SlideShare a Scribd company logo
1 of 78
VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN PHÚ HẢI
CHÍNH SÁCH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
CỦA VIỆT NAM HIỆN NAY
LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG
HÀ NỘI - 2018
1
VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN PHÚ HẢI
Chính sách hội nhập kinh tế quốc tế
của Việt Nam hiện nay
Chuyên ngành: Chính sách công
Mã số : 843 04 02
LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG
Người hướng dẫn khoa học:
GS. TS. Phạm Quang Minh
HÀ NỘI - 2018
2
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đại hội VI mở đầu cho thời kỳ đổi mới đất nước, Đảng ta đưa ra chủ
trương tranh thủ những điều kiện thuận lợi về hợp tác kinh tế và khoa học kỹ
thuật, tham gia ngày càng rộng rãi vào việc phân công và hợp tác quốc tế
trong “Hội đồng tương trợ kinh tế và mở rộng với các nước khác". Tới Đại
hội VII, Đảng ta định hướng “đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ với các
quốc gia, các tổ chức kinh tế". Tại Đại hội VIII, thuật ngữ “hội nhập” bắt đầu
được đề cập trong các văn kiện của Đảng: “Xây dựng một nền kinh tế mở, hội
nhập với khu vực và thế giới”. Đại hội IX của Đảng nhấn mạnh việc “chủ
động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội
lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập tự chủ và định hướng
xã hội chủ nghĩa”. Ngày 27-11-2001, Bộ Chính trị khóa IX đã ban hành Nghị
quyết số 07-NQ/TW “Về hội nhập kinh tế quốc tế”. Tại Đại hội X, Đảng ta đã
nhấn mạnh chủ trương “chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, đồng
thời mở rộng hợp tác trên các lĩnh vực khác”. Ngày 05-02-2007, Ban Chấp
hành Trung ương Đảng khóa X đã ban hành Nghị quyết số 08-NQ/TW “Về
một số chủ trương, chính sách lớn để nền kinh tế phát triển nhanh và bền
vững khi Việt Nam là thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới”. Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề ra đường
lối đối ngoại của Việt Nam trong thời kỳ phát triển mới, trong đó có chủ
trương rất quan trọng là “chủ động và tích cực hội nhập quốc tế”. Từ “hội
nhập kinh tế quốc tế” của các kỳ đại hội trước, chuyển sang “hội nhập quốc
tế” một cách toàn diện là một phát triển quan trọng về tư duy đối ngoại của
Đảng ta tại Đại hội XI. Ngày 10-4-2013, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết
số 22-NQ/TW về hội nhập quốc tế. Đây là văn kiện quan trọng, có ý nghĩa
3
chiến lược, làm rõ và thống nhất nhận thức trong toàn Đảng, toàn dân về hội
nhập quốc tế trong tình hình mới. Nghị quyết đã xác định rõ hội nhập quốc tế
sẽ được triển khai sâu rộng trên nhiều lĩnh vực, đặc biệt, hội nhập kinh tế phải
gắn với yêu cầu đổi mới mô hình tăng trưởng và tái cơ cấu nền kinh tế.
Việc thực hiện chủ trương trên đây của Đảng đã đạt được nhiều thành
tựu, góp phần quan trọng vào sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội, gia tăng
sức mạnh tổng hợp quốc gia, giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn
vẹn lãnh thổ của đất nước, giữ vững an ninh chính trị và trật tự, an toàn xã
hội; cải thiện đời sống nhân dân, củng cố niềm tin của các tầng lớp nhân dân
vào công cuộc đổi mới; nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.
Nước ta đã thiết lập quan hệ ngoại giao với hầu hết các nước, có quan hệ kinh
tế - thương mại với hơn 160 nước và 70 vùng lãnh thổ, là thành viên của hầu
hết các tổ chức khu vực và quốc tế quan trọng với vị thế và vai trò ngày càng
được khẳng định. Quan hệ giữa nước ta với các nước trên thế giới ngày càng
đi vào chiều sâu; hợp tác về chính trị, quốc phòng, an ninh, văn hóa, xã hội và
các lĩnh vực khác được mở rộng.
Lịch sử toàn thế giới cho thấy nước nào đóng cửa thì không phát triển
được vì không có “cầu” thì “cung” sẽ teo tóp; không tiếp thu được các nguồn
lực bên ngoài như vốn, công nghệ…thì sẽ chìm trong tình trạng lạc hậu.
Chẳng thế mà các nước mạnh hay áp dụng thủ đoạn bao vây, cấm vận để bóp
nghẹt các nền kinh tế mà họ không ưa. Dưới tác động của nhu cầu phát triển,
xu thế quốc tế hóa rồi toàn cầu hóa nẩy sinh, lan tỏa, lôi cuốn các quốc gia
vào dòng chảy toàn cầu, nhờ vậy dòng hàng hóa, vốn đầu tư, dịch vụ, thông
tin, lao động, phương tiện vận tải lan tỏa ra toàn thế giới.
Xuất phát từ nhu cầu phát triển và nhận thức được những xu thế, quy luật
khách quan đó nên nước ta đã chủ trương hội nhập. Tuy nhiên, khi đã đang
tiến những bước vững chắc, tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế phải đột ngột
4
đối mặt với cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu 2008, dẫn tới những chuyển
biến tiêu cực, suy thoái, và bất ổn trên nền kinh tế - tài chính toàn cầu trong
gần một thập kỉ sau đó. Việc nghiên cứu hội nhập kinh tế quốc tế của Việt
Nam, đặc biệt trong giai đoạn từ 2008 đến nay, đã dần nhận được mối quan
tâm lớn của các chuyên gia, học giả trong nước và quốc tế. Mặc dù đã có
nhiều công trình nghiên cứu liên quan trực tiếp và gián tiếp, nhưng việc nhìn
nhận tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam dưới góc độ chính sách
công trong giai đoạn đặc biệt này là một chủ đề cần được tiếp tục nghiên cứu
một cách sâu rộng hơn, phong phú hơn. Từ những lý do trên, Học viên quyết
định lựa chọn đề tài Chính sách Hội nhập Kinh tế quốc tế của Việt Nam
hiện nay để nghiên cứu làm đề tài luận văn thạc sĩ.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Các nghiên cứu quốc tế:
Đề tài sử dụng các nghiên cứu về hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam
được công bố quốc tế trong những năm gần đây có Carlyle A. Thayer,
“Vietnamese Diplomacy, 1975-2015: From Member of the Socialist Camp to
Proactive International Integration”, International Studies, No.34, June 2016;
Peterson, Duc Anh Dang, “How Foreign Direct Investment Promote
Institutional Quality: Evidence from Vietnam,” Journal of Comparative
Economics, Vol. 41, Issue 4, 2013; và “Impacts of International Economic
Integration on Vietnam’s Economy after Three Years of WTO Membership,”
CIEM, 2010.
*Theodore A. Couloumbis và James H. Wolfe: Introduction to
international relations: power and justice. Công trình này của hai nhà khoa
học Couloumbis và Wolfe được coi là một trong những nền tảng nhất của các
giáo trình về quan hệ quốc tế trên thế giới. Trong công trình của mình, hai tác
giả đã đề cập tới cách tiếp cận khoa học chính trị, quan hệ quốc tế, cũng như
5
cân bằng quyền lực. Về phương diện đối nội, các tác giả đi sâu vào các chu
trình chính trị, phương thức ngoại giao, quản trị quốc gia, cũng như các
phương thức tình báo và các công cụ phi quân sự. Về phương diện đối ngoại,
các tác giả đi sâu vào mâu thuẫn và chiến tranh, các thể chế, hệ thống quốc tế
với các nguyên tắc pháp lí quốc tế.
* Karl W. Deutsch and all (1957), Political Community and the North
Atlantic Area, Princeton, N.J., Princeton University Press. Cuốn sách này là
công trình đầu tiên trong một loạt các công trình được Trung tâm nghiên cứu
về các Thể chế chính trị quốc tế tại Đại học Princeton tiến hành. Các tác giả
đã thực hiện nhiều nghiên cứu về hội nhập và các tổ chức quốc tế. Dựa trên
các kết quả tìm được, các tác giả đã đề cập tới các hiệu ứng tích cực từ những
tổ chức, thể chế quốc tế với sự tham gia của nhiều thành viên. Nói cách khác,
hội nhập là hướng đi phù hợp và hiệu quả, và chính hội nhập sẽ phát huy tối
đa năng lực của các quốc gia thành viên.
* Ruggie, John Gerard (1992), Multilateralism: The Anatomy of an
Institution, International Organization Vol. 46 (3), 1992, Print. Tác giả
Ruggie đã đề xuất trong tác phẩm này rằng các bộ phận của trật tự thể chế
quốc tế ngày nay xuất hiện khá mạnh mẽ và thích ứng. Điều này đúng không
chỉ trong kinh tế mà còn trong các vấn đề an ninh; và điều đó không chỉ xuất
hiện ở châu Âu mà còn ở cấp độ toàn cầu. Lý do là đây là các tổ chức và các
tổ chức đó là "có nhu cầu". Một tính năng cốt lõi của trật tự thể chế quốc tế là
hình thức đa phương của nó. Dạng đa phương, trong những trường hợp nhất
định, dường như có những đặc điểm giúp tăng cường độ bền và khả năng
thích nghi với sự thay đổi của nó. Tuy nhiên, khái niệm đa phương được định
nghĩa kém và do đó không được hiểu rõ trong văn học. Tác phẩm này nhằm
phục hồi ý nghĩa nguyên tắc của chủ nghĩa đa phương từ thực hành lịch sử,
cho thấy cách thức và lý do tại sao những ý nghĩa nguyên tắc này đã được thể
6
chế hoá, và cho thấy tại sao đa phương có thể tiếp tục đóng một vai trò quan
trọng ngày hôm nay ngay cả khi một số điều kiện sau chiến tranh đã thay đổi.
Các nghiên cứu trong nước:
* TS Ngô Văn Điểm (chủ biên): “Toàn cầu hóa kinh tế và hội nhập kinh
tế quốc tế của Việt Nam”, Nxb CTQG, H, 2004. Trong quá trình nghiên cứu,
phân tích sâu về tính trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam, các tác giả
đã tập trung vào ba lĩnh vực sau: thu hút vốn đầu tư nước ngoài FDI; thương
mại; và đổi mới, quản lý các DNNN.
* Trương Cường (chủ biên): “WTO: kinh doanh và tự vệ”, Nxb Hà Nội,
2007. Các tác giả đã có sự nghiên cứu, phân tích về vai trò; cấu trúc và quy
định pháp lý; những nguyên tắc cơ bản của WTO; đồng thời đưa ra những yêu
cầu mà việc gia nhập tổ chức này sẽ đòi hỏi ở các doanh nghiệp Việt Nam.
* Tổng cục Thống kế: “Thông cáo báo chí giai đoạn quý I/2008 đến quý
I/2018”, Hà Nội. Đây là tập hợp các thông cáo báo chí thường kì của Tổng
cục Thống kê về tình hình kinh tế - xã hội của Việt Nam, cung cấp cho quá
trình nghiên cứu các con số chính thức về các vấn đề có liên quan trong phát
triển kinh tế.
Bên cạnh đó, phải kể đến các nghiên cứu khác đăng tải trên các tạp chí
chuyên ngành như “28 năm hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam: tiến tình,
thành tựu, và giải pháp thúc đẩy”, Tạp chí Phát triển và Hội nhập, số 14 (24) –
Tháng 01-02/2015, tr. 35-39 của GS. TS. Chu Văn Cấp; hay “Khủng hoảng
tài chính toàn cầu và những vấn đề đặt ra đối với nền kinh tế Việt Nam”, Tạp
chí Phát triển và Hội nhập, số 1 – Tháng 10/2009, tr. 23-28 của PGS. TS.
Nguyễn Văn Luân và PGS. TS. Nguyễn Văn Trình; “Xu thế hội nhập quốc tế
và lựa chọn của Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu Quốc tế, số 3(94)/2013;
“Nguyên nhân sâu xa dẫn tới cuộc khủng hoảng tài chính của Mỹ”, Tạp chí
Cộng sản, 5/4/2018; “Hội nhập kinh tế quốc tế: Từ quan điểm của Đảng đến
7
thực tiễn” của TS. Nguyễn Tất Thắng, 3/1/2015; “Hội nhập quốc tế: một số
vấn đề lý luận và thực tiễn” của TS. Phạm Quốc Trụ, Tạp chí Nghiên cứu
Quốc tế, số 85 - tháng 6/2011.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1 Mục đích
Phân tích làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về chính sách hội nhập kinh tế
quốc tế của Việt Nam hiện nay, từ đó rút ra bài học và đưa ra một số kiến
nghị nhằm nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế trong tương lai.
