cho điều luật vừa ngắn gọn
vừa chính xác. Vì thực tế có nhiều loại giấy tờ không được trị giá được bằng tiền
nhưng lại có giá trị rất lớn như giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng
nhận quyền sở hữu nhà….
Các quyền tài sản là những quyền gắn liền với một tài sản hoặc khi thực
hiện quyền đó chủ sở hữu sẽ có được một tài sản. “Quyền tài sản là quyền trị giá
được bằng tiền và có thể chuyển giao trong giao dịch dân sự, kể cả quyền sở hữu
trí tuệ”5
. Từ qui định trên ta nhận thấy quyền tài sản là tài sản và một quyền tài
sản phải có đủ hai yếu tố: trị giá được bằng tiền và chuyển giao được trong giao
lưu dân sự. Tuy nhiên, không phải tất cả các quyền tài sản đều phải có đầy đủ hai
yếu tố trên mới trở thành quyền tài sản. Thực ra, tính chất tài sản của quyền có
các cấp độ khác nhau: đầy đủ, không đầy đủ và không có. Quyền tài sản được
quy định tại điều 181 BLDS 2005 là quyền có đầy đủ tính chất tài sản. Các quyền
như quyền bầu cử, quyền tự do ngôn luận…không trị giá được bằng tiền và
không thể chuyển nhượng được nên các quyền này không có tính chất tài sản.
Ví dụ: cổ phiếu của cổ đông sở hữu cổ phần ưu đãi biểu quyết trong công
ty cổ phần cũng là tài sản nhưng không thể chuyển nhượng được.
Như vậy, hiểu một cách chung nhất thì tài sản là của cải vật chất được
con người dùng vào mục đích sản xuất hoặc tiêu dùng. Cụ thể hơn tài sản được
luật qui định bao gồm vật tiền giấy tờ có giá và các quyền tài sản.
1.1.1.2 Phân loại tài sản
Tài sản có thể được phân loại theo nhiều cách. Trong luật La tinh tài sản
được phân loại thành động sản và bất động sản, tài sản hữu hình và tài sản vô
hình, vật tiêu hao và vật không tiêu hao, vật cùng loại và vật đặc định, vốn và lợi
tức, vật được sở hữu và vật không được sở hữu, tài sản công và tài sản tư. Trong
luật Anh-Mỹ thì tài sản được phân loại thành quyền đối vật và quyền đối nhân,
đất đai và các tài sản khác bao gồm tiền, động sản hữu hình mà không phải là
tiền6
.Chương XI BLDS 2005 qui định về các loại tài sản. Trong đó có xây dựng
các khái niệm động sản và bất động sản, vật đặc định và vật cùng loại, vật chính
và vật phụ,…Như vậy, luật Việt Nam có xu hướng phân loại tương tự như luật
La tinh.
4
Giáo trình lí thuyết tài chính tiền tệ, nhà xuất bản giáo dục, 2008
5
Điều 181 BLDS 2005
6
Nguyễn Ngọc Điện, Bình luận khoa học về tài sản trong luật dân sự Việt Nam, nxb trẻ, 2001, trang 26
Đề tài: Quyền sở hữu tài sản của người nước ngoài tại Việt Nam
GVHD: Th.S Diệp Ngọc Dũng 8 SVTH: Lê Thị Diễm Trinh
* Động sản và bất động sản
Đây là cách phân loại đầu tiên nhất. Theo đó:
Bất động sản là các tài sản bao gồm:
- Đất đai
- Nhà, công trình xây dựng gắn liền với đất đai, kể cả các tài sản gắn liền với
nhà, công trình xây dựng đó
- Các tài sản gắn liền với đất đai;
- Các tài sản khác do luật qui định.
Động sản là những tài sản không phải là bất động sản7
Khác với BLDS 1995, BLDS 2005 không đưa ra khái niệm bất động sản mà
chỉ liệt kê những loại tài sản nào là bất động sản. Thực ra, điều 181 BLDS 1995
đưa ra khái niệm “bất động sản là các tài sản không di dời được” cũng chưa thật
bao quát, và nó mâu thuẫn ngay với một số loại tài sản được coi là bất động sản
như “các tài sản gắn liền với nhà ở, công trình xây dựng” qui định trong cùng
một điều luật đó. Nó mâu thuẫn bởi vì tài sản gắn liền với nhà ở, công trình xây
dựng vẫn có thể đi chuyển được. Như vậy, qui định về bất động sản ở điều 174
BLDS 2005 phù hợp hơn. Điều luật đã liệt kê các tài sản là bất động sản, còn
những tài sản nào là động sản luật không qui định chi tiết mà chỉ bỏ ngỏ bằng
một quy phạm mở. Như vậy, danh mục tài sản là động sản sẽ được bổ sung ngay
trong thực tiễn áp dụng pháp luật. Điều này cho phép ta khẳng định rằng bất kì
tài sản nào cũng chỉ có thể là bất động sản hoặc là động sản. Ngoài cách phân
loại tài sản thành động sản và bất động sản thì người ta còn có các cách phân loại
khác như sau:
* Căn cứ vào nguồn gốc sinh ra của tài sản ta có cách phân loại tài sản thành
hoa lợi, lợi tức.
Điều 175 BLDS qui định “Hoa lợi là sản vật tự nhiên mà tài sản mang lại”,
“Lợi tức là các khoản lợi thu được từ việc khai thác tài sản”. Nói một cách tổng
quát, hoa lợi, lợi tức là những vật có giá trị tiền tệ do tài sản sinh ra. Ta gọi tài
sản sinh ra hoa lợi, lợi tức là tài sản gốc. Tuy nhiên việc phân biệt tài sản gốc và
hoa lợi, lợi tức trong nhiều trường hợp không thể rạch ròi được bởi một số trường
hợp hoa lợi, lợi tức được tiêu dùng, biến mất hoặc được tích lũy để trở thành tài
sản đầu tư và tiếp tục sinh lợi. Chỉ được gọi là hoa lợi, lợi tức những tài sản sinh
ra từ tài sản gốc mà không làm giảm sút chất liệu của tài sản gốc (ở mức độ có
thể nhận thấy được). Trong trường hợp để thu được một lợi ích vật chất từ tài sản
7
BLDS 2005, điều 174
Đề tài: Quyền sở hữu tài sản của người nước ngoài tại Việt Nam
GVHD: Th.S Diệp Ngọc Dũng 9 SVTH: Lê Thị Diễm Trinh
gốc mà không thể tái tạo bằng cách khai thác khả năng sinh lợi của tài sản gốc
hoặc chỉ có thể tái tạo bằng cách lặp lại một chu kì đầu tư nhằm khôi phục chất
liệu của tài sản gốc, thì lợi ích thu được đó chính là sản phẩm mà không phải là
hoa lợi, lợi tức.
Ví dụ: Một vườn cây ăn trái. Nếu trái cây được thu hoạch thì ta có hoa lợi;
nếu cây ăn trái được đốn xuống bán lấy gỗ thì ta có sản phẩm. Bởi vì, việc thu
hoạch trái không ảnh hưởng đến sức sinh sản của vườn cây còn việc đốn cây bán
gỗ chỉ có thể khôi phục khả năng sinh lợi sau một thời gian tái đầu tư lớn.
Từ những phân tích trên thì suy cho cùng thì hoa lợi, lợi tức đều là động
sản. Hay cụ thể hơn, hoa lợi lợi tức là tài sản có thể được sinh ra từ bất động sản
nhưng bản thân nó lại là một động sản.
* Căn cứ vào tính chất, chức năng của tài sản thì có thể chia tài sản thành vật
chính và vật phụ.
Theo điều 176 BLDS 2005 thì: “Vật chính là vật độc lập, có thể khai thác
công dụng theo tính năng. Vật phụ là vật trực tiếp phục vụ cho việc khai thác
công dụng của vật chính, là một bộ phận của vật chính, nhưng có thể tách rời
vật chính. Khi thực hiện nghĩa vụ chuyển giao vật chính thì phải chuyển giao
cả vật phụ, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.”
Từ nội dung của điều luật ta có thể rút ra một số nhận xét sau:
- Vật chính có thể nhận biết với đầy đủ đặc điểm về cấu tạo, tính năng mà
không cần vật phụ. Chẳng hạn như bàn, ghế, quần áo…
- Vật phụ là vật trực tiếp phục vụ cho việc khai thác công dụng của vật
chính, mà thông thường làm tăng giá trị cho vật chính nhưng không hẳn là yếu tố
không thể thiếu của vật chính. Ví dụ: kính lọc của màn hình máy vi tính, kính
chiếu hậu của xe gắn máy…
- Vật phụ sẽ đảm nhận vai trò phụ khi gắn liền với vật chính
- Vật phụ khi tách rời vật chính có thể sẽ không hữu dụng, tuy nhiên vật
chính có thể tiếp tục khai thác và sử dụng được.
- Khi vật chính được mua bán, tặng cho, trao đổi, di tặng…Thì vật phụ cũng
mặc nhiên đi theo nếu không có thỏa thuận khác.
Như vậy, vật chính có thể là động sản nhưng cũng có thể là bất động sản
còn vật phụ luôn luôn là động sản khi tách rời vật chính.
* Vật chia được và không chia được
Điều 177 BLDS qui định:
“Vật chia được là vật khi bị phân chia vẫn giữ nguyên tính chất và tính năng sử
dụng ban đầu. Vật không chia được là vật khi bị chia thì không giữ nguyên được
Đề tài: Quyền sở hữu tài sản của người nước ngoài tại Việt Nam
GVHD: Th.S Diệp Ngọc Dũng 10 SVTH: Lê Thị Diễm Trinh
tính chất và tính năng sử dụng ban đầu. Khi cần phân chia vật không chia được
thì phải trị giá bằng tiền để chia”
Thực ra, các khái niệm “vật chia được” và “vật không chia được” không
liên quan đến vấn đề phân loại tài sản mà chủ yếu liên quan đến việc thực hiện
quyền sở hữu chung theo phần8
.
Ví dụ: Một vườn cây ăn trái khi được chia thì không làm ảnh hưởng đến
khả năng cho trái và cũng không làm thay đổi thành phần, tính năng của đất.
Ngược lại, căn nhà không thể chia đôi khi vợ chồng li hôn. Nếu căn nhà được
chia đôi thì nó không còn giữ nguyên được tính năng sử dụng ban đầu nữa.
Trong trường hợp này người vợ hoặc người chồng được chia căn nhà thì phải
định giá căn nhà để trả phân nữa giá trị căn nhà cho người còn lại.
* Căn cứ vào mức độ hao mòn của tài sản khi sử dụng thì có thể phân loại tài
sản thành vật tiêu hao và vật không tiêu hao
Theo điều 178 BLDS 2005 thì: “Vật tiêu hao là vật khi đã qua một lần sử
dụng thì mất đi hoặc không giữ được tính chất, hình dáng và tính năng sử dụng
ban đầu. Vật tiêu hao không thể là đối tượng của hợp đồng cho thuê hoặc cho
mượn. Vật không tiêu hao là vật khi đã qua sử dụng nhiều lần mà cơ bản vẫn giữ
được tính chất, hình dáng và tính năng sử dụng ban đầu.”
Có rất nhiều ví dụ về hai loại tài sản này như thức ăn nhiên liệu…là vật
tiêu hao. Quần áo, bàn ghế, công cụ lao động…là những vật không tiêu hao. Tiền
cũng là vật tiêu hao nhưng tiêu hao không phải do sử dụng mà do được dùng để
thanh toán trong lưu thông. Những bất động sản là vật không tiêu hao.Vật tiêu
hao có thể biến mất hoàn toàn về mặt vật chất sau lần sử dụng đầu tiên, cũng có
những vật tiêu hao không hoàn toàn biến mất nhưng không còn mang tính chất,
hình dáng và tính năng ban đầu sau một lần sử dụng mà lại mang tính chất hình
dáng, tính năng của một vật khác.
Ví dụ: đĩa CD, băng cassette…
Và có những vật, khi qua một lần sử dụng không mất đi về mặt vật chất
và qua nhiều lần sử dụng vẫn giữ được tính chất , hình dáng, tính năng ban đầu
nhưng lại giảm giá trị rất nhanh và sẽ được thay thế sau một thời gian ngắn. Ta
gọi đó là vật tiêu dùng – loại trung gian giữa vật tiêu hao và vật không tiêu hao.
Ví dụ: bút bi, tập vở, quần áo…
Luật còn qui định vật tiêu hao không thể là đối tượng của hợp đồng cho
thuê hoặc hợp đồng cho mượn. Có nghĩa là các tài sản có thể cho thuê cho mượn
8
Nguyễn Ngọc Điện, Bình luận khoa học về tài sản trong luật Việt Nam, nxb trẻ, 2001, trang 51
Đề tài: Quyền sở hữu tài sản của người nước ngoài tại Việt Nam
GVHD: Th.S Diệp Ngọc Dũng 11 SVTH: Lê Thị Diễm Trinh
không thể là vật tiêu hao. Tuy nhiên, trong đời sống hàng ngày người ta có loại
giao dịch “mượn” tài sản để tiêu dùng hay định đoạt. Ví dụ như mượn tiền hay
mượn gạo. Thật ra, loại giao dịch này luật gọi tên là hợp đồng vay tài sản (hợp
đồng vay tài sản được qui định tại điều 471 BLDS2005). Khi đó người vay nhận
tài sản, sử dụng tự do sau một thời gian phải trả lại cho người cho vay vật cùng
loại có giá trị tương đương với vật đã vay trước đó.
* Vật đặc định và vật cùng loại
Điều 179 BLDS 2005 qui định: “Vật cùng loại là những vật có cùng hình
dáng, tính chất tính năng sử dụng và xác định được bằng những đơn vị đo lường.
Vật cùng loại có cùng tính chất có thể thay thế cho nhau. Vật đặc định là vật
phân biệt được với vật khác bằng những đặc điểm riêng về kí hiệu, hình dáng,
màu sắc, chất liệu, đặc tính, vị trí. Khi thực hiện nghĩa vụ chuyển giao vật đặc
định phải giao đúng vật đó.”
Theo khái niệm của luật thì ta cũng dễ hiểu vật cùng loại và vật đặc định
là gì. Tuy nhiên, vật cùng loại chỉ là một khái niệm mang tính tương đối. Bởi vì
vật cùng loại có thể trở thành đặc định trong quá trình thực hiện một giao dịch
nhưng lại trở thành cùng loại khi là đối tượng của một giao dịch khác.
Ví dụ: Cửa hàng bán lẻ kí hợp đồng mua 6 ti vi màu hiệu LG 24 inch với
một đại lí tại Cần Thơ. Ở thời điểm giao kết hợp đồng, 6 cái ti vi trên là vật cùng
loại trong 20 ti vi cùng loại nằm trong đại lí. Khi 6 cái ti vi đó được tách ra khỏi
đại lí và được giao nó trở thành vật đặc định. Khi nhập vào cửa hàng để bán lẻ,
nó lại trở thành những vật cùng loại khi cửa hàng giao kết việc mua bán lẻ từng
cái với khách hàng.
Việc phân biệt vật cùng loại, vật đặc định làm cơ sở cho việc chuyển giao
tài sản trong một số giao dịch. Bởi nếu một vật đặc định khi được chuyển giao thì
phải giao đúng vật đó, còn vật cùng loại chỉ cần chuyển giao đủ và đúng loại.
Ta thấy, các cách phân loại trên chỉ được thực hiện trên các tài sản hữu
hình nghĩa là các tài sản mà ta có thể nhận biết được bằng các giác quan thông
thường. Ngoài các loại tài sản được phân loại như trên thì luật còn phân loại tài
sản thành tài sản vô hình
* Tài sản vô hình
Ngay trong luật học cổ La Mã cũng đã thừa nhận quan niệm về những giá
trị tài sản không biểu hiện bằng vật thể như các quyền đòi nợ, quyền xóa nợ…
Trong xã hội hiện đại, khi nói đến giá trị tài sản vô hình, ta liên tưởng đến các
quyền sở hữu công nghiệp, quyền sở hữu đối với tác phẩm văn chương, nghệ
thuật, văn học…Tài sản vô hình không thể nhận biết bằng giác quan của con
Đề tài: Quyền sở hữu tài sản của người nước ngoài tại Việt Nam
GVHD: Th.S Diệp Ngọc Dũng 12 SVTH: Lê Thị Diễm Trinh
người mà muốn nhận biết phải thông qua mối quan hệ giữa người có quyền khai
thác lợi ích của tài sản và người thứ ba.Tài sản vô hình có những đặc điểm sau:
- Tài sản vô hình là kết quả lao động sáng tạo, nó không phải vật chất
nhưng có quan hệ với vật chất. Ví dụ: quyền tác giả đối với một bài thơ có đối
tượng không phải bài thơ đó mà bài thơ chỉ là hình thức biểu hiện cụ thể bằng vật
chất của kết quả lao động sáng tạo.
- Quyền sở hữu đối với tài sản vô hình không có đối tượng là một nghĩa vụ
tài sản do người khác thực hiện như quyền chủ nợ nhưng bằng việc khai thác
người khai thác thu được lợi ích vật chất do người có quan tâm mang lại9
. Ví dụ
tác giả sẽ được hưởng nhuận bút khi tác phẩm của mình được sử dụng.
- Quyền đối với tài sản vô hình không có đối tượng là một vật hữu hình. Vì
tác phẩm văn học được in thành sách đó chỉ là một cách thể hiện kết quả lao
động sáng tạo của tác giả
- Quyền sở hữu tài sản vô hình khác với quyền sở hữu tài sản theo luật
chung. Vì tài sản vô hình không thể chiếm hữu được như tài sản hữu hình. Trong
trường hợp quyền sở hữu đối với tài sản vô hình bị xâm hại thì chủ sở hữu có
quyền khởi kiện hay khiếu nại để bảo vệ lợi ích của mình chứ không thể kiện đòi
lại tài sản.
* Quyền sử dụng đất
Quyền sử dụng đất cũng là một tài sản. Mặc dù, nó không được qui định
trong chương các loại tài sản nhưng nó được qui định riêng phần thứ năm trong
BLDS 2005. Đây là một loại tài sản đặc biệt bởi vì “đất đai thuộc sở hữu toàn
dân do nhà nước đại diện chủ sở hữu”10
. Nghĩa là, đối tượng của quyền sở hữu
đất là đất đai nhưng đất đai không thuộc về một cá nhân nào kể cả chủ sở hữu
quyền sử dụng đất. Hay nói khác hơn, người sử dụng đất không có đầy đủ quyền
như một chủ sở hữu tài sản bình thường. Tuy nhiên, quyền này lại là một tài sản.
Quyền sử dụng đất của mỗi chủ thể sử dụng đất lại không giống nhau tùy theo
quyền sử dụng đất của họ có được qua hình thức nào (giao, thuê, nhận chuyển
nhượng từ người khác…) và cũng tùy vào loại đất…
Từ những cách phân loại trên, mặc dù tài sản được phân loại thành hoa lợi
lợi tức, vật chính hay vật phụ, vật chia được hay không chia được, vật đặc định
hay cùng loại, vật tiêu hao hay không tiêu hao, vật hữu hình hay vô hình... Ta
điều nhận thấy rằng với cách phân loại nào đi nữa thì tựu chung lại tài sản vẫn
tồn tại ở dạng động sản hay bất động sản. Cách phân loại tài sản thành động sản
9
Nguyễn Ngọc Điện, Bình luận khoa học về tài sản trong pháp luật Việt Nam, nxb trẻ, 2001, trang 73
10
Luật đất đai 2003, điều 5 khoản 2
Đề tài: Quyền sở hữu tài sản của người nước ngoài tại Việt Nam
GVHD: Th.S Diệp Ngọc Dũng 13 SVTH: Lê Thị Diễm Trinh
hay bất động sản là cách phân loại bao trùm nhất, với cách phân loại này thì tất
cả tài sản đều được xếp vào động sản hay bất động sản mà không bỏ sót một loại
tài sản nào. Với cách phân loại khác thì chúng ta chỉ phân biệt được tài sản ở một
khía cạnh nào đó mà không bao gồm hết những tài sản còn lại. Ngoài ra, cách
phân loại tài sản thành động sản và bất động sản ở BLDS 2005 được xếp ở vị trí
đầu tiên trong chương Các loại tài sản. Điều này làm ta nghĩ rằng đây là cách
phân loại chính, còn các cách phân loại khác chỉ mang tính chất phụ. Và để hiểu
rõ hơn về tài sản trong cách phân loại này, hay giúp chúng ta biết được tài sản
nào là động sản tài sản nào là bất động sản theo quy định của pháp luật Việt Nam
tác giả sẽ phân tích động sản và bất động sản thành một mục riêng sau đây.
1.1.2 Động sản và bất động sản
1.1.2.1 Phân biệt động sản và bất động sản
Điều 174 BLDS 2005 qui định:
1. Bất động sản là các tài sản bao gồm:
- Đất đai
- Nhà, công trình xây dựng gắn liền với đất đai, kể cả các tài sản gắn
liền với nhà, công trình xây dựng đó.
- Các tài sản khác gắn liền với đất đai
- Các tài sản khác do pháp luật qui định.
2. Động sản là những tài sản không phải là bất động sản
Căn cứ vào qui định trên ta thấy, bất động sản bao gồm đất đai, tài sản gắn
liền với đất đai và một số tài sản do pháp luật qui định.Bất động sản đầu tiên
được đề cập đến là đất đai. Chính trong mối quan hệ với đất mà các vật khác
được định nghĩa là động sản hay bất động sản. Vật được sinh ra từ đất như cây
cối, mùa màng, khoáng sản…là bất động sản; vật gắn liền vào đất do hoạt động
có ý thức của con người và không thể tách rời đất mà không hư hỏng như nhà,
công trình xây dựng hạ tầng…cũng là bất động sản. Vật không cố định vị trí trên
đất như bàn ghế, xe máy… là động sản; cũng là động sản, những vật không do
đất sinh ra như gia súc gia cầm hoặc những vật đã tách rời khỏi đất như khoáng
sản đã được khai thác.
Các tài sản gắn liền với nhà ở và các công trình xây dựng đều được coi là
bất động sản, với qui định này phạm vi bất động sản cũng được mở rộng gần như
vô hạn định, tuy nhiên không phải tài sản nào gắn vào nhà ở và các công trình
xây dựng đều được xem là bất động sản, mà phải thỏa mãn hai điều kiện:
Đề tài: Quyền sở hữu tài sản của người nước ngoài tại Việt Nam
GVHD: Th.S Diệp Ngọc Dũng 14 SVTH: Lê Thị Diễm Trinh
- Tài sản gắn vào nhà ở và các công trình xây dựng là nhằm hoàn chỉnh, tạo
thành một thể thống nhất, tăng giá trị sử dụng, giá trị kinh tế của nhà ở và công
trình xây dựng đó như máy điều hòa, cửa sổ…
- Thông thường việc gắn các “động sản” vào nhà ở và công trình xây dựng
phải do chủ sở hữu đối với nhà ở, công trình xây dựng đó thực hiện, do vậy các
bất động sản và động sản này là cùng một chủ sở hữu. Tuy nhiên, có những
trường hợp động sản và bất động sản không nhất thiết là của một chủ sở hữu, đó
là trường hợp cho thuê nhà, thuê khoán công trình xây dựng mà người thuê gắn
các “động sản” của mình vào bất động sản đang thuê.11
Các tài sản khác gắn liền với đất đai cũng được xem là bất động sản.
Những tài sản này chỉ được xem là bất động sản khi nó “gắn liền” với đất do vị
trí tự nhiên, nếu tách ra khỏi đất đai thì các tài sản này trở thành động sản như
khoáng sản đã khai thác, cây đã bị đốn khỏi mặt đất, lúa đã bị thu hoạch…
Các tài sản khác do pháp luật qui định được coi là bất động sản không
được BLDS trực tiếp liệt kê. Điều này là một quy định mở tạo tiền đề cho các qui
định khác của pháp luật như “tàu bay, tàu biển là đối tượng được thế chấp và
được coi là bất động sản” theo qui định tại Quyết định số 217/QĐ-NH ngày
17/8/1996 của thống đốc ngân hàng.
Về hình thức thể hiện, tài sản có thể được nhận biết khi nó là các vật cụ
thể nhưng cũng có thể là các quyền. Cho nên, tính chất động sản hay bất động
sản của quyền thường được xác định theo đặc điểm vật chất của đối tượng của
quyền; nhưng cũng có khi được xác định một cách chủ quan nhất là trong trường
hợp đối tượng của quyền không phải là vật cụ thể. Như vậy, quyền sở hữu nhà là
một bất động sản, quyền sở hữu xe máy là động sản, quyền thế chấp quyền sử
dụng đất là bất động sản, quyền cầm cố là động sản… Đối với các quyền vô hình
như quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp… do không gắn liền với đất đai
hoặc thông qua các tài sản gắn liền với đất nên không được thừa nhận là bất động
sản. Tất cả quyền vô hình đều là động sản do áp dụng điều 174 khoản 2 BLDS
2005.
Có một số trường hợp tài sản ban đầu là một bất động sản nhưng lại có xu
hướng trở thành động sản, và ngược lại có những tài sản là động sản nhưng chỉ
có công dụng khi nó được cố định ở một vị trí thích hợp như là một bất động sản.
Cũng có trường hợp tài sản không có xu hướng thay đổi tính chất nhưng sau một
sự kiện hay một hoàn cảnh đặc biệt lại được thay thế bằng một tài sản có tính
11
Phạm Công Lạc, quyền sử dụng hạn chế bất động sản liền kề, nxb tư pháp, 2006, trang 48-49
Đề tài: Quyền sở hữu tài sản của người nước ngoài tại Việt Nam
GVHD: Th.S Diệp Ngọc Dũng 15 SVTH: Lê Thị Diễm Trinh
chất khác và chịu sự chi phối bởi một chế độ pháp lí hoàn toàn khác nên có
những trường hợp ngoại lệ sau:
1.1.2.2 Những trường hợp ngoại lệ
1.1.2.2.1 Bất động sản trở thành động sản
Theo khoản 1 điều 174 BLDS 2005 thì hoa lợi tự nhiên như mùa màng,
hoa quả chưa thu hoạch là bất động sản vì nó là tài sản gắn liền với đất đai. Điều
đương nhiên là hoa lợi tự nhiên có giá trị vật chất khi được thu hoạch nghĩa là
tách rời khỏi đất được tiêu dùng, được tặng cho… Tuy nhiên, hoa lợi tự nhiên
vẫn có giá trị vật chất nếu được chuyển nhượng khi chưa thu hoạch (như mua
bán lúa non ở các vùng quê nông thôn). Khi đó, dù vẫn còn gắn liền với đất, hoa
lợi tự nhiên được định giá và chuyển giao như một tài sản độc lập đã tách rời
khỏi đất. Như vậy, hoa lợi tự nhiên chưa thu hoạch trong trường hợp này là một
bất động sản được động sản hóa.
1.1.2.2.2 Động sản trở thành bất động sản
Có những tài sản, nếu xét theo đặc điểm vật lí thì đó là những động sản,
