SlideShare a Scribd company logo
1 of 109
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN HƢƠNG GIANG
THỪA KẾ THEO PHÁP LUẬT -
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
Tham khảo thêm tài liệu tại Trangluanvan.com
Dịch Vụ Hỗ Trợ Viết Thuê Tiểu Luận,Báo Cáo
Khoá Luận, Luận Văn
ZALO/TELEGRAM HỖ TRỢ 0934.536.149
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2022
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN HƢƠNG GIANG
THỪA KẾ THEO PHÁP LUẬT -
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
Chuyên ngành : Luật dân sự
Mã số :603830
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Bùi Đăng Hiếu
HÀ NỘI - 2022
2
Lêi cam ®oan
T«i xin cam ®oan ®©y lµ c«ng tr×nh
nghiªn cøu khoa häc cña riªng t«i. C¸c sè liÖu,
vÝ dô vµ trÝch dÉn trong luËn v¨n ®¶m b¶o
®é tin cËy, chÝnh x¸c vµ trung thùc. Nh÷ng
kÕt luËn khoa häc cña luËn v¨n ch-a tõng ®-îc
ai c«ng bè trong bÊt kú c«ng tr×nh nµo kh¸c.
T¸c gi¶ luËn v¨n
NguyÔn H-¬ng Giang
3
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ THỪA KẾ THEO PHÁP LUẬT 7
1.1. Khái niệm thừa kế theo pháp luật và các trường hợp thừa kế 7
theo pháp luật
1.1.1. Khái niệm thừa kế theo pháp luật 7
1.1.2. Các trường hợp thừa kế theo pháp luật 9
1.2. Tiến trình phát triển của pháp luật Việt Nam về thừa kế theo 11
pháp luật
1.2.1. Trước năm 1945 12
1.2.2. Từ năm 1945 đến nay 15
1.4. Quy định của một số quốc gia về thừa kế theo pháp luật 21
1.4.1. Pháp luật về thừa kế theo pháp luật trong Bộ luật dân sự Pháp 22
1.4.2. Pháp luật dân sự và thương mại Thái Lan 25
Chương 2: DIỆN VÀ HÀNG THỪA KẾ THEO PHÁP LUẬT 29
2.1. Căn cứ xác định diện thừa kế theo pháp luật 29
2.1.1. Quan hệ hôn nhân 30
2.1.2. Quan hệ huyết thống 36
2.1.3. Quan hệ nuôi dưỡng 40
2.2. Hàng thừa kế theo pháp luật 46
4
2.2.1. Số lượng các hàng thừa kế và nguyên tắc phân chia người 47
thừa kế theo các hàng thừa kế
2.2.2. Hàng thừa kế thứ nhất 49
2.2.3. Hàng thừa kế thứ hai 54
2.2.4. Hàng thừa kế thứ ba 56
2.3. Thừa kế thế vị 58
2.3.1. Khái niệm thừa kế thế vị và đặc điểm của thừa kế thế vị 58
2.3.2. Các trường hợp thừa kế thế vị 60
2.4. Di sản thừa kế theo pháp luật và chia di sản thừa kế 62
2.4.1. Di sản thừa kế theo pháp luật 62
2.4.2. Chia di sản thừa kế theo pháp luật 64
2.4.3. Những trường hợp mới phát sinh khi chia di sản thừa kế theo 66
pháp luật
Chương 3: THỰC TIỄN ÁP DỤNG VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN 70
NHỮNG QUI ĐỊNH VỀ THỪA KẾ THEO PHÁP LUẬT
3.1. Thực tiễn áp dụng pháp luật 70
3.1.1. Thực tiễn giải quyết các tranh chấp về thừa kế theo pháp luật 70
trong những năm gần đây
3.1.2. Nguyên nhân 79
3.1.3. Một số vấn đề còn tồn tại trong các quy định về thừa kế theo 82
pháp luật theo Bộ luật Dân sự hiện hành
3.2. Kiến nghị hoàn thiện các qui định của pháp luật về thừa kế 87
theo pháp luật
3.2.1. Yêu cầu chung 87
3.2.2. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện các qui định của pháp luật 88
về thừa kế theo pháp luật
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
95
97
5
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLDS : Bộ luật dân sự
HN&GĐ : Hôn nhân và gia đình
TANDTC : Tòa án nhân dân tối cao
6
DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu Tên bảng Trang
bảng
3.1 Số lượng các vụ án về thừa kế được thụ lý, giải quyết ở 70
cấp sơ thẩm từ năm 2008-2012
3.2 Số lượng các vụ việc về thừa kế được thụ lý, giải quyết ở 71
cấp phúc thẩm từ năm 2008-2012
7
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Chế định thừa kế là một trong những chế định đặc biệt quan trọng trong
pháp luật dân sự nên trong bất kỳ Bộ luật dân sự (BLDS) nào, chế định thừa kế
luôn chiếm vị trí trọng tâm. Ngay trong Hiến pháp - đạo luật gốc của hệ thống
pháp luật Việt Nam, thừa kế được ghi nhận là một quyền cơ bản của công dân.
Tại Điều 19 Hiến pháp năm 1959 quy định: "Nhà nước chiếu theo pháp luật bảo
hộ quyền thừa kế tài sản tư hữu của công dân" [27]. Tiếp đó, Điều 27 Hiến pháp
năm 1980 đã có sự kế thừa và sửa đổi cho phù hợp với thực tiễn: "…Pháp luật
bảo hộ quyền thừa kế tài sản của công dân" [29]. Trải qua quá trình phát triển,
Hiến pháp năm 1992 tiếp tục ghi nhận và khẳng định "…Nhà nước bảo hộ quyền
sở hữu hợp pháp và quyền thừa kế của công dân" [31, Điều 58]. Trên tinh thần
của Hiến pháp năm 1992 và kế thừa quy định của BLDS năm 1995, chế định
thừa kế được ghi nhận trong BLDS năm 2005 đã có sự thay đổi tích cực, phù
hợp với sự phát triển của xã hội và mang tính khả thi hơn. Những quy định về
thừa kế trong BLDS năm 2005 được xem là kết quả vượt bậc của quá trình pháp
điển hóa, không ngừng hoàn thiện để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp liên quan
đến vấn đề thừa kế của công dân. Theo đó, chế định thừa kế được quy định bao
gồm hai hình thức, đó là thừa kế theo di chúc và thừa kế theo pháp luật. Một
trong những nét đẹp truyền thống về gia đình trong văn hóa Việt Nam chính là
việc chuyển những thành quả của thế hệ đi trước dành tặng cho con cháu. Tuy
nhiên, hiện nay, trên thực tế thói quen lập di chúc của người Việt Nam vẫn chưa
phổ biến do còn coi trọng các phong tục, tập quán, tình cảm giữa cha con, vợ
chồng, anh em… Bên cạnh đó, có rất nhiều trường hợp lập di chúc nhưng bản di
chúc này lại không có giá trị pháp lý vì không đáp ứng các điều kiện theo quy
định của pháp luật, chẳng hạn như vi phạm về chủ thể lập di chúc, hình thức di
chúc, nội dung di chúc. Do đó,
8
phần lớn các vụ việc thừa kế ở Việt Nam được giải quyết theo quy định về
thừa kế theo pháp luật.
Trong quá trình xã hội hóa và hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, Việt
Nam đã thực sự chuyển mình và có những thay đổi toàn diện và sâu sắc về
mọi mặt của đời sống. Dưới ảnh hưởng của nền kinh tế mở đó đã tạo điều
kiện cho mọi người đều có cơ hội làm giàu cũng như tự khẳng định mình.
Theo đó, tài sản thuộc sở hữu cá nhân ngày càng đa dạng, phong phú cả về giá
trị, số lượng, chủng loại, trong đó không phải tài sản nào pháp luật cũng có
quy phạm điều chỉnh hay có thể dự liệu hết được. Vấn đề thừa kế di sản cũng
từ đó mà nảy sinh nhiều dạng tranh chấp phức tạp. Thực tiễn giải quyết các vụ
án về tranh chấp thừa kế gặp phải không ít khó khăn, thậm chí phải xét xử
nhiều lần ở nhiều cấp xét xử khác nhau gây tốn kém cả về thời gian và chi
phí. Điều này xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau trong đó phải kể đến
các quy định của pháp luật về thừa kế nói chung và thừa kế theo pháp luật nói
riêng vẫn còn thiếu và chưa đồng bộ, chưa rõ ràng, cụ thể dẫn đến nhiều cách
hiểu khác nhau là tiền đề cho việc áp dụng không nhất quán.
Xuất phát từ những lý do trên, tác giả quyết định chọn đề tài "Thừa kế
theo pháp luật - một số vấn đề lý luận và thực tiễn" làm luận văn thạc sĩ Luật
học. Đây là một đề tài có ý nghĩa quan trọng trên cả phương diện lý luận cũng
như thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu về đề tài
Qua tìm hiểu các công trình nghiên cứu khoa học về pháp luật thừa kế
đã có nhiều công trình, bài viết về vấn đề thừa kế nói chung và thừa kế theo
pháp luật nói riêng, có thể chia thành ba nhóm lớn như sau:
- Nhóm luận văn, luận án: ở nhóm này có thể liệt kê một số công
trình nghiên cứu tiêu biểu như Luận án tiến sĩ với nhan đề "Thừa kế theo pháp
luật của công dân Việt Nam từ năm 1945 đến nay" đã được tác giả Phùng
Trung Tập bảo vệ thành công năm 2002. Với đề tài này, tác giả đã nghiên
9
cứu, hệ thống hóa các quy định pháp luật thừa kế Việt Nam theo quá trình hình
thành và phát triển qua các thời kỳ để từ đó đánh giá nội dung những quy định về
thừa kế theo pháp luật của công dân Việt Nam. Hay Luận án tiến sĩ luật học "Cơ
sở lý luận và thực tiễn của những quy định chung về thừa kế trong Bộ luật Dân
sự" của Nguyễn Minh Tuấn đã luận giải những vấn đề lý luận và thực tiễn của
các quy định về thừa kế của Việt Nam qua các thời kỳ phát triển. Luận văn thạc
sĩ luật học với tựa đề "Thừa kế theo pháp luật của cháu, chắt theo quy định của
pháp luật Việt Nam" của Lê Đức Bền cũng góp phần quan trọng làm rõ hơn các
quy định về thừa kế theo pháp luật. Tuy nhiên, những đề tài trên đều có phạm vi
nghiên cứu rất rộng, mang tính khái quát cao.
- Nhóm sách giáo trình, sách chuyên khảo: ở nhóm này, trước tiên
phải kể đến cuốn sách chuyên khảo "Luật Thừa kế Việt Nam" của Tiến sĩ
Phùng Trung Tập, Nxb Hà Nội, 2008 và cuốn "Pháp luật thừa kế của Việt
Nam - Những vấn đề lý luận và thực tiễn" của Nguyễn Minh Tuấn được xuất
bản vào năm 2009. Ngoài ra, còn có một số giáo trình và sách bình luận khoa
học Luật dân sự Việt Nam. Hầu hết các công trình này mới chỉ dừng lại ở việc
phân tích, bình luận các quy định của pháp luật thừa kế chứ chưa hoặc ít đề
cập đến thực tiễn thi hành các quy định của pháp luật về vấn đề trên.
- Nhóm các bài báo, tạp chí chuyên ngành luật: Các bài nghiên cứu
thuộc nhóm này chủ yếu được đề cập trên các tạp chí như Tạp chí Dân chủ và
pháp luật, Tạp chí Tòa án nhân dân, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, Tạp chí
Luật học… Trong đó phải kể đến bài viết "Hoàn thiện chế định thừa kế trong
Bộ luật Dân sự" của Nguyễn Văn Mạnh, đăng trên tạp chí Nghiên cứu lập
pháp, số 4, 5 năm 2002; "Hoàn thiện quy định về thừa kế trong Bộ luật Dân
sự" của Phạm Văn Tuyết, đăng trên Tạp chí Luật học (số Đặc san), năm 2003;
"Về việc cháu, chắt nội, ngoại thừa kế thế vị và hưởng di sản thừa kế theo
hàng của ông, bà nội ngoại, các cụ nội, ngoại" của Phùng Trung Tập, đăng
trên Tạp chí Tòa án nhân dân, số 24 năm 2005; "Di sản không có người thừa
kế hoặc từ chối nhận di sản - vấn đề cần có hướng dẫn" của Đỗ Văn Chỉnh,
10
đăng trên Tạp chí Tòa án nhân dân, số 20, năm 2006; hay bài viết của tác giả
Phùng Trung Tập "Tiến trình phát triển pháp luật thừa kế Việt Nam trong 60
năm qua", được đăng trên Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 2, năm 2006.
Đây thực sự là những công trình có giá trị lớn trong cả khoa học lý
luận và thực tiễn. Tuy nhiên, những công trình nghiên cứu này hoặc đề cập
đến những vấn đề mang tính khái quát chung về chế định thừa kế qua các thời
kỳ hoặc chỉ đi sâu vào phân tích một quan hệ thừa kế nhất định chứ chưa
nghiên cứu một cách toàn diện, đầy đủ về vấn đề thừa kế theo pháp luật hiện
hành. Thừa kế theo pháp luật không phải là đề tài mới nhưng với sự thay đổi
từng ngày từng giờ của các quan hệ xã hội, quan hệ tài sản đòi hỏi phải có
những quy phạm pháp luật mới để điều chỉnh. Do đó, việc nghiên cứu kịp thời
để có hướng đề xuất các quy định pháp luật điều chỉnh vấn đề này cho phù
hợp với thực tiễn là hết sức cần thiết.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

Mục đích nghiên cứu

Việc nghiên cứu đề tài nhằm làm rõ loại hình thừa kế di sản tuân theo
các nguyên tắc, điều kiện, trình tự và thủ tục do pháp luật quy định, mà không
phụ thuộc vào sự định đoạt ý chí của người có tài sản để lại. Đó chính là việc
vừa hệ thống hóa các quy phạm pháp luật thừa kế Việt Nam theo quá trình
hình thành và phát triển từ năm 1945 đến nay, vừa phân tích và đánh giá hiệu
quả điều chỉnh của chế định pháp luật này qua các thời kỳ phát triển của xã
hội Việt Nam, từ đó một mặt góp phần hoàn chỉnh lý luận khoa học đối với
chế định pháp luật quan trọng này, mặt khác, giải quyết tốt vấn đề lý luận
cũng giúp cho việc thi hành, áp dụng cũng như hoàn thiện các qui định về
thừa kế theo pháp luật, nâng cao hiệu quả điều chỉnh của chúng.

Nhiệm vụ nghiên cứu

Luận văn nghiên cứu những nội dung chủ yếu sau:
11
- Những vấn đề lý luận liên quan đến các quy định về thừa kế theo
pháp luật, bao gồm làm rõ khái niệm thừa kế theo pháp luật, phân tích tiến
trình phát triển của pháp luật Việt Nam về thừa kế theo pháp luật đồng thời có
sự so sánh giữa thừa kế theo pháp luật và thừa kế theo di chúc để rút ra được
đặc trưng của mỗi hình thức và để có thể nhìn nhận vấn đề thừa kế một cách
toàn diện.
- Xác định diện thừa kế và hàng thừa kế theo pháp luật.
- Xác định điều kiện, các trường hợp được hưởng thừa kế thế vị.
- Tìm hiểu những vướng mắc phát sinh từ thực tiễn và đề xuất cách
thức giải quyết, góp phần hoàn thiện pháp luật về thừa kế theo pháp luật.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu

Luận văn chủ yếu nghiên cứu các quy định của pháp luật hiện hành về
thừa kế theo pháp luật và một số công trình nghiên cứu cũng như những vụ
việc cụ thể có liên quan đến vấn đề này.

Phạm vi nghiên cứu

- Luận văn nghiên cứu các quy định của pháp luật về thừa kế theo
pháp luật trong một số văn bản pháp luật như: BLDS năm 2005; BLDS năm
1995; Luật Hôn nhân và gia đình (HN&GĐ) năm 2000; và các văn bản pháp
luật khác có liên quan. Trong đó, luận văn tập trung nghiên cứu các quy định
về thừa kế theo pháp luật của công dân Việt Nam.
- Luận văn cũng nghiên cứu các quy định trong pháp luật của một số
nước điều chỉnh về thừa kế theo pháp luật, có sự so sánh và đối chiếu với
pháp luật thừa kế của Việt Nam, qua đó tham khảo, học hỏi, tiếp thu có chọn
lọc những điểm phù hợp để bổ sung, hoàn thiện các quy định về thừa kế theo
pháp luật trong BLDS Việt Nam.
12
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Việc nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của triết học Mác-
Lênin về chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, tư tưởng
Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng, Nhà nước ta trong lĩnh vực thừa kế.
Ngoài ra, để đạt được mục đích nghiên cứu, luận văn còn vận dụng, kết hợp
các phương pháp nghiên cứu khác như phương pháp phân tích, phương pháp
tổng hợp, phương pháp so sánh, phương pháp thống kê.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Khái quát chung về thừa kế theo pháp luật.
Chương 2: Diện và hàng thừa kế theo pháp luật.
Chương 3: Thực tiễn áp dụng và hướng hoàn thiện những quy định về
thừa kế theo pháp luật.
13
Chương 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ THỪA KẾ THEO PHÁP LUẬT
1.1. KHÁI NIỆM THỪA KẾ THEO PHÁP LUẬT VÀ CÁC TRƢỜNG HỢP
THỪA KẾ THEO PHÁP LUẬT
1.1.1. Khái niệm thừa kế theo pháp luật
Với tư cách là thực thể xã hội, con người đã để lại dấu ấn của mình
trong thế giới hiện thực bằng toàn bộ sáng tạo của mình. Hoạt động lao động
sản xuất không những là phương thức để làm biến đổi đời sống và bộ mặt xã
hội mà còn là điều kiện tất yếu cho sự tồn tại của con người. Xã hội càng phát
triển, nhu cầu vật chất của con người càng tăng. Để thỏa mãn nhu cầu đó, con
người không ngừng cải biến tự nhiên, ngày càng tạo ra nhiều của cải vật chất.
Nếu như tài sản có thể tồn tại lâu dài hoặc chuyển hóa từ dạng này sang dạng
khác thì ngược lại, con người theo quy luật tự nhiên, được sinh ra rồi sẽ chết
đi. Bởi vậy, khi sống, con người khai thác công dụng của tài sản để thỏa mãn
nhu cầu của mình, khi chết, tài sản của họ được dịch chuyển cho người còn
sống là hoàn toàn phù hợp với lẽ tự nhiên. Quá trình dịch chuyển tài sản đó từ
thế hệ này sang thế hệ khác được hiểu là việc thừa kế di sản.
Theo Từ điển tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học thì "Thừa kế là việc
dịch chuyển tài sản của người đã chết cho người còn sống" [55] hay theo Từ
điển Luật học của Viện Khoa học Pháp lý - Bộ Tư pháp thì thừa kế được giải
thích là "Sự dịch chuyển tài sản của người chết cho người còn sống. Thừa kế
luôn gắn với sở hữu. Sở hữu là yếu tố quyết định thừa kế và thừa kế là
phương tiện để duy trì, củng cố quan hệ sở hữu" [54, tr. 754]. Quá trình dịch
chuyển tài sản của người đã chết cho người còn sống được hình thành ở bất
cứ xã hội nào, ngay từ thời sơ khai của xã hội loài người - chế độ cộng sản
nguyên thủy. Nghiên cứu tiến trình phát triển của lịch sử xã hội loài người đã
chỉ ra rằng quan hệ thừa kế xuất hiện như một tất yếu khách quan cùng với
14
quan hệ sở hữu. Khi thừa kế tài sản chưa có sự can thiệp của Nhà nước thì thừa
kế đơn thuần chỉ là quan hệ xã hội mang tính kinh tế. Khi Nhà nước ra đời, thông
qua các quy phạm pháp luật, Nhà nước đã điều chỉnh, tác động đến quá trình
dịch chuyển tài sản nói trên bao gồm cả quyền để lại tài sản cũng như quyền
hưởng di sản của các chủ thể được gọi chung là quyền thừa kế. Như vậy, khác
với thừa kế xuất hiện ngay từ thời kỳ sơ khai, khi xã hội chưa có sự phân chia
giai cấp, khái niệm quyền thừa kế chỉ xuất hiện khi có sự xuất hiện của Nhà nước
và pháp luật. Theo nghĩa rộng, quyền thừa kế có thể được hiểu là một chế định
pháp luật bao gồm tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh quá trình dịch
chuyển tài sản từ người chết cho người còn sống. Theo nghĩa hẹp, quyền thừa kế
có thể được hiểu là một quyền năng dân sự chủ quan của chủ thể có quyền để lại
di sản thừa kế hoặc có quyền hưởng di sản thừa kế của người chết để lại theo ý
chí của người đó khi còn sống (bằng di chúc) hoặc theo điều kiện, trình tự và thủ
tục do pháp luật quy định (thừa kế theo pháp luật).
Không nằm ngoài xu thế chung của thế giới, pháp luật thừa kế của
Việt Nam cũng quy định hai hình thức thừa kế bao gồm thừa kế theo di chúc
và thừa kế theo pháp luật. Thừa kế theo di chúc là sự dịch chuyển tài sản của
người đã chết cho người còn sống theo ý chí của người lập di chúc khi còn
sống. Tuy nhiên, trên thực tế không phải lúc nào người để lại di sản cũng lập
di chúc hoặc di chúc do người này lập ra đều phát sinh hiệu lực theo quy định
của pháp luật. Do đó, song song với hình thức thừa kế theo di chúc, pháp luật
còn quy định về hình thức thừa kế theo pháp luật nhằm đảm bảo quyền thừa
kế của các chủ thể.
Theo quy định tại Điều 674 BLDS năm 2005 thì "Thừa kế theo pháp
luật là thừa kế theo hàng thừa kế, điều kiện và trình tự thừa kế do pháp luật
quy định" [35].
Thừa kế theo pháp luật chỉ được thực hiện trong trường hợp người
chết không để lại di chúc hoặc có di chúc nhưng di chúc không hợp pháp và
15
các trường hợp khác theo quy định của pháp luật. Người thừa kế theo pháp
luật là cá nhân và có mối quan hệ huyết thống hoặc quan hệ hôn nhân hoặc
quan hệ nuôi dưỡng với người để lại di sản. Những người thuộc diện thừa kế
theo pháp luật được pháp luật chỉ định hưởng di sản theo một trật tự ưu tiên là
theo hàng thừa kế.
Qua việc phân tích trên đây có thể rút ra định nghĩa về thừa kế theo
pháp luật như sau: Thừa kế theo pháp luật là sự dịch chuyển di sản của người
chết cho người còn sống trên cơ sở quan hệ huyết thống, quan hệ hôn nhân,
quan hệ nuôi dưỡng hay quan hệ thân thuộc giữa người có tài sản để lại sau
khi họ chết và người nhận di sản.
Thừa kế theo pháp luật về bản chất vừa bảo vệ quyền đương nhiên của
người có tài sản được để lại tài sản của họ khi họ chết, vừa bảo vệ quyền của
những người có quan hệ huyết thống, gia đình hay thân thuộc với người đã
chết có tài sản để lại.
1.1.2. Các trƣờng hợp thừa kế theo pháp luật
Thừa kế theo pháp luật không chỉ phát sinh khi người để lại di sản
không có di chúc mà còn có thể phát sinh trong nhiều tình huống khác. Qua
mỗi giai đoạn phát triển, quy định về các trường hợp thừa kế theo pháp luật
ngày càng chặt chẽ, rõ ràng và toàn diện hơn. Theo quy định tại Điều 675
BLDS năm 2005 thì thừa kế theo pháp luật được áp dụng trong những trường
hợp sau đây:
Một là, không có di chúc. Đây là trường hợp theo quy định của pháp
luật, người để lại di sản đáp ứng yêu cầu về năng lực chủ thể trong việc lập di
chúc nhưng lại không thực hiện quyền lập di chúc của mình.
Hai là, di chúc không hợp pháp. Mặc dù người để lại di sản có lập di
chúc nhưng di chúc này lại không thỏa mãn đầy đủ các điều kiện có hiệu lực
của di chúc theo quy định của pháp luật dẫn đến di chúc vô hiệu (không có giá
trị pháp lý), di sản sẽ được chia theo pháp luật.
16
Ba là, những người thừa kế theo di chúc đều chết trước hoặc chết
cùng thời điểm với người lập di chúc; cơ quan, tổ chức được hưởng thừa kế
theo di chúc không còn vào thời điểm mở thừa kế. Trường hợp này, di chúc bị
coi là vô hiệu căn cứ theo quy định về hiệu lực pháp luật của di chúc tại khoản
2 Điều 667 BLDS năm 2005. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng trong trường hợp nếu
chỉ có một trong số những người thừa kế theo di chúc chết trước hoặc chết
cùng thời điểm với người để lại di sản hoặc một trong số các cơ quan, tổ chức
không còn tồn tại vào thời điểm mở thừa kế thì chỉ phần di sản liên quan đến
cá nhân, cơ quan, tổ chức này vô hiệu và được chia thừa kế theo pháp luật.
Bốn là, những người được chỉ định làm người thừa kế theo di chúc mà
không có quyền hưởng di sản hoặc từ chối quyền nhận di sản. Khi mở thừa kế
nếu người thừa kế theo di chúc vi phạm khoản 1 Điều 643 BLDS năm 2005
thì không có quyền hưởng di sản. Trường hợp người được chỉ định trong di
chúc có quyền hưởng di sản nhưng từ chối nhận di sản thì di sản được chia
theo pháp luật.
Năm là, phần di sản không được định đoạt trong di chúc. Trường hợp
này xảy ra khi người để lại di sản có nhiều tài sản khác nhau nhưng lại chỉ
định đoạt trong di chúc một phần tài sản trong khối di sản này. Khi đó, phần
di sản không được thể hiện trong di chúc sẽ được chia theo pháp luật.
Sáu là, phần di sản có liên quan đến phần của di chúc không có hiệu
lực. Theo tinh thần của khoản 4 Điều 667 BLDS năm 2005 thì trong trường
hợp di chúc có phần không hợp pháp mà không ảnh hưởng đến hiệu lực của
các phần còn lại thì chỉ phần đó không có hiệu lực pháp luật. Điều này có
nghĩa là di sản liên quan đến phần di chúc vô hiệu sẽ được chia theo pháp luật
còn các phần khác vẫn được chia theo di chúc.
Bảy là, phần di sản có liên quan đến người được thừa kế theo di chúc
như ng họ không có quyề n hư ở ng di sả n, từ chố i quyề n hư
ở ng di sả n, chế t trư ớ c hoặc chết cùng thời điểm với người lập di
17
chúc. Khác với các quy định về thừa kế dưới thời phong kiến, những người
thừa kế của người chết có nghĩa vụ phải nhận di sản và phải trả các khoản nợ
của người chết để lại kể cả di sản không đủ để trả nợ, pháp luật hiện hành
công nhận quyền thừa kế là một quyền năng dân sự và người thừa kế có
quyền khước từ quyền hưởng di sản của mình. Theo quy định tại Điều 642
BLDS năm 2005 thì người thừa kế có quyền từ chối nhận di sản trừ trường
hợp việc từ chối nhằm trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ tài sản của mình đối
với người khác. Bên cạnh đó, pháp luật thừa kế cũng ghi nhận những trường
hợp không được quyền hưởng di sản tại Điều 643 BLDS năm 2005. Đó là
những người vi phạm nghiêm trọng pháp luật hoặc đạo đức xã hội. Người để
lại di sản không biết những hành vi nêu trên nên đã dành cho những người
này một phần di sản nhất định. Khi đó, phần di sản của những người thừa kế
này sẽ bị coi là vô hiệu và được chia theo pháp luật.
Tám là, phần di sản có liên quan đến cơ quan, tổ chức được hưởng di
sản theo di chúc, nhưng không còn vào thời điểm mở thừa kế. Điều kiện để
một cơ quan, tổ chức được hưởng thừa kế theo di chúc là cơ quan, tổ chức đó
phải tồn tại vào thời điểm mở thừa kế. Điều này có nghĩa là vào thời điểm
người để lại di sản chết mà cơ quan, tổ chức đã chấm dứt hoạt động thì sẽ
không được hưởng thừa kế. Đó là trường hợp pháp nhân bị giải thể hoặc phá
sản, quyền và nghĩa vụ của pháp nhân hoàn toàn chấm dứt nên pháp nhân
không còn tồn tại trên thực tế.
Việc xác định các trường hợp thừa kế theo pháp luật là vô cùng quan
trọng nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho những người có quyền thừa
kế theo pháp luật đồng thời tránh tình trạng để tài sản bị "đóng băng" gây lãng
phí cho gia đình và xã hội.
1.2. TIẾN TRÌNH PHÁT TRIỂN CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ THỪA
KẾ THEO PHÁP LUẬT
18
Chế định thừa kế nói chung và hình thức thừa kế theo pháp luật nói
riêng được quy định trong BLDS là sự kế thừa và phát triển các quy định
chung về thừa kế trong pháp luật dân sự Việt Nam từ thế kỷ XV đến nay. Ở
mỗi thời kỳ đều có những đặc thù riêng. Việc nghiên cứu, phân tích tiến trình
phát triển của pháp luật Việt Nam về thừa kế theo pháp luật để rút ra những
bài học kinh nghiệm nhằm hoàn thiện pháp luật thừa kế hiện nay.
1.2.1. Trƣớc năm 1945
Thừa kế là một chế định quan trọng trong pháp luật Việt Nam. Do đó,
ngay từ trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, pháp luật thời kỳ phong kiến,
thời kỳ Pháp thuộc đã có những quy định về thừa kế nói chung và thừa kế
theo pháp luật nói riêng.