3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục tiêu tổng thể nói trên, đề tài xác định những nhiệm vụ
nghiên cứu cụ thể như sau:
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn của chính sách hội nhập
kinh tế quốc tế;
- Phân tích và làm rõ sự thực trạng chính sách hội nhập kinh tế quốc tế
của Việt Nam hiện nay;
- Nghiên cứu làm rõ các tác động của chính sách hội nhập kinh tế quốc
tế tới sự phát triển kinh tế Việt Nam, và kiến nghị một số giải pháp
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1 Đối tượng nghiên cứu
- Chính sách hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam;
- Tác động của chính sách hội nhập kinh tế quốc tế đến phát triển kinh tế
Việt Nam;
4.2 Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: Đề tài tập trung nghiên cứu chính sách hội nhập kinh tế
quốc tế của Việt Nam trên cả hai phương diện lý luận và thực tiễn, cùng các
tác động của các chính sách này tới sự phát triển kinh tế Việt Nam.
8
- Về thời gian: giai đoạn từ năm 2008 (thời điểm xảy ra khủng hoảng
kinh tế tại Mỹ và năm đầu tiên sau khi Việt Nam chính thức gia nhập WTO)
đến nay.
- Về không gian: phạm vi lãnh thổ Việt Nam.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1 Phương pháp luận
Đề tài nghiên cứu sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và quan
điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về hội nhập kinh tế quốc tế.
5.2 Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp lịch sử và logic: đây là hai phương pháp được sử dụng để
mô tả và hiểu rõ được tiến trình và nội dung chính sách hội nhập kinh tế quốc
tế của Việt Nam;
- Phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, đối chiếu: trên cơ cở thu
thập và tổng hợp nhiều nguồn tư liệu khác nhau, học viên tiến hành phân tích
làm rõ thực trạng triển khai chính sách hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam
trong giai đoạn khủng hoảng kinh tế 2008 đến nay;
- Phương pháp tổng kết thực tiễn: phương pháp này được sử dụng để làm
rõ, đánh giá và phân tích những mặt tích cực và hạn chế, tác động đến phát
triển kinh tế, trên cơ sở thực tiễn thực thi chính sách hội nhập kinh tế quốc tế.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Ý nghĩa lý luận:
- Luận văn góp phần làm phong phú thêm hệ thống lý thuyết nghiên cứu
về chính sách hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam.
- Ý nghĩa thực tiễn:
- Luận văn có thể được dùng làm tài liệu tham khảo cho việc học tapajm
nghiên cứu, giảng dạy về đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam
9
trong vấn đề phát triển kinh tế đất được và gợi ý một số kiến nghị nhằm thúc
đẩy các hoạt động hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam hiện nay.
7. Kết cấu của luận văn:
Luận văn gồm có 4 phần: Phần mở đầu, Nội dung, Kết Luận, và Tài liệu
tham khảo. Trong đó, Nội dung gồm 3 chương và 11 tiểu mục. Trong đó,
Chương I nêu lên các cơ sở lý luận và thực tiễn trong việc thực hiện đề tài này
về chính sách hội nhập kinh tế quốc tế. Chương II đề cập tới các tiến trình mà
Việt Nam đã thực hiện nhằm hội nhập kinh tế quốc tế. Và Chương III đề cập
tới các thành tựu, hạn chế của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt
Nam, từ đó đưa ra các dự báo và đề xuất đối với một số chính sách trong
tương lại.
10
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA CHÍNH
SÁCH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
1.1 Cơ sở lý luận
1.1.1 Một số khái niệm cơ bản:
Với mục đích tìm hiểu về việc hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam
trong giai đoạn 2008 đến nay, một số khái niệm sau cần được làm rõ để phục
vụ nội dung nghiên cứu: Hội nhập và hội nhập kinh tế là gì? Chính sách và
chính sách kinh tế là gì?
1.1.2 Hội nhập và hội nhập kinh tế quốc tế
Khái niệm Hội nhập kinh tế quốc tế
Thuật ngữ “hội nhập quốc tế” trong tiếng Việt có nguồn gốc dịch từ
tiếng nước ngoài (tiếng Anh là “international integration”, tiếng Pháp là
“intégration internationale”). Đây là một khái niệm được sử dụng chủ yếu
trong các lĩnh vực chính trị học quốc tế và kinh tế quốc tế, ra đời từ khoảng
giữa thế kỷ trước ở châu Âu, trong bối cảnh những người theo trường phái thể
chế chủ trương thúc đẩy sự hợp tác và liên kết giữa các cựu thù (Đức-Pháp)
nhằm tránh nguy cơ tái diễn chiến tranh thế giới thông qua việc xây dựng
Cộng đồng châu Âu. Trên thực tế cho đến nay, có nhiều cách hiểu và định
nghĩa khác nhau về khái niệm “hội nhập quốc tế”.
Ở Việt Nam, thuật ngữ ‘hội nhập kinh tế quốc tế” bắt đầu được sử dụng
từ khoảng giữa thập niên 1990 cùng với quá trình Việt Nam gia nhập
ASEAN, tham gia Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) và các thể chế
kinh tế quốc tế khác. Những năm gần đây, cụm từ “hội nhập quốc tế” (thậm
chí nói ngắn gọn là “hội nhập”) được sử dụng ngày càng phổ biến hơn và với
hàm nghĩa rộng hơn hội nhập kinh tế quốc tế. Có một thực tiễn đáng lưu ý là
trước khi thuật ngữ “hội nhập kinh tế quốc tế” được đưa vào sử dụng, trong
11
tiếng Việt đã xuất hiện các cụm từ “liên kết kinh tế quốc tế” và “nhất thể hóa
kinh tế quốc tế”. Cả ba thuật ngữ này thực ra được sử dụng để chỉ cùng một
khái niệm mà tiếng Anh gọi là “international economic integration”.
Như vậy, cần xác định một cách tiếp cận phù hợp đối với khái niệm “hội
nhập kinh tế quốc tế”. Trong bài viết Hội nhập quốc tế: một số vấn đề lý luận
và thực tiễn, TS. Phạm Quốc Trụ cho rằng: “[h]ội nhập quốc tế được hiểu như
là quá trình các nước tiến hành các hoạt động tăng cường sự gắn kết họ với
nhau dựa trên sự chia sẻ về lợi ích, mục tiêu, giá trị, nguồn lực, quyền lực
(thẩm quyền định đoạt chính sách) và tuân thủ các luật chơi chung trong
khuôn khổ các định chế hoặc tổ chức quốc tế.” [20]
Với cách tiếp cận như vậy về hội nhập kinh tế quốc tế, chúng ta có thể
luận rằng hội nhập kinh tế quốc tế là một quá trình mà trong đó, hai hoặc
nhiều hơn hai quốc gia trong một khu vực địa lý rộng lớn giảm một chuỗi các
hàng rào thương mại để đạt được hoặc bảo vệ một số các lợi ích kinh tế nhất
định. Như Nguyên Phó Thủ tướng Vũ Khoan đề cập, hội nhập kinh tế quốc tế
được hiểu là “các quy định nhằm tự do hóa thương mại, dịch vụ, đầu tư như:
Giảm thiểu rồi đi tới bãi bỏ các quy định hành chính phi quan thuế; giảm
thiểu và đi tới xóa bỏ hàng rào quan thuế; mở cửa thị trường với mức độ và lộ
trình khác nhau; hình thành sân chơi bình đẳng cho mọi loại hình doanh
nghiệp; xóa bỏ bao cấp đối với hoạt động kinh doanh có liên quan tới thị
trường bên ngoài; áp dụng những quy định chung về mua sắm chính phủ, hải
quan, bảo vệ tài sản trí tuệ, vệ sinh an toàn thực phẩm, các tiêu chuẩn về môi
trường sinh thái, lao động, các quy định về tự vệ, chống bán phá giá…” [28]
Vai trò của hội nhập kinh tế quốc tế
Tham gia vào các tổ chức kinh tế thế giới và khu vực sẽ tạo điều kiện
cho các quốc gia thành viên có cơ hội phát triển kinh tế một cách nhanh
chóng. Cơ hội này đến từ chính vai trò của hội nhập kinh tế quốc tế, trong đó
12
phải kể tới: mở rộng thị trường xuất nhập khẩu của quốc gia tham gia quá
trình hội nhập kinh tế quốc tế; tăng thu hút đầu tư nước ngoài, viện trợ phát
triển chính thức và giải quyết vấn đề nợ quốc tế; tiếp thu khoa học công nghệ
tiên tiến, đào tạo cán bộ và giải quyết vấn đề việc làm; hay đóng góp vào công
tác đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ cán bộ trong nhiều lĩnh vực. Trong trường
hợp cụ thể là Việt Nam, một vai trò nữa của hội nhập kinh tế quốc tế là duy trì
hoà bình ổn định, tạo dựng môi trường thuận lợi để Việt Nam xây dựng nền
tảng, phát triển năng lực, và thực thi quyền lực mềm. Tuy nhiên, không ít
thách thức được đặt ra, như: khả năng của con người, doanh nghiệp, cơ chế
nhà nước, cũng như các thể chế, cơ quan chính phủ trong việc thích nghi với
môi trường quốc tế cạnh tranh gay gắt mà hội nhập kinh tế quốc tế đem lại.
1.1.3 Chính sách hội nhập kinh tế quốc tế
Khái niệm Chính sách hội nhập kinh tế quốc tế
Vai trò của hội nhập kinh tế quốc tế là đối với Việt Nam là vô cùng to
lớn, song hành với đó là yêu cầu thực tiễn về việc tiến hành hội nhập kinh tế
quốc tế một cách hợp lý, hiệu quả. Để thực hiện điều đó, Chính phủ phải đưa
ra và thực hiện các chính sách cụ thể. Nếu như chính sách được hiểu là “các
chương trình hành động hướng đích của chủ thể nắm hoặc chi phối quyền lực
chính trị nhằm thực hiện các mục tiêu cụ thể đối với các đối tượng cụ thể nào
đó” [27]. Các mục tiêu này bao gồm sự phát triển toàn diện trên tất cả các lĩnh
vực kinh tế - văn hóa – xã hội – môi trường. Hay nói cách khác, chính sách là
công cụ để nhà nước, chính phủ thực hiện các ý định của họ đối với các lĩnh
vực mà họ quản lý. Từ đó, chính sách hội nhập kinh tế quốc tế có thể được
hiểu là chương trình hành động hướng đích của nhà nước, nhằm thực hiện
việc hợp tác, song phương hoặc đa phương, với các quốc gia trên thế giới để
đạt được và bảo vệ các thoả thuận đem lại lợi ích kinh tế của quốc gia đó.
13
Đặc điểm của chính sách hội nhập kinh tế quốc tế
Có thể nói rằng, xu hướng tất yếu của hội nhập kinh tế quốc tế chính là
việc cùng với sự gia tăng hội nhập kinh tế quốc tế, hàng rào thương mại giữa
các thị trường sẽ dần biến mất.
Để nhận diện các chính sách hội nhập kinh tế quốc tế, việc phân loại
chúng dựa theo các đặc trưng mà chúng có là yếu tố quan trọng. Về đặc điểm
phạm vi địa lý, có thể chia chính sách hội nhập kinh tế quốc tế theo các
hướng: song phương, đa phương, và khu vực. Với chính sách hội nhập kinh tế
quốc tế theo khu vực, các quốc gia tham gia vào loại hình chính sách này
thường gắn kết với nhau trên nền tảng khu vực địa lý, mà điển hình tiêu biểu
và gần gũi nhất đó chính là Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á (Association
of South East Asian Nations – ASEAN), một liên minh chính trị, kinh tế, văn
hóa và xã hội. Bên cạnh đó, các chính sách hội nhập kinh tế song phương
được coi là nội dung cơ bản mà bất kì quốc gia nào cũng thực hiện. Hội nhập
kinh tế quốc tế qua các chính sách song phương là cách hội nhập dựa trên các
thỏa thuận chính sách giữa hai quốc gia, mà trong đó, các điều khoản, nội
dung được các bên trong thỏa thuận đưa ra, hội ý, chấp thuận và cam kết thực
hiện. Điểm mạnh của các chính sách hội nhập kinh tế quốc tế song phương đó
là việc trao đổi đàm phán chính sách giữa hai quốc gia sẽ trực tiếp và mất ít
thời gian (so với hình thức chính sách hội nhập kinh tế quốc tế đa phương).
Tuy nhiên, điểm yếu của các chính sách song phương đó là các quốc gia nhỏ,
yếu thế hơn sẽ gặp nhiều khó khăn khi đàm phán với các nước lớn hơn, do
cửa sổ đàm phán của những nước nhỏ sẽ hẹp hơn, dẫn tới việc họ có thể bị
các nước lớn gây áp lực, và phải chấp nhận các thỏa thuận không thực sự
thuận lợi nhất có thể cho họ.