nhưng trên thực tế, tài sản đó lại gắn chặt vào một bất động sản như là một yếu tố
cần thiết cho việc khai thác bất động sản và sẽ tự động đi theo bất động sản đó
trong trường hợp bất động sản được chuyển nhượng với tư cách là một vật phụ
của bất động sản. Ta gọi đó là những động sản được bất động sản hóa do công
dụng hiện tại. Việc bất động sản hóa các động sản như vậy phải có đủ hai điều
kiện:
- Thứ nhất, cả hai đối tượng của sự chuyển hóa đều phải thuộc về một chủ
sở hữu.
- Thứ hai, bất động sản do công dụng phải mang đầy đủ tính chất là một vật
phụ của bất động sản đó. Nghĩa là phải trực tiếp phục vụ cho việc khai thác công
dụng theo tính năng của vật chính. Việc xác định này có ảnh hưởng đến việc xác
định chế độ pháp lí của một số giao dịch trong thực tế như chuyển nhượng tài sản
có vật chính, vật phụ, quan hệ về bảo đảm trong thực hiện nghĩa vụ…
Ví dụ: Căn nhà được thế chấp thì có nghĩa là những tài sản gắn liền với
căn nhà cũng là đối tượng của hợp đồng.
Tuy nhiên việc xác định tài sản nào đó là một bất động sản do công dụng
chỉ có ý nghĩa trong những quan hệ đặc thù mà không làm mất đi tính chất động
sản mà nó có được một cách tự nhiên. Chẳng hạn như, khi tài sản đó bị mất cắp,
bị cướp… thì vẫn xem đó là một vụ vi phạm pháp luật hình sự chứ không thể cho
rằng do đó là một bất động sản nên không thể trộm cắp hay bị cướp được.
Đề tài: Quyền sở hữu tài sản của người nước ngoài tại Việt Nam
GVHD: Th.S Diệp Ngọc Dũng 16 SVTH: Lê Thị Diễm Trinh
Có một ngoại lệ khác là trong quan hệ thế chấp, đối tượng của hợp đồng là
một tài sản đã được mua bảo hiểm. Trong thời gian hợp đồng thế chấp có hiệu
lực, do nguyên nhân khách quan, tài sản thế chấp bị hủy hoại. Theo nội dung của
hợp đồng bảo hiểm, chủ sở hữu sẽ được công ty bảo hiểm bồi thường bằng một
khoản tiền theo thỏa thuận đã giao kết giữa hai bên. Lúc này, số tiền bảo hiểm
tiếp tục là đối tượng của hợp đồng thế chấp vì hợp đồng vẫn còn hiệu lực. Điều
này trái với qui định của luật là: trừ tàu biển, đối tượng của hợp đồng thế chấp
phải là một bất động sản trong khi tiền là một động sản12
Như vậy, có thể thấy luật Việt Nam thừa nhận các loại bất động sản sau:
Bất động sản không thể di dời được do bản chất tự nhiên vốn có của nó
như đất đai, nhà cửa, công trình xây dựng gắn liền với đất đai, cây cối, hoa màu
và các tài sản khác trên đất.
Các động sản trở thành bất động sản vì mục đích sử dụng như: các tài sản
gắn liền với nhà, công trình xây dựng đều được coi là bất động sản. Ví dụ như tủ
được gắn cố định vào tường hoặc các vật khác được gắn kiên cố với nhà ở, công
trình xây dựng.
Các bất động sản do pháp luật qui định: ngoài những bất động sản được kể
trên, khi cần thiết, bằng một số văn bản pháp luật cụ thể, pháp luật có thể quy
định những tài sản khác là bất động sản. Điểm d khoản 1 điều 174 BLDS 2005 đã
quy định “tài sản khác do luật qui định”. Ví dụ như tàu bay, tàu biển, quyền sử
dụng đất cũng là bất động sản
Còn những tài sản khác không phải là bất động sản đều là động sản.Việc
phân biệt tài sản thành động sản và bất động sản có ý nghĩa quan trọng trong việc
xác định luật áp dụng trong trường hợp xác định quyền sở hữu có yếu tố nước
ngoài; các giao dịch có yếu tố nước ngoài. Vậy quyền sở hữu là gi và quyền sở
hữu thực chất là những quyền gi?
1.2 KHÁI QUÁT CHUNG VỀ QUYỀN SỞ HỮU
1.2.1 Khái niệm về quyền sở hữu
Trong bất cứ một chế độ xã hội nào cũng tồn tại những cách thức nhất
định về việc chiếm hữu, làm chủ của cải vật chất của con người. Mối quan hệ
giữa người với người trong quá trình chiếm hữu của cải vật chất đó làm phát sinh
các quan hệ sở hữu. Các quan hệ sở hữu này tồn tại cùng với sự phát triển của xã
hội, khi nhà nước và pháp luật ra đời quyền sở hữu cũng trở thành chế định trung
tâm trong pháp luật dân sự của mỗi nước.
12
Nguyễn Ngọc Điện, Bình luận khoa học về tài sản trong luật dân sự Việt Nam, nxb trẻ,2001, trang 47
Đề tài: Quyền sở hữu tài sản của người nước ngoài tại Việt Nam
GVHD: Th.S Diệp Ngọc Dũng 17 SVTH: Lê Thị Diễm Trinh
Trong quá trình phát triển của xã hội loài người đã và đang tồn tại nhiều
chế độ sở hữu khác nhau, chế định về quyền sở hữu của mỗi hệ thống pháp luật
cũng có những qui định khác nhau.
1.2.1.1 Khái niệm quyền sở hữu theo pháp luật Việt Nam
Theo điều 164 BLDS 2005 qui định “quyền sở hữu bao gồm quyền chiếm
hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt tài sản theo qui định của pháp luật. Chủ
sở hữu là cá nhân, pháp nhân, chủ thể khác có đủ ba quyền là quyền chiếm
hữu,quyền sử dụng và quyền định đoạt tài sản”. Từ qui định trên, ta có thể hiểu
quyền sở hữu theo hai nghĩa:
Theo nghĩa hẹp, quyền sở hữu được hiểu là mức độ xử sự mà pháp luật
cho phép một chủ thể được thực hiện các quyền năng chiếm hữu, sử dụng và
định đoạt trong những điều kiện nhất định. Theo nghĩa này, có thể nói quyền sở
hữu chính là những quyền năng dân sự chủ quan của từng chủ sở hữu nhất định
đối với một tài sản cụ thể, được xuất hiện trên cơ sở nội dung của qui phạm pháp
luật về sở hữu.
Theo nghĩa rộng, quyền sở hữu có thể được hiểu là tổng hợp hệ thống các
qui phạm pháp luật do nhà nước ban hành để điều chỉnh các quan hệ xã hội phát
sinh trong lĩnh vực chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản13
.
1.2.1.2 Khái niệm quyền sở hữu theo pháp luật các nước14
 Khái niệm quyền sở hữu trong Luật La Mã được hiểu là quyền sử dụng
và quyền định đoạt tuyệt đối của tài sản đó. Nhưng chủ sở hữu vẫn bị một số hạn
chế do luật định. Ví dụ: do yêu cầu nghiên cứu canh tác ở nông thôn và sử dụng
nước ở thành phố, người ta có thể dẫn nước qua ruộng người khác hoặc đặt ống
nước qua sân hàng xóm.
 Trong pháp luật tư sản Anh thì quyền sở hữu gồm có ba quyền: quyền
định đoạt, quyền sở hữu và quyền sử dụng. Nó là một trong những chế định quan
trọng nhất của pháp luật tư sản Anh, được coi là quyền tự nhiên của con người,
quyền thiêng bất khả xâm phạm. Quyền tư hữu được quy định trong bộ luật
Napoleon là: quyền sử dụng một cách tuyệt đối nhất sao cho trong khuôn khổ
của pháp luật. Bộ luật chia vật sở hữu thành hai loại: động sản và bất động sản.
Những hạn chế quyền sở hữu do bộ luật quy định chỉ liên quan đến hành vi, làm
ảnh hưởng xấu tới quyền lợi người khác. Ví dụ cấm xây dựng những ngôi nhà
làm tổn hại đến hàng xóm.
13
Trần Minh trọng, Quy định về tài sản và quyền sở hữu trong BLDS 2005, nxb tư pháp, 2005
14
Trần Thị Viễn, Luận văn tốt nghiệp luật khóa 30 – Xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu. Cơ sở lí luận
và thực tiễn, trang 8
Đề tài: Quyền sở hữu tài sản của người nước ngoài tại Việt Nam
GVHD: Th.S Diệp Ngọc Dũng 18 SVTH: Lê Thị Diễm Trinh
 Theo hệ thống Luật Anh- Mỹ: quyền sở hữu được định nghĩa là tập hợp
các quyền sử dụng và hưởng thụ một tài sản, bao gồm cả việc chuyển nhượng tài
sản đó cho người khác.
Người có đủ ba quyền: chiếm hữu, sử dụng, định đoạt đối với một vật gọi
là sở hữu chủ. Quyền sở hữu là một quyền đối vật điển hình và là một quyền
rộng nhất bao gồm tất cả lợi ích của đồ vật.
1.2.2 Nội dung cơ bản của quyền sở hữu theo pháp luật Việt Nam
Như quy định của luật thì quyền sở hữu bao gồm quyền chiếm hữu, quyền
sử dụng, quyền định đoạt tài sản. Nghĩa là một chủ thể nào đó nắm giữ đủ cả ba
quyền vừa nêu đối với một tài sản thì mới trở thành chủ sở hữu của tài sản đó.
Nếu thiếu một trong ba quyền: quyền chiếm hữu, quyền sử dụng, quyền định
đoạt thì không trở thành chủ sở hữu. Vậy những quyền này là gì và được quy
định như thế nào, ở Việt Nam, người nước ngoài có những quyền gì đối với các
loại tài sản mà pháp luật cho phép họ được quyền sở hữu.
1.2.2.1 Quyền chiếm hữu
Luật dân sự Việt Nam xác định chiếm hữu là một quyền năng của quyền
sở hữu cụ thể, Điều 182 BLDS 2005 qui định quyền chiếm hữu là quyền nắm
giữ, quản lý tài sản. Nắm giữ tài sản là việc người chiếm hữu giữ vật trong phạm
vi kiểm soát làm chủ và chi phối tài sản đó theo ý chí của mình, ví dụ, cất tiền
vào túi, quần áo, trang sức để vào trong tủ…
Trong chiếm hữu theo luật Việt Nam, xét dưới góc độ chủ thể chiếm hữu,
có thể tồn tại hai khả năng sau đây:
Người chiếm hữu tài sản đồng thời là chủ sở hữu tài sản và người chiếm
hữu không phải là chủ sở hữu của tài sản;
Xét theo việc chiếm hữu có căn cứ hay không có căn cứ, có thể chia
chiếm hữu thành chiếm hữu có căn cứ pháp luật và chiếm hữu không có căn cứ
pháp luật.
Chiếm hữu có căn cứ pháp luật được hiểu là các trường hợp người chiếm
hữu thực sự có quyền chiếm hữu đối với tài sản của mình dựa trên những căn cứ
do pháp luật qui định. Đó là hình thức chiếm hữu hợp pháp, theo Điều 183 Bộ
luật Dân sự 2005, sự chiếm hữu hợp pháp trước hết đó là sự chiếm hữu tài sản
của một chủ sở hữu được pháp luật công nhận.
Người không phải là chủ sở hữu mà chiếm hữu tài sản thì chỉ được coi là
chiếm hữu hợp pháp khi rơi vào các trường hợp sau: người được chủ sở hữu uỷ
quyền quản lý tài sản, người được chuyển giao quyền chiếm hữu thông qua giao
dịch dân sự; người phát hiện và giữ tài sản vô chủ, tài sản không xác định được ai
Đề tài: Quyền sở hữu tài sản của người nước ngoài tại Việt Nam
GVHD: Th.S Diệp Ngọc Dũng 19 SVTH: Lê Thị Diễm Trinh
là chủ sở hữu, tài sản bị đánh rơi, bị bỏ quên, bị chôn giấu, bị chìm đắm; người
phát hiện và giữ gia súc, gia cầm, vật nuôi dưới nước bị thất lạc, chiếm hữu của
cơ quan, tổ chức theo chức năng và thẩm quyền có quyền thu giữ và chiếm hữu
tài sản không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình liên tục, công khai.
Đối với các trường hợp người được chủ sở hữu uỷ quyền quản lý tài sản
hoặc được giao tài sản thông qua giao dịch dân sự, người chiếm hữu không thể
xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu (Điều 185,186 Bộ luật Dân sự 2005).
Người chiếm hữu tài sản của người khác có căn cứ pháp luật chỉ thực
hiện quyền chiếm hữu trong phạm vi, theo cách thức và thời hạn do chủ sở hữu
xác định. Hay nói khác đi, người không phải là chủ sở hữu thực hiện các quyền
năng chủ yếu không mang tính độc lập15
Trong trường hợp quyền chiếm hữu bị xâm phạm, người chiếm hữu tài
sản của người khác nhưng có căn cứ pháp luật được pháp luật bảo vệ theo các
quy định về bảo vệ quyền sở hữu (từ Điều 255 đến Điều 260 Bộ luật Dân sự
2005). Lẽ dĩ nhiên, người này phải chứng minh được tính hợp pháp của việc
chiếm hữu, chẳng hạn bằng việc xuất trình hợp đồng thuê tài sản.
Người chiếm hữu trong tình trạng chiếm hữu không dựa vào các trường
hợp được liệt kê tại Điều 190 Bộ luật Dân sự 2005 đều bị xem là chiếm hữu
không có căn cứ pháp luật. Thực chất, chiếm hữu không có căn cứ pháp luật là
trường hợp một người thực hiện quyền chiếm hữu của chủ sở hữu đối với một tài
sản tức là xử sự như chính mình là chủ sở hữu trong khi thực chất chủ sở hữu
đích thực của tài sản lại là người khác. Có hai trường hợp xảy ra: chiếm hữu
không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình, chiếm hữu không có căn cứ pháp
luật và không ngay tình.
Người chiếm hữu không có căn cứ pháp luật và không ngay tình không
được pháp luật bảo vệ và không được hưởng quy chế xác lập quyền sở hữu theo
thời hiệu. Trái lại, người chiếm hữu tài sản không có căn cứ pháp luật nhưng
ngay tình được pháp luật bảo vệ trong nhiều trường hợp và được xác lập quyền
sở hữu tài sản theo thời hiệu.
1.2.2.2 Quyền sử dụng
Điều 192 Bộ luật Dân sự 2005 định rõ: quyền sử dụng là quyền khai thác
công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản. Khai thác công dụng của tài sản
được hiểu là việc dùng tài sản để phục vụ nhu cầu, sở thích của bản thân hoặc để
khai thác lợi ích kinh tế của tài sản. Chẳng hạn, sử dụng môtô làm phương tiện
15
BLDS 2005, điều 185 khỏan 1
Đề tài: Quyền sở hữu tài sản của người nước ngoài tại Việt Nam
GVHD: Th.S Diệp Ngọc Dũng 20 SVTH: Lê Thị Diễm Trinh
để đi lại, đeo nữ trang hay đồng hồ để làm đẹp…Hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản
là việc chủ sở hữu thu nhận các sản vật tự nhiên mà tài sản mang lại như trái cây,
gia súc sinh con, gia cầm đẻ trứng… hoặc thu các khoản lợi từ việc khai thác tài
sản như tiền cho thuê nhà, lợi tức cổ phiếu, lợi tức cho vay… Việc sử dụng các
tài sản là vật tiêu hao, đặc biệt là các vật tiêu hao hết sau một lần sử dụng như
việc sử dụng thức ăn, đồ uống, tiêu tiền… cũng đồng nghĩa với việc chủ sở hữu
sử dụng quyền định đoạt đối với tài sản.
Như vậy, sử dụng tài sản là một trong những quyền năng quan trọng và
có ý nghĩa thực tế của chủ sở hữu. Chủ sở hữu hoàn toàn có toàn quyền khai thác
công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức của tài sản theo cách thức và mục đích sử dụng
tài sản theo ý chí của mình: sử dụng hoặc không sử dụng tài sản, trực tiếp khai
thác công dụng tự nhiên của tài sản hoặc để cho người khác sử dụng thông qua
các giao dịch dân sự như hợp đồng cho thuê, cho mượn. Tuy nhiên, trong mọi
trường hợp, việc sử dụng tài sản phải trên nguyên tắc không được làm ảnh hưởng
đến lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của người
khác. Thông thường, chủ sở hữu là người có quyền sử dụng tài sản nhưng pháp
luật cũng ghi nhận ba trường hợp người không phải chủ sở hữu cũng có quyền sử
dụng tài sản.
Trường hợp thứ nhất, người được chủ sở hữu chuyển giao quyền sử dụng
tài sản thông qua hợp đồng. Trong trường hợp này, người sử dụng được quyền
khai thác tài sản theo cách thức và thời hạn đã được thoả thuận với chủ sở hữu.
Trường hợp thứ hai, người chiếm hữu tài sản không có căn cứ pháp luật
nhưng ngay tình cũng có quyền khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài
sản. Vì vậy, người này chỉ phải hoàn trả hoa lợi, lợi tức thu được từ thời điểm họ
biết hoặc buộc phải biết việc chiếm hữu tài sản là không có căn cứ pháp luật16
Trường hợp thứ ba, cơ quan hay tổ chức nào đó cũng có quyền sử dụng tài
sản của người khác trên cơ sở một văn bản của cơ quan nhà nước có thẩm quyền
hoặc sử dụng tài sản trong tình thế cấp thiết phù hợp với qui định của pháp luật.
1.2.2.3 Quyền định đoạt
Điều 195 Bộ luật Dân sự 2005 định rõ: Quyền định đoạt là quyền chuyển
giao quyền sở hữu tài sản hoặc từ bỏ quyền sở hữu tài sản đó. Việc định đoạt tài
sản có thể định đoạt số phận thực tế của các vật, làm chấm dứt sự tồn tại vật chất
của tài sản, như huỷ bỏ, tiêu dùng hết hoặc từ bỏ quyền sở hữu đối với vật, hoặc
bằng hành vi pháp lý (bán, trao đổi, tặng cho, cho vay, để thừa kế, góp vốn vào
16
BLDS 2005, điều 194 khoản 2
Đề tài: Quyền sở hữu tài sản của người nước ngoài tại Việt Nam
GVHD: Th.S Diệp Ngọc Dũng 21 SVTH: Lê Thị Diễm Trinh
công ty…). người không phải là chủ sở hữu chỉ có quyền định đoạt tài sản của
người khác trong trường hợp được chủ sở hữu uỷ quyền hoặc trong những trường
hợp đặc biệt do pháp luật quy định (việc trưng mua, trưng thu tài sản theo quyết
định của Nhà nước). Việc thực hiện quyền định đoạt đối với tài sản sẽ làm chấm
dứt hoặc thay đổi các quan hệ pháp luật liên quan đến tài sản đó.
Về nguyên tắc, chủ sở hữu có toàn quyền định đoạt số phận thực tế hay số
phận pháp lý tài sản của mình. Tuy nhiên, trong một số trường hợp nhằm bảo
đảm hài hoà giữa lợi ích của chủ sở hữu và lợi ích của Nhà nước, lợi ích công
cộng hoặc lợi ích của người khác, quyền định đoạt có thể bị hạn chế theo những
điều kiện cụ thể do pháp luật quy định. Được thể hiện trong một số trường hợp
sau:
- Khi tài sản đem bán là cổ vật, là di tích lịch sử, văn hoá thì Nhà nước có
quyền ưu tiên mua;
- Trong trường hợp tổ chức, cá nhân có quyền ưu tiên mua một tài sản theo
quy định của pháp luật thì khi bán tài sản, chủ sở hữu phải dành quyền ưu tiên
mua cho các tổ chức, cá nhân đó.
Ví dụ: Thành viên của công ty trách nhiệm hữu hạn chỉ có thể chuyển
nhượng phần vốn góp của mình cho người ngoài nếu các thành viên khác của
công ty không mua hoặc mua không hết17.
Hay, bán nhà ở đang cho thuê thì bên
thuê được quyền ưu tiên mua trước18
.
- Trong trường hợp pháp luật có quy định trình tự, thủ tục định đoạt tài sản
thì phải tuân theo trình tự, thủ tục đó. Điều 450 Bộ luật Dân sự 2005 quy định
hợp đồng mua bán nhà ở phải được lập thành văn bản, có công chứng hoặc
chứng thực trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Như vậy, nếu A bán nhà
cho B nhưng hợp đồng không được công chứng thì hợp đồng này có nguy cơ bị
xem là vô hiệu (Điều 122, 124 và 127 Bộ luật Dân sự 2005).
- Có những trường hợp tuy không phải là chủ sở hữu, cũng không được chủ
sở hữu uỷ quyền, nhưng theo qui định của pháp luật những người có thẩm quyền
vẫn có quyền định đoạt tài sản. (Trung tâm bán đấu giá tài sản theo qui định của
pháp luật; hiệu cầm đồ được quyền bán tài sản, nếu hết thời hạn đã thoả thuận mà
người vay không trả được tiền vay…)19
.
Tóm lại, cả ba quyền năng cụ thể tạo thành một thể thống nhất trong nội
dung của quyền sở hữu, chúng có liên hệ mật thiết với nhau nhưng mỗi quyền
17
Luật doanh nghiệp 2005, điều 43
18
Luật Nhà ở 2005, điều 94
19
Trần Thị Huệ, Quyền sở hữu và quyền năng của chủ sở hữu, Khoa luật, Trường đại học Hà Nội, 2008
Đề tài: Quyền sở hữu tài sản của người nước ngoài tại Việt Nam
GVHD: Th.S Diệp Ngọc Dũng 22 SVTH: Lê Thị Diễm Trinh
năng lại mang một ý nghĩa khác nhau. Cụ thể quyền chiếm hữu là một tiền đề
quan trọng cho hai quyền kia nhưng quyền sử dụng lại có một ý nghĩa thực tiễn
thiết thực, vì chỉ có thông qua quyền năng này chủ sở hữu mới khai thác được lợi
ích, công dụng của vật để thỏa mãn nhu cầu cho mình, còn quyền định đoạt lại
xác định ý nghĩa pháp lý quan trọng nhất của chủ sở hữu. Từ đó cho chúng ta
khẳng định một cách chắc chắn rằng chỉ khi nào có đầy đủ cả ba quyền này trên
một tài sản thì chủ thể mới trở thành chủ sở hữu tài sản đó được. Và cũng có
nghĩa là người nước ngoài được quyền sở hữu tài sản nào ở Việt Nam thì họ cũng
có đầy đủ ba quyền quyền chiếm hữu quyền sử dụng quyền định đoạt đối với tài
sản đó.
Như chúng ta đã biết, mỗi quốc gia trên thế giới đều xây dựng một hệ
thống pháp luật cho riêng mình và các hệ thống pháp luật đó khác nhau tùy theo
mỗi nước quy định như thế nào, đôi khi lại trái ngược nhau. Khi đó sẽ có hiện
tượng, một hay nhiều hệ thống pháp luật đồng thời đều có thể áp dụng để điều
chỉnh một quan hệ pháp luật. Điều này trong tư pháp quốc tế người ta gọi đó là
hiện tượng xung đột pháp luật. Điều đương nhiên là hiện tượng xung đột pháp
luật cũng xảy ra đối với những quy định về quyền sở hữu. Khi đó pháp luật của
các nước sẽ giải quyết vấn đề này như thế nào?
1.2.3 Giải quyết xung đột pháp luật về quyền sở hữu
Tìm hiểu cách giải quyết xung đột pháp luật về quyền sở hữu của các
nước giúp ta biết được điểm chung và điểm riêng của các nước để so sánh với
pháp luật Việt Nam. Từ đó trong quan hệ tư pháp quốc tế ta có những cách giải
quyết xung đột về quyền sở hữu một cách linh hoạt hơn. Cũng như việc tìm hiểu
cách giải quyết xung đột pháp luật về quyền sở hữu theo pháp luật Việt Nam sẽ
giúp người nước ngoài nắm bắt được quy định của pháp luật Việt Nam về vấn đề
này. Việc giải quyết xung đột pháp luật về quyền sở hữu không đi sâu phân tích
hay nghiên cứu về nội dung quyền sở hữu trong pháp luật của từng quốc gia mà
chủ yếu cho chúng ta biết nguyên tắc chung xác định quyền sở hữu của các nước.
Từ đó, hướng dẫn ta chọn luật để áp dụng cho phù hợp với từng quan hệ.
1.2.3.1 Giải quyết theo pháp luật các nước20
Từ lâu vấn đề thể thức giải quyết xung đột pháp luật trong lĩnh vực quyền
sở hữu đã trở thành một nội dung quan trọng của khoa học tư pháp quốc tế. Mặc
dù còn tồn tại nhiều sự khác biệt, nhưng pháp luật của đa số các nước hiện nay
trên thế giới đều thống nhất áp dụng một nguyên tắc chung nhằm giải quyết xung
20
Giáo trình luật tư pháp quốc tế, đại học luật quốc gia Hà Nội, trang 119
Đề tài: Quyền sở hữu tài sản của người nước ngoài tại Việt Nam
GVHD: Th.S Diệp Ngọc Dũng 23 SVTH: Lê Thị Diễm Trinh
đột pháp luật về quyền sở hữu là áp dụng pháp luật nơi có tài sản. Phần lớn pháp
luật của các nước châu Âu lục địa như Bỉ, Hà Lan, Italia, Đức, Thụy Sĩ, Pháp,
Hunggari, Ba Lan, Liên bang Nga, Hy Lạp… và Pháp luật Anh–Mỹ cũng như
pháp luật của Australia, Nhật Bản, Việt Nam… đều áp dụng nguyên tắc này. Chỉ
có một số ít hệ thống pháp luật như Áo, Tây Ban Nha, Achentina, Braxin và Ai
Cập là còn giữ cách thức giải quyết xung đột pháp luật về quyền sở hữu đã tồn tại
từ trước thế kỉ XIX: Đối với bất động sản thì áp dụng hệ thuộc luật nơi có tài sản
còn đối với động sản thì áp dụng luật nhân thân của người có tài sản.
Luật nơi có tài sản không những qui định nội dung của quyền sở hữu mà
còn ấn định cả các điều kiện phát sinh, chấm dứt và chuyển dịch quyền sở hữu.
Nội dung này đã được qui định trong pháp luật của nhiều nước.
Theo khoản 1 điều 24 luật về tư pháp quốc tế của Ba Lan thì “quyền sở hữu
và các quyền tài sản chịu sự điều chỉnh của pháp luật nước nơi có tài sản”.
Khoản 2 điều 24 của luật này chỉ rõ: “Sự phát sinh và chấm dứt quyền sở hữu
cũng như sự phát sinh, chuyển dịch hoặc chấm dứt các quyền tài sản chịu sự điều
chỉnh của pháp luật nơi có tài sản vào thời điểm xảy ra sự kiện làm phát sinh các
hậu quả pháp lí trên”.
Pháp luật nơi có tài sản giữ vai trò nhất định trong việc xác định quyền sở
hữu đối với tài sản đang trên đường vận chuyển hay còn gọi là tài sản quá cảnh
qua nhiều quốc gia. Việc xác định quyền sở hữu đối với tài sản đang trên đường
vận chuyển là một vấn đề phức tạp đã và đang được tư pháp quốc tế của các
nước quan tâm giải quyết. Theo pháp luật các nước hiện nay, quyền sở hữu cũng