Quy định về thừa kế theo pháp luật trong Luật Hồng Đức

Trong thời kỳ phong kiến, Luật Hồng Đức hay còn gọi là Quốc triều
hình luật được ban hành năm 1483 được coi là một trong những bộ luật phong
kiến tiến bộ nhất và đặc sắc nhất trong lịch sử pháp luật Việt Nam đồng thời
là bộ luật có niên đại xưa nhất còn giữ được cho tới ngày nay. Bộ luật đánh
dấu thời kỳ hoàng kim nhất, rực rỡ nhất của chế độ phong kiến Việt Nam dưới
triều đại nhà Lê, đặc biệt là dưới thời vua Lê Thánh Tông.
Trong Quốc triều hình luật, vấn đề thừa kế được quy định từ Điều 374
đến Điều 400 cũng bao gồm hai hình thức là thừa kế theo chúc thư và thừa kế
theo pháp luật. Theo quy định của Luật Hồng Đức, trong trường hợp người
chết không để lại di chúc hoặc có chúc thư nhưng chúc thư vô hiệu thì di sản
được chia theo pháp luật.
Những người thừa kế theo pháp luật gồm người có quan hệ huyết
thống trực hệ với người để lại di sản. Căn cứ theo quy định tại Điều 374, 375,
376 thì di sản sẽ được chia theo nguyên tắc ưu tiên, trước hết là chia cho các
con, không phân biệt con trai, con gái (hàng 1), nếu người chết không có con
19
thì cha mẹ (hàng 2) được hưởng di sản thừa kế. Trường hợp không còn cha
mẹ, di sản được chuyển cho người thừa tự, do họ hàng quyết định.
Luật Hồng Đức ghi nhận con nuôi cũng có quyền thừa kế di sản của cha
mẹ nuôi trong trường hợp "có văn tự là con nuôi và ghi trong giấy rằng sau sẽ
chia điền sản cho, khi cha mẹ nuôi chết không có chúc thư, điền sản đem chia
cho con đẻ và con nuôi" và phần di sản được hưởng là "điền sản chia làm ba, con
đẻ được hai phần, con nuôi được một phần; nếu không có con đẻ mà con nuôi
cùng ở với cha mẹ từ thuở bé, thì được cả; thuở bé không cùng ở thì con nuôi
được hai phần, người thừa tự được một phần" [56, Điều 380].
Luật Hồng Đức quy định vợ, chồng không được thừa kế di sản của
nhau ngoại trừ một số trường hợp để đảm bảo cho cuộc sống của người vợ
góa, chồng góa, chẳng hạn như trường hợp người vợ góa, chồng góa sống độc
thân không có người nuôi dưỡng sẽ được hưởng một phần di sản của người
chồng hoặc người vợ để sống hết đời và để thờ cúng. Tuy nhiên, nếu người vợ
góa, chồng góa tái giá thì phải trả lại phần di sản được hưởng cho họ hàng của
người chết.
Theo Điều 388 Luật Hồng Đức "cha mẹ mất cả, có ruộng đất, chưa kịp
để lại chúc thư, mà anh em chị em tự chia nhau, thì lấy một phần 20 số ruộng
đất làm phần hương hỏa, giao cho con trai trưởng giữ…" [56]. Ở thời kỳ này
do kinh tế chưa phát triển nên tài sản chủ yếu và có giá trị nhất là ruộng đất.
Di sản của người để lại thừa kế gồm ba nguồn chính: phu điền sản (tài sản của
chồng được hưởng từ tài sản của gia đình), thê điền sản (tài sản của vợ được
hưởng từ gia đình vợ) và tần tảo điền sản (tài sản do vợ chồng làm ra).
Quy định về thừa kế, đặc biệt là thừa kế theo pháp luật trong Luật
Hồng Đức là cơ sở để bảo vệ quan hệ trên dưới, tôn ti, trật tự của gia đình
truyền thống đồng thời bảo vệ được quyền thừa kế của những người thừa kế.

Quy định về thừa kế theo pháp luật trong Luật Gia Long

20
Hoàng Việt luật lệ hay còn được biết đến với tên gọi Quốc triều điều
luật, Hoàng triều luật lệ, Luật Gia Long, là bộ luật chính thống của triều
Nguyễn ở Việt Nam do vua Gia Long ban hành năm 1815. Tại Quyển 6 của
Bộ luật có quy định về thừa kế. Theo đó, thừa kế theo pháp luật được áp dụng
khi không có chúc thư của người chết. Nếu cha mẹ không có chúc thư thì ông
bà sẽ quản lý toàn bộ tài sản của các cháu, kể cả di sản thừa kế. Các cháu chỉ
được nhận tài sản của mình khi ông bà chết. Với tư tưởng "trọng nam, khinh
nữ" đặc trưng của xã hội phong kiến, Luật Gia Long quy định di sản chia theo
pháp luật sẽ được chia đều cho các con trai không phân biệt con trai do thê
thiếp sinh ra. Nếu người con chết thì con của người con sẽ thay thế vị trí của
cha mẹ mình để nhận di sản của ông bà. Vì con gái không được quyền thừa kế
nên trong trường hợp người để lại di sản không có con trai thì các cháu trai
thúc bá sẽ được hưởng di sản.
Luật Gia Long cũng quy định vợ góa, chồng góa không được thừa kế
di sản của người chồng hoặc người vợ đã chết trừ trường hợp ngoại lệ tương
tự như quy định trong Luật Hồng Đức.
Đối với di sản dùng làm hương hỏa, khác với Luật Hồng Đức, theo
quy định của Luật Gia Long thì không bắt buộc phải dành một phần di sản
làm hương hỏa.