Chính sách hội nhập kinh tế quốc tế đa phương là sản phẩm của chủ
nghĩa đa phương. Theo công trình của Ruggie xuất bản năm 1992, chủ nghĩa
14
đa phương, một cách định lượng, là sự thỏa thuận, chấp thuận của nhóm từ ba
thành viên trở lên. Một cách định tính, chủ nghĩa đa phương đề xuất việc các
thành viên (cá nhân, quốc gia) ứng xử dựa trên việc tuân thủ các nguyên tắc
chung đã được nhất trí, lấy lợi ích tập thể và lâu dài làm mục tiêu mà bỏ qua
các lợi ích cá nhân, ngắn hạn. Chính sách hội nhập kinh tế quốc tế đa phương
tuân theo bản chất này của chủ nghĩa đa phương. Đó là chính sách đa phương
trong hội nhập kinh tế quốc tế diễn ra trong một nhóm từ ba nước trở lên, với
việc: lợi ích của các quốc gia trong nhóm (liên minh) này không thể chia cắt;
các quốc gia thành viên tham gia, ứng xử dựa trên các nguyên tắc, bộ nguyên
tắc đã được chấp thuận bởi toàn bộ các thành viên liên minh; và sự hợp tác
giữa các quốc gia thành viên phải đem lại lợi ích cho tập thể, giữa các quốc
gia thành viên với nhau, không riêng lẻ [38]. Đây là xu hướng mà rất nhiều
các quốc gia đang theo đuổi, dù là các nước đang phát triển, phát triển, siêu
cường hay các nước nhỏ bởi nó phục vụ tốt nhất cho việc thực hiện các mục
đích toàn cầu hóa, thúc đẩy tăng trưởng công bằng ở phạm vi rộng hơn và tốc
độ cao hơn rất nhiều so với các chính sách hội nhập kinh tế quốc tế song
phương. Các quốc gia nhỏ, yếu thế hơn cần loại chính sách này để có thể đạt
được các lợi ích mà họ không thể đạt được trong các đàm phán chính sách với
các nước lớn hơn. Còn các quốc gia lớn hơn, tuy có khó khăn hơn trong việc
đạt được mục đích của mình một cách áp đảo, nhưng trong bối cảnh chịu ảnh
hưởng mạnh mẽ của khủng hoảng kinh tế năm 2008, thực sự cần loại hình
chính sách đa phương để có thể tháo gỡ các vấn đề mà các nền kinh tế trong
nước của họ gặp phải.
1. Nếu dựa trên đặc điểm về mức độ của chính sách với hội nhập
kinh tế với các đối tượng khác nhau, các chính sách này có thể được phân loại
với các mức độ từ nông tới sâu: (1) Thỏa thuận Thương mại ưu đãi
(Preferential Trade Arrangement/PTA) với các bên tham gia thỏa thuận hạ
15
thấp một phần hàng rào thương mại hàng hóa cho nhau và duy trì hàng rào đó
với các bên thứ ba không tham gia thỏa thuận; (2) Khu vực Thương mại Tự
do (Free Trade Area/FTA) với các bên tham gia thỏa thuận xóa bỏ hầu hết
hàng rào thương mại, thuế quan và phi thuế quan cho nhau nhưng vẫn duy trì
chính sách thuế quan riêng của mỗi bên đối với các nước ngoài FTA; (3) Liên
minh Thuế quan (Custom Union/CU) với các bên tham gia hình thành FTA và
có chính sách thuế quan chung đối với các nước bên ngoài liên minh; (4) Thị
trường Chung (Common Market/CM) với các nước tham gia hình thành Liên
minh Thuế quan đồng thời cho phép sự dịch chuyển tự do của các nhân tố sản
xuất là vốn và lao động; và (5) Liên minh Kinh tế (Economic Union/EU): Các
bên tham gia hình thành thị trường chung đồng thời xây dựng chính sách kinh
tế chung toàn liên minh bằng cách hài hòa hóa các chính sách tài khóa và tiền
tệ quốc gia. Sau này, nhà nghiên cứu El-Agraa, trong tác phẩm Regional
Integration: Experience, Theory and Measurement, đã đi xa hơn trong việc
phân loại các mức độ chính sách hội nhập kinh tế quốc tế bằng việc cụ thể
hóa các yếu tố cấu thành của từng mức độ, dựa trên một hệ tiêu chuẩn chính
sách chung, được thể hiện như sau:
Bảng 1.1: Mức độ cam kết của các hình thức liên minh kinh tế quốc
tế [30, tr. 2]
Hình thức
liên kết
kinh tế
Thương
mại tự do
nội khối
Chính
sách
thương
mại chung
Dịch
chuyển
nhân tố sản
xuất tự do
Chính sách
tiền tệ và
tài khóa
chung
Một
chính
phủ
Khu vực
mậu dịch
tự do
Có Không Không Không Không
Liên minh Có Có Không Không Không
16
thuế quan
Thị trường
chung
Có Có Có Không Không
Liên minh
kinh tế
Có Có Có Có Không
Liên minh
chính trị
Có Có Có Có Có
Cũng cần lưu ý rằng, từ những năm 1990 đến nay, khái niệm Hiệp định
Thương mại Tự do (Free Trade Agreement – FTA) đã mở rộng hơn về phạm
vi và sâu hơn về cam kết tự do hóa. Đây chính là lý do mà các học giả thường
gọi các Hiệp định Thương mại Tự do ngày nay là FTA “thế hệ mới”. Các
FTA ngày nay không chỉ dừng lại ở phạm vi cam kết cắt giảm thuế quan và
hàng rào phi thuế quan, mà hơn thế còn bao gồm nhiều vấn đề rộng hơn cả
cam kết trong khung khổ GATT/WTO cũng như một loạt vấn đề thương mại
mới mà WTO chưa có quy định. Phạm vi cam kết của FTA này còn bao gồm
những lĩnh vực như thuận lợi hóa thương mại, hoạt động đầu tư, mua sắm
chính phủ, chính sách cạnh tranh (còn gọi là “những vấn đề Xingapo”), các
biện pháp phi thuế quan, thương mại dịch vụ, quyền sở hữu trí tuệ, cơ chế giải
quyết tranh chấp, tiêu chuẩn và hợp chuẩn, lao động, môi trường, thậm chí
còn gắn với những vấn đề dân chủ và nhân quyền hay chống khủng bố…
Điều này cũng có nghĩa khái niệm Hiệp định Thương mại Tự do được sử dụng
rộng rãi ngày nay không còn được hiểu trong phạm vi hẹp của những thỏa
thuận hội nhập khu vực và song phương có cấp độ liên kết kinh tế “nông” của
giai đoạn trước thập kỷ 1980, mà đã được dùng để chỉ các thỏa thuận hội nhập
kinh tế “sâu” giữa hai hay một nhóm nước với nhau. Khái niệm Hiệp định
Thương mại Tự do (FTA) ngày nay không còn được hiểu theo ranh giới
17
truyền thống của bốn hình thức tự do hóa và hội nhập kinh tế khu vực như
trình bày ở trên mà đã hàm nghĩa “thế hệ FTA mới” với phạm vi và lĩnh vực
cam kết sâu rộng hơn, toàn diện hơn cả những quy định và phạm vi cam kết
trong khung khổ WTO.
1.1.4 Nội dung của các chính sách hội nhập kinh tế quốc tế
Xác định tầm quan trọng và tính tất yếu của việc hội nhập kinh tế quốc tế,
các chính sách thúc đẩy chuyển dịch và tái cấu trúc nền kinh tế theo hướng
nâng cao khả năng cạnh tranh và mở cửa thị trường để đón nhận sự tham gia
của các tác nhân bên ngoài hay để bước chân sang các thị trường mới là vô
cùng cần thiết, phù hợp với các nội dung của các chính sách hội nhập kinh tế
quốc tế cơ bản.
Các hình thức liên minh kinh tế quốc tế khác nhau sẽ có các đòi hỏi về
chính sách hội nhập kinh tế quốc tế khác nhau. Đối với thương mại tự do,
thuế quan (thuế đánh vào hàng hóa nhập khẩu) giữa các nước thành viên được
giảm đáng kể, một số đã bãi bỏ hoàn toàn. Mỗi quốc gia thành viên giữ thuế
quan riêng của mình đối với các nước thứ ba. Mục tiêu chung của các hiệp
định thương mại tự do là phát triển các nền kinh tế có lợi thế về quy mô và lợi
thế so sánh, thúc đẩy hiệu quả kinh tế. Đối với hình thức công đoàn tùy chỉnh,
các quốc gia thành viên đặt mức thuế chung bên ngoài giữa các quốc gia
thành viên, ngụ ý rằng mức thuế tương tự cũng được áp dụng cho các nước
thứ ba; và như vậy đạt được một chế độ thương mại chung. Đối với hình thức
thị trường chung, dịch vụ và vốn được tự do di chuyển trong các nước thành
viên, mở rộng các nền kinh tế có quy mô với lợi thế so sánh. Tuy nhiên, mỗi
thị trường quốc gia vẫn có những quy định riêng, ví dụ như tiêu chuẩn sản
phẩm. Đối với hình thức liên minh kinh tế (thị trường đơn lẻ), tất cả thuế quan
được loại bỏ để giao dịch giữa các quốc gia thành viên tạo ra một thị trường
thống nhất. Ngoài ra còn có chuyển động lao động miễn phí, cho phép công
18
nhân ở một nước thành viên có thể di chuyển và làm việc ở một nước thành
viên khác. Các chính sách tiền tệ và tài khóa giữa các nước thành viên được
hài hòa, ngụ ý mức độ hội nhập chính trị, thậm chí sử dụng một loại tiền tệ
chung, chẳng hạn như với Liên minh Châu Âu (Euro). Và cuối cùng là hình
thức liên minh chính trị, đại diện cho hình thức tích hợp tiên tiến nhất có thể
với một chính phủ chung và là chủ quyền của quốc gia thành viên được giảm
đáng kể. Hình thức này chỉ được tìm thấy trong các quốc gia, chẳng hạn như
các liên đoàn nơi có chính phủ trung ương và các vùng có mức độ tự chủ.
Khi mức độ hội nhập kinh tế tăng lên, thì sự phức tạp cũng vậy. Điều này
liên quan đến một loạt các quy định, cơ chế thi hành và trọng tài. Sự phức tạp
đi kèm với chi phí có thể làm suy yếu khả năng cạnh tranh của các khu vực
trong hội nhập kinh tế vì nó ít linh hoạt hơn đối với chính sách quốc gia. Một
sự phân chia của hội nhập kinh tế có thể xảy ra nếu sự phức tạp mà nó tạo ra
không còn được đánh giá là có thể chấp nhận được bởi các thành viên của nó.
1.1.5 Các nhân tố ảnh hưởng tới chính sách hội nhập kinh tế quốc tế
Việc một quốc gia có thể thực hiện các chính sách phục vụ cho quá trình
hội nhập kinh tế quốc tế hay không phụ thuộc vào nhiều yếu tố tác động khác
nhau. Trong đó. tính đồng nhất của hàng hoá được sản xuất giữa các nước
thành viên có thể trở thành các cản trở cho quan hệ thương mại. Nếu các nước
sản xuất các loại hàng hóa giống nhau thì không cần phải giao dịch với nhau.
Tình trạng này xảy ra ở các nước Đông Phi sản xuất hầu như các sản phẩm
nông nghiệp tương tự như ngô, đường, v.v. làm suy yếu thương mại giữa các
nước này. Một số quốc gia có thể gặp phải sự khó khăn trong khả năng trao
đổi ngoại hối. Họ có thể không có đủ ngoại tệ để mua bán từ các nước khác
và điều này có thể xuất phát từ khả năng hạn chế trong việc thu lại lợi nhuận
từ các hoạt động xuất khẩu. Nếu theo góc nhìn của thuyết cấu trúc, các quốc
gia có thể có ý thức hệ, văn hoá, tư tưởng, lịch sử khác nhau. Các chính sách
19
nhất định trong khuôn khổ đồng bộ hóa các chiến lược kinh tế của cả khối
hoặc liên minh kinh tế có thể vấp phải các rào cản này, và khiến các quốc gia
này phải khó khăn trong việc tuân thủ hay thực hiện các thoả thuận kinh tế
chung. Trong các khối giao dịch, giao dịch bị suy yếu do giao thông và giao
tiếp kém. Đây là kinh nghiệm chủ yếu ở các nước đang phát triển. Điều này
làm cho việc giao dịch và di chuyển từ nước này sang nước khác trở nên khó
khăn.
Một môi trường chính trị - xã hội yên bình là yếu tố tiên quyết cho khả
năng phát triển kinh tế tối đa mà một quốc gia có thể đạt được. Do đó, nếu
một quốc gia thành viên đang trải qua bất ổn chính trị, nó sẽ ảnh hưởng đến
quan hệ kinh doanh trong toàn bộ khối, dẫn tới việc các thoả thuận trong mối
quan hệ thương mại trong khối và giữa các quốc gia thành viên bị đặt vào một
tình huống nhiều rủi ro. Như vậy các chính sách đối nội, quản trị xã hội, chính
trị của quốc gia đó ảnh hưởng trực tiếp tới nền kinh tế của nước đó, và ảnh
hưởng gián tiếp tới khả năng thực hiện các chính sách hội nhập kinh tế quốc
tế của nước đó.
