Download luận văn thạc sĩ ngành luật kinh tế với đề tài: Giao rừng cho cá nhân, hộ gia đình theo pháp luật bảo vệ và phát triển rừng ở Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam, cho các bạn làm luận văn tham khảo
Luận văn: Giao rừng cho cá nhân, hộ gia đình theo pháp luật, 9đ
1. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGÔ VINH
GIAO RỪNG CHO CÁ NHÂN, HỘ GIA ĐÌNH
THEO PHÁP LUẬT BẢO VỆ VÀ PHÁT TRIỂN
RỪNG Ở VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN
TỈNH QUẢNG NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI, năm 2019
2. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGÔ VINH
GIAO RỪNG CHO CÁ NHÂN, HỘ GIA ĐÌNH
THEO PHÁP LUẬT BẢO VỆ VÀ PHÁT TRIỂN
RỪNG Ở VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN
TỈNH QUẢNG NAM
Chuyên ngành : Luật Kinh tế
Mã số : 8 38 01 07
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. NGUYỄN VĂN PHƯƠNG
HÀ NỘI, năm 2019
3. LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
số liệu, kết quả nêu trong Luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng và
được trích dẫn đầy đủ theo quy định.
Vậy tôi viết lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật – Học viện Khoa học
xã hội xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn./.
Tác giả
Ngô Vinh
4. MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT GIAO
RỪNG CHO CÁ NHÂN, HỘ GIA ĐÌNH..................................................... 8
1.1. Sự cần thiết giao rừng cho cá nhân, hộ gia đình........................................ 8
1.2. Khái niệm, đặc trưng và vai trò của pháp luật về giao rừng cho cá nhân,
hộ gia đình theo luật bảo vệ và phát triển rừng............................................... 12
1.3. Khung pháp luật về giao rừng cho cá nhân, hộ gia đình theo pháp luật bảo
vệ và phát triển rừng........................................................................................ 15
1.4. Yếu tố tác động đến việc giao rừng cho cá nhân, hộ gia đình theo pháp
luật bảo vệ và phát triển rừng.......................................................................... 17
1.5. Phương thức quản lý việc giao rừng cho cá nhân, hộ gia đình theo pháp
luật bảo vệ và phát triển rừng.......................................................................... 20
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN ÁP
DỤNG PHÁP LUẬT VỀ GIAO RỪNG CHO CÁ NHÂN, HỘ GIA
ĐÌNH TẠI TỈNH QUẢNG NAM ............................................................... 23
2.1. Thực trạng pháp luật về giao rừng cho cá nhân, hộ gia đình................... 23
2.2. Thực tiễn áp dụng pháp luật giao rừng cho cá nhân, hộ gia đình tại tỉnh
Quảng Nam ..................................................................................................... 34
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ GIAO
RỪNG CHO CÁ NHÂN, HỘ GIA ĐÌNH VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ
THỰC THI TẠI TỈNH QUẢNG NAM....................................................... 63
3.1. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về giao rừng cho cá nhân, hộ gia đình... 63
3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả về giao rừng cho cá nhân, hộ gia đình trên
địa bàn tỉnh Quảng Nam ................................................................................. 67
KẾT LUẬN.................................................................................................... 76
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
5. DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
STT Từ viết tắt Nghĩa đầy đủ
1 KCN Khu công nghiệp
2 UBND Ủy ban nhân dân
3 NN&PTNT Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
4 TN&MT Tài nguyên và Môi trường
5 HĐND Hội đồng nhân dân
6. DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu
bảng
Tên bảng Trang
2.1 Diện tích rừng tỉnh Quảng Nam giai đoạn 2014 – 2018 39
2.2
Phạm vi các quyền của hộ đối với 3 loại rừng theo cơ chế
giao và khoán
44
7. DANH MỤC CÁC HÌNH
Số hiệu
hình
Tên hình Trang
2.1 Cơ cấu giao rừng cho các chủ thể 40
2.2 Sơ đồ mục tiêu giao rừng cho hộ gia đình, cá nhân 42
8. 1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm gần đây, tình trạng khai thác tài nguyên thiên nhiên
bừa bãi, trái pháp luật luôn là vấn đề bức xúc trong đời sống Nhân dân trên cả
nước nói chung, trên địa bàn tỉnh Quảng Nam nói riêng, trong đó việc khai
thác lâm sản, phá rừng, lấn rừng làm nương rẫy vẫn còn là hồi chuông kéo dài
chưa dứt. Từ đó tạo ra nhiều thách thức và tác động không ít đến sự phát triển
kinh tế, văn hóa, xã hội, ảnh hưởng môi trường, gây biến đổi khí hậu, hạn
hán, lũ lụt xảy ra thất thường làm xói lỡ đất nông nghiệp, làm diện tích đất
sản xuất ngày giảm đáng kể, người dân đã khó khăn lại càng khó khăn hơn.
Đối với những hộ nông dân của các xã miền núi tỉnh Quảng Nam thì đất rừng
là nguồn sống, nguồn việc làm, là địa bàn gắn bó cả cuộc đời của người dân.
Đối với doanh nghiệp thì đất rừng là cơ sở để họ thực hiện mục tiêu kinh doanh
thu lợi nhuận và góp phần xây dựng đất nước. Do vậy, tình trạng lấn chiến đất
rừng, khai thác lâm sản trái phép và phá rừng một cách tùy tiện vẫn còn xảy ra
và diễn biến khá phức tạp, nhiều khu rừng tự nhiên, rừng phòng hộ bị lấn dần
làm thu nhỏ diện tích. Đây cũng là nguyên nhân cơ bản để xảy ra những thiên
tai mà chúng ta phải gánh chịu. Bởi vậy, để sử dụng tài nguyên rừng một cách
bền vững và hợp lý, thì việc thực hiện pháp luật bảo vệ và phát triển rừng
không chỉ trách nhiệm của các cấp, các ngành mà là của toàn xã hội.
Giao rừng cho cá nhân, hộ gia đình là một chủ trương lớn của Đảng và
Nhà nước, nhằm phân chia trách nhiệm, phân quyền quản lý theo pháp luật bảo
vệ và phát triển rừng. Quá trình giao rừng cho cá nhân, hộ gia đình là phát huy
trong việc quản lý, bảo vệ và phát triển rừng, đất được giao cho các hộ gia đình
và cá nhân đã phát huy được hiệu quả trong việc cải thiện sinh kế cho hộ, góp
phần nâng cao độ che phủ rừng, thông qua việc mở rộng diện tích rừng trồng.
9. 2
Những năm qua tỉnh Quảng Nam đã thực hiện giao rừng cho cá nhân,
hộ gia đình bằng nhiều chương trình, dự án như: Chương trình 327; Dự án
bảo vệ và quản lý tổng hợp các hệ sinh thái rừng KFW do Chính phủ Cộng
hoà Liên Bang Đức, thông qua Ngân hàng Tái thiết Đức tài trợ với tổng diện
tích là 4.900 ha;Giao khoán cho ban quản lý rừng tại Khu Bảo tồn thiên nhiên
Ngọc Linh, Khu bảo tồn loài và sinh cảnh Voi và Khu Bảo tồn thiên nhiên
Sông Thanh thành Vườn Quốc gia [64]. Thông qua các chương trình, dự án
người dân được hưởng nhiều cơ chế, chính sách tạo điều kiện trong việc chăm
sóc, quản lý bảo vệ rừng theo tổ nhóm hộ, từng bước gắn kết mối quan hệ
giữa người dân, với chủ rừng và các cơ quan chức năng quản lý được kịp thời.
Từ đó, người dân hạn chế việc phát rừng làm nương rẫy, lấy củi, đốt than, đặc
biệt là ngăn chặn được tình trạng tự thỏa thuận để cho lâm tặc khai thác gỗ
trái phép.Song, diện tích rừng hầu hết tập trung ở các huyện, xã miền núi, đời
sống nhân dân ở đây còn gặp nhiều khó khăn, trình độ văn hóa thấp, nhận
thức của người dân về pháp luật bảo vệ và phát triển rừng còn nhiều hạn chế,
mà nhất là người đồng bào dân tộc thiểu số, nên một số hộ nhân dân chiếm
đất lâm nghiệp để trồng nông sản, hoặc trồng rừng để phát triển kinh tế. Bên
cạnh đó, diện tích rừng rộng đến hàng trăm, hàng nghìn km, điều kiện đi lại
chia cắt bởi sông, suối gặp nhiều khó khăn, đối tượng khai thác lâm sản trái
phép ngày càng tinh vi, xảo nguyệt, dẫn đến hiện tượng khai thác, mua bán,
vận chuyển lâm sản trái phép còn xảy ra, chưa ngăn chặn triệt để.
Xuất phát từ thực tiễn nêu trên và bản thân mong muốn nghiên cứu để
tìm hiểu, đánh giá đúng thực trạng về pháp luật bảo vệ và phát triển rừng
trong hoạt động giao rừng cho cá nhân, hộ gia đình là cần thiết. Đó là lý do
tác giả chọn đề tài “Giao rừng cho cá nhân, hộ gia đình theo pháp luật bảo
vệ và phát triển rừng ở Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam” để nghiên
cứu luận văn tốt nghiệp thạc sĩ chuyên ngành luật kinh tế.
10. 3
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Việc giao rừng cho cá nhân, hộ gia đình là một trong những chế định
quan trọng của pháp luật bảo vệ và phát triển rừng, việc giao rừng đã triển
khai từ nhiều năm trước, và đang được dư luận xã hội, cũng như các cấp, các
ngành luôn quan tâm, chú trọng, các tạp chí, báo, nhiều đề tài khoa học cũng
đã nghiên cứu việc giao rừng cho cá nhân, hộ gia đình theo pháp luật bảo vệ
và phát triển rừng dưới nhiều góc độ, khía cạnh khác nhau như: Luận án tiến
sĩ năm 2006 của tác giả Hà Công Tuấn với đề tài “Quản lý nhà nước bằng
pháp luật trong lĩnh vực bảo vệ rừng”; Luận án năm 2012 của tác giả Nguyễn
Thanh Huyền với đề tài “Hoàn thiện pháp luật về quản lý và bảo vệ tài
nguyên rừng ở Việt Nam hiện nay”; Luận văn Tiến sỹ năm 2013 của tác giả
Nguyễn Thị Mỹ Vân với đề tài “Chính sách quản lý rừng và sinh kế bền vững
cho cộng đồng các dân tộc thiểu số vùng núi tỉnh Thừa Thiên Huế”; Luận văn
năm 2014 của tác giả Phạm Thị Thủy với đề tài “Pháp luật về bảo vệ tài
nguyên rừng ở Việt Nam”;Luận văn năm 2017 của tác giả Nguyễn Văn
Quảng với đề tài “Giao khoán đất rừng theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn
tỉnh Lạng Sơn”.
Qua tham khảo các công trình nghiên cứu của nhiều tác giả, mỗi công
trình nghiên cứu chỉ ở một khía cạnh, hoặc chỉ đề cập đến những vấn đề có
liên quan đến pháp luật. Về định hướng, cũng như giải pháp các tác giả đưa ra
nhằm hoàn thiện pháp luật về bảo vệ và phát triển rừng, giải quyết những tồn
tại, hạn chế, và đưa ra cơ chế, chính sách nhằm thu hút các thành phần tham
gia. Bản thân nhận thấy vấn đề giao rừng cho cá nhân, hộ gia đình trong thực
tiễn còn nhiều phức tạp. Trong khi đó Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều
cơ chế ưu đãi để người dân ở niềm núi tập trung phát triển kinh tế rừng, quản
lý rừng, bảo vệ môi trường rừng ngay sau khi Luật đất đai năm 2013 có hiệu
lực, hơn lúc nào cần có một công trình nghiên cứu về giao rừng cho cá nhân,
11. 4
hộ gia đình theo pháp luật bảo vệ và phát triển rừng để phát triển rừng trong
thời gian đến là hết sức cần thiết. Vì vậy, tác giả nghiên cứu luận văn để tìm
giải pháp và đưa ra định hướng để giải quyết vấn đề giao rừng cho cá nhân,
hộ gia đình theo pháp luật bảo vệ và phát triển rừng ở Việt Nam, một cách
toàn diện.
Việc chọn đề tài “Giao rừng cho cá nhân, hộ gia đình theo pháp luật
bảo vệ và phát triển rừng ở Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam” để
nghiên cứu để bảo vệ luận văn không trùng lặp các công trình đã nghiên cứu,
và là có ý nghĩa lý luận thực tiễn tại địa phương.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu những vấn đề về lý luận và thực tiễn về giao rừng cho cá
nhân, hộ gia đình trên địa bàn tỉnh Quảng Nam để làm sáng tỏ đề tài. Trên cơ
sở nghiên cứu, đề xuất định hướng, các giải pháp hoàn thiện và nâng cao hiệu
quả thực hiện pháp luật bảo vệ và phát triển rừng về giao rừng cho cá nhân,
hộ gia đình.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Theo yêu cầu của luận văn, nhiệm vụ nghiên cứu cần đạt được các mục
đích trên theo các nhiệm vụ cụ thể sau:
Phân tích khái niệm, đặc điểm, vai trò của pháp luật bảo vệ và phát
triển rừng, về việc giao rừng cho cá nhân, hộ gia đình.