Quy định về thừa kế theo pháp luật dưới thời Pháp thuộc

Chế định thừa kế trong Dân luật Bắc kỳ năm 1931 và Dân luật Trung Kỳ
năm 1936 được quy định tương đối giống nhau, được xây dựng dựa trên BLDS
Pháp 1804. Theo đó, thừa kế cũng được chia thành hai hình thức là thừa kế theo
di chúc và thừa kế theo pháp luật. Di sản được chia theo pháp luật khi không có
chúc thư hoặc chúc thư vô hiệu và được chia theo thứ tự ưu tiên. Những người
thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản ngang nhau. Những người ở hàng
thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế nếu không có ai ở hàng thừa kế trước. Người
thừa kế hàng thứ nhất là các con. Con trai, con gái được chia
21
di sản bằng nhau. Nếu cha hoặc mẹ chết trước hoặc chết cùng ông bà nội hoặc
ông bà ngoại, thì các cháu thay thế cha hoặc mẹ nhận di sản của ông hoặc bà
(thừa kế thế vị). Trong trường hợp người chết không có con thì di sản chia
cho cha, mẹ (hàng thừa kế thứ hai). Nếu không còn cha, mẹ thì di sản chia cho
cháu ruột bên nội. Nếu không có cháu ruột thì chia cho anh, chị em ruột.
Như vậy, trước năm 1945, dưới chế độ thực dân - phong kiến, quy
định về thừa kế theo pháp luật đã được ghi nhận trong các bộ luật. Tuy nhiên,
do bản chất của giai cấp thống trị, những quy phạm này chủ yếu để bảo vệ tôn
ti trật tự của chế độ phong kiến, dẫn tới sự bất bình đẳng trong quan hệ thừa
kế, đặc biệt là giữa vợ và chồng, giữa nam và nữ.
1.2.2. Từ năm 1945 đến nay
Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công đã khai sinh ra nước Việt
Nam dân chủ cộng hòa, mở ra kỷ nguyên mới cho nền độc lập, tự do của dân tộc.
Những ngày đầu mới ra đời, Nhà nước ta đã phải đối mặt với muôn vàn khó
khăn, thử thách, phải chống lại cả "thù trong" và "giặc ngoài", cả "nội xâm" và
"ngoại xâm", cho nên những năm 1945 đến 1959, hệ thống pháp luật của Nhà
nước phong kiến Việt Nam được áp dụng để điều chỉnh các quan hệ xã hội mới.
Ngày 10 tháng 10 năm 1945, Chính phủ lâm thời của nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa đã ban hành Sắc lệnh cho phép áp dụng luật lệ của chế độ cũ, trong đó
có những quy định về chế định thừa kế, với điều kiện "Những điều khoản trong
các luật lệ cũ được tạm giữ lại do sắc luật này, chỉ thi hành khi nào không trái
với nền độc lập của nước Việt Nam và chính thể dân chủ cộng hòa " [9, Điều thứ
12]. Với sự biến đổi nhanh chóng, sâu sắc của xã hội Việt Nam, những quy định
trong các Bộ luật dưới chế độ cũ đã bộc lộ nhiều điểm bất cập, không phù hợp.
Trước tình hình đó, ngày 22 tháng 5 năm 1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc
lệnh số 97/SL sửa đổi một số quy lệ và chế định trong dân luật. Ngay tại Điều 1
của Sắc lệnh đã ghi nhận nguyên tắc bảo vệ quyền lợi cho nhân dân lao động
"Những quyền dân sự đều được
22
luật bảo vệ khi người ta hành sự nó đúng với quyền lợi của nhân dân" [10].
Về vấn đề thừa kế, Sắc lệnh quy định vợ, chồng có quyền bình đẳng trong gia
đình, có quyền thừa kế tài sản của nhau; con trai, con gái đều có quyền hưởng
di sản thừa kế của bố, mẹ; người chồng góa hay người vợ góa, các con đã
thành niên có quyền xin chia tài sản thuộc quyền sở hữu của người chết, sau
khi đã thanh toán tài sản chung. Những người thừa kế cũng có quyền từ chối
nhận di sản: "Con cháu hoặc vợ chồng của người chết cũng không bắt buộc
phải nhận thừa kế người ấy. Khi nhận thừa kế thì các chủ nợ của người chết
cũng không có quyền đòi nợ quá số di sản để lại" [10, Điều 10]. Những quy
định này đã xóa bỏ tình trạng trọng nam, khinh nữ dưới chế độ phong kiến
thuộc địa, đảm bảo quyền bình đẳng về thừa kế của công dân. Cho đến ngày
nay, tư tưởng tiến bộ đó vẫn được kế thừa và áp dụng trong pháp luật về thừa
kế nói riêng và pháp luật dân sự nói chung.
Để hướng dẫn Tòa án các cấp thống nhất trong việc giải quyết những
tranh chấp về thừa kế trong giai đoạn này, Bộ Tư pháp đã ban hành Thông tư
số 1742-BNC ngày 18/9/1956 quy định rõ:
Vợ hoặc chồng của người chết có quyền thừa kế ngang với
các con; vợ lẽ và con nuôi chính thức của người để lại di sản có
quyền thừa kế như vợ cả và con đẻ của người đó. Vợ góa của người
để lại di sản (kể cả vợ cả và vợ lẽ) đều có quyền thừa kế di sản của
chồng và hưởng phần di sản ngang với các thừa kế cùng hàng khác
[6].
Hiến pháp năm 1959 ra đời tiếp tục ghi nhận: "Nhà nước chiếu theo pháp
luật bảo hộ quyền thừa kế tài sản tư hữu của công dân" [27, Điều 19]. Trên tinh
thần của Hiến pháp, Luật HN&GĐ năm 1959 đã cụ thể hóa tại Điều 16: "Vợ và
chồng đều có quyền thừa kế tài sản của nhau" [28] và Điều 19 "Con trai và con
gái có quyền lợi và nghĩa vụ ngang nhau trong gia đình" [28].
23
Sau khi miền Nam hoàn toàn giải phóng, cách mạng Việt Nam chuyển
sang một giai đoạn mới, giai đoạn cả nước độc lập, thống nhất. Cùng với sự
thống nhất về chính trị, kinh tế, đòi hỏi tất yếu phải có sự thống nhất về việc áp
dụng pháp luật. Hiến pháp năm 1980 được ban hành là cơ sở, nền tảng cho bước
phát triển mới của pháp luật về thừa kế. Để có đường lối thống nhất cho Tòa án
các cấp trong việc giải quyết các tranh chấp về thừa kế, ngày 24/7/1981, Tòa án
nhân dân tối cao (TANDTC) đã ban hành Thông tư số 81/TANDTC (sau đây gọi
tắt là Thông tư số 81). Nội dung của Thông tư số 81 đã bao quát khá toàn diện
các vấn đề về thừa kế so với các văn bản trước đó. Về thừa kế theo pháp luật,
Thông tư số 81 quy định có hai hàng thừa kế. Hàng thừa kế thứ nhất gồm vợ góa
hoặc chồng góa, các con đẻ và con nuôi, bố đẻ, mẹ đẻ hoặc bố nuôi, mẹ nuôi.
Hàng thừa kế thứ hai gồm ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh chị em ruột,
anh chị em cùng cha khác mẹ, cùng mẹ khác cha và anh chị em nuôi. Những
người thừa kế ở hàng thứ nhất được ưu tiên và thừa kế toàn bộ di sản. Trong
trường hợp không có người thừa kế ở hàng thứ nhất hoặc có nhưng họ đều không
nhận, thì mới đến những người thừa kế ở hàng thứ hai. Những người thừa kế
trong cùng một hàng, được hưởng một suất ngang nhau.
Bên cạnh đó, lần đầu tiên trong Thông tư số 81 đã quy định các trường
hợp không được hưởng thừa kế:
Người đã giết người để thừa kế hoặc đã đối xử quá tàn tệ
với người đó thì không được thừa kế di sản của người đó.
Người đã giết người thừa kế cùng hàng với mình để chiếm
đoạt toàn bộ di sản hoặc nhằm làm tăng kỷ phần cho bản thân thì
không được thừa kế di sản của cả hai người ấy (người để thừa kế và
người bị giết) [42, Mục III.A.4].
Mặc dù là văn bản pháp lý đầu tiên quy định khá chi tiết về thừa kế kể
từ sau Cách mạng Tháng Tám nhưng Thông tư số 81 vẫn còn có những hạn
chế nhất định, chẳng hạn như việc chỉ quy định hai hàng thừa kế đã thu hẹp
24
diện thừa kế, chưa thật sự đảm bảo được quyền hưởng di sản của những người
thân của người để lại di sản. Quy định các trường hợp không được hưởng thừa
kế theo pháp luật cũng chưa đầy đủ… Trước tình hình đó, đòi hỏi phải có một
văn bản vừa có nội dung toàn diện, vừa có tính pháp lý, thực thi cao.
Để phù hợp với sự biến đổi, phát triển của kinh tế - xã hội ở nước ta
cũng như nhằm khắc phục những nội dung còn thiếu, còn vướng mắc, ngày
30/08/1990, Hội đồng Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ban
hành Pháp lệnh Thừa kế, có hiệu lực từ ngày 10/09/1990.
Nội dung của Pháp lệnh Thừa kế đã mở rộng phạm vi những người
thuộc diện thừa kế theo pháp luật. Theo quy định tại khoản 1 Điều 25 Pháp
lệnh Thừa kế thì những người thừa kế theo pháp luật được chia làm ba hàng:
Hàng thứ nhất: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi,
con đẻ, con nuôi của người chết.
Hàng thứ hai: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột,
chị ruột, em ruột của người chết.
Hàng thứ ba: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú
ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người
chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột [16].
Quy định trên đã bảo vệ được tối đa quyền của người để lại di sản
cũng như quyền của những người thừa kế. So với Thông tư số 81, ngoài quy
định mở rộng về diện những người được thừa kế, Pháp lệnh Thừa kế còn quy
định quyền thừa kế của một người đang là con nuôi của người khác được thừa
kế theo pháp luật của bố, mẹ nuôi và được thừa kế theo pháp luật của bố mẹ
đẻ trong khi đó theo Thông tư số 81 thì con nuôi không được thừa kế theo
pháp luật đối với di sản của bố, mẹ đẻ.
Tuy còn có những hạn chế nhất định, nhưng có thể khẳng định rằng,
Pháp lệnh Thừa kế năm 1990 là văn bản có hiệu lực pháp lý cao đầu tiên quy
định tương đối đầy đủ về thừa kế ở nước ta kể từ Cách mạng Tháng Tám năm
25
1945 đến khi BLDS năm 1995 được ban hành. Pháp lệnh thừa kế đã góp phần
tích cực trong việc giải quyết các tranh chấp về thừa kế.
Để phù hợp với công cuộc đổi mới trên mọi bình diện, Hiến pháp năm
1992 đã được ban hành với nhiều nội dung mới. Sau khi Hiến pháp năm 1992
ra đời, nhiều bộ luật được sửa đổi, bổ sung và xây dựng mới, trong đó phải kể
đến BLDS năm 1995 được Quốc hội thông qua ngày 28/10/1995 và có hiệu
lực từ ngày 01/07/1996.
Bộ luật Dân sự năm 1995 là kết quả của quá trình kiểm nghiệm, sàng
lọc thực tiễn đời sống xã hội và hệ thống hóa, pháp điển hóa các quy định
trước đây. Thừa kế được quy định ở Phần thứ IV của Bộ luật, đã kế thừa
những quy định tiến bộ, còn phù hợp của Pháp lệnh Thừa kế, đồng thời sửa
đổi, bổ sung một số nội dung mới. Quyền thừa kế theo pháp luật của công dân
được quy định trong BLDS năm 1995 đã góp phần bảo vệ các quyền dân sự
và lợi ích hợp pháp của cá nhân trong nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần
theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước.
Các quy định về thừa kế theo pháp luật trong BLDS năm 1995 là một
bước tiến quan trọng trong quá trình lập pháp ở Việt Nam. Những quy định
này đã củng cố quyền sở hữu và quyền thừa kế tài sản của công dân phù hợp
với công cuộc đổi mới của đất nước. Tuy nhiên, các quy định về thừa kế trong
BLDS năm 1995 được ban hành trong giai đoạn đầu của thời kỳ xây dựng nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa nên nhiều quy định đã bị lạc
hậu so với sự phát triển như vũ bão của các hoạt động kinh tế và các giao lưu
trong đời sống xã hội. Chính điều này đã thúc đẩy một cách mạnh mẽ, đòi hỏi
phải có quy phạm pháp luật mới điều chỉnh kịp thời yêu cầu của thực tiễn và
BLDS năm 2005 đã ra đời để thay thế BLDS năm 1995. So với BLDS năm
1995, các quy định về thừa kế theo pháp luật trong BLDS năm 2005 đã có sự
sửa đổi, bổ sung, được ghi nhận cụ thể hơn, chẳng hạn như bổ sung thêm
26
người được hưởng di sản thuộc hàng thừa kế thứ hai, thứ ba, và nội dung về
thừa kế thế vị.
Các quy định về thừa kế nói chung và thừa kế theo pháp luật nói riêng
được hoàn thiện như ngày nay, thể hiện kỹ năng, kinh nghiệm lập pháp cũng
như đường lối của Đảng và Nhà nước ta.
1.3. PHÂN BIỆT THỪA KẾ THEO DI CHÚC VÀ THỪA KẾ THEO PHÁP LUẬT
Như đã đề cập ở trên, pháp luật thừa kế Việt Nam cũng như pháp luật
thừa kế của nhiều quốc gia trên thế giới đều ghi nhận hai hình thức thừa kế,
đó là thừa kế theo di chúc và thừa kế theo pháp luật. Giữa hai hình thức thừa
kế này có mối quan hệ qua lại mật thiết với nhau, có thể cùng được áp dụng
trong việc phân chia di sản hoặc mang tính chất loại trừ nhau, có thể áp dụng
độc lập một hình thức. Phân biệt thừa kế theo di chúc và thừa kế theo pháp
luật để tìm ra điểm giống và khác nhau là hết sức cần thiết. Trên cơ sở đó tạo
điều kiện cho việc nhìn nhận vấn đề chia thừa kế một cách toàn diện, áp dụng
quy định của pháp luật một cách chính xác nhằm bảo đảm quyền và lợi ích
hợp pháp của người có quyền thừa kế. Hai hình thức thừa kế này có nhiều
điểm tương đồng nhưng cũng có những điểm khác biệt nhau. Dưới đây là
những điểm chung và điểm khác biệt cơ bản:
Điểm giống nhau cơ bản, nổi trội nhất của hai hình thức thừa kế này
được thể hiện ở chỗ, thứ nhất, đều là sự dịch chuyển tài sản của người đã chết
cho người còn sống và thứ hai, người để lại di sản thừa kế đều là cá nhân.
Điểm khác nhau:
Thứ nhất, về ý chí của người để lại tài sản.
+ Thừa kế theo di chúc: được thể hiện cụ thể trong những nội dung
của di chúc.
+ Thừa kế theo pháp luật: không có sự thể hiện ý chí của người để lại
tài sản. Di sản đương nhiên được định đoạt theo quy định của pháp luật.
27
Thứ hai, về người thừa kế.
Người thừa kế là người được hưởng tài sản của người chết để lại theo
di chúc hoặc theo quy định của pháp luật.
+ Người thừa kế theo di chúc: là người được hưởng di sản theo di
chúc do người lập di chúc định đoạt khi còn sống. Do đó, người thừa kế theo
di chúc có thể là bất kỳ ai được chỉ định trong di chúc, có thể là cá nhân và/
hoặc cơ quan, tổ chức, có thể là người có mối quan hệ về hôn nhân, huyết
thống hoặc nuôi dưỡng với người để lại di sản hoặc không có các mối quan hệ
này. Không áp dụng quy định về thừa kế thế vị trong trường hợp thừa kế theo
di chúc.
+ Người thừa kế theo pháp luật: là người thừa kế theo hàng thừa kế và
trình tự thừa kế theo quy định của pháp luật. Người thừa kế theo pháp luật chỉ
có thể là cá nhân và có mối quan hệ về hôn nhân hoặc huyết thống hoặc nuôi
dưỡng với người chết. Thừa kế thế vị được áp dụng trong hình thức thừa kế
theo pháp luật.
Thứ ba, cách thức phân chia di sản.
+ Thừa kế theo di chúc: tùy thuộc vào sự phân định di sản của người
lập di chúc, người thừa kế có thể được hưởng nhiều hoặc ít hoặc toàn bộ di
sản thừa kế.
+ Thừa kế theo pháp luật: những người cùng một hàng thừa kế thì
được hưởng phần di sản ngang nhau.
Thứ tư, thứ tự ưu tiên.
Thừa kế theo pháp luật chỉ được thực hiện trong trường hợp người
chết không để lại di chúc hoặc di chúc không có giá trị pháp lý và các trường
hợp khác như đã phân tích ở mục 1.1.2.
28
Như vậy, về cơ bản thừa kế theo di chúc và thừa kế theo pháp luật
khác nhau về ý chí chủ thể để lại di sản, người thừa kế, cách thức phân chia di
sản và thứ tự áp dụng.
1.4. QUY ĐỊNH CỦA MỘT SỐ QUỐC GIA VỀ THỪA KẾ THEO PHÁP LUẬT
Mỗi quốc gia với những đặc điểm riêng về lịch sử, truyền thống, địa lí,
thành phần dân cư, trình độ phát triển kinh tế, chính trị, tôn giáo... là nền tảng
tạo nên sự đa dạng về xã hội và hệ thống pháp luật ở những quốc gia này. Tuy
nhiên, trong sự đa dạng đó vẫn có những điểm tương đồng nhất định. Sự giao
lưu và tiếp biến giữa các nền văn hóa, những điểm tương đồng về lịch sử,
truyền thống dân tộc của các quốc gia trong khu vực cũng như trên toàn thế
giới đã tạo điều kiện thuận lợi cho các hệ thống pháp luật có những điểm
giống nhau. Dưới đây là quy định về thừa kế nói chung và thừa kế theo pháp
luật nói riêng trong pháp luật dân sự của một số nước.
1.4.1. Pháp luật về thừa kế theo pháp luật trong Bộ luật dân sự Pháp
Được kiến lập vào năm 1804 bởi Napoléon Bonaparte, BLDS Pháp
hay còn gọi là Bộ luật Napoléon được nhiều học giả xem như là bản "Hiến
pháp dân sự" hoặc được ví như "một đài kỷ niệm". Sự so sánh này cho thấy
tầm ảnh hưởng vô cùng to lớn của Bộ luật này đối với pháp luật dân sự thế
giới cũng như tính ổn định, sự trường tồn vượt thời gian của nó. Mặc dù đã
trải qua hơn hai thế kỷ với nhiều thay đổi, bổ sung, song điều kỳ diệu là Bộ
luật vẫn giữ nguyên được cấu trúc và không làm thay đổi trật tự các điều luật.
Cho đến nay, chúng ta vẫn không thể phủ nhận tính mẫu mực của các quy
định trong dân luật Pháp. BLDS Pháp dành riêng Thiên I, Quyển thứ ba, từ
Điều 720 đến Điều 892 để quy định về thừa kế theo pháp luật.
Tương tự như hệ thống pháp luật của các quốc gia khác, pháp luật
thừa kế của Pháp cũng quy định hai hình thức thừa kế bao gồm thừa kế theo
pháp luật và thừa kế theo di chúc. Thừa kế theo pháp luật được áp dụng
29
"trong trường hợp người để lại di sản không định đoạt tài sản bằng tặng cho
hoặc di tặng" [25, Điều 721].
Theo quy định của BLDS Pháp, di sản không chỉ bao gồm tài sản mà còn
bao gồm cả nghĩa vụ tài sản do người chết để lại. Theo Điều 723 BLDS Pháp thì
"Người thừa kế toàn bộ khối di sản hoặc một phần trọn vẹn của khối di sản có
nghĩa vụ vô hạn đối với những khoản nợ mà người chết để lại" [25]. Tiếp đó, tại
Điều 724 BLDS Pháp ghi nhận: "Người thừa kế theo pháp luật đương nhiên
được hưởng các tài sản, các quyền và cổ phần do người chết để lại" [25].
Căn cứ theo quy định tại Điều 731, 732, 733 BLDS Pháp thì những
người được hưởng thừa kế theo pháp luật bao gồm: Người thân thích (không
phân biệt con trong giá thú, con ngoài giá thú) và vợ hoặc chồng của người
chết với điều kiện còn sống, không ly hôn và không có bản án ly thân đã có
hiệu lực pháp luật. Theo quy định tại Điều 741 thì "Mức độ quan hệ thân thích
được xác lập theo số đời; mỗi một đời gọi là một bậc" [25].
Nếu như pháp luật thừa kế của Việt Nam quy định diện thừa kế được
xác định trên ba cơ sở là quan hệ huyết thống, quan hệ hôn nhân và quan hệ
nuôi dưỡng giữa người thừa kế và người để lại di sản, thì pháp luật thừa kế
của Pháp lại xác định phạm vi những người được hưởng di sản trên cơ sở
quan hệ huyết thống, quan hệ vợ chồng giữa người thừa kế và người để lại di
sản trong đó chủ yếu là thừa kế dựa trên quan hệ huyết thống.
Trên cơ sở diện thừa kế, BLDS Pháp chia thành các hàng thừa kế.
Theo quy định tại Điều 734 BLDS Pháp thì trong trường hợp không có vợ
(hoặc chồng) có quyền thừa kế thì những người thân thích sẽ được hưởng theo
thứ tự như sau:
- Hàng thừa kế thứ nhất: Con và ti thuộc của con, không phân biệt
giới tính, sinh trước, sinh sau ngay cả khi họ không cùng cha cùng mẹ.
30
- Hàng thừa kế thứ hai: Cha, mẹ; anh, chị, em ruột và ti thuộc của
những người này.
Cha, mẹ của người chết, mỗi người được hưởng một nửa di sản nếu
người chết không có con, cháu, anh, chị, em ruột hoặc không có ti thuộc của
anh, chị, em ruột. Nếu người để lại di sản không có con cháu nhưng có anh,
chị, em ruột hoặc ti thuộc của anh, chị, em ruột thì cha mẹ mỗi người được
hưởng 1/4 di sản, các anh, chị, em ruột hoặc ti thuộc của họ sẽ được hưởng
một nửa di sản còn lại. Tương tự, nếu chỉ cha hoặc mẹ còn sống thì người này
được hưởng 1/4 di sản và phần còn lại thuộc anh, chị, em ruột hoặc ti thuộc
của những người này.
- Hàng thừa kế thứ ba: Các tôn thuộc khác không phải là cha mẹ.
- Hàng thừa kế thứ tư: Những người thân thích về bàng hệ khác ngoài
anh ruột, chị ruột, em ruột và ti thuộc của những người này.
Những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế nếu không
còn ai ở hàng thừa kế trước.
Trong một hàng thừa kế, những người ở bậc thừa kế gần hơn sẽ được
hưởng thừa kế, những người ở cùng bậc sẽ được hưởng suất thừa kế bằng
nhau. Tuy nhiên, điều này không được áp dụng trong trường hợp chia di sản
theo dòng họ nội và dòng họ ngoại và thừa kế thế vị.
Theo quy định tại Điều 743 BLDS Pháp thì bậc thừa kế được xác định
như sau:
Giữa những người thân thích trong dòng trực hệ, có bao
nhiêu đời thì có bấy nhiêu bậc; như vậy con đối với cha là bậc thứ
nhất, cháu đối với ông là bậc thứ hai hai và ngược lại, cha đối với
con và ông đối với cháu cũng như vậy.
31
Trong dòng bàng hệ các bậc cũng được tính theo các đời: từ
một người trong các thân thích đến ông tổ chung nhưng không tính
ông tổ chung và từ ông tổ chung đến người kia.
Như vậy, hai anh em ruột là ở bậc thứ hai; chú cháu hoặc
bác cháu ở bậc thứ ba, anh em con chú con bác ở bậc thứ tư và cứ
tiếp tục như vậy [25, Điều 743].
Pháp luật thừa kế của Pháp không chỉ ghi nhận diện và hàng thừa kế
trên cơ sở quan hệ huyết thống mà còn xác định dựa trên cơ sở quan hệ hôn
nhân. Theo quy định tại các điều 756, 757, 757-1, 757-2, thì vợ hoặc chồng có
quyền thừa kế được thừa kế một mình hoặc cùng với những người thân thích
khác của người để lại di sản. Nếu vợ chồng có con chung thì người vợ
(chồng) còn sống sẽ được quyền chọn hưởng 1/4 di sản hoặc quyền hưởng
hoa lợi, lợi tức từ tổng số tài sản hiện có. Nếu vợ hoặc chồng chết trước mà có
con riêng thì vợ hoặc chồng còn sống được hưởng 1/4 di sản. Trong trường
hợp không có con hoặc cháu, nếu người để lại di sản có cha mẹ thì vợ (chồng)
còn sống được hưởng một nửa di sản, một nửa còn lại chia đều cho cha, mẹ
của người để lại di sản. Nếu cha mẹ của người để lại di sản đều chết thì phần
di sản lẽ ra người này được hưởng sẽ thuộc về vợ (chồng) còn sống. Vợ
(chồng) còn sống sẽ được hưởng toàn bộ di sản trong trường hợp người để lại
di sản không có con, cháu, cha mẹ đều chết sau người để lại di sản.
Thông qua quá trình phân tích trên đây, chúng ta dễ dàng nhận thấy
pháp luật dân sự Pháp về thừa kế theo pháp luật được quy định rất rõ ràng, cụ
thể và cũng có nhiều điểm tương đồng với các quy định về thừa kế của Việt
Nam vì bản chất của thừa kế là sự chuyển dịch di sản của người đã chết cho
người còn sống để duy trì, bảo vệ và phát triển.
1.4.2. Pháp luật dân sự và thƣơng mại Thái Lan
32
Thái Lan là quốc gia duy nhất trong các nước Đông Nam Á không trải
qua chế độ thuộc địa. Tuy nhiên, hệ thống pháp luật Thái Lan chịu ảnh hưởng
sâu sắc pháp luật các nước phương Tây, đặc biệt là pháp luật của châu Âu lục
địa, xuất phát từ việc phát triển, mở rộng quan hệ thương mại với các quốc gia
này. BLDS và Thương mại Thái Lan năm 1925 là một trong những bộ luật
được xây dựng trên nền tảng đó. Trải qua gần 90 năm, luật dân sự Thái Lan
đã được tôi luyện trong một nền kinh tế với bao thăng trầm khiến cho nhiều
chuẩn mực giá trị của luật dân sự trong đó có các quy định về thừa kế đã được
định hình và trở thành tài sản quý góp vào kho tàng pháp lý nhân loại. Các
quy định về thừa kế nằm tại Quyển 6 từ Điều 1599 đến Điều 1755 của Bộ
luật, được chia thành 6 phần, trong đó quy định về thừa kế theo pháp luật
được ghi nhận tại phần 2.
Theo quy định tại Điều 1600 BLDS và Thương mại Thái Lan thì di
sản thừa kế:
Tùy thuộc vào các quy định của Bộ luật này, tài sản của một
người chết bao gồm mọi loại tài sản của người đó cũng như các
quyền, nghĩa vụ và các trách nhiệm, trừ những quyền, nghĩa vụ và
trách nhiệm mà theo quy định của pháp luật hoặc theo tính chất của
chúng hoàn toàn mang tính chất cá nhân đối với người đã chết [5].
Như vậy, di sản theo quy định của BLDS và Thương mại Thái Lan
được xác định bao gồm mọi tài sản, quyền tài sản, nghĩa vụ tài sản do người
chết để lại.
Về hàng thừa kế, theo quy định tại Điều 1629 BLDS và Thương mại
Thái Lan thì:
Người thừa kế theo pháp luật được chia thành 6 nhóm, tùy
thuộc vào từng trường hợp cụ thể, mỗi nhóm có quyền thừa kế theo
thứ tự sau đây:
33
1) Con cái
2) Bố, mẹ
3) Anh, chị, em đồng huyết thống
4) Anh, chị, em cùng cha khác mẹ hoặc cùng mẹ khác cha
5) Ông, bà
6) Chú, bác, cô, dì [5].
Pháp luật thừa kế của Thái Lan không quy định vợ, chồng của người
để lại di sản trong bất kỳ một hàng thừa kế nào. Theo Điều 1635 BLDS và
Thương mại Thái Lan thì phần di sản mà vợ, chồng của người để lại di sản
được hưởng phụ thuộc vào các hàng và các bậc thừa kế theo quan hệ huyết
thống nội tộc của người để lại di sản.
Bộ luật Dân sự và Thương mại Thái Lan quy định hàng thừa kế xen kẽ
với bậc thừa kế, thừa kế theo bậc được thực hiện khi người thuộc hàng thừa
kế được hưởng di sản đã chết trước hoặc chết cùng một thời điểm với người
để lại di sản thì các con (các cháu) của người đó được hưởng di sản, họ được
gọi là người thừa kế đại diện.
Như vậy, xuất phát từ sự tương đồng về điều kiện kinh tế, xã hội, khu
vực địa lý giữa Việt Nam và Thái Lan, các quy định về thừa kế theo pháp luật
trong BLDS Việt Nam và BLDS và Thương mại Thái Lan có nhiều điểm
tương tự nhau.
Qua việc tìm hiểu pháp luật thừa kế của một số quốc gia có hệ thống
pháp luật tiêu biểu, có thể khẳng định rằng thừa kế luôn là một chế định quan
trọng trong pháp luật dân sự của các nước. Điểm chung trong các quy định về
thừa kế của các Bộ luật này là đều quy định hai hình thức thừa kế bao gồm
thừa kế theo di chúc và thừa kế theo pháp luật. Các quy định về thừa kế theo
pháp luật đều chú trọng bảo vệ quyền thừa kế của những người có quan hệ
34
huyết thống với người để lại di sản. Việc xác định người được hưởng di sản
dựa trên quan hệ hôn nhân không được xem xét một cách độc lập mà luôn bị
chi phối bởi quan hệ huyết thống. Pháp luật thừa kế của các quốc gia trên đều
quy định các hàng thừa kế xen lẫn với bậc thừa kế. Thừa kế theo bậc được áp
dụng khi người thuộc hàng thừa kế được hưởng di sản đã chết trước hoặc chết
cùng thời điểm với người để lại di sản, thì các con (các cháu) của người đó
được hưởng di sản. BLDS của các quốc gia nêu trên đều có sức sống lâu bền,
trải qua hàng thế kỷ nhưng vẫn giữ được hiệu quả điều chỉnh, thể hiện trình
độ lập pháp tuyệt vời. Do đó, để pháp luật về thừa kế của Việt Nam ngày càng
hoàn thiện, việc học hỏi, tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm xây dựng pháp luật
cũng như vận dụng linh hoạt, sáng tạo các quy định của các nước là hết sức
cần thiết.
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1
Quá trình phát triển của thừa kế gắn liền với sự phát triển của lịch sử
loài người. Dù ở thời kỳ nào, dưới chế độ xã hội nào, chế định thừa kế cũng
luôn đóng vai trò quan trọng, tựa như một bức tranh sinh động phản ánh các
quan hệ xã hội, quan hệ tài sản qua từng giai đoạn phát triển. Ở chương mở
đầu này, xuất phát từ việc tham khảo giải nghĩa từ các cuốn từ điển cũng như
quy định của pháp luật hiện hành, tác giả đã xây dựng và đưa ra khái niệm về