Trường hợp khác có thể xảy ra đó là các nước trong khối có thể có các
mức phát triển khác nhau. Các nước phát triển hơn sẽ được hưởng lợi nhiều
hơn từ thị trường chung. Các quốc gia kém phát triển hơn sẽ cảm thấy các
chính sách kinh doanh chung của khối có thể không công bằng với họ. Hay
nói cách khác, trên nền tảng phải tuân thủ và bảo đảm các chính sách chung
và cơ bản của một khối các nước hội nhập kinh tế quốc tế, các quốc gia phát
triển hơn sẽ có một khoảng cách quá lớn với các quốc gia kém phát triển hơn.
Nếu tình trạng này diễn ra trong thời gian dài và phổ biến, mục đích của các
chính sách hội nhập kinh tế quốc tế sẽ trở thành con dao hai lưỡi, gây khó
khan cho các nước kém phát triển hơn. Sự kém phát triển này có thể đến từ
khả năng công nghiệp hạn chế với nhiều sản phẩm đầu ra còn ở mức thô, chưa
20
qua chế biến, gây khó khăn đối với các chính sách trao đổi hàng hoá; hoặc
cũng có thể đến từ khả năng thích nghi của con người với quá trình hội nhập
kinh tế quốc tế, mà ví dụ điển hình nhất là rào cản về ngoại ngữ dẫn tới tình
trạng bỏ lỡ cơ hội hợp tác không đáng có.
Cuối cùng, một số quốc gia thành viên, dù có cam kết tuân thủ và bảo vệ
các chính sách chung của khối, nhưng ưa thích việc hội nhập kinh tế quốc tế
với các cường quốc kinh tế khác nhưng ngoài khối. Chính sự can thiệp từ các
nước phát triển không có trong khối giao dịch này dẫn tới việc họ, dù không ở
trong khối đó, có thể áp đặt các điều kiện hạn chế giao dịch giữa các quốc gia
thành viên.
1.2 Cơ sở thực tế
1.2.1 Khủng hoảng kinh tế 2008
Khủng hoảng kinh tế 2008 chính là thời điểm mấu chốt của đề tài này.
Trong giai đoạn mà Việt Nam vừa đạt được các bước tiến đặc biệt trong tiến
trình hội nhập quốc tế (gia nhập WTO vào năm 2007), cuộc khủng hoảng này
xảy ra. Như nhiều các quốc gia khác, Việt Nam đã hứng chịu các tác động
tiêu cực của nó, và tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của chúng ta đã bị ảnh
hưởng, dẫn tới việc Chính phủ phải thực hiện các điều chỉnh chính sách mang
tính bắt buộc. Nhưng cũng chính nhờ sự kiện này, Việt Nam đã tận dụng
thành công một cơ hội khó để có các bước tiến mới trong hội nhập kinh tế
quốc tế. Vậy cuộc Khủng hoảng kinh tế 2008 là gì?
Theo phân tích của thời báo The Economist [37], yếu tố thứ nhất của cuộc
khủng hoảng này bắt đầu từ năm 2001. Lạm phát bị đầy lui và lãi suất hạ, nhất
là sau vụ khủng bố 11-9. Nhưng cuộc khủng hoảng tài chính hiện nay cũng bắt
đầu từ đây. Đó là thời điểm mà FED đã bơm tiền vào nền kinh tế của Mỹ và
giảm dần lãi suất cơ bản từ mức 3,5% năm hồi tháng 8-2001 xuống còn 1% vào
giữa năm 2003. Giải pháp nới lỏng tiền tệ nhìn chung đã giúp cho việc vay tiền
21
ngân hàng dễ dàng hơn và hạ thấp chi phí trong phạm vi toàn bộ nền kinh tế
nhưng đồng thời nó cũng làm đồng tiền bị mất giá và dẫn tới lạm phát. Hơn
nữa, FED đã giữ lãi suất quá thấp như vậy trong một thời gian quá dài.
Yếu tố thứ hai là những khoản vay lãi suất thấp kích thích việc mua
nhà. Vào thời điểm 2006-2007, các ngân hàng thương mại và đầu tư đã tạo
nới lỏng việc cho vay mua nhà dành cho những đối tượng vay ít tin cậy.
FED đã không kiểm soát những thực tế giống như “con dao hai lưỡi” này.
Kết quả là bất kỳ ai cũng có thể vay tiền mua nhà, cho dù họ ít có khả năng
và thậm chí không có khả năng trả nợ. Lãi suất thấp khiến nhiều người đổ
xô mua nhà đã thổi lên “bong bóng” địa ốc. Giá nhà lên cao khiến các ngân
hàng cảm thấy an toàn để đem tiền cho những người không có khả năng trả
nợ vay bởi các ngân hàng cho rằng, nếu những người vay không trả nợ
được, họ sẽ tịch thu nhà với giá trị đã được đẩy lên cao hơn. Mọi việc cứ
suôn sẻ như vậy chừng nào giá nhà vẫn tăng, nhưng một khi giá nhà lên
đến đỉnh điểm và bắt đầu giảm, các điều kiện cho vay bị thắt chặt, khi đó
các ngân hàng bỗng thấy họ đang sở hữu những ngôi nhà mà giá trị của nó
không đủ bù đắp giá trị của các khoản vay.
Yếu tố thứ ba chính là câu trả lời cho câu hỏi vì sao cả một hệ thống tài
chính hùng mạnh bị điêu đứng khi mà những loại nợ tín dụng địa ốc (được
hình thành do việc cho vay tiền mua nhà) trên thị trường tài chính Mỹ chỉ
khoảng 500 tỉ USD - một con số nhỏ so với năng lực của thị trường?
Vẫn theo The Economist [37], nguyên nhân khởi đầu là chính sách mượn
tiền mua nhà. Trước kia các ngân hàng dùng tiền người dân ký thác cho vay
mua nhà để kiếm lời. Đây là một trong những hoạt động bình thường và cổ
điển của các ngân hàng. Điều kiện vay mua nhà phải trả ít nhất 20% tiền mặt,
tiền trả mỗi tháng không quá 1/3 lương bổng, điểm tín dụng tốt, việc làm
vững chắc, lâu dài … Các ngân hàng giữ các món mợ trong chương mục, và
22
như vậy chỉ có thể đủ khả năng cho vay trong giới hạn tiền có trong ngân quỹ,
ngoài số tiền dự trữ thường trực bắt buộc theo quy luật (ít nhất 10% cho các
ngân hàng lớn). Những món nợ này được bảo đảm bởi nhà và như vậy xem
như là rất ít rủi ro.
Khủng hoảng kinh tế toàn cầu 2008 do nhóm tài phiệt Mỹ gây ra, với sự
dính líu tới từ các ngân hàng lớn tại cả Châu Á, Châu Âu, và Mỹ. Năm 2008,
xuất nhập khẩu trên cả thế giới tương đương khoảng 32% tổng sản lượng, tụt
xuống 22% (xuống khoảng $6,000 tỷ). Từ giữa năm 2008 đến giữa năm 2009,
nhập khẩu của Nhật, Mỹ, thị trường chung Âu Châu giảm 30%. Ngành du
lịch, hàng không rất thê thảm trong những năm 2008-2010. Số tiền những
người Mễ, Phi, Việt Nam, Nam Mỹ … gửi từ Mỹ về xứ của họ giảm đáng kể,
gây nhiều khó khăn cho kinh tế và người dân ở các xứ nhược tiểu này. Các
nước kém phát triển trông cậy vào du lịch chịu hậu quả năng nề. Ireland bị
khủng hoảng nặng nề về địa ốc, subprime. Các xứ như Hy Lạp, Ý, Bồ Đào
Nha, Tây Ban Nha, Trung Nam Mỹ, và Á Châu trong đó có Việt Nam chịu
thiệt hại nặng nề về thu nhập du lịch. Nhiều xí nghiệp tại tất cả các nước trên
thế giới đóng cửa hay lao đao. Tại Mỹ, hậu quả của khủng hoảng là 26 triệu
người Mỹ đã mất việc, không kiếm được việc làm toàn thời gian, hoặc đã bỏ
cuộc đi kiếm việc. Khoảng 4 triệu gia đình bị tịch thu nhà, 4.5 triệu gia đình
khác đang đi vào con đường nhà bị tịch thu hay chậm trễ trả tiền vay mượn
mua nhà. Gần $11 ngàn tỷ gia sản trong đó có tiền để dành, tiền hưu trí đã ra
mây khói. Hậu quả của khủng hoảng ảnh hưởng đến nhiều thế hệ, và ngay
chính nước Mỹ cũng rất khó khăn và mất thời gian trong việc tìm ra phương
án phục hồi kinh tế một cách thực sự hiệu quả.
Chính sách nới lỏng tiền tệ của FED, bắt đầu từ cuối năm 2007 để tránh
suy giảm kinh tế, nay lại gây ra lạm phát chứ không giúp nền kinh tế Mỹ phục
hồi. Giá dầu, lương thực và vàng tăng lên đến mức cao nhất trong lịch sử và
23
đồng USD cũng mất giá đến mức chưa từng có. Nhiều nhà phân tích đánh giá,
nếu cứ tiếp tục đẩy mạnh chính sách nới lỏng tiền tệ sẽ khó có thể ngăn chặn
được nguy cơ sụp đổ mà có khi còn tạo ra tình trạng lạm phát và kinh tế suy
giảm hơn nữa.
1.2.2 Kinh nghiệm thực hiện chính sách hội nhập kinh tế quốc tế
tại một số quốc gia trong khu vực và Bài học kinh nghiệm cho Việt
Nam
Báo cáo Khủng hoảng Nợ 2009 của Tổ chức Jubilee Debt Campaign chỉ
ra rằng, các quốc gia dễ bị ảnh hưởng nặng nề bởi các cuộc khủng hoảng kinh
tế thường là các quốc gia theo đuổi các dạng chính sách hội nhập kinh tế như:
thị trường tài chính mở; phụ thuộc nặng nề vào xuất khẩu, nhất là các mặt
hàng mà giá trị thấp hoặc đang mất giá; phụ thuộc nặng nề vào các hình thức
đầu tư từ nước ngoài; hoặc theo đuổi các hình thức tín dụng ngắn hạn, giá trị
cao. [32]
Vẫn theo báo cáo này, là một quốc gia láng giềng trong khu vực của Đông
Nam Á của Việt Nam, nợ nước ngoài của Philippines đứng ở mức 60,3 tỷ đô la
và họ đã trả nợ 13,6 tỷ đô la dịch vụ trong năm 2006. Các tổ chức như thế giới
như Ngân hàng Thế giới World Bank (WB) đã đóng một vai trò quan trọng ở
Philippines kể từ khi khủng hoảng nợ nước ngoài bắt đầu vào đầu những năm
1980. Nhưng, với việc là một quốc gia có thu nhập trung bình, Philippines không
đủ điều kiện để hủy nợ theo các quy định quốc tế chung. Áp lực đối phó với các
khoản nợ ở nhiều cấp độ đã khiến Chính phủ Philippines tìm kiếm thu nhập
ngoại hối thông qua chính ngành công nghiệp khai khoáng của họ. Không may,
nhiều dự án khai thác mỏ được thực hiện đã gây ra thiệt hại nặng nề về môi
trường và xã hội, và động lực thu hút đầu tư cũng đồng nghĩa với việc lợi nhuận
tài chính thu về không cao. Một ví dụ điển hình cho hệ quả của các chính sách
kiểu này là mỏ lộ thiên tại Rapu Rapu ở phía đông nam của Philippines đã gây ra
24
việc ô nhiễm cyanide và chất thải, đã giết số lượng lớn cá, đồng thời là nguồn
kiếm ăn chính của người dân tại địa phương. Hiện nay, tình trạng thiếu tín dụng
toàn cầu và việc giá hàng hóa tụt giảm mạnh gây ra tình trạng các dự án khai
thác bị bác bỏ hoặc bị trì hoãn, lợi nhuận cũng như triển vọng của chính những
dự án này trở nên mù mịt hơn bao giờ.