như các quyền tài sản đối với tài sản đang trên đường vận chuyển sẽ được điều
chỉnh bởi một trong các hệ thống pháp luật sau đây:
 Pháp luật nơi gửi tài sản đi.
 Pháp luật nước nơi nhận tài sản.
 Pháp luật nước mà phương tiện vận tải mang quốc tịch (trong lĩnh vực
giao thông vận tải bằng tàu biển hoặc máy bay);
 Pháp luật của nước nơi có trụ sở của tòa án có thẩm quyền giải quyết tranh
chấp.
 Pháp luật của nước nơi hiện đang có tài sản
 Pháp luật của nước do các bên lựa chọn hoặc pháp luật của nước nơi gửi
tài sản đi hoặc là pháp luật của nơi nhận hoặc pháp luật của nước nơi hiện đang
có tài sản…
Để xác định quyền sở hữu đối với tài sản đang trên đường vận chuyển, cần
thiết phải hiểu đúng khái niệm quá cảnh. Thuật ngữ quá cảnh thông thường được
Đề tài: Quyền sở hữu tài sản của người nước ngoài tại Việt Nam
GVHD: Th.S Diệp Ngọc Dũng 24 SVTH: Lê Thị Diễm Trinh
hiểu là việc vận chuyển tài sản hoặc hành khách đi qua lãnh thổ của một hay
nhiều nước nào đó để đến nước thứ ba hoặc ít nhất cũng phải đi qua vùng biển
quốc tế. Như vậy, việc vận chuyển tài sản (hàng hóa) từ lãnh thổ quốc gia này,
sang quốc gia kia có cùng chung đường biên giới quốc gia sẽ không được coi là
quá cảnh.
Để bảo vệ quyền lợi của người chiếm hữu không có căn cứ pháp luật
nhưng ngay tình trước yêu cầu đòi lại tài sản từ phía người chủ sở hữu chúng,
pháp luật các nước thường áp dụng pháp luật của nước hiện đang có tài sản hoặc
pháp luật của nước nơi có tài sản vào thời điểm chiếm hữu. Pháp luật Cộng hòa
liên bang Đức, cộng hòa liên bang Nga áp dụng nguyên tắc pháp luật của nước
nơi có tài sản để bảo vệ người chiếm hữu không có căn cứ pháp luật nhưng ngay
tình
Các phạm trù “động sản” và “bất động sản” không phải được hiểu một
cách thống nhất trong các hệ thống pháp luật hiện nay trên thế giới. Do đó,
thường phát sinh xung đột pháp luật về định danh tài sản. Việc xác định tài sản là
động sản hay bất động sản là tiền đề cho việc giải quyết xung đột pháp luật về
quyền sở hữu có yếu tố nước ngoài. Bởi vậy, pháp luật của đa số các nước dựa
trên các đạo luật trong nước và các điều ước quốc tế (các hiệp định tương trợ tư
pháp) thường ghi nhận nguyên tắc áp dụng pháp luật nơi nơi có tài sản để giải
quyết xung đột pháp luật về định danh.
Nguyên tắc áp dụng pháp luật của nước nơi có tài sản giữ vai trò quan
trọng trong việc giải quyết xung đột pháp luật về quyền sở hữu có yếu tố nước
ngoài. Tuy nhiên trong lĩnh vực hàng không dân dụng và lĩnh vực hàng hải
nguyên tắc pháp luật nơi có tài sản dường như không được áp dụng.
Ví dụ: + Điều 10 luật hàng không dân dụng của Ba Lan năm 1962 quy định:
“Các quyền sở hữu đối với tàu bay cũng như đối với tài sản trên tàu bay được
điều chỉnh bởi pháp luật của nước nơi tàu bay đăng kí”
+ Điều 7 Bộ luật hàng hải Ba Lan ghi nhận: “Quyền sở hữu đối với tài
sản toàn tàu biển sẽ do pháp luật của nước mà tàu mang cờ”21
.
1.2.3.2 Giải quyết theo pháp luật Việt Nam
Trong việc giải quyết các vấn đề xung đột pháp luật về quyền sở hữu,
pháp luật của nhiều nước và thực tiễn pháp luật quốc tế thường vận dụng hệ
thống luật nơi có vật. Luật nơi có vật không những qui định nội dung quyền sở
hữu mà còn ấn định điều kiện phát sinh, chấm dứt và chuyển dịch quyền sở hữu.
21
Giáo trình luật tư pháp quốc tế, đại học luật quốc gia Hà Nội, trang 125
Đề tài: Quyền sở hữu tài sản của người nước ngoài tại Việt Nam
GVHD: Th.S Diệp Ngọc Dũng 25 SVTH: Lê Thị Diễm Trinh
Nội dung này được ấn định trong pháp luật nhiều nước. Tuy nhiên có sự khác
nhau về mức độ vận dụng. Có nước áp dụng hệ thuộc này ở mức độ như nhau đối
với động sản cũng như bất động sản, có nước áp dụng chủ yếu đối với bất động
sản.
Khoản 1 điều 766 BLDS 2005 qui định “Việc xác lập, thực hiện, thay đổi,
chấm dứt quyền sở hữu tài sản, nội dung quyền sở hữu đối với tài sản được xác
định theo pháp luật của nước nơi có tài sản đó”. Như vậy, quyền sở hữu đối với
tài sản sẽ do luật nơi có tài sản điều chỉnh bất luận đối tượng của quyền sở hữu là
động sản hay bất động sản.
Trong khoa học tư pháp quốc tế, một nguyên tắc chung được đặt ra là: nếu
quyền sở hữu đối với tài sản là động sản được phát sinh trên cơ sở pháp luật của
một nước này, nhưng khi tài sản được dịch chuyển sang một nước thứ hai, thì
quyền sở hữu của chủ sở hữu cũng được pháp luật của nước thứ hai bảo vệ (nếu
nó phù hợp với pháp luật của nước thứ hai đó)22
. Và pháp luật Việt Nam cũng
phù hợp với nguyên tắc chung này.
Ví dụ 1: Một công dân A mua một chiếc xe máy của một công dân
Singapore tại Singapore. Sau đó công dân đó mang xe máy về Việt Nam. Tại
Việt Nam công dân A cũng được pháp luật Việt Nam bảo vệ quyền sở hữu đối
với chiếc xe máy nếu công dân A đó khi về Việt Nam có đăng kí quyền sở hữu
chiếc xe tại Việt Nam.
Ví dụ 2: Một công dân Việt Nam du học tại Mỹ, anh ta có mua 1 khẩu
súng. Quyền sở hữu súng của anh ta chỉ được bảo vệ tại Mỹ anh ta không được
phép mang khẩu súng về Việt Nam, vì pháp luật Việt Nam không cho phép 1
công dân bình thường được sở hữu súng.
Ngoại lệ của nguyên tắc nơi có vật nêu trên là những trường hợp mà pháp
luật Việt Nam có qui định khác. Chẳng hạn, ngay tại khoản 2 điều 766 BLDS
2005 đề cập đến vấn đề lựa chọn pháp luật để điều chỉnh các quan hệ về quyền
sở hữu đối với tài sản là động sản trên đường vận chuyển quốc tế. Động sản đang
đi trên đường được xác định theo pháp luật của nước nơi động sản chuyển đến.
Tuy nhiên, theo qui định này nguyên tắc ý chí của các bên là chủ đạo, trong các
trường hợp các bên không lựa chọn mới áp dụng pháp luật nơi nhận hàng. Vậy,
pháp luật Việt Nam áp dụng hệ thuộc pháp luật của nước nơi tài sản được chuyển
đến hoặc hệ thuộc luật lựa chọn.
22
Giáo trình luật tư pháp quốc tế, đại học luật quốc gia Hà Nội, trang 121
Đề tài: Quyền sở hữu tài sản của người nước ngoài tại Việt Nam
GVHD: Th.S Diệp Ngọc Dũng 26 SVTH: Lê Thị Diễm Trinh
Khoản 2 điều 766 qui định: “Quyền sở hữu đối với động sản trên đường
vận chuyển được xác định theo pháp luật của nước nơi động sản được chuyển
đến, nếu không có thỏa thuận khác”. Nguyên tắc áp dụng pháp luật của nước nơi
có tài sản để giải quyết xung đột pháp luật về định danh đã được ghi nhận trong
các hiệp định tương trợ tư pháp giữa Việt Nam với Cuba, với Hunggari, với
Bungari…
Khoản 3 điều 766 BLDS qui định “việc phân định tài sản là động sản
hoặc bất động sản được xác định theo pháp luật của nước nơi có tài sản”. Theo
đó, nguyên tắc nơi có tài sản là nguyên tắc lựa chọn pháp luật để xác định vấn đề
trên. Bởi vậy, nếu tài sản ở nước ngoài thì chúng ta cũng căn cứ vào pháp luật
nơi đó để xác định. Ví dụ, một tài sản đang ở nước ngoài, theo pháp luật của
nước mà tài sản đó đang tồn tại xác định đó là một bất động sản song theo pháp
luật Việt Nam là động sản thì khi chúng ta giải quyết thì chúng ta phải xem xét
nó là bất động sản.
Vấn đề phân biệt động sản hay bất động sản có ý nghĩa rất quan trọng. Ví
dụ, nếu nội dung của hợp đồng về chuyển giao động sản có thể được xác định
theo thỏa thuận của các bên, trong khi đó nội dung hợp đồng về chuyển giao bất
động sản lại thường được xác định theo pháp luật nơi có tài sản. Hay thừa kế theo
luật đối với động sản ở nhiều quốc gia theo nguyên tắc nơi cư trú cuối cùng của
người để lại di sản, trong khi đó vấn đề như vậy đối với bất động sản lại áp dụng
nguyên tắc nơi có tài sản.
Ngoài ra, quyền sở hữu đối với những tài sản đặc thù như máy bay, tàu
biển cũng được qui định như một trường hợp ngoại lệ. Tại khoản 4 điều 766
BLDS 2005 qui định: “Việc xác định quyền sở hữu đối với tàu bay dân dụng và
tàu biển tại Việt Nam phải tuân theo pháp luật về hàng không dân dụng và pháp
luật về hàng hải của Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”.
Như vậy đối với các quan hệ sở hữu và các quan hệ tài sản trong lĩnh vực
hàng không dân dụng và hàng hải quốc tế, hệ thuộc pháp luật của nước nơi có tài
sản không được áp dụng chủ yếu mà chủ yếu là áp dụng các hệ thuộc luật mà các
phương tiện mang cờ hoặc hệ thuộc luật nơi kí kết hợp đồng. Hệ thuộc pháp luật
của nơi có tài sản cũng không được áp dụng để điều chỉnh các quan hệ sở hữu
phát sinh trong một số lĩnh vực như:
 Các quan hệ sở hữu đối với các đối tượng của sở hữu trí tuệ;
 Các quan hệ về tài sản của pháp nhân nước ngoài khi pháp nhân đó
bị giải thể;
Đề tài: Quyền sở hữu tài sản của người nước ngoài tại Việt Nam
GVHD: Th.S Diệp Ngọc Dũng 27 SVTH: Lê Thị Diễm Trinh
 Các quan hệ về tài sản liên quan đến các tài sản của quốc gia đang
ở nước ngoài
 Các quan hệ tài sản liên quan đến các đối tượng của các đạo luật về
quốc hữu hóa23
.
Như vậy, pháp luật Việt Nam giải quyết xung đột pháp luật về quyền sở
hữu dựa trên nguyên tắc chung của đa số các nước. Ngoại trừ những trường hợp
ngoại lệ ra thì việc xác lập, thay đổi, chấm dứt quyền sở hữu tài sản, nội dung
quyền sở hữu đối với tài sản được xác định theo pháp luật của nước nơi có tài
sản. Theo đó thì việc xác lập, thay đổi, chấm dứt quyền sở hữu tài sản, nội dung
quyền sở hữu tài sản tại Việt Nam sẽ được xác định theo pháp luật Việt Nam.
Vậy pháp luật Việt Nam quy định về quyền sở hữu tài sản của người nước ngoài
tại Việt Nam như thế nào?
23
Giáo trình luật tư pháp quốc tế, đại học luật quốc gia Hà Nội, trang 125
Đề tài: Quyền sở hữu tài sản của người nước ngoài tại Việt Nam
GVHD: Th.S Diệp Ngọc Dũng 28 SVTH: Lê Thị Diễm Trinh
Chương 2
PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ QUYỀN SỞ HỮU TÀI SẢN
CỦA NGƯỜI NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM
Người nước ngoài được quyền sở hữu đối với một tài sản có nghĩa là họ
được quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản đó. Tuy nhiên, họ được
quyền sở hữu những loại tài sản nào tại Việt Nam đều do pháp luật Việt Nam quy
định. Ngoài ra, đối với từng loại người nước ngoài mà pháp luật Việt Nam xây
dựng cho họ những quy chế riêng. Vậy, người nước ngoài được hiểu như thế
nào?
Trong lịch sử của bất kì một quốc gia nào, ngoài những người được gọi là
công dân của quốc gia đó bao giờ cũng có một số lượng nhất định những người
không phải là công dân của nước sở tại. Những người này trong khoa học pháp lí
người ta gọi họ là “người nước ngoài”.
Như vậy, người nước ngoài, được hiểu một cách đơn giản nhất, là người
không phải là công dân của quốc gia sở tại. Thuật ngữ người nước ngoài được
hiểu rất rộng bao gồm người nước ngoài một quốc tịch nước ngoài, người nước
ngoài mang nhiều quốc tịch nước ngoài hay người không mang một quốc tịch
của một quốc gia nào.
Ngày nay, thuật ngữ người nước ngoài được sử dụng rộng rãi ở tất cả các
nước không chỉ trong sách báo mà cả trong văn bản pháp luật lẫn trong giao tiếp
hàng ngày của mọi người. Tuy nhiên, quan niệm về người nước ngoài ở mỗi
nước, mỗi thời kì không phải trong mọi trường hợp đều giống nhau. Chẳng hạn,
đối với Bungari: “người nước ngoài là những người không có quốc tịch
Bungari”. Ở Liên Xô cũ quan niệm rằng: “người nước ngoài là công dân nước
ngoài trên lãnh thổ Liên Xô”, từ khi Hiến pháp Liên Xô được ban hành 1977 thì
quan niệm người nước ngoài đã được thay đổi khi đó người nước ngoài bao gồm
cả công dân nước ngoài và người không có quốc tịch. Ở Việt Nam, cũng có rất
nhiều văn bản khái niệm người nước ngoài như: Quyết định số 122/CP ngày
25/4/1977 của Hội đồng chính phủ về chính sách đối với người nước ngoài cư trú
và làm ăn sinh sống ở Việt Nam đã khái niệm người nước ngoài bao gồm những
người có quốc tịch nước ngoài và những người không có quốc tịch. Tuy nhiên,
Quyết định này chỉ áp dụng đối với những người nước ngoài cư trú và làm ăn
sinh sống ở Việt Nam hay còn gọi là người nước ngoài định cư ở Việt Nam.
Đề tài: Quyền sở hữu tài sản của người nước ngoài tại Việt Nam
GVHD: Th.S Diệp Ngọc Dũng 29 SVTH: Lê Thị Diễm Trinh
Trong các văn bản pháp luật khác của nước ta, khái niệm người nước
ngoài được hiểu chung hơn, cũng bao gồm người có quốc tịch nước ngoài và
người không có quốc tịch, nhưng bất kể nơi cư trú. Ví dụ, khoản 1 điều 1 của
Pháp lệnh xuất cảnh nhập cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam năm
2000 qui định “Trong pháp lệnh này, người nước ngoài được hiểu là người
không có quốc tịch Việt Nam” hay trong khoản 6 điều 2 của luật quốc tịch Việt
Nam năm 1998 quy định người nước ngoài thường trú tại Việt Nam là người có
quốc tịch nước ngoài và người không có quốc tịch cư trú làm ăn sinh sống lâu dài
ở Việt Nam24
.
Như vậy, quan niệm về người nước ngoài của mỗi nước được xây dựng
trên tiêu chí quốc tịch hoặc nơi cư trú hay cả 2 tiêu chí quốc tịch và nơi cư trú…
Đối với nước ta các văn bản pháp luật hiện hành không gắn khái niệm người
nước ngoài với nơi cư trú của họ bởi vì tiêu chí để xác định một cá nhân là người
nước ngoài đối với Việt Nam không phải là nơi cư trú mà là có quốc tịch hay
không có quốc tịch Việt Nam. Hay nói khác hơn, người nước ngoài theo quan
niệm của Việt Nam là người có quốc tịch nước ngoài và người không có quốc
tịch.
Thật ra quan niệm về người nước ngoài được hiểu theo 2 nghĩa25
:
- Theo nghĩa hẹp thì người nước ngoài là một thể nhân nước ngoài, tức là
một cá nhân nước ngoài, các nhân này có thể có một quốc tịch nước ngoài hoặc
hai quốc tịch nước ngoài hoặc không có quốc tịch nào.
- Theo nghĩa rộng thì người nước ngoài không chỉ là một thể nhân nước
ngoài mà nó còn bao gồm cả pháp nhân nước ngoài và cũng có thể là một quốc
gia nước ngoài trong trường hợp quốc gia đó tham gia vào mối quan hệ dân sự
trong tư pháp quốc tế.
Tuy nhiên theo quan niệm của Việt Nam, người nước ngoài là khái niệm
dùng để chỉ cá nhân có quốc tịch nước ngoài hoặc cá nhân không có quốc tịch
nước ngoài chứ không chỉ các pháp nhân và nhà nước. Quy chế pháp lí dân sự
của các cá nhân nước ngoài và của pháp nhân nước ngoài rất khác nhau. Quy chế
pháp lí dân sự của cá nhân nước ngoài và của nhà nước nước ngoài trong các mối
quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài lại càng xa nhau. Trong lĩnh vực này, Nhà
nước nước ngoài được hưởng quyền miễn trừ tư pháp tuyệt đối; cá nhân, pháp
nhân không được hưởng quyền miễn trừ này. Nếu xếp cá nhân và cả pháp nhân
ngang hàng với nhà nước nước ngoài trong các quan hệ dân sự có yếu tố nước
24
Đoàn Năng, một số vấn đề lí luận cơ bản về tư pháp quốc tế, nxb chính trị quốc gia, 2001, trang 107
25
Diệp Ngọc Dũng_Cao Nhất Linh, Giáo trình tư pháp quốc tế_Trường đại học Cần Thơ, 2002
Đề tài: Quyền sở hữu tài sản của người nước ngoài tại Việt Nam
GVHD: Th.S Diệp Ngọc Dũng 30 SVTH: Lê Thị Diễm Trinh
ngoài thì sẽ dẫn đến sai lầm nghiêm trọng về lí luận và phải hứng chịu hậu quả
tai hại của sự chà đạp chủ quyền quốc gia26
.
Chính vì khái niệm người nước ngoài có nội dung pháp lí rất rộng. Và để
nâng cao hiệu quả quản lí nhà nước đối với người nước ngoài nhằm đảm bảo lợi
ích quốc gia cũng như quyền và nghĩa vụ hợp pháp của người nước ngoài trên cơ
sở các văn bản pháp luật của nhà nước và các điều ước quốc tế chúng ta có thể
phân loại người nước ngoài thành các nhóm cơ bản sau:
 Căn cứ vào quan hệ quốc tịch người nước ngoài được chia thành
người có quốc tịch nước ngoài và người không có quốc tịch
 Căn cứ vào nơi cư trú, người nước ngoài được chia thành người cư
trú trên lãnh thổ Việt Nam và người cư trú ở ngoài lãnh thổ Việt Nam.
 Căn cứ vào tính chất của nội dung qui chế pháp lí, người nước
ngoài được chia thành loại người được hưởng qui chế pháp lí đặc biệt và loại
không được hưởng các chế độ pháp lí đặc biệt này27
.
Việc dựa vào mỗi tiêu chí để phân loại người nước ngoài đều có ý nghĩa
riêng, mỗi loại người nước ngoài khác nhau, ở một giới hạn nào đó, qui chế pháp
lí của họ có những điểm giống và khác nhau. Tuy nhiên, trong đề tài quyền sở
hữu tài sản của người nước ngoài tại Việt Nam, thuật ngữ người nước ngoài dùng
để chỉ nhà đầu tư nước ngoài và người nước ngoài đang làm ăn cư trú tại Việt
Nam. Và quyền sở hữu của họ được nghiên cứu trên tài sản là động sản và bất
động sản.
2.1 QUYỀN SỞ HỮU TÀI SẢN LÀ ĐỘNG SẢN CỦA NGƯỜI NƯỚC
NGOÀI TẠI VIỆT NAM
Cũng như đã phân tích ở chương 1 về các loại tài sản, thì tài sản được
phân loại dựa trên nhiều tiêu chí khác nhau. Tuy nhiên, tác giả cho rằng việc
phân loại thành động sản và bất động sản là phù hợp hơn cả, nó có thể bao quát
hết tất cả tài sản. Nghĩa là một tài sản, nếu không là bất động sản thì cũng là động
sản. Chính sự phù hợp của cách phân loại này mà trong tư pháp quốc tế người ta
cũng dựa vào cách phân loại tài sản thành động sản và bất động sản để định danh
tài sản. Bởi việc định danh tài sản là rất quan trọng đối với việc xác định luật áp
dụng trong các quan hệ tư pháp quốc tế cụ thể, hay nói khác hơn là trong việc
giải quyết các tranh chấp về tài sản trong tư pháp quốc tế. Thực ra thì cách phân
loại này nó bao hàm cả các cách phân loại khác như: hoa lợi, lợi tức hay vật
26
Đoàn Năng, một số vấn đề lí luận cơ bản về tư pháp quốc tế, nxb chính trị quốc gia, 2001, trang 109
27
Đoàn Năng, một số vấn đề lí luận cơ bản về tư pháp quốc tế, nxb chính trị quốc gia, 2001, trang 110-
112
Đề tài: Quyền sở hữu tài sản của người nước ngoài tại Việt Nam
GVHD: Th.S Diệp Ngọc Dũng 31 SVTH: Lê Thị Diễm Trinh
chính vật phụ hay vật tiêu hao… là những động sản; Vật chính hoặc vật không
tiêu hao cũng có thể là bất động sản nhưng cũng có thể là động sản. Và cũng
chính những lí do đó mà tác giả quyết định nghiên cứu quyền sở hữu tài sản của
người nước ngoài tại Việt Nam dựa trên tiêu chí tài sản là động sản hay bất động
sản.
Từ trước cho đến nay, pháp luật Việt Nam chưa có một văn bản chuyên
biệt nào quy định về quyền sở hữu tài sản của người nước ngoài tại Việt Nam,
cũng như những quy định về quyền sở hữu của người nước ngoài cũng không có
một điều luật nào quy định rõ rằng họ được quyền sở hữu những động sản nào và
bất động sản nào mà quyền sở hữu tài sản của họ chỉ được hiểu qua những quy
định chung mà thôi.
Giai đoạn trước khi có bộ luật dân sự 1995
Trước đây, khi BLDS 1995 chưa được ban hành thì pháp luật Việt Nam
chưa có qui định chung và đầy đủ về quyền sở hữu tài sản của người nước ngoài.
Các qui định về vấn đề này nằm rải rác ở rất nhiều văn bản khác nhau. Ví dụ,
theo điều 7 Quyết định số 122/CP ngày 25/4/1977 của Hội đồng chính phủ về
chính sách đối với người nước ngoài cư trú làm ăn sinh sống tại Việt Nam (chúng
ta gọi là người nước ngoài định cư tại Việt Nam) được hưởng quyền sở hữu cá
nhân về thu nhập hợp pháp, về tư liệu sinh hoạt và những công cụ sản xuất nhất
định theo pháp luật Việt Nam
Ngoài ra, để mở rộng hợp tác kinh tế với người nước ngoài đẩy mạnh xuất
nhập khẩu, phát triển kinh tế trên cơ sở khai thác có hiệu quả tài nguyên lao động
và các tiềm năng khác của đất nước. Điều 25 Hiến Pháp năm 1992, điều 1 và
điều 21 luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1987 đã khẳng định việc thừa
nhận và bảo vệ quyền sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài đối với vốn đầu tư do họ
đưa vào Việt Nam, đối với các quyền về tài sản và các quyền lợi khác của họ khi
các quyền đó hình thành trên cơ sở pháp luật Việt Nam. Với tinh thần của Hiến
pháp và của luật đầu tư nước ngoài, nhà đầu tư nước ngoài đương nhiên có quyền
sở hữu đối với động sản là những tài sản mà họ đưa vào Việt Nam một cách hợp
pháp để đầu tư hay động sản mà họ thu nhận được một cách hợp pháp từ hoạt
động đầu tư hoặc từ nguồn hợp pháp khác28
.
Điều 25 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam qui định:
“Nhà nước khuyến khích các tổ chức, cá nhân nước ngoài đầu tư vốn, công nghệ
vào Việt Nam phù hợp với pháp luật Việt Nam, pháp luật và thông lệ quốc tế;
28
Đoàn Năng, một số vấn đề lí luận cơ bản về tư pháp quốc tế, nxb chính trị quốc gia, 2001, trang 137,
138
Quyền Sở Hữu Tài Sản Của Người Nước Ngoài Tại Việt Nam
Quyền Sở Hữu Tài Sản Của Người Nước Ngoài Tại Việt Nam
Quyền Sở Hữu Tài Sản Của Người Nước Ngoài Tại Việt Nam
Quyền Sở Hữu Tài Sản Của Người Nước Ngoài Tại Việt Nam
Quyền Sở Hữu Tài Sản Của Người Nước Ngoài Tại Việt Nam
Quyền Sở Hữu Tài Sản Của Người Nước Ngoài Tại Việt Nam
Quyền Sở Hữu Tài Sản Của Người Nước Ngoài Tại Việt Nam
Quyền Sở Hữu Tài Sản Của Người Nước Ngoài Tại Việt Nam
Quyền Sở Hữu Tài Sản Của Người Nước Ngoài Tại Việt Nam
Quyền Sở Hữu Tài Sản Của Người Nước Ngoài Tại Việt Nam
Quyền Sở Hữu Tài Sản Của Người Nước Ngoài Tại Việt Nam
Quyền Sở Hữu Tài Sản Của Người Nước Ngoài Tại Việt Nam
Quyền Sở Hữu Tài Sản Của Người Nước Ngoài Tại Việt Nam
Quyền Sở Hữu Tài Sản Của Người Nước Ngoài Tại Việt Nam
Quyền Sở Hữu Tài Sản Của Người Nước Ngoài Tại Việt Nam
Quyền Sở Hữu Tài Sản Của Người Nước Ngoài Tại Việt Nam
Quyền Sở Hữu Tài Sản Của Người Nước Ngoài Tại Việt Nam
Quyền Sở Hữu Tài Sản Của Người Nước Ngoài Tại Việt Nam
Quyền Sở Hữu Tài Sản Của Người Nước Ngoài Tại Việt Nam
Quyền Sở Hữu Tài Sản Của Người Nước Ngoài Tại Việt Nam
Quyền Sở Hữu Tài Sản Của Người Nước Ngoài Tại Việt Nam
Quyền Sở Hữu Tài Sản Của Người Nước Ngoài Tại Việt Nam
Quyền Sở Hữu Tài Sản Của Người Nước Ngoài Tại Việt Nam
Quyền Sở Hữu Tài Sản Của Người Nước Ngoài Tại Việt Nam
Quyền Sở Hữu Tài Sản Của Người Nước Ngoài Tại Việt Nam
Quyền Sở Hữu Tài Sản Của Người Nước Ngoài Tại Việt Nam
Quyền Sở Hữu Tài Sản Của Người Nước Ngoài Tại Việt Nam
Quyền Sở Hữu Tài Sản Của Người Nước Ngoài Tại Việt Nam
Quyền Sở Hữu Tài Sản Của Người Nước Ngoài Tại Việt Nam
Quyền Sở Hữu Tài Sản Của Người Nước Ngoài Tại Việt Nam
Quyền Sở Hữu Tài Sản Của Người Nước Ngoài Tại Việt Nam