thừa kế theo pháp luật, phân tích và chỉ ra các trường hợp được hưởng thừa kế
theo pháp luật. Để có cái nhìn toàn diện và thấy được những ưu nhược điểm
của các quy định về thừa kế trong từng giai đoạn, trong chương này đã phân
tích tiến trình phát triển của pháp luật Việt Nam về thừa kế theo pháp luật
xuyên suốt từ trước năm 1945 cho đến nay. Quyền thừa kế nói chung và thừa
kế theo pháp luật nói riêng của công dân Việt Nam luôn được tôn trọng và ghi
nhận ngày càng đầy đủ, hoàn thiện hơn. Trong xu thế phát triển chung của thế
giới và các hệ thống pháp luật có xu hướng xích lại gần nhau vì lợi ích chung,
việc tham khảo các quy định tương ứng của pháp luật thế giới là hết sức quan
35
trọng. Qua đó có thể học hỏi, tiếp thu có chọn lọc các quy định sao cho phù
hợp với điều kiện của Việt Nam.nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả điều chỉnh
cũng như đảm bảo được quyền và lợi ích hợp pháp cho những người thừa kế
và những người có liên quan.
36
Chương 2
DIỆN VÀ HÀNG THỪA KẾ THEO PHÁP LUẬT
Pháp luật dân sự hiện hành quy định chế định thừa kế bao gồm hai
hình thức là thừa kế theo di chúc và thừa kế theo pháp luật. Diện và hàng thừa
kế là một trong những vấn đề chính yếu và chỉ được đặt ra trong hình thức
thừa kế theo pháp luật. Quy định này xuất phát từ bản chất của hình thức thừa
kế theo di chúc là sự thể hiện ý chí của người lập di chúc, có thể để lại di sản
cho bất kỳ ai nên không cần phải xác định diện và hàng thừa kế.
2.1. CĂN CỨ XÁC ĐỊNH DIỆN THỪA KẾ THEO PHÁP LUẬT
Qua từng giai đoạn phát triển, quy định về diện thừa kế có nhiều điểm
chung và có những quy định về phạm vi rộng hẹp khác nhau. Trước hết, cần
xem xét khái niệm về diện thừa kế. Diện thừa kế là một trong những nội dung
quan trọng của chế định thừa kế. Tuy nhiên, khái niệm về diện thừa kế mới
chỉ được quan tâm nghiên cứu trong lĩnh vực khoa học pháp lý chứ chưa được
ghi nhận dưới góc độ quy định của pháp luật nên dẫn đến nhiều cách hiểu
khác nhau. Trong Giáo trình Luật dân sự, Trường Đại học Luật Hà Nội có đưa
ra khái niệm về diện thừa kế như sau: "Diện những người thừa kế là phạm vi
những người có quyền hưởng di sản thừa kế của người chết theo quy định của
pháp luật" [48, tr. 342]. Khái niệm về diện thừa kế còn có thể được hiểu là
"phạm vi những người có thể được hưởng di sản do người chết để lại được
xác định theo một trong ba quan hệ (quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống,
quan hệ nuôi dưỡng) với người để lại di sản" [24, tr. 278]. Nhìn chung các
khái niệm nêu trên đã phản ánh khá đầy đủ nội dung cũng như bản chất của
diện thừa kế. Tuy nhiên, khái niệm thứ hai về diện thừa kế là hợp lý, cụ thể
hơn và tác giả đồng tình với quan điểm này bởi không phải cá nhân nào trong
diện thừa kế cũng có quyền hưởng di sản thừa kế. Phạm vi những người có
thể được hưởng di sản thừa kế phụ thuộc vào từng giai đoạn phát triển của
37
xã hội cũng như quy định pháp luật của mỗi chế độ nhất định. Như đã đề cập
ở trên về tiến trình phát triển pháp luật về thừa kế theo pháp luật, ở nước ta,
trước năm 1945, dưới chế độ cũ, đặc biệt là dưới chế độ thực dân phong kiến,
bản chất của giai cấp thống trị với tư tưởng trọng nam khinh nữ hết sức nặng
nề đã có sự ảnh hưởng sâu sắc đến việc xác định diện thừa kế. Theo đó, diện
thừa kế chủ yếu dựa trên quan hệ huyết thống nội tộc, địa vị của người vợ
trong quan hệ thừa kế bị đẩy xuống bậc thứ yếu so với các con và có sự phân
biệt giữa vợ cả và vợ thứ trong việc hưởng di sản của người chồng chết trước.
Kể từ khi giành được độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam và trong quá trình
đổi mới, phát triển, pháp luật thừa kế ở nước ta đã xóa bỏ những tàn tích của
tư tưởng lạc hậu trọng nam, khinh nữ và mở rộng diện thừa kế. Theo đó,
người thừa kế theo pháp luật phải có một trong ba mối quan hệ sau đây với
người để lại di sản: quan hệ huyết thống hoặc quan hệ hôn nhân hoặc quan hệ
nuôi dưỡng.
2.1.1. Quan hệ hôn nhân
Gia đình là tế bào của xã hội, phát sinh và phát triển cùng với sự phát
triển của xã hội. Mỗi gia đình được xây dựng dựa trên những sợi dây liên kết
của hôn nhân, huyết thống và nuôi dưỡng trong đó quan hệ hôn nhân có thể
xem là quan hệ nền tảng. Quan hệ hôn nhân là một trong những căn cứ quan
trọng để xác định diện thừa kế theo pháp luật.
Như đã phân tích ở Chương 1, trước năm 1945, dưới chế độ phong
kiến, quan hệ hôn nhân bị xem nhẹ và không được coi là cơ sở để xác định
diện thừa kế giữa vợ và chồng. Tư tưởng trọng nam, khinh nữ đã ảnh hưởng
sâu sắc tới chế định thừa kế. Địa vị của người phụ nữ nói chung và người vợ
nói riêng trong gia đình ở thế yếu, không có sự bình đẳng với người đàn ông,
người chồng về quan hệ sở hữu tài sản cũng như quan hệ thừa kế. Theo đó,
người vợ không thuộc diện thừa kế theo pháp luật của người chồng. Hay nói
cách khác, quan hệ hôn nhân không được ghi nhận là cơ sở để xác định diện
38
thừa kế. Đến thời kỳ Pháp thuộc, quan hệ hôn nhân có được xem xét đến, tuy
nhiên chỉ dừng lại ở một khía cạnh nhỏ. Theo quy định tại Bộ Dân luật Bắc kỳ
thì người vợ chính thất của người quá cố được hưởng toàn bộ di sản trong
trường hợp bên chồng không còn người thân thuộc, trong khi đó người vợ thứ
lại không thuộc diện thừa kế theo pháp luật của chồng, chỉ được ở lại nhà
chồng, hưởng lương thực và tiền chi dùng cho sinh hoạt hàng ngày. Điều này
cho thấy quan hệ hôn nhân không có tính ràng buộc.
Sau năm 1945, pháp luật thừa kế của nước ta đã có những thay đổi to
lớn, trái ngược hoàn toàn với bản chất pháp luật thừa kế của chế độ cũ. Năm
1946, Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời đã ghi
nhận "Đàn bà ngang quyền với đàn ông về mọi phương diện" [26, Điều 9].
Đây là cơ sở pháp lý quan trọng xóa bỏ những quy định thể hiện sự bất bình
đẳng giữa nam và nữ, giữa vợ và chồng của chế độ HN&GĐ phong kiến để từ
đó xây dựng chế độ hôn nhân mới dân chủ và tiến bộ. Mặc dù không quy định
cụ thể về quyền thừa kế của người vợ hoặc chồng trong trường hợp một bên
chết trước nhưng trên cơ sở của Điều 9 có thể hiểu trong quan hệ thừa kế theo
pháp luật, người vợ và người chồng thuộc diện thừa kế của nhau. Sắc lệnh số
97/SL đã chính thức ghi nhận quan hệ hôn nhân trở thành một trong các căn
cứ để xác định diện thừa kế, trong đó đã khẳng định vợ, chồng thuộc diện
thừa kế theo pháp luật của nhau. Nguyên tắc này được tiếp tục kế thừa và cụ
thể hóa tại các văn bản pháp luật sau này như Luật HN&GĐ năm 1959,
Thông tư số 81, Luật HN&GĐ năm 1986, Pháp lệnh thừa kế năm 1990, Luật
HN&GĐ năm 2000 và BLDS năm 2005. Tại khoản 1 Điều 31 Luật HN&GĐ
năm 2000 quy định: "Vợ, chồng có quyền thừa kế tài sản của nhau theo quy
định của pháp luật về thừa kế" [33].
Theo quy định của pháp luật hiện hành, tại khoản 6 Điều 8 Luật
HN&GĐ Việt Nam năm 2000 thì "hôn nhân là quan hệ giữa vợ và chồng sau
khi đã kết hôn" [33]. Vợ và chồng thuộc diện thừa kế theo pháp luật của nhau
khi quan hệ hôn nhân của họ tính đến thời điểm mở thừa kế của người vợ
39
hoặc người chồng được xác định là hôn nhân hợp pháp. Căn cứ vào quan hệ
hôn nhân hợp pháp, quyền thừa kế của vợ, chồng trong việc hưởng di sản của
nhau được bảo đảm bằng các quy định của pháp luật. Để có thể được pháp
luật thừa nhận là quan hệ hôn nhân hợp pháp thì việc kết hôn phải tuân thủ
các điều kiện và thủ tục do pháp luật quy định. Hôn nhân hợp pháp phải đảm
bảo cả về mặt nội dung lẫn hình thức nghĩa là phải đảm bảo các điều kiện kết
hôn và có đăng ký kết hôn. Tại khoản 2 Điều 8 Luật HN&GĐ Việt Nam năm
2000 quy định: "Kết hôn là việc nam và nữ xác lập quan hệ vợ chồng theo
quy định của pháp luật về điều kiện kết hôn và đăng ký kết hôn" [33]. Để
được đăng ký kết hôn, hai bên nam, nữ phải thỏa mãn điều kiện về độ tuổi kết
hôn, ý chí tự nguyện và không thuộc 5 trường hợp cấm kết hôn, bao gồm:
người đang có vợ hoặc có chồng; người mất năng lực hành vi dân sự; giữa
những người cùng dòng máu về trực hệ; giữa những người có họ trong phạm
vi ba đời; giữa cha, mẹ nuôi với con nuôi; giữa người đã từng là cha, mẹ nuôi
với con nuôi, bố chồng với con dâu, mẹ vợ với con rể, bố dượng với con riêng
của vợ, mẹ kế với con riêng của chồng; giữa những người cùng giới tính.
Giấy chứng nhận kết hôn được coi là bằng chứng của cuộc hôn nhân
hợp pháp. Từ thời điểm được cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận các
bên có quyền và nghĩa vụ đối với nhau. Giấy chứng nhận kết hôn được coi là
cơ sở pháp lý để các bên yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải quyết
các tranh chấp, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình trong quan hệ hôn
nhân. Tuy nhiên, trong trường hợp Giấy chứng nhận kết hôn được cấp không
đúng thẩm quyền sẽ không làm phát sinh giá trị pháp lý, hai bên nam nữ
không được coi là vợ chồng và do đó, không thuộc diện thừa kế của nhau.
Trên thực tế, có một số trường hợp do điều kiện, hoàn cảnh khách
quan nên vẫn tồn tại những quan hệ hôn nhân đáp ứng đầy đủ các điều kiện
kết hôn nhưng lại vi phạm thủ tục đăng ký kết hôn. Nguyên nhân bắt nguồn từ
điều kiện lịch sử, đất nước ta trải qua nhiều năm chiến tranh, nảy sinh nhiều
trường hợp nam, nữ mới chỉ được gia đình tổ chức lễ cưới theo tập quán mà
40
chưa tiến hành thủ tục đăng ký kết hôn; do ảnh hưởng của những tập tục lạc
hậu, dẫn tới ý thức của người dân còn rất hạn chế, chỉ tôn trọng nghi thức
cưới theo tập quán mà không đăng ký kết hôn theo luật định, nhất là ở các khu
vực nông thôn, miền núi, các vùng dân tộc thiểu số, đồng bào theo đạo. Câu
hỏi được đặt ra là liệu những trường hợp này có được thừa nhận là hôn nhân
hợp pháp hay không? Thực trạng này đã được giải quyết theo hướng dẫn tại
Nghị quyết số 01/NQ-HĐTP ngày 20/01/1988 của Hội đồng Thẩm phán
TANDTC hướng dẫn áp dụng một số quy định của Luật HN&GĐ năm 1986.
Mục 2 của Nghị quyết đã đưa ra hướng dẫn giải quyết về trường hợp kết hôn
vi phạm Điều 8:
Trong thực tế vẫn có không ít trường hợp kết hôn không có
đăng ký. Việc này tuy có vi phạm về thủ tục kết hôn nhưng không
coi là việc kết hôn trái pháp luật, nếu việc kết hôn không trái với
các điều 5, 6, 7. Trong những trường hợp này, nếu có một hoặc hai
bên xin ly hôn, Tòa án không hủy việc kết hôn theo Điều 9 mà xử
như việc xin ly hôn theo Điều 40 [43].
Quy định về việc thừa nhận hôn nhân thực tế như trên không chỉ góp
phần bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của hai bên nam, nữ, đặc biệt là bảo
vệ lợi ích của người phụ nữ và trẻ em mà còn nhằm giải quyết những vướng
mắc trong các giao dịch do hai bên vợ chồng thực hiện với bên thứ ba.
Tại Hội nghị tổng kết ngành Tòa án năm 1995, Chánh án TANDTC đã
chỉ rõ: Những cuộc hôn nhân nào thỏa mãn đầy đủ các điều kiện kết hôn
nhưng không đăng ký kết hôn, đã sống chung với nhau hàng chục năm, có tài
sản chung hoặc con cái chung thì có thể coi là hôn nhân thực tế để bảo đảm
quyền lợi chính đáng cho các bên đương sự, nhất là đối với phụ nữ. Như vậy,
trong trường hợp hai bên nam nữ chung sống như vợ chồng mặc dù không
tiến hành thủ tục đăng ký kết hôn nhưng đáp ứng đầy đủ điều kiện kết hôn,
được Tòa án thừa nhận là trường hợp hôn nhân thực tế thì vợ chồng vẫn thuộc
41
diện thừa kế theo pháp luật của nhau và còn là người được thừa kế tài sản của
nhau không phụ thuộc vào nội dung của di chúc.
Nhằm giải quyết triệt để những quan hệ vợ chồng không tuân thủ quy
định của Luật HN&GĐ về đăng ký kết hôn. Khoản 1 Điều 11 Luật HN&GĐ
năm 2000 đã quy định: "Nam, nữ không đăng ký kết hôn mà chung sống với
nhau như vợ chồng thì không được pháp luật công nhận là vợ chồng" [33].
Tiếp đó, theo Nghị quyết số 35/2000/QH10 ngày 09/06/2000 của Quốc hội
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về việc thi hành Luật HN&GĐ
năm 2000, hướng dẫn giải quyết các trường hợp nam nữ chung sống như vợ
chồng mà không đăng ký kết hôn như sau: Trong trường hợp quan hệ vợ
chồng được xác lập trước ngày 03/01/1987 (ngày Luật HN&GĐ năm 1986 có
hiệu lực) mà chưa đăng ký kết hôn thì được khuyến khích kết hôn, tức là việc
đăng ký kết hôn không bị hạn chế về mặt thời gian và quan hệ vợ chồng được
công nhận kể từ ngày bắt đầu chung sống như vợ chồng chứ không phải từ
ngày đăng ký kết hôn. Nhưng nếu nam, nữ sống với nhau như vợ chồng từ
ngày 03/01/1987 đến ngày 01/01/2001 mà có đủ điều kiện kết hôn theo quy
định của Luật HN&GĐ năm 2000 thì có nghĩa vụ đăng ký kết hôn trong thời
hạn hai năm kể từ ngày Luật HN&GĐ năm 2000 có hiệu lực cho đến ngày
01/01/2003. Từ sau ngày 01/01/2003 mà họ không đăng ký kết hôn thì pháp
luật không công nhận họ là vợ chồng. Kể từ sau ngày 01/01/2003 họ mới đăng
ký kết hôn thì quan hệ vợ chồng của họ được xác lập kể từ ngày họ đăng ký
kết hôn. Như vậy, tùy từng trường hợp mà pháp luật công nhận hôn nhân thực
tế hay không và khi đã được công nhận là hôn nhân thực tế thì giữa vợ và
chồng sẽ phát sinh đầy đủ các quyền và nghĩa vụ, trong đó có quyền được
hưởng thừa kế theo pháp luật của nhau.
Giả thiết được đặt ra là trong trường hợp nam nữ sống chung với nhau
như vợ chồng từ ngày 03/01/1987 đến ngày 01/01/2001 mà có đủ điều kiện kết
hôn theo quy định của Luật HN&GĐ năm 2000 nhưng chưa đi đăng ký kết hôn
và một bên chết trước trong khoảng thời gian từ sau ngày 01/01/2001 và
42
trước ngày 01/01/2003 thì có thuộc diện thừa kế theo pháp luật của nhau hay
không? Mục II.1.b của Nghị quyết số 01/2003/NQ-HĐTP ngày 06/4/2003 của
Hội đồng Thẩm phán TANDTC quy định: "…cho đến trước ngày 01/01/2003
mà có một bên vợ hoặc chồng chết trước thì bên chồng hoặc vợ còn sống
được hưởng di sản của bên chết để lại theo quy định của pháp luật về thừa kế"
[45]. Quy định này là hoàn toàn phù hợp với thực tiễn.
Nghị quyết còn quy định trường hợp sau ngày 01/01/2003 họ vẫn chưa
đăng ký kết hôn mà có một bên vợ hoặc chồng chết trước và có tranh chấp về
thừa kế thì trong khi chưa có quy định mới của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền, tuỳ từng trường hợp mà Toà án xử lý như sau:
- Nếu chưa thụ lý vụ án thì không thụ lý;
- Nếu đã thụ lý vụ án và đang giải quyết thì ra quyết định
tạm đình chỉ việc giải quyết vụ án [45].
Có thể nhận thấy quy định này không phù hợp với các quy định tại
Nghị quyết số 35/2000/QH10. Do đó, để có sự thống nhất hài hòa giữa các
văn bản pháp luật, cần sửa quy định trên theo hướng ghi nhận những trường
hợp sau ngày 01/01/2003 mà chưa đăng ký kết hôn, nếu một bên chết trước
thì bên còn sống không thuộc diện thừa kế theo pháp luật của bên đã chết.
Việc thừa nhận hôn nhân thực tế chỉ mang tính tạm thời để giải quyết
thấu tình đạt lý những trường hợp do hoàn cảnh khách quan mang lại. Hiện
nay, khi Luật HN&GĐ năm 2000 có hiệu lực, hôn nhân thực tế không được
thừa nhận nữa. Vì vậy, việc hai bên nam, nữ chung sống như vợ chồng mà
không đăng ký kết hôn sẽ không làm phát sinh quan hệ vợ chồng nên không
thuộc diện thừa kế theo pháp luật của nhau.
Luật HN&GĐ năm 2000 quy định vợ chồng có quyền chia tài sản
chung trong thời kỳ hôn nhân để đầu tư kinh doanh riêng, thực hiện nghĩa vụ
dân sự riêng,… Vậy trong trường hợp vợ chồng đã tiến hành chia tài sản
chung khi hôn nhân còn tồn tại, sau đó một bên chết thì bên kia có được
43
quyền hưởng thừa kế di sản của người đã chết không? Theo khoản 1 Điều 680
BLDS năm 2005 thì "Trong trường hợp vợ, chồng đã chia tài sản chung khi
hôn nhân còn tồn tại mà sau đó một người chết thì người còn sống vẫn được
thừa kế di sản" [32]. Quy định này hoàn toàn phù hợp với bản chất của quan
hệ hôn nhân và phù hợp với thực tiễn đời sống bởi việc chia tài sản chung
trong thời kỳ hôn nhân không dẫn tới hệ quả chấm dứt quan hệ vợ chồng, do
đó, vẫn phát sinh quyền thừa kế theo pháp luật giữa vợ, chồng với nhau.
Theo quy định tại Khoản 2 Điều 680 BLDS năm 2005 thì quyền thừa
kế của nhau giữa vợ và chồng vẫn phát sinh kể cả trong trường hợp một bên
chết trước tại thời điểm mà vợ, chồng đang xin ly hôn mà chưa được hoặc đã
được Tòa án cho ly hôn bằng bản án hoặc quyết định chưa có hiệu lực pháp
luật. Trường hợp một bên vợ hoặc chồng chết trước, sau đó bên kia kết hôn
với người khác thì vẫn được hưởng thừa kế theo pháp luật của người chồng
hoặc người vợ đã chết. Đây là quy định rất tiến bộ của pháp luật hiện hành
phù hợp với đời sống xã hội cũng như nếp sống văn hóa hiện nay.
Hôn nhân là cơ sở của gia đình, còn gia đình là tế bào của xã hội.
Đánh giá cao tầm quan trọng của quan hệ hôn nhân, Đảng và Nhà nước ta đã
có những đường lối, chủ trương để phát triển và bảo vệ gia đình bền vững, thể
chế hóa thành các quy phạm pháp luật để ghi nhận các quyền và nghĩa vụ của
mỗi bên vợ, chồng. Pháp luật đã ghi nhận vợ chồng thuộc diện thừa kế theo
pháp luật của nhau một mặt xuất phát từ quan hệ gắn bó tình cảm cùng xây
dựng gia đình giữa vợ và chồng, mặt khác tạo cơ sở vật chất để người còn
sống tiếp tục gánh vác, duy trì cuộc sống gia đình.
2.1.2. Quan hệ huyết thống
"Cây có gốc mới nở ngành xanh ngọn. Nước có nguồn mới bể rộng
nông sâu…". Quả đúng như vậy, từ trước tới nay, người Việt Nam đều rất coi
trọng phong tục thờ cúng tổ tiên, việc hưởng thừa kế không chỉ đơn thuần là
việc chuyển dịch tài sản từ người đã chết cho người còn sống mà còn bao hàm
44
cả ý nghĩa tình cảm, tín ngưỡng. Thờ cúng tổ tiên là tấm lòng thành kính thể
hiện đạo lý uống nước nhớ nguồn, biết ơn tổ tiên ông bà, cha mẹ đã sinh thành
và gây dựng nên cuộc sống cho cháu con. Nếu như con cháu chính là sự nối
tiếp trong dòng chảy của huyết thống qua các thế hệ thì sự chuyển dịch di sản
theo chế định thừa kế chính là sự nối tiếp về quyền sở hữu. Chính vì lẽ đó,
một người được coi là đã chết chưa hẳn đã là chấm dứt hoàn toàn các mối liên
hệ mà một phần con người đó vẫn còn hiện hữu trong con cháu, trong những
di sản mà người đó để lại. Do vậy, quan hệ huyết thống là cơ sở quan trọng,
cơ bản quy định diện thừa kế theo pháp luật.
Quan hệ huyết thống là quan hệ giữa những người có cùng dòng máu
về trực hệ hoặc bàng hệ được xác định thông qua sự kiện sinh đẻ.
Trong xã hội phong kiến với nền kinh tế nông nghiệp còn nghèo nàn,
lạc hậu, chủ yếu là sản xuất nông nghiệp, tự cung tự cấp là chính nên cần
nhiều nhân công cùng hợp tác sản xuất. Tập quán nhiều thế hệ chung sống
dưới một mái nhà đã hình thành từ đó để đáp ứng nhu cầu sản xuất và tiêu
dùng. Bên cạnh đó, trong xã hội phong kiến, tài sản của cá nhân chủ yếu là
đất đai, do đó, thừa kế di sản trong thời kỳ này được xem như một phương
tiện để duy trì, bảo vệ và phát triển khối tài sản cho những người có cùng
quan hệ huyết thống. Đến thời kỳ thực dân đô hộ, diện thừa kế theo pháp luật
dựa trên cơ sở quan hệ huyết thống vẫn giữ nguyên vị trí quan trọng hàng đầu.
Theo đó, các con đẻ, con nuôi, các cháu, cha mẹ, ông bà nội, các cụ nội, anh
chị em ruột của người để lại di sản là những người thuộc diện thừa kế đầu tiên
và di sản chỉ thuộc về bên họ ngoại khi không còn thân thuộc bên họ nội.
Ngay sau khi giành được độc lập, Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn
bản trong đó có quy định về vấn đề thừa kế. Theo đó, trong những năm đầu
dưới chế độ mới, diện thừa kế được xác định trên hai cơ sở là quan hệ huyết
thống và quan hệ hôn nhân. Tuy nhiên, đối tượng thuộc diện thừa kế theo
quan hệ huyết thống ban đầu được quy định khá hẹp. Căn cứ theo quy định tại
45
Sắc lệnh số 97/SL thì diện thừa kế xét theo quan hệ huyết thống chỉ có con, cháu.
Đến Thông tư 1742 - BNC, diện thừa kế theo quan hệ huyết thống được mở
rộng, bao gồm các con đẻ, cháu chắt, cha mẹ của người để lại di sản. Tiếp đó, tại
Thông tư số 594-NCPL ngày 27/8/1968 của TANDTC, diện thừa kế xét theo
quan hệ huyết thống tiếp tục được mở rộng, bao gồm con đẻ, bố mẹ đẻ, ông bà
nội ngoại, anh chị em ruột. Đến Thông tư số 81 đã quy định cụ thể, mở rộng hơn
nữa những người thuộc diện thừa kế theo pháp luật trong đó bao gồm cả những
người có quan hệ huyết thống trực hệ và bàng hệ với người để lại di sản. Phạm vi
những người thừa kế di sản được xác định từ quan hệ huyết thống trực hệ bao
gồm cha mẹ đẻ, ông bà nội ngoại, các con đẻ, các cháu nội ngoại của người chết.
Phạm vi những người thừa kế di sản được xác định từ quan hệ huyết thống bàng
hệ bao gồm anh chị em ruột. Pháp lệnh thừa kế ngày 30/08/1990 ra đời trên cơ
sở kế thừa các quy định trước đó và bổ sung những quy định mới để phù hợp với
tình hình xã hội lúc bấy giờ. Theo đó, ngoài những đối tượng được quy định tại
Thông tư số 81, diện thừa kế theo quan hệ huyết thống còn bao gồm những
người thuộc quan hệ huyết thống trực hệ và bàng hệ khác đó là cụ nội, ngoại,
chú, bác, cô, dì, cậu ruột của người để lại di sản và những người mà người để lại
di sản là cô, dì, chú, bác, cậu ruột.
Trong tiến trình đổi mới, Nhà nước ta đã ban hành BLDS đầu tiên vào
năm 1995 và có hiệu lực ngày 01/7/1996. Đây là là kết quả của quá trình pháp
điển hóa luật dân sự Việt Nam trong suốt hơn 50 năm. BLDS năm 1995 ra đời
đã đánh dấu bước ngoặt lớn, lần đầu tiên các quy định về diện thừa kế nói
chung và diện thừa kế theo quan hệ huyết thống nói riêng được ghi nhận trong
văn bản có hiệu lực pháp lý cao chỉ sau Hiến pháp. Những quy định về xác
định phạm vi diện thừa kế dựa trên quan hệ huyết thống không có sự thay đổi
so với Pháp lệnh thừa kế năm 1990. Tuy nhiên, sau 10 năm áp dụng, có những
quy định của BLDS năm 1995 đã không còn thích hợp, một số điều khoản đã
không phát huy được tác dụng tích cực trong việc điều chỉnh các
46
Thừa Kế Theo Pháp Luật - Một Số Vấn Đề Lý Luận Và Thực Tiễn
Thừa Kế Theo Pháp Luật - Một Số Vấn Đề Lý Luận Và Thực Tiễn
Thừa Kế Theo Pháp Luật - Một Số Vấn Đề Lý Luận Và Thực Tiễn
Thừa Kế Theo Pháp Luật - Một Số Vấn Đề Lý Luận Và Thực Tiễn
Thừa Kế Theo Pháp Luật - Một Số Vấn Đề Lý Luận Và Thực Tiễn
Thừa Kế Theo Pháp Luật - Một Số Vấn Đề Lý Luận Và Thực Tiễn
Thừa Kế Theo Pháp Luật - Một Số Vấn Đề Lý Luận Và Thực Tiễn
Thừa Kế Theo Pháp Luật - Một Số Vấn Đề Lý Luận Và Thực Tiễn
Thừa Kế Theo Pháp Luật - Một Số Vấn Đề Lý Luận Và Thực Tiễn
Thừa Kế Theo Pháp Luật - Một Số Vấn Đề Lý Luận Và Thực Tiễn
Thừa Kế Theo Pháp Luật - Một Số Vấn Đề Lý Luận Và Thực Tiễn
Thừa Kế Theo Pháp Luật - Một Số Vấn Đề Lý Luận Và Thực Tiễn
Thừa Kế Theo Pháp Luật - Một Số Vấn Đề Lý Luận Và Thực Tiễn
Thừa Kế Theo Pháp Luật - Một Số Vấn Đề Lý Luận Và Thực Tiễn
Thừa Kế Theo Pháp Luật - Một Số Vấn Đề Lý Luận Và Thực Tiễn
Thừa Kế Theo Pháp Luật - Một Số Vấn Đề Lý Luận Và Thực Tiễn
Thừa Kế Theo Pháp Luật - Một Số Vấn Đề Lý Luận Và Thực Tiễn
Thừa Kế Theo Pháp Luật - Một Số Vấn Đề Lý Luận Và Thực Tiễn
Thừa Kế Theo Pháp Luật - Một Số Vấn Đề Lý Luận Và Thực Tiễn
Thừa Kế Theo Pháp Luật - Một Số Vấn Đề Lý Luận Và Thực Tiễn
Thừa Kế Theo Pháp Luật - Một Số Vấn Đề Lý Luận Và Thực Tiễn
Thừa Kế Theo Pháp Luật - Một Số Vấn Đề Lý Luận Và Thực Tiễn
Thừa Kế Theo Pháp Luật - Một Số Vấn Đề Lý Luận Và Thực Tiễn
Thừa Kế Theo Pháp Luật - Một Số Vấn Đề Lý Luận Và Thực Tiễn
Thừa Kế Theo Pháp Luật - Một Số Vấn Đề Lý Luận Và Thực Tiễn
Thừa Kế Theo Pháp Luật - Một Số Vấn Đề Lý Luận Và Thực Tiễn
Thừa Kế Theo Pháp Luật - Một Số Vấn Đề Lý Luận Và Thực Tiễn
Thừa Kế Theo Pháp Luật - Một Số Vấn Đề Lý Luận Và Thực Tiễn
Thừa Kế Theo Pháp Luật - Một Số Vấn Đề Lý Luận Và Thực Tiễn
Thừa Kế Theo Pháp Luật - Một Số Vấn Đề Lý Luận Và Thực Tiễn
Thừa Kế Theo Pháp Luật - Một Số Vấn Đề Lý Luận Và Thực Tiễn
Thừa Kế Theo Pháp Luật - Một Số Vấn Đề Lý Luận Và Thực Tiễn
Thừa Kế Theo Pháp Luật - Một Số Vấn Đề Lý Luận Và Thực Tiễn
Thừa Kế Theo Pháp Luật - Một Số Vấn Đề Lý Luận Và Thực Tiễn
Thừa Kế Theo Pháp Luật - Một Số Vấn Đề Lý Luận Và Thực Tiễn
Thừa Kế Theo Pháp Luật - Một Số Vấn Đề Lý Luận Và Thực Tiễn
Thừa Kế Theo Pháp Luật - Một Số Vấn Đề Lý Luận Và Thực Tiễn
Thừa Kế Theo Pháp Luật - Một Số Vấn Đề Lý Luận Và Thực Tiễn
Thừa Kế Theo Pháp Luật - Một Số Vấn Đề Lý Luận Và Thực Tiễn
Thừa Kế Theo Pháp Luật - Một Số Vấn Đề Lý Luận Và Thực Tiễn
Thừa Kế Theo Pháp Luật - Một Số Vấn Đề Lý Luận Và Thực Tiễn
Thừa Kế Theo Pháp Luật - Một Số Vấn Đề Lý Luận Và Thực Tiễn
Thừa Kế Theo Pháp Luật - Một Số Vấn Đề Lý Luận Và Thực Tiễn
Thừa Kế Theo Pháp Luật - Một Số Vấn Đề Lý Luận Và Thực Tiễn
Thừa Kế Theo Pháp Luật - Một Số Vấn Đề Lý Luận Và Thực Tiễn
Thừa Kế Theo Pháp Luật - Một Số Vấn Đề Lý Luận Và Thực Tiễn
Thừa Kế Theo Pháp Luật - Một Số Vấn Đề Lý Luận Và Thực Tiễn
Thừa Kế Theo Pháp Luật - Một Số Vấn Đề Lý Luận Và Thực Tiễn
Thừa Kế Theo Pháp Luật - Một Số Vấn Đề Lý Luận Và Thực Tiễn
Thừa Kế Theo Pháp Luật - Một Số Vấn Đề Lý Luận Và Thực Tiễn
Thừa Kế Theo Pháp Luật - Một Số Vấn Đề Lý Luận Và Thực Tiễn
Thừa Kế Theo Pháp Luật - Một Số Vấn Đề Lý Luận Và Thực Tiễn
Thừa Kế Theo Pháp Luật - Một Số Vấn Đề Lý Luận Và Thực Tiễn
Thừa Kế Theo Pháp Luật - Một Số Vấn Đề Lý Luận Và Thực Tiễn
Thừa Kế Theo Pháp Luật - Một Số Vấn Đề Lý Luận Và Thực Tiễn
Thừa Kế Theo Pháp Luật - Một Số Vấn Đề Lý Luận Và Thực Tiễn
Thừa Kế Theo Pháp Luật - Một Số Vấn Đề Lý Luận Và Thực Tiễn
Thừa Kế Theo Pháp Luật - Một Số Vấn Đề Lý Luận Và Thực Tiễn
Thừa Kế Theo Pháp Luật - Một Số Vấn Đề Lý Luận Và Thực Tiễn
Thừa Kế Theo Pháp Luật - Một Số Vấn Đề Lý Luận Và Thực Tiễn
Thừa Kế Theo Pháp Luật - Một Số Vấn Đề Lý Luận Và Thực Tiễn
Thừa Kế Theo Pháp Luật - Một Số Vấn Đề Lý Luận Và Thực Tiễn
Thừa Kế Theo Pháp Luật - Một Số Vấn Đề Lý Luận Và Thực Tiễn