Khái quát hơn, với việc là một quốc gia thu nhập ở mức trung bình tương
tự như Việt Nam, Philippines rất phụ thuộc vào tài chính tư nhân, thậm chí phụ
thuộc hơn nhiều các quốc gia nghèo nhất khác. Do đó, theo đánh giá của WB,
Philippines cũng sẽ yếu đuối hơn trước cuộc khủng hoảng 2008, và có khả năng
cao bị ảnh hưởng bởi các cuộc khủng hoảng có thể xảy ra trong tương lai. Bởi
vậy, người dân của nước này cũng có khả năng cao hơn hứng chịu nghèo đói và
cuộc sống khó khăn trong giai đoạn hậu khủng hoảng. Cán cân thanh toán của
Philippines thâm hụt khoảng 394 triệu đô la Mỹ trong quý III của năm 2008, một
hình ảnh trái ngược của kết quả thặng dư 3,5 tỷ đô la Mỹ trong cùng kì năm
2007. Khoảng ba phần năm nợ nước ngoài của Philippines là thương mại và hơn
8 tỷ đô la Mỹ là từ các khoản nợ ngắn hạn, sắp đáo hạn trong năm 2009. Trong
khi đó, theo nghiên cứu của Quỹ Kinh tế (Economics Foundation), vào năm
2007, Philippines đã yêu cầu mức hủy nợ 63% chỉ đơn thuần để chính phủ có thể
đáp ứng các nhu cầu cơ bản của công dân. [32]
1.3 Tiểu kết
Có thể nói rằng, Việt Nam, trước sự kiện khủng hoảng kinh tế 2008, đã
đang trải qua một giai đoạn phát triển kinh tế với những dấu hiệu tích cực,
phù hợp với thực trạng tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế còn nhiều hạn chế
vào thời điểm đó. Việt Nam chịu ảnh hưởng lớn từ hệ quả của việc Trung
Quốc, nền kinh tế lớn thứ 3 thế giới lúc bấy giờ, gia nhập WTO trước với
những ưu thế từ việc đi trước trong tiến trình hội nhập, bổ sung vào đó là
những điểm mạnh vốn có của thị trường này đối với Việt Nam. Điểm sáng
25
lớn nhất của giai đoạn trước 2008 của Việt Nam đó là các nỗ lực đạt được các
Thỏa thuận Thương mại Tự do (FTA) như với ASEAN (1992), với Nhật Bản
(2003); hay trở thành thành viên của các tổ chức, liên minh kinh tế thế giới
như APEC (1998), WTO (2007).
Khủng hoảng kinh tế 2008 là một thử thách không nhỏ đối với các nền
kinh tế còn non trẻ trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, trong đó có Việt
Nam. Tuy nhiên, Việt Nam đã có những điều chỉnh nhạy bén để nhanh chóng
thích nghi với tình hình mới. Có thể nói rằng, chúng ta đã có thể biến khó
khăn thành thời cơ để vươn lên, trong bối cảnh các nền kinh tế - tài chính lớn
trên thế giới đang gặp phải các biến cố lớn, và thể hiện sự chậm chạp của họ
trong khả năng phục hồi sau cú sốc 2008.
26
CHƯƠNG 2: THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH
HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM
2.1 Quan điểm, mục tiêu của Đảng về hội nhập kinh tế quốc tế
Tại Việt Nam, các chính sách được Chính phủ đề ra và thực hiện đều
phải mang tính thống nhất, xuyên suốt với tinh thần chỉ đạo của Đảng Cộng
Sản Việt Nam. Trong giai đoạn sau khủng hoảng kinh tế 2008, Đảng đã tiếp
tục có những chỉ đạo, định hướng sâu sắc về chính sách hội nhập kinh tế quốc
tế của Việt Nam. Văn kiện Đại hội XI tiếp tục khẳng định tính khách quan
của việc đa dạng hóa các hình thức sở hữu, coi trọng mọi thành phần kinh tế,
mọi hình thức kinh doanh và vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế nhà nước.
2.1.1 Đa dạng hoá các hình thức sở hữu
Trên cơ sở tổng kết thực tiễn đổi mới, Văn kiện Đại hội XI của Đảng đã
có những khái quát mới về lý luận: “Phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế,
hình thức tổ chức kinh doanh và hình thức phân phối.” [26, 1288]
Lần đầu tiên trong Văn kiện, Đảng nêu đa dạng hóa các hình thức sở
hữu, các thành phần kinh tế, các loại hình doanh nghiệp. Đây là một bước
phát triển mới trong nhận thức lý luận của Đảng về nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa. Từ thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội chúng ta
ngày càng nhận thức rõ hơn mối quan hệ giữa chế độ sở hữu, hình thức sở
hữu và loại hình kinh doanh. Mỗi chế độ sở hữu trong thực tiễn có thể có
nhiều hình thức sở hữu mà ở đó sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất và biểu hiện ra là các loại hình kinh doanh
có hiệu quả cao góp vào quá trình tăng trưởng kinh tế. Sự phát triển đa
dạng của các hình thức sở hữu là do sự phát triển của lực lượng sản xuất. Lực
lượng sản xuất càng đa dạng, trình độ xã hội càng phát triển, quan hệ sản xuất
càng mở rộng thì tính đa dạng trong quan hệ sở hữu cũng ngày càng tăng lên.
27
Vì vậy, Văn kiện Đại hội XI của Đảng chỉ nhấn mạnh “Phát triển nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu,
nhiều thành phần kinh tế, hình thức tổ chức kinh doanh” [26, 1288], còn số
lượng các hình thức sử hữu, các thành phần kinh tế và theo đó là bao nhiêu
loại hình doanh nghiệp là do nhu cầu khách quan của sự phù hợp giữa quan hệ
sản xuất và lực lượng sản xuất quyết định. Đây là một bước tiến nhằm tạo một
không gian mở cho quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất và lực
lượng sản xuất hoạt động, để có thể tránh giáo điều chủ quan.
2.1.2 Coi trọng mọi hình thức sở hữu và loại hình kinh doanh
Văn kiện Đại hội XI của Đảng đã cho thấy khái quát mới về mặt lý
luận, trong đó tập trung vào vào việc phát triển nền kinh tế thị trường với
nhiều thành phần kinh tế, các thiết chết bảo vệc các hình thức sở hữu với
mọi loại thành phần kinh tế, loại hình doanh nghiệp và đặc biệt là quyền và
trách nhiệm của chủ sở hữu đối với xã hội. Những điều này được thể hiện
qua việc, Đảng CSVN đề xuất “hoàn thiện cơ chế, chính sách để phát triển
mạnh kinh tế tư nhân trở thành một trong những động lực của nền kinh tế.
Phát triển mạnh các loại hình kinh tế tư nhân ở hầu hết các ngành, lĩnh vực
kinh tế theo quy hoạch và quy định của pháp luật. Tạo điều kiện hình thành
một số tập đoàn kinh tế tư nhân và tư nhân góp vốn vào các tập đoàn kinh tế
nhà nước”, “Các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận
hợp thành quan trọng của nền kinh tế, bình đẳng trước pháp luật, cùng phát
triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh”. [26, 1288]
Có thể có ý kiến còn băn khoăn về cách tiếp cận nêu trên của Văn kiện
Đại hội XI của Đảng so với lý luận của V.I. Lê-nin về các thành phần kinh tế
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Chúng ta biết rằng, nhận thức về
thành phần kinh tế của V.I. Lê-nin cũng rất uyển chuyển, linh hoạt phù hợp
với các giai đoạn phát triển khác nhau: Giai đoạn áp dụng chính sách cộng sản
28
thời chiến, thành phần kinh tế được nhấn mạnh trên cơ sở quan hệ sở hữu nhất
định, nhưng khi chính sách kinh tế mới (NEP) ra đời, thành phần kinh tế lại
được nhấn mạnh đến các hình thức kinh tế.
Như vậy, ở các giai đoạn khác nhau thì nhận thức về thành phần kinh tế
cũng có sự thay đổi, đó là quá trình khách quan phù hợp với quy luật nhận
thức. Vì vậy, quá trình đổi mới tư duy, đổi mới nhận thức về các thành phần
kinh tế ở nước ta qua các kỳ đại hội của Đảng là hoàn toàn phù hợp với
nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và phù hợp với
thực tiễn Việt Nam trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế, thời kỳ đang phát
triển cả về chiều rộng và chiều sâu.
2.1.3 Vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế nhà nước
Trong Văn kiện Đại hội XI, Đảng tiếp tục khẳng định: “Kinh tế nhà
nước giữ vai trò chủ đạo. Kinh tế tập thể không ngừng được củng cố và phát
triển. Kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng
vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Kinh tế tư nhân là một trong những động
lực của nền kinh tế. Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài được khuyến khích
phát triển. Các hình thức sở hữu hỗn hợp và đan kết với nhau hình thành các
tổ chức kinh tế đa dạng ngày càng phát triển” [26, 1288].
Tại Đại hội VIII (năm 1996), Đảng lần đầu tiên đưa ra phạm trù kinh tế
nhà nước thay vì cách gọi kinh tế quốc doanh trước đó, với nội hàm rộng hơn,
bao quát được toàn bộ các hoạt động quản lý tài nguyên của đất nước; những
cơ sở hạ tầng được tạo ra; các loại quỹ của quốc gia; các doanh nghiệp nhà
nước bao gồm cả doanh nghiệp công ích và doanh nghiệp kinh doanh... nhờ
đó đã giải quyết được vấn đề nhận thức thực tiễn cũng như lý luận về vai trò
chủ đạo của kinh tế nhà nước.
Các doanh nghiệp nhà nước hoạt động có hiệu quả cao sẽ góp phần tăng
cường tiềm lực và sức mạnh của kinh tế nhà nước trong sứ mệnh chủ đạo
29
trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Cho nên, việc tăng
hay giảm cả về quy mô, số lượng, chất lượng hiệu quả sản xuất, kinh doanh
của các doanh nghiệp nhà nước chỉ phản ánh một bộ phận của kinh tế nhà
nước nói chung, chứ không thể coi đó là toàn bộ kinh tế nhà nước với vai trò
chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân.
Văn kiện Đại hội XI của Đảng cũng chỉ rõ: “Nhà nước quản lý nền kinh
tế, định hướng, điều tiết, thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội bằng pháp
luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách và lực lượng vật chất” [26,
1289]. Luận điểm nêu trên của Đảng ta là hoàn toàn phù hợp với thực tiễn
kinh tế khách quan. Bài học từ các nền kinh tế lớn vừa qua cũng cho thấy, vai
trò của nhà nước không chỉ thể hiện ở sự điều hành vĩ mô nền kinh tế, mà còn
ở thực lực của kinh tế nhà nước.
Cuộc khủng hoảng tài chính - kinh tế toàn cầu bắt nguồn từ Mỹ và cuộc
khủng hoảng nợ công ở các nước thành viên Liên minh châu Âu (EU) đã nói
lên điều đó. Mỹ là nền kinh tế lớn nhất toàn cầu, đóng góp 19,39 nghìn tỷ đô
la Mỹ vào GDP toàn cầu trong năm 2017 [34], nhưng thực lực kinh tế lại nằm
trong tay các tập đoàn kinh tế tư nhân, nên khi các “đại gia” sụp đổ thì nhà
nước cũng đứng trước nguy cơ vỡ nợ. Học thuyết chủ nghĩa tự do mới, với
việc hạn chế sự can thiệp của nhà nước vào hoạt động kinh tế đã bị sụp đổ
hoàn toàn. Ông Nicolas Sarkozy, Tổng thống Pháp đồng thời là Chủ tịch luân
phiên của Liên minh châu Âu (EU) đã kêu gọi phải “tái xây dựng một chủ
nghĩa tư bản điều chỉnh.” [18]
Như vậy, để chuyển biến nhận thức từ giai đoạn phân chia các thành
phần kinh tế thành hai loại: kinh tế xã hội chủ nghĩa và phi xã hội chủ
nghĩa (trước đổi mới), đến thừa nhận nền kinh tế nhiều thành phần (trong đổi
mới), và thừa nhận tất cả các thành phần kinh tế đều là những bộ phận cấu
thành của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một quá trình
30
lâu dài, phải trải qua hơn 15 năm đổi mới (đến Đại hội IX năm 2001). Ngày
nay, từ kết quả 25 năm đổi mới chúng ta lại có một bước tiến quan trọng trong
quá trình nhận thức bằng việc khẳng định vai trò của các thành phần kinh tế
qua sự đóng góp đối với sự tăng trưởng và hiệu quả kinh tế mang lại cho nền
kinh tế quốc dân.
Vì thế, trong Văn kiện Đại hội XI, Đảng tiếp tục khẳng định: “Các thành
phần kinh tế hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận hợp thành quan trọng
của nền kinh tế, bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và
cạnh tranh lành mạnh. Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Kinh tế tập thể
không ngừng được củng cố và phát triển. Kinh tế nhà nước cùng với kinh tế
tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân.