Hệ thống các cơ sở pháp lý, nghiên cứu cơ cấu và cơ chế bảo đảmviệc
giao rừng cho cá nhân, hộ gia đình theo pháp luật Việt Nam.
Đánh giá việc thực hiện pháp luậtluật bảo vệ và phát triển rừng, về việc
giao rừng cho cá nhân, hộ gia đình trên địa bàn tỉnh Quảng Nam để làm rỏ kết
quả đạt được và những nguyên nhân tồn tại, hạn chế. Từ đó, định hình những
phương hướng và đưa ra một số giải pháp nâng cao hiệu quả trong thực hiện
12. 5
pháp luật về giao rừng cho cá nhân, hộ gia đình trên địa bàn tỉnh Quảng Nam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luật bảo vệ và phát triển rừng năm 2004, Luật Lâm nghiệp năm 2017
và các qui định hướng dẫn thi hành; Các quan điểm của Đảng, chính sách
pháp luật của Nhà nước về bảo vệ và phát triển rừng về giao rừng cho cá
nhân, hộ gia đình; Việc thực hiện các quy định giao rừng cho cá nhân, hộ gia
đình từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Giao rừng cho cá nhân, hộ gia đình trên địa bàn tỉnh Quảng Nam là một
đề tài có phạm vi nghiên cứu khá rộng, nhiều thành phần, đối tượng khác nhau.
Trong phạm vi, khuôn khổ của một luận văn thạc sĩ có hạn, tác giả tập trung
nghiên cứu những vấn đề cơ bản liên quan trong địa bàn tỉnh, thông qua việc
tham khảo và đánh giá một phần nhỏ nội dung của Luật bảo vệ và phát triển
rừng năm 2004, Luật đất đai năm 2013 và Luật Lâm nghiệp năm 2017. Đồng
thời, nghiên cứu các nội dung liên quan đến giao rừng của tỉnh Quảng Nam
trong thời gian qua.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Luận văn được nghiên cứu các vấn đề trên cơ sở phương pháp luận,
đường lối quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước trong
điều kiện nền kinh tế nước ta đang trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế.
Đồng thời, đánh giá vấn đề áp dụng pháp luật bảo vệ và phát triển rừng trong
việc giao rừng cho cá nhân, hộ gia đình để có cơ sở điều chỉnh.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu lý luận, thu thập thông tin: Thông tin được
thu thập ở số liệu báo cáo trên địa bàn tỉnh Quảng Nam với điều kiện, tình
13. 6
hình thực tế của tỉnh từ các sở, ban, ngành của tỉnh và huyện Đại Lộc có nội dung
liên quan đến luận văn.
Phương pháp phân tích, tổng hợp: Phân tích, tổng hợp các qui định của
pháp luật bảo vệ và phát triển rừngvề việc giao rừng cho cá nhân, hộ gia đình
và các thông tin thực tiễn trên địa bàn liên quan đến đề tài nghiên cứu.
Phương pháp thống kê: Thực hiện xử lý số liệu, tài liệu thu thập thực
tiễn, nhằm lấy các thông tin được chọn lọc để đưa vào đánh giá, nhận xét của
Luận văn một cách chính xác nhất.
Bên cạnh đó Luận văn còn áp dụng các phương pháp để nghiên cứu
như: Phương pháp logic; phương pháp so sánh; phương pháp quy nạp;
phương pháp diễn dịch để làm rõ thêm một số chi tiết của nội dung Luận văn.
6. Ý nghĩa lý luận thực tiễn của đề tài
6.1. Ý nghĩa lý luận
Trên cơ sở hệ thống lý luận của pháp luật bảo vệ và phát triển rừng
trong luận văn đã được tổng hợp, bổ sung, tác giả làm rõ hơn cơ chế điều
chỉnh của pháp luật về việc giao rừng cho cá nhân, hộ gia đình trên địa bàn
tỉnh Quảng Nam.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Trong luận văn được đánh giá thực trạng việc áp dụng pháp luật bảo vệ
và phát triển rừng bằng hình thức giao rừng cho cá nhân, hộ gia đình thể hiện
tính đúng đắn và đưa ra định hướng để hoàn thiện pháp luật, đồng thời luận
văn còn có ý nghĩa làm tài liệu tham khảo lý luận,nghiên cứu, học tập, giảng
dạy. Những kiến nghị, đề xuất của luận văn góp phần cung cấp các luận cứ
khoa học về pháp luật bảo vệ và phát triển rừng cho các nghiên cứu về luật học ở
Việt Nam trong thời gian đến.
7. Cơ cấu về luận văn
Luận văn có các nội dung ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục và
14. 7
danh mục tài liệu tham khảo, được kết cấu như sau:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về pháp luật giao rừng cho cá nhân,
hộ gia đình.
Chương 2: Thực trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật về giao
rừng cho cá nhân, hộ gia đình tại tỉnh Quảng Nam.
Chương 3:Giải pháp hoàn thiện pháp luật về giao rừng cho cá nhân, hộ
gia đình và nâng cao hiệu quả thực thi tại tỉnh Quảng Nam.
15. 8
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT GIAO RỪNG
CHO CÁ NHÂN, HỘ GIA ĐÌNH
1.1. Sự cần thiết giao rừng cho cá nhân, hộ gia đình
Chỉ thị số 15CT/CTCW được Ban Bí thư Trung ương Đảng ban hành
ngày 10/3/1961 xác định: “Rừng là tài sản của toàn dân, phải do nhà nước
thống nhất quản lý”[5]. Khi đó, Nhà nước tập trung quản lý tài nguyên rừng
thông qua hệ thống các lâm trường quốc doanh. Các lâm trường nhận kinh phí
từ ngân sách quốc gia để thực hiện nhiệm vụ khai thác và trồng rừng theo các
chỉ tiêu kế hoạch chi tiết do trung ương ban hành.Năm 1991, Bộ Lâm nghiệp
công bố Báo cáo Tổng quan Lâm nghiệp Việt Nam với đề xuất chuyển lâm
nghiệp “từ một ngành kinh tế chỉ có nhà nước và tập thể được kinh doanh
rừng sang một nền lâm nghiệp xã hội với sự tham gia của các thành phần
kinh tế và nhiều lực lượng xã hội”; và “từ một ngành kinh tế có nhiệm vụ khai
thác tài nguyên tự nhiên là chính trở thành một ngành kinh tế có nhiệm vụ cơ
bản là xây dựng vốn rừng, sản xuất lâm sản” [5].
Xã hội hóa lâm nghiệp theo nghĩa chung nhất là quá trình huy động sự
tham gia và đóng góp của các thành phần kinh tế và các lực lượng xã hội vào
nghề rừng. Mặc dù khái niệm này xuất hiện và trở nên phổ biến trong thập
niên 1990, song từ trước đó, ý tưởng về sự tham gia của các lực lượng xã hội
vào lâm nghiệp đã được Pháp lệnh bảo vệ rừng năm 1972 đề cập khi xác định:
“Việc bảo vệ rừng phải do nhà nước và toàn dân cùng làm”[30]. Tuy nhiên,
vai trò của người dân tham gia vào hoạt động lâm nghiệp thời kỳ này còn rất
hạn chế, chủ yếu là lao động thời vụ cho các lâm trường quốc doanh. Vào
những năm 80, tài nguyên rừng mặc dù là tài sản công hữu và được nhà nước
tập trung quản lý vẫn bị tàn phá nghiêm trọng. Tình trạng hầu như “vô chủ”
16. 9
tài nguyên rừng đặt ra cho ngành lâm nghiệp trước hết đòi hỏi cấp bách phải
xác định chủ thể quản lý rừng cụ thể. Giao rừng và đất rừng được xác định là
giải pháp chính sách cho sự chuyển biến cơ bản trong công tác quản lý bảo vệ
rừng: “Rừng và đất rừng là tài sản quốc gia thuộc sở hữu toàn dân, nhưng
cần được giao cho từng Liên hiệp lâm công nghiệp, lâm trường, nông trường,
hợp tác xã, từng hộ nông dân và các tổ chức kinh tế-xã hội khác quản lý kinh
doanh theo quy hoạch, kế hoạch và pháp luật của nhà nước” [31].
Công cuộc đổi mới về kinh tế và xã hội từ năm 1986 đã cung cấp
những tiền đề quan trọng cho xã hội hóa lâm nghiệp. Việc chuyển từ một nền
kinh tế nhà nước kế hoạch hóa tập trung sang một nền kinh tế theo định
hướng thị trường đã giải phóng lực lượng sản xuất ngành nông nghiệp vốn
dựa trên các nông trường quốc doanh và hợp tác xã. Sự ra đời của Luật Đất
đai năm 1993 cùng với việc tự do thông thương các sản phẩm nông nghiệp đã
thúc đẩy quá trình giao đất nông nghiệp và lâm nghiệp cho các cá thể, hộ gia
đình và tổ chức. Chính sách mở cửa của Việt Nam đối với thế giới cũng tạo
điều kiện cho ngành lâm nghiệp phát triển hợp tác quốc tế, qua đó các khái
niệm về phân cấp, phân quyền trong lâm nghiệp, quản trị, đa dạng sinh học và
quản lý rừng bền vững được du nhập vào Việt Nam.
Với những tiền đề quan trọng này, Báo cáo Tổng quan Lâm nghiệp
Việt Nam năm 1991 đã đề xuất chuyển đổi lâm nghiệp Việt Nam từ lâm
nghiệp nhà nước sang lâm nghiệp xã hội với sự tham gia của các thành phần
kinh tế vào nghề rừng. Luật Bảo vệ và Phát triển rừng năm 1991 cũng thể chế
hóa bước chuyển biến này khi xác định: “Nhà nước giao rừng, đất trồng rừng
cho tổ chức, cá nhân - dưới đây gọi là chủ rừng - để bảo vệ, phát triển và sử
dụng rừng ổn định, lâu dài theo quy hoạch, kế hoạch của Nhà nước”[35]. Sau
hàng thập kỷ của lâm nghiệp nhà nước, đây là luật lâm nghiệp đầu tiên của
Việt Nam công nhận danh hiệu chủ rừng đối với các đối tượng được giao
17. 10
rừng và đất rừng, bao gồm cả thành phần ngoài quốc doanh.
Chính sách mở cửa của công cuộc đổi mới tạo điều thuận lợi trong việc
triển khai các dự án lâm nghiệp hợp tác với nước ngoài và sự du nhập các
khái niệm lâm nghiệp quốc tế như quản lý rừng bền vững. Đề xuất chuyển
nền sản xuất lâm nghiệp dựa trên khai thác gỗ sang bảo vệ vốn rừng của Tổng
cục Lâm nghiệp Việt Nam (1991) và việc thể chế hóa hệ thống phân loại 3
loại rừng (đặc dụng, phòng hộ và sản xuất) của Luật BVPTR năm 1991 đã đặt
cơ sở bước đầu cho quản lý rừng bền vững trong cải cách lâm nghiệp quốc
gia.Sự xuất hiện và phổ biến của hai khái niệm xã hội hóa lâm nghiệp và quản
lý rừng bền vững đánh dấu bước chuyển biến quan trọng của lâm nghiệp Việt
Nam dưới thời kỳ đổi mới. Quá trình phát triển và thể chế hóa nội dung của
hai khái niệm này trong các văn bản pháp lý lâm nghiệp phản ánh các thay đổi
căn bản của chính sách nghề rừng đối với chủ thể quản lý rừng và công tác
bảo vệ và phát triển tài nguyên rừng.
Trong khi Pháp lệnh bảo vệ rừng năm 1972 chỉ khái quát chung sự
tham gia của toàn dân vào công tác bảo vệ rừng, Luật BVPTR năm 1991 xác
định chính sách giao, khoán rừng và đất rừng cho các cá nhân, tổ chức là giải
pháp chính của xã hội hóa lâm nghiệp và thể chế hóa danh hiệu chủ rừng với
các đối tượng được giao rừng và đất rừng trong nỗ lực đảm bảo mỗi khu rừng
đều có chủ cụ thể. Tuy nhiên, danh hiệu chủ rừng với các quyền và lợi ích hạn
chế đã khơi dậy vấn đề quyền sử dụng và sở hữu rừng. Luật BVPTR năm
2004 đã cho thấy bước phát triển mới của xã hội hóa lâm nghiệp khi công
nhận quyền sở hữu rừng của chủ rừng sản xuất là rừng trồng. Nhìn chung,
quyền và lợi ích của các chủ rừng đặc dụng, phòng hộ và rừng sản xuất là
rừng tự nhiên vẫn còn hạn chế [30].