More Related Content

Similar to Thừa Kế Theo Pháp Luật - Một Số Vấn Đề Lý Luận Và Thực Tiễn

Giải quyết tranh chấp về thừa kế theo di chúc, một số vấn đề lý luận và thực ...
Giải quyết tranh chấp về thừa kế theo di chúc, một số vấn đề lý luận và thực ...Giải quyết tranh chấp về thừa kế theo di chúc, một số vấn đề lý luận và thực ...
Giải quyết tranh chấp về thừa kế theo di chúc, một số vấn đề lý luận và thực ...hieu anh
 
Luận văn: Hoàn thiện pháp luật về thừa kế ở Việt Nam hiện nay, HAY
Luận văn: Hoàn thiện pháp luật về thừa kế ở Việt Nam hiện nay, HAYLuận văn: Hoàn thiện pháp luật về thừa kế ở Việt Nam hiện nay, HAY
Luận văn: Hoàn thiện pháp luật về thừa kế ở Việt Nam hiện nay, HAYViết thuê trọn gói ZALO 0934573149
 
Thực Trạng Pháp Luật Hiện Hành Về Kết Hôn Trái Pháp Luật Và Thực Tiễn Áp Dụng...
Thực Trạng Pháp Luật Hiện Hành Về Kết Hôn Trái Pháp Luật Và Thực Tiễn Áp Dụng...Thực Trạng Pháp Luật Hiện Hành Về Kết Hôn Trái Pháp Luật Và Thực Tiễn Áp Dụng...
Thực Trạng Pháp Luật Hiện Hành Về Kết Hôn Trái Pháp Luật Và Thực Tiễn Áp Dụng...Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562
 
Xác định và phân chia di sản thừa kế theo pháp luật Việt Nam hiện nay : Luận ...
Xác định và phân chia di sản thừa kế theo pháp luật Việt Nam hiện nay : Luận ...Xác định và phân chia di sản thừa kế theo pháp luật Việt Nam hiện nay : Luận ...
Xác định và phân chia di sản thừa kế theo pháp luật Việt Nam hiện nay : Luận ...nataliej4
 
KHÓA LUẬN: PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN THỪA KẾ
KHÓA LUẬN: PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN THỪA KẾKHÓA LUẬN: PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN THỪA KẾ
KHÓA LUẬN: PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN THỪA KẾOnTimeVitThu
 

Similar to Thừa Kế Theo Pháp Luật - Một Số Vấn Đề Lý Luận Và Thực Tiễn (20)

Giải quyết tranh chấp về thừa kế theo di chúc, một số vấn đề lý luận và thực ...
Giải quyết tranh chấp về thừa kế theo di chúc, một số vấn đề lý luận và thực ...Giải quyết tranh chấp về thừa kế theo di chúc, một số vấn đề lý luận và thực ...
Giải quyết tranh chấp về thừa kế theo di chúc, một số vấn đề lý luận và thực ...
 
luan van thau ke di chuc theo bo luat dan su viet nam 2005, hay
luan van thau ke di chuc theo bo luat dan su viet nam 2005, hayluan van thau ke di chuc theo bo luat dan su viet nam 2005, hay
luan van thau ke di chuc theo bo luat dan su viet nam 2005, hay
 
Luận án: Thừa kế theo pháp luật theo Bộ luật Dân sự 2015, HAY
Luận án: Thừa kế theo pháp luật theo Bộ luật Dân sự 2015, HAYLuận án: Thừa kế theo pháp luật theo Bộ luật Dân sự 2015, HAY
Luận án: Thừa kế theo pháp luật theo Bộ luật Dân sự 2015, HAY
 
Đề tài: Chế độ tài sản của vợ chồng theo Luật Hôn nhân gia đình
Đề tài: Chế độ tài sản của vợ chồng theo Luật Hôn nhân gia đìnhĐề tài: Chế độ tài sản của vợ chồng theo Luật Hôn nhân gia đình
Đề tài: Chế độ tài sản của vợ chồng theo Luật Hôn nhân gia đình
 
Luận văn: Hoàn thiện pháp luật về thừa kế ở Việt Nam hiện nay, HAY
Luận văn: Hoàn thiện pháp luật về thừa kế ở Việt Nam hiện nay, HAYLuận văn: Hoàn thiện pháp luật về thừa kế ở Việt Nam hiện nay, HAY
Luận văn: Hoàn thiện pháp luật về thừa kế ở Việt Nam hiện nay, HAY
 
Xác định và phân chia di sản thừa kế theo pháp luật Việt Nam hiện nay.docx
Xác định và phân chia di sản thừa kế theo pháp luật Việt Nam hiện nay.docxXác định và phân chia di sản thừa kế theo pháp luật Việt Nam hiện nay.docx
Xác định và phân chia di sản thừa kế theo pháp luật Việt Nam hiện nay.docx
 
Luận án: Pháp luật thừa kế thời kỳ nhà Lê, nhà Nguyễn, HAY, 9đ
Luận án: Pháp luật thừa kế thời kỳ nhà Lê, nhà Nguyễn, HAY, 9đLuận án: Pháp luật thừa kế thời kỳ nhà Lê, nhà Nguyễn, HAY, 9đ
Luận án: Pháp luật thừa kế thời kỳ nhà Lê, nhà Nguyễn, HAY, 9đ
 
Luận văn: Vận dụng thừa kế pháp luật thời nhà Lê, nhà Nguyễn
Luận văn: Vận dụng thừa kế pháp luật thời nhà Lê, nhà NguyễnLuận văn: Vận dụng thừa kế pháp luật thời nhà Lê, nhà Nguyễn
Luận văn: Vận dụng thừa kế pháp luật thời nhà Lê, nhà Nguyễn
 
Thực Trạng Pháp Luật Hiện Hành Về Kết Hôn Trái Pháp Luật Và Thực Tiễn Áp Dụng...
Thực Trạng Pháp Luật Hiện Hành Về Kết Hôn Trái Pháp Luật Và Thực Tiễn Áp Dụng...Thực Trạng Pháp Luật Hiện Hành Về Kết Hôn Trái Pháp Luật Và Thực Tiễn Áp Dụng...
Thực Trạng Pháp Luật Hiện Hành Về Kết Hôn Trái Pháp Luật Và Thực Tiễn Áp Dụng...
 
Luận văn: Quản lý hộ tịch - qua thực tiễn Hải Phòng, HAY
Luận văn: Quản lý hộ tịch - qua thực tiễn Hải Phòng, HAYLuận văn: Quản lý hộ tịch - qua thực tiễn Hải Phòng, HAY
Luận văn: Quản lý hộ tịch - qua thực tiễn Hải Phòng, HAY
 
Báo cáo thực tập về Thừa kế theo di chúc theo Luật dân sự 2015
Báo cáo thực tập về Thừa kế theo di chúc theo Luật dân sự 2015Báo cáo thực tập về Thừa kế theo di chúc theo Luật dân sự 2015
Báo cáo thực tập về Thừa kế theo di chúc theo Luật dân sự 2015
 
Xác định và phân chia di sản thừa kế theo pháp luật Việt Nam hiện nay : Luận ...
Xác định và phân chia di sản thừa kế theo pháp luật Việt Nam hiện nay : Luận ...Xác định và phân chia di sản thừa kế theo pháp luật Việt Nam hiện nay : Luận ...
Xác định và phân chia di sản thừa kế theo pháp luật Việt Nam hiện nay : Luận ...
 
Luận văn: Xác định và phân chia di sản thừa kế theo luật, HAY
Luận văn: Xác định và phân chia di sản thừa kế theo luật, HAYLuận văn: Xác định và phân chia di sản thừa kế theo luật, HAY
Luận văn: Xác định và phân chia di sản thừa kế theo luật, HAY
 
Luận văn: Căn cứ ly hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình, HOT
Luận văn: Căn cứ ly hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình, HOTLuận văn: Căn cứ ly hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình, HOT
Luận văn: Căn cứ ly hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình, HOT
 
Những Vấn Đề Lý Luận Chung Về Thừa Kế Theo Di Chúc Và Hình Thức Của Di Chúc.doc
Những Vấn Đề Lý Luận Chung Về Thừa Kế Theo Di Chúc Và Hình Thức Của Di Chúc.docNhững Vấn Đề Lý Luận Chung Về Thừa Kế Theo Di Chúc Và Hình Thức Của Di Chúc.doc
Những Vấn Đề Lý Luận Chung Về Thừa Kế Theo Di Chúc Và Hình Thức Của Di Chúc.doc
 
Quyền Và Nghĩa Vụ Của Cha, Mẹ Sau Ly Hôn, HAY
Quyền Và Nghĩa Vụ Của Cha, Mẹ Sau Ly Hôn, HAYQuyền Và Nghĩa Vụ Của Cha, Mẹ Sau Ly Hôn, HAY
Quyền Và Nghĩa Vụ Của Cha, Mẹ Sau Ly Hôn, HAY
 
Thực Tiễn Giải Quyết Ly Hôn Tại Tòa Án Nhân Dân Quận Hai Bà Trưng, Thành Phố ...
Thực Tiễn Giải Quyết Ly Hôn Tại Tòa Án Nhân Dân Quận Hai Bà Trưng, Thành Phố ...Thực Tiễn Giải Quyết Ly Hôn Tại Tòa Án Nhân Dân Quận Hai Bà Trưng, Thành Phố ...
Thực Tiễn Giải Quyết Ly Hôn Tại Tòa Án Nhân Dân Quận Hai Bà Trưng, Thành Phố ...
 