More Related Content

Similar to Quyền Sở Hữu Tài Sản Của Người Nước Ngoài Tại Việt Nam

Phap luat ve thua ke
Phap luat ve thua kePhap luat ve thua ke
Phap luat ve thua keHung Nguyen
 
Luận văn: Hoàn thiện pháp luật về thừa kế ở Việt Nam hiện nay, HAY
Luận văn: Hoàn thiện pháp luật về thừa kế ở Việt Nam hiện nay, HAYLuận văn: Hoàn thiện pháp luật về thừa kế ở Việt Nam hiện nay, HAY
Luận văn: Hoàn thiện pháp luật về thừa kế ở Việt Nam hiện nay, HAYViết thuê trọn gói ZALO 0934573149
 
Quyền có quốc tịch Việt Nam của người Việt Nam ở nước ngoài - Gửi miễn phí qu...
Quyền có quốc tịch Việt Nam của người Việt Nam ở nước ngoài - Gửi miễn phí qu...Quyền có quốc tịch Việt Nam của người Việt Nam ở nước ngoài - Gửi miễn phí qu...
Quyền có quốc tịch Việt Nam của người Việt Nam ở nước ngoài - Gửi miễn phí qu...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
BÀI MẪU tiểu luận Chủ nghĩa hiến pháp và vấn đề bảo vệ quyền con người
BÀI MẪU tiểu luận Chủ nghĩa hiến pháp và vấn đề bảo vệ quyền con ngườiBÀI MẪU tiểu luận Chủ nghĩa hiến pháp và vấn đề bảo vệ quyền con người
BÀI MẪU tiểu luận Chủ nghĩa hiến pháp và vấn đề bảo vệ quyền con ngườiViết thuê báo cáo thực tập giá rẻ
 
tiểu luận .pdf
tiểu luận .pdftiểu luận .pdf
tiểu luận .pdfVVnKhi1
 

Similar to Quyền Sở Hữu Tài Sản Của Người Nước Ngoài Tại Việt Nam (20)

Tiểu Luận Môn Luật La Mã Phân Tích Khái Niệm Tài Sản Và Cách Thức Phân Loại T...
Tiểu Luận Môn Luật La Mã Phân Tích Khái Niệm Tài Sản Và Cách Thức Phân Loại T...Tiểu Luận Môn Luật La Mã Phân Tích Khái Niệm Tài Sản Và Cách Thức Phân Loại T...
Tiểu Luận Môn Luật La Mã Phân Tích Khái Niệm Tài Sản Và Cách Thức Phân Loại T...
 
Phap luat ve thua ke
Phap luat ve thua kePhap luat ve thua ke
Phap luat ve thua ke
 
Luận án: Thừa kế theo pháp luật theo Bộ luật Dân sự 2015, HAY
Luận án: Thừa kế theo pháp luật theo Bộ luật Dân sự 2015, HAYLuận án: Thừa kế theo pháp luật theo Bộ luật Dân sự 2015, HAY
Luận án: Thừa kế theo pháp luật theo Bộ luật Dân sự 2015, HAY
 
Luận văn: Hoàn thiện pháp luật về thừa kế ở Việt Nam hiện nay, HAY
Luận văn: Hoàn thiện pháp luật về thừa kế ở Việt Nam hiện nay, HAYLuận văn: Hoàn thiện pháp luật về thừa kế ở Việt Nam hiện nay, HAY
Luận văn: Hoàn thiện pháp luật về thừa kế ở Việt Nam hiện nay, HAY
 
Luận văn: Quyền của người lập di chúc theo pháp luật, HOT
Luận văn: Quyền của người lập di chúc theo pháp luật, HOTLuận văn: Quyền của người lập di chúc theo pháp luật, HOT
Luận văn: Quyền của người lập di chúc theo pháp luật, HOT
 
Luận văn: Quản lý Nhà nước về hộ tịch tỉnh An Giang, HAY, 9đ
Luận văn: Quản lý Nhà nước về hộ tịch tỉnh An Giang, HAY, 9đLuận văn: Quản lý Nhà nước về hộ tịch tỉnh An Giang, HAY, 9đ
Luận văn: Quản lý Nhà nước về hộ tịch tỉnh An Giang, HAY, 9đ
 
Luận văn: Quản lý hộ tịch - qua thực tiễn Hải Phòng, HAY
Luận văn: Quản lý hộ tịch - qua thực tiễn Hải Phòng, HAYLuận văn: Quản lý hộ tịch - qua thực tiễn Hải Phòng, HAY
Luận văn: Quản lý hộ tịch - qua thực tiễn Hải Phòng, HAY
 
Quyền có quốc tịch Việt Nam của người Việt Nam ở nước ngoài - Gửi miễn phí qu...
Quyền có quốc tịch Việt Nam của người Việt Nam ở nước ngoài - Gửi miễn phí qu...Quyền có quốc tịch Việt Nam của người Việt Nam ở nước ngoài - Gửi miễn phí qu...
Quyền có quốc tịch Việt Nam của người Việt Nam ở nước ngoài - Gửi miễn phí qu...
 
BÀI MẪU tiểu luận Chủ nghĩa hiến pháp và vấn đề bảo vệ quyền con người
BÀI MẪU tiểu luận Chủ nghĩa hiến pháp và vấn đề bảo vệ quyền con ngườiBÀI MẪU tiểu luận Chủ nghĩa hiến pháp và vấn đề bảo vệ quyền con người
BÀI MẪU tiểu luận Chủ nghĩa hiến pháp và vấn đề bảo vệ quyền con người
 
Luận văn: Trách nhiệm dân sự do xâm phạm quyền tác giả theo pháp luật
Luận văn: Trách nhiệm dân sự do xâm phạm quyền tác giả theo pháp luậtLuận văn: Trách nhiệm dân sự do xâm phạm quyền tác giả theo pháp luật
Luận văn: Trách nhiệm dân sự do xâm phạm quyền tác giả theo pháp luật
 
Luận văn: Trách nhiệm dân sự do xâm phạm quyền tác giả, HOT
Luận văn: Trách nhiệm dân sự do xâm phạm quyền tác giả, HOTLuận văn: Trách nhiệm dân sự do xâm phạm quyền tác giả, HOT
Luận văn: Trách nhiệm dân sự do xâm phạm quyền tác giả, HOT
 
Khóa Luận Quyền Của Người Đồng Tính, Song Tính Và Người Chuyển Giới.doc
Khóa Luận Quyền Của Người Đồng Tính, Song Tính Và Người Chuyển Giới.docKhóa Luận Quyền Của Người Đồng Tính, Song Tính Và Người Chuyển Giới.doc
Khóa Luận Quyền Của Người Đồng Tính, Song Tính Và Người Chuyển Giới.doc
 
Thừa Kế Theo Pháp Luật -Một Số Vấn Đề Lý Luận Và Thực Tiễn.doc
Thừa Kế Theo Pháp Luật -Một Số Vấn Đề Lý Luận Và Thực Tiễn.docThừa Kế Theo Pháp Luật -Một Số Vấn Đề Lý Luận Và Thực Tiễn.doc
Thừa Kế Theo Pháp Luật -Một Số Vấn Đề Lý Luận Và Thực Tiễn.doc
 
Thừa Kế Theo Pháp Luật -Một Số Vấn Đề Lý Luận Và Thực Tiễn.doc
Thừa Kế Theo Pháp Luật -Một Số Vấn Đề Lý Luận Và Thực Tiễn.docThừa Kế Theo Pháp Luật -Một Số Vấn Đề Lý Luận Và Thực Tiễn.doc
Thừa Kế Theo Pháp Luật -Một Số Vấn Đề Lý Luận Và Thực Tiễn.doc
 
Quyền của người bị tạm giữ, tạm giam và chấp hành hình phạt tù
Quyền của người bị tạm giữ, tạm giam và chấp hành hình phạt tùQuyền của người bị tạm giữ, tạm giam và chấp hành hình phạt tù
Quyền của người bị tạm giữ, tạm giam và chấp hành hình phạt tù
 
Luận văn: Tội cướp giật tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội cướp giật tài sản theo pháp luật hình sự Việt NamLuận văn: Tội cướp giật tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội cướp giật tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam
 
Luận văn: Luật La Mã trong xây dựng chế định vật quyền, HOT
Luận văn: Luật La Mã trong xây dựng chế định vật quyền, HOTLuận văn: Luật La Mã trong xây dựng chế định vật quyền, HOT
Luận văn: Luật La Mã trong xây dựng chế định vật quyền, HOT
 
Luận văn: Những người tham gia tố tụng trong luật tố tụng, HOT
Luận văn: Những người tham gia tố tụng trong luật tố tụng, HOTLuận văn: Những người tham gia tố tụng trong luật tố tụng, HOT
Luận văn: Những người tham gia tố tụng trong luật tố tụng, HOT
 
Luận văn: Người tham gia tố tụng trong Luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Người tham gia tố tụng trong Luật tố tụng hình sự, HOTLuận văn: Người tham gia tố tụng trong Luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Người tham gia tố tụng trong Luật tố tụng hình sự, HOT
 
tiểu luận .pdf
tiểu luận .pdftiểu luận .pdf
tiểu luận .pdf
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0936 885 877

Hoàn Thiện Tổ Chức Kế Toán Quản Trị Tại Công Ty Tnhh Thương Mại Đầu Tư Và Phá...
Hoàn Thiện Tổ Chức Kế Toán Quản Trị Tại Công Ty Tnhh Thương Mại Đầu Tư Và Phá...Hoàn Thiện Tổ Chức Kế Toán Quản Trị Tại Công Ty Tnhh Thương Mại Đầu Tư Và Phá...
Hoàn Thiện Tổ Chức Kế Toán Quản Trị Tại Công Ty Tnhh Thương Mại Đầu Tư Và Phá...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0936 885 877
 
Tiểu Luận Nâng Cao Hiệu Quả Công Tác Quản Lý Các Điểm Di Tích Lịch Sử Văn H...
Tiểu Luận Nâng Cao Hiệu Quả Công Tác Quản Lý Các Điểm Di Tích Lịch Sử Văn H...Tiểu Luận Nâng Cao Hiệu Quả Công Tác Quản Lý Các Điểm Di Tích Lịch Sử Văn H...
Tiểu Luận Nâng Cao Hiệu Quả Công Tác Quản Lý Các Điểm Di Tích Lịch Sử Văn H...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0936 885 877
 
Một Số Kiến Nghị Để Nâng Cao Hiệu Quảng Đối Với Dịch Vụ Quảng Cáo Và Tổ Chức ...
Một Số Kiến Nghị Để Nâng Cao Hiệu Quảng Đối Với Dịch Vụ Quảng Cáo Và Tổ Chức ...Một Số Kiến Nghị Để Nâng Cao Hiệu Quảng Đối Với Dịch Vụ Quảng Cáo Và Tổ Chức ...
Một Số Kiến Nghị Để Nâng Cao Hiệu Quảng Đối Với Dịch Vụ Quảng Cáo Và Tổ Chức ...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0936 885 877
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0936 885 877 (20)

Hoàn Thiện Công Tác Kế Toán Tại Bệnh Viện Chỉnh Hình Và Phục Hồi...
Hoàn Thiện Công Tác Kế Toán Tại Bệnh Viện Chỉnh Hình Và Phục Hồi...Hoàn Thiện Công Tác Kế Toán Tại Bệnh Viện Chỉnh Hình Và Phục Hồi...
Hoàn Thiện Công Tác Kế Toán Tại Bệnh Viện Chỉnh Hình Và Phục Hồi...
 
Hoàn Thiện Công Tác Kế Toán Tại Các Đơn Vị Sự Nghiệp Thuộc Sở Xây...
Hoàn Thiện Công Tác Kế Toán Tại Các Đơn Vị Sự Nghiệp Thuộc Sở Xây...Hoàn Thiện Công Tác Kế Toán Tại Các Đơn Vị Sự Nghiệp Thuộc Sở Xây...
Hoàn Thiện Công Tác Kế Toán Tại Các Đơn Vị Sự Nghiệp Thuộc Sở Xây...
 
Hoàn Thiện Công Tác Hạch Toán Kế Toán Tại Các Đơn Vị Dự Toán Cấp...
Hoàn Thiện Công Tác Hạch Toán Kế Toán Tại Các Đơn Vị Dự Toán Cấp...Hoàn Thiện Công Tác Hạch Toán Kế Toán Tại Các Đơn Vị Dự Toán Cấp...
Hoàn Thiện Công Tác Hạch Toán Kế Toán Tại Các Đơn Vị Dự Toán Cấp...
 
Hoàn Thiện Tổ Chức Công Tác Kế Toán Tại Sở Giáo Dục Và Đào Tạo ...
Hoàn Thiện Tổ Chức Công Tác Kế Toán Tại Sở Giáo Dục Và Đào Tạo ...Hoàn Thiện Tổ Chức Công Tác Kế Toán Tại Sở Giáo Dục Và Đào Tạo ...
Hoàn Thiện Tổ Chức Công Tác Kế Toán Tại Sở Giáo Dục Và Đào Tạo ...
 
Hoàn Thiện Tổ Chức Kế Toán Quản Trị Tại Công Ty Tnhh Thương Mại Đầu Tư Và Phá...
Hoàn Thiện Tổ Chức Kế Toán Quản Trị Tại Công Ty Tnhh Thương Mại Đầu Tư Và Phá...Hoàn Thiện Tổ Chức Kế Toán Quản Trị Tại Công Ty Tnhh Thương Mại Đầu Tư Và Phá...
Hoàn Thiện Tổ Chức Kế Toán Quản Trị Tại Công Ty Tnhh Thương Mại Đầu Tư Và Phá...
 
Hoàn Thiện Tổ Chức Công Tác Kế Toán Tại Các Đơn Vị Thuộc Trung Tâm Y Tế
Hoàn Thiện Tổ Chức Công Tác Kế Toán Tại Các Đơn Vị Thuộc Trung Tâm Y TếHoàn Thiện Tổ Chức Công Tác Kế Toán Tại Các Đơn Vị Thuộc Trung Tâm Y Tế
Hoàn Thiện Tổ Chức Công Tác Kế Toán Tại Các Đơn Vị Thuộc Trung Tâm Y Tế
 
Tiểu Luận Thực Trạng Đời Sống Văn Hóa Của Công Nhân Khu Công Nghiệp - Hay T...
Tiểu Luận Thực Trạng Đời Sống Văn Hóa Của Công Nhân Khu Công Nghiệp - Hay T...Tiểu Luận Thực Trạng Đời Sống Văn Hóa Của Công Nhân Khu Công Nghiệp - Hay T...
Tiểu Luận Thực Trạng Đời Sống Văn Hóa Của Công Nhân Khu Công Nghiệp - Hay T...
 
Tiểu Luận Quản Lý Hoạt Động Nhà Văn Hóa - Đỉnh Của Chóp!
Tiểu Luận Quản Lý Hoạt Động Nhà Văn Hóa - Đỉnh Của Chóp!Tiểu Luận Quản Lý Hoạt Động Nhà Văn Hóa - Đỉnh Của Chóp!
Tiểu Luận Quản Lý Hoạt Động Nhà Văn Hóa - Đỉnh Của Chóp!
 
Tiểu Luận Quản Lý Nhà Nước Về Văn Hóa - Hay Bá Cháy!
Tiểu Luận Quản Lý Nhà Nước Về Văn Hóa - Hay Bá Cháy!Tiểu Luận Quản Lý Nhà Nước Về Văn Hóa - Hay Bá Cháy!
Tiểu Luận Quản Lý Nhà Nước Về Văn Hóa - Hay Bá Cháy!
 
Tiểu Luận Quản Lý Nhà Nước Về Thiết Chế Văn Hóa - Hay Quên Lối Ra!.
Tiểu Luận Quản Lý Nhà Nước Về Thiết Chế Văn Hóa - Hay Quên Lối Ra!.Tiểu Luận Quản Lý Nhà Nước Về Thiết Chế Văn Hóa - Hay Quên Lối Ra!.
Tiểu Luận Quản Lý Nhà Nước Về Thiết Chế Văn Hóa - Hay Quên Lối Ra!.
 
Tiểu Luận Quản Lý Di Tích Kiến Trúc Nghệ Thuật Chùa Tứ Kỳ - Hay Bá Đạo!
Tiểu Luận Quản Lý Di Tích Kiến Trúc Nghệ Thuật Chùa Tứ Kỳ - Hay Bá Đạo!Tiểu Luận Quản Lý Di Tích Kiến Trúc Nghệ Thuật Chùa Tứ Kỳ - Hay Bá Đạo!
Tiểu Luận Quản Lý Di Tích Kiến Trúc Nghệ Thuật Chùa Tứ Kỳ - Hay Bá Đạo!
 
Tiểu Luận Quản Lý Các Dịch Vụ Văn Hóa Tại Khu Du Lịch - Hay Xĩu Ngang!
Tiểu Luận Quản Lý Các Dịch Vụ Văn Hóa Tại Khu Du Lịch - Hay Xĩu Ngang!Tiểu Luận Quản Lý Các Dịch Vụ Văn Hóa Tại Khu Du Lịch - Hay Xĩu Ngang!
Tiểu Luận Quản Lý Các Dịch Vụ Văn Hóa Tại Khu Du Lịch - Hay Xĩu Ngang!
 
Tiểu Luận Nâng Cao Hiệu Quả Công Tác Quản Lý Các Điểm Di Tích Lịch Sử Văn H...
Tiểu Luận Nâng Cao Hiệu Quả Công Tác Quản Lý Các Điểm Di Tích Lịch Sử Văn H...Tiểu Luận Nâng Cao Hiệu Quả Công Tác Quản Lý Các Điểm Di Tích Lịch Sử Văn H...
Tiểu Luận Nâng Cao Hiệu Quả Công Tác Quản Lý Các Điểm Di Tích Lịch Sử Văn H...
 
Tiểu Luận Công Tác Quản Lý Lễ Hội Tịch - Xuất Sắc Nhất!
Tiểu Luận Công Tác Quản Lý Lễ Hội Tịch - Xuất Sắc Nhất!Tiểu Luận Công Tác Quản Lý Lễ Hội Tịch - Xuất Sắc Nhất!
Tiểu Luận Công Tác Quản Lý Lễ Hội Tịch - Xuất Sắc Nhất!
 
Tiểu Luận Công Tác Quản Lý Di Tích Và Phát Triển Du Lịch - Hay Nhứ...
Tiểu Luận Công Tác Quản Lý Di Tích Và Phát Triển Du Lịch - Hay Nhứ...Tiểu Luận Công Tác Quản Lý Di Tích Và Phát Triển Du Lịch - Hay Nhứ...
Tiểu Luận Công Tác Quản Lý Di Tích Và Phát Triển Du Lịch - Hay Nhứ...
 
Tiểu Luận Bảo Vệ Và Phát Huy Di Sản Văn Hóa Dân Tộc - Hay Chảy Ke!
Tiểu Luận Bảo Vệ Và Phát Huy Di Sản Văn Hóa Dân Tộc - Hay Chảy Ke!Tiểu Luận Bảo Vệ Và Phát Huy Di Sản Văn Hóa Dân Tộc - Hay Chảy Ke!
Tiểu Luận Bảo Vệ Và Phát Huy Di Sản Văn Hóa Dân Tộc - Hay Chảy Ke!
 
Quy Trình Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Cổ Phần Truyền Thông Và Sự Kiện Taf
Quy Trình Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Cổ Phần Truyền Thông Và Sự Kiện TafQuy Trình Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Cổ Phần Truyền Thông Và Sự Kiện Taf
Quy Trình Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Cổ Phần Truyền Thông Và Sự Kiện Taf
 
Thực Trạng Hoạt Động Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Quảng Cáo
Thực Trạng Hoạt Động Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Quảng CáoThực Trạng Hoạt Động Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Quảng Cáo
Thực Trạng Hoạt Động Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Quảng Cáo
 
Một Số Kiến Nghị Để Nâng Cao Hiệu Quảng Đối Với Dịch Vụ Quảng Cáo Và Tổ Chức ...
Một Số Kiến Nghị Để Nâng Cao Hiệu Quảng Đối Với Dịch Vụ Quảng Cáo Và Tổ Chức ...Một Số Kiến Nghị Để Nâng Cao Hiệu Quảng Đối Với Dịch Vụ Quảng Cáo Và Tổ Chức ...
Một Số Kiến Nghị Để Nâng Cao Hiệu Quảng Đối Với Dịch Vụ Quảng Cáo Và Tổ Chức ...
 