Luật Lâm nghiệp năm 2017 đã đề xuất một số giải pháp cho các bất cập
của xã hội hóa lâm nghiệp và quản lý rừng bền vững thời gian qua. Việc phân
18. 11
biệt các hình thức sở hữu rừng (rừng thuộc sở hữu toàn dân, rừng thuộc sở
hữu riêng, và rừng thuộc sở hữu chung) giúp xác định một cách phù hợp
quyền và nghĩa vụ liên quan của các tổ chức và cá nhân được giao rừng và đất
rừng. Nỗ lực cân bằng các mặt môi trường, kinh tế và xã hội của quản lý rừng
bền vững được nhấn mạnh qua các quy định tận thu lâm sản và khai thác lâm
sản bền vững; khuyến khích nâng cao giá trị gia tăng trong chuỗi giá trị lâm
nghiệp; gắn bảo vệ rừng, bảo tồn đa dạng sinh học rừng với nâng cao giá trị
dịch vụ môi trường rừng, ứng phó với biến đổi khí hậu, đồng thời góp phần
đảm bảo an ninh môi trường, xóa đói giảm nghèo, phát triển kinh tế- xã hội
vùng miền núi [39].
Có thể khẳng định rằng, giao đất, giao rừng là một trong những chủ
trương trọng tâm Nhà nước nhằm xã hội hóa công tác bảo vệ rừng, góp phần
xóa đói giảm nghèo, phát triển kinh tế xã hội một cách bền vững. Chủ trương
này giúp cho các tổ chức, cộng đồng dân cư và các hộ gia đình, cá nhân ở
những địa phương có nhiều quỹ đất lâm nghiệp và rừng có được cơ hội để
nhận đất và rừng nhằm quản lý, bảo vệ và sản xuất. Việc này góp phần nâng
cao thu nhập cho cộng đồng, sử dụng hiệu quả hơn quỹ đất lâm nghiệp cũng
như nâng cao chất lượng công tác bảo vệ rừng của các địa phương tham gia
thực hiện chính sách này.Với phương châm làm cho mỗi cánh rừng đều có
chủ, xóa đói giảm nghèo cho người dân miền núi và người dân có thể sống
được từ rừng, nhiều chính sách đã được Nhà nước ban hành. Trong đó, chính
sách giao đất giao rừng cho các chủ thể khác nhau để cùng bảo vệ, hưởng lợi
đã được thực hiện hơn 30 năm qua.Từ chính sách đúng đắn đó, Nhà nước đã
huy động được rất nhiều chủ thể trong xã hội tham gia bảo vệ và phát triển
rừng, đặc biệt và hiệu quả nhất là sự tham gia của những người dân miền núi
đang sống gần rừng và phụ thuộc vào rừng.Chính sách giao đất, giao rừng
cũng phát huy được hiệu quả trong công tác bảo vệ rừng, hạn chế được tình
19. 12
trạng suy giảm diện tích rừng và tăng chất lượng rừng.
Cùng với đó, Nhà nước cũng đã huy động được một nguồn lực tài
chính rất lớn để hỗ trợ người dân quản lý bảo vệ rừng thông qua chính sách
chi trả dịch vụ môi trường rừng. Chính sách này đã tạo một nguồn động lực
giúp người dân tăng cường thực hiện công tác bảo vệ rừng tự nhiên sau nhiều
năm nhận rừng.Việc giao đất, giao rừng và công nhận quyền hợp pháp lâu dài
đã tạo tâm lý ổn định cho người nhận, tạo động lực cho cộng đồng và hộ gia
đình huy động nguồn lực vào bảo vệ và phát triển rừng.
Nếu như trước đây, công tác bảo vệ rừng ở các địa phương gặp rất
nhiều khó khăn thì từ khi thực hiện chính sách giao đất, giao rừng cho cộng
đồng dân cư và hộ gia đình thì người dân ngày càng tham gia nhiều vào công
tác bảo vệ và phát triển vốn rừng, nhiều cộng đồng nhận khoán đã xây dựng
hương ước bảo vệ rừng, đời sống của người dân trong thôn, xóm được cải
thiện, người dân rất tích cực trồng, chăm sóc và bảo vệ rừng. Thông qua việc
khoán rừng, đã góp phần nâng cao ý thức cho người dân trong công tác bảo vệ
rừng, bên cạnh đó góp phần tăng thu nhập tạo động lực cho người dân gắn bó
bảo vệ rừng, từng bước thay đổi nhận thức của nhân dân về vai trò và tác dụng
của rừng, nâng tỷ lệ che phủ rừng, cải thiện môi trường sống trên địa bàn.
1.2. Khái niệm, đặc trưng và vai trò của pháp luật về giao rừng cho
cá nhân, hộ gia đình theo luật bảo vệ và phát triển rừng
1.2.1. Khái niệm, đặc trưng của pháp luật về giao rừng cho cá nhân,
hộ gia đình theo pháp luật bảo vệ và phát triển rừng
Pháp luật về giao rừng cho cá nhân, hộ gia đình là một bộ phận của
pháp luật bảo vệ và phát triển rừng được xây dựng dựa trên góp ý các bên liên
quan để góp phần bảo vệ và phát triển rừng nói chung và nâng cao chất lượng
rừng thuộc đối tượng sản xuất nói riêng thông qua việc đảm bảo các quyền và
nghĩa vụ, lợi ích của các chủ rừng là cá nhân, hộ gia đình.
20. 13
Từ những phân tích trên có thể đi tới khái niệm pháp luật về giao rừng
cho cá nhân, hộ gia đình như sau: “Pháp luật về giao rừng cho cá nhân, hộ gia
đình là một lĩnh vực pháp luật bao gồm tổng thể các quy phạm pháp luật do
các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành nhằm điều chỉnh các quan hệ
xã hội phát sinh trong quá trình giao rừng cho cá nhân, hộ gia đình có liên
quan đến hoạt động bảo vệ rừng và phát triển rừng”.
Pháp luật về giao rừng cho cá nhân, hộ gia đình là một bộ phận trong
hệ thống pháp luật Việt Nam có một số đăc điểm cơ bản sau:
Thứ nhất, pháp luật về giao rừng cho cá nhân, hộ gia đình điều chỉnh
các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực giao rừng cho cá nhân, hộ gia
đình.
Pháp luật về giao rừng cho cá nhân, hộ gia đình là một hệ thống các
quy phạm pháp luật được sử dụng để điều chỉnh các mối quan hệ xã hội, các
vấn đề phát sinh liên quan đến mối quan hệ trong giao rừng chỉ đơn thuần là
việc các cơ quan quản lý nhà nước giao rừng cho cá nhân, hộ gia đình, chống
các hành vi vi phạm pháp luật liên quan đến vấn đề này. Các quy phạm pháp
luật bao gồm các quy định về địa vị pháp lý của các chủ thể tham gia vào
quan hệ pháp luật giao rừng; quy định về trách nhiệm, quyền lợi của các bên
giao rừng; quy định về thanh tra, kiểm tra trong công tác bảo vệ và phát triển
rừng và vấn đề giải quyết tranh chấp, xử lý vi phạm pháp luật về giao rừng
cho cá nhân, hộ gia đình.
Thứ hai, pháp luật về giao rừng cho cá nhân, hộ gia đình là công cụ
quản lý nhà nước trong lĩnh vực bảo vệ và phát triển rừng.
Trong hệ thống các công cụ và biện pháp Nhà nước sử dụng để bảo vệ
và phát triển rừng thì chính sách giao rừng là phương pháp, công cụ hữu hiệu
và không thể thiếu được trong lĩnh vực bảo vệ và phát triển rừng.
Có thể nói, các quy định về giao rừng cho cá nhân, hộ gia đình được
21. 14
ban hành phù hợp với thực tiễn, mang lại quyền và lợi ích chính đáng cho
người dân thì được họ đồng tình ủng hộ, việc bảo vệ và phát triển rừng được
thực hiện có hiệu quả cao. Ngược lại, các quy định về giao rừng cho cá nhân,
hộ gia đình không phù hợp với thực tế, không mang lại quyền lợi đích thực
cho người dân thì sẽ không nhận được sự đồng thuận, phát sinh các tranh
chấp, nạn phá rừng, lấn chiếm đất xảy ra, tiềm ẩn nguy cơ mất ổn định chính
trị - xã hội; hậu quả là công tác bảo vệ và phát triển rừng gặp nhiều khó khăn,
phức tạp.
1.2.2. Vai trò của pháp luật về giao rừng cho cá nhân, hộ gia đình
theo luật bảo vệ và phát triển rừng
Thứ nhất,pháp luật là cơ sở pháp lý cho hoạt động giao rừng cho cá
nhân, hộ gia đình. Tất cả các hoạt động bảo vệ và phát triển rừng thông qua
hoạt động giao rừng cho cá nhân, hộ gia đình phải dựa trên các quy định của
pháp luật.
Thứ hai, pháp luật là cơ sở pháp lý cho việc xác định thẩm quyền của
các chủ thể trong hoạt động giao rừng cho cá nhân, hộ gia đình.
Lĩnh vực pháp luật về giao rừng cho cá nhân, hộ gia đình theo luật bảo
vệ và phát triển rừng cũng không nằm ngoài quy luật đó, pháp luật trong quản
lý, bảo vệ và phát triển rừngcó một vai trò quan trọng trong việc quy định cơ
cấu tổ chức của cơ quan quản lý nhà nước đối với lĩnh vực giao rừng cho cá
nhân, hộ gia đình.
Pháp luật quy định thẩm quyền cụ thể của các cơ quan nhà nước ở
trung ương, địa phương trong việc giao rừng cho cá nhân, hộ gia đình theo
luật bảo vệ và phát triển rừng. Từng cơ quan có thẩm quyền cụ thể như: thẩm
quyền trong việc lập quy hoạch, kế hoạch bảo vệ và phát triển rừng; thẩm
quyền trong việc giao rừng; thẩm quyền trong việc xử phạt vi phạm đối với
các hành vi xâm hại tài nguyên rừng; thẩm quyền giải quyết tranh chấp về
22. 15
quyền sử dụng rừng.
Thứ ba,pháp luật xác định thẩm quyền của các chủ thể là cá nhân, hộ
gia đình được Nhà nước giao đất rừng và tài sản gắn liền trên đất theo quy
định của pháp Luật về đất đai và pháp Luật về bảo vệ và phát triển rừng; có
kế hoạch tổ chức sản xuất kinh doanh phù hợp với quy hoạch và dự án về bảo
vệ và phát triển rừnghoặc đề án được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê
duyệt theo quy định hiện hành của Nhà nước.
1.3. Khung pháp luật về giao rừng cho cá nhân, hộ gia đình theo
pháp luật bảo vệ và phát triển rừng
Pháp luật về giao rừng cho cá nhân, hộ gia đình điều chỉnh các quan hệ
phát sinh trong lĩnh vực giao rừng, nhằm tạo ra cơ chế pháp lý để mở rộng
dân chủ, bảo đảm cho cá nhân, hộ gia đình cùng tham gia vào công tác giao
rừng; đồng thời bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của họ đối với rừng
được giao. Chính vì thế, khung pháp luật về giao rừng cho cá nhân, hộ gia
đình theo pháp luật bảo vệ và phát triển rừng như sau:
Thứ nhất, về chủ thể, đối tượng được Nhà nước giao rừng là cá nhân,
hộ gia đình.
Về giao rừng, Điều 16 Luật Lâm nghiệp năm 2017 quy định: Nhà nước
giao rừng phòng hộ không thu tiền sử dụng rừng cho hộ gia đình, cá nhân cư
trú hợp pháp trên địa bàn cấp xã nơi có rừng phòng hộ đối với rừng phòng hộ
đầu nguồn; rừng phòng hộ chắn gió, chắn cát bay; rừng phòng hộ chắn sóng, lấn
biển; Nhà nước giao rừng sản xuất không thu tiền sử dụng rừng cho hộ gia
đình, cá nhân, cộng đồng dân cư cư trú hợp pháp trên địa bàn cấp xã nơi có
diện tích rừng; đơn vị vũ trang.
Thứ hai, về quyền và nghĩa vụ của cá nhân, hộ gia đình khi Nhà nước giao
rừng.