Thừa Kế Theo Pháp Luật Ở Việt Nam Hiện Nay, HAY
Thừa Kế Theo Pháp Luật Ở Việt Nam Hiện Nay, HAYThừa Kế Theo Pháp Luật Ở Việt Nam Hiện Nay, HAY
Thừa Kế Theo Pháp Luật Ở Việt Nam Hiện Nay, HAY
 
KHÓA LUẬN: PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN THỪA KẾ
KHÓA LUẬN: PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN THỪA KẾKHÓA LUẬN: PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN THỪA KẾ
KHÓA LUẬN: PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN THỪA KẾ
 
Luận văn: Quyền và nghĩa vụ của cha, mẹ sau ly hôn, HAY
Luận văn: Quyền và nghĩa vụ của cha, mẹ sau ly hôn, HAY Luận văn: Quyền và nghĩa vụ của cha, mẹ sau ly hôn, HAY
Luận văn: Quyền và nghĩa vụ của cha, mẹ sau ly hôn, HAY
 

More from Nhận Viết Đề Tài Thuê trangluanvan.com

Vấn Đề Pháp Lí Về Chuyển Nhượng Vốn Góp Ở Công Ty Trách Nhiệm Hữu Hạn
Vấn Đề Pháp Lí Về Chuyển Nhượng Vốn Góp Ở Công Ty Trách Nhiệm Hữu HạnVấn Đề Pháp Lí Về Chuyển Nhượng Vốn Góp Ở Công Ty Trách Nhiệm Hữu Hạn
Vấn Đề Pháp Lí Về Chuyển Nhượng Vốn Góp Ở Công Ty Trách Nhiệm Hữu HạnNhận Viết Đề Tài Thuê trangluanvan.com
 
Luận Văn Tình Hình Cho Vay Vốn Đối Với Hộ Sản Xuất Tại Ngân Hàng Nông Nghiệp ...
Luận Văn Tình Hình Cho Vay Vốn Đối Với Hộ Sản Xuất Tại Ngân Hàng Nông Nghiệp ...Luận Văn Tình Hình Cho Vay Vốn Đối Với Hộ Sản Xuất Tại Ngân Hàng Nông Nghiệp ...
Luận Văn Tình Hình Cho Vay Vốn Đối Với Hộ Sản Xuất Tại Ngân Hàng Nông Nghiệp ...Nhận Viết Đề Tài Thuê trangluanvan.com
 
Luận Văn Phân Tích Rủi Ro Tín Dụng Và Một Số Biện Pháp Phòng Ngừa Rủi Ro Tín ...
Luận Văn Phân Tích Rủi Ro Tín Dụng Và Một Số Biện Pháp Phòng Ngừa Rủi Ro Tín ...Luận Văn Phân Tích Rủi Ro Tín Dụng Và Một Số Biện Pháp Phòng Ngừa Rủi Ro Tín ...
Luận Văn Phân Tích Rủi Ro Tín Dụng Và Một Số Biện Pháp Phòng Ngừa Rủi Ro Tín ...Nhận Viết Đề Tài Thuê trangluanvan.com
 
Luận Văn Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Sự Hài Lòng Của Người Dân Đối V...
Luận Văn Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Sự Hài Lòng Của Người Dân Đối V...Luận Văn Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Sự Hài Lòng Của Người Dân Đối V...
Luận Văn Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Sự Hài Lòng Của Người Dân Đối V...Nhận Viết Đề Tài Thuê trangluanvan.com
 
Khoá Luận Pháp Luật Về Xử Lý Tài Sản Bảo Đảm Qua Thực Tiễn Tại Ngân Hàng Thươ...
Khoá Luận Pháp Luật Về Xử Lý Tài Sản Bảo Đảm Qua Thực Tiễn Tại Ngân Hàng Thươ...Khoá Luận Pháp Luật Về Xử Lý Tài Sản Bảo Đảm Qua Thực Tiễn Tại Ngân Hàng Thươ...
Khoá Luận Pháp Luật Về Xử Lý Tài Sản Bảo Đảm Qua Thực Tiễn Tại Ngân Hàng Thươ...Nhận Viết Đề Tài Thuê trangluanvan.com
 
Khoá Luận Pháp Luật Về Phạt Vi Phạm Trong Hợp Đồng Lĩnh Vực Thương Mại
Khoá Luận Pháp Luật Về Phạt Vi Phạm Trong Hợp Đồng Lĩnh Vực Thương MạiKhoá Luận Pháp Luật Về Phạt Vi Phạm Trong Hợp Đồng Lĩnh Vực Thương Mại
Khoá Luận Pháp Luật Về Phạt Vi Phạm Trong Hợp Đồng Lĩnh Vực Thương MạiNhận Viết Đề Tài Thuê trangluanvan.com
 
Khoá Luận Pháp Luật Đưa Người Lao Động Có Thời Hạn Tại Nước Ngoài
Khoá Luận Pháp Luật Đưa Người Lao Động Có Thời Hạn Tại Nước NgoàiKhoá Luận Pháp Luật Đưa Người Lao Động Có Thời Hạn Tại Nước Ngoài
Khoá Luận Pháp Luật Đưa Người Lao Động Có Thời Hạn Tại Nước NgoàiNhận Viết Đề Tài Thuê trangluanvan.com
 
Khoá Luận Một Số Giải Pháp Nâng Cao Hoạt Động Marketing Mix Tại Công Ty Chiếu...
Khoá Luận Một Số Giải Pháp Nâng Cao Hoạt Động Marketing Mix Tại Công Ty Chiếu...Khoá Luận Một Số Giải Pháp Nâng Cao Hoạt Động Marketing Mix Tại Công Ty Chiếu...
Khoá Luận Một Số Giải Pháp Nâng Cao Hoạt Động Marketing Mix Tại Công Ty Chiếu...Nhận Viết Đề Tài Thuê trangluanvan.com
 
Hoàn Thiện Công Tác Đào Tạo Và Phát Triển Nhân Sự Tại Công Ty Xây Dựng
Hoàn Thiện Công Tác Đào Tạo Và Phát Triển Nhân Sự Tại Công Ty Xây DựngHoàn Thiện Công Tác Đào Tạo Và Phát Triển Nhân Sự Tại Công Ty Xây Dựng
Hoàn Thiện Công Tác Đào Tạo Và Phát Triển Nhân Sự Tại Công Ty Xây DựngNhận Viết Đề Tài Thuê trangluanvan.com
 
Chuyên Đề Quyền Thừa Kế Của Con Nuôi Theo Quy Định Của Pháp Luật Dân Sự Việt Nam
Chuyên Đề Quyền Thừa Kế Của Con Nuôi Theo Quy Định Của Pháp Luật Dân Sự Việt NamChuyên Đề Quyền Thừa Kế Của Con Nuôi Theo Quy Định Của Pháp Luật Dân Sự Việt Nam
Chuyên Đề Quyền Thừa Kế Của Con Nuôi Theo Quy Định Của Pháp Luật Dân Sự Việt NamNhận Viết Đề Tài Thuê trangluanvan.com
 
Chuyên Đề Phân Tích Và Định Giá Cổ Phiếu Công Ty Dưới Góc Độ Nhà Đầu Tư Chiến...
Chuyên Đề Phân Tích Và Định Giá Cổ Phiếu Công Ty Dưới Góc Độ Nhà Đầu Tư Chiến...Chuyên Đề Phân Tích Và Định Giá Cổ Phiếu Công Ty Dưới Góc Độ Nhà Đầu Tư Chiến...
Chuyên Đề Phân Tích Và Định Giá Cổ Phiếu Công Ty Dưới Góc Độ Nhà Đầu Tư Chiến...Nhận Viết Đề Tài Thuê trangluanvan.com
 
Chuyên Đề Hoàn Thiện Công Tác Thẩm Định Tài Chính Dự Án Đầu Tư Tại Ngân Hàng ...
Chuyên Đề Hoàn Thiện Công Tác Thẩm Định Tài Chính Dự Án Đầu Tư Tại Ngân Hàng ...Chuyên Đề Hoàn Thiện Công Tác Thẩm Định Tài Chính Dự Án Đầu Tư Tại Ngân Hàng ...
Chuyên Đề Hoàn Thiện Công Tác Thẩm Định Tài Chính Dự Án Đầu Tư Tại Ngân Hàng ...Nhận Viết Đề Tài Thuê trangluanvan.com
 

More from Nhận Viết Đề Tài Thuê trangluanvan.com (20)

Vấn Đề Pháp Lí Về Chuyển Nhượng Vốn Góp Ở Công Ty Trách Nhiệm Hữu Hạn
Vấn Đề Pháp Lí Về Chuyển Nhượng Vốn Góp Ở Công Ty Trách Nhiệm Hữu HạnVấn Đề Pháp Lí Về Chuyển Nhượng Vốn Góp Ở Công Ty Trách Nhiệm Hữu Hạn
Vấn Đề Pháp Lí Về Chuyển Nhượng Vốn Góp Ở Công Ty Trách Nhiệm Hữu Hạn
 
Tiểu Luận Phân Tích Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Ngành Dệt May
Tiểu Luận Phân Tích Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Ngành Dệt MayTiểu Luận Phân Tích Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Ngành Dệt May
Tiểu Luận Phân Tích Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Ngành Dệt May
 
Luận Văn Tình Hình Cho Vay Vốn Đối Với Hộ Sản Xuất Tại Ngân Hàng Nông Nghiệp ...
Luận Văn Tình Hình Cho Vay Vốn Đối Với Hộ Sản Xuất Tại Ngân Hàng Nông Nghiệp ...Luận Văn Tình Hình Cho Vay Vốn Đối Với Hộ Sản Xuất Tại Ngân Hàng Nông Nghiệp ...
Luận Văn Tình Hình Cho Vay Vốn Đối Với Hộ Sản Xuất Tại Ngân Hàng Nông Nghiệp ...
 
Luận Văn Phân Tích Rủi Ro Tín Dụng Và Một Số Biện Pháp Phòng Ngừa Rủi Ro Tín ...
Luận Văn Phân Tích Rủi Ro Tín Dụng Và Một Số Biện Pháp Phòng Ngừa Rủi Ro Tín ...Luận Văn Phân Tích Rủi Ro Tín Dụng Và Một Số Biện Pháp Phòng Ngừa Rủi Ro Tín ...
Luận Văn Phân Tích Rủi Ro Tín Dụng Và Một Số Biện Pháp Phòng Ngừa Rủi Ro Tín ...
 
Luận Văn Phân Tích Doanh Thu Và Lợi Nhuận Của Công Ty Thuốc Lá Vinasa
Luận Văn Phân Tích Doanh Thu Và Lợi Nhuận Của Công Ty Thuốc Lá VinasaLuận Văn Phân Tích Doanh Thu Và Lợi Nhuận Của Công Ty Thuốc Lá Vinasa
Luận Văn Phân Tích Doanh Thu Và Lợi Nhuận Của Công Ty Thuốc Lá Vinasa
 
Luận Văn Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Sự Hài Lòng Của Người Dân Đối V...
Luận Văn Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Sự Hài Lòng Của Người Dân Đối V...Luận Văn Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Sự Hài Lòng Của Người Dân Đối V...
Luận Văn Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Sự Hài Lòng Của Người Dân Đối V...
 
Luận Văn Giải Pháp Nâng Cao Chất Lượng Dịch Vụ Tại Khách Sạn
Luận Văn Giải Pháp Nâng Cao Chất Lượng Dịch Vụ Tại Khách SạnLuận Văn Giải Pháp Nâng Cao Chất Lượng Dịch Vụ Tại Khách Sạn
Luận Văn Giải Pháp Nâng Cao Chất Lượng Dịch Vụ Tại Khách Sạn
 
Luận Văn Chiến Lược Phát Triển Của Công Ty Cổ Phần Đầu Tư
Luận Văn Chiến Lược Phát Triển Của Công Ty Cổ Phần Đầu TưLuận Văn Chiến Lược Phát Triển Của Công Ty Cổ Phần Đầu Tư
Luận Văn Chiến Lược Phát Triển Của Công Ty Cổ Phần Đầu Tư
 
Khoá Luận Xuất Khẩu Lao Động Việt Nam- Thực Trạng Và Triển Vọng
Khoá Luận Xuất Khẩu Lao Động Việt Nam- Thực Trạng Và Triển VọngKhoá Luận Xuất Khẩu Lao Động Việt Nam- Thực Trạng Và Triển Vọng
Khoá Luận Xuất Khẩu Lao Động Việt Nam- Thực Trạng Và Triển Vọng
 
Khoá Luận Pháp Luật Về Xử Lý Tài Sản Bảo Đảm Qua Thực Tiễn Tại Ngân Hàng Thươ...
Khoá Luận Pháp Luật Về Xử Lý Tài Sản Bảo Đảm Qua Thực Tiễn Tại Ngân Hàng Thươ...Khoá Luận Pháp Luật Về Xử Lý Tài Sản Bảo Đảm Qua Thực Tiễn Tại Ngân Hàng Thươ...
Khoá Luận Pháp Luật Về Xử Lý Tài Sản Bảo Đảm Qua Thực Tiễn Tại Ngân Hàng Thươ...
 
Khoá Luận Pháp Luật Về Phạt Vi Phạm Trong Hợp Đồng Lĩnh Vực Thương Mại
Khoá Luận Pháp Luật Về Phạt Vi Phạm Trong Hợp Đồng Lĩnh Vực Thương MạiKhoá Luận Pháp Luật Về Phạt Vi Phạm Trong Hợp Đồng Lĩnh Vực Thương Mại
Khoá Luận Pháp Luật Về Phạt Vi Phạm Trong Hợp Đồng Lĩnh Vực Thương Mại
 
Khoá Luận Pháp Luật Đưa Người Lao Động Có Thời Hạn Tại Nước Ngoài
Khoá Luận Pháp Luật Đưa Người Lao Động Có Thời Hạn Tại Nước NgoàiKhoá Luận Pháp Luật Đưa Người Lao Động Có Thời Hạn Tại Nước Ngoài
Khoá Luận Pháp Luật Đưa Người Lao Động Có Thời Hạn Tại Nước Ngoài
 
Khoá Luận Một Số Giải Pháp Nâng Cao Hoạt Động Marketing Mix Tại Công Ty Chiếu...
Khoá Luận Một Số Giải Pháp Nâng Cao Hoạt Động Marketing Mix Tại Công Ty Chiếu...Khoá Luận Một Số Giải Pháp Nâng Cao Hoạt Động Marketing Mix Tại Công Ty Chiếu...
Khoá Luận Một Số Giải Pháp Nâng Cao Hoạt Động Marketing Mix Tại Công Ty Chiếu...
 
Hoàn Thiện Công Tác Đào Tạo Và Phát Triển Nhân Sự Tại Công Ty Xây Dựng
Hoàn Thiện Công Tác Đào Tạo Và Phát Triển Nhân Sự Tại Công Ty Xây DựngHoàn Thiện Công Tác Đào Tạo Và Phát Triển Nhân Sự Tại Công Ty Xây Dựng
Hoàn Thiện Công Tác Đào Tạo Và Phát Triển Nhân Sự Tại Công Ty Xây Dựng
 
Chuyên Đề Quyền Thừa Kế Của Con Nuôi Theo Quy Định Của Pháp Luật Dân Sự Việt Nam
Chuyên Đề Quyền Thừa Kế Của Con Nuôi Theo Quy Định Của Pháp Luật Dân Sự Việt NamChuyên Đề Quyền Thừa Kế Của Con Nuôi Theo Quy Định Của Pháp Luật Dân Sự Việt Nam
Chuyên Đề Quyền Thừa Kế Của Con Nuôi Theo Quy Định Của Pháp Luật Dân Sự Việt Nam
 
Chuyên Đề Phân Tích Và Định Giá Cổ Phiếu Công Ty Dưới Góc Độ Nhà Đầu Tư Chiến...
Chuyên Đề Phân Tích Và Định Giá Cổ Phiếu Công Ty Dưới Góc Độ Nhà Đầu Tư Chiến...Chuyên Đề Phân Tích Và Định Giá Cổ Phiếu Công Ty Dưới Góc Độ Nhà Đầu Tư Chiến...
Chuyên Đề Phân Tích Và Định Giá Cổ Phiếu Công Ty Dưới Góc Độ Nhà Đầu Tư Chiến...
 
Chuyên Đề Phân Tích Báo Cáo Tài Chính Tại Công Ty Du Lịch
Chuyên Đề Phân Tích Báo Cáo Tài Chính Tại Công Ty Du LịchChuyên Đề Phân Tích Báo Cáo Tài Chính Tại Công Ty Du Lịch
Chuyên Đề Phân Tích Báo Cáo Tài Chính Tại Công Ty Du Lịch
 
Chuyên Đề Hoạt Động Quảng Cáo Tại Công Ty Du Lịch
Chuyên Đề Hoạt Động Quảng Cáo Tại Công Ty Du LịchChuyên Đề Hoạt Động Quảng Cáo Tại Công Ty Du Lịch
Chuyên Đề Hoạt Động Quảng Cáo Tại Công Ty Du Lịch
 
Chuyên Đề Hoàn Thiện Công Tác Thẩm Định Tài Chính Dự Án Đầu Tư Tại Ngân Hàng ...
Chuyên Đề Hoàn Thiện Công Tác Thẩm Định Tài Chính Dự Án Đầu Tư Tại Ngân Hàng ...Chuyên Đề Hoàn Thiện Công Tác Thẩm Định Tài Chính Dự Án Đầu Tư Tại Ngân Hàng ...
Chuyên Đề Hoàn Thiện Công Tác Thẩm Định Tài Chính Dự Án Đầu Tư Tại Ngân Hàng ...
 
Chuyên Đề Hoàn Thiện Công Tác Quản Lý Tài Chính Tại Công Ty
Chuyên Đề Hoàn Thiện Công Tác Quản Lý Tài Chính Tại Công TyChuyên Đề Hoàn Thiện Công Tác Quản Lý Tài Chính Tại Công Ty
Chuyên Đề Hoàn Thiện Công Tác Quản Lý Tài Chính Tại Công Ty
 

Recently uploaded

3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIĐiện Lạnh Bách Khoa Hà Nội
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfhoangtuansinh1
 
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quanGNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quanmyvh40253
 
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảo
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảoKiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảo
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảohoanhv296
 
Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................TrnHoa46
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdfBỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdfNguyen Thanh Tu Collection
 
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoáCác điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoámyvh40253
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Nhiễm khuẩn tiêu hóa-Tiêu chảy do vi khuẩn.pptx
Nhiễm khuẩn tiêu hóa-Tiêu chảy do vi khuẩn.pptxNhiễm khuẩn tiêu hóa-Tiêu chảy do vi khuẩn.pptx
Nhiễm khuẩn tiêu hóa-Tiêu chảy do vi khuẩn.pptxhoangvubaongoc112011
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng ĐồngGiới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng ĐồngYhoccongdong.com
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
sách sinh học đại cương   -   Textbook.pdfsách sinh học đại cương   -   Textbook.pdf
sách sinh học đại cương - Textbook.pdfTrnHoa46
 

Recently uploaded (20)

3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
 
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quanGNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
 
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
 
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
 
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảo
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảoKiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảo
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảo
 
Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdfBỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
 
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
 
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoáCác điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Nhiễm khuẩn tiêu hóa-Tiêu chảy do vi khuẩn.pptx
Nhiễm khuẩn tiêu hóa-Tiêu chảy do vi khuẩn.pptxNhiễm khuẩn tiêu hóa-Tiêu chảy do vi khuẩn.pptx
Nhiễm khuẩn tiêu hóa-Tiêu chảy do vi khuẩn.pptx
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng ĐồngGiới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
 
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
 
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
sách sinh học đại cương   -   Textbook.pdfsách sinh học đại cương   -   Textbook.pdf
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
 