Kinh tế tư nhân là một trong những động lực của nền kinh tế. Kinh tế có vốn
đầu tư nước ngoài được khuyến khích phát triển. Các hình thức sở hữu hỗn
hợp và đan kết với nhau hình thành các tổ chức kinh tế đa dạng ngày càng
phát triển. Các yếu tố thị trường được tạo lập đồng bộ, các loại thị trường
từng bước được xây dựng, phát triển, vừa tuân theo quy luật của kinh tế thị
trường, vừa bảo đảm tính định hướng xã hội chủ nghĩa”. [26, 1288]
2.2 Hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam trước 2008
2.2.1 Định hướng của Đảng trước 2008
Với bước ngoặt là Đại hội Đảng lần thứ VI năm 1986 đề ra đường lối đổi
mới toàn diện và sâu sắc mọi lĩnh vực của nền kinh tế, sự nghiệp đổi mới của
Việt Nam được tiến hành trong bối cảnh quốc tế có nhiều thay đổi sâu sắc và
một cục diện, trật tự thế giới mới đang hình thành, trong đó các nước có chế
độ chính trị khác nhau vừa đấu tranh vừa hợp tác với nhau. Đảng đã nhận
thức rõ rằng bối cảnh đó là điều kiện để chúng ta phát triển đường lối đối
ngoại độc lập, tự chủ và rộng mở.
31
Đại hội Đảng lần thứ VII (năm 1991) đã xác định rõ chủ trương “độc lập
tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại” với phương
châm “Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước trong cộng đồng quốc tế,
phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển” [8], đánh dấu bước khởi đầu tiến
trình hội nhập trong giai đoạn mới của nước ta. Thực hiện chủ trương này,
Việt Nam đã không ngừng mở rộng quan hệ hợp tác kinh tế đối ngoại song
phương và đa phương với nhiều đối tác, dưới nhiều hình thức, trên nhiều lĩnh
vực (trao đổi hàng hóa, đầu tư sản xuất, mở rộng quan hệ tài chính - tín dụng,
hợp tác khoa học kỹ thuật), tạo ra môi trường kinh doanh trong nước thuận lợi
và khai thác hiệu quả các nguồn lực bên ngoài phục vụ cho quá trình phát
triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế của đất nước. Thực tế giai đoạn đó
cho thấy chủ trương đúng đắn của Đảng đã đánh dấu bước khởi đầu của Việt
Nam tham gia hội nhập kinh tế quốc tế.
Tháng 11/1996, Bộ Chính trị đã ra Nghị quyết số 01-NQ/TW về mở
rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại giai đoạn 1996 - 2000. Tới
năm 2001, Nghị quyết Đại hội lần thứ IX của Đảng khẳng định chủ trương
“chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển nhanh, có hiệu quả và bền
vững” theo nguyên tắc “bảo đảm độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ
nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hóa dân
tộc, bảo vệ môi trường”.
Sau việc tham gia thành công vào Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO),
vào tháng 01/2007, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã ban hành Nghị quyết
08-NQ/TW ngày 05/02/2007 về một số chủ trương, chính sách lớn để nền
kinh tế phát triển nhanh và bền vững khi Việt Nam là thành viên của WTO.
Nghị quyết đã nêu rõ các cơ hội và thách thức của việc gia nhập WTO và đề
32
ra các định hướng lớn để nền kinh tế nước ta phát triển nhanh và bền vững
sau khi gia nhập WTO. Trên tinh thần đó, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết
số 16/2007/NQ-CP, ngày 27/2/2007, Chương trình hành động của Chính phủ
về “Một số chủ trương, chính sách lớn để nền kinh tế phát triển nhanh và bền
vững khi Việt Nam là thành viên của WTO”; giao các bộ, ngành, địa phương
triển khai các nhiệm vụ cụ thể nhằm tận dụng cơ hội, vượt qua thách thức,
đưa nước ta bước vào giai đoạn phát triển mới. Đây là một bước ngoặt lớn,
diễn ra vào thời điểm ngay trước khi xảy ra cuộc khủng hoảng kinh tế 2008,
và vô hình chung đã tạo một nền tảng thuận lợi cho Việt Nam thực hiện các
chính sách hội nhập kinh tế sau 2008, trong bối cảnh nền kinh tế thế giới hứng
chịu nhiều tổn thất.
2.2.2 Thành tựu và Hạn chế
Cho tới 2007, Việt Nam đã đạt được các kết quả nhất định, và là hệ quả
trực tiếp từ các chính sách hội nhập kinh tế quốc tế.
Thành tựu
Theo báo cáo của Tổng cục Thống kê [24], kinh tế tăng trưởng cao, cơ
cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tiến bộ là thành tựu nổi bật nhất, cơ bản
nhất của nền kinh tế Việt Nam năm 2007. Tổng sản phẩm trong nước ước
tăng 8,44%, đạt kế hoạch đề ra (8,0 - 8,5%), cao hơn năm 2006 (8,17%) và là
mức cao nhất trong vòng 11 năm gần đây. Với tốc độ này, Việt Nam đứng vị
trí thứ 3 về tốc độ tăng GDP năm 2007 của các nước châu Á sau Trung Quốc
(11,3%) và Ấn Độ (khoảng 9%) và cao nhất trong các nước ASEAN (6,1%).
Tốc độ tăng trưởng GDP cả 3 khu vực kinh tế chủ yếu đều đạt mức khá: Khu
vực nông - lâm nghiệp và thủy sản ước tăng 3,0%/ so với mức 3,32% cùng kỳ
2006, khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 10,33% (riêng công nghiệp tăng
33
10,32%)/ so với mức 10,4% và 10,32% cùng kỳ và khu vực dịch vụ tăng
8,5%/ so với mức 8,29% của năm 2006. (tính theo giá so sánh năm 1994).
Bảng 2.1 - Tốc độ tăng trưởng kinh tế (GDP)
năm từ 2001 - 2007 (%) [25, tr.69]
Năm 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007
GDP 6,89 7,08 7,34 7,79 8,44 8,17 8,44
NLTS 2,89 4,17 3,62 4,36 4,02 3,3 3,0
CNXD 10,39 9,48 10,48 10,22 10,69 10,37 10,4
DV 6,10 6,54 6,45 7,26 8,48 8,29 8,5
Cũng theo Tổng cục Thống kê, thu hút vốn đầu tư nước ngoài đạt mức
kỷ lục: Ước tính vốn đăng ký mới và vốn tăng thêm của các dự án cũ bổ sung
cả năm 2007 đạt trên 20,3 tỉ USD, tăng 8,3 tỉ USD, so năm 2006 (12 tỉ USD),
vượt kế hoạch 7 tỉ USD và là mức cao nhất từ trước đến nay. Tổng số vốn
FDI năm 2007 đạt mức gần bằng vốn đầu tư của 5 năm 1991 - 1995 là 17 tỉ
USD và vượt qua năm cao nhất 1996 là 10,1 tỉ USD. Vốn đầu tư chủ yếu tập
trung vào dịch vụ 63,7% và công nghiệp 35,0%, ngành nông - lâm nghiệp
thủy sản 1,3%. Địa phương thu hút nhiều vốn FDI đăng ký mới trong 2007 là
Thành phố Hồ Chí Minh 308 dự án với số vốn gần 2 tỉ USD; Phú Yên 5 dự án
với số vốn trên 1,7 tỉ USD, Bà Rịa - Vũng Tàu 1 tỉ 69 triệu USD; Bình Dương
1 tỉ 20 triệu USD; Hà Nội 963 triệu USD và Vĩnh Phúc 789 triệu USD. Có 4
quốc gia và vùng lãnh thổ đạt trên 1 tỉ USD vốn đầu tư mới là: Hàn Quốc
3.686,9 triệu USD; Quần đảo Virgin thuộc Anh 3.501 triệu USD; Singapore
1.551,5 triệu USD; Đài Loan 1.141,9 triệu USD. [24]
34
Trong năm 2007 cả nước đã thu hút 350 lượt dự án tăng vốn với số vốn
trên 3,2 tỉ USD vốn đầu tư tăng thêm của các dự án cũ. Nét mới trong thu hút
vốn FDI năm 2007 là cơ cấu đầu tư đã chuyển dịch từ công nghiệp sang lĩnh
vực dịch vụ khách sạn, căn hộ cho thuê, nhà hàng, du lịch, tài chính, ngân
hàng... Địa bàn đầu tư cũng chuyển mạnh đến các vùng ít dự án như miền
Trung, miền Bắc. Năm 2007, cả nước có 52 địa phương thu hút vốn FDI. Các
tỉnh miền Trung năm 2007 đã thu hút 3,3 tỉ USD vốn đầu tư đăng ký mới,
tăng 264,5% so với năm 2006 và gần bằng số vốn FDI của 18 năm trước đó
cộng lại (3,5 tỉ USD). Nhà máy lọc dầu Vũng Rô do Anh và Nga hợp tác đầu
tư, vốn FDI của tỉnh Phú Yên đạt 1,7 tỉ USD là đứng đầu các tỉnh miền
Trung, vượt qua Đà Nẵng, Quảng Nam và Thừa Thiên - Huế [24].
Tổng số vốn đầu tư nước ngoài (FDI) năm 2007 của nước ta đạt 20,3 tỉ
USD là mức cao nhất từ trước đến nay.Vốn đầu tư thực hiện năm 2007 ước
đạt 5,1 tỉ USD, tăng 1,2 tỉ USD (30,7%) so năm 2006 (39,56 tỉ USD). Cùng
với tăng vốn FDI, lượng kiều hối đổ về Việt Nam tiếp tục tăng cao. Dự kiến
cả năm 2007, lượng kiều hối của người Việt Nam ở nước ngoài gửi về qua
kênh chính thức đạt 5,5 tỉ USD so với mức 4,7 tỉ USD năm 2006 và gấp 157
lần năm 2001. Tốc độ tăng bình quân 37%/năm đưa lượng kiều hối gửi qua
kênh chính thức được thực hiện từ năm 1991 đến 2007 lên con số 29,4 tỉ
USD, chiếm 70% vốn FDI, tính từ năm 1998 và cao gấp rưỡi vốn ODA được
giải ngân kể từ 1993. Nguồn vốn kiều hối năm 2007 chủ yếu là giúp người
thân trong nước đầu tư chứng khoán, kinh doanh địa ốc, một phần mua sắm
tài sản, hàng hóa, lễ hội vào dịp cuối năm. Vốn đầu tư gián tiếp từ thị trường
chứng khoán cả năm ước đạt từ 4,5 đến 5 tỉ USD năm 2007 [24].
Vẫn theo Tổng cục Thống kê, xuất khẩu đạt mức cao nhất từ trước đến
nay và tăng trưởng với tốc độ cao: Ước tính cả năm kim ngạch xuất khẩu đạt
47,7 tỉ USD, tăng 21% so năm 2006 (7,9 tỉ USD) và vượt 15,5% so kế hoạch.
35
Trong đó khu vực kinh tế trong nước chiếm 42% và tăng 22,3%; khu vực FDI
chiếm 58% và tăng 18,4%, (kể cả dầu thô) nếu không có dầu thô, tăng 30,4%
so với năm 2006). Có 10 mặt hàng đạt trên 1 tỉ USD. Hàng có kim ngạch xuất
khẩu cao nhất là: dệt may đạt 7,8 tỉ USD, tăng 31% vượt qua dầu thô; dầu thô
giảm bằng 97,7%, giày dép tăng 9,5%; thủy sản, tăng 11,9%; sản phẩm gỗ
tăng 23,7%; điện tử, máy tính tăng 24,6%. Gạo xuất khẩu đạt 4,5 triệu tấn
giảm 3, 4% nhưng kim ngạch là 1,5 tỉ USD tăng 14 % do giá xuất khẩu thế
giới tăng. Cà phê tăng 52,3%, cao su tăng 5,3% so với năm 2006. Thu nhập
quốc dân theo GDP năm 2007 tính bình quân đầu người đạt 835 USD, tăng 15
USD so kế hoạch. Dự trữ ngoại tệ đạt 20 tỉ USD, là mức cao so với các năm
trước. Trong bối cảnh thiên tai, dịch bệnh của năm 2007, những kết quả đạt
được về kinh tế như trên là những thành tựu to lớn, cơ bản và rất đáng tự hào.
Nguyên nhân của những thành tựu đó có nhiều, trong đó đường lối đổi mới
của Đảng và các chính sách kinh tế tài chính có tác dụng kích thích sản xuất,
mở rộng dịch vụ của Nhà nước và sự điều hành của Chính phủ có vai trò
quyết định. [24]
Hạn chế
Nhập siêu lớn là hạn chế tiêu biểu nhất của giai đoạn 2006-2007 [24].
Theo số liệu từ Tổng cục Thống kê, tựu chung cả năm 2007, nhập siêu ước
lên tới trên 13,1 tỉ USD, bằng 27,5% kim ngạch xuất khẩu. Kim ngạch nhập
khẩu cả năm 2007 ước đạt 60,8 tỉ USD, tăng 35,5% so năm 2006. Nguyên
nhân nhập siêu cao có nhiều nhưng nguyên nhân khách quan do giá cả nguyên
liệu, nhiên liệu, vật liệu thị trường thế giới tăng cao, nhất là xăng dầu, sắt
thép, phôi thép, nhựa, vải sợi, phân bón, thức ăn gia súc. Nguyên nhân chủ
quan do lúng túng trong điều hành xuất nhập khẩu của Nhà nước và các
doanh nghiệp. Tốc độ tăng kim ngạch nhập khẩu cao hơn nhiều so với tốc độ
tăng kim ngạch xuất khẩu; công tác dự báo thị trường chưa tốt, chất lượng
36
hàng hóa xuất khẩu chưa cao, sức cạnh tranh còn hạn chế.