Quyền chung của chủ rừng quy định tại Điều 73 Luật Lâm nghiệp năm
23. 16
2017, gồm: (1) Được cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận quyền sử
dụng rừng, quyền sở hữu rừng sản xuất là rừng trồng theo quy định của pháp
luật; (2) Được hưởng lâm sản tăng thêm từ rừng do tự đầu tư vào rừng tự
nhiên, rừng trồng là rừng đặc dụng, rừng phòng hộ; (3) Sử dụng rừng phù hợp
với thời hạn giao rừng, cho thuê rừng và thời hạn giao đất, cho thuê đất trồng
rừng theo quy định của Luật này và pháp luật về đất đai; (4) Được cung ứng
dịch vụ môi trường rừng và hưởng lợi từ dịch vụ môi trường rừng; (5) Được
hướng dẫn về kỹ thuật và hỗ trợ khác theo quy định để bảo vệ và phát triển
rừng, bảo tồn đa dạng sinh học rừng; được hưởng lợi từ công trình hạ tầng
phục vụ bảo vệ và phát triển rừng do Nhà nước đầu tư; (6) Được Nhà nước
bồi thường giá trị rừng, tài sản do chủ rừng đầu tư, xây dựng hợp pháp tại thời
điểm quyết định thu hồi rừng; (7) Được Nhà nước hỗ trợ kinh phí đối với chủ
rừng phát triển rừng sản xuất khi bị thiệt hại do thiên tai; (8) Hợp tác, liên kết
với tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài để bảo vệ và phát triển rừng;
(9) Được bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp khác [39].
Nghĩa vụ chung của chủ rừng quy định tại Điều 74 Luật Lâm nghiệp
năm 2017, gồm: (1) Quản lý, bảo vệ, phát triển, sử dụng rừng bền vững theo
Quy chế quản lý rừng, quy định của Luật này và quy định khác của pháp luật
có liên quan; (2) Thực hiện quy định về theo dõi diễn biến rừng; (3) Trả lại
rừng khi Nhà nước thu hồi rừng theo quy định của Luật này; (4) Bảo tồn đa
dạng sinh học rừng, thực vật rừng, động vật rừng; (5) Phòng cháy và chữa
cháy rừng; phòng, trừ sinh vật gây hại rừng; (6) Chấp hành sự quản lý, thanh
tra, kiểm tra, xử lý vi phạm của cơ quan nhà nước có thẩm quyền; (7) Thực
hiện nghĩa vụ tài chính và các nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật. Bên
cạnh quyền và nghĩa vụ chung của chủ rừng nêu trên, Luật cũng quy định cụ
thể về quyền và nghĩa vụ của chủ rừng là hộ gia đình, cá nhân [39].
Thứ ba, về thẩm quyền giao rừng cho cá nhân, hộ gia đình
24. 17
Về thẩm quyền giao rừng được quy định tại Điều 23 Luật Lâm
nghiệp năm 2017: UBND cấp huyện có thẩm quyền giao rừng đối với hộ gia
đình, cá nhân.
1.4. Yếu tố tác động đến việc giao rừng cho cá nhân, hộ gia đình
theo pháp luật bảo vệ và phát triển rừng
1.4.1. Về chính trị liên quan đến việc giao rừng cho cá nhân, hộ gia
đình
Từ sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, với đường lối đổi mới của
Đảng, ngành lâm nghiệp từ chỗ dựa vào quốc doanh nay chuyển sang lâm
nghiệp xã hội, Nhân dân trở thành lực lượng chủ yếu bảo vệ và phát triển
rừng. Đối tượng chủ rừng là cá nhân, hộ gia đình được quy định rất sớm ngay
từ Luật Bảo vệ và phát triển rừng ban hành năm 1991 đã ghi rõ tại điều 2:
Nhà nước giao rừng, đất trồng rừng cho tổ chức, cá nhân để bảo vệ, phát triển
và sử dụng rừng ổn định, lâu dài. Như vậy là Luật Bảo vệ và phát triển rừng
(năm 1991) đã thể chế hoá một bước chủ trương giao đất, giao rừng với đối
tượng được giao là tổ chức và cá nhân, sau này trong Luật bảo vệ và phát
triển rừng 2004 mở rộng thêm các đối tượng chủ rừng khác. Tuy nhiên để quy
định rõ quyền và nghĩa vụ của đối tượng chủ rừng là cá nhân, hộ gia đình thì
phải đến Luật Lâm nghiệp năm 2017 mới được cụ thể hóa[21].
1.4.2. Về pháp luật và nhận thức pháp lý liên quan đến việc giao
rừng cho cá nhân, hộ gia đình
Sự hình thành và phát triển ý thức pháp luật là một quá trình phụ thuộc
vào nhiều yếu tố như điều kiện chính trị, tư tưởng, kinh tế, văn hoá…Nhất là
trong lĩnh vực bảo vệ và phát triển rừng, giao khoán rừng, những người dân
sống ở vùng núi, gần rừng và trong rừng có điều kiện đời sống vật chất còn
nhiểu khó khăn, trình độ hiểu biết về pháp luật, văn hoá còn hạn chế, thì cần
có những biện pháp phù hợp để nâng cao ý thức pháp luật cho cán bộ, người
25. 18
dân về bảo vệ và phát triển rừng.
1.4.3. Về kinh tế và môi trường liên quan đến việc giao rừng cho cá
nhân, hộ gia đình
Nhà nước cùng nhân dân bảo vệ và phát triển rừng. Từ quan điểm, chủ
trương của Đảng định hướng công tác bảo vệ và phát triển rừng sang nhiều
mục tiêu trong đó có việc xã hội hóa sản xuất kinh doanh và sở hữu trong
ngành lâm nghiệp nói chung và đối tượng chủ rừng là các tổ chức kinh tế nói
riêng... trong đó quy định các quyền và nghĩa vụ của chủ rừng là cá nhân, hộ
gia đình [69].
Toàn cầu hóa kinh tế là xu thế khách quan, hội nhập kinh tế là tất yếu và
mở rộng ra hầu hết các lĩnh vực, tạo ra cơ hội phát triển nhưng cũng chứa đựng
nhiều yếu tố bất bình đẳng, gây khó khăn thách thức lớn cho các quốc gia.
1.4.4. Về khoa học, công nghệ liên quan đến việc giao rừng cho cá
nhân, hộ gia đình
Trong xu thế hội nhập hiện nay, việc ứng dụng công nghệ cao nhằm
nâng cao năng suất và chất lượng rừng, đặc biệt trong khâu giống là yêu cầu
cấp thiết của ngành lâm nghiệp. Từ sản xuất, quản lý giám sát, chế biến, tiêu
thụ đến tiêu dùng đều có thể ứng dụng kỹ thuật số như ứng dụng phần mềm,
theo dõi, giám sát quá trình sản xuất, kiểm soát chất lượng sản phẩm. Các quá
trình sản xuất lâm nghiệp có thể tự động hóa ở nhiều khâu, qua đó giúp tăng
năng suất và chất lượng sản phẩm, giảm chi phí. Hiện nay công nghệ cao,
công nghệ 4.0 sẽ không những hỗ trợ quản lý vĩ mô mà còn lưu trữ dữ liệu vi
mô (từng cá thể) trên mạng internet và chia sẻ nguồn dữ liệu cho nhiều người
cùng sử dụng, thông qua các thiết bị kết nối với internet.
Công nghệ cao hỗ trợ công khai, minh bạch hóa quá trình sản xuất - chế
biến - tiêu thụ, truy xuất nguồn gốc, công khai quy trình công nghệ áp dụng,
tiêu chuẩn chất lượng đạt được đến mức độ nào, thông qua điện thoại thông
26. 19
minh kết nối với các thiết bị trợ giúp dự tính, dự báo các rủi ro thiên tai (sạt lở
đất), nạn chặt phá rừng, bảo tồn động vật quý hiếm, truy xuất nguồn gốc gỗ,
theo dõi tăng trưởng của cây lâm nông nghiệp. Ứng dụng các kỹ thuật tiên
tiến của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 trong sản xuất lâm nghiệp ứng dụng
công nghệ cao sẽ góp phần tăng hiệu quả của chuỗi sản xuất và thương mại
hóa sản phẩm
Hiện nay chúng ta đang phát triển các thiết bị có thể phát hiện các đám
cháy, nhưng hiện mới ở mức nghiên cứu, thử nghiệm. Về phòng chống dịch
bệnh các tích hợp các thông tin cần thiết để dự báo nguy cơ sâu bệnh hại cho
từng khu rừng, chủ rừng. Trong phát triển rừng, nhiều công nghệ đa dạng từ
trồng rừng, khai thác, vận chuyển, chế biến đang hướng đến tự động hóa, nhất
là trong khâu trồng, khai thác, chế biến. Ví dụ, trồng rừng trong điều kiện khó
khăn, ở độ dốc cao... hay phát triển các thiết bị có thể tự đóng mở cổng để duy
trì nước ở khu rừng ngập nước, thiết bị tự động tưới tiêu...Với hệ thống thông
tin quản lý ngành lâm nghiệp hiện đại, những thông tin về diễn biến rừng
được số hóa, chính xác, minh bạch, sẽ đem lại những hiệu quả to lớn cho công
tác quản lý bảo vệ rừng và phát triển kinh tế lâm nghiệp.
1.4.5. Về hội nhập quốc tế liên quan đến việc giao rừng cho cá nhân,
hộ gia đình
Yếu tố quốc tế cũng tác động mạnh đến quyền và nghĩa vụ của chủ rừng
là các tổ chức kinh tế. Nhờ sự hỗ trợ đáng kể của cộng đồng quốc tế mang đến
quyền lợi kinh tế cho chủ rừng trong công tác bảo vệ, phát triển rừng và xóa
đói, giảm nghèo ở nông thôn miền núi. Để tham gia hội nhập quốc tế nhà nước
mình cũng dần hoàn thiện, điều chỉnh các quy định, chính sách pháp luật phù
hợp với Luật, các công ước quốc tế trong đó cũng quy định rất rõ trách nhiệm,
quyền lợi, nghĩa vụ của chủ rừng là cá nhân, hộ gia đình.
27. 20
1.5. Phương thức quản lý việc giao rừng cho cá nhân, hộ gia đình
theo pháp luật bảo vệ và phát triển rừng
1.5.1. Quản lý rừng bền vững và chứng chỉ rừng đối với cá nhân, hộ
gia đình
Thực tế cho thấy nếu chỉ có các biện pháp truyền thống như tăng cường
luật pháp, tham gia các công ước… thì không thể bảo vệ được diện tích rừng
tự nhiên hiện còn của nhân loại, nhất là rừng nhiệt đới tập trung chủ yếu ở các
nước đang phát triển. Một trong những biện pháp quan trọng hiện nay được cả
cộng đồng quốc tế cũng như từng quốc gia đặc biệt quan tâm, kết hợp với các
giải pháp truyền thống nêu trên là cần phải thiết lập quản lý rừng bền vững và
chứng chỉ rừng [54].
Quản lý rừng bền vững là quản lý rừng ổn định bằng các biện pháp phù
hợp nhằm đạt các mục tiêu đề ra như: sản xuất gỗ nguyên liệu, gỗ gia dụng,
lâm sản ngoài gỗ...; phòng hộ môi trường, bảo vệ đầu nguồn, bảo vệ chốngcát
bay, chống sạt lở đất...; bảo tồn đa dạng sinh học, bảo tồn loài, bảo tồn các hệ
sinh thái...
Dưới khía cạnh phát triển bền vững, thì quản lý rừng bền vững phải đạt
được sự bình đẳng giữa các thế hệ trong sử dụng tài nguyên rừng. Cuộc sống
con người luôn gắn với sử dụng tài nguyên thiên nhiên và để sử dụng nó,
chúng ta cần phải bảo vệ nó vì tài nguyên thiên nhiên không phải là vô tận.
Quản lý rừng bền vững và chứng chỉ rừng là những tiêu chí quan trọng được
các tổ chức quốc tế và các nước trên thế giới cùng hướng tới xây dựng và
thực thi nhằm mục tiêu quản lý rừng bền vững cũng như phát triển bền vững
[54, tr.71-72].
1.5.2. Đảm bảo cơ chế chia sẻ lợi ích từ rừng
Ngoài ra, quản lý rừng bền vững phải đạt được sự bình đẳng và công
bằng trong sử dụng tài nguyên rừng ở cùng thế hệ. Đây là một vấn đề khó, bởi
28. 21
vì trong khi cố tạo ra sự công bằng cho các thế hệ tương lai thì chúng ta vẫn
chưa tạo được những cơ hội bình đẳng cho những người sống ở thế hệ hiện tại
thể hiện ở những khía cạnh sau:
Sự bất bình đẳng trong xã hội và kinh tế chỉ có thể được tồn tại nếu: (i)
sự bất bình đẳng này là có lợi cho nhóm người nghèo trong xã hội (ii) và tất
cả mọi người đều có cơ hội tiếp cận nguồn tài nguyên rừng như nhau. Đây là
một nguồn kinh phí đáng kể cho công tác bảo vệ và phát triển rừng, được chi
xuống tới tận cá nhân, hộ gia đình được giao rừng.
1.5.3. Hoạt động hỗ trợ đầu tư phát triển rừng đối với cá nhân, hộ
gia đình được giao rừng
Theo Nghị định 75/2015/NĐ-CP, đối tượng được hỗ trợ gồm: hộ nghèo
đang sinh sống ổn định tại các xã có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn (khu
vực II và III) thuộc vùng dân tộc và miền núi đã và đang bảo vệ và phát triển
rừng; cộng đồng dân cư thôn được giao rừng theo quy định tại Điều 29 Luật
Bảo vệ và Phát triển rừng và Điều 54 Luật Đất đai [19].