Thừa Kế Theo Pháp Luật - Một Số Vấn Đề Lý Luận Và Thực Tiễn

  • 1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN HƢƠNG GIANG THỪA KẾ THEO PHÁP LUẬT - MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN Tham khảo thêm tài liệu tại Trangluanvan.com Dịch Vụ Hỗ Trợ Viết Thuê Tiểu Luận,Báo Cáo Khoá Luận, Luận Văn ZALO/TELEGRAM HỖ TRỢ 0934.536.149 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2022
  • 2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN HƢƠNG GIANG THỪA KẾ THEO PHÁP LUẬT - MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN Chuyên ngành : Luật dân sự Mã số :603830 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Bùi Đăng Hiếu HÀ NỘI - 2022 2
  • 3. Lêi cam ®oan T«i xin cam ®oan ®©y lµ c«ng tr×nh nghiªn cøu khoa häc cña riªng t«i. C¸c sè liÖu, vÝ dô vµ trÝch dÉn trong luËn v¨n ®¶m b¶o ®é tin cËy, chÝnh x¸c vµ trung thùc. Nh÷ng kÕt luËn khoa häc cña luËn v¨n ch-a tõng ®-îc ai c«ng bè trong bÊt kú c«ng tr×nh nµo kh¸c. T¸c gi¶ luËn v¨n NguyÔn H-¬ng Giang 3
  • 4. MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các từ viết tắt Danh mục các bảng MỞ ĐẦU 1 Chương 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ THỪA KẾ THEO PHÁP LUẬT 7 1.1. Khái niệm thừa kế theo pháp luật và các trường hợp thừa kế 7 theo pháp luật 1.1.1. Khái niệm thừa kế theo pháp luật 7 1.1.2. Các trường hợp thừa kế theo pháp luật 9 1.2. Tiến trình phát triển của pháp luật Việt Nam về thừa kế theo 11 pháp luật 1.2.1. Trước năm 1945 12 1.2.2. Từ năm 1945 đến nay 15 1.4. Quy định của một số quốc gia về thừa kế theo pháp luật 21 1.4.1. Pháp luật về thừa kế theo pháp luật trong Bộ luật dân sự Pháp 22 1.4.2. Pháp luật dân sự và thương mại Thái Lan 25 Chương 2: DIỆN VÀ HÀNG THỪA KẾ THEO PHÁP LUẬT 29 2.1. Căn cứ xác định diện thừa kế theo pháp luật 29 2.1.1. Quan hệ hôn nhân 30 2.1.2. Quan hệ huyết thống 36 2.1.3. Quan hệ nuôi dưỡng 40 2.2. Hàng thừa kế theo pháp luật 46 4
  • 5. 2.2.1. Số lượng các hàng thừa kế và nguyên tắc phân chia người 47 thừa kế theo các hàng thừa kế 2.2.2. Hàng thừa kế thứ nhất 49 2.2.3. Hàng thừa kế thứ hai 54 2.2.4. Hàng thừa kế thứ ba 56 2.3. Thừa kế thế vị 58 2.3.1. Khái niệm thừa kế thế vị và đặc điểm của thừa kế thế vị 58 2.3.2. Các trường hợp thừa kế thế vị 60 2.4. Di sản thừa kế theo pháp luật và chia di sản thừa kế 62 2.4.1. Di sản thừa kế theo pháp luật 62 2.4.2. Chia di sản thừa kế theo pháp luật 64 2.4.3. Những trường hợp mới phát sinh khi chia di sản thừa kế theo 66 pháp luật Chương 3: THỰC TIỄN ÁP DỤNG VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN 70 NHỮNG QUI ĐỊNH VỀ THỪA KẾ THEO PHÁP LUẬT 3.1. Thực tiễn áp dụng pháp luật 70 3.1.1. Thực tiễn giải quyết các tranh chấp về thừa kế theo pháp luật 70 trong những năm gần đây 3.1.2. Nguyên nhân 79 3.1.3. Một số vấn đề còn tồn tại trong các quy định về thừa kế theo 82 pháp luật theo Bộ luật Dân sự hiện hành 3.2. Kiến nghị hoàn thiện các qui định của pháp luật về thừa kế 87 theo pháp luật 3.2.1. Yêu cầu chung 87 3.2.2. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện các qui định của pháp luật 88 về thừa kế theo pháp luật KẾT LUẬN DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 95 97 5
  • 6. DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT BLDS : Bộ luật dân sự HN&GĐ : Hôn nhân và gia đình TANDTC : Tòa án nhân dân tối cao 6
  • 7. DANH MỤC CÁC BẢNG Số hiệu Tên bảng Trang bảng 3.1 Số lượng các vụ án về thừa kế được thụ lý, giải quyết ở 70 cấp sơ thẩm từ năm 2008-2012 3.2 Số lượng các vụ việc về thừa kế được thụ lý, giải quyết ở 71 cấp phúc thẩm từ năm 2008-2012 7
  • 8. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Chế định thừa kế là một trong những chế định đặc biệt quan trọng trong pháp luật dân sự nên trong bất kỳ Bộ luật dân sự (BLDS) nào, chế định thừa kế luôn chiếm vị trí trọng tâm. Ngay trong Hiến pháp - đạo luật gốc của hệ thống pháp luật Việt Nam, thừa kế được ghi nhận là một quyền cơ bản của công dân. Tại Điều 19 Hiến pháp năm 1959 quy định: "Nhà nước chiếu theo pháp luật bảo hộ quyền thừa kế tài sản tư hữu của công dân" [27]. Tiếp đó, Điều 27 Hiến pháp năm 1980 đã có sự kế thừa và sửa đổi cho phù hợp với thực tiễn: "…Pháp luật bảo hộ quyền thừa kế tài sản của công dân" [29]. Trải qua quá trình phát triển, Hiến pháp năm 1992 tiếp tục ghi nhận và khẳng định "…Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu hợp pháp và quyền thừa kế của công dân" [31, Điều 58]. Trên tinh thần của Hiến pháp năm 1992 và kế thừa quy định của BLDS năm 1995, chế định thừa kế được ghi nhận trong BLDS năm 2005 đã có sự thay đổi tích cực, phù hợp với sự phát triển của xã hội và mang tính khả thi hơn. Những quy định về thừa kế trong BLDS năm 2005 được xem là kết quả vượt bậc của quá trình pháp điển hóa, không ngừng hoàn thiện để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp liên quan đến vấn đề thừa kế của công dân. Theo đó, chế định thừa kế được quy định bao gồm hai hình thức, đó là thừa kế theo di chúc và thừa kế theo pháp luật. Một trong những nét đẹp truyền thống về gia đình trong văn hóa Việt Nam chính là việc chuyển những thành quả của thế hệ đi trước dành tặng cho con cháu. Tuy nhiên, hiện nay, trên thực tế thói quen lập di chúc của người Việt Nam vẫn chưa phổ biến do còn coi trọng các phong tục, tập quán, tình cảm giữa cha con, vợ chồng, anh em… Bên cạnh đó, có rất nhiều trường hợp lập di chúc nhưng bản di chúc này lại không có giá trị pháp lý vì không đáp ứng các điều kiện theo quy định của pháp luật, chẳng hạn như vi phạm về chủ thể lập di chúc, hình thức di chúc, nội dung di chúc. Do đó, 8
  • 9. phần lớn các vụ việc thừa kế ở Việt Nam được giải quyết theo quy định về thừa kế theo pháp luật. Trong quá trình xã hội hóa và hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, Việt Nam đã thực sự chuyển mình và có những thay đổi toàn diện và sâu sắc về mọi mặt của đời sống. Dưới ảnh hưởng của nền kinh tế mở đó đã tạo điều kiện cho mọi người đều có cơ hội làm giàu cũng như tự khẳng định mình. Theo đó, tài sản thuộc sở hữu cá nhân ngày càng đa dạng, phong phú cả về giá trị, số lượng, chủng loại, trong đó không phải tài sản nào pháp luật cũng có quy phạm điều chỉnh hay có thể dự liệu hết được. Vấn đề thừa kế di sản cũng từ đó mà nảy sinh nhiều dạng tranh chấp phức tạp. Thực tiễn giải quyết các vụ án về tranh chấp thừa kế gặp phải không ít khó khăn, thậm chí phải xét xử nhiều lần ở nhiều cấp xét xử khác nhau gây tốn kém cả về thời gian và chi phí. Điều này xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau trong đó phải kể đến các quy định của pháp luật về thừa kế nói chung và thừa kế theo pháp luật nói riêng vẫn còn thiếu và chưa đồng bộ, chưa rõ ràng, cụ thể dẫn đến nhiều cách hiểu khác nhau là tiền đề cho việc áp dụng không nhất quán. Xuất phát từ những lý do trên, tác giả quyết định chọn đề tài "Thừa kế theo pháp luật - một số vấn đề lý luận và thực tiễn" làm luận văn thạc sĩ Luật học. Đây là một đề tài có ý nghĩa quan trọng trên cả phương diện lý luận cũng như thực tiễn. 2. Tình hình nghiên cứu về đề tài Qua tìm hiểu các công trình nghiên cứu khoa học về pháp luật thừa kế đã có nhiều công trình, bài viết về vấn đề thừa kế nói chung và thừa kế theo pháp luật nói riêng, có thể chia thành ba nhóm lớn như sau: - Nhóm luận văn, luận án: ở nhóm này có thể liệt kê một số công trình nghiên cứu tiêu biểu như Luận án tiến sĩ với nhan đề "Thừa kế theo pháp luật của công dân Việt Nam từ năm 1945 đến nay" đã được tác giả Phùng Trung Tập bảo vệ thành công năm 2002. Với đề tài này, tác giả đã nghiên 9
  • 10. cứu, hệ thống hóa các quy định pháp luật thừa kế Việt Nam theo quá trình hình thành và phát triển qua các thời kỳ để từ đó đánh giá nội dung những quy định về thừa kế theo pháp luật của công dân Việt Nam. Hay Luận án tiến sĩ luật học "Cơ sở lý luận và thực tiễn của những quy định chung về thừa kế trong Bộ luật Dân sự" của Nguyễn Minh Tuấn đã luận giải những vấn đề lý luận và thực tiễn của các quy định về thừa kế của Việt Nam qua các thời kỳ phát triển. Luận văn thạc sĩ luật học với tựa đề "Thừa kế theo pháp luật của cháu, chắt theo quy định của pháp luật Việt Nam" của Lê Đức Bền cũng góp phần quan trọng làm rõ hơn các quy định về thừa kế theo pháp luật. Tuy nhiên, những đề tài trên đều có phạm vi nghiên cứu rất rộng, mang tính khái quát cao. - Nhóm sách giáo trình, sách chuyên khảo: ở nhóm này, trước tiên phải kể đến cuốn sách chuyên khảo "Luật Thừa kế Việt Nam" của Tiến sĩ Phùng Trung Tập, Nxb Hà Nội, 2008 và cuốn "Pháp luật thừa kế của Việt Nam - Những vấn đề lý luận và thực tiễn" của Nguyễn Minh Tuấn được xuất bản vào năm 2009. Ngoài ra, còn có một số giáo trình và sách bình luận khoa học Luật dân sự Việt Nam. Hầu hết các công trình này mới chỉ dừng lại ở việc phân tích, bình luận các quy định của pháp luật thừa kế chứ chưa hoặc ít đề cập đến thực tiễn thi hành các quy định của pháp luật về vấn đề trên. - Nhóm các bài báo, tạp chí chuyên ngành luật: Các bài nghiên cứu thuộc nhóm này chủ yếu được đề cập trên các tạp chí như Tạp chí Dân chủ và pháp luật, Tạp chí Tòa án nhân dân, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, Tạp chí Luật học… Trong đó phải kể đến bài viết "Hoàn thiện chế định thừa kế trong Bộ luật Dân sự" của Nguyễn Văn Mạnh, đăng trên tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 4, 5 năm 2002; "Hoàn thiện quy định về thừa kế trong Bộ luật Dân sự" của Phạm Văn Tuyết, đăng trên Tạp chí Luật học (số Đặc san), năm 2003; "Về việc cháu, chắt nội, ngoại thừa kế thế vị và hưởng di sản thừa kế theo hàng của ông, bà nội ngoại, các cụ nội, ngoại" của Phùng Trung Tập, đăng trên Tạp chí Tòa án nhân dân, số 24 năm 2005; "Di sản không có người thừa kế hoặc từ chối nhận di sản - vấn đề cần có hướng dẫn" của Đỗ Văn Chỉnh, 10
  • 11. đăng trên Tạp chí Tòa án nhân dân, số 20, năm 2006; hay bài viết của tác giả Phùng Trung Tập "Tiến trình phát triển pháp luật thừa kế Việt Nam trong 60 năm qua", được đăng trên Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 2, năm 2006. Đây thực sự là những công trình có giá trị lớn trong cả khoa học lý luận và thực tiễn. Tuy nhiên, những công trình nghiên cứu này hoặc đề cập đến những vấn đề mang tính khái quát chung về chế định thừa kế qua các thời kỳ hoặc chỉ đi sâu vào phân tích một quan hệ thừa kế nhất định chứ chưa nghiên cứu một cách toàn diện, đầy đủ về vấn đề thừa kế theo pháp luật hiện hành. Thừa kế theo pháp luật không phải là đề tài mới nhưng với sự thay đổi từng ngày từng giờ của các quan hệ xã hội, quan hệ tài sản đòi hỏi phải có những quy phạm pháp luật mới để điều chỉnh. Do đó, việc nghiên cứu kịp thời để có hướng đề xuất các quy định pháp luật điều chỉnh vấn đề này cho phù hợp với thực tiễn là hết sức cần thiết. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu  Mục đích nghiên cứu  Việc nghiên cứu đề tài nhằm làm rõ loại hình thừa kế di sản tuân theo các nguyên tắc, điều kiện, trình tự và thủ tục do pháp luật quy định, mà không phụ thuộc vào sự định đoạt ý chí của người có tài sản để lại. Đó chính là việc vừa hệ thống hóa các quy phạm pháp luật thừa kế Việt Nam theo quá trình hình thành và phát triển từ năm 1945 đến nay, vừa phân tích và đánh giá hiệu quả điều chỉnh của chế định pháp luật này qua các thời kỳ phát triển của xã hội Việt Nam, từ đó một mặt góp phần hoàn chỉnh lý luận khoa học đối với chế định pháp luật quan trọng này, mặt khác, giải quyết tốt vấn đề lý luận cũng giúp cho việc thi hành, áp dụng cũng như hoàn thiện các qui định về thừa kế theo pháp luật, nâng cao hiệu quả điều chỉnh của chúng.  Nhiệm vụ nghiên cứu  Luận văn nghiên cứu những nội dung chủ yếu sau: 11
  • 12. - Những vấn đề lý luận liên quan đến các quy định về thừa kế theo pháp luật, bao gồm làm rõ khái niệm thừa kế theo pháp luật, phân tích tiến trình phát triển của pháp luật Việt Nam về thừa kế theo pháp luật đồng thời có sự so sánh giữa thừa kế theo pháp luật và thừa kế theo di chúc để rút ra được đặc trưng của mỗi hình thức và để có thể nhìn nhận vấn đề thừa kế một cách toàn diện. - Xác định diện thừa kế và hàng thừa kế theo pháp luật. - Xác định điều kiện, các trường hợp được hưởng thừa kế thế vị. - Tìm hiểu những vướng mắc phát sinh từ thực tiễn và đề xuất cách thức giải quyết, góp phần hoàn thiện pháp luật về thừa kế theo pháp luật. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu  Đối tượng nghiên cứu  Luận văn chủ yếu nghiên cứu các quy định của pháp luật hiện hành về thừa kế theo pháp luật và một số công trình nghiên cứu cũng như những vụ việc cụ thể có liên quan đến vấn đề này.  Phạm vi nghiên cứu  - Luận văn nghiên cứu các quy định của pháp luật về thừa kế theo pháp luật trong một số văn bản pháp luật như: BLDS năm 2005; BLDS năm 1995; Luật Hôn nhân và gia đình (HN&GĐ) năm 2000; và các văn bản pháp luật khác có liên quan. Trong đó, luận văn tập trung nghiên cứu các quy định về thừa kế theo pháp luật của công dân Việt Nam. - Luận văn cũng nghiên cứu các quy định trong pháp luật của một số nước điều chỉnh về thừa kế theo pháp luật, có sự so sánh và đối chiếu với pháp luật thừa kế của Việt Nam, qua đó tham khảo, học hỏi, tiếp thu có chọn lọc những điểm phù hợp để bổ sung, hoàn thiện các quy định về thừa kế theo pháp luật trong BLDS Việt Nam. 12
  • 13. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu Việc nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của triết học Mác- Lênin về chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng, Nhà nước ta trong lĩnh vực thừa kế. Ngoài ra, để đạt được mục đích nghiên cứu, luận văn còn vận dụng, kết hợp các phương pháp nghiên cứu khác như phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp so sánh, phương pháp thống kê. 6. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Khái quát chung về thừa kế theo pháp luật. Chương 2: Diện và hàng thừa kế theo pháp luật. Chương 3: Thực tiễn áp dụng và hướng hoàn thiện những quy định về thừa kế theo pháp luật. 13
  • 14. Chương 1 KHÁI QUÁT CHUNG VỀ THỪA KẾ THEO PHÁP LUẬT 1.1. KHÁI NIỆM THỪA KẾ THEO PHÁP LUẬT VÀ CÁC TRƢỜNG HỢP THỪA KẾ THEO PHÁP LUẬT 1.1.1. Khái niệm thừa kế theo pháp luật Với tư cách là thực thể xã hội, con người đã để lại dấu ấn của mình trong thế giới hiện thực bằng toàn bộ sáng tạo của mình. Hoạt động lao động sản xuất không những là phương thức để làm biến đổi đời sống và bộ mặt xã hội mà còn là điều kiện tất yếu cho sự tồn tại của con người. Xã hội càng phát triển, nhu cầu vật chất của con người càng tăng. Để thỏa mãn nhu cầu đó, con người không ngừng cải biến tự nhiên, ngày càng tạo ra nhiều của cải vật chất. Nếu như tài sản có thể tồn tại lâu dài hoặc chuyển hóa từ dạng này sang dạng khác thì ngược lại, con người theo quy luật tự nhiên, được sinh ra rồi sẽ chết đi. Bởi vậy, khi sống, con người khai thác công dụng của tài sản để thỏa mãn nhu cầu của mình, khi chết, tài sản của họ được dịch chuyển cho người còn sống là hoàn toàn phù hợp với lẽ tự nhiên. Quá trình dịch chuyển tài sản đó từ thế hệ này sang thế hệ khác được hiểu là việc thừa kế di sản. Theo Từ điển tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học thì "Thừa kế là việc dịch chuyển tài sản của người đã chết cho người còn sống" [55] hay theo Từ điển Luật học của Viện Khoa học Pháp lý - Bộ Tư pháp thì thừa kế được giải thích là "Sự dịch chuyển tài sản của người chết cho người còn sống. Thừa kế luôn gắn với sở hữu. Sở hữu là yếu tố quyết định thừa kế và thừa kế là phương tiện để duy trì, củng cố quan hệ sở hữu" [54, tr. 754]. Quá trình dịch chuyển tài sản của người đã chết cho người còn sống được hình thành ở bất cứ xã hội nào, ngay từ thời sơ khai của xã hội loài người - chế độ cộng sản nguyên thủy. Nghiên cứu tiến trình phát triển của lịch sử xã hội loài người đã chỉ ra rằng quan hệ thừa kế xuất hiện như một tất yếu khách quan cùng với 14
  • 15. quan hệ sở hữu. Khi thừa kế tài sản chưa có sự can thiệp của Nhà nước thì thừa kế đơn thuần chỉ là quan hệ xã hội mang tính kinh tế. Khi Nhà nước ra đời, thông qua các quy phạm pháp luật, Nhà nước đã điều chỉnh, tác động đến quá trình dịch chuyển tài sản nói trên bao gồm cả quyền để lại tài sản cũng như quyền hưởng di sản của các chủ thể được gọi chung là quyền thừa kế. Như vậy, khác với thừa kế xuất hiện ngay từ thời kỳ sơ khai, khi xã hội chưa có sự phân chia giai cấp, khái niệm quyền thừa kế chỉ xuất hiện khi có sự xuất hiện của Nhà nước và pháp luật. Theo nghĩa rộng, quyền thừa kế có thể được hiểu là một chế định pháp luật bao gồm tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh quá trình dịch chuyển tài sản từ người chết cho người còn sống. Theo nghĩa hẹp, quyền thừa kế có thể được hiểu là một quyền năng dân sự chủ quan của chủ thể có quyền để lại di sản thừa kế hoặc có quyền hưởng di sản thừa kế của người chết để lại theo ý chí của người đó khi còn sống (bằng di chúc) hoặc theo điều kiện, trình tự và thủ tục do pháp luật quy định (thừa kế theo pháp luật). Không nằm ngoài xu thế chung của thế giới, pháp luật thừa kế của Việt Nam cũng quy định hai hình thức thừa kế bao gồm thừa kế theo di chúc và thừa kế theo pháp luật. Thừa kế theo di chúc là sự dịch chuyển tài sản của người đã chết cho người còn sống theo ý chí của người lập di chúc khi còn sống. Tuy nhiên, trên thực tế không phải lúc nào người để lại di sản cũng lập di chúc hoặc di chúc do người này lập ra đều phát sinh hiệu lực theo quy định của pháp luật. Do đó, song song với hình thức thừa kế theo di chúc, pháp luật còn quy định về hình thức thừa kế theo pháp luật nhằm đảm bảo quyền thừa kế của các chủ thể. Theo quy định tại Điều 674 BLDS năm 2005 thì "Thừa kế theo pháp luật là thừa kế theo hàng thừa kế, điều kiện và trình tự thừa kế do pháp luật quy định" [35]. Thừa kế theo pháp luật chỉ được thực hiện trong trường hợp người chết không để lại di chúc hoặc có di chúc nhưng di chúc không hợp pháp và 15
  • 16. các trường hợp khác theo quy định của pháp luật. Người thừa kế theo pháp luật là cá nhân và có mối quan hệ huyết thống hoặc quan hệ hôn nhân hoặc quan hệ nuôi dưỡng với người để lại di sản. Những người thuộc diện thừa kế theo pháp luật được pháp luật chỉ định hưởng di sản theo một trật tự ưu tiên là theo hàng thừa kế. Qua việc phân tích trên đây có thể rút ra định nghĩa về thừa kế theo pháp luật như sau: Thừa kế theo pháp luật là sự dịch chuyển di sản của người chết cho người còn sống trên cơ sở quan hệ huyết thống, quan hệ hôn nhân, quan hệ nuôi dưỡng hay quan hệ thân thuộc giữa người có tài sản để lại sau khi họ chết và người nhận di sản. Thừa kế theo pháp luật về bản chất vừa bảo vệ quyền đương nhiên của người có tài sản được để lại tài sản của họ khi họ chết, vừa bảo vệ quyền của những người có quan hệ huyết thống, gia đình hay thân thuộc với người đã chết có tài sản để lại. 1.1.2. Các trƣờng hợp thừa kế theo pháp luật Thừa kế theo pháp luật không chỉ phát sinh khi người để lại di sản không có di chúc mà còn có thể phát sinh trong nhiều tình huống khác. Qua mỗi giai đoạn phát triển, quy định về các trường hợp thừa kế theo pháp luật ngày càng chặt chẽ, rõ ràng và toàn diện hơn. Theo quy định tại Điều 675 BLDS năm 2005 thì thừa kế theo pháp luật được áp dụng trong những trường hợp sau đây: Một là, không có di chúc. Đây là trường hợp theo quy định của pháp luật, người để lại di sản đáp ứng yêu cầu về năng lực chủ thể trong việc lập di chúc nhưng lại không thực hiện quyền lập di chúc của mình. Hai là, di chúc không hợp pháp. Mặc dù người để lại di sản có lập di chúc nhưng di chúc này lại không thỏa mãn đầy đủ các điều kiện có hiệu lực của di chúc theo quy định của pháp luật dẫn đến di chúc vô hiệu (không có giá trị pháp lý), di sản sẽ được chia theo pháp luật. 16
  • 17. Ba là, những người thừa kế theo di chúc đều chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc; cơ quan, tổ chức được hưởng thừa kế theo di chúc không còn vào thời điểm mở thừa kế. Trường hợp này, di chúc bị coi là vô hiệu căn cứ theo quy định về hiệu lực pháp luật của di chúc tại khoản 2 Điều 667 BLDS năm 2005. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng trong trường hợp nếu chỉ có một trong số những người thừa kế theo di chúc chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người để lại di sản hoặc một trong số các cơ quan, tổ chức không còn tồn tại vào thời điểm mở thừa kế thì chỉ phần di sản liên quan đến cá nhân, cơ quan, tổ chức này vô hiệu và được chia thừa kế theo pháp luật. Bốn là, những người được chỉ định làm người thừa kế theo di chúc mà không có quyền hưởng di sản hoặc từ chối quyền nhận di sản. Khi mở thừa kế nếu người thừa kế theo di chúc vi phạm khoản 1 Điều 643 BLDS năm 2005 thì không có quyền hưởng di sản. Trường hợp người được chỉ định trong di chúc có quyền hưởng di sản nhưng từ chối nhận di sản thì di sản được chia theo pháp luật. Năm là, phần di sản không được định đoạt trong di chúc. Trường hợp này xảy ra khi người để lại di sản có nhiều tài sản khác nhau nhưng lại chỉ định đoạt trong di chúc một phần tài sản trong khối di sản này. Khi đó, phần di sản không được thể hiện trong di chúc sẽ được chia theo pháp luật. Sáu là, phần di sản có liên quan đến phần của di chúc không có hiệu lực. Theo tinh thần của khoản 4 Điều 667 BLDS năm 2005 thì trong trường hợp di chúc có phần không hợp pháp mà không ảnh hưởng đến hiệu lực của các phần còn lại thì chỉ phần đó không có hiệu lực pháp luật. Điều này có nghĩa là di sản liên quan đến phần di chúc vô hiệu sẽ được chia theo pháp luật còn các phần khác vẫn được chia theo di chúc. Bảy là, phần di sản có liên quan đến người được thừa kế theo di chúc như ng họ không có quyề n hư ở ng di sả n, từ chố i quyề n hư ở ng di sả n, chế t trư ớ c hoặc chết cùng thời điểm với người lập di 17
  • 18. chúc. Khác với các quy định về thừa kế dưới thời phong kiến, những người thừa kế của người chết có nghĩa vụ phải nhận di sản và phải trả các khoản nợ của người chết để lại kể cả di sản không đủ để trả nợ, pháp luật hiện hành công nhận quyền thừa kế là một quyền năng dân sự và người thừa kế có quyền khước từ quyền hưởng di sản của mình. Theo quy định tại Điều 642 BLDS năm 2005 thì người thừa kế có quyền từ chối nhận di sản trừ trường hợp việc từ chối nhằm trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ tài sản của mình đối với người khác. Bên cạnh đó, pháp luật thừa kế cũng ghi nhận những trường hợp không được quyền hưởng di sản tại Điều 643 BLDS năm 2005. Đó là những người vi phạm nghiêm trọng pháp luật hoặc đạo đức xã hội. Người để lại di sản không biết những hành vi nêu trên nên đã dành cho những người này một phần di sản nhất định. Khi đó, phần di sản của những người thừa kế này sẽ bị coi là vô hiệu và được chia theo pháp luật. Tám là, phần di sản có liên quan đến cơ quan, tổ chức được hưởng di sản theo di chúc, nhưng không còn vào thời điểm mở thừa kế. Điều kiện để một cơ quan, tổ chức được hưởng thừa kế theo di chúc là cơ quan, tổ chức đó phải tồn tại vào thời điểm mở thừa kế. Điều này có nghĩa là vào thời điểm người để lại di sản chết mà cơ quan, tổ chức đã chấm dứt hoạt động thì sẽ không được hưởng thừa kế. Đó là trường hợp pháp nhân bị giải thể hoặc phá sản, quyền và nghĩa vụ của pháp nhân hoàn toàn chấm dứt nên pháp nhân không còn tồn tại trên thực tế. Việc xác định các trường hợp thừa kế theo pháp luật là vô cùng quan trọng nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho những người có quyền thừa kế theo pháp luật đồng thời tránh tình trạng để tài sản bị "đóng băng" gây lãng phí cho gia đình và xã hội. 1.2. TIẾN TRÌNH PHÁT TRIỂN CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ THỪA KẾ THEO PHÁP LUẬT 18
  • 19. Chế định thừa kế nói chung và hình thức thừa kế theo pháp luật nói riêng được quy định trong BLDS là sự kế thừa và phát triển các quy định chung về thừa kế trong pháp luật dân sự Việt Nam từ thế kỷ XV đến nay. Ở mỗi thời kỳ đều có những đặc thù riêng. Việc nghiên cứu, phân tích tiến trình phát triển của pháp luật Việt Nam về thừa kế theo pháp luật để rút ra những bài học kinh nghiệm nhằm hoàn thiện pháp luật thừa kế hiện nay. 1.2.1. Trƣớc năm 1945 Thừa kế là một chế định quan trọng trong pháp luật Việt Nam. Do đó, ngay từ trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, pháp luật thời kỳ phong kiến, thời kỳ Pháp thuộc đã có những quy định về thừa kế nói chung và thừa kế theo pháp luật nói riêng.  Quy định về thừa kế theo pháp luật trong Luật Hồng Đức  Trong thời kỳ phong kiến, Luật Hồng Đức hay còn gọi là Quốc triều hình luật được ban hành năm 1483 được coi là một trong những bộ luật phong kiến tiến bộ nhất và đặc sắc nhất trong lịch sử pháp luật Việt Nam đồng thời là bộ luật có niên đại xưa nhất còn giữ được cho tới ngày nay. Bộ luật đánh dấu thời kỳ hoàng kim nhất, rực rỡ nhất của chế độ phong kiến Việt Nam dưới triều đại nhà Lê, đặc biệt là dưới thời vua Lê Thánh Tông. Trong Quốc triều hình luật, vấn đề thừa kế được quy định từ Điều 374 đến Điều 400 cũng bao gồm hai hình thức là thừa kế theo chúc thư và thừa kế theo pháp luật. Theo quy định của Luật Hồng Đức, trong trường hợp người chết không để lại di chúc hoặc có chúc thư nhưng chúc thư vô hiệu thì di sản được chia theo pháp luật. Những người thừa kế theo pháp luật gồm người có quan hệ huyết thống trực hệ với người để lại di sản. Căn cứ theo quy định tại Điều 374, 375, 376 thì di sản sẽ được chia theo nguyên tắc ưu tiên, trước hết là chia cho các con, không phân biệt con trai, con gái (hàng 1), nếu người chết không có con 19
  • 20. thì cha mẹ (hàng 2) được hưởng di sản thừa kế. Trường hợp không còn cha mẹ, di sản được chuyển cho người thừa tự, do họ hàng quyết định. Luật Hồng Đức ghi nhận con nuôi cũng có quyền thừa kế di sản của cha mẹ nuôi trong trường hợp "có văn tự là con nuôi và ghi trong giấy rằng sau sẽ chia điền sản cho, khi cha mẹ nuôi chết không có chúc thư, điền sản đem chia cho con đẻ và con nuôi" và phần di sản được hưởng là "điền sản chia làm ba, con đẻ được hai phần, con nuôi được một phần; nếu không có con đẻ mà con nuôi cùng ở với cha mẹ từ thuở bé, thì được cả; thuở bé không cùng ở thì con nuôi được hai phần, người thừa tự được một phần" [56, Điều 380]. Luật Hồng Đức quy định vợ, chồng không được thừa kế di sản của nhau ngoại trừ một số trường hợp để đảm bảo cho cuộc sống của người vợ góa, chồng góa, chẳng hạn như trường hợp người vợ góa, chồng góa sống độc thân không có người nuôi dưỡng sẽ được hưởng một phần di sản của người chồng hoặc người vợ để sống hết đời và để thờ cúng. Tuy nhiên, nếu người vợ góa, chồng góa tái giá thì phải trả lại phần di sản được hưởng cho họ hàng của người chết. Theo Điều 388 Luật Hồng Đức "cha mẹ mất cả, có ruộng đất, chưa kịp để lại chúc thư, mà anh em chị em tự chia nhau, thì lấy một phần 20 số ruộng đất làm phần hương hỏa, giao cho con trai trưởng giữ…" [56]. Ở thời kỳ này do kinh tế chưa phát triển nên tài sản chủ yếu và có giá trị nhất là ruộng đất. Di sản của người để lại thừa kế gồm ba nguồn chính: phu điền sản (tài sản của chồng được hưởng từ tài sản của gia đình), thê điền sản (tài sản của vợ được hưởng từ gia đình vợ) và tần tảo điền sản (tài sản do vợ chồng làm ra). Quy định về thừa kế, đặc biệt là thừa kế theo pháp luật trong Luật Hồng Đức là cơ sở để bảo vệ quan hệ trên dưới, tôn ti, trật tự của gia đình truyền thống đồng thời bảo vệ được quyền thừa kế của những người thừa kế.  Quy định về thừa kế theo pháp luật trong Luật Gia Long  20
  • 21. Hoàng Việt luật lệ hay còn được biết đến với tên gọi Quốc triều điều luật, Hoàng triều luật lệ, Luật Gia Long, là bộ luật chính thống của triều Nguyễn ở Việt Nam do vua Gia Long ban hành năm 1815. Tại Quyển 6 của Bộ luật có quy định về thừa kế. Theo đó, thừa kế theo pháp luật được áp dụng khi không có chúc thư của người chết. Nếu cha mẹ không có chúc thư thì ông bà sẽ quản lý toàn bộ tài sản của các cháu, kể cả di sản thừa kế. Các cháu chỉ được nhận tài sản của mình khi ông bà chết. Với tư tưởng "trọng nam, khinh nữ" đặc trưng của xã hội phong kiến, Luật Gia Long quy định di sản chia theo pháp luật sẽ được chia đều cho các con trai không phân biệt con trai do thê thiếp sinh ra. Nếu người con chết thì con của người con sẽ thay thế vị trí của cha mẹ mình để nhận di sản của ông bà. Vì con gái không được quyền thừa kế nên trong trường hợp người để lại di sản không có con trai thì các cháu trai thúc bá sẽ được hưởng di sản. Luật Gia Long cũng quy định vợ góa, chồng góa không được thừa kế di sản của người chồng hoặc người vợ đã chết trừ trường hợp ngoại lệ tương tự như quy định trong Luật Hồng Đức. Đối với di sản dùng làm hương hỏa, khác với Luật Hồng Đức, theo quy định của Luật Gia Long thì không bắt buộc phải dành một phần di sản làm hương hỏa.  Quy định về thừa kế theo pháp luật dưới thời Pháp thuộc  Chế định thừa kế trong Dân luật Bắc kỳ năm 1931 và Dân luật Trung Kỳ năm 1936 được quy định tương đối giống nhau, được xây dựng dựa trên BLDS Pháp 1804. Theo đó, thừa kế cũng được chia thành hai hình thức là thừa kế theo di chúc và thừa kế theo pháp luật. Di sản được chia theo pháp luật khi không có chúc thư hoặc chúc thư vô hiệu và được chia theo thứ tự ưu tiên. Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản ngang nhau. Những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế nếu không có ai ở hàng thừa kế trước. Người thừa kế hàng thứ nhất là các con. Con trai, con gái được chia 21
  • 22. di sản bằng nhau. Nếu cha hoặc mẹ chết trước hoặc chết cùng ông bà nội hoặc ông bà ngoại, thì các cháu thay thế cha hoặc mẹ nhận di sản của ông hoặc bà (thừa kế thế vị). Trong trường hợp người chết không có con thì di sản chia cho cha, mẹ (hàng thừa kế thứ hai). Nếu không còn cha, mẹ thì di sản chia cho cháu ruột bên nội. Nếu không có cháu ruột thì chia cho anh, chị em ruột. Như vậy, trước năm 1945, dưới chế độ thực dân - phong kiến, quy định về thừa kế theo pháp luật đã được ghi nhận trong các bộ luật. Tuy nhiên, do bản chất của giai cấp thống trị, những quy phạm này chủ yếu để bảo vệ tôn ti trật tự của chế độ phong kiến, dẫn tới sự bất bình đẳng trong quan hệ thừa kế, đặc biệt là giữa vợ và chồng, giữa nam và nữ. 1.2.2. Từ năm 1945 đến nay Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công đã khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, mở ra kỷ nguyên mới cho nền độc lập, tự do của dân tộc. Những ngày đầu mới ra đời, Nhà nước ta đã phải đối mặt với muôn vàn khó khăn, thử thách, phải chống lại cả "thù trong" và "giặc ngoài", cả "nội xâm" và "ngoại xâm", cho nên những năm 1945 đến 1959, hệ thống pháp luật của Nhà nước phong kiến Việt Nam được áp dụng để điều chỉnh các quan hệ xã hội mới. Ngày 10 tháng 10 năm 1945, Chính phủ lâm thời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã ban hành Sắc lệnh cho phép áp dụng luật lệ của chế độ cũ, trong đó có những quy định về chế định thừa kế, với điều kiện "Những điều khoản trong các luật lệ cũ được tạm giữ lại do sắc luật này, chỉ thi hành khi nào không trái với nền độc lập của nước Việt Nam và chính thể dân chủ cộng hòa " [9, Điều thứ 12]. Với sự biến đổi nhanh chóng, sâu sắc của xã hội Việt Nam, những quy định trong các Bộ luật dưới chế độ cũ đã bộc lộ nhiều điểm bất cập, không phù hợp. Trước tình hình đó, ngày 22 tháng 5 năm 1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 97/SL sửa đổi một số quy lệ và chế định trong dân luật. Ngay tại Điều 1 của Sắc lệnh đã ghi nhận nguyên tắc bảo vệ quyền lợi cho nhân dân lao động "Những quyền dân sự đều được 22
  • 23. luật bảo vệ khi người ta hành sự nó đúng với quyền lợi của nhân dân" [10]. Về vấn đề thừa kế, Sắc lệnh quy định vợ, chồng có quyền bình đẳng trong gia đình, có quyền thừa kế tài sản của nhau; con trai, con gái đều có quyền hưởng di sản thừa kế của bố, mẹ; người chồng góa hay người vợ góa, các con đã thành niên có quyền xin chia tài sản thuộc quyền sở hữu của người chết, sau khi đã thanh toán tài sản chung. Những người thừa kế cũng có quyền từ chối nhận di sản: "Con cháu hoặc vợ chồng của người chết cũng không bắt buộc phải nhận thừa kế người ấy. Khi nhận thừa kế thì các chủ nợ của người chết cũng không có quyền đòi nợ quá số di sản để lại" [10, Điều 10]. Những quy định này đã xóa bỏ tình trạng trọng nam, khinh nữ dưới chế độ phong kiến thuộc địa, đảm bảo quyền bình đẳng về thừa kế của công dân. Cho đến ngày nay, tư tưởng tiến bộ đó vẫn được kế thừa và áp dụng trong pháp luật về thừa kế nói riêng và pháp luật dân sự nói chung. Để hướng dẫn Tòa án các cấp thống nhất trong việc giải quyết những tranh chấp về thừa kế trong giai đoạn này, Bộ Tư pháp đã ban hành Thông tư số 1742-BNC ngày 18/9/1956 quy định rõ: Vợ hoặc chồng của người chết có quyền thừa kế ngang với các con; vợ lẽ và con nuôi chính thức của người để lại di sản có quyền thừa kế như vợ cả và con đẻ của người đó. Vợ góa của người để lại di sản (kể cả vợ cả và vợ lẽ) đều có quyền thừa kế di sản của chồng và hưởng phần di sản ngang với các thừa kế cùng hàng khác [6]. Hiến pháp năm 1959 ra đời tiếp tục ghi nhận: "Nhà nước chiếu theo pháp luật bảo hộ quyền thừa kế tài sản tư hữu của công dân" [27, Điều 19]. Trên tinh thần của Hiến pháp, Luật HN&GĐ năm 1959 đã cụ thể hóa tại Điều 16: "Vợ và chồng đều có quyền thừa kế tài sản của nhau" [28] và Điều 19 "Con trai và con gái có quyền lợi và nghĩa vụ ngang nhau trong gia đình" [28]. 23
  • 24. Sau khi miền Nam hoàn toàn giải phóng, cách mạng Việt Nam chuyển sang một giai đoạn mới, giai đoạn cả nước độc lập, thống nhất. Cùng với sự thống nhất về chính trị, kinh tế, đòi hỏi tất yếu phải có sự thống nhất về việc áp dụng pháp luật. Hiến pháp năm 1980 được ban hành là cơ sở, nền tảng cho bước phát triển mới của pháp luật về thừa kế. Để có đường lối thống nhất cho Tòa án các cấp trong việc giải quyết các tranh chấp về thừa kế, ngày 24/7/1981, Tòa án nhân dân tối cao (TANDTC) đã ban hành Thông tư số 81/TANDTC (sau đây gọi tắt là Thông tư số 81). Nội dung của Thông tư số 81 đã bao quát khá toàn diện các vấn đề về thừa kế so với các văn bản trước đó. Về thừa kế theo pháp luật, Thông tư số 81 quy định có hai hàng thừa kế. Hàng thừa kế thứ nhất gồm vợ góa hoặc chồng góa, các con đẻ và con nuôi, bố đẻ, mẹ đẻ hoặc bố nuôi, mẹ nuôi. Hàng thừa kế thứ hai gồm ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh chị em ruột, anh chị em cùng cha khác mẹ, cùng mẹ khác cha và anh chị em nuôi. Những người thừa kế ở hàng thứ nhất được ưu tiên và thừa kế toàn bộ di sản. Trong trường hợp không có người thừa kế ở hàng thứ nhất hoặc có nhưng họ đều không nhận, thì mới đến những người thừa kế ở hàng thứ hai. Những người thừa kế trong cùng một hàng, được hưởng một suất ngang nhau. Bên cạnh đó, lần đầu tiên trong Thông tư số 81 đã quy định các trường hợp không được hưởng thừa kế: Người đã giết người để thừa kế hoặc đã đối xử quá tàn tệ với người đó thì không được thừa kế di sản của người đó. Người đã giết người thừa kế cùng hàng với mình để chiếm đoạt toàn bộ di sản hoặc nhằm làm tăng kỷ phần cho bản thân thì không được thừa kế di sản của cả hai người ấy (người để thừa kế và người bị giết) [42, Mục III.A.4]. Mặc dù là văn bản pháp lý đầu tiên quy định khá chi tiết về thừa kế kể từ sau Cách mạng Tháng Tám nhưng Thông tư số 81 vẫn còn có những hạn chế nhất định, chẳng hạn như việc chỉ quy định hai hàng thừa kế đã thu hẹp 24
  • 25. diện thừa kế, chưa thật sự đảm bảo được quyền hưởng di sản của những người thân của người để lại di sản. Quy định các trường hợp không được hưởng thừa kế theo pháp luật cũng chưa đầy đủ… Trước tình hình đó, đòi hỏi phải có một văn bản vừa có nội dung toàn diện, vừa có tính pháp lý, thực thi cao. Để phù hợp với sự biến đổi, phát triển của kinh tế - xã hội ở nước ta cũng như nhằm khắc phục những nội dung còn thiếu, còn vướng mắc, ngày 30/08/1990, Hội đồng Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ban hành Pháp lệnh Thừa kế, có hiệu lực từ ngày 10/09/1990. Nội dung của Pháp lệnh Thừa kế đã mở rộng phạm vi những người thuộc diện thừa kế theo pháp luật. Theo quy định tại khoản 1 Điều 25 Pháp lệnh Thừa kế thì những người thừa kế theo pháp luật được chia làm ba hàng: Hàng thứ nhất: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết. Hàng thứ hai: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết. Hàng thứ ba: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột [16]. Quy định trên đã bảo vệ được tối đa quyền của người để lại di sản cũng như quyền của những người thừa kế. So với Thông tư số 81, ngoài quy định mở rộng về diện những người được thừa kế, Pháp lệnh Thừa kế còn quy định quyền thừa kế của một người đang là con nuôi của người khác được thừa kế theo pháp luật của bố, mẹ nuôi và được thừa kế theo pháp luật của bố mẹ đẻ trong khi đó theo Thông tư số 81 thì con nuôi không được thừa kế theo pháp luật đối với di sản của bố, mẹ đẻ. Tuy còn có những hạn chế nhất định, nhưng có thể khẳng định rằng, Pháp lệnh Thừa kế năm 1990 là văn bản có hiệu lực pháp lý cao đầu tiên quy định tương đối đầy đủ về thừa kế ở nước ta kể từ Cách mạng Tháng Tám năm 25