Hoàn Thiện Quy Trình Dịch Vụ Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Đầu Tư
Hoàn Thiện Quy Trình Dịch Vụ Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Đầu TưHoàn Thiện Quy Trình Dịch Vụ Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Đầu Tư
Hoàn Thiện Quy Trình Dịch Vụ Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Đầu Tư
 

Recently uploaded

Mở rộng hoạt động cho vay tiêu dùng tại Ngân hàng TMCP Hàng Hải Việt Nam (Mar...
Mở rộng hoạt động cho vay tiêu dùng tại Ngân hàng TMCP Hàng Hải Việt Nam (Mar...Mở rộng hoạt động cho vay tiêu dùng tại Ngân hàng TMCP Hàng Hải Việt Nam (Mar...
Mở rộng hoạt động cho vay tiêu dùng tại Ngân hàng TMCP Hàng Hải Việt Nam (Mar...lamluanvan.net Viết thuê luận văn
 
Báo cáo bài tập nhóm môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Trình bà...
Báo cáo bài tập nhóm môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Trình bà...Báo cáo bài tập nhóm môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Trình bà...
Báo cáo bài tập nhóm môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Trình bà...lamluanvan.net Viết thuê luận văn
 
Hệ thống ca dao than thân người Việt từ góc nhìn thi pháp
Hệ thống ca dao than thân người Việt từ góc nhìn thi phápHệ thống ca dao than thân người Việt từ góc nhìn thi pháp
Hệ thống ca dao than thân người Việt từ góc nhìn thi pháplamluanvan.net Viết thuê luận văn
 
Bài tập lớn môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Xây dựng mô hình ...
Bài tập lớn môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Xây dựng mô hình ...Bài tập lớn môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Xây dựng mô hình ...
Bài tập lớn môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Xây dựng mô hình ...lamluanvan.net Viết thuê luận văn
 
Tóm tắt luận văn Hệ thống ca dao than thân người Việt từ góc nhìn thi pháp
Tóm tắt luận văn Hệ thống ca dao than thân người Việt từ góc nhìn thi phápTóm tắt luận văn Hệ thống ca dao than thân người Việt từ góc nhìn thi pháp
Tóm tắt luận văn Hệ thống ca dao than thân người Việt từ góc nhìn thi pháplamluanvan.net Viết thuê luận văn
 
Báo cáo bài tập lớn E - Marketing Xây dựng kế hoạch marketing điện tử cho nhã...
Báo cáo bài tập lớn E - Marketing Xây dựng kế hoạch marketing điện tử cho nhã...Báo cáo bài tập lớn E - Marketing Xây dựng kế hoạch marketing điện tử cho nhã...
Báo cáo bài tập lớn E - Marketing Xây dựng kế hoạch marketing điện tử cho nhã...lamluanvan.net Viết thuê luận văn
 
Báo cáo thực tập tốt nghiệp Phân tích hiệu quả hoạt động huy động và cho vay ...
Báo cáo thực tập tốt nghiệp Phân tích hiệu quả hoạt động huy động và cho vay ...Báo cáo thực tập tốt nghiệp Phân tích hiệu quả hoạt động huy động và cho vay ...
Báo cáo thực tập tốt nghiệp Phân tích hiệu quả hoạt động huy động và cho vay ...lamluanvan.net Viết thuê luận văn
 
Nhân tố ảnh hưởng tới động lực làm việc của kiểm toán viên tại Chi nhánh Công...
Nhân tố ảnh hưởng tới động lực làm việc của kiểm toán viên tại Chi nhánh Công...Nhân tố ảnh hưởng tới động lực làm việc của kiểm toán viên tại Chi nhánh Công...
Nhân tố ảnh hưởng tới động lực làm việc của kiểm toán viên tại Chi nhánh Công...lamluanvan.net Viết thuê luận văn
 
Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá rủi ro quá trình xử lí nước cấp tại Chi nhánh Cấp...
Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá rủi ro quá trình xử lí nước cấp tại Chi nhánh Cấp...Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá rủi ro quá trình xử lí nước cấp tại Chi nhánh Cấp...
Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá rủi ro quá trình xử lí nước cấp tại Chi nhánh Cấp...lamluanvan.net Viết thuê luận văn
 
40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 1-20) ...
40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 1-20) ...40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 1-20) ...
40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 1-20) ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Báo cáo bài tập Quản trị Marketing Kế hoạch marketing cho ống hút cỏ của Gree...
Báo cáo bài tập Quản trị Marketing Kế hoạch marketing cho ống hút cỏ của Gree...Báo cáo bài tập Quản trị Marketing Kế hoạch marketing cho ống hút cỏ của Gree...
Báo cáo bài tập Quản trị Marketing Kế hoạch marketing cho ống hút cỏ của Gree...lamluanvan.net Viết thuê luận văn
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
4.NGÂN HÀNG KĨ THUẬT SỐ-slide CHƯƠNG 3.pptx
4.NGÂN HÀNG KĨ THUẬT SỐ-slide CHƯƠNG 3.pptx4.NGÂN HÀNG KĨ THUẬT SỐ-slide CHƯƠNG 3.pptx
4.NGÂN HÀNG KĨ THUẬT SỐ-slide CHƯƠNG 3.pptxsongtoan982017
 
Tiểu luận tổng quan về Mối quan hệ giữa chu kỳ kinh tế và đầu tư trong nền ki...
Tiểu luận tổng quan về Mối quan hệ giữa chu kỳ kinh tế và đầu tư trong nền ki...Tiểu luận tổng quan về Mối quan hệ giữa chu kỳ kinh tế và đầu tư trong nền ki...
Tiểu luận tổng quan về Mối quan hệ giữa chu kỳ kinh tế và đầu tư trong nền ki...lamluanvan.net Viết thuê luận văn
 
CHỦ ĐỀ VÀ TÍNH LIÊN KẾT TRONG DIỄN NGÔN CHÍNH LUẬN TIẾNG VIỆT
CHỦ ĐỀ VÀ TÍNH LIÊN KẾT TRONG DIỄN NGÔN CHÍNH LUẬN TIẾNG VIỆTCHỦ ĐỀ VÀ TÍNH LIÊN KẾT TRONG DIỄN NGÔN CHÍNH LUẬN TIẾNG VIỆT
CHỦ ĐỀ VÀ TÍNH LIÊN KẾT TRONG DIỄN NGÔN CHÍNH LUẬN TIẾNG VIỆTlamluanvan.net Viết thuê luận văn
 
TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT TIẾNG ANH 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, ...
TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT TIẾNG ANH 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, ...TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT TIẾNG ANH 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, ...
TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT TIẾNG ANH 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT HÓA HỌC 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, TRƯ...
TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT HÓA HỌC 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, TRƯ...TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT HÓA HỌC 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, TRƯ...
TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT HÓA HỌC 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, TRƯ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
NHKTS SLIDE B2 KHAI NIEM FINTECH VA YEU TO CUNG CAU DOI MOI TRONG CN_GV HANG ...
NHKTS SLIDE B2 KHAI NIEM FINTECH VA YEU TO CUNG CAU DOI MOI TRONG CN_GV HANG ...NHKTS SLIDE B2 KHAI NIEM FINTECH VA YEU TO CUNG CAU DOI MOI TRONG CN_GV HANG ...
NHKTS SLIDE B2 KHAI NIEM FINTECH VA YEU TO CUNG CAU DOI MOI TRONG CN_GV HANG ...songtoan982017
 
40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 21-30)...
40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 21-30)...40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 21-30)...
40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 21-30)...Nguyen Thanh Tu Collection
 
35 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH NĂM ...
35 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH NĂM ...35 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH NĂM ...
35 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH NĂM ...Nguyen Thanh Tu Collection
 

Recently uploaded (20)

Mở rộng hoạt động cho vay tiêu dùng tại Ngân hàng TMCP Hàng Hải Việt Nam (Mar...
Mở rộng hoạt động cho vay tiêu dùng tại Ngân hàng TMCP Hàng Hải Việt Nam (Mar...Mở rộng hoạt động cho vay tiêu dùng tại Ngân hàng TMCP Hàng Hải Việt Nam (Mar...
Mở rộng hoạt động cho vay tiêu dùng tại Ngân hàng TMCP Hàng Hải Việt Nam (Mar...
 
Báo cáo bài tập nhóm môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Trình bà...
Báo cáo bài tập nhóm môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Trình bà...Báo cáo bài tập nhóm môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Trình bà...
Báo cáo bài tập nhóm môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Trình bà...
 
Hệ thống ca dao than thân người Việt từ góc nhìn thi pháp
Hệ thống ca dao than thân người Việt từ góc nhìn thi phápHệ thống ca dao than thân người Việt từ góc nhìn thi pháp
Hệ thống ca dao than thân người Việt từ góc nhìn thi pháp
 
Bài tập lớn môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Xây dựng mô hình ...
Bài tập lớn môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Xây dựng mô hình ...Bài tập lớn môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Xây dựng mô hình ...
Bài tập lớn môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Xây dựng mô hình ...
 
Tóm tắt luận văn Hệ thống ca dao than thân người Việt từ góc nhìn thi pháp
Tóm tắt luận văn Hệ thống ca dao than thân người Việt từ góc nhìn thi phápTóm tắt luận văn Hệ thống ca dao than thân người Việt từ góc nhìn thi pháp
Tóm tắt luận văn Hệ thống ca dao than thân người Việt từ góc nhìn thi pháp
 
Báo cáo bài tập lớn E - Marketing Xây dựng kế hoạch marketing điện tử cho nhã...
Báo cáo bài tập lớn E - Marketing Xây dựng kế hoạch marketing điện tử cho nhã...Báo cáo bài tập lớn E - Marketing Xây dựng kế hoạch marketing điện tử cho nhã...
Báo cáo bài tập lớn E - Marketing Xây dựng kế hoạch marketing điện tử cho nhã...
 
Báo cáo thực tập tốt nghiệp Phân tích hiệu quả hoạt động huy động và cho vay ...
Báo cáo thực tập tốt nghiệp Phân tích hiệu quả hoạt động huy động và cho vay ...Báo cáo thực tập tốt nghiệp Phân tích hiệu quả hoạt động huy động và cho vay ...
Báo cáo thực tập tốt nghiệp Phân tích hiệu quả hoạt động huy động và cho vay ...
 
Nhân tố ảnh hưởng tới động lực làm việc của kiểm toán viên tại Chi nhánh Công...
Nhân tố ảnh hưởng tới động lực làm việc của kiểm toán viên tại Chi nhánh Công...Nhân tố ảnh hưởng tới động lực làm việc của kiểm toán viên tại Chi nhánh Công...
Nhân tố ảnh hưởng tới động lực làm việc của kiểm toán viên tại Chi nhánh Công...
 
Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá rủi ro quá trình xử lí nước cấp tại Chi nhánh Cấp...
Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá rủi ro quá trình xử lí nước cấp tại Chi nhánh Cấp...Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá rủi ro quá trình xử lí nước cấp tại Chi nhánh Cấp...
Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá rủi ro quá trình xử lí nước cấp tại Chi nhánh Cấp...
 
40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 1-20) ...
40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 1-20) ...40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 1-20) ...
40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 1-20) ...
 
Báo cáo bài tập Quản trị Marketing Kế hoạch marketing cho ống hút cỏ của Gree...
Báo cáo bài tập Quản trị Marketing Kế hoạch marketing cho ống hút cỏ của Gree...Báo cáo bài tập Quản trị Marketing Kế hoạch marketing cho ống hút cỏ của Gree...
Báo cáo bài tập Quản trị Marketing Kế hoạch marketing cho ống hút cỏ của Gree...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
4.NGÂN HÀNG KĨ THUẬT SỐ-slide CHƯƠNG 3.pptx
4.NGÂN HÀNG KĨ THUẬT SỐ-slide CHƯƠNG 3.pptx4.NGÂN HÀNG KĨ THUẬT SỐ-slide CHƯƠNG 3.pptx
4.NGÂN HÀNG KĨ THUẬT SỐ-slide CHƯƠNG 3.pptx
 
Tiểu luận tổng quan về Mối quan hệ giữa chu kỳ kinh tế và đầu tư trong nền ki...
Tiểu luận tổng quan về Mối quan hệ giữa chu kỳ kinh tế và đầu tư trong nền ki...Tiểu luận tổng quan về Mối quan hệ giữa chu kỳ kinh tế và đầu tư trong nền ki...
Tiểu luận tổng quan về Mối quan hệ giữa chu kỳ kinh tế và đầu tư trong nền ki...
 
CHỦ ĐỀ VÀ TÍNH LIÊN KẾT TRONG DIỄN NGÔN CHÍNH LUẬN TIẾNG VIỆT
CHỦ ĐỀ VÀ TÍNH LIÊN KẾT TRONG DIỄN NGÔN CHÍNH LUẬN TIẾNG VIỆTCHỦ ĐỀ VÀ TÍNH LIÊN KẾT TRONG DIỄN NGÔN CHÍNH LUẬN TIẾNG VIỆT
CHỦ ĐỀ VÀ TÍNH LIÊN KẾT TRONG DIỄN NGÔN CHÍNH LUẬN TIẾNG VIỆT
 
TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT TIẾNG ANH 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, ...
TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT TIẾNG ANH 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, ...TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT TIẾNG ANH 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, ...
TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT TIẾNG ANH 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, ...
 
TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT HÓA HỌC 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, TRƯ...
TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT HÓA HỌC 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, TRƯ...TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT HÓA HỌC 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, TRƯ...
TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT HÓA HỌC 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, TRƯ...
 
NHKTS SLIDE B2 KHAI NIEM FINTECH VA YEU TO CUNG CAU DOI MOI TRONG CN_GV HANG ...
NHKTS SLIDE B2 KHAI NIEM FINTECH VA YEU TO CUNG CAU DOI MOI TRONG CN_GV HANG ...NHKTS SLIDE B2 KHAI NIEM FINTECH VA YEU TO CUNG CAU DOI MOI TRONG CN_GV HANG ...
NHKTS SLIDE B2 KHAI NIEM FINTECH VA YEU TO CUNG CAU DOI MOI TRONG CN_GV HANG ...
 
40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 21-30)...
40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 21-30)...40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 21-30)...
40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 21-30)...
 
35 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH NĂM ...
35 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH NĂM ...35 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH NĂM ...
35 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH NĂM ...
 