29. 22
Tiểu kết chương 1
Tại chương 1, tác giả luận văn đã đề cập các nội dung cơ bản về hoạt
động giao rừng theo pháp luật bảo vệ và phát triển rừng. Một số khái niệm,
đặc trưng của pháp luật về giao rừng cho cá nhân, hộ gia đình theo luật bảo vệ
và phát triển rừng đã được đưa ra đưa ra và đã được làm rõ trong mối quan hệ
giữa quyền và nghĩa vụ của chủ rừng là cá nhân, hộ gia đình trong công tác
bảo vệ và phát triển rừng. Bên cạnh đó tại chương này cũng nêu ra nội dung
của pháp luật về giao rừng cho cá nhân, hộ gia đình theo luật bảo vệ và phát
triển rừng và được làm rõ tại các chương sau. Nội dung các vấn đề lý luận và
pháp luật về giao rừng cho cá nhân, hộ gia đình theo luật bảo vệ và phát triển
rừng đã được nêu ra và làm rõ là tiền đề giúp cho quá trình phân tích thực
trạng quyền và nghĩa vụ của chủ rừng là tổ chức kinh tế theo luật bảo vệ và
phát triển rừng được chính xác, hiệu quả.
30. 23
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP
LUẬT VỀ GIAO RỪNG CHO CÁ NHÂN, HỘ GIA ĐÌNH
TẠI TỈNH QUẢNG NAM
2.1. Thực trạng pháp luật về giao rừng cho cá nhân, hộ gia đình
Tài nguyên rừng và đất rừng do Nhà nước thống nhất quản lý, vì vậy
Nhà nước thực hiện giao rừng, cho thuê rừng, thu hồi rừng và chuyển mục
đích sửdụng rừng đồng thời với việc giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất,
chuyển mục đich sử dụng đất cho các tổ chức, cá nhân, hộ gia đình, cộng
đồng dân cư.
2.1.1. Chủ thể được giao rừng, được thuê rừng
- Chủ thể được Nhà nước giao rừng
Theo Khoản 2, Điều 16 Luật Lâm nghiệp 2017 thì Nhà nước giao rừng
phòng hộ không thu tiền sử dụng rừng cho các đối tượng sau đây: Ban quản lý
rừng phòng hộ, đơn vị vũ trang đối với rừng phòng hộ đầu nguồn, rừng phòng
hộ biên giới; rừng phòng hộ chắn gió, chắn cát bay; rừng phòng hộ chắn sóng,
lấn biển; Tổ chức kinh tế đối với rừng phòng hộ xen kẽ trong diện tích rừng
sản xuất của tổ chức đó;Hộ gia đình, cá nhân cư trú hợp pháp trên địa bàn cấp
xã nơi có rừng phòng hộ đối với rừng phòng hộ đầu nguồn; rừng phòng hộ
chắn gió, chắn cát bay; rừng phòng hộ chắn sóng, lấn biển;Cộng đồng dân cư
cư trú hợp pháp trên địa bàn cấp xã nơi có rừng phòng hộ đối với rừng phòng
hộ đầu nguồn; rừng phòng hộ chắn gió, chắn cát bay; rừng phòng hộ chắn
sóng, lấn biển; rừng bảo vệ nguồn nước của cộng đồng dân cư đó [39].
Đối với việc giao rừng sản xuất được quy định tại Khoản 3, Điều 16
Luật Lâm nghiệp 2017: Nhà nước giao rừng sản xuất là rừng tự nhiên và rừng
sản xuất là rừng trồng không thu tiền sử dụng rừng đối với hộ gia đình, cá
31. 24
nhân đang sinh sống tại đó trực tiếp lao động lâm nghiệp phù hợp với việc
giao đất để phát triển rừng sản xuất; tổ chức kinh tế sản xuất giống cây rừng;
đơn vị vũ trang nhân dân sử dụng rừng sản xuất kết hợp với quốc phòng, an
ninh; Ban quản lý rừng phòng hộ trong trường hợp có rừng sản xuất xen kẽ
trong rừng phòng hộ đã giao cho Ban quản lý;Nhà nước giao rừng sản xuất là
rừng tự nhiên và rừng sản xuất là rừng trồng có thu tiền sử dụng rừng đối với
các tổ chức kinh tế [22];
Ngoài ra, chủ thể đặc biệt là cộng đồng dân cư thôn tùy theo điều kiện
được giao những khu rừng hiện cộng đồng dân cư thôn đang quản lý, sử dụng
có hiệu quả; khu rừng giữ nguồn nước phục vụ trực tiếp cho cộng đồng, phục
vụ lợi ích chung khác của cộng đồng mà không thể giao cho tổ chức, hộ gia
đình, cá nhân; khu rừng giáp ranh giữa các thôn, xã, huyện không thể giao
cho tổ chức, hộ gia đình, cá nhân mà cần giao cho cộng đồng dân cư thôn để
phục vụ lợi ích của cộng đồng [22].
- Chủ thể được Nhà nước cho thuê rừng
Theo quy định tại Điều 17, Luật Lâm nghiệp năm 2017 về cho thuê
rừng sản xuất thì Nhà nước cho tổ chức kinh tế, hộ gia đình, cá nhân thuê
rừng sản xuất là rừng tự nhiên, rừng sản xuất là rừng trồng trả tiền thuê rừng
một lần hoặc hằng năm để sản xuất lâm nghiệp; sản xuất lâm, nông, ngư
nghiệp kết hợp; kinh doanh du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng, giải trí [39].
Tổ chức kinh tế trong nước được thuê rừng đặc dụng là khu bảo vệ
cảnh quan trả tiền hàng năm để bảo vệ và phát triển rừng, kết hợp kinh doanh
cảnh quan, nghỉ dưỡng, du lịch sinh thái - môi trường.
Quy định về việc cho tổ chức, cá nhân nước ngoài thuê rừng, đất rừng
sản xuất là khá chi tiết và cụ thể. Tuy nhiên, trên thực tế khi cho các tổ chức,
cá nhân nước ngoài thuê đất trồng rừng nhiều diện tích thuộc vùng trồng
rừng phòng hộ, thậm chí là những vùng rừng, đất rừng xung yếu về an ninh
32. 25
quốc phòng.
Nguyên tắc giao rừng, cho thuê rừng, chuyển mục đích sử dụng rừng
sang mục đích khác, thu hồi rừng được quy định tại Điều 14 Luật Lâm
nghiệp 2017, cụ thể như sau:
1. Phù hợp với quy hoạch lâm nghiệp cấp quốc gia, quy hoạch sử
dụng đất; diện tích rừng hiện có tại địa phương.
2. Không chuyển mục đích sử dụng rừng tự nhiên sang mục đích khác,
trừ dự án quan trọng quốc gia; dự án phục vụ quốc phòng, an ninh quốc gia;
dự án cấp thiết khác được Chính phủ phê duyệt.
3. Không giao, cho thuê diện tích rừng đang có tranh chấp.
4. Chủ rừng không được cho tổ chức, hộ gia đình, cá nhân khác thuê
diện tích rừng tự nhiên, rừng trồng do Nhà nước đầu tư.
5. Thống nhất, đồng bộ với giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích sử
dụng đất, thu hồi đất.
6. Thời hạn, hạn mức giao rừng, cho thuê rừng phù hợp với thời hạn,
hạn mức giao đất, cho thuê đất.
7. Bảo đảm công khai, minh bạch, có sự tham gia của người dân địa
phương; không phân biệt đối xử về tôn giáo, tín ngưỡng và giới trong giao
rừng, cho thuê rừng.
8. Tôn trọng không gian sinh tồn, phong tục, tập quán của cộng đồng
dân cư; ưu tiên giao rừng cho đồng bào dân tộc thiểu số, hộ gia đình, cá
nhân, cộng đồng dân cư có phong tục, tập quán, văn hóa, tín ngưỡng, truyền
thống gắn bó với rừng, có hương ước, quy ước phù hợp với quy định của
pháp luật.
2.1.2. Thẩm quyền giao rừng, cho thuê rừng, thu hồi rừng và chuyển
mục đích sử dụng rừng
Theo Điều 15 Luật Lâm nghiệp 2017, căn cứ để giao rừng, cho thuê
33. 26
rừng, chuyển mục đích sử dụng rừng sang mục đích khác là:
Kế hoạch giao rừng, cho thuê rừng, chuyển mục đích sử dụng rừng
sang mục đích khác của UBND cấp huyện được UBND cấp tỉnh phê duyệt;
kế hoạch sử dụng đất hằng năm của cấp huyện được cơ quan nhà nước có
thẩm quyền phê duyệt; Diện tích rừng, đất quy hoạch để trồng rừng; Nhu cầu
sử dụng rừng thể hiện trong dự án đầu tư đối với tổ chức; đề nghị giao rừng,
thuê rừng, chuyển mục đích sử dụng rừng sang mục đích khác đối với hộ gia
đình, cá nhân, cộng đồng dân cư; Năng lực quản lý rừng bền vững của tổ
chức, hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư [39].
Căn cứ Điều 28 Luật bảo vệ và phát triển rừng năm 2004 về thẩm
quyền giao rừng, cho thuê rừng, thu hồi rừng, chuyển mục đích sử dụng rừng
quy định như sau:
“1.Thẩm quyền giao rừng, cho thuê rừng, thu hồi rừng được quy định như
sau:
a) Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương quyết định
giao rừng, cho thuê rừng đối với tổ chức trong nước, người Việt Nam định cư
ở nước ngoài; cho thuê rừng đối với tổ chức, cá nhân nước ngoài;
b)Ủy ban nhân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh quyết định
giao rừng, cho thuê rừng đối với hộ gia đình, cá nhân;
c)Ủy ban nhân dân có thẩm quyền giao, cho thuê rừng nào thì có quyền
thu hồi rừng đó.
34. 27
2.Thẩm quyền chuyển mục đích sử dụng rừng được quy định như sau:
a)Thủ tướng Chính phủ quyết định chuyển mục đích sử dụng toàn bộ
hoặc một phần khu rừng do Thủ tướng Chính phủ xác lập;
b)Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương
quyết định chuyển mục đích sử dụng toàn bộ hoặc một phần khu rừng do Chủ
tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương xác lập.”
Theo đó, chỉ những cá nhân, cơ quan trên mới được phép giao rừng,
cho thuê rừng, thu hồi rừng, chuyển mục đích sử dụng rừng và chỉ được thực
hiện trong phạm vi nhất định. Điều 24 Nghị định 23/2006/NĐ-CP có những
quy định thêm về vấn đề này, theo đó, trong trường hợp rừng đã giao, cho
thuê trước ngày Luật Bảo vệ và phát triển rừng có hiệu lực thi hành thì Thẩm
quyền điều chỉnh quyết định giao rừng, cho thuê rừng thuộc về:
-Ủy ban nhân dân cấp tỉnh là cơ quan nhà nước có thẩm quyền được
điều chỉnh về diện tích rừng, thời hạn sử dụng rừng đối với chủ rừng là tổ
chức trong nước, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, tổ chức, cá nhân
nước ngoài đã có quyết định giao rừng, cho thuê rừng trước ngày 01 tháng 4
năm 2005 mà phải điều chỉnh về diện tích rừng, thời gian sử dụng rừng.
-Ủy ban nhân dân cấp huyện là cơ quan nhà nước có thẩm quyền được
điều chỉnh về diện tích rừng, thời hạn sử dụng rừng đối với chủ rừng là hộ gia
đình, cá nhân, cộng đồng dân cư thôn đã có quyết định giao rừng, cho thuê
rừng trước ngày 01 tháng 4 năm 2005 mà phải điều chỉnh về diện tích rừng,
thời gian sử dụng rừng.
Ngoài ra, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chủ trì, phối hợp với
Bộ Tài nguyên và Môi trường hướng dẫn thực hiện việc giao rừng, cho thuê
rừng, thu hồi rừng, chuyển mục đích sử dụng rừng theo quy định tại các Điều
20, 21, 22, 23, 24, 25, 26, 27, 28, 29 Nghị định 23/2006/NĐ-CP gắn liền với
việc giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất, chuyển mục đích sử dụng đất đảm bảo
35. 28
được tiến hành thống nhất, đồng thời, đồng bộ trong cả nước, trong đó:
Bộ Tài nguyên và Môi trường có trách nhiệm chỉ đạo việc xác định các
thông tin, số liệu có liên quan đến các loại đất rừng phòng hộ, đất rừng đặc
dụng, đất rừng sản xuất.
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn có trách nhiệm chỉ đạo việc
xác định các thông tin, số liệu có liên quan đến các loại rừng.