Tốc độ giải ngân vốn ODA tuy có tiến bộ, nhưng vẫn chậm so với yêu
cầu. Trong 2 năm 2006 - 2007 cả nước mới giải ngân đươc 3,9 tỉ USD, tương
đương 32% tổng vốn ODA dự kiến giải ngân thời kỳ 2006 - 2010. Nguyên
nhân chính là do thiếu quy trình phù hợp, thủ tục phức tạp, thiếu rõ ràng, thiếu
các quy định trách nhiệm của Việt Nam - nhà tài trợ, công tác di dân, giải
phóng mặt bằng triển khai dự án, tổ chức đấu thầu lúng túng. Tỷ trọng vốn
FDI trong nông nghiệp chỉ đạt 1,8% tổng số vốn đầu tư năm 2007 là quá thấp
và không cân đối.
Chất lượng tăng trưởng kinh tế chưa cao, chưa đều và chưa bền vững.
Khuyết điểm này tồn tại đã nhiều năm nhưng vẫn tái diễn lại trong năm 2007.
Trong công nghiệp, tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất khá cao 17%, nhưng
tốc độ tăng trưởng giá trị tăng thêm vẫn thấp khoảng 10,2%. Khoảng cách
chênh lệch giữa 2 tốc độ vẫn là gần 7%, chưa giảm, ngược lại cao hơn năm
trước đó (17% và 10,34% của năm 2006). Nguyên nhân có nhiều, công
nghiệp chế biến phụ thuộc vào nguyên liệu, vật liệu phụ nhập khẩu với giá cả
tăng cao, nhất là dệt may, sắt thép, thị trường chưa thật ổn định, sức cạnh
tranh còn thấp. Chất lượng tăng trưởng xuất khẩu cũng chưa thật vững. Sau 1
năm vào WTO, hàng dệt may Trung Quốc thống trị thị trường Việt Nam bằng
mức giá siêu rẻ. Hàng chợ cũng trong tình cảnh tương tự. Quần áo Trung
Quốc chiếm tới 70% lượng hàng tư thương dự trữ cho dịp lễ Noel và Tết
dương lịch 2007 và cả tết Nguyên đán tới. Mẫu mã, mặt hàng Trung Quốc bắt
mắt, giá cả cạnh tranh. Hàng xuất khẩu dệt may cũng đang gặp sự cạnh tranh
gay gắt của hàng Trung Quốc nên kim ngạch xuất khẩu tăng chậm so với tiềm
năng. Rào cản thương mại Hoa kỳ cũng là thách thức lớn.
Năm 2007, hàng dệt may của Việt Nam vào thị trường Hoa Kỳ là 4,5 tỉ
USD, nhưng sẽ còn cao hơn nếu không bị Hoa Kỳ đối xử thiếu công bằng bởi
37
chương trình giám sát hàng nhập khẩu từ Việt Nam. Vấn đề lao động đình
công cũng là thách thức lớn của các doanh nghiệp dệt may. Xuất khẩu gạo tuy
đạt kế hoạch về số lượng và giá tăng cao nhưng bất cập vẫn còn lớn. Nguồn
cung thiếu nên phải nhập lúa từ Cam-pu-chia hàng trăm nghìn tấn với giá cao
(trên 3.100đ/ kg lúa mùa 2007) tại biên giới An Giang, Đồng Tháp về chế
biến nên hiệu quả không cao. Và như vậy, liệu lợi nhuận từ xuất khẩu gạo của
các doanh nghiệp có đem lại lợi ích tương ứng cho người nông dân trồng lúa
vùng đồng bằng sông Cửu Long khi giá vật tư, phân bón lên cao và chi phí
thu gom, vận chuyển, xay xát... qua nhiều khâu trung gian, giá cả chưa hợp lý.
Cao su, cà phê tuy tăng giá xuất khẩu nhưng chủ yếu là xuất khẩu thô, chưa
qua chế biến, chưa có thương hiệu đủ sức cạnh tranh.
2.3 Thực hiện chính sách hội nhập kinh tế quốc tế trong giai đoạn 2008
– nay:
Trong bối cảnh diễn ra cuộc khủng hoảng kinh tế 2008, con đường
duy nhất và tốt nhất cho nền kinh tế Việt Nam là tiếp tục và đẩy mạnh hơn
nữa việc hội nhập kinh tế quốc tế. Tuy nhiên, với diễn biến mới như vậy
của nền kinh tế thế giới, Việt Nam đã phải cân nhắc và tính toán lại một bộ
phận các nhóm chính sách hội nhập kinh tế quốc tế nhằm (1) tránh được
các hệ quả xấu từ cuộc khủng hoảng kinh tế, (2) bình ổn được thị trường
cũng như nền kinh tế trong bối cảnh đầy rủi ro và biến động của thế giới,
và (3) sử dụng chính sự kiện này như một bước đà, một nền tảng cho quá
trình hội nhập và phát triển kinh tế quốc tế sâu rộng hơn nữa. Các nhóm
chính sách mà Việt Nam cần cân nhắc, điều chỉnh, cải thiện phải kể tới: hệ
thống pháp luật; các chính sách vĩ mô; thủ tục hành chính; thu hút và sử
dụng FDI; xuất – nhập khẩu; và các FTA.
2.3.1 Trên phương diện tài chính – thương mại
Chính sách tài chính:
38
Chính sách tài chính bao gồm rất nhiều mảng, lĩnh vực phức tạp liên
quan đến toàn bộ dòng chung chuyển vốn và tiền tệ của nền kinh tế. Do đó
chính sách tài chính cũng có tầm quan trọng đặc biệt trong phát triển kinh
tế. Để tham gia hội nhập thành công, chúng ta không những chỉ cần một hệ
thống chính sách tài chính linh hoạt, nhất quán và đồng bộ, mà cần phải có
những giải pháp nhằm cải cách chính sách tài chính phù hợp nhất. Chính
sách tài chính có thể được tóm gọn trong ba mảng chính sách chính: thuế; tỉ
giá; và lãi suất
Về chính sách thuế:
Theo nguyên tắc cơ bản của bất kỳ tổ chức kinh tế nào cũng đều có miễn
giảm thuế nhập khẩu và xoá bỏ hàng rào phi thuế quan. Đối với thuế nhập
khẩu cần phải xây dựng hệ thống thuế quan hợp lý, vận dụng chiến lược đàm
phán thuế trần cao hơn mức áp dụng hiện tại; sử dụng tích cực chính sách
thuế làm phương tiện bảo hộ hữu hiệu và hợp lý cho sản xuất trong nước, loại
trừ dần các biện pháp phi quan thuế. Đối với thuế gián thu trong nứơc, tiếp
tục hoàn thiện các sắc thuế, đặc biệt là thuế giá trị gia tăng (VAT). Đối với
thuế thu nhập duy trì hợp lý thuế thu nhập doanh nghiệp, mở rộng diện đánh
thuế thu nhập cá nhân với mức thuế suất thấp để dễ quản lý.
Về chính sách tỉ giá:
Trong bài trả lời của mình với Vietnamnet, PGS. TS. Phạm Thế Anh cho
rằng, thứ nhất, chính sách tỷ giá của Việt Nam tương đối cứng nhắc, vì vậy nó
không hỗ trợ cho hoạt động thương mại quốc tế. Thực tế cho thấy, tốc độ tăng
năng suất của Việt Nam không theo kịp tốc độ tăng của tỷ giá, do vậy nó làm
giảm sức cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam trên thị trường quốc tế. Thời gian
vừa qua, xuất khẩu của Việt Nam chủ yếu đến từ khu vực DN nước ngoài,
trong khi khu vực này ít chịu ảnh hưởng của chính sách tỷ giá, còn tỷ trọng
xuất khẩu trong nước ngày càng suy giảm. Dù có điểm đáng mừng là việc
39
xuất khẩu ròng thặng dư nhưng chúng ta cũng cần phải đặt câu hỏi rằng, nếu
chính sách tỷ giá linh hoạt hơn thì liệu Việt Nam có thặng dư thương mại lớn
hơn hay cũng chỉ đạt mức cân bằng như hiện nay?
Thứ hai, chính sách tỷ giá hiện nay không chống được lạm phát, mặc dù
một trong những lý do chính của việc duy trì tỷ giá cố định là để đạt mục tiêu
này. Thực tế, muốn ổn định lạm phát thì chỉ chính sách tỷ giá cố định là
không đủ. Vấn đề cốt lõi của việc chống lạm phát trong dài hạn là phải đưa ra
các chính sách kiểm soát được cung tiền, cụ thể là phải dựa trên nền tảng
chính sách tài khóa lành mạnh và sự độc lập tương đối của NHNN trong việc
thực thi chính sách tiền tệ. Vấn đề độc lập của NHNN được hiểu là Quốc hội
và Chính phủ chỉ nên giao chỉ tiêu ổn định lạm phát ở mức 3-4%, không nên
giao chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng. Theo đó, Chính phủ cũng không can thiệp
vào việc điều hành chính sách tiền tệ của NHNN mà để cơ quan này sử dụng
các công cụ chính sách tiền tệ khi thực hiện mục tiêu đó.
Thứ ba, nếu chính sách tỷ giá không linh hoạt thì những cú sốc kinh tế từ
bên ngoài sẽ truyền dẫn hoàn toàn vào nền kinh tế Việt Nam. Ví dụ, khi đồng
USD trên thế giới tăng giá một đồng thì hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam
cũng tăng chừng đó. Nếu tỷ giá linh hoạt thì nó trở thành “đệm”, trở thành
công cụ để giảm sốc từ bên ngoài, còn nếu tỷ giá cố định thì sẽ không thực
hiện được vai trò đó. Trong bối cảnh hiện nay, các cú sốc kinh tế từ bên ngoài
ngày càng nhiều và ảnh hưởng không nhỏ đến tình hình trong nước, bởi thế
Việt Nam càng cần phải cân nhắc vấn đề này.
Thứ tư, Chính phủ buộc phải sử dụng biện pháp can thiệp hành chính
vào chính sách tiền tệ. Trong khi Việt Nam cam kết những công cụ tỷ giá cố
định thì điều kiện thị trường lại không cho phép. Chẳng hạn như lạm phát cao
nghĩa là có sức ép đồng tiền mất giá, khi đó người dân sẽ tăng nhu cầu mua
ngoại tệ và Nhà nước buộc phải sử dụng các biện pháp can thiệp hành chính.
40
Việc duy trì chính sách tỷ giá cố định đã khiến Chính phủ phải áp dụng quá
nhiều biện pháp can thiệp hành chính vào thị trường ngoại hối, ví dụ như quy
định lãi suất tiền gửi USD là 0%.
Về chính sách lãi suất
Chính phủ cần hạn chế sử dụng tiền thu được từ việc phát hành trái phiếu
để cho vay đầu tư với lãi suất thấp. Từng bước bãi bỏ hệ thống lãi suất trần,
tiến tới việc xác định lãi suất trên thị trường liên ngân hàng. Biện pháp tình
thế: thực hiện chính sách lãi suất thấp để khuyến khích đầu tư và phát triển
kinh tế. Như vậy nhìn chung cần phối hợp đồng bộ các chính sách kinh tế vĩ
mô trên lĩnh vực tài chính trong quá trình hội nhập.
Chính phủ cũng tiến hành tiếp tục cải thiện thị trường chứng khoán nhằm
đáp ứng được quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Thị trường chứng khoán
trong một nền kinh tế là điều kiện cần thiết thúc đầy hội nhập. Bởi thị trường
chứng khoán là nơi huy động vốn dài hạn cho doanh nghiệp, đặc biệt là vốn
cổ phần. Việc huy động vốn cổ phần qua thị trường chứng khoán là một biện
pháp cân đối lại tỉ lệ vốn sở hữu so với vốn vay và như vậy giảm được các rủi
ro, nguy cơ phá sản của các doanh nghiệp. Thị trường chứng khoán là nơi
thuận tiện để mua bán trái phiếu chính phủ, tạo điều kiện cho việc phát hành
trái phiều chính phủ quy mô lớn với chi phí thấp nhất.
Thời kỳ khủng khoảng tài chính toàn cầu 2008
Nền kinh tế Việt Nam trong giai đoạn này chứng kiến mức độ tăng
trưởng tín dụng cao lên đến 37% trong khi tốc độ tăng trưởng GDP chỉ ở mức
8%. Điều này thể hiện sự tăng trưởng nóng của nền kinh tế. Đồng thời thị
trường chứng khoán lao dốc nhanh chóng sau khi tăng trưởng bong bóng
trong khoảng thời gian 2005-2006. Cung tiền tăng vượt cầu đã đẩy lạm phát
tăng lên mức 18,44% trong sáu tháng đầu năm 2008. Chính sách lãi suất được
NHNN điều chỉnh liên tục làm cho các doanh nghiệp trong nền kinh tế rơi vào
41
tình trạng bị động trước những điều chỉnh lãi suất của NHNN [31]. Chính vì
vậy mà mục tiêu hàng đầu của CSTT được NHNN thực hiện trong giai đoạn
này đó chính là kiềm chế lạm phát.