Quyền Sở Hữu Tài Sản Của Người Nước Ngoài Tại Việt Nam

  • 1. LUẬN VĂN THẠC SĨ ĐỀ TÀI : QUYỀN SỞ HỮU TÀI SẢN CỦA NGƯỜI NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM CHUYÊN NGÀNH : LUẬT QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ NHẬN VIẾT THUÊ LUẬN VĂN ZALO/TELEGRAM HỖ TRỢ : 0917.193.864 WEBSITE:LUANVANLUAT.COM
  • 2. Đề tài: Quyền sở hữu tài sản của người nước ngoài tại Việt Nam GVHD: Th.S Diệp Ngọc Dũng 1 SVTH: Lê Thị Diễm Trinh MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU....................................................................................................... 3 Chương 1 LÍ LUẬN CHUNG VỀ TÀI SẢN VÀ QUYỀN SỞ HỮU THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM ................................................................................... 5 1.1 KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TÀI SẢN.......................................................... 5 1.1.1Khái niệm tài sản .................................................................................... 5 1.1.1.1 Khái niệm tài sản............................................................................. 5 1.1.1.2 Phân loại tài sản .............................................................................. 7 1.1.2 Động sản và bất động sản .................................................................... 13 1.1.2.1 Phân biệt động sản và bất động sản .............................................. 13 1.1.2.2 Những trường hợp ngoại lệ........................................................... 15 1.1.2.2.1 Bất động sản trở thành động sản ............................................ 15 1.1.2.2.2 Động sản trở thành bất động sản............................................ 15 1.2 KHÁI QUÁT CHUNG VỀ QUYỀN SỞ HỮU ......................................... 16 1.2.1 Khái niệm về quyền sở hữu ................................................................. 16 1.2.1.1 Khái niệm quyền sở hữu theo pháp luật Việt Nam....................... 17 1.2.1.2 Khái niệm quyền sở hữu theo pháp luật các nước........................ 17 1.2.2 Nội dung cơ bản của quyền sở hữu theo pháp luật Việt Nam............. 18 1.2.2.1 Quyền chiếm hữu.......................................................................... 18 1.2.2.2 Quyền sử dụng .............................................................................. 19 1.2.2.3 Quyền định đoạt............................................................................ 20 1.2.3 Giải quyết xung đột pháp luật về quyền sở hữu .................................. 22 1.2.3.1 Giải quyết theo pháp luật các nước............................................... 22 1.2.3.2 Giải quyết theo pháp luật Việt Nam ............................................. 24 Chương 2 PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ QUYỀN SỞ HỮU TÀI SẢN CỦA NGƯỜI NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM....................................................... 28 2.1 QUYỀN SỞ HỮU TÀI SẢN LÀ ĐỘNG SẢN CỦA NGƯỜI NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM................................................................................. 30 2.2 QUYỀN SỞ HỮU TÀI SẢN LÀ BẤT ĐỘNG SẢN CỦA NGƯỜI NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM................................................................................. 34 2.2.1 Quyền sở hữu nhà ở............................................................................. 36 2.2.1.1 Đối tượng được mua và sở hữu nhà ở tại Việt Nam..................... 36 2.2.1.2 Trình tự, thủ tục và thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở.......................................................................................................... 39 2.2.1.3 Quyền và nghĩa vụ của chủ sở hữu nhà là tổ chức, cá nhân nước ngoài.......................................................................................................... 43 2.2.1.3.1 Quyền của chủ sở hữu nhà ở là tổ chức, cá nhân nước ngoài 43 2.2.1.3.2 Nghĩa vụ của chủ sở hữu nhà ở là tổ chức, cá nhân nước ngoài ............................................................................................................... 45 2.2.2 Quyền sở hữu tài sản là bất động sản dùng để đầu tư ......................... 46 2.2.3 Các loại bất động sản khác. ................................................................. 48 Chương 3 THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ Ý KIẾN ĐỀ XUẤT....................... 51 3.1 THỰC TRẠNG .......................................................................................... 51 3.2 MỘT SỐ Ý KIẾN ĐỀ XUẤT .................................................................... 57
  • 3. Đề tài: Quyền sở hữu tài sản của người nước ngoài tại Việt Nam GVHD: Th.S Diệp Ngọc Dũng 2 SVTH: Lê Thị Diễm Trinh KẾT LUẬN......................................................................................................... 62
  • 4. Đề tài: Quyền sở hữu tài sản của người nước ngoài tại Việt Nam GVHD: Th.S Diệp Ngọc Dũng 3 SVTH: Lê Thị Diễm Trinh LỜI MỞ ĐẦU Trong xu thế hội nhập hiện nay, quá trình giao lưu kinh tế, văn hóa, khoa học công nghệ… của Việt Nam với các nước trên thế giới phát triển một cách nhanh chóng. Đặc biệt, hiện nay nước ta đã hội nhập với thế giới và đã trở thành thành viên của tổ chức thương mại thế giới WTO nên số lượng người nước ngoài vào Việt Nam sẽ ngày càng tăng thông qua nhiều con đường khác nhau. Điều này đòi hỏi nước ta phải có một quy chế pháp lí phù hợp cho những đối tượng này nhất là trong lĩnh vực sở hữu tài sản. Bởi vì, đảm bảo quyền và lợi ích của nhóm đối tượng này cũng chính là làm tăng thêm lợi ích của quốc gia. Đồng thời, ngày càng thúc đẩy và mở rộng hơn quan hệ hợp tác của Việt Nam với các nước trên nhiều lĩnh vực, từng bước nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Vấn đề đặt ra là nhà nước ta đã có những chính sách hay quy định nào về quyền sở hữu của những đối tượng này. Việc nghiên cứu đề tài “quyền sở hữu tài sản của người nước ngoài tại Việt Nam” sẽ giúp chúng ta hiểu rõ hơn những quy định của Việt Nam về quyền sở hữu của người nước ngoài. Từ đó, góp phần hoàn thiện pháp luật cho phù hợp với tình hình hiện nay, đảm bảo hơn chế độ đãi ngộ như công dân mà Việt Nam dành cho người nước ngoài. Việc đảm bảo quyền sở hữu người nước ngoài trên lãnh thổ Việt Nam cũng như chúng ta đảm bảo mối quan hệ với các nước là góp phần làm Việt Nam ngày càng phát triển hơn Nhằm để đảm bảo cho việc nghiên cứu có hiệu quả, đồng thời, giúp người đọc có thể nắm rõ và hiểu sâu sắc vấn đề hơn. Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu quyền sở hữu tài sản của người nước ngoài trên những tài sản hữu hình được phân loại thành bất động sản và động sản. Và cũng trong phạm vi đề tài của mình, người viết chỉ tìm hiểu quyền sở hữu tài sản mà nhà nước dành cho đối tượng là nhà đầu tư nước ngoài và cá nhân nước ngoài là người chưa có quốc tịch Việt Nam. Chủ thể có yếu tố nước ngoài bao gồm: người Việt Nam định cư ở nước ngoài, người Việt Nam đã thôi quốc tịch Việt Nam, người Việt Nam mang quốc tịch nước ngoài nhưng chưa thôi quốc tịch Việt Nam, người mang quốc tịch nước ngoài, người không có quốc tịch … Tuy nhiên, do hạn chế về mặt thời gian và phạm vi nghiên cứu của đề tài, người viết chỉ nghiên cứu quyền sở hữu tài sản trên động sản và bất động sản của đối tượng là nhà đầu tư nước ngoài và người nước ngoài, người mang quốc tịch nước ngoài nhưng chưa từng mang quốc tịch Việt Nam, mà thôi.
  • 5. Đề tài: Quyền sở hữu tài sản của người nước ngoài tại Việt Nam GVHD: Th.S Diệp Ngọc Dũng 4 SVTH: Lê Thị Diễm Trinh Với mục đích hoàn thiện bài viết một cách tốt nhất, người viết đã vận dụng một số phương pháp như: phương pháp phân tích luật viết, thu thập tài liệu, đánh giá, so sánh đối chiếu… để nghiên cứu đề tài của mình. Bên cạnh lời nói đầu, kết luận, mục lục và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được trình bày theo kết cấu gồm 3 chương - Chương 1: “Lí luận chung về tài sản và quyền sở hữu theo pháp luật Việt Nam”.Chương này tác giả giới thiệu một cách khái quát về tài sản và quyền sở hữu giúp người đọc nắm được: tài sản là gì? Có các loại tài sản nào theo cách phân loại của pháp luật Việt Nam, quyền sở hữu là gì? Nội dung cơ bản của quyền sở hữu theo pháp luật Việt Nam và cách giải quyết xung đột về quyền sở hữu của các nước như thế nào? - Chương 2: “Pháp luật Việt Nam về quyền sở hữu tài sản của người nước ngoài”. Trong chương này, người đọc sẽ biết được người nước ngoài được quyền sở hữu những động sản nào và những bất động sản nào. Đối với quyền sở hữu bất động sản của người nước ngoài, người viết tập trung nghiên cứu những quy định của Nghị quyết 19/2008/NQ-QH12 ngày 03/6/2008 về việc thí điểm cho tổ chức, cá nhân nước ngoài mua và sở hữu nhà tại Việt Nam. - Chương 3: “Thực trạng và một số ý kiến đề xuất”. Tác giả sẽ nêu lên thực trạng quyền sở hữu của người nước ngoài tại Việt Nam hiện nay được bảo đảm như thế nào và nêu một số ý kiến về vấn đề sở hữu tài sản của người nước ngoài tại Việt Nam. Mặc dù đã có nhiều nổ lực trong quá trình nghiên cứu nhưng do đây là đề tài mới, thời gian và nguồn tài liệu tham khảo có hạn, bên cạnh đó do kiến thức tác giả còn hạn hẹp, lại chưa có điều kiện tiếp xúc nhiều với thực tế nên những ý tưởng trong đề tài này phần lớn còn mang tính lí thuyết và không tránh khỏi những sai lầm thiếu sót mong quý thầy cô tận tình chỉ dẫn để bài viết được hoàn thiện hơn Sau cùng tác giả xin gửi lời cảm ơn chân thành đến Khoa luật Trường đại học Cần Thơ và giáo viên hướng dẫn Th.S Diệp Ngọc Dũng đã tạo điều kiện cho tác giả hoàn thành tốt đề tài này. Xin chân thành cảm ơn!
  • 6. Đề tài: Quyền sở hữu tài sản của người nước ngoài tại Việt Nam GVHD: Th.S Diệp Ngọc Dũng 5 SVTH: Lê Thị Diễm Trinh Chương 1 LÍ LUẬN CHUNG VỀ TÀI SẢN VÀ QUYỀN SỞ HỮU THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM Ở Việt Nam, người nước ngoài được quyền sở hữu những nào và nội dung quyền sở hữu của họ đối với những tài sản đó như thế nào đều do pháp luật Việt Nam điều chỉnh. Vậy, theo pháp luật Việt Nam, tài sản là gì và quyền sở hữu tài sản thực chất là những quyền năng gì? 1.1 KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TÀI SẢN Tài sản, được coi là khách thể của quyền sở hữu đã được qui định tại Điều 163 BLDS năm 2005. Nhưng những qui định này chỉ mang tính chất liệt kê, xác định những loại vật thể và quyền tài sản được coi là tài sản. Vậy tài sản là gì và chúng được phân loại như thế nào trong pháp luật Việt Nam ? 1.1.1Khái niệm tài sản Thật ra, từ khi bộ luật dân sự đầu tiên được ban hành cho đến bộ luật dân sự hiện nay đang có hiệu lực thì không có bất kì điều luật nào nêu khái niệm tài sản là gì. Khi đó, tài sản được người ta hiểu một cách chung nhất và luật chỉ nêu ra quy định những gì là tài sản. Tuy nhiên, đó là cơ sở pháp lí quan trọng để ta xác định một vật có phải là tài sản trong quan hệ pháp luật hay không. 1.1.1.1 Khái niệm tài sản Theo từ điển Tiếng Việt, nhà xuất bản Đà Nẵng-Trung tâm điện tử tin học xuất bản năm 1997 thì tài sản được khái niệm như sau: “Tài sản là của cải vật chất dùng vào mục đích sản xuất hoặc tiêu dùng”. Theo khái niệm này thì thuật ngữ tài sản có thể được hiểu theo hai cách:  Thứ nhất, về phương diện pháp lý, tài sản là của cải được con người sử dụng. “Của cải” là một khái niệm luôn biến đổi và tự hoàn thiện cùng với sự hoàn thiện về giá trị vật chất. Ở La Mã cổ xưa, nhắc đến tài sản người ta liên tưởng ngay đến những của cải trong gia đình như ruộng đất, nhà cửa gia súc… Còn trong xã hội hiện đại ngày nay, ngoài của cải trong gia đình, chúng ta còn có một số tài sản đặc biệt như, năng lượng hạt nhân, phần mềm máy vi tính…  Thứ hai, trong ngôn ngữ thông dụng hàng ngày, tài sản là một vật cụ thể mà có thể nhận biết bằng các giác quan và được con người sử dụng trong đời sống hàng ngày như bàn ghế, xe máy1 ,… 1 Nguyễn Ngọc Điện, Bình luận khoa học về tài sản trong luật Dân sự Việt Nam, nxb trẻ, 2001, trang 5
  • 7. Đề tài: Quyền sở hữu tài sản của người nước ngoài tại Việt Nam GVHD: Th.S Diệp Ngọc Dũng 6 SVTH: Lê Thị Diễm Trinh Theo BLDS Việt Nam thì không định nghĩa tài sản là gì nhưng tại điều 172 Bộ luật Dân sự (BLDS) 1995 có qui định: “tài sản bao gồm vật có thực, tiền, giấy tờ trị giá được bằng tiền và các quyền tài sản”. Khi BLDS 2005 ra đời có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm 2006 thay thế BLDS 1995 thì tài sản được qui định bao gồm “vật, tiền giấy tờ có giá và các quyền tài sản”. Như vậy, BLDS 1995 và BLDS 2005 đều qui định tài sản gồm có vật. Tuy nhiên, điều 163 BLDS 2005 qui định tài sản là “vật”, mà không qui định “vật có thực” như qui định tại điều 172 BLDS 2005. Việc bỏ qui định vật có thực đã mở rộng nội hàm của vật, vật có thể đang tồn tại hiện thực và vật chắc chắn được hình thành trong tương lai có thể xác định được. Qui định về vật tại điều 163 BLDS 2005 về vật phù hợp hơn với đời sống thực tế và các giao lưu dân sự trong cơ chế thị trường, theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay, các bên tham gia giao dịch có thể thỏa thuận về đối tượng của giao dịch là vật được hình thành trong tương lai. Theo luật định thì “tài sản bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản”. Vật là những vật chất đang tồn tại trong tự nhiên hoặc đang được hình thành trong tương lai. Tuy nhiên, không phải mọi vật đều là tài sản. Vật là tài sản phải thỏa mãn các dấu hiệu sau đây: - Vật đó phải tồn tại khách quan hoặc vật đó chắc chắn được hình thành trong tương lai - Vật đó con người phải chi phối được, phải kiểm soát được và phải chiếm hữu được - Vật đó phải xác định được giá trị thanh toán hay giá trị trao đổi, vật đó phải khai thác được về phương diện tài sản như dân sự, thương mại, tiêu dùng… đáp ứng nhu cầu vật chất và tinh thần con người - Vật đó là vật được phép lưu thông dân sự và mang giá trị tài sản, có thể trao đổi được cho nhau dưới dạng vật chất hay qui đổi được thành tiền2 Tiền, theo kinh tế học, là giá trị đại diện cho giá trị thực của hàng hóa và là phương tiện lưu thông trong đời sống của con người3 . Về mặt chính trị, đó còn là đại diện cho chủ quyền của một quốc gia, đòi hỏi người có tiền không thể có toàn quyền định đoạt loại tài sản đặc biệt này mà phải tuân thủ những qui định nghiêm ngặt của Nhà nước. Do đó, tiền có một vị trí quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. 2 Phùng Trung Tập, Tạp chí Tòa án nhân dân số 2 tháng 11/2007, trang 22 3 Giáo trình kinh tế chính trị, nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, 2002
  • 8. Đề tài: Quyền sở hữu tài sản của người nước ngoài tại Việt Nam GVHD: Th.S Diệp Ngọc Dũng 7 SVTH: Lê Thị Diễm Trinh Giấy tờ có giá bao gồm: cổ phiếu, trái phiếu, tín phiếu, kì phiếu, công trái4 …Điều 163 BLDS 2005 thay cụm từ: “giấy tờ trị giá được bằng tiền” ở điều 172 BLDS 1995 bằng cụm từ “giấy tờ có giá” làm cho điều luật vừa ngắn gọn vừa chính xác. Vì thực tế có nhiều loại giấy tờ không được trị giá được bằng tiền nhưng lại có giá trị rất lớn như giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà…. Các quyền tài sản là những quyền gắn liền với một tài sản hoặc khi thực hiện quyền đó chủ sở hữu sẽ có được một tài sản. “Quyền tài sản là quyền trị giá được bằng tiền và có thể chuyển giao trong giao dịch dân sự, kể cả quyền sở hữu trí tuệ”5 . Từ qui định trên ta nhận thấy quyền tài sản là tài sản và một quyền tài sản phải có đủ hai yếu tố: trị giá được bằng tiền và chuyển giao được trong giao lưu dân sự. Tuy nhiên, không phải tất cả các quyền tài sản đều phải có đầy đủ hai yếu tố trên mới trở thành quyền tài sản. Thực ra, tính chất tài sản của quyền có các cấp độ khác nhau: đầy đủ, không đầy đủ và không có. Quyền tài sản được quy định tại điều 181 BLDS 2005 là quyền có đầy đủ tính chất tài sản. Các quyền như quyền bầu cử, quyền tự do ngôn luận…không trị giá được bằng tiền và không thể chuyển nhượng được nên các quyền này không có tính chất tài sản. Ví dụ: cổ phiếu của cổ đông sở hữu cổ phần ưu đãi biểu quyết trong công ty cổ phần cũng là tài sản nhưng không thể chuyển nhượng được. Như vậy, hiểu một cách chung nhất thì tài sản là của cải vật chất được con người dùng vào mục đích sản xuất hoặc tiêu dùng. Cụ thể hơn tài sản được luật qui định bao gồm vật tiền giấy tờ có giá và các quyền tài sản. 1.1.1.2 Phân loại tài sản Tài sản có thể được phân loại theo nhiều cách. Trong luật La tinh tài sản được phân loại thành động sản và bất động sản, tài sản hữu hình và tài sản vô hình, vật tiêu hao và vật không tiêu hao, vật cùng loại và vật đặc định, vốn và lợi tức, vật được sở hữu và vật không được sở hữu, tài sản công và tài sản tư. Trong luật Anh-Mỹ thì tài sản được phân loại thành quyền đối vật và quyền đối nhân, đất đai và các tài sản khác bao gồm tiền, động sản hữu hình mà không phải là tiền6 .Chương XI BLDS 2005 qui định về các loại tài sản. Trong đó có xây dựng các khái niệm động sản và bất động sản, vật đặc định và vật cùng loại, vật chính và vật phụ,…Như vậy, luật Việt Nam có xu hướng phân loại tương tự như luật La tinh. 4 Giáo trình lí thuyết tài chính tiền tệ, nhà xuất bản giáo dục, 2008 5 Điều 181 BLDS 2005 6 Nguyễn Ngọc Điện, Bình luận khoa học về tài sản trong luật dân sự Việt Nam, nxb trẻ, 2001, trang 26
  • 9. Đề tài: Quyền sở hữu tài sản của người nước ngoài tại Việt Nam GVHD: Th.S Diệp Ngọc Dũng 8 SVTH: Lê Thị Diễm Trinh * Động sản và bất động sản Đây là cách phân loại đầu tiên nhất. Theo đó: Bất động sản là các tài sản bao gồm: - Đất đai - Nhà, công trình xây dựng gắn liền với đất đai, kể cả các tài sản gắn liền với nhà, công trình xây dựng đó - Các tài sản gắn liền với đất đai; - Các tài sản khác do luật qui định. Động sản là những tài sản không phải là bất động sản7 Khác với BLDS 1995, BLDS 2005 không đưa ra khái niệm bất động sản mà chỉ liệt kê những loại tài sản nào là bất động sản. Thực ra, điều 181 BLDS 1995 đưa ra khái niệm “bất động sản là các tài sản không di dời được” cũng chưa thật bao quát, và nó mâu thuẫn ngay với một số loại tài sản được coi là bất động sản như “các tài sản gắn liền với nhà ở, công trình xây dựng” qui định trong cùng một điều luật đó. Nó mâu thuẫn bởi vì tài sản gắn liền với nhà ở, công trình xây dựng vẫn có thể đi chuyển được. Như vậy, qui định về bất động sản ở điều 174 BLDS 2005 phù hợp hơn. Điều luật đã liệt kê các tài sản là bất động sản, còn những tài sản nào là động sản luật không qui định chi tiết mà chỉ bỏ ngỏ bằng một quy phạm mở. Như vậy, danh mục tài sản là động sản sẽ được bổ sung ngay trong thực tiễn áp dụng pháp luật. Điều này cho phép ta khẳng định rằng bất kì tài sản nào cũng chỉ có thể là bất động sản hoặc là động sản. Ngoài cách phân loại tài sản thành động sản và bất động sản thì người ta còn có các cách phân loại khác như sau: * Căn cứ vào nguồn gốc sinh ra của tài sản ta có cách phân loại tài sản thành hoa lợi, lợi tức. Điều 175 BLDS qui định “Hoa lợi là sản vật tự nhiên mà tài sản mang lại”, “Lợi tức là các khoản lợi thu được từ việc khai thác tài sản”. Nói một cách tổng quát, hoa lợi, lợi tức là những vật có giá trị tiền tệ do tài sản sinh ra. Ta gọi tài sản sinh ra hoa lợi, lợi tức là tài sản gốc. Tuy nhiên việc phân biệt tài sản gốc và hoa lợi, lợi tức trong nhiều trường hợp không thể rạch ròi được bởi một số trường hợp hoa lợi, lợi tức được tiêu dùng, biến mất hoặc được tích lũy để trở thành tài sản đầu tư và tiếp tục sinh lợi. Chỉ được gọi là hoa lợi, lợi tức những tài sản sinh ra từ tài sản gốc mà không làm giảm sút chất liệu của tài sản gốc (ở mức độ có thể nhận thấy được). Trong trường hợp để thu được một lợi ích vật chất từ tài sản 7 BLDS 2005, điều 174
  • 10. Đề tài: Quyền sở hữu tài sản của người nước ngoài tại Việt Nam GVHD: Th.S Diệp Ngọc Dũng 9 SVTH: Lê Thị Diễm Trinh gốc mà không thể tái tạo bằng cách khai thác khả năng sinh lợi của tài sản gốc hoặc chỉ có thể tái tạo bằng cách lặp lại một chu kì đầu tư nhằm khôi phục chất liệu của tài sản gốc, thì lợi ích thu được đó chính là sản phẩm mà không phải là hoa lợi, lợi tức. Ví dụ: Một vườn cây ăn trái. Nếu trái cây được thu hoạch thì ta có hoa lợi; nếu cây ăn trái được đốn xuống bán lấy gỗ thì ta có sản phẩm. Bởi vì, việc thu hoạch trái không ảnh hưởng đến sức sinh sản của vườn cây còn việc đốn cây bán gỗ chỉ có thể khôi phục khả năng sinh lợi sau một thời gian tái đầu tư lớn. Từ những phân tích trên thì suy cho cùng thì hoa lợi, lợi tức đều là động sản. Hay cụ thể hơn, hoa lợi lợi tức là tài sản có thể được sinh ra từ bất động sản nhưng bản thân nó lại là một động sản. * Căn cứ vào tính chất, chức năng của tài sản thì có thể chia tài sản thành vật chính và vật phụ. Theo điều 176 BLDS 2005 thì: “Vật chính là vật độc lập, có thể khai thác công dụng theo tính năng. Vật phụ là vật trực tiếp phục vụ cho việc khai thác công dụng của vật chính, là một bộ phận của vật chính, nhưng có thể tách rời vật chính. Khi thực hiện nghĩa vụ chuyển giao vật chính thì phải chuyển giao cả vật phụ, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.” Từ nội dung của điều luật ta có thể rút ra một số nhận xét sau: - Vật chính có thể nhận biết với đầy đủ đặc điểm về cấu tạo, tính năng mà không cần vật phụ. Chẳng hạn như bàn, ghế, quần áo… - Vật phụ là vật trực tiếp phục vụ cho việc khai thác công dụng của vật chính, mà thông thường làm tăng giá trị cho vật chính nhưng không hẳn là yếu tố không thể thiếu của vật chính. Ví dụ: kính lọc của màn hình máy vi tính, kính chiếu hậu của xe gắn máy… - Vật phụ sẽ đảm nhận vai trò phụ khi gắn liền với vật chính - Vật phụ khi tách rời vật chính có thể sẽ không hữu dụng, tuy nhiên vật chính có thể tiếp tục khai thác và sử dụng được. - Khi vật chính được mua bán, tặng cho, trao đổi, di tặng…Thì vật phụ cũng mặc nhiên đi theo nếu không có thỏa thuận khác. Như vậy, vật chính có thể là động sản nhưng cũng có thể là bất động sản còn vật phụ luôn luôn là động sản khi tách rời vật chính. * Vật chia được và không chia được Điều 177 BLDS qui định: “Vật chia được là vật khi bị phân chia vẫn giữ nguyên tính chất và tính năng sử dụng ban đầu. Vật không chia được là vật khi bị chia thì không giữ nguyên được
  • 11. Đề tài: Quyền sở hữu tài sản của người nước ngoài tại Việt Nam GVHD: Th.S Diệp Ngọc Dũng 10 SVTH: Lê Thị Diễm Trinh tính chất và tính năng sử dụng ban đầu. Khi cần phân chia vật không chia được thì phải trị giá bằng tiền để chia” Thực ra, các khái niệm “vật chia được” và “vật không chia được” không liên quan đến vấn đề phân loại tài sản mà chủ yếu liên quan đến việc thực hiện quyền sở hữu chung theo phần8 . Ví dụ: Một vườn cây ăn trái khi được chia thì không làm ảnh hưởng đến khả năng cho trái và cũng không làm thay đổi thành phần, tính năng của đất. Ngược lại, căn nhà không thể chia đôi khi vợ chồng li hôn. Nếu căn nhà được chia đôi thì nó không còn giữ nguyên được tính năng sử dụng ban đầu nữa. Trong trường hợp này người vợ hoặc người chồng được chia căn nhà thì phải định giá căn nhà để trả phân nữa giá trị căn nhà cho người còn lại. * Căn cứ vào mức độ hao mòn của tài sản khi sử dụng thì có thể phân loại tài sản thành vật tiêu hao và vật không tiêu hao Theo điều 178 BLDS 2005 thì: “Vật tiêu hao là vật khi đã qua một lần sử dụng thì mất đi hoặc không giữ được tính chất, hình dáng và tính năng sử dụng ban đầu. Vật tiêu hao không thể là đối tượng của hợp đồng cho thuê hoặc cho mượn. Vật không tiêu hao là vật khi đã qua sử dụng nhiều lần mà cơ bản vẫn giữ được tính chất, hình dáng và tính năng sử dụng ban đầu.” Có rất nhiều ví dụ về hai loại tài sản này như thức ăn nhiên liệu…là vật tiêu hao. Quần áo, bàn ghế, công cụ lao động…là những vật không tiêu hao. Tiền cũng là vật tiêu hao nhưng tiêu hao không phải do sử dụng mà do được dùng để thanh toán trong lưu thông. Những bất động sản là vật không tiêu hao.Vật tiêu hao có thể biến mất hoàn toàn về mặt vật chất sau lần sử dụng đầu tiên, cũng có những vật tiêu hao không hoàn toàn biến mất nhưng không còn mang tính chất, hình dáng và tính năng ban đầu sau một lần sử dụng mà lại mang tính chất hình dáng, tính năng của một vật khác. Ví dụ: đĩa CD, băng cassette… Và có những vật, khi qua một lần sử dụng không mất đi về mặt vật chất và qua nhiều lần sử dụng vẫn giữ được tính chất , hình dáng, tính năng ban đầu nhưng lại giảm giá trị rất nhanh và sẽ được thay thế sau một thời gian ngắn. Ta gọi đó là vật tiêu dùng – loại trung gian giữa vật tiêu hao và vật không tiêu hao. Ví dụ: bút bi, tập vở, quần áo… Luật còn qui định vật tiêu hao không thể là đối tượng của hợp đồng cho thuê hoặc hợp đồng cho mượn. Có nghĩa là các tài sản có thể cho thuê cho mượn 8 Nguyễn Ngọc Điện, Bình luận khoa học về tài sản trong luật Việt Nam, nxb trẻ, 2001, trang 51