Theo quy định tại Luật lâm nghiệp năm 2017 thì nội dung này được
quy định như sau:
1. Thẩm quyền của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh được quy định như sau:
a) Giao rừng, cho thuê rừng, chuyển mục đích sử dụng rừng sang mục
đích khác, thu hồi rừng đối với tổ chức;
b) Cho doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam thuê đất
để trồng rừng sản xuất.
2. Thẩm quyền của Ủy ban nhân dân cấp huyện được quy định như sau:
a) Giao rừng, cho thuê rừng, chuyển mục đích sử dụng rừng sang mục
đích khác, thu hồi rừng đối với hộ gia đình, cá nhân;
b) Giao rừng, chuyển mục đích sử dụng rừng sang mục đích khác, thu
hồi rừng đối với cộng đồng dân cư.
3. Trường hợp trong khu vực thu hồi rừng có cả đối tượng quy định tại
điểm a khoản 1 và khoản 2 Điều này thì Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định
thu hồi rừng hoặc ủy quyền cho Ủy ban nhân dân cấp huyện quyết định thu
hồi rừng.
4. Chính phủ quy định chi tiết việc giao rừng, cho thuê rừng, chuyển
loại rừng, chuyển mục đích sử dụng rừng sang mục đích khác, thu hồi rừng.
Chính vì vậy, thẩm quyền giao rừng, cho thuê rừng, chuyển mục đích
sử dụng rừng sang mục đích khác, thu hồi rừng được quy định tại Điều 23
Luật Lâm nghiệp 2017. UBND cấp huyện có thẩm quyền giao rừng, cho thuê
36. 29
rừng đối với hộ gia đình, cá nhân và cộng đồng dân cư thôn.
2.1.3. Quyền và nghĩa vụ của chủ rừng là cá nhân, hộ gia đình
Quyền và nghĩa vụ của chủ rừng là cá nhân, hộ gia đình được quy định
cụ thể tạo Điều 73 và Điều 74 Luật lâm nghiệp năm 2017, cụ thể:
Hiện nay, hộ gia đình, cá nhân là đối tượng được Nhà nước ưu tiên,
khuyến khích giao, cho thuê rừng để bảo vệ, quản lý và phát triển rừng. Nhà
nước phát triển rừng theo hướng “Người làm nghề rừng phải sống và làm giàu
được từ rừng”. Nhà nước khuyến khích những hộ gia đình, cá nhân có khả
năng quản lý, bảo vệ, phát triển kinh doanh rừng có thể được Nhà nước cho
thuê đất, rừng, nhận khoán bảo vệ rừng từ các tổ chức khác được Nhà nước
giao đất như các Ban quản lý rừng phòng hộ, Ban quản lý rừng đặc dụng, các
đơn vị lực lượng vũ trang, các tổ chức kinh tế…Tuy nhiên, cho dù hộ gia
đình, cá nhân được giao, hay được thuê hoặc nhận khoán bảo vệ rừng thì trách
nhiệm đầu tiên trong quản lý rừng là phải bảo toàn vốn rừng và phát triển
rừng bền vững, sử dụng rừng đúng mục đích, đúng ranh giới đã quy định
trong quyết định giao, cho thuê rừng và theo quy chế quản lý rừng. Hộ gia
đình, cá nhân có trách nhiệm tổ chức bảo vệ và phát triển rừngtheo quy hoạch,
kế hoạch, dự án, phương án đã được phê duyệt; định kỳ báo cáo cơ quan nhà
nước có thẩm quyền về diễn biến tài nguyên rừng và các hoạt động liên quan
đến khu rừng như kiểm kê rừng, thống kê rừng, theo dõi diễn biến khu rừng.
Chủ thể này cũng phải giao lại rừng khi nhà nước có quyết định thu hồi rừng
hoặc khi hết thời hạn sử dụng rừng và thực hiện nghĩa vụ tài chính và các
nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật [1].
Ngoài ra, tuỳ thuộc vào loại rừng được giao hay được cho thuê hoặc
diện tích rừng được sở hữu hay được sử dụng mà hộ gia đình, cá nhân có các
quyền và trách nhiệm trong việc quản lý rừng khác nhau, cụ thể:
Thứ nhất, đối với hộ gia đình, cá nhân được nhà nước giao rừng phòng
37. 30
hộ, ngoài các trách nhiệm và lợi ích trên, chủ rừng này phải xây dựng khu
rừng theo hướng dẫn của cơ quan có thẩm quyền quản lý về rừng. Họ được
chuyển đổi diện tích rừng được giao cho hộ gia đình, cá nhân trong cùng xã,
phường, thị trấn; cá nhân được để lại quyền sử dụng rừng cho người thừa kế
theo quy định của pháp luật; được phép khai thác những cây sâu, bệnh, gẫy,
đổ trong rừng phòng hộ,khai thác rừng phòng hộ khi đến tuổi khai thác nhưng
phải đảm bảo mật độ phòng hộ của rừng theo quy định. Tuy nhiên, chủ thể
này không được phép chuyển nhượng, thế chấp, bảo lãnh… giá trị quyền sử
dụng rừng phòng hộ.
Thứ hai, đối với hộ gia đình, cá nhân được Nhà nước giao rừng sản
xuất. Nếu là rừng tự nhiên thì chủ rừng phải có kế hoạch quản lý, bảo vệ và
sản xuất, kinh doanh rừng theo hướng dẫn của UBND cấp xã hoặc của cán bộ
kiểm lâm và được chủ tịch UBND cấp huyện phê duyệt; được khai thác gỗ và
các thực vật khác trừ các loài động thực vật bị cấm không được khai thác theo
quy định của chính phủ.
Việc khai thác rừng phải theo quy chế quản lý rừng và chấp hành quy
phạm, quy trình kỹ thuật bảo vệ và phát triển rừng, sau khi khai thác phải tổ
chức bảo vệ, nuôi dưỡng, làm giàu rừng cho đến kỳ khai thác sau. Nếu hộ gia
đình, cá nhân được giao rừng sản xuất là rừng trồng thì chủ rừng phải có kế
hoạch chăm sóc, nuôi dưỡng, trồng rừng mới, bảo vệ rừng, kết hợp kinh doanh
lâm nghiệp, nông nghiệp, ngư nghiệp, cảnh quan, nghỉ dưỡng, du lịch sinh thái,
môi trường trong khu rừng phù hợp với quy hoạch, quy chế quản lý rừng.
Trường hợp chủ rừng tự bỏ vốn gây trồng và chăm sóc rừng thì được tự quyết
định việc khai thác rừng trồng, các sản phẩm được khai thác từ rừng trồng được
tự do lưu thông trên thị trường, riêng các cây gỗ quý khai thác từ rừng trồng thì
khi khai thác chủ rừng phải thực hiện theo quy định của chính phủ.
Thứ ba, đối với hộ gia đình, cá nhân được nhà nước cho thuê rừng sản
38. 31
xuất thì được hưởng giá trị tăng thêm của rừng do chủ rừng tự đầu tư trong
thời gian được thuê theo quy định của pháp luật; được thế chấp, bảo lãnh, góp
vốn bằng giá trị rừng sản xuất là rừng trồng do mình tự đầu tư. Nếu rừng sản
xuất được thuê là rừng trồng bằng vốn ngân sách Nhà nước thì hộ gia đình, cá
nhân lập hồ sơ khai thác trình cơ quan có thẩm quyền phê duyệt nguồn vốn
quyết định, khai thác gỗ quý hiếm thực hiện theo quy định của chính phủ;
được chuyển nhượng, cho thuê lại quyền sử dụng rừng theo quy định của
pháp luật; chỉ được thế chấp, bảo lãnh, góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng
rừng tăng thêm do chủ rừng tự đầu tư so với giá trị quyền sử dụng được xác
định tại thời điểm được thuê theo quy định của pháp luật.
Mặc dù, chủ rừng là hộ gia đình, cá nhân được giao rừng, cho thuê rừng
đối với các loại rừng phòng hộ, rừng sản xuất, vùng đệm của rừng đặc dụng
nhưng tổng diện tích rừng do hộ gia đình, cá nhân quản lý còn khá khiêm tốn
so với các chủ rừng khác. Pháp luật quy định về loại rừng được giao, được
thuê đối với hộ gia đình, cá nhân là rất phong phú, cả rừng phòng hộ, rừng sản
xuất và vùng đệm rừng đặc dụng nhưng thực tế chủ thể này chủ yếu được
giao loại rừng nghèo kiệt hoặc đất trống đồi núi trọc để trồng rừng còn rừng
sản xuất là rừng tự nhiên thường được Nhà nước giao cho tổ chức kinh tế có
vốn đầu tư nhà nước quản lý và khai thác.
2.1.4. Thủ tục giao rừng, cho thuê rừng
Trình tự, thủ tục giao rừng, cho thuê rừng thống nhất, đồng bộ với giao
đất, cho thuê đất được quy định tại Điều 36 Nghị định 156/2018/NĐ-CP
hướng dẫn Luật Lâm nghiệp năm 2017. Tuy nhiên, các chủ thể phải nộp kèm
các văn bản sau đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Cụ thể:
Trình tự, thủ tục giao rừng, cho thuê rừng thống nhất, đồng bộ với giao
đất, cho thuê đất thực hiện theo quy định của pháp luật về đất đai và các quy
định sau:
39. 32
1. Mẫu đề nghị giao đất, giao rừng, cho thuê đất, cho thuê rừng áp dụng
theo Mẫu số 02 đối với tổ chức, Mẫu số 03 đối với hộ gia đình, cá nhân, cộng
đồng dân cư, Phụ lục II kèm theo Nghị định này.
2. Trong thời hạn 02 ngày làm việc kể từ khi tiếp nhận hồ sơ hợp lệ, cơ
quan tiếp nhận và trả hồ sơ có trách nhiệm chuyển hồ sơ đến cơ quan quản lý
chuyên ngành về lâm nghiệp có ý kiến về nội dung đề nghị giao rừng, cho
thuê rừng. Trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ, cơ
quan quản lý chuyên ngành về lâm nghiệp có ý kiến bằng văn bản gửi cơ
quan Tài nguyên và Môi trường cùng cấp.
3. Quyết định về giao đất, giao rừng, cho thuê đất, cho thuê rừng áp
dụng theo mẫu quy định tại Nghị định này:
a) Quyết định về giao đất, giao rừng cho tổ chức theo Mẫu số 04 Phụ
lục II kèm theo Nghị định này;
b) Quyết định về việc cho thuê đất, cho thuê rừng đối với tổ chức theo
Mẫu số 05 Phụ lục II kèm theo Nghị định này;
c) Quyết định về giao đất, giao rừng cho hộ gia đình, cá nhân, cộng
đồng dân cư theo Mẫu số 06 Phụ lục II kèm theo Nghị định này;
d) Quyết định về cho thuê đất, cho thuê rừng cho hộ gia đình, cá nhân
theo Mẫu số 07 Phụ lục II kèm theo Nghị định này.
4. Trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày quyết định cho thuê đất,
thuê rừng được ban hành, Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
ký Hợp đồng cho thuê rừng đối với trường hợp cho tổ chức thuê rừng, Chủ
tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện ký Hợp đồng cho thuê rừng đối với trường
hợp cho hộ gia đình, cá nhân thuê rừng theo Mẫu số 08 Phụ lục II kèm theo
Nghị định này.
Như vậy, toàn bộ đất rừng và rừng tự nhiên của Việt Nam thuộc sở hữu
toàn dân do nhà nước thống nhất quản lý. Nhà nước thực hiện việc giao rừng,
40. 33
cho thuê rừng tới các chủ thể trong xã hội.
Tùy thuộc vào chủ thể là tổ chức hay cá nhân, hộ gia đình; chủ thể
trong nước hay nước ngoài mà nhà nước tiến hành giao, cho thuê các loại
rừng khác nhau. Về nguyên tắc, tổ chức, cá nhân nước ngoài khi đầu tư vào
lĩnh vực trồng rừng được nhà nước cho thuê rừng sản xuất là rừng trồng. Tuy
nhiên, trên thực tế, các chủ thể này chủ yếu là thuê đất rừng sản xuất sau đó
trồng rừng.
Quản lý nhà nước về giao rừng, cho thuê rừng, thu hồi rừng và chuyển
mục đích sử dụng rừng được quy định cho từng loại chủ thể được giao, cho
thuê đối với từng loại rừng, loại đất rừng từ các đơn vị sự nghiệp do nhà nước
thành lập đến các tổ chức kinh tế trong nước, các hộ gia đình, cá nhân, các tổ
chức, các nhân nước ngoài. Tuy nhiên, công tác tổ chức thực hiện việc giao
rừng, cho thuê rừng... luôn gắn liền với việc giao đất, cho thuê đất trong thực
tế còn nhiều bất cập. Trong nhiều thập niên qua, khi giao đất, cho thuê đất gắn
liền với giao rừng, cho thuê rừng việc đo đạc trong thực tế với hồ sơ quản lý
địa chính nhiều nơi sai lệch về số liệu. Đặc biệt công tác giao, cho thuê rừng
và đất rừng bị thay đổi cơ quan quản lý nhiều lần trong vài thập niên qua, đầu
tiên là do cơ quan kiểm lâm quản lý, sau đó là cơ quan địa chính và hiện nay
là cơ quan tài nguyên và môi trường. Do vậy, quản lý số liệu về giao, cho thuê
rừng và đất không thống nhất, đồng bộ và nhiều số liệu bị thất lạc nên tình
trạng tranh chấp rừng, đất rừng vẫn diễn ra tại nhiều địa phương. Do đó, hoạt
động quản lý nhà nước đối với việc giao, cho thuê, thu hồi và chuyển mục
đích sử dụng rừng gặp không ít khó khăn và phức tạp.