  • 26. 1945 đến khi BLDS năm 1995 được ban hành. Pháp lệnh thừa kế đã góp phần tích cực trong việc giải quyết các tranh chấp về thừa kế. Để phù hợp với công cuộc đổi mới trên mọi bình diện, Hiến pháp năm 1992 đã được ban hành với nhiều nội dung mới. Sau khi Hiến pháp năm 1992 ra đời, nhiều bộ luật được sửa đổi, bổ sung và xây dựng mới, trong đó phải kể đến BLDS năm 1995 được Quốc hội thông qua ngày 28/10/1995 và có hiệu lực từ ngày 01/07/1996. Bộ luật Dân sự năm 1995 là kết quả của quá trình kiểm nghiệm, sàng lọc thực tiễn đời sống xã hội và hệ thống hóa, pháp điển hóa các quy định trước đây. Thừa kế được quy định ở Phần thứ IV của Bộ luật, đã kế thừa những quy định tiến bộ, còn phù hợp của Pháp lệnh Thừa kế, đồng thời sửa đổi, bổ sung một số nội dung mới. Quyền thừa kế theo pháp luật của công dân được quy định trong BLDS năm 1995 đã góp phần bảo vệ các quyền dân sự và lợi ích hợp pháp của cá nhân trong nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Các quy định về thừa kế theo pháp luật trong BLDS năm 1995 là một bước tiến quan trọng trong quá trình lập pháp ở Việt Nam. Những quy định này đã củng cố quyền sở hữu và quyền thừa kế tài sản của công dân phù hợp với công cuộc đổi mới của đất nước. Tuy nhiên, các quy định về thừa kế trong BLDS năm 1995 được ban hành trong giai đoạn đầu của thời kỳ xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa nên nhiều quy định đã bị lạc hậu so với sự phát triển như vũ bão của các hoạt động kinh tế và các giao lưu trong đời sống xã hội. Chính điều này đã thúc đẩy một cách mạnh mẽ, đòi hỏi phải có quy phạm pháp luật mới điều chỉnh kịp thời yêu cầu của thực tiễn và BLDS năm 2005 đã ra đời để thay thế BLDS năm 1995. So với BLDS năm 1995, các quy định về thừa kế theo pháp luật trong BLDS năm 2005 đã có sự sửa đổi, bổ sung, được ghi nhận cụ thể hơn, chẳng hạn như bổ sung thêm 26
  • 27. người được hưởng di sản thuộc hàng thừa kế thứ hai, thứ ba, và nội dung về thừa kế thế vị. Các quy định về thừa kế nói chung và thừa kế theo pháp luật nói riêng được hoàn thiện như ngày nay, thể hiện kỹ năng, kinh nghiệm lập pháp cũng như đường lối của Đảng và Nhà nước ta. 1.3. PHÂN BIỆT THỪA KẾ THEO DI CHÚC VÀ THỪA KẾ THEO PHÁP LUẬT Như đã đề cập ở trên, pháp luật thừa kế Việt Nam cũng như pháp luật thừa kế của nhiều quốc gia trên thế giới đều ghi nhận hai hình thức thừa kế, đó là thừa kế theo di chúc và thừa kế theo pháp luật. Giữa hai hình thức thừa kế này có mối quan hệ qua lại mật thiết với nhau, có thể cùng được áp dụng trong việc phân chia di sản hoặc mang tính chất loại trừ nhau, có thể áp dụng độc lập một hình thức. Phân biệt thừa kế theo di chúc và thừa kế theo pháp luật để tìm ra điểm giống và khác nhau là hết sức cần thiết. Trên cơ sở đó tạo điều kiện cho việc nhìn nhận vấn đề chia thừa kế một cách toàn diện, áp dụng quy định của pháp luật một cách chính xác nhằm bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người có quyền thừa kế. Hai hình thức thừa kế này có nhiều điểm tương đồng nhưng cũng có những điểm khác biệt nhau. Dưới đây là những điểm chung và điểm khác biệt cơ bản: Điểm giống nhau cơ bản, nổi trội nhất của hai hình thức thừa kế này được thể hiện ở chỗ, thứ nhất, đều là sự dịch chuyển tài sản của người đã chết cho người còn sống và thứ hai, người để lại di sản thừa kế đều là cá nhân. Điểm khác nhau: Thứ nhất, về ý chí của người để lại tài sản. + Thừa kế theo di chúc: được thể hiện cụ thể trong những nội dung của di chúc. + Thừa kế theo pháp luật: không có sự thể hiện ý chí của người để lại tài sản. Di sản đương nhiên được định đoạt theo quy định của pháp luật. 27
  • 28. Thứ hai, về người thừa kế. Người thừa kế là người được hưởng tài sản của người chết để lại theo di chúc hoặc theo quy định của pháp luật. + Người thừa kế theo di chúc: là người được hưởng di sản theo di chúc do người lập di chúc định đoạt khi còn sống. Do đó, người thừa kế theo di chúc có thể là bất kỳ ai được chỉ định trong di chúc, có thể là cá nhân và/ hoặc cơ quan, tổ chức, có thể là người có mối quan hệ về hôn nhân, huyết thống hoặc nuôi dưỡng với người để lại di sản hoặc không có các mối quan hệ này. Không áp dụng quy định về thừa kế thế vị trong trường hợp thừa kế theo di chúc. + Người thừa kế theo pháp luật: là người thừa kế theo hàng thừa kế và trình tự thừa kế theo quy định của pháp luật. Người thừa kế theo pháp luật chỉ có thể là cá nhân và có mối quan hệ về hôn nhân hoặc huyết thống hoặc nuôi dưỡng với người chết. Thừa kế thế vị được áp dụng trong hình thức thừa kế theo pháp luật. Thứ ba, cách thức phân chia di sản. + Thừa kế theo di chúc: tùy thuộc vào sự phân định di sản của người lập di chúc, người thừa kế có thể được hưởng nhiều hoặc ít hoặc toàn bộ di sản thừa kế. + Thừa kế theo pháp luật: những người cùng một hàng thừa kế thì được hưởng phần di sản ngang nhau. Thứ tư, thứ tự ưu tiên. Thừa kế theo pháp luật chỉ được thực hiện trong trường hợp người chết không để lại di chúc hoặc di chúc không có giá trị pháp lý và các trường hợp khác như đã phân tích ở mục 1.1.2. 28
  • 29. Như vậy, về cơ bản thừa kế theo di chúc và thừa kế theo pháp luật khác nhau về ý chí chủ thể để lại di sản, người thừa kế, cách thức phân chia di sản và thứ tự áp dụng. 1.4. QUY ĐỊNH CỦA MỘT SỐ QUỐC GIA VỀ THỪA KẾ THEO PHÁP LUẬT Mỗi quốc gia với những đặc điểm riêng về lịch sử, truyền thống, địa lí, thành phần dân cư, trình độ phát triển kinh tế, chính trị, tôn giáo... là nền tảng tạo nên sự đa dạng về xã hội và hệ thống pháp luật ở những quốc gia này. Tuy nhiên, trong sự đa dạng đó vẫn có những điểm tương đồng nhất định. Sự giao lưu và tiếp biến giữa các nền văn hóa, những điểm tương đồng về lịch sử, truyền thống dân tộc của các quốc gia trong khu vực cũng như trên toàn thế giới đã tạo điều kiện thuận lợi cho các hệ thống pháp luật có những điểm giống nhau. Dưới đây là quy định về thừa kế nói chung và thừa kế theo pháp luật nói riêng trong pháp luật dân sự của một số nước. 1.4.1. Pháp luật về thừa kế theo pháp luật trong Bộ luật dân sự Pháp Được kiến lập vào năm 1804 bởi Napoléon Bonaparte, BLDS Pháp hay còn gọi là Bộ luật Napoléon được nhiều học giả xem như là bản "Hiến pháp dân sự" hoặc được ví như "một đài kỷ niệm". Sự so sánh này cho thấy tầm ảnh hưởng vô cùng to lớn của Bộ luật này đối với pháp luật dân sự thế giới cũng như tính ổn định, sự trường tồn vượt thời gian của nó. Mặc dù đã trải qua hơn hai thế kỷ với nhiều thay đổi, bổ sung, song điều kỳ diệu là Bộ luật vẫn giữ nguyên được cấu trúc và không làm thay đổi trật tự các điều luật. Cho đến nay, chúng ta vẫn không thể phủ nhận tính mẫu mực của các quy định trong dân luật Pháp. BLDS Pháp dành riêng Thiên I, Quyển thứ ba, từ Điều 720 đến Điều 892 để quy định về thừa kế theo pháp luật. Tương tự như hệ thống pháp luật của các quốc gia khác, pháp luật thừa kế của Pháp cũng quy định hai hình thức thừa kế bao gồm thừa kế theo pháp luật và thừa kế theo di chúc. Thừa kế theo pháp luật được áp dụng 29
  • 30. "trong trường hợp người để lại di sản không định đoạt tài sản bằng tặng cho hoặc di tặng" [25, Điều 721]. Theo quy định của BLDS Pháp, di sản không chỉ bao gồm tài sản mà còn bao gồm cả nghĩa vụ tài sản do người chết để lại. Theo Điều 723 BLDS Pháp thì "Người thừa kế toàn bộ khối di sản hoặc một phần trọn vẹn của khối di sản có nghĩa vụ vô hạn đối với những khoản nợ mà người chết để lại" [25]. Tiếp đó, tại Điều 724 BLDS Pháp ghi nhận: "Người thừa kế theo pháp luật đương nhiên được hưởng các tài sản, các quyền và cổ phần do người chết để lại" [25]. Căn cứ theo quy định tại Điều 731, 732, 733 BLDS Pháp thì những người được hưởng thừa kế theo pháp luật bao gồm: Người thân thích (không phân biệt con trong giá thú, con ngoài giá thú) và vợ hoặc chồng của người chết với điều kiện còn sống, không ly hôn và không có bản án ly thân đã có hiệu lực pháp luật. Theo quy định tại Điều 741 thì "Mức độ quan hệ thân thích được xác lập theo số đời; mỗi một đời gọi là một bậc" [25]. Nếu như pháp luật thừa kế của Việt Nam quy định diện thừa kế được xác định trên ba cơ sở là quan hệ huyết thống, quan hệ hôn nhân và quan hệ nuôi dưỡng giữa người thừa kế và người để lại di sản, thì pháp luật thừa kế của Pháp lại xác định phạm vi những người được hưởng di sản trên cơ sở quan hệ huyết thống, quan hệ vợ chồng giữa người thừa kế và người để lại di sản trong đó chủ yếu là thừa kế dựa trên quan hệ huyết thống. Trên cơ sở diện thừa kế, BLDS Pháp chia thành các hàng thừa kế. Theo quy định tại Điều 734 BLDS Pháp thì trong trường hợp không có vợ (hoặc chồng) có quyền thừa kế thì những người thân thích sẽ được hưởng theo thứ tự như sau: - Hàng thừa kế thứ nhất: Con và ti thuộc của con, không phân biệt giới tính, sinh trước, sinh sau ngay cả khi họ không cùng cha cùng mẹ. 30
  • 31. - Hàng thừa kế thứ hai: Cha, mẹ; anh, chị, em ruột và ti thuộc của những người này. Cha, mẹ của người chết, mỗi người được hưởng một nửa di sản nếu người chết không có con, cháu, anh, chị, em ruột hoặc không có ti thuộc của anh, chị, em ruột. Nếu người để lại di sản không có con cháu nhưng có anh, chị, em ruột hoặc ti thuộc của anh, chị, em ruột thì cha mẹ mỗi người được hưởng 1/4 di sản, các anh, chị, em ruột hoặc ti thuộc của họ sẽ được hưởng một nửa di sản còn lại. Tương tự, nếu chỉ cha hoặc mẹ còn sống thì người này được hưởng 1/4 di sản và phần còn lại thuộc anh, chị, em ruột hoặc ti thuộc của những người này. - Hàng thừa kế thứ ba: Các tôn thuộc khác không phải là cha mẹ. - Hàng thừa kế thứ tư: Những người thân thích về bàng hệ khác ngoài anh ruột, chị ruột, em ruột và ti thuộc của những người này. Những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế nếu không còn ai ở hàng thừa kế trước. Trong một hàng thừa kế, những người ở bậc thừa kế gần hơn sẽ được hưởng thừa kế, những người ở cùng bậc sẽ được hưởng suất thừa kế bằng nhau. Tuy nhiên, điều này không được áp dụng trong trường hợp chia di sản theo dòng họ nội và dòng họ ngoại và thừa kế thế vị. Theo quy định tại Điều 743 BLDS Pháp thì bậc thừa kế được xác định như sau: Giữa những người thân thích trong dòng trực hệ, có bao nhiêu đời thì có bấy nhiêu bậc; như vậy con đối với cha là bậc thứ nhất, cháu đối với ông là bậc thứ hai hai và ngược lại, cha đối với con và ông đối với cháu cũng như vậy. 31
  • 32. Trong dòng bàng hệ các bậc cũng được tính theo các đời: từ một người trong các thân thích đến ông tổ chung nhưng không tính ông tổ chung và từ ông tổ chung đến người kia. Như vậy, hai anh em ruột là ở bậc thứ hai; chú cháu hoặc bác cháu ở bậc thứ ba, anh em con chú con bác ở bậc thứ tư và cứ tiếp tục như vậy [25, Điều 743]. Pháp luật thừa kế của Pháp không chỉ ghi nhận diện và hàng thừa kế trên cơ sở quan hệ huyết thống mà còn xác định dựa trên cơ sở quan hệ hôn nhân. Theo quy định tại các điều 756, 757, 757-1, 757-2, thì vợ hoặc chồng có quyền thừa kế được thừa kế một mình hoặc cùng với những người thân thích khác của người để lại di sản. Nếu vợ chồng có con chung thì người vợ (chồng) còn sống sẽ được quyền chọn hưởng 1/4 di sản hoặc quyền hưởng hoa lợi, lợi tức từ tổng số tài sản hiện có. Nếu vợ hoặc chồng chết trước mà có con riêng thì vợ hoặc chồng còn sống được hưởng 1/4 di sản. Trong trường hợp không có con hoặc cháu, nếu người để lại di sản có cha mẹ thì vợ (chồng) còn sống được hưởng một nửa di sản, một nửa còn lại chia đều cho cha, mẹ của người để lại di sản. Nếu cha mẹ của người để lại di sản đều chết thì phần di sản lẽ ra người này được hưởng sẽ thuộc về vợ (chồng) còn sống. Vợ (chồng) còn sống sẽ được hưởng toàn bộ di sản trong trường hợp người để lại di sản không có con, cháu, cha mẹ đều chết sau người để lại di sản. Thông qua quá trình phân tích trên đây, chúng ta dễ dàng nhận thấy pháp luật dân sự Pháp về thừa kế theo pháp luật được quy định rất rõ ràng, cụ thể và cũng có nhiều điểm tương đồng với các quy định về thừa kế của Việt Nam vì bản chất của thừa kế là sự chuyển dịch di sản của người đã chết cho người còn sống để duy trì, bảo vệ và phát triển. 1.4.2. Pháp luật dân sự và thƣơng mại Thái Lan 32
  • 33. Thái Lan là quốc gia duy nhất trong các nước Đông Nam Á không trải qua chế độ thuộc địa. Tuy nhiên, hệ thống pháp luật Thái Lan chịu ảnh hưởng sâu sắc pháp luật các nước phương Tây, đặc biệt là pháp luật của châu Âu lục địa, xuất phát từ việc phát triển, mở rộng quan hệ thương mại với các quốc gia này. BLDS và Thương mại Thái Lan năm 1925 là một trong những bộ luật được xây dựng trên nền tảng đó. Trải qua gần 90 năm, luật dân sự Thái Lan đã được tôi luyện trong một nền kinh tế với bao thăng trầm khiến cho nhiều chuẩn mực giá trị của luật dân sự trong đó có các quy định về thừa kế đã được định hình và trở thành tài sản quý góp vào kho tàng pháp lý nhân loại. Các quy định về thừa kế nằm tại Quyển 6 từ Điều 1599 đến Điều 1755 của Bộ luật, được chia thành 6 phần, trong đó quy định về thừa kế theo pháp luật được ghi nhận tại phần 2. Theo quy định tại Điều 1600 BLDS và Thương mại Thái Lan thì di sản thừa kế: Tùy thuộc vào các quy định của Bộ luật này, tài sản của một người chết bao gồm mọi loại tài sản của người đó cũng như các quyền, nghĩa vụ và các trách nhiệm, trừ những quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm mà theo quy định của pháp luật hoặc theo tính chất của chúng hoàn toàn mang tính chất cá nhân đối với người đã chết [5]. Như vậy, di sản theo quy định của BLDS và Thương mại Thái Lan được xác định bao gồm mọi tài sản, quyền tài sản, nghĩa vụ tài sản do người chết để lại. Về hàng thừa kế, theo quy định tại Điều 1629 BLDS và Thương mại Thái Lan thì: Người thừa kế theo pháp luật được chia thành 6 nhóm, tùy thuộc vào từng trường hợp cụ thể, mỗi nhóm có quyền thừa kế theo thứ tự sau đây: 33
  • 34. 1) Con cái 2) Bố, mẹ 3) Anh, chị, em đồng huyết thống 4) Anh, chị, em cùng cha khác mẹ hoặc cùng mẹ khác cha 5) Ông, bà 6) Chú, bác, cô, dì [5]. Pháp luật thừa kế của Thái Lan không quy định vợ, chồng của người để lại di sản trong bất kỳ một hàng thừa kế nào. Theo Điều 1635 BLDS và Thương mại Thái Lan thì phần di sản mà vợ, chồng của người để lại di sản được hưởng phụ thuộc vào các hàng và các bậc thừa kế theo quan hệ huyết thống nội tộc của người để lại di sản. Bộ luật Dân sự và Thương mại Thái Lan quy định hàng thừa kế xen kẽ với bậc thừa kế, thừa kế theo bậc được thực hiện khi người thuộc hàng thừa kế được hưởng di sản đã chết trước hoặc chết cùng một thời điểm với người để lại di sản thì các con (các cháu) của người đó được hưởng di sản, họ được gọi là người thừa kế đại diện. Như vậy, xuất phát từ sự tương đồng về điều kiện kinh tế, xã hội, khu vực địa lý giữa Việt Nam và Thái Lan, các quy định về thừa kế theo pháp luật trong BLDS Việt Nam và BLDS và Thương mại Thái Lan có nhiều điểm tương tự nhau. Qua việc tìm hiểu pháp luật thừa kế của một số quốc gia có hệ thống pháp luật tiêu biểu, có thể khẳng định rằng thừa kế luôn là một chế định quan trọng trong pháp luật dân sự của các nước. Điểm chung trong các quy định về thừa kế của các Bộ luật này là đều quy định hai hình thức thừa kế bao gồm thừa kế theo di chúc và thừa kế theo pháp luật. Các quy định về thừa kế theo pháp luật đều chú trọng bảo vệ quyền thừa kế của những người có quan hệ 34
  • 35. huyết thống với người để lại di sản. Việc xác định người được hưởng di sản dựa trên quan hệ hôn nhân không được xem xét một cách độc lập mà luôn bị chi phối bởi quan hệ huyết thống. Pháp luật thừa kế của các quốc gia trên đều quy định các hàng thừa kế xen lẫn với bậc thừa kế. Thừa kế theo bậc được áp dụng khi người thuộc hàng thừa kế được hưởng di sản đã chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người để lại di sản, thì các con (các cháu) của người đó được hưởng di sản. BLDS của các quốc gia nêu trên đều có sức sống lâu bền, trải qua hàng thế kỷ nhưng vẫn giữ được hiệu quả điều chỉnh, thể hiện trình độ lập pháp tuyệt vời. Do đó, để pháp luật về thừa kế của Việt Nam ngày càng hoàn thiện, việc học hỏi, tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm xây dựng pháp luật cũng như vận dụng linh hoạt, sáng tạo các quy định của các nước là hết sức cần thiết. KẾT LUẬN CHƢƠNG 1 Quá trình phát triển của thừa kế gắn liền với sự phát triển của lịch sử loài người. Dù ở thời kỳ nào, dưới chế độ xã hội nào, chế định thừa kế cũng luôn đóng vai trò quan trọng, tựa như một bức tranh sinh động phản ánh các quan hệ xã hội, quan hệ tài sản qua từng giai đoạn phát triển. Ở chương mở đầu này, xuất phát từ việc tham khảo giải nghĩa từ các cuốn từ điển cũng như quy định của pháp luật hiện hành, tác giả đã xây dựng và đưa ra khái niệm về thừa kế theo pháp luật, phân tích và chỉ ra các trường hợp được hưởng thừa kế theo pháp luật. Để có cái nhìn toàn diện và thấy được những ưu nhược điểm của các quy định về thừa kế trong từng giai đoạn, trong chương này đã phân tích tiến trình phát triển của pháp luật Việt Nam về thừa kế theo pháp luật xuyên suốt từ trước năm 1945 cho đến nay. Quyền thừa kế nói chung và thừa kế theo pháp luật nói riêng của công dân Việt Nam luôn được tôn trọng và ghi nhận ngày càng đầy đủ, hoàn thiện hơn. Trong xu thế phát triển chung của thế giới và các hệ thống pháp luật có xu hướng xích lại gần nhau vì lợi ích chung, việc tham khảo các quy định tương ứng của pháp luật thế giới là hết sức quan 35
  • 36. trọng. Qua đó có thể học hỏi, tiếp thu có chọn lọc các quy định sao cho phù hợp với điều kiện của Việt Nam.nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả điều chỉnh cũng như đảm bảo được quyền và lợi ích hợp pháp cho những người thừa kế và những người có liên quan. 36
  • 37. Chương 2 DIỆN VÀ HÀNG THỪA KẾ THEO PHÁP LUẬT Pháp luật dân sự hiện hành quy định chế định thừa kế bao gồm hai hình thức là thừa kế theo di chúc và thừa kế theo pháp luật. Diện và hàng thừa kế là một trong những vấn đề chính yếu và chỉ được đặt ra trong hình thức thừa kế theo pháp luật. Quy định này xuất phát từ bản chất của hình thức thừa kế theo di chúc là sự thể hiện ý chí của người lập di chúc, có thể để lại di sản cho bất kỳ ai nên không cần phải xác định diện và hàng thừa kế. 2.1. CĂN CỨ XÁC ĐỊNH DIỆN THỪA KẾ THEO PHÁP LUẬT Qua từng giai đoạn phát triển, quy định về diện thừa kế có nhiều điểm chung và có những quy định về phạm vi rộng hẹp khác nhau. Trước hết, cần xem xét khái niệm về diện thừa kế. Diện thừa kế là một trong những nội dung quan trọng của chế định thừa kế. Tuy nhiên, khái niệm về diện thừa kế mới chỉ được quan tâm nghiên cứu trong lĩnh vực khoa học pháp lý chứ chưa được ghi nhận dưới góc độ quy định của pháp luật nên dẫn đến nhiều cách hiểu khác nhau. Trong Giáo trình Luật dân sự, Trường Đại học Luật Hà Nội có đưa ra khái niệm về diện thừa kế như sau: "Diện những người thừa kế là phạm vi những người có quyền hưởng di sản thừa kế của người chết theo quy định của pháp luật" [48, tr. 342]. Khái niệm về diện thừa kế còn có thể được hiểu là "phạm vi những người có thể được hưởng di sản do người chết để lại được xác định theo một trong ba quan hệ (quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống, quan hệ nuôi dưỡng) với người để lại di sản" [24, tr. 278]. Nhìn chung các khái niệm nêu trên đã phản ánh khá đầy đủ nội dung cũng như bản chất của diện thừa kế. Tuy nhiên, khái niệm thứ hai về diện thừa kế là hợp lý, cụ thể hơn và tác giả đồng tình với quan điểm này bởi không phải cá nhân nào trong diện thừa kế cũng có quyền hưởng di sản thừa kế. Phạm vi những người có thể được hưởng di sản thừa kế phụ thuộc vào từng giai đoạn phát triển của 37
  • 38. xã hội cũng như quy định pháp luật của mỗi chế độ nhất định. Như đã đề cập ở trên về tiến trình phát triển pháp luật về thừa kế theo pháp luật, ở nước ta, trước năm 1945, dưới chế độ cũ, đặc biệt là dưới chế độ thực dân phong kiến, bản chất của giai cấp thống trị với tư tưởng trọng nam khinh nữ hết sức nặng nề đã có sự ảnh hưởng sâu sắc đến việc xác định diện thừa kế. Theo đó, diện thừa kế chủ yếu dựa trên quan hệ huyết thống nội tộc, địa vị của người vợ trong quan hệ thừa kế bị đẩy xuống bậc thứ yếu so với các con và có sự phân biệt giữa vợ cả và vợ thứ trong việc hưởng di sản của người chồng chết trước. Kể từ khi giành được độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam và trong quá trình đổi mới, phát triển, pháp luật thừa kế ở nước ta đã xóa bỏ những tàn tích của tư tưởng lạc hậu trọng nam, khinh nữ và mở rộng diện thừa kế. Theo đó, người thừa kế theo pháp luật phải có một trong ba mối quan hệ sau đây với người để lại di sản: quan hệ huyết thống hoặc quan hệ hôn nhân hoặc quan hệ nuôi dưỡng. 2.1.1. Quan hệ hôn nhân Gia đình là tế bào của xã hội, phát sinh và phát triển cùng với sự phát triển của xã hội. Mỗi gia đình được xây dựng dựa trên những sợi dây liên kết của hôn nhân, huyết thống và nuôi dưỡng trong đó quan hệ hôn nhân có thể xem là quan hệ nền tảng. Quan hệ hôn nhân là một trong những căn cứ quan trọng để xác định diện thừa kế theo pháp luật. Như đã phân tích ở Chương 1, trước năm 1945, dưới chế độ phong kiến, quan hệ hôn nhân bị xem nhẹ và không được coi là cơ sở để xác định diện thừa kế giữa vợ và chồng. Tư tưởng trọng nam, khinh nữ đã ảnh hưởng sâu sắc tới chế định thừa kế. Địa vị của người phụ nữ nói chung và người vợ nói riêng trong gia đình ở thế yếu, không có sự bình đẳng với người đàn ông, người chồng về quan hệ sở hữu tài sản cũng như quan hệ thừa kế. Theo đó, người vợ không thuộc diện thừa kế theo pháp luật của người chồng. Hay nói cách khác, quan hệ hôn nhân không được ghi nhận là cơ sở để xác định diện 38
  • 39. thừa kế. Đến thời kỳ Pháp thuộc, quan hệ hôn nhân có được xem xét đến, tuy nhiên chỉ dừng lại ở một khía cạnh nhỏ. Theo quy định tại Bộ Dân luật Bắc kỳ thì người vợ chính thất của người quá cố được hưởng toàn bộ di sản trong trường hợp bên chồng không còn người thân thuộc, trong khi đó người vợ thứ lại không thuộc diện thừa kế theo pháp luật của chồng, chỉ được ở lại nhà chồng, hưởng lương thực và tiền chi dùng cho sinh hoạt hàng ngày. Điều này cho thấy quan hệ hôn nhân không có tính ràng buộc. Sau năm 1945, pháp luật thừa kế của nước ta đã có những thay đổi to lớn, trái ngược hoàn toàn với bản chất pháp luật thừa kế của chế độ cũ. Năm 1946, Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời đã ghi nhận "Đàn bà ngang quyền với đàn ông về mọi phương diện" [26, Điều 9]. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng xóa bỏ những quy định thể hiện sự bất bình đẳng giữa nam và nữ, giữa vợ và chồng của chế độ HN&GĐ phong kiến để từ đó xây dựng chế độ hôn nhân mới dân chủ và tiến bộ. Mặc dù không quy định cụ thể về quyền thừa kế của người vợ hoặc chồng trong trường hợp một bên chết trước nhưng trên cơ sở của Điều 9 có thể hiểu trong quan hệ thừa kế theo pháp luật, người vợ và người chồng thuộc diện thừa kế của nhau. Sắc lệnh số 97/SL đã chính thức ghi nhận quan hệ hôn nhân trở thành một trong các căn cứ để xác định diện thừa kế, trong đó đã khẳng định vợ, chồng thuộc diện thừa kế theo pháp luật của nhau. Nguyên tắc này được tiếp tục kế thừa và cụ thể hóa tại các văn bản pháp luật sau này như Luật HN&GĐ năm 1959, Thông tư số 81, Luật HN&GĐ năm 1986, Pháp lệnh thừa kế năm 1990, Luật HN&GĐ năm 2000 và BLDS năm 2005. Tại khoản 1 Điều 31 Luật HN&GĐ năm 2000 quy định: "Vợ, chồng có quyền thừa kế tài sản của nhau theo quy định của pháp luật về thừa kế" [33]. Theo quy định của pháp luật hiện hành, tại khoản 6 Điều 8 Luật HN&GĐ Việt Nam năm 2000 thì "hôn nhân là quan hệ giữa vợ và chồng sau khi đã kết hôn" [33]. Vợ và chồng thuộc diện thừa kế theo pháp luật của nhau khi quan hệ hôn nhân của họ tính đến thời điểm mở thừa kế của người vợ 39
  • 40. hoặc người chồng được xác định là hôn nhân hợp pháp. Căn cứ vào quan hệ hôn nhân hợp pháp, quyền thừa kế của vợ, chồng trong việc hưởng di sản của nhau được bảo đảm bằng các quy định của pháp luật. Để có thể được pháp luật thừa nhận là quan hệ hôn nhân hợp pháp thì việc kết hôn phải tuân thủ các điều kiện và thủ tục do pháp luật quy định. Hôn nhân hợp pháp phải đảm bảo cả về mặt nội dung lẫn hình thức nghĩa là phải đảm bảo các điều kiện kết hôn và có đăng ký kết hôn. Tại khoản 2 Điều 8 Luật HN&GĐ Việt Nam năm 2000 quy định: "Kết hôn là việc nam và nữ xác lập quan hệ vợ chồng theo quy định của pháp luật về điều kiện kết hôn và đăng ký kết hôn" [33]. Để được đăng ký kết hôn, hai bên nam, nữ phải thỏa mãn điều kiện về độ tuổi kết hôn, ý chí tự nguyện và không thuộc 5 trường hợp cấm kết hôn, bao gồm: người đang có vợ hoặc có chồng; người mất năng lực hành vi dân sự; giữa những người cùng dòng máu về trực hệ; giữa những người có họ trong phạm vi ba đời; giữa cha, mẹ nuôi với con nuôi; giữa người đã từng là cha, mẹ nuôi với con nuôi, bố chồng với con dâu, mẹ vợ với con rể, bố dượng với con riêng của vợ, mẹ kế với con riêng của chồng; giữa những người cùng giới tính. Giấy chứng nhận kết hôn được coi là bằng chứng của cuộc hôn nhân hợp pháp. Từ thời điểm được cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận các bên có quyền và nghĩa vụ đối với nhau. Giấy chứng nhận kết hôn được coi là cơ sở pháp lý để các bên yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình trong quan hệ hôn nhân. Tuy nhiên, trong trường hợp Giấy chứng nhận kết hôn được cấp không đúng thẩm quyền sẽ không làm phát sinh giá trị pháp lý, hai bên nam nữ không được coi là vợ chồng và do đó, không thuộc diện thừa kế của nhau. Trên thực tế, có một số trường hợp do điều kiện, hoàn cảnh khách quan nên vẫn tồn tại những quan hệ hôn nhân đáp ứng đầy đủ các điều kiện kết hôn nhưng lại vi phạm thủ tục đăng ký kết hôn. Nguyên nhân bắt nguồn từ điều kiện lịch sử, đất nước ta trải qua nhiều năm chiến tranh, nảy sinh nhiều trường hợp nam, nữ mới chỉ được gia đình tổ chức lễ cưới theo tập quán mà 40
  • 41. chưa tiến hành thủ tục đăng ký kết hôn; do ảnh hưởng của những tập tục lạc hậu, dẫn tới ý thức của người dân còn rất hạn chế, chỉ tôn trọng nghi thức cưới theo tập quán mà không đăng ký kết hôn theo luật định, nhất là ở các khu vực nông thôn, miền núi, các vùng dân tộc thiểu số, đồng bào theo đạo. Câu hỏi được đặt ra là liệu những trường hợp này có được thừa nhận là hôn nhân hợp pháp hay không? Thực trạng này đã được giải quyết theo hướng dẫn tại Nghị quyết số 01/NQ-HĐTP ngày 20/01/1988 của Hội đồng Thẩm phán TANDTC hướng dẫn áp dụng một số quy định của Luật HN&GĐ năm 1986. Mục 2 của Nghị quyết đã đưa ra hướng dẫn giải quyết về trường hợp kết hôn vi phạm Điều 8: Trong thực tế vẫn có không ít trường hợp kết hôn không có đăng ký. Việc này tuy có vi phạm về thủ tục kết hôn nhưng không coi là việc kết hôn trái pháp luật, nếu việc kết hôn không trái với các điều 5, 6, 7. Trong những trường hợp này, nếu có một hoặc hai bên xin ly hôn, Tòa án không hủy việc kết hôn theo Điều 9 mà xử như việc xin ly hôn theo Điều 40 [43]. Quy định về việc thừa nhận hôn nhân thực tế như trên không chỉ góp phần bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của hai bên nam, nữ, đặc biệt là bảo vệ lợi ích của người phụ nữ và trẻ em mà còn nhằm giải quyết những vướng mắc trong các giao dịch do hai bên vợ chồng thực hiện với bên thứ ba. Tại Hội nghị tổng kết ngành Tòa án năm 1995, Chánh án TANDTC đã chỉ rõ: Những cuộc hôn nhân nào thỏa mãn đầy đủ các điều kiện kết hôn nhưng không đăng ký kết hôn, đã sống chung với nhau hàng chục năm, có tài sản chung hoặc con cái chung thì có thể coi là hôn nhân thực tế để bảo đảm quyền lợi chính đáng cho các bên đương sự, nhất là đối với phụ nữ. Như vậy, trong trường hợp hai bên nam nữ chung sống như vợ chồng mặc dù không tiến hành thủ tục đăng ký kết hôn nhưng đáp ứng đầy đủ điều kiện kết hôn, được Tòa án thừa nhận là trường hợp hôn nhân thực tế thì vợ chồng vẫn thuộc 41
  • 42. diện thừa kế theo pháp luật của nhau và còn là người được thừa kế tài sản của nhau không phụ thuộc vào nội dung của di chúc. Nhằm giải quyết triệt để những quan hệ vợ chồng không tuân thủ quy định của Luật HN&GĐ về đăng ký kết hôn. Khoản 1 Điều 11 Luật HN&GĐ năm 2000 đã quy định: "Nam, nữ không đăng ký kết hôn mà chung sống với nhau như vợ chồng thì không được pháp luật công nhận là vợ chồng" [33]. Tiếp đó, theo Nghị quyết số 35/2000/QH10 ngày 09/06/2000 của Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về việc thi hành Luật HN&GĐ năm 2000, hướng dẫn giải quyết các trường hợp nam nữ chung sống như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn như sau: Trong trường hợp quan hệ vợ chồng được xác lập trước ngày 03/01/1987 (ngày Luật HN&GĐ năm 1986 có hiệu lực) mà chưa đăng ký kết hôn thì được khuyến khích kết hôn, tức là việc đăng ký kết hôn không bị hạn chế về mặt thời gian và quan hệ vợ chồng được công nhận kể từ ngày bắt đầu chung sống như vợ chồng chứ không phải từ ngày đăng ký kết hôn. Nhưng nếu nam, nữ sống với nhau như vợ chồng từ ngày 03/01/1987 đến ngày 01/01/2001 mà có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật HN&GĐ năm 2000 thì có nghĩa vụ đăng ký kết hôn trong thời hạn hai năm kể từ ngày Luật HN&GĐ năm 2000 có hiệu lực cho đến ngày 01/01/2003. Từ sau ngày 01/01/2003 mà họ không đăng ký kết hôn thì pháp luật không công nhận họ là vợ chồng. Kể từ sau ngày 01/01/2003 họ mới đăng ký kết hôn thì quan hệ vợ chồng của họ được xác lập kể từ ngày họ đăng ký kết hôn. Như vậy, tùy từng trường hợp mà pháp luật công nhận hôn nhân thực tế hay không và khi đã được công nhận là hôn nhân thực tế thì giữa vợ và chồng sẽ phát sinh đầy đủ các quyền và nghĩa vụ, trong đó có quyền được hưởng thừa kế theo pháp luật của nhau. Giả thiết được đặt ra là trong trường hợp nam nữ sống chung với nhau như vợ chồng từ ngày 03/01/1987 đến ngày 01/01/2001 mà có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật HN&GĐ năm 2000 nhưng chưa đi đăng ký kết hôn và một bên chết trước trong khoảng thời gian từ sau ngày 01/01/2001 và 42
  • 43. trước ngày 01/01/2003 thì có thuộc diện thừa kế theo pháp luật của nhau hay không? Mục II.1.b của Nghị quyết số 01/2003/NQ-HĐTP ngày 06/4/2003 của Hội đồng Thẩm phán TANDTC quy định: "…cho đến trước ngày 01/01/2003 mà có một bên vợ hoặc chồng chết trước thì bên chồng hoặc vợ còn sống được hưởng di sản của bên chết để lại theo quy định của pháp luật về thừa kế" [45]. Quy định này là hoàn toàn phù hợp với thực tiễn. Nghị quyết còn quy định trường hợp sau ngày 01/01/2003 họ vẫn chưa đăng ký kết hôn mà có một bên vợ hoặc chồng chết trước và có tranh chấp về thừa kế thì trong khi chưa có quy định mới của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, tuỳ từng trường hợp mà Toà án xử lý như sau: - Nếu chưa thụ lý vụ án thì không thụ lý; - Nếu đã thụ lý vụ án và đang giải quyết thì ra quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết vụ án [45]. Có thể nhận thấy quy định này không phù hợp với các quy định tại Nghị quyết số 35/2000/QH10. Do đó, để có sự thống nhất hài hòa giữa các văn bản pháp luật, cần sửa quy định trên theo hướng ghi nhận những trường hợp sau ngày 01/01/2003 mà chưa đăng ký kết hôn, nếu một bên chết trước thì bên còn sống không thuộc diện thừa kế theo pháp luật của bên đã chết. Việc thừa nhận hôn nhân thực tế chỉ mang tính tạm thời để giải quyết thấu tình đạt lý những trường hợp do hoàn cảnh khách quan mang lại. Hiện nay, khi Luật HN&GĐ năm 2000 có hiệu lực, hôn nhân thực tế không được thừa nhận nữa. Vì vậy, việc hai bên nam, nữ chung sống như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn sẽ không làm phát sinh quan hệ vợ chồng nên không thuộc diện thừa kế theo pháp luật của nhau. Luật HN&GĐ năm 2000 quy định vợ chồng có quyền chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân để đầu tư kinh doanh riêng, thực hiện nghĩa vụ dân sự riêng,… Vậy trong trường hợp vợ chồng đã tiến hành chia tài sản chung khi hôn nhân còn tồn tại, sau đó một bên chết thì bên kia có được 43
  • 44. quyền hưởng thừa kế di sản của người đã chết không? Theo khoản 1 Điều 680 BLDS năm 2005 thì "Trong trường hợp vợ, chồng đã chia tài sản chung khi hôn nhân còn tồn tại mà sau đó một người chết thì người còn sống vẫn được thừa kế di sản" [32]. Quy định này hoàn toàn phù hợp với bản chất của quan hệ hôn nhân và phù hợp với thực tiễn đời sống bởi việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân không dẫn tới hệ quả chấm dứt quan hệ vợ chồng, do đó, vẫn phát sinh quyền thừa kế theo pháp luật giữa vợ, chồng với nhau. Theo quy định tại Khoản 2 Điều 680 BLDS năm 2005 thì quyền thừa kế của nhau giữa vợ và chồng vẫn phát sinh kể cả trong trường hợp một bên chết trước tại thời điểm mà vợ, chồng đang xin ly hôn mà chưa được hoặc đã được Tòa án cho ly hôn bằng bản án hoặc quyết định chưa có hiệu lực pháp luật. Trường hợp một bên vợ hoặc chồng chết trước, sau đó bên kia kết hôn với người khác thì vẫn được hưởng thừa kế theo pháp luật của người chồng hoặc người vợ đã chết. Đây là quy định rất tiến bộ của pháp luật hiện hành phù hợp với đời sống xã hội cũng như nếp sống văn hóa hiện nay. Hôn nhân là cơ sở của gia đình, còn gia đình là tế bào của xã hội. Đánh giá cao tầm quan trọng của quan hệ hôn nhân, Đảng và Nhà nước ta đã có những đường lối, chủ trương để phát triển và bảo vệ gia đình bền vững, thể chế hóa thành các quy phạm pháp luật để ghi nhận các quyền và nghĩa vụ của mỗi bên vợ, chồng. Pháp luật đã ghi nhận vợ chồng thuộc diện thừa kế theo pháp luật của nhau một mặt xuất phát từ quan hệ gắn bó tình cảm cùng xây dựng gia đình giữa vợ và chồng, mặt khác tạo cơ sở vật chất để người còn sống tiếp tục gánh vác, duy trì cuộc sống gia đình. 2.1.2. Quan hệ huyết thống "Cây có gốc mới nở ngành xanh ngọn. Nước có nguồn mới bể rộng nông sâu…". Quả đúng như vậy, từ trước tới nay, người Việt Nam đều rất coi trọng phong tục thờ cúng tổ tiên, việc hưởng thừa kế không chỉ đơn thuần là việc chuyển dịch tài sản từ người đã chết cho người còn sống mà còn bao hàm 44
  • 45. cả ý nghĩa tình cảm, tín ngưỡng. Thờ cúng tổ tiên là tấm lòng thành kính thể hiện đạo lý uống nước nhớ nguồn, biết ơn tổ tiên ông bà, cha mẹ đã sinh thành và gây dựng nên cuộc sống cho cháu con. Nếu như con cháu chính là sự nối tiếp trong dòng chảy của huyết thống qua các thế hệ thì sự chuyển dịch di sản theo chế định thừa kế chính là sự nối tiếp về quyền sở hữu. Chính vì lẽ đó, một người được coi là đã chết chưa hẳn đã là chấm dứt hoàn toàn các mối liên hệ mà một phần con người đó vẫn còn hiện hữu trong con cháu, trong những di sản mà người đó để lại. Do vậy, quan hệ huyết thống là cơ sở quan trọng, cơ bản quy định diện thừa kế theo pháp luật. Quan hệ huyết thống là quan hệ giữa những người có cùng dòng máu về trực hệ hoặc bàng hệ được xác định thông qua sự kiện sinh đẻ. Trong xã hội phong kiến với nền kinh tế nông nghiệp còn nghèo nàn, lạc hậu, chủ yếu là sản xuất nông nghiệp, tự cung tự cấp là chính nên cần nhiều nhân công cùng hợp tác sản xuất. Tập quán nhiều thế hệ chung sống dưới một mái nhà đã hình thành từ đó để đáp ứng nhu cầu sản xuất và tiêu dùng. Bên cạnh đó, trong xã hội phong kiến, tài sản của cá nhân chủ yếu là đất đai, do đó, thừa kế di sản trong thời kỳ này được xem như một phương tiện để duy trì, bảo vệ và phát triển khối tài sản cho những người có cùng quan hệ huyết thống. Đến thời kỳ thực dân đô hộ, diện thừa kế theo pháp luật dựa trên cơ sở quan hệ huyết thống vẫn giữ nguyên vị trí quan trọng hàng đầu. Theo đó, các con đẻ, con nuôi, các cháu, cha mẹ, ông bà nội, các cụ nội, anh chị em ruột của người để lại di sản là những người thuộc diện thừa kế đầu tiên và di sản chỉ thuộc về bên họ ngoại khi không còn thân thuộc bên họ nội. Ngay sau khi giành được độc lập, Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản trong đó có quy định về vấn đề thừa kế. Theo đó, trong những năm đầu dưới chế độ mới, diện thừa kế được xác định trên hai cơ sở là quan hệ huyết thống và quan hệ hôn nhân. Tuy nhiên, đối tượng thuộc diện thừa kế theo quan hệ huyết thống ban đầu được quy định khá hẹp. Căn cứ theo quy định tại 45
  • 46. Sắc lệnh số 97/SL thì diện thừa kế xét theo quan hệ huyết thống chỉ có con, cháu. Đến Thông tư 1742 - BNC, diện thừa kế theo quan hệ huyết thống được mở rộng, bao gồm các con đẻ, cháu chắt, cha mẹ của người để lại di sản. Tiếp đó, tại Thông tư số 594-NCPL ngày 27/8/1968 của TANDTC, diện thừa kế xét theo quan hệ huyết thống tiếp tục được mở rộng, bao gồm con đẻ, bố mẹ đẻ, ông bà nội ngoại, anh chị em ruột. Đến Thông tư số 81 đã quy định cụ thể, mở rộng hơn nữa những người thuộc diện thừa kế theo pháp luật trong đó bao gồm cả những người có quan hệ huyết thống trực hệ và bàng hệ với người để lại di sản. Phạm vi những người thừa kế di sản được xác định từ quan hệ huyết thống trực hệ bao gồm cha mẹ đẻ, ông bà nội ngoại, các con đẻ, các cháu nội ngoại của người chết. Phạm vi những người thừa kế di sản được xác định từ quan hệ huyết thống bàng hệ bao gồm anh chị em ruột. Pháp lệnh thừa kế ngày 30/08/1990 ra đời trên cơ sở kế thừa các quy định trước đó và bổ sung những quy định mới để phù hợp với tình hình xã hội lúc bấy giờ. Theo đó, ngoài những đối tượng được quy định tại Thông tư số 81, diện thừa kế theo quan hệ huyết thống còn bao gồm những người thuộc quan hệ huyết thống trực hệ và bàng hệ khác đó là cụ nội, ngoại, chú, bác, cô, dì, cậu ruột của người để lại di sản và những người mà người để lại di sản là cô, dì, chú, bác, cậu ruột. Trong tiến trình đổi mới, Nhà nước ta đã ban hành BLDS đầu tiên vào năm 1995 và có hiệu lực ngày 01/7/1996. Đây là là kết quả của quá trình pháp điển hóa luật dân sự Việt Nam trong suốt hơn 50 năm. BLDS năm 1995 ra đời đã đánh dấu bước ngoặt lớn, lần đầu tiên các quy định về diện thừa kế nói chung và diện thừa kế theo quan hệ huyết thống nói riêng được ghi nhận trong văn bản có hiệu lực pháp lý cao chỉ sau Hiến pháp. Những quy định về xác định phạm vi diện thừa kế dựa trên quan hệ huyết thống không có sự thay đổi so với Pháp lệnh thừa kế năm 1990. Tuy nhiên, sau 10 năm áp dụng, có những quy định của BLDS năm 1995 đã không còn thích hợp, một số điều khoản đã không phát huy được tác dụng tích cực trong việc điều chỉnh các 46