  • 12. Đề tài: Quyền sở hữu tài sản của người nước ngoài tại Việt Nam GVHD: Th.S Diệp Ngọc Dũng 11 SVTH: Lê Thị Diễm Trinh không thể là vật tiêu hao. Tuy nhiên, trong đời sống hàng ngày người ta có loại giao dịch “mượn” tài sản để tiêu dùng hay định đoạt. Ví dụ như mượn tiền hay mượn gạo. Thật ra, loại giao dịch này luật gọi tên là hợp đồng vay tài sản (hợp đồng vay tài sản được qui định tại điều 471 BLDS2005). Khi đó người vay nhận tài sản, sử dụng tự do sau một thời gian phải trả lại cho người cho vay vật cùng loại có giá trị tương đương với vật đã vay trước đó. * Vật đặc định và vật cùng loại Điều 179 BLDS 2005 qui định: “Vật cùng loại là những vật có cùng hình dáng, tính chất tính năng sử dụng và xác định được bằng những đơn vị đo lường. Vật cùng loại có cùng tính chất có thể thay thế cho nhau. Vật đặc định là vật phân biệt được với vật khác bằng những đặc điểm riêng về kí hiệu, hình dáng, màu sắc, chất liệu, đặc tính, vị trí. Khi thực hiện nghĩa vụ chuyển giao vật đặc định phải giao đúng vật đó.” Theo khái niệm của luật thì ta cũng dễ hiểu vật cùng loại và vật đặc định là gì. Tuy nhiên, vật cùng loại chỉ là một khái niệm mang tính tương đối. Bởi vì vật cùng loại có thể trở thành đặc định trong quá trình thực hiện một giao dịch nhưng lại trở thành cùng loại khi là đối tượng của một giao dịch khác. Ví dụ: Cửa hàng bán lẻ kí hợp đồng mua 6 ti vi màu hiệu LG 24 inch với một đại lí tại Cần Thơ. Ở thời điểm giao kết hợp đồng, 6 cái ti vi trên là vật cùng loại trong 20 ti vi cùng loại nằm trong đại lí. Khi 6 cái ti vi đó được tách ra khỏi đại lí và được giao nó trở thành vật đặc định. Khi nhập vào cửa hàng để bán lẻ, nó lại trở thành những vật cùng loại khi cửa hàng giao kết việc mua bán lẻ từng cái với khách hàng. Việc phân biệt vật cùng loại, vật đặc định làm cơ sở cho việc chuyển giao tài sản trong một số giao dịch. Bởi nếu một vật đặc định khi được chuyển giao thì phải giao đúng vật đó, còn vật cùng loại chỉ cần chuyển giao đủ và đúng loại. Ta thấy, các cách phân loại trên chỉ được thực hiện trên các tài sản hữu hình nghĩa là các tài sản mà ta có thể nhận biết được bằng các giác quan thông thường. Ngoài các loại tài sản được phân loại như trên thì luật còn phân loại tài sản thành tài sản vô hình * Tài sản vô hình Ngay trong luật học cổ La Mã cũng đã thừa nhận quan niệm về những giá trị tài sản không biểu hiện bằng vật thể như các quyền đòi nợ, quyền xóa nợ… Trong xã hội hiện đại, khi nói đến giá trị tài sản vô hình, ta liên tưởng đến các quyền sở hữu công nghiệp, quyền sở hữu đối với tác phẩm văn chương, nghệ thuật, văn học…Tài sản vô hình không thể nhận biết bằng giác quan của con
  • 13. Đề tài: Quyền sở hữu tài sản của người nước ngoài tại Việt Nam GVHD: Th.S Diệp Ngọc Dũng 12 SVTH: Lê Thị Diễm Trinh người mà muốn nhận biết phải thông qua mối quan hệ giữa người có quyền khai thác lợi ích của tài sản và người thứ ba.Tài sản vô hình có những đặc điểm sau: - Tài sản vô hình là kết quả lao động sáng tạo, nó không phải vật chất nhưng có quan hệ với vật chất. Ví dụ: quyền tác giả đối với một bài thơ có đối tượng không phải bài thơ đó mà bài thơ chỉ là hình thức biểu hiện cụ thể bằng vật chất của kết quả lao động sáng tạo. - Quyền sở hữu đối với tài sản vô hình không có đối tượng là một nghĩa vụ tài sản do người khác thực hiện như quyền chủ nợ nhưng bằng việc khai thác người khai thác thu được lợi ích vật chất do người có quan tâm mang lại9 . Ví dụ tác giả sẽ được hưởng nhuận bút khi tác phẩm của mình được sử dụng. - Quyền đối với tài sản vô hình không có đối tượng là một vật hữu hình. Vì tác phẩm văn học được in thành sách đó chỉ là một cách thể hiện kết quả lao động sáng tạo của tác giả - Quyền sở hữu tài sản vô hình khác với quyền sở hữu tài sản theo luật chung. Vì tài sản vô hình không thể chiếm hữu được như tài sản hữu hình. Trong trường hợp quyền sở hữu đối với tài sản vô hình bị xâm hại thì chủ sở hữu có quyền khởi kiện hay khiếu nại để bảo vệ lợi ích của mình chứ không thể kiện đòi lại tài sản. * Quyền sử dụng đất Quyền sử dụng đất cũng là một tài sản. Mặc dù, nó không được qui định trong chương các loại tài sản nhưng nó được qui định riêng phần thứ năm trong BLDS 2005. Đây là một loại tài sản đặc biệt bởi vì “đất đai thuộc sở hữu toàn dân do nhà nước đại diện chủ sở hữu”10 . Nghĩa là, đối tượng của quyền sở hữu đất là đất đai nhưng đất đai không thuộc về một cá nhân nào kể cả chủ sở hữu quyền sử dụng đất. Hay nói khác hơn, người sử dụng đất không có đầy đủ quyền như một chủ sở hữu tài sản bình thường. Tuy nhiên, quyền này lại là một tài sản. Quyền sử dụng đất của mỗi chủ thể sử dụng đất lại không giống nhau tùy theo quyền sử dụng đất của họ có được qua hình thức nào (giao, thuê, nhận chuyển nhượng từ người khác…) và cũng tùy vào loại đất… Từ những cách phân loại trên, mặc dù tài sản được phân loại thành hoa lợi lợi tức, vật chính hay vật phụ, vật chia được hay không chia được, vật đặc định hay cùng loại, vật tiêu hao hay không tiêu hao, vật hữu hình hay vô hình... Ta điều nhận thấy rằng với cách phân loại nào đi nữa thì tựu chung lại tài sản vẫn tồn tại ở dạng động sản hay bất động sản. Cách phân loại tài sản thành động sản 9 Nguyễn Ngọc Điện, Bình luận khoa học về tài sản trong pháp luật Việt Nam, nxb trẻ, 2001, trang 73 10 Luật đất đai 2003, điều 5 khoản 2
  • 14. Đề tài: Quyền sở hữu tài sản của người nước ngoài tại Việt Nam GVHD: Th.S Diệp Ngọc Dũng 13 SVTH: Lê Thị Diễm Trinh hay bất động sản là cách phân loại bao trùm nhất, với cách phân loại này thì tất cả tài sản đều được xếp vào động sản hay bất động sản mà không bỏ sót một loại tài sản nào. Với cách phân loại khác thì chúng ta chỉ phân biệt được tài sản ở một khía cạnh nào đó mà không bao gồm hết những tài sản còn lại. Ngoài ra, cách phân loại tài sản thành động sản và bất động sản ở BLDS 2005 được xếp ở vị trí đầu tiên trong chương Các loại tài sản. Điều này làm ta nghĩ rằng đây là cách phân loại chính, còn các cách phân loại khác chỉ mang tính chất phụ. Và để hiểu rõ hơn về tài sản trong cách phân loại này, hay giúp chúng ta biết được tài sản nào là động sản tài sản nào là bất động sản theo quy định của pháp luật Việt Nam tác giả sẽ phân tích động sản và bất động sản thành một mục riêng sau đây. 1.1.2 Động sản và bất động sản 1.1.2.1 Phân biệt động sản và bất động sản Điều 174 BLDS 2005 qui định: 1. Bất động sản là các tài sản bao gồm: - Đất đai - Nhà, công trình xây dựng gắn liền với đất đai, kể cả các tài sản gắn liền với nhà, công trình xây dựng đó. - Các tài sản khác gắn liền với đất đai - Các tài sản khác do pháp luật qui định. 2. Động sản là những tài sản không phải là bất động sản Căn cứ vào qui định trên ta thấy, bất động sản bao gồm đất đai, tài sản gắn liền với đất đai và một số tài sản do pháp luật qui định.Bất động sản đầu tiên được đề cập đến là đất đai. Chính trong mối quan hệ với đất mà các vật khác được định nghĩa là động sản hay bất động sản. Vật được sinh ra từ đất như cây cối, mùa màng, khoáng sản…là bất động sản; vật gắn liền vào đất do hoạt động có ý thức của con người và không thể tách rời đất mà không hư hỏng như nhà, công trình xây dựng hạ tầng…cũng là bất động sản. Vật không cố định vị trí trên đất như bàn ghế, xe máy… là động sản; cũng là động sản, những vật không do đất sinh ra như gia súc gia cầm hoặc những vật đã tách rời khỏi đất như khoáng sản đã được khai thác. Các tài sản gắn liền với nhà ở và các công trình xây dựng đều được coi là bất động sản, với qui định này phạm vi bất động sản cũng được mở rộng gần như vô hạn định, tuy nhiên không phải tài sản nào gắn vào nhà ở và các công trình xây dựng đều được xem là bất động sản, mà phải thỏa mãn hai điều kiện:
  • 15. Đề tài: Quyền sở hữu tài sản của người nước ngoài tại Việt Nam GVHD: Th.S Diệp Ngọc Dũng 14 SVTH: Lê Thị Diễm Trinh - Tài sản gắn vào nhà ở và các công trình xây dựng là nhằm hoàn chỉnh, tạo thành một thể thống nhất, tăng giá trị sử dụng, giá trị kinh tế của nhà ở và công trình xây dựng đó như máy điều hòa, cửa sổ… - Thông thường việc gắn các “động sản” vào nhà ở và công trình xây dựng phải do chủ sở hữu đối với nhà ở, công trình xây dựng đó thực hiện, do vậy các bất động sản và động sản này là cùng một chủ sở hữu. Tuy nhiên, có những trường hợp động sản và bất động sản không nhất thiết là của một chủ sở hữu, đó là trường hợp cho thuê nhà, thuê khoán công trình xây dựng mà người thuê gắn các “động sản” của mình vào bất động sản đang thuê.11 Các tài sản khác gắn liền với đất đai cũng được xem là bất động sản. Những tài sản này chỉ được xem là bất động sản khi nó “gắn liền” với đất do vị trí tự nhiên, nếu tách ra khỏi đất đai thì các tài sản này trở thành động sản như khoáng sản đã khai thác, cây đã bị đốn khỏi mặt đất, lúa đã bị thu hoạch… Các tài sản khác do pháp luật qui định được coi là bất động sản không được BLDS trực tiếp liệt kê. Điều này là một quy định mở tạo tiền đề cho các qui định khác của pháp luật như “tàu bay, tàu biển là đối tượng được thế chấp và được coi là bất động sản” theo qui định tại Quyết định số 217/QĐ-NH ngày 17/8/1996 của thống đốc ngân hàng. Về hình thức thể hiện, tài sản có thể được nhận biết khi nó là các vật cụ thể nhưng cũng có thể là các quyền. Cho nên, tính chất động sản hay bất động sản của quyền thường được xác định theo đặc điểm vật chất của đối tượng của quyền; nhưng cũng có khi được xác định một cách chủ quan nhất là trong trường hợp đối tượng của quyền không phải là vật cụ thể. Như vậy, quyền sở hữu nhà là một bất động sản, quyền sở hữu xe máy là động sản, quyền thế chấp quyền sử dụng đất là bất động sản, quyền cầm cố là động sản… Đối với các quyền vô hình như quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp… do không gắn liền với đất đai hoặc thông qua các tài sản gắn liền với đất nên không được thừa nhận là bất động sản. Tất cả quyền vô hình đều là động sản do áp dụng điều 174 khoản 2 BLDS 2005. Có một số trường hợp tài sản ban đầu là một bất động sản nhưng lại có xu hướng trở thành động sản, và ngược lại có những tài sản là động sản nhưng chỉ có công dụng khi nó được cố định ở một vị trí thích hợp như là một bất động sản. Cũng có trường hợp tài sản không có xu hướng thay đổi tính chất nhưng sau một sự kiện hay một hoàn cảnh đặc biệt lại được thay thế bằng một tài sản có tính 11 Phạm Công Lạc, quyền sử dụng hạn chế bất động sản liền kề, nxb tư pháp, 2006, trang 48-49
  • 16. Đề tài: Quyền sở hữu tài sản của người nước ngoài tại Việt Nam GVHD: Th.S Diệp Ngọc Dũng 15 SVTH: Lê Thị Diễm Trinh chất khác và chịu sự chi phối bởi một chế độ pháp lí hoàn toàn khác nên có những trường hợp ngoại lệ sau: 1.1.2.2 Những trường hợp ngoại lệ 1.1.2.2.1 Bất động sản trở thành động sản Theo khoản 1 điều 174 BLDS 2005 thì hoa lợi tự nhiên như mùa màng, hoa quả chưa thu hoạch là bất động sản vì nó là tài sản gắn liền với đất đai. Điều đương nhiên là hoa lợi tự nhiên có giá trị vật chất khi được thu hoạch nghĩa là tách rời khỏi đất được tiêu dùng, được tặng cho… Tuy nhiên, hoa lợi tự nhiên vẫn có giá trị vật chất nếu được chuyển nhượng khi chưa thu hoạch (như mua bán lúa non ở các vùng quê nông thôn). Khi đó, dù vẫn còn gắn liền với đất, hoa lợi tự nhiên được định giá và chuyển giao như một tài sản độc lập đã tách rời khỏi đất. Như vậy, hoa lợi tự nhiên chưa thu hoạch trong trường hợp này là một bất động sản được động sản hóa. 1.1.2.2.2 Động sản trở thành bất động sản Có những tài sản, nếu xét theo đặc điểm vật lí thì đó là những động sản, nhưng trên thực tế, tài sản đó lại gắn chặt vào một bất động sản như là một yếu tố cần thiết cho việc khai thác bất động sản và sẽ tự động đi theo bất động sản đó trong trường hợp bất động sản được chuyển nhượng với tư cách là một vật phụ của bất động sản. Ta gọi đó là những động sản được bất động sản hóa do công dụng hiện tại. Việc bất động sản hóa các động sản như vậy phải có đủ hai điều kiện: - Thứ nhất, cả hai đối tượng của sự chuyển hóa đều phải thuộc về một chủ sở hữu. - Thứ hai, bất động sản do công dụng phải mang đầy đủ tính chất là một vật phụ của bất động sản đó. Nghĩa là phải trực tiếp phục vụ cho việc khai thác công dụng theo tính năng của vật chính. Việc xác định này có ảnh hưởng đến việc xác định chế độ pháp lí của một số giao dịch trong thực tế như chuyển nhượng tài sản có vật chính, vật phụ, quan hệ về bảo đảm trong thực hiện nghĩa vụ… Ví dụ: Căn nhà được thế chấp thì có nghĩa là những tài sản gắn liền với căn nhà cũng là đối tượng của hợp đồng. Tuy nhiên việc xác định tài sản nào đó là một bất động sản do công dụng chỉ có ý nghĩa trong những quan hệ đặc thù mà không làm mất đi tính chất động sản mà nó có được một cách tự nhiên. Chẳng hạn như, khi tài sản đó bị mất cắp, bị cướp… thì vẫn xem đó là một vụ vi phạm pháp luật hình sự chứ không thể cho rằng do đó là một bất động sản nên không thể trộm cắp hay bị cướp được.
  • 17. Đề tài: Quyền sở hữu tài sản của người nước ngoài tại Việt Nam GVHD: Th.S Diệp Ngọc Dũng 16 SVTH: Lê Thị Diễm Trinh Có một ngoại lệ khác là trong quan hệ thế chấp, đối tượng của hợp đồng là một tài sản đã được mua bảo hiểm. Trong thời gian hợp đồng thế chấp có hiệu lực, do nguyên nhân khách quan, tài sản thế chấp bị hủy hoại. Theo nội dung của hợp đồng bảo hiểm, chủ sở hữu sẽ được công ty bảo hiểm bồi thường bằng một khoản tiền theo thỏa thuận đã giao kết giữa hai bên. Lúc này, số tiền bảo hiểm tiếp tục là đối tượng của hợp đồng thế chấp vì hợp đồng vẫn còn hiệu lực. Điều này trái với qui định của luật là: trừ tàu biển, đối tượng của hợp đồng thế chấp phải là một bất động sản trong khi tiền là một động sản12 Như vậy, có thể thấy luật Việt Nam thừa nhận các loại bất động sản sau: Bất động sản không thể di dời được do bản chất tự nhiên vốn có của nó như đất đai, nhà cửa, công trình xây dựng gắn liền với đất đai, cây cối, hoa màu và các tài sản khác trên đất. Các động sản trở thành bất động sản vì mục đích sử dụng như: các tài sản gắn liền với nhà, công trình xây dựng đều được coi là bất động sản. Ví dụ như tủ được gắn cố định vào tường hoặc các vật khác được gắn kiên cố với nhà ở, công trình xây dựng. Các bất động sản do pháp luật qui định: ngoài những bất động sản được kể trên, khi cần thiết, bằng một số văn bản pháp luật cụ thể, pháp luật có thể quy định những tài sản khác là bất động sản. Điểm d khoản 1 điều 174 BLDS 2005 đã quy định “tài sản khác do luật qui định”. Ví dụ như tàu bay, tàu biển, quyền sử dụng đất cũng là bất động sản Còn những tài sản khác không phải là bất động sản đều là động sản.Việc phân biệt tài sản thành động sản và bất động sản có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định luật áp dụng trong trường hợp xác định quyền sở hữu có yếu tố nước ngoài; các giao dịch có yếu tố nước ngoài. Vậy quyền sở hữu là gi và quyền sở hữu thực chất là những quyền gi? 1.2 KHÁI QUÁT CHUNG VỀ QUYỀN SỞ HỮU 1.2.1 Khái niệm về quyền sở hữu Trong bất cứ một chế độ xã hội nào cũng tồn tại những cách thức nhất định về việc chiếm hữu, làm chủ của cải vật chất của con người. Mối quan hệ giữa người với người trong quá trình chiếm hữu của cải vật chất đó làm phát sinh các quan hệ sở hữu. Các quan hệ sở hữu này tồn tại cùng với sự phát triển của xã hội, khi nhà nước và pháp luật ra đời quyền sở hữu cũng trở thành chế định trung tâm trong pháp luật dân sự của mỗi nước. 12 Nguyễn Ngọc Điện, Bình luận khoa học về tài sản trong luật dân sự Việt Nam, nxb trẻ,2001, trang 47
  • 18. Đề tài: Quyền sở hữu tài sản của người nước ngoài tại Việt Nam GVHD: Th.S Diệp Ngọc Dũng 17 SVTH: Lê Thị Diễm Trinh Trong quá trình phát triển của xã hội loài người đã và đang tồn tại nhiều chế độ sở hữu khác nhau, chế định về quyền sở hữu của mỗi hệ thống pháp luật cũng có những qui định khác nhau. 1.2.1.1 Khái niệm quyền sở hữu theo pháp luật Việt Nam Theo điều 164 BLDS 2005 qui định “quyền sở hữu bao gồm quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt tài sản theo qui định của pháp luật. Chủ sở hữu là cá nhân, pháp nhân, chủ thể khác có đủ ba quyền là quyền chiếm hữu,quyền sử dụng và quyền định đoạt tài sản”. Từ qui định trên, ta có thể hiểu quyền sở hữu theo hai nghĩa: Theo nghĩa hẹp, quyền sở hữu được hiểu là mức độ xử sự mà pháp luật cho phép một chủ thể được thực hiện các quyền năng chiếm hữu, sử dụng và định đoạt trong những điều kiện nhất định. Theo nghĩa này, có thể nói quyền sở hữu chính là những quyền năng dân sự chủ quan của từng chủ sở hữu nhất định đối với một tài sản cụ thể, được xuất hiện trên cơ sở nội dung của qui phạm pháp luật về sở hữu. Theo nghĩa rộng, quyền sở hữu có thể được hiểu là tổng hợp hệ thống các qui phạm pháp luật do nhà nước ban hành để điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản13 . 1.2.1.2 Khái niệm quyền sở hữu theo pháp luật các nước14  Khái niệm quyền sở hữu trong Luật La Mã được hiểu là quyền sử dụng và quyền định đoạt tuyệt đối của tài sản đó. Nhưng chủ sở hữu vẫn bị một số hạn chế do luật định. Ví dụ: do yêu cầu nghiên cứu canh tác ở nông thôn và sử dụng nước ở thành phố, người ta có thể dẫn nước qua ruộng người khác hoặc đặt ống nước qua sân hàng xóm.  Trong pháp luật tư sản Anh thì quyền sở hữu gồm có ba quyền: quyền định đoạt, quyền sở hữu và quyền sử dụng. Nó là một trong những chế định quan trọng nhất của pháp luật tư sản Anh, được coi là quyền tự nhiên của con người, quyền thiêng bất khả xâm phạm. Quyền tư hữu được quy định trong bộ luật Napoleon là: quyền sử dụng một cách tuyệt đối nhất sao cho trong khuôn khổ của pháp luật. Bộ luật chia vật sở hữu thành hai loại: động sản và bất động sản. Những hạn chế quyền sở hữu do bộ luật quy định chỉ liên quan đến hành vi, làm ảnh hưởng xấu tới quyền lợi người khác. Ví dụ cấm xây dựng những ngôi nhà làm tổn hại đến hàng xóm. 13 Trần Minh trọng, Quy định về tài sản và quyền sở hữu trong BLDS 2005, nxb tư pháp, 2005 14 Trần Thị Viễn, Luận văn tốt nghiệp luật khóa 30 – Xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu. Cơ sở lí luận và thực tiễn, trang 8
  • 19. Đề tài: Quyền sở hữu tài sản của người nước ngoài tại Việt Nam GVHD: Th.S Diệp Ngọc Dũng 18 SVTH: Lê Thị Diễm Trinh  Theo hệ thống Luật Anh- Mỹ: quyền sở hữu được định nghĩa là tập hợp các quyền sử dụng và hưởng thụ một tài sản, bao gồm cả việc chuyển nhượng tài sản đó cho người khác. Người có đủ ba quyền: chiếm hữu, sử dụng, định đoạt đối với một vật gọi là sở hữu chủ. Quyền sở hữu là một quyền đối vật điển hình và là một quyền rộng nhất bao gồm tất cả lợi ích của đồ vật. 1.2.2 Nội dung cơ bản của quyền sở hữu theo pháp luật Việt Nam Như quy định của luật thì quyền sở hữu bao gồm quyền chiếm hữu, quyền sử dụng, quyền định đoạt tài sản. Nghĩa là một chủ thể nào đó nắm giữ đủ cả ba quyền vừa nêu đối với một tài sản thì mới trở thành chủ sở hữu của tài sản đó. Nếu thiếu một trong ba quyền: quyền chiếm hữu, quyền sử dụng, quyền định đoạt thì không trở thành chủ sở hữu. Vậy những quyền này là gì và được quy định như thế nào, ở Việt Nam, người nước ngoài có những quyền gì đối với các loại tài sản mà pháp luật cho phép họ được quyền sở hữu. 1.2.2.1 Quyền chiếm hữu Luật dân sự Việt Nam xác định chiếm hữu là một quyền năng của quyền sở hữu cụ thể, Điều 182 BLDS 2005 qui định quyền chiếm hữu là quyền nắm giữ, quản lý tài sản. Nắm giữ tài sản là việc người chiếm hữu giữ vật trong phạm vi kiểm soát làm chủ và chi phối tài sản đó theo ý chí của mình, ví dụ, cất tiền vào túi, quần áo, trang sức để vào trong tủ… Trong chiếm hữu theo luật Việt Nam, xét dưới góc độ chủ thể chiếm hữu, có thể tồn tại hai khả năng sau đây: Người chiếm hữu tài sản đồng thời là chủ sở hữu tài sản và người chiếm hữu không phải là chủ sở hữu của tài sản; Xét theo việc chiếm hữu có căn cứ hay không có căn cứ, có thể chia chiếm hữu thành chiếm hữu có căn cứ pháp luật và chiếm hữu không có căn cứ pháp luật. Chiếm hữu có căn cứ pháp luật được hiểu là các trường hợp người chiếm hữu thực sự có quyền chiếm hữu đối với tài sản của mình dựa trên những căn cứ do pháp luật qui định. Đó là hình thức chiếm hữu hợp pháp, theo Điều 183 Bộ luật Dân sự 2005, sự chiếm hữu hợp pháp trước hết đó là sự chiếm hữu tài sản của một chủ sở hữu được pháp luật công nhận. Người không phải là chủ sở hữu mà chiếm hữu tài sản thì chỉ được coi là chiếm hữu hợp pháp khi rơi vào các trường hợp sau: người được chủ sở hữu uỷ quyền quản lý tài sản, người được chuyển giao quyền chiếm hữu thông qua giao dịch dân sự; người phát hiện và giữ tài sản vô chủ, tài sản không xác định được ai
  • 20. Đề tài: Quyền sở hữu tài sản của người nước ngoài tại Việt Nam GVHD: Th.S Diệp Ngọc Dũng 19 SVTH: Lê Thị Diễm Trinh là chủ sở hữu, tài sản bị đánh rơi, bị bỏ quên, bị chôn giấu, bị chìm đắm; người phát hiện và giữ gia súc, gia cầm, vật nuôi dưới nước bị thất lạc, chiếm hữu của cơ quan, tổ chức theo chức năng và thẩm quyền có quyền thu giữ và chiếm hữu tài sản không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình liên tục, công khai. Đối với các trường hợp người được chủ sở hữu uỷ quyền quản lý tài sản hoặc được giao tài sản thông qua giao dịch dân sự, người chiếm hữu không thể xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu (Điều 185,186 Bộ luật Dân sự 2005). Người chiếm hữu tài sản của người khác có căn cứ pháp luật chỉ thực hiện quyền chiếm hữu trong phạm vi, theo cách thức và thời hạn do chủ sở hữu xác định. Hay nói khác đi, người không phải là chủ sở hữu thực hiện các quyền năng chủ yếu không mang tính độc lập15 Trong trường hợp quyền chiếm hữu bị xâm phạm, người chiếm hữu tài sản của người khác nhưng có căn cứ pháp luật được pháp luật bảo vệ theo các quy định về bảo vệ quyền sở hữu (từ Điều 255 đến Điều 260 Bộ luật Dân sự 2005). Lẽ dĩ nhiên, người này phải chứng minh được tính hợp pháp của việc chiếm hữu, chẳng hạn bằng việc xuất trình hợp đồng thuê tài sản. Người chiếm hữu trong tình trạng chiếm hữu không dựa vào các trường hợp được liệt kê tại Điều 190 Bộ luật Dân sự 2005 đều bị xem là chiếm hữu không có căn cứ pháp luật. Thực chất, chiếm hữu không có căn cứ pháp luật là trường hợp một người thực hiện quyền chiếm hữu của chủ sở hữu đối với một tài sản tức là xử sự như chính mình là chủ sở hữu trong khi thực chất chủ sở hữu đích thực của tài sản lại là người khác. Có hai trường hợp xảy ra: chiếm hữu không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình, chiếm hữu không có căn cứ pháp luật và không ngay tình. Người chiếm hữu không có căn cứ pháp luật và không ngay tình không được pháp luật bảo vệ và không được hưởng quy chế xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu. Trái lại, người chiếm hữu tài sản không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình được pháp luật bảo vệ trong nhiều trường hợp và được xác lập quyền sở hữu tài sản theo thời hiệu. 1.2.2.2 Quyền sử dụng Điều 192 Bộ luật Dân sự 2005 định rõ: quyền sử dụng là quyền khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản. Khai thác công dụng của tài sản được hiểu là việc dùng tài sản để phục vụ nhu cầu, sở thích của bản thân hoặc để khai thác lợi ích kinh tế của tài sản. Chẳng hạn, sử dụng môtô làm phương tiện 15 BLDS 2005, điều 185 khỏan 1
  • 21. Đề tài: Quyền sở hữu tài sản của người nước ngoài tại Việt Nam GVHD: Th.S Diệp Ngọc Dũng 20 SVTH: Lê Thị Diễm Trinh để đi lại, đeo nữ trang hay đồng hồ để làm đẹp…Hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản là việc chủ sở hữu thu nhận các sản vật tự nhiên mà tài sản mang lại như trái cây, gia súc sinh con, gia cầm đẻ trứng… hoặc thu các khoản lợi từ việc khai thác tài sản như tiền cho thuê nhà, lợi tức cổ phiếu, lợi tức cho vay… Việc sử dụng các tài sản là vật tiêu hao, đặc biệt là các vật tiêu hao hết sau một lần sử dụng như việc sử dụng thức ăn, đồ uống, tiêu tiền… cũng đồng nghĩa với việc chủ sở hữu sử dụng quyền định đoạt đối với tài sản. Như vậy, sử dụng tài sản là một trong những quyền năng quan trọng và có ý nghĩa thực tế của chủ sở hữu. Chủ sở hữu hoàn toàn có toàn quyền khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức của tài sản theo cách thức và mục đích sử dụng tài sản theo ý chí của mình: sử dụng hoặc không sử dụng tài sản, trực tiếp khai thác công dụng tự nhiên của tài sản hoặc để cho người khác sử dụng thông qua các giao dịch dân sự như hợp đồng cho thuê, cho mượn. Tuy nhiên, trong mọi trường hợp, việc sử dụng tài sản phải trên nguyên tắc không được làm ảnh hưởng đến lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác. Thông thường, chủ sở hữu là người có quyền sử dụng tài sản nhưng pháp luật cũng ghi nhận ba trường hợp người không phải chủ sở hữu cũng có quyền sử dụng tài sản. Trường hợp thứ nhất, người được chủ sở hữu chuyển giao quyền sử dụng tài sản thông qua hợp đồng. Trong trường hợp này, người sử dụng được quyền khai thác tài sản theo cách thức và thời hạn đã được thoả thuận với chủ sở hữu. Trường hợp thứ hai, người chiếm hữu tài sản không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình cũng có quyền khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản. Vì vậy, người này chỉ phải hoàn trả hoa lợi, lợi tức thu được từ thời điểm họ biết hoặc buộc phải biết việc chiếm hữu tài sản là không có căn cứ pháp luật16 Trường hợp thứ ba, cơ quan hay tổ chức nào đó cũng có quyền sử dụng tài sản của người khác trên cơ sở một văn bản của cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc sử dụng tài sản trong tình thế cấp thiết phù hợp với qui định của pháp luật. 1.2.2.3 Quyền định đoạt Điều 195 Bộ luật Dân sự 2005 định rõ: Quyền định đoạt là quyền chuyển giao quyền sở hữu tài sản hoặc từ bỏ quyền sở hữu tài sản đó. Việc định đoạt tài sản có thể định đoạt số phận thực tế của các vật, làm chấm dứt sự tồn tại vật chất của tài sản, như huỷ bỏ, tiêu dùng hết hoặc từ bỏ quyền sở hữu đối với vật, hoặc bằng hành vi pháp lý (bán, trao đổi, tặng cho, cho vay, để thừa kế, góp vốn vào 16 BLDS 2005, điều 194 khoản 2