Có thể thấy, về chính sách của Nhà nước về bảo vệ và phát triển rừng,
nếu như Luật Bảo vệ và Phát triển rừng năm 2004 mới chỉ dừng ở mức “Nhà
nước khuyến khích tổ chức, hộ gia đình, cá nhân nhận đất phát triển rừng ở
những vùng đất trống, đồi núi trọc” (Khoản 4 - Điều 10) thì đến Luật Lâm
41. 34
nghiệp 2017 đã khẳng định “Nhà nước bảo đảm cho đồng bào dân tộc thiểu
số, cộng đồng dân cư sinh sống phụ thuộc vào rừng được giao rừng gắn với
giao đất để sản xuất” (Khoản 6 - Điều 4).
Quy định trên của Luật Lâm nghiệp cũng thể hiện sự đột phá so với
quy định tại Khoản 2 - Điều 27 Luật Đất đai 2013 là: “Có chính sách tạo điều
kiện cho đồng bào dân tộc thiểu số trực tiếp sản xuất nông nghiệp ở nông thôn
có đất để sản xuất nông nghiệp”. “Tạo điều kiện” nghĩa là có điều kiện thì
giao, không có điều kiện thì không giao, không mang tính bắt buộc.
2.2. Thực tiễn áp dụng pháp luật giao rừng cho cá nhân, hộ gia
đình tại tỉnh Quảng Nam
2.2.1. Khái quát về điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội tỉnh Quảng
Nam
2.2.1.1. Điều kiện tự nhiên
* Vị trí địa lý
Quảng Nam là tỉnh thuộc vùng đồng bằng duyên hải miền Trung, ở
trung độ của cả nước, có tọa độ địa lý từ 14057’10’ đến 16o
03’50” vĩ độ Bắc,
từ số 107o
12’40” đến 108o
44’20” kinh độ Đông. Cách Thủ đô Hà Nội khoảng
883 km về hướng Bắc, cách thành phố Hồ Chí Minh 887 km về hướng Nam
theo Quốc lộ 1A [64].
- Phía Bắc giáp: Tỉnh Thừa Thiên Huế và thành phố Đà Nẵng.
- Phía Nam giáp: Tỉnh Quảng Ngãi và Kon Tum.
- Phía Tây giáp: Nước CHDCND Lào và tỉnh Kon Tum.
- Phía Đông giáp: Biển Đông.
Tổng diện tích tự nhiên tỉnh Quảng Nam là 1.057.474 ha. Toàn tỉnh có
2 thành phố (Tam Kỳ, Hội An), 01 thị xã (Điện Bàn) và 15 huyện (Tây Giang,
Đông Giang, Nam Giang, Phước Sơn, Bắc Trà My, Nam Trà My, Hiệp Đức,
Tiên Phước, Nông Sơn, Duy Xuyên, Đại Lộc, Thăng Bình, Quế Sơn, Núi
42. 35
Thành và Phú Ninh), với 244 đơn vị hành chính cấp xã, gồm: 207 xã, 25
phường và 12 thị trấn [64] [65].
Phía đông có bờ biển chạy dài trên 125 km, vùng đặc quyền kinh tế
rộng lớn hơn 40.000 km2
hình thành nhiều ngư trường với nguồn lợi hải sản
phong phú để phát triển nghề khai thác thủy sản.
Tóm lại, Quảng Nam nằm trong vùng trọng điểm kinh tế Miền Trung,
phía bắc giáp thành phố Đà Nẵng, phía nam giáp khu kinh tế Dung Quất, có
sân bay, cảng biển, đường Xuyên Á nên rất thuận lợi cho việc giao lưu phát
triển kinh tế - xã hội và có tầm quan trọng trong an ninh, quốc phòng [64].
2.2.1.2. Điều kiện kinh tế - xã hội
* Về thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế
Năm 2018, tổng sản phẩm trên địa bàn tỉnh đạt 68.100 tỷ đồng, tăng
8,11% so với năm 2017 (bình quân 3 năm (2016-2018) tăng 13,1%; vượt chỉ
tiêu theo Nghị quyết. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực, khu
vực nông - lâm - thuỷ sản còn 12%, khu vực công nghiệp và xây dựng,
thương mại - dịch vụ 88%, trong đó công nghiệp xây dựng 36,8%. GRDP
bình quân đầu người hơn 61 triệu đồng/người [65].
Ngành công nghiệp - xây dựng tăng trưởng gần 13,3%, bình quân 3
năm tăng gần 15,3%; trong đó công nghiệp tăng gần 14%; ngành dịch vụ hơn
6,3%, bình quân 3 năm tăng 13,7%. Tổng mức bán lẻ hàng hoá và dịch vụ
tiêu dùng hơn 49.800 tỷ đồng, tăng gần 1,4 lần so năm 2016; hoạt động du
lịch tăng trưởng khá, tổng lượt khách tham quan, lưu trú trên 6,5 triệu lượt,
tăng 21,5%, bình quân 3 năm tăng 19%/năm [65].
Nông, lâm nghiệp và thuỷ sản tiếp tục duy trì và phát triển ổn định,
tăng trưởng 4,28%, bình quân 3 năm tăng 3,8%/năm. Sản xuất nông nghiệp
năm 2018 được mùa, năng suất lúa đạt 53,6 tạ/ha, tăng 0,4 tạ/ha; sản lượng
đạt trên 462 nghìn tấn, tăng 01 nghìn tấn so với năm 2017. Chăn nuôi gia súc,
43. 36
gia cầm nhìn chung ổn định, ít xảy ra dịch bệnh [65].
Đã tập trung chỉ đạo, triển khai quyết liệt công tác quản lý, bảo vệ và
phát triển rừng, Tỷ lệ che phủ rừng đạt 57,38%, vượt kế hoạch đề ra.
Tổng thu ngân sách nhà nước trên địa bàn hơn 23.741 tỷ đồng, tăng
20,66% so với dự toán; trong đó thu nội địa hơn 19.131 tỷ đồng, tăng 23,62%
so với dự toán. Thu xuất nhập khẩu hơn 4.405 tỷ đồng, tăng 4,88% so với dự
toán (tính đến ngày 31/12/2018) [65].
Tổng chi cân đối ngân sách địa phương hơn 18.917 tỷ đồng, tăng 7% so
với dự toán; trong đó, chi thường xuyên 11.740 tỷ đồng, tăng 2% dự toán, chi
đầu tư phát triển 4.420 tỷ đồng. Nguồn vốn huy động năm 2018 gần 48.970 tỷ
đồng, tăng gần 12% so với đầu năm.
Phát triển kinh tế - xã hội nông thôn, miền núi, chương trình nông thôn
mới, giảm nghèo đạt được một số kết quả.
Thực hiện Nghị quyết của Tỉnh ủy và HĐND tỉnh về phát triển kinh tế -
xã hội miền núi tỉnh đã sắp xếp, ổn định dân cư cho 1.860 hộ, đạt 65,6% kế
hoạch. Đến nay, bình quân số tiêu chí đạt chuẩn nông thôn mới (NTM) là
13,51 tiêu chí/xã, tăng 0,4 tiêu chí/xã so với năm 2017, trong đó các xã miền
núi bình quân đạt 10,02 tiêu chí/xã; không còn xã dưới 5 tiêu chí, đến cuối
năm 2018, có thêm 14 xã đạt chuẩn nông thôn mới, nâng tổng số xã đạt chuẩn
nông thôn mới đến cuối năm 2018 là 86 xã, đạt tỷ lệ 42,15%. Triển khai thực
hiện có hiệu quả các chương trình, chính sách giảm nghèo, chính sách khuyến
khích thoát nghèo bền vững. Trong năm đã giảm được 6.575 hộ nghèo (tỷ lệ
giảm 1,71%); số hộ nghèo của tỉnh còn 31.537 hộ (tỷ lệ 7,57%) [66].
Quản lý tài nguyên, môi trường được quan tâm, công tác giải phóng
mặt bằng, bồi thường, hỗ trợ tái định cư được tập trung chỉ đạo thực hiện
quyết liệt. Triển khai điều chỉnh quy hoạch sử dụng đất đến năm 2020 và kế
hoạch sử dụng đất kỳ cuối (2016-2020) của tỉnh; sửa đổi, bổ sung Bảng giá
44. 37
đất trên địa bàn tỉnh thời kỳ 2015-2019. Đẩy nhanh tiến độ đo đạc, xây dựng
hệ thống hồ sơ địa chính, cơ sở dữ liệu quản lý đất đai và cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất cho nhân dân các xã Vùng Đông. Tăng cường công
tác quản lý, bảo vệ môi trường, đặc biệt là ở các khu, cụm công nghiệp, cơ sở
sản xuất, khu du lịch. Hoàn thành 02 nhà máy xử lý nước thải tập trung tại các
khu công nghiệp: Đông Quế Sơn và KCN cơ khí ô tô Chu Lai Trường Hải;
nâng số lượng các KCN đang hoạt động có hệ thống xử lý nước thải lên 06/07
KCN (tỷ lệ 85,7%) [67].
Tập trung quyết liệt chỉ đạo thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp lập lại kỷ
luật, kỷ cương trong lĩnh vực tài nguyên khoáng sản, lâm sản nhất là cát, sỏi
trên sông Vu Gia, Thu Bồn; triển khai phương án kiểm tra, truy quét các địa
bàn trọng điểm về tài nguyên lâm sản, khoáng sản. Ưu tiên giải quyết các tồn
tại, vướng mắc, đẩy nhanh tiến độ giải phóng mặt bằng, bàn giao mặt bằng
sạch các dự án trọng điểm, dự án vùng Đông Nam và ven biển.
Các vấn đề về văn hóa, xã hội được tập trung giải quyết. Trong năm
2018, nhiều hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao diễn ra nhân sự
kiện và các ngày lễ như hoạt động mừng Đảng, đón Xuân; kỷ niệm 21 năm tái
lập tỉnh và 43 năm ngày Giải phóng Quảng Nam. Tổ chức thành công các
hoạt động và lễ hội nổi bật như: Lễ hội Văn hóa - Thể thao các huyện miền
núi tỉnh Quảng Nam lần thứ XIX và Ngày hội văn hóa các dân tộc miền
Trung lần thứ III, những ngày văn hóa Nhật Bản tại Quảng Nam và giao lưu
văn hóa Hội An - Nhật Bản lần thứ 16. Phối hợp tổ chức thành công nhiều
giải thể thao truyền thống; giải Bóng chuyền nữ quốc tế cúp VTV9 Bình Điền
lần thứ XII và Đại hội thể dục thể thao tỉnh lần thứ VIII [65].
Năm học 2017-2018 đảm bảo đúng kế hoạch, chất lượng mũi nhọn tiếp
tục được duy trì và đạt được những kết quả cao tại các kỳ thi khu vực và toàn
quốc. Tiếp tục xây dựng trường đạt chuẩn quốc gia theo lộ trình, đã công
45. 38
nhận 9 trường đạt chuẩn quốc gia; nâng số trường đạt chuẩn quốc gia trên địa
bàn tỉnh lên 492 trường, đạt tỉ lệ 60%. Tiếp tục thực hiện phân luồng, định
hướng nghề nghiệp cho học sinh sau trung học cơ sở, trung học phổ thông.
Đẩy mạnh ứng dụng khoa học và công nghệ vào sản xuất và đời sống,
chú trọng công tác khởi nghiệp sáng tạo và đổi mới góp phần phát triển kinh
tế xã hội địa phương. Triển khai thực hiện các đề án, chương trình hỗ trợ đầu
tư khoa học công nghệ đối với ngành công nghiệp hỗ trợ cơ khí ô tô, hỗ trợ
ngành dệt may.
Thực hiện tốt chính sách người có công và an sinh xã hội; tập trung giải
quyết hồ sơ chế độ chính sách tồn đọng, nâng cao chất lượng phụng dưỡng Bà
Mẹ Việt Nam Anh hùng; nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho người có
công. Đến nay, đã hỗ trợ xây dựng, sửa chữa hoàn thành 25.971 ngôi nhà,
đang xây dựng 1.220 nhà theo Quyết định 22/2013/QĐ-TTg của Thủ tướng
Chính phủ, đạt tỷ lệ hơn 92,4% so với kế hoạch [64] [65].
Tiếp tục đầu tư phát triển hạ tầng y tế, mở rộng qui mô giường bệnh,
phát triển một số kỹ thuật y tế chuyên sâu; công tác phòng, chống dịch bệnh,
vệ sinh an toàn thực phẩm được kiểm soát tốt nên hạn chế được các dịch bệnh
nguy hiểm, không để dịch bệnh lây lan.
2.2.1.3. Hiện trạng đất lâm nghiệp tại tỉnh Quảng Nam
Quảng Nam có tổng diện tích tự nhiên là 608.391 ha. Năm 2017, toàn
tỉnh có 427.302,3 ha rừng và đất lâm nghiệp (chiếm trên 70% diện tích tự
nhiên). Có 301.751,8 ha có rừng (trên 48% diện tích tự nhiên), trong đó có
149.192,0 ha rừng tự nhiên, 152.559,8 ha rừng trồng. Rừng giàu ở Quảng
Nam hiện có khoảng 10 nghìn ha, phân bố ở các đỉnh núi cao, diện tích rừng
còn lại chủ yếu là rừng nghèo, rừng trung bình và rừng tái sinh, có trữ lượng
gỗ khoảng 69 m3
/ha [64].
46. 39
Bảng 2.1. Diện tích rừng tỉnh Quảng Nam giai đoạn 2014 – 2018
Năm
Diện tích
rừng hiện
có
Theo mục đích sử dụng rừng Nguồn gốc rừng
Rừng
đặc
dụng
Rừng
phòng
hộ
Rừng
sản xuất
Rừng tự
nhiên
Rừng
trồng
2014 280.395,5 24.861,1 117.009,3 138.525,1 165.453,5 114.942,0
2015 289.314,8 22.540,4 114.412,7 152.361,7 161.655,6 127.655,6
2016 291.297,6 23.424,5 98.922,3 168.950,8 155.870,7 135.426,9
2017 301.751,8 22.920,1 98.477,4 180.261,3 149.192,0 152.559,8
2018 314.216,2 22.365,2 97.163,4 194.687,6 149.005,2 165.211,0
Nguồn: Chi cục Kiểm lâm tỉnh Quảng Nam
Trong phần diện tích đã được giao, hộ gia đình, cá nhân, các cơ quan
Nhà nước và các tổ chức kinh tế nắm phần lớn diện tích; các tổ chức liên
doanh, tổ chức 100% vốn nước ngoài và cộng đồng được giao diện tích nhỏ.
Hình 2.1 thể hiện tỷ lệ phần diện tích được giao cho các nhóm sử dụng. Trong
diện tích đất lâm nghiệp được giao cho các nhóm đối tượng sử dụng, diện tích
đất hiện đang được hộ gia đình và cá nhân chiếm tỉ lệ cao nhất (37% trong
tổng số, tương đương với gần 116.259,92ha). Khoảng 70% diện tích đất lâm
nghiệp mà hộ gia đình và cá nhân được giao sử dụng là đất rừng sản xuất, còn
lại (gần 30%) là đất rừng phòng hộ [14].
47. 40
Hình 2.1. Cơ cấu giao rừng cho các chủ thể
Các tổ chức thuộc Nhà nước, chủ yếu là các Ban quản lý rừng phòng hộ
và rừng đặc dụng hiện đang được giao khoảng 103.691,34 ha, chiếm 33%
trong tổng diện tích đất lâm nghiệp đã được giao. Tuy nhiên, khác với phần
diện tích đất được giao cho hộ gia đình và cá nhân, diện tích đất được giao
cho các cơ quan Nhà nước, UBND chủ yếu là đất rừng phòng hộ (44%) và đất
rừng đặc dụng (39%); diện tích đất rừng sản xuất chỉ chiếm 17%. Nói cách
khác, hầu hết các diện tích đất rừng phòng hộ và rừng đặc dụng hiện đang
được giao cho các tổ chức thuộc Nhà nước [14] [64].
2.2.2. Tình hình công tác giao rừng cho cá nhân, hộ gia đình tại tỉnh
Quảng Nam
* Các chính sách quy định việc giao và khoán đất
Pháp luật hiện hành quy định việc tiếp cận đất đai, bao gồm cả đất lâm
nghiệp của các cá nhân, tổ chức thuộc Nhà nước và bên ngoài Nhà nước như
hộ gia đình và cá nhân được thực hiện qua 2 cơ chế giao và giao khoán. Giao
đất là việc Nhà nước với vai trò là chủ sở hữu về đất đai tiến hành giao đất
cho các tổ chức thuộc Nhà nước và bên ngoài Nhà nước như hộ gia đình và cá
Hộ gia đình, cá
nhân
37%
Tổ chức kinh tế
29 %
Cơ quan nhà
nước
28%
UBND xã
5%
Cộng đồng
7%
Tổ chức khác
4%
48. 41
nhân nhằm sử dụng đất theo kế hoạch đã được Nhà nước phê duyệt [64].
Trong cơ chế này, mối quan hệ giữa Nhà nước và các nhóm được giao
đất, thông qua đất đai, được điều chỉnh bằng pháp luật hành chính, với quyền
lợi và trách nhiệm của người giao và người nhận đất được quy định cụ thể
theo luật đất đai. Giao khoán, hay còn gọi là khoán, là việc các tổ chức của
Nhà nước, được Nhà nước giao đất như các công ty lâm nghiệp hoặc các Ban
quản lý tiến hành việc khoán đất rừng sản xuất cho các hộ gia đình và cá nhân
với mục đích sản xuất (ví dụ trồng rừng kinh tế), hoặc khoán rừng phòng hộ
cho các hộ gia đình, cá nhân với mục đích bảo vệ. Cơ chế khoán đất và/hoặc
rừng thể hiện mối quan hệ giữa công ty lâm nghiệp (hoặc Ban quản lý) và
người dân, thông qua đất đai, rừng, được điều chỉnh bằng mối quan hệ dân sự,
trong đó Nhà nước chỉ đóng vai trò tạo khung pháp luật điều chỉnh mối quan
hệ và hành vi giữa bên giao khoán và bên nhận khoán.Theo Nhà nước thực
hiện giao đất cho hộ gia đình và cá nhân (sau đây được gọi chung là hộ) sẽ
giúp hộ tiếp cận tốt hơn đối với đất đai. Theo cách lập luận này, khi các hộ
được nhận đất và các quyền sử dụng đất lâu dài hộsẽ có động lực để đầu tư
phát triển và bảo vệ rừng, tạo cơ hội nâng cao sinh kế và ổn định cuộc sống,
từ bỏ canh tác nương rẫy. Theo cách nghĩ này, khi sinh kế các hộ được cải
thiện hộ sẽ có điều kiện tiếp tục thực hiện đầu tư vào phát triển và bảo vệ
rừng, cải thiện môi trường sinh thái.Hình 2.2 thể hiện mục tiêu của giao đất
cho hộ gia đình.
49. 42
Mục tiêu của chính sách giao đất, giao rừng tại tỉnh Quảng Nam
Hình 2.2. Sơ đồ mục tiêu giao rừng cho hộ gia đình, cá nhân
Nguồn: Bổ sung từ nguồn của Castella và cộng sự năm 2006
Số liệu trong bảng 2.1, hình 2.1 tính đến hết ngày 31 tháng 12 năm
2018, tổng diện tích đất lâm nghiệp đã giao cho các hộ gia đình và cá nhân là
116.259,92ha, trong đó đất rừng sản xuất chiếm 69,5%, đất rừng phòng hộ
chiếm 29,8%, còn lại là đất rừng đặc dụng. Diện tích rừng tự nhiên được giao
cho hộ tương đối lớn, chiếm 53% trong tổng lượng đất có rừng được giao cho
hộ gia đình. Tuy nhiên cho đến nay, hầu hết các hộ đều chưa được hưởng lợi
từ diện tích rừng này. Kết quả này cho thấy rằng trên 70% diện tích rừng tự
nhiên được giao cho hộ là rừng nghèo, do vậy hạn chế về tiềm năngkinh tế mà
rừng có thể đem lại cho hộ. Bên cạnh đó, quyền của hộ được giao đất là rừng
tự nhiên rất hạn chế: so sánh một cách tương đối, các quyền sử dụng rừng của
hộ đối với rừng tự nhiên chưa bằng một nửa so với các quyền được giao cho
Tăng cường việc bảo vệ
tài nguyên rừng
Giao đất, giao rừng cho
hộ gia đình, cá nhân
Tăng cường tính trách
nhiệm của hộ với rừng
Tăng cường phát triển
vốn rừng
Cải thiện sinh kế hộ Áp dụng hình thức định
canh, định cư
50. 43
hộ đối với đất sản xuất nông nghiệp và đất trồng rừng. Điều này có nghĩa rằng
có 2 loại hình thể chế được áp dụng đối với các hộ nhận đất rừng trên đó có
rừng tự nhiên là rừng sản xuất. Thứ nhất là pháp luật đất đai, điều chỉnh mối
quan hệ, bao gồm cả trách nhiệm và quyền lợi của bên giao đất (Nhà nước) và
bên nhận đất (hộ) thông qua đất đai, và Luật Lâm nghiệp năm 2017 điều
chỉnh mối quan hệ giữa 2 bên thông qua rừng tự nhiên là rừng sản xuất. Luật
Đất đai cho phép hộ nhận đất được chuyển nhượng quyền sử dụng đất, được
cho thuê quyền sử dụng đất, có quyền thực hiện thừa kế, tặng quyền sử dụng,
được thế chấp, bảo lãnh, góp vốn bằng quyền sử dụng đất. Tuy nhiên, đối với
rừng tự nhiên, được coi là tài sản ở trên đất, Luật Lâm nghiệp năm 2017không
cho phép việc thực hiện các quyền chuyển nhượng, quyền cho thuê, quyền
cho tặng đối với các quyền sử dụng rừng được giao cho hộ gia đình. Bên cạnh
đó, các quyền cho, tặng, thế chấp đối với rừng nói chung và rừng tự nhiên nói
riêng lại hết sức hạn chế. Bảng 2.2 so sách các quyền của hộ gia đình đối với
đất đai và rừng sản xuất, bao gồm cả rừng tự nhiên và rừng trồng.
51. 44
Bảng 2.2. Phạm vi các quyền của hộ đối với 3 loại rừng theo cơ chế giao và khoán
Các loại
quyền
Rừng phòng hộ Rừng đặc dụng
Rừng sản xuất là rừng
tự nhiên
Rừng sản xuất là rừng
trồng
Quyền
quản lý
Hạn chế, được Ban quản
lý nắm giữ
Hạn chế, được Ban quản
lý nắm giữ
Hạn chế, được công ty
lâm nghiệp nắm giữ
Hạn chế, nếu rừng được
hình thành từngân sách
nhà nước. Không hạn chế,
nếu rừng được hình thành
do vốn của chính hộ
Thu hái sản
phẩmphụ
trong rừng
Hạn chế, nhưng dễdàng
hơn so với rừng đặc dụng
Hạn chế, mức độ cao hơn
so với rừng phòng hộ
Được phép Được phép
Giấy chứng
nhậnquyền
sử dụng đất
Không được cấp, chỉlà
hợp đồng khoán với Ban
quản lý
Không được cấp, chỉlà
hợp đồng khoán với Ban
quản lý
Một số trường hợp được
cấp, nhưng các quyền
của hộ đối với đất và
rừng hạn chế
Được cấp giấy chứng
nhận, với 5 quyền đầy đủ
của hộ như Luật đất đai
quy định
Quyền Hạn chế, chỉ chuyển Hạn chế, chỉ chuyển Hạn chế, chỉ chuyển Được phép
52. 45
Các loại
quyền
Rừng phòng hộ Rừng đặc dụng
Rừng sản xuất là rừng
tự nhiên
Rừng sản xuất là rừng
trồng
chuyển
nhượng
nhượng hợp đồng khoán
khi có sự đồng ý của bên
giao khoán và chính
quyền địa phương
nhượng hợp đồng khoán
khi có sự đồng ý của bên
giao khoán và chính quyền
địa phương
nhượng hợp đồng khoán
khi có sự đồng ý của bên
giao khoán và chính
quyền địa phương
Thời hạn
của
cácquyền
Theo hợp đồng khoán Theo hợp đồng khoán
Được quy định cụthể
trong giấy chứngnhận sử
dụng đất, thông thường
20-50 năm
50 năm
Quyền trao
đổi
Hạn chế, chỉ cho phép
giữa các hộ cùng vùng cư
trú
Hạn chế, chỉ cho phép giữa
các hộcùng vùng cư trú
Hạn chế, chỉ cho phép
giữa các hộcùng vùng cư
trú
Hạn chế, chỉ cho phép giữa
các hộcùng vùng cư trú
Quyền cho
thuê
Không được phép Không được phép Không được phép
Được phép, giới hạn trong
3 năm
Quyền đem Không được phép Không được phép Không được phép Giới hạn, chỉ được tặng