  • 22. Đề tài: Quyền sở hữu tài sản của người nước ngoài tại Việt Nam GVHD: Th.S Diệp Ngọc Dũng 21 SVTH: Lê Thị Diễm Trinh công ty…). người không phải là chủ sở hữu chỉ có quyền định đoạt tài sản của người khác trong trường hợp được chủ sở hữu uỷ quyền hoặc trong những trường hợp đặc biệt do pháp luật quy định (việc trưng mua, trưng thu tài sản theo quyết định của Nhà nước). Việc thực hiện quyền định đoạt đối với tài sản sẽ làm chấm dứt hoặc thay đổi các quan hệ pháp luật liên quan đến tài sản đó. Về nguyên tắc, chủ sở hữu có toàn quyền định đoạt số phận thực tế hay số phận pháp lý tài sản của mình. Tuy nhiên, trong một số trường hợp nhằm bảo đảm hài hoà giữa lợi ích của chủ sở hữu và lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng hoặc lợi ích của người khác, quyền định đoạt có thể bị hạn chế theo những điều kiện cụ thể do pháp luật quy định. Được thể hiện trong một số trường hợp sau: - Khi tài sản đem bán là cổ vật, là di tích lịch sử, văn hoá thì Nhà nước có quyền ưu tiên mua; - Trong trường hợp tổ chức, cá nhân có quyền ưu tiên mua một tài sản theo quy định của pháp luật thì khi bán tài sản, chủ sở hữu phải dành quyền ưu tiên mua cho các tổ chức, cá nhân đó. Ví dụ: Thành viên của công ty trách nhiệm hữu hạn chỉ có thể chuyển nhượng phần vốn góp của mình cho người ngoài nếu các thành viên khác của công ty không mua hoặc mua không hết17. Hay, bán nhà ở đang cho thuê thì bên thuê được quyền ưu tiên mua trước18 . - Trong trường hợp pháp luật có quy định trình tự, thủ tục định đoạt tài sản thì phải tuân theo trình tự, thủ tục đó. Điều 450 Bộ luật Dân sự 2005 quy định hợp đồng mua bán nhà ở phải được lập thành văn bản, có công chứng hoặc chứng thực trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Như vậy, nếu A bán nhà cho B nhưng hợp đồng không được công chứng thì hợp đồng này có nguy cơ bị xem là vô hiệu (Điều 122, 124 và 127 Bộ luật Dân sự 2005). - Có những trường hợp tuy không phải là chủ sở hữu, cũng không được chủ sở hữu uỷ quyền, nhưng theo qui định của pháp luật những người có thẩm quyền vẫn có quyền định đoạt tài sản. (Trung tâm bán đấu giá tài sản theo qui định của pháp luật; hiệu cầm đồ được quyền bán tài sản, nếu hết thời hạn đã thoả thuận mà người vay không trả được tiền vay…)19 . Tóm lại, cả ba quyền năng cụ thể tạo thành một thể thống nhất trong nội dung của quyền sở hữu, chúng có liên hệ mật thiết với nhau nhưng mỗi quyền 17 Luật doanh nghiệp 2005, điều 43 18 Luật Nhà ở 2005, điều 94 19 Trần Thị Huệ, Quyền sở hữu và quyền năng của chủ sở hữu, Khoa luật, Trường đại học Hà Nội, 2008
  • 23. Đề tài: Quyền sở hữu tài sản của người nước ngoài tại Việt Nam GVHD: Th.S Diệp Ngọc Dũng 22 SVTH: Lê Thị Diễm Trinh năng lại mang một ý nghĩa khác nhau. Cụ thể quyền chiếm hữu là một tiền đề quan trọng cho hai quyền kia nhưng quyền sử dụng lại có một ý nghĩa thực tiễn thiết thực, vì chỉ có thông qua quyền năng này chủ sở hữu mới khai thác được lợi ích, công dụng của vật để thỏa mãn nhu cầu cho mình, còn quyền định đoạt lại xác định ý nghĩa pháp lý quan trọng nhất của chủ sở hữu. Từ đó cho chúng ta khẳng định một cách chắc chắn rằng chỉ khi nào có đầy đủ cả ba quyền này trên một tài sản thì chủ thể mới trở thành chủ sở hữu tài sản đó được. Và cũng có nghĩa là người nước ngoài được quyền sở hữu tài sản nào ở Việt Nam thì họ cũng có đầy đủ ba quyền quyền chiếm hữu quyền sử dụng quyền định đoạt đối với tài sản đó. Như chúng ta đã biết, mỗi quốc gia trên thế giới đều xây dựng một hệ thống pháp luật cho riêng mình và các hệ thống pháp luật đó khác nhau tùy theo mỗi nước quy định như thế nào, đôi khi lại trái ngược nhau. Khi đó sẽ có hiện tượng, một hay nhiều hệ thống pháp luật đồng thời đều có thể áp dụng để điều chỉnh một quan hệ pháp luật. Điều này trong tư pháp quốc tế người ta gọi đó là hiện tượng xung đột pháp luật. Điều đương nhiên là hiện tượng xung đột pháp luật cũng xảy ra đối với những quy định về quyền sở hữu. Khi đó pháp luật của các nước sẽ giải quyết vấn đề này như thế nào? 1.2.3 Giải quyết xung đột pháp luật về quyền sở hữu Tìm hiểu cách giải quyết xung đột pháp luật về quyền sở hữu của các nước giúp ta biết được điểm chung và điểm riêng của các nước để so sánh với pháp luật Việt Nam. Từ đó trong quan hệ tư pháp quốc tế ta có những cách giải quyết xung đột về quyền sở hữu một cách linh hoạt hơn. Cũng như việc tìm hiểu cách giải quyết xung đột pháp luật về quyền sở hữu theo pháp luật Việt Nam sẽ giúp người nước ngoài nắm bắt được quy định của pháp luật Việt Nam về vấn đề này. Việc giải quyết xung đột pháp luật về quyền sở hữu không đi sâu phân tích hay nghiên cứu về nội dung quyền sở hữu trong pháp luật của từng quốc gia mà chủ yếu cho chúng ta biết nguyên tắc chung xác định quyền sở hữu của các nước. Từ đó, hướng dẫn ta chọn luật để áp dụng cho phù hợp với từng quan hệ. 1.2.3.1 Giải quyết theo pháp luật các nước20 Từ lâu vấn đề thể thức giải quyết xung đột pháp luật trong lĩnh vực quyền sở hữu đã trở thành một nội dung quan trọng của khoa học tư pháp quốc tế. Mặc dù còn tồn tại nhiều sự khác biệt, nhưng pháp luật của đa số các nước hiện nay trên thế giới đều thống nhất áp dụng một nguyên tắc chung nhằm giải quyết xung 20 Giáo trình luật tư pháp quốc tế, đại học luật quốc gia Hà Nội, trang 119
  • 24. Đề tài: Quyền sở hữu tài sản của người nước ngoài tại Việt Nam GVHD: Th.S Diệp Ngọc Dũng 23 SVTH: Lê Thị Diễm Trinh đột pháp luật về quyền sở hữu là áp dụng pháp luật nơi có tài sản. Phần lớn pháp luật của các nước châu Âu lục địa như Bỉ, Hà Lan, Italia, Đức, Thụy Sĩ, Pháp, Hunggari, Ba Lan, Liên bang Nga, Hy Lạp… và Pháp luật Anh–Mỹ cũng như pháp luật của Australia, Nhật Bản, Việt Nam… đều áp dụng nguyên tắc này. Chỉ có một số ít hệ thống pháp luật như Áo, Tây Ban Nha, Achentina, Braxin và Ai Cập là còn giữ cách thức giải quyết xung đột pháp luật về quyền sở hữu đã tồn tại từ trước thế kỉ XIX: Đối với bất động sản thì áp dụng hệ thuộc luật nơi có tài sản còn đối với động sản thì áp dụng luật nhân thân của người có tài sản. Luật nơi có tài sản không những qui định nội dung của quyền sở hữu mà còn ấn định cả các điều kiện phát sinh, chấm dứt và chuyển dịch quyền sở hữu. Nội dung này đã được qui định trong pháp luật của nhiều nước. Theo khoản 1 điều 24 luật về tư pháp quốc tế của Ba Lan thì “quyền sở hữu và các quyền tài sản chịu sự điều chỉnh của pháp luật nước nơi có tài sản”. Khoản 2 điều 24 của luật này chỉ rõ: “Sự phát sinh và chấm dứt quyền sở hữu cũng như sự phát sinh, chuyển dịch hoặc chấm dứt các quyền tài sản chịu sự điều chỉnh của pháp luật nơi có tài sản vào thời điểm xảy ra sự kiện làm phát sinh các hậu quả pháp lí trên”. Pháp luật nơi có tài sản giữ vai trò nhất định trong việc xác định quyền sở hữu đối với tài sản đang trên đường vận chuyển hay còn gọi là tài sản quá cảnh qua nhiều quốc gia. Việc xác định quyền sở hữu đối với tài sản đang trên đường vận chuyển là một vấn đề phức tạp đã và đang được tư pháp quốc tế của các nước quan tâm giải quyết. Theo pháp luật các nước hiện nay, quyền sở hữu cũng như các quyền tài sản đối với tài sản đang trên đường vận chuyển sẽ được điều chỉnh bởi một trong các hệ thống pháp luật sau đây:  Pháp luật nơi gửi tài sản đi.  Pháp luật nước nơi nhận tài sản.  Pháp luật nước mà phương tiện vận tải mang quốc tịch (trong lĩnh vực giao thông vận tải bằng tàu biển hoặc máy bay);  Pháp luật của nước nơi có trụ sở của tòa án có thẩm quyền giải quyết tranh chấp.  Pháp luật của nước nơi hiện đang có tài sản  Pháp luật của nước do các bên lựa chọn hoặc pháp luật của nước nơi gửi tài sản đi hoặc là pháp luật của nơi nhận hoặc pháp luật của nước nơi hiện đang có tài sản… Để xác định quyền sở hữu đối với tài sản đang trên đường vận chuyển, cần thiết phải hiểu đúng khái niệm quá cảnh. Thuật ngữ quá cảnh thông thường được
  • 25. Đề tài: Quyền sở hữu tài sản của người nước ngoài tại Việt Nam GVHD: Th.S Diệp Ngọc Dũng 24 SVTH: Lê Thị Diễm Trinh hiểu là việc vận chuyển tài sản hoặc hành khách đi qua lãnh thổ của một hay nhiều nước nào đó để đến nước thứ ba hoặc ít nhất cũng phải đi qua vùng biển quốc tế. Như vậy, việc vận chuyển tài sản (hàng hóa) từ lãnh thổ quốc gia này, sang quốc gia kia có cùng chung đường biên giới quốc gia sẽ không được coi là quá cảnh. Để bảo vệ quyền lợi của người chiếm hữu không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình trước yêu cầu đòi lại tài sản từ phía người chủ sở hữu chúng, pháp luật các nước thường áp dụng pháp luật của nước hiện đang có tài sản hoặc pháp luật của nước nơi có tài sản vào thời điểm chiếm hữu. Pháp luật Cộng hòa liên bang Đức, cộng hòa liên bang Nga áp dụng nguyên tắc pháp luật của nước nơi có tài sản để bảo vệ người chiếm hữu không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình Các phạm trù “động sản” và “bất động sản” không phải được hiểu một cách thống nhất trong các hệ thống pháp luật hiện nay trên thế giới. Do đó, thường phát sinh xung đột pháp luật về định danh tài sản. Việc xác định tài sản là động sản hay bất động sản là tiền đề cho việc giải quyết xung đột pháp luật về quyền sở hữu có yếu tố nước ngoài. Bởi vậy, pháp luật của đa số các nước dựa trên các đạo luật trong nước và các điều ước quốc tế (các hiệp định tương trợ tư pháp) thường ghi nhận nguyên tắc áp dụng pháp luật nơi nơi có tài sản để giải quyết xung đột pháp luật về định danh. Nguyên tắc áp dụng pháp luật của nước nơi có tài sản giữ vai trò quan trọng trong việc giải quyết xung đột pháp luật về quyền sở hữu có yếu tố nước ngoài. Tuy nhiên trong lĩnh vực hàng không dân dụng và lĩnh vực hàng hải nguyên tắc pháp luật nơi có tài sản dường như không được áp dụng. Ví dụ: + Điều 10 luật hàng không dân dụng của Ba Lan năm 1962 quy định: “Các quyền sở hữu đối với tàu bay cũng như đối với tài sản trên tàu bay được điều chỉnh bởi pháp luật của nước nơi tàu bay đăng kí” + Điều 7 Bộ luật hàng hải Ba Lan ghi nhận: “Quyền sở hữu đối với tài sản toàn tàu biển sẽ do pháp luật của nước mà tàu mang cờ”21 . 1.2.3.2 Giải quyết theo pháp luật Việt Nam Trong việc giải quyết các vấn đề xung đột pháp luật về quyền sở hữu, pháp luật của nhiều nước và thực tiễn pháp luật quốc tế thường vận dụng hệ thống luật nơi có vật. Luật nơi có vật không những qui định nội dung quyền sở hữu mà còn ấn định điều kiện phát sinh, chấm dứt và chuyển dịch quyền sở hữu. 21 Giáo trình luật tư pháp quốc tế, đại học luật quốc gia Hà Nội, trang 125
  • 26. Đề tài: Quyền sở hữu tài sản của người nước ngoài tại Việt Nam GVHD: Th.S Diệp Ngọc Dũng 25 SVTH: Lê Thị Diễm Trinh Nội dung này được ấn định trong pháp luật nhiều nước. Tuy nhiên có sự khác nhau về mức độ vận dụng. Có nước áp dụng hệ thuộc này ở mức độ như nhau đối với động sản cũng như bất động sản, có nước áp dụng chủ yếu đối với bất động sản. Khoản 1 điều 766 BLDS 2005 qui định “Việc xác lập, thực hiện, thay đổi, chấm dứt quyền sở hữu tài sản, nội dung quyền sở hữu đối với tài sản được xác định theo pháp luật của nước nơi có tài sản đó”. Như vậy, quyền sở hữu đối với tài sản sẽ do luật nơi có tài sản điều chỉnh bất luận đối tượng của quyền sở hữu là động sản hay bất động sản. Trong khoa học tư pháp quốc tế, một nguyên tắc chung được đặt ra là: nếu quyền sở hữu đối với tài sản là động sản được phát sinh trên cơ sở pháp luật của một nước này, nhưng khi tài sản được dịch chuyển sang một nước thứ hai, thì quyền sở hữu của chủ sở hữu cũng được pháp luật của nước thứ hai bảo vệ (nếu nó phù hợp với pháp luật của nước thứ hai đó)22 . Và pháp luật Việt Nam cũng phù hợp với nguyên tắc chung này. Ví dụ 1: Một công dân A mua một chiếc xe máy của một công dân Singapore tại Singapore. Sau đó công dân đó mang xe máy về Việt Nam. Tại Việt Nam công dân A cũng được pháp luật Việt Nam bảo vệ quyền sở hữu đối với chiếc xe máy nếu công dân A đó khi về Việt Nam có đăng kí quyền sở hữu chiếc xe tại Việt Nam. Ví dụ 2: Một công dân Việt Nam du học tại Mỹ, anh ta có mua 1 khẩu súng. Quyền sở hữu súng của anh ta chỉ được bảo vệ tại Mỹ anh ta không được phép mang khẩu súng về Việt Nam, vì pháp luật Việt Nam không cho phép 1 công dân bình thường được sở hữu súng. Ngoại lệ của nguyên tắc nơi có vật nêu trên là những trường hợp mà pháp luật Việt Nam có qui định khác. Chẳng hạn, ngay tại khoản 2 điều 766 BLDS 2005 đề cập đến vấn đề lựa chọn pháp luật để điều chỉnh các quan hệ về quyền sở hữu đối với tài sản là động sản trên đường vận chuyển quốc tế. Động sản đang đi trên đường được xác định theo pháp luật của nước nơi động sản chuyển đến. Tuy nhiên, theo qui định này nguyên tắc ý chí của các bên là chủ đạo, trong các trường hợp các bên không lựa chọn mới áp dụng pháp luật nơi nhận hàng. Vậy, pháp luật Việt Nam áp dụng hệ thuộc pháp luật của nước nơi tài sản được chuyển đến hoặc hệ thuộc luật lựa chọn. 22 Giáo trình luật tư pháp quốc tế, đại học luật quốc gia Hà Nội, trang 121
  • 27. Đề tài: Quyền sở hữu tài sản của người nước ngoài tại Việt Nam GVHD: Th.S Diệp Ngọc Dũng 26 SVTH: Lê Thị Diễm Trinh Khoản 2 điều 766 qui định: “Quyền sở hữu đối với động sản trên đường vận chuyển được xác định theo pháp luật của nước nơi động sản được chuyển đến, nếu không có thỏa thuận khác”. Nguyên tắc áp dụng pháp luật của nước nơi có tài sản để giải quyết xung đột pháp luật về định danh đã được ghi nhận trong các hiệp định tương trợ tư pháp giữa Việt Nam với Cuba, với Hunggari, với Bungari… Khoản 3 điều 766 BLDS qui định “việc phân định tài sản là động sản hoặc bất động sản được xác định theo pháp luật của nước nơi có tài sản”. Theo đó, nguyên tắc nơi có tài sản là nguyên tắc lựa chọn pháp luật để xác định vấn đề trên. Bởi vậy, nếu tài sản ở nước ngoài thì chúng ta cũng căn cứ vào pháp luật nơi đó để xác định. Ví dụ, một tài sản đang ở nước ngoài, theo pháp luật của nước mà tài sản đó đang tồn tại xác định đó là một bất động sản song theo pháp luật Việt Nam là động sản thì khi chúng ta giải quyết thì chúng ta phải xem xét nó là bất động sản. Vấn đề phân biệt động sản hay bất động sản có ý nghĩa rất quan trọng. Ví dụ, nếu nội dung của hợp đồng về chuyển giao động sản có thể được xác định theo thỏa thuận của các bên, trong khi đó nội dung hợp đồng về chuyển giao bất động sản lại thường được xác định theo pháp luật nơi có tài sản. Hay thừa kế theo luật đối với động sản ở nhiều quốc gia theo nguyên tắc nơi cư trú cuối cùng của người để lại di sản, trong khi đó vấn đề như vậy đối với bất động sản lại áp dụng nguyên tắc nơi có tài sản. Ngoài ra, quyền sở hữu đối với những tài sản đặc thù như máy bay, tàu biển cũng được qui định như một trường hợp ngoại lệ. Tại khoản 4 điều 766 BLDS 2005 qui định: “Việc xác định quyền sở hữu đối với tàu bay dân dụng và tàu biển tại Việt Nam phải tuân theo pháp luật về hàng không dân dụng và pháp luật về hàng hải của Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”. Như vậy đối với các quan hệ sở hữu và các quan hệ tài sản trong lĩnh vực hàng không dân dụng và hàng hải quốc tế, hệ thuộc pháp luật của nước nơi có tài sản không được áp dụng chủ yếu mà chủ yếu là áp dụng các hệ thuộc luật mà các phương tiện mang cờ hoặc hệ thuộc luật nơi kí kết hợp đồng. Hệ thuộc pháp luật của nơi có tài sản cũng không được áp dụng để điều chỉnh các quan hệ sở hữu phát sinh trong một số lĩnh vực như:  Các quan hệ sở hữu đối với các đối tượng của sở hữu trí tuệ;  Các quan hệ về tài sản của pháp nhân nước ngoài khi pháp nhân đó bị giải thể;
  • 28. Đề tài: Quyền sở hữu tài sản của người nước ngoài tại Việt Nam GVHD: Th.S Diệp Ngọc Dũng 27 SVTH: Lê Thị Diễm Trinh  Các quan hệ về tài sản liên quan đến các tài sản của quốc gia đang ở nước ngoài  Các quan hệ tài sản liên quan đến các đối tượng của các đạo luật về quốc hữu hóa23 . Như vậy, pháp luật Việt Nam giải quyết xung đột pháp luật về quyền sở hữu dựa trên nguyên tắc chung của đa số các nước. Ngoại trừ những trường hợp ngoại lệ ra thì việc xác lập, thay đổi, chấm dứt quyền sở hữu tài sản, nội dung quyền sở hữu đối với tài sản được xác định theo pháp luật của nước nơi có tài sản. Theo đó thì việc xác lập, thay đổi, chấm dứt quyền sở hữu tài sản, nội dung quyền sở hữu tài sản tại Việt Nam sẽ được xác định theo pháp luật Việt Nam. Vậy pháp luật Việt Nam quy định về quyền sở hữu tài sản của người nước ngoài tại Việt Nam như thế nào? 23 Giáo trình luật tư pháp quốc tế, đại học luật quốc gia Hà Nội, trang 125
  • 29. Đề tài: Quyền sở hữu tài sản của người nước ngoài tại Việt Nam GVHD: Th.S Diệp Ngọc Dũng 28 SVTH: Lê Thị Diễm Trinh Chương 2 PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ QUYỀN SỞ HỮU TÀI SẢN CỦA NGƯỜI NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM Người nước ngoài được quyền sở hữu đối với một tài sản có nghĩa là họ được quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản đó. Tuy nhiên, họ được quyền sở hữu những loại tài sản nào tại Việt Nam đều do pháp luật Việt Nam quy định. Ngoài ra, đối với từng loại người nước ngoài mà pháp luật Việt Nam xây dựng cho họ những quy chế riêng. Vậy, người nước ngoài được hiểu như thế nào? Trong lịch sử của bất kì một quốc gia nào, ngoài những người được gọi là công dân của quốc gia đó bao giờ cũng có một số lượng nhất định những người không phải là công dân của nước sở tại. Những người này trong khoa học pháp lí người ta gọi họ là “người nước ngoài”. Như vậy, người nước ngoài, được hiểu một cách đơn giản nhất, là người không phải là công dân của quốc gia sở tại. Thuật ngữ người nước ngoài được hiểu rất rộng bao gồm người nước ngoài một quốc tịch nước ngoài, người nước ngoài mang nhiều quốc tịch nước ngoài hay người không mang một quốc tịch của một quốc gia nào. Ngày nay, thuật ngữ người nước ngoài được sử dụng rộng rãi ở tất cả các nước không chỉ trong sách báo mà cả trong văn bản pháp luật lẫn trong giao tiếp hàng ngày của mọi người. Tuy nhiên, quan niệm về người nước ngoài ở mỗi nước, mỗi thời kì không phải trong mọi trường hợp đều giống nhau. Chẳng hạn, đối với Bungari: “người nước ngoài là những người không có quốc tịch Bungari”. Ở Liên Xô cũ quan niệm rằng: “người nước ngoài là công dân nước ngoài trên lãnh thổ Liên Xô”, từ khi Hiến pháp Liên Xô được ban hành 1977 thì quan niệm người nước ngoài đã được thay đổi khi đó người nước ngoài bao gồm cả công dân nước ngoài và người không có quốc tịch. Ở Việt Nam, cũng có rất nhiều văn bản khái niệm người nước ngoài như: Quyết định số 122/CP ngày 25/4/1977 của Hội đồng chính phủ về chính sách đối với người nước ngoài cư trú và làm ăn sinh sống ở Việt Nam đã khái niệm người nước ngoài bao gồm những người có quốc tịch nước ngoài và những người không có quốc tịch. Tuy nhiên, Quyết định này chỉ áp dụng đối với những người nước ngoài cư trú và làm ăn sinh sống ở Việt Nam hay còn gọi là người nước ngoài định cư ở Việt Nam.
  • 30. Đề tài: Quyền sở hữu tài sản của người nước ngoài tại Việt Nam GVHD: Th.S Diệp Ngọc Dũng 29 SVTH: Lê Thị Diễm Trinh Trong các văn bản pháp luật khác của nước ta, khái niệm người nước ngoài được hiểu chung hơn, cũng bao gồm người có quốc tịch nước ngoài và người không có quốc tịch, nhưng bất kể nơi cư trú. Ví dụ, khoản 1 điều 1 của Pháp lệnh xuất cảnh nhập cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam năm 2000 qui định “Trong pháp lệnh này, người nước ngoài được hiểu là người không có quốc tịch Việt Nam” hay trong khoản 6 điều 2 của luật quốc tịch Việt Nam năm 1998 quy định người nước ngoài thường trú tại Việt Nam là người có quốc tịch nước ngoài và người không có quốc tịch cư trú làm ăn sinh sống lâu dài ở Việt Nam24 . Như vậy, quan niệm về người nước ngoài của mỗi nước được xây dựng trên tiêu chí quốc tịch hoặc nơi cư trú hay cả 2 tiêu chí quốc tịch và nơi cư trú… Đối với nước ta các văn bản pháp luật hiện hành không gắn khái niệm người nước ngoài với nơi cư trú của họ bởi vì tiêu chí để xác định một cá nhân là người nước ngoài đối với Việt Nam không phải là nơi cư trú mà là có quốc tịch hay không có quốc tịch Việt Nam. Hay nói khác hơn, người nước ngoài theo quan niệm của Việt Nam là người có quốc tịch nước ngoài và người không có quốc tịch. Thật ra quan niệm về người nước ngoài được hiểu theo 2 nghĩa25 : - Theo nghĩa hẹp thì người nước ngoài là một thể nhân nước ngoài, tức là một cá nhân nước ngoài, các nhân này có thể có một quốc tịch nước ngoài hoặc hai quốc tịch nước ngoài hoặc không có quốc tịch nào. - Theo nghĩa rộng thì người nước ngoài không chỉ là một thể nhân nước ngoài mà nó còn bao gồm cả pháp nhân nước ngoài và cũng có thể là một quốc gia nước ngoài trong trường hợp quốc gia đó tham gia vào mối quan hệ dân sự trong tư pháp quốc tế. Tuy nhiên theo quan niệm của Việt Nam, người nước ngoài là khái niệm dùng để chỉ cá nhân có quốc tịch nước ngoài hoặc cá nhân không có quốc tịch nước ngoài chứ không chỉ các pháp nhân và nhà nước. Quy chế pháp lí dân sự của các cá nhân nước ngoài và của pháp nhân nước ngoài rất khác nhau. Quy chế pháp lí dân sự của cá nhân nước ngoài và của nhà nước nước ngoài trong các mối quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài lại càng xa nhau. Trong lĩnh vực này, Nhà nước nước ngoài được hưởng quyền miễn trừ tư pháp tuyệt đối; cá nhân, pháp nhân không được hưởng quyền miễn trừ này. Nếu xếp cá nhân và cả pháp nhân ngang hàng với nhà nước nước ngoài trong các quan hệ dân sự có yếu tố nước 24 Đoàn Năng, một số vấn đề lí luận cơ bản về tư pháp quốc tế, nxb chính trị quốc gia, 2001, trang 107 25 Diệp Ngọc Dũng_Cao Nhất Linh, Giáo trình tư pháp quốc tế_Trường đại học Cần Thơ, 2002
  • 31. Đề tài: Quyền sở hữu tài sản của người nước ngoài tại Việt Nam GVHD: Th.S Diệp Ngọc Dũng 30 SVTH: Lê Thị Diễm Trinh ngoài thì sẽ dẫn đến sai lầm nghiêm trọng về lí luận và phải hứng chịu hậu quả tai hại của sự chà đạp chủ quyền quốc gia26 . Chính vì khái niệm người nước ngoài có nội dung pháp lí rất rộng. Và để nâng cao hiệu quả quản lí nhà nước đối với người nước ngoài nhằm đảm bảo lợi ích quốc gia cũng như quyền và nghĩa vụ hợp pháp của người nước ngoài trên cơ sở các văn bản pháp luật của nhà nước và các điều ước quốc tế chúng ta có thể phân loại người nước ngoài thành các nhóm cơ bản sau:  Căn cứ vào quan hệ quốc tịch người nước ngoài được chia thành người có quốc tịch nước ngoài và người không có quốc tịch  Căn cứ vào nơi cư trú, người nước ngoài được chia thành người cư trú trên lãnh thổ Việt Nam và người cư trú ở ngoài lãnh thổ Việt Nam.  Căn cứ vào tính chất của nội dung qui chế pháp lí, người nước ngoài được chia thành loại người được hưởng qui chế pháp lí đặc biệt và loại không được hưởng các chế độ pháp lí đặc biệt này27 . Việc dựa vào mỗi tiêu chí để phân loại người nước ngoài đều có ý nghĩa riêng, mỗi loại người nước ngoài khác nhau, ở một giới hạn nào đó, qui chế pháp lí của họ có những điểm giống và khác nhau. Tuy nhiên, trong đề tài quyền sở hữu tài sản của người nước ngoài tại Việt Nam, thuật ngữ người nước ngoài dùng để chỉ nhà đầu tư nước ngoài và người nước ngoài đang làm ăn cư trú tại Việt Nam. Và quyền sở hữu của họ được nghiên cứu trên tài sản là động sản và bất động sản. 2.1 QUYỀN SỞ HỮU TÀI SẢN LÀ ĐỘNG SẢN CỦA NGƯỜI NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM Cũng như đã phân tích ở chương 1 về các loại tài sản, thì tài sản được phân loại dựa trên nhiều tiêu chí khác nhau. Tuy nhiên, tác giả cho rằng việc phân loại thành động sản và bất động sản là phù hợp hơn cả, nó có thể bao quát hết tất cả tài sản. Nghĩa là một tài sản, nếu không là bất động sản thì cũng là động sản. Chính sự phù hợp của cách phân loại này mà trong tư pháp quốc tế người ta cũng dựa vào cách phân loại tài sản thành động sản và bất động sản để định danh tài sản. Bởi việc định danh tài sản là rất quan trọng đối với việc xác định luật áp dụng trong các quan hệ tư pháp quốc tế cụ thể, hay nói khác hơn là trong việc giải quyết các tranh chấp về tài sản trong tư pháp quốc tế. Thực ra thì cách phân loại này nó bao hàm cả các cách phân loại khác như: hoa lợi, lợi tức hay vật 26 Đoàn Năng, một số vấn đề lí luận cơ bản về tư pháp quốc tế, nxb chính trị quốc gia, 2001, trang 109 27 Đoàn Năng, một số vấn đề lí luận cơ bản về tư pháp quốc tế, nxb chính trị quốc gia, 2001, trang 110- 112
  • 32. Đề tài: Quyền sở hữu tài sản của người nước ngoài tại Việt Nam GVHD: Th.S Diệp Ngọc Dũng 31 SVTH: Lê Thị Diễm Trinh chính vật phụ hay vật tiêu hao… là những động sản; Vật chính hoặc vật không tiêu hao cũng có thể là bất động sản nhưng cũng có thể là động sản. Và cũng chính những lí do đó mà tác giả quyết định nghiên cứu quyền sở hữu tài sản của người nước ngoài tại Việt Nam dựa trên tiêu chí tài sản là động sản hay bất động sản. Từ trước cho đến nay, pháp luật Việt Nam chưa có một văn bản chuyên biệt nào quy định về quyền sở hữu tài sản của người nước ngoài tại Việt Nam, cũng như những quy định về quyền sở hữu của người nước ngoài cũng không có một điều luật nào quy định rõ rằng họ được quyền sở hữu những động sản nào và bất động sản nào mà quyền sở hữu tài sản của họ chỉ được hiểu qua những quy định chung mà thôi. Giai đoạn trước khi có bộ luật dân sự 1995 Trước đây, khi BLDS 1995 chưa được ban hành thì pháp luật Việt Nam chưa có qui định chung và đầy đủ về quyền sở hữu tài sản của người nước ngoài. Các qui định về vấn đề này nằm rải rác ở rất nhiều văn bản khác nhau. Ví dụ, theo điều 7 Quyết định số 122/CP ngày 25/4/1977 của Hội đồng chính phủ về chính sách đối với người nước ngoài cư trú làm ăn sinh sống tại Việt Nam (chúng ta gọi là người nước ngoài định cư tại Việt Nam) được hưởng quyền sở hữu cá nhân về thu nhập hợp pháp, về tư liệu sinh hoạt và những công cụ sản xuất nhất định theo pháp luật Việt Nam Ngoài ra, để mở rộng hợp tác kinh tế với người nước ngoài đẩy mạnh xuất nhập khẩu, phát triển kinh tế trên cơ sở khai thác có hiệu quả tài nguyên lao động và các tiềm năng khác của đất nước. Điều 25 Hiến Pháp năm 1992, điều 1 và điều 21 luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1987 đã khẳng định việc thừa nhận và bảo vệ quyền sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài đối với vốn đầu tư do họ đưa vào Việt Nam, đối với các quyền về tài sản và các quyền lợi khác của họ khi các quyền đó hình thành trên cơ sở pháp luật Việt Nam. Với tinh thần của Hiến pháp và của luật đầu tư nước ngoài, nhà đầu tư nước ngoài đương nhiên có quyền sở hữu đối với động sản là những tài sản mà họ đưa vào Việt Nam một cách hợp pháp để đầu tư hay động sản mà họ thu nhận được một cách hợp pháp từ hoạt động đầu tư hoặc từ nguồn hợp pháp khác28 . Điều 25 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam qui định: “Nhà nước khuyến khích các tổ chức, cá nhân nước ngoài đầu tư vốn, công nghệ vào Việt Nam phù hợp với pháp luật Việt Nam, pháp luật và thông lệ quốc tế; 28 Đoàn Năng, một số vấn đề lí luận cơ bản về tư pháp quốc tế, nxb chính trị quốc gia, 2001, trang 137, 138