Để hạn chế lạm phát, NHNN đã tiến hành thắt chặt tiền tệ từ đầu năm và
nới lỏng dần vào cuối năm 2008 đã tạo nên tần suất điều chỉnh chính sách lãi
suất nhiều chưa từng có trong lịch sử (với 8 lần điều chỉnh LSCB, lãi suất tái
cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu, 5 lần điều chỉnh dự trữ bắt buộc và lãi suất
tiền gửi dự trữ bắt buộc, 3 lần nới biên độ tỉ giá). Kết quả là lãi suất thị trường
liên ngân hàng đã liên tục hạ nhiệt theo xu hướng giảm của LSCB và các mức
lãi suất chỉ đạo của NHNN [16]. Xuất phát từ những can thiệp mạnh tay của
NHNN, LSCB đã trở thành một công cụ truyền tải thông tin điều hành chính
sách lãi suất cho nền kinh tế và làm cơ sở để các NHTM xác định lãi suất kinh
doanh với các khách hàng. Điều này đã giúp cho các doanh nghiệp dễ dàng
tiếp cận nguồn vốn vay và thúc đẩy sản xuất kinh doanh nhằm hạn chế sự suy
giảm kinh tế. Việc điều chỉnh lãi suất trong giai đoạn cuối năm 2008 cũng
được xem như một biện pháp hỗ trợ cho thị trường chứng khoán, chống lại đà
suy giảm.
Thời kỳ sau khủng khoảng tài chính toàn cầu từ năm 2009 đến nay
Do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008, nền kinh tế
Việt Nam có dấu hiệu suy giảm rõ rệt sau một thời gian tăng trưởng bong
bóng mặc dù tình hình lạm phát cao đã được kiềm soát và tỷ lệ lạm phát có
giảm dần. Chính vì vậy, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) thực thi chính sách
tiền tệ theo điều hành linh hoạt theo hướng nới lỏng, kích cầu nhằm ngăn
chặn nguy cơ suy giảm kinh tế, tuy nhiên cũng thận trọng nhằm kiểm soát lạm
phát và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Theo đó, NHNN tiếp tục thực hiện chính
sách tiền tệ nới lỏng một cách thận trọng đầu năm 2009 để khuyến khích sản
xuất, tăng cường xuất khẩu, ổn định kinh tế vĩ mô.
42
Biểu đồ 2.1: Mối quan hệ Lãi suất – Lạm phát, 03/2008 – 11/2016 [16]
Theo biểu đồ trên, chính sách lãi suất được NHNN điều hành tăng giảm
theo những biến động của thị trường, trong đó phải kể tới việc (1) lãi suất cơ
bản (LSCB) được điều chỉnh giảm về mức 7%/năm từ ngày 1/2/2009 đưa lãi
suất cho vay tối đa về mức 10,5%/năm nhằm tạo điều kiện cho các ngân hàng
thương mại mở rộng tín dụng đáp ứng nhu cầu vốn cho các doanh nghiệp
kinh doanh trong nền kinh tế. (2) Để giải tỏa căng thẳng lãi suất cho hoạt
động cho vay của các ngân hàng thương mại, theo Thông tư 01/2009/TT-
NHNN được ban hành này 23/11/2009, NHNN vẫn điều hành chính sách lãi
suất hướng đến tác động làm giảm lãi suất cho vay kinh doanh nhưng có
khuynh hướng thả nổi lãi suất theo thỏa thuận đối với các hợp động cho vay
tiêu. Điều này xuất phát từ chỉ đạo của Nhà nước thông qua Nghị quyết số
23/2008/NQ-QH12 ngày 6/11/2008 của Quốc hội khóa XII kỳ họp thứ tư và
Nghị quyết số 30/2008/NQ-CP ngày 11/12/2008 của Chính phủ nhằm cởi trói
cho các ngân hàng thương mại trong việc cho vay theo lãi suất thỏa thuận
giữa người đi vay và người cho vay.
(3) Theo Văn bản số 9484/2009/VB-NHNN ban hành ngày 21/2/2009,
NHNN cũng tích cực tiến hành kiểm tra nghiêm ngặt, ngăn chặn tình trạng
43
vượt trần lãi suất của các ngân hàng thương mại. Nguyên nhân là do những
khó khăn trong thanh khoản của các ngân hàng thương mại dẫn đến công tác
huy động vốn trở nên ngày càng căng thẳng.
Bảng 2.1: Biến động lãi suất huy động tại thời điểm cuối năm giai đoạn
2009 đến Quý I/2017 [16]
Bảng này cho thấy với mức lãi suất cơ bản duy trì ở 7%/năm, các ngân
hàng thương mại đã nâng lãi suất huy động lên đỉnh điểm ở mức 10,5%/năm
(chưa tính đến các hình thức khuyến mãi, rút thăm trúng thưởng và cộng
thưởng khác được các ngân hàng thương mại gián tiếp cộng vào làm tăng lãi
suất huy động vượt trần lãi suất theo quy định). Ngoài ra, nhiều ngân hàng
thương mại đã áp lãi suất tiền gửi ở mức cao nhất có thể là 10,49% hay
10,50%/năm cho hầu hết các kỳ hạn. Chính vì vậy mà đường cong lãi suất có
khuynh hướng bị xóa nhoà [31].
(4) Việc thúc đẩy các ngân hàng thương mại kiểm soát rủi ro tín dụng
một cách chặt chẽ và khắt khe trong việc cấp tín dụng cho khách hàng, hạn
chế và tập trung xử lý nợ xấu thông qua việc thực hiện CSTT thắt chặt bằng
cách điều chỉnh tăng lãi suất cơ bản vào cuối năm 2009. Việc điều chỉnh tăng
44
lãi suất cơ bản đã kéo theo sự gia tăng lãi suất huy động và lãi suất cho vay.
Chính điều này làm cho các ngân hàng thương mại khắt khe trong việc lựa
chọn đối tượng cho vay hay nói một cách khác là tập trung vào những đối
tượng khách hàng có uy tín, hoạt động kinh doanh hiệu quả, tỷ suất sinh lời
cao và có khả năng trang trải chi phí sử dụng vốn cao. Và (5), Thông tư
07/2010/TT-NHNN được NHNN (ban hành ngày 26/2/2010) và Thông tư
12/2010/TT-NHNN (ban hành ngày 14/4/2010) cho thấy bước chuyển mình
của NHNN, khi từng bước cởi trói cho các ngân hàng thương mại thông qua
việc cho phép các ngân hàng thương mại áp dụng lãi suất cho vay thỏa thuận
đối với hoạt động cho vay trung và dài hạn và cho tất cả các loại hình cho
vay, nhằm khơi thông thị trường vốn cho các doanh nghiệ. Việc trở lại áp
dụng chính sách lãi suất thỏa thuận giữa người đi vay và người cho vay đã
làm giảm đáng kể vai trò của lãi suất cơ bản vì đã chấm dứt điều hành theo
chế độ trần lãi suất (tối đa bằng 150% lãi suất cơ bản).
Có thể nói, NHNN điều hành lãi suất cơ bản, lãi suất tái cấp vốn và lãi
suất chiết khấu tương đối linh hoạt, phù hợp với mục tiêu chính sách tiền tệ,
cung - cầu vốn thị trường, đảm bảo mối quan hệ hài hoà giữa lãi suất VND -
tỷ giá - lãi suất ngoại tệ và có xem xét quan hệ về mặt định lượng, xu thế biến
động của các loại lãi suất chủ yếu trên thị trường tiền tệ.
Chính sách thương mại
Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế là một trong những phương hướng để
tiếp tục phát triển kinh tế trong chiến lược 10 năm 2001 – 2010 của nước ta.
Một chính sách quan trọng của hội nhập là mở cửa thị trường trong nước
hướng ra thị trường quốc tế. Tức là các vấn để thương mại giữa các bên cần
phải có sự quan tâm đặc biệt. Các cam kết trong các hiệp định thương mại
quốc tế đặt ra những yêu cầu phải điều chỉnh quy chế thương mại của Việt
Nam. Cải cách thương mại với các chính sách theo hướng mở cửa và tự do
Luận văn: Chính sách Hội nhập Kinh tế quốc tế của Việt Nam hiện nay
Luận văn: Chính sách Hội nhập Kinh tế quốc tế của Việt Nam hiện nay
Luận văn: Chính sách Hội nhập Kinh tế quốc tế của Việt Nam hiện nay
Luận văn: Chính sách Hội nhập Kinh tế quốc tế của Việt Nam hiện nay
Luận văn: Chính sách Hội nhập Kinh tế quốc tế của Việt Nam hiện nay
Luận văn: Chính sách Hội nhập Kinh tế quốc tế của Việt Nam hiện nay
Luận văn: Chính sách Hội nhập Kinh tế quốc tế của Việt Nam hiện nay
Luận văn: Chính sách Hội nhập Kinh tế quốc tế của Việt Nam hiện nay
Luận văn: Chính sách Hội nhập Kinh tế quốc tế của Việt Nam hiện nay
Luận văn: Chính sách Hội nhập Kinh tế quốc tế của Việt Nam hiện nay
Luận văn: Chính sách Hội nhập Kinh tế quốc tế của Việt Nam hiện nay
Luận văn: Chính sách Hội nhập Kinh tế quốc tế của Việt Nam hiện nay
Luận văn: Chính sách Hội nhập Kinh tế quốc tế của Việt Nam hiện nay
Luận văn: Chính sách Hội nhập Kinh tế quốc tế của Việt Nam hiện nay
Luận văn: Chính sách Hội nhập Kinh tế quốc tế của Việt Nam hiện nay
Luận văn: Chính sách Hội nhập Kinh tế quốc tế của Việt Nam hiện nay
Luận văn: Chính sách Hội nhập Kinh tế quốc tế của Việt Nam hiện nay
Luận văn: Chính sách Hội nhập Kinh tế quốc tế của Việt Nam hiện nay
Luận văn: Chính sách Hội nhập Kinh tế quốc tế của Việt Nam hiện nay
Luận văn: Chính sách Hội nhập Kinh tế quốc tế của Việt Nam hiện nay
Luận văn: Chính sách Hội nhập Kinh tế quốc tế của Việt Nam hiện nay
Luận văn: Chính sách Hội nhập Kinh tế quốc tế của Việt Nam hiện nay
Luận văn: Chính sách Hội nhập Kinh tế quốc tế của Việt Nam hiện nay
Luận văn: Chính sách Hội nhập Kinh tế quốc tế của Việt Nam hiện nay
Luận văn: Chính sách Hội nhập Kinh tế quốc tế của Việt Nam hiện nay
Luận văn: Chính sách Hội nhập Kinh tế quốc tế của Việt Nam hiện nay
Luận văn: Chính sách Hội nhập Kinh tế quốc tế của Việt Nam hiện nay
Luận văn: Chính sách Hội nhập Kinh tế quốc tế của Việt Nam hiện nay
Luận văn: Chính sách Hội nhập Kinh tế quốc tế của Việt Nam hiện nay
Luận văn: Chính sách Hội nhập Kinh tế quốc tế của Việt Nam hiện nay
Luận văn: Chính sách Hội nhập Kinh tế quốc tế của Việt Nam hiện nay
Luận văn: Chính sách Hội nhập Kinh tế quốc tế của Việt Nam hiện nay
Luận văn: Chính sách Hội nhập Kinh tế quốc tế của Việt Nam hiện nay

More Related Content

What's hot

hội nhập kinh tế quốc tế của việt nam
hội nhập kinh tế quốc tế của việt namhội nhập kinh tế quốc tế của việt nam
hội nhập kinh tế quốc tế của việt namTran Trang
 
Cách mạng tháng 8
Cách mạng tháng 8Cách mạng tháng 8
Cách mạng tháng 8Hoa Phượng
 
Tiểu luận Những tác động của hội nhập kinh tế quốc tế đối với kinh tế, thương...
Tiểu luận Những tác động của hội nhập kinh tế quốc tế đối với kinh tế, thương...Tiểu luận Những tác động của hội nhập kinh tế quốc tế đối với kinh tế, thương...
Tiểu luận Những tác động của hội nhập kinh tế quốc tế đối với kinh tế, thương...TÀI LIỆU NGÀNH MAY
 
Tiểu luận tư tưởng hồ chí minh về đạo đức cách mạng
Tiểu luận tư tưởng hồ chí minh về đạo đức cách mạngTiểu luận tư tưởng hồ chí minh về đạo đức cách mạng
Tiểu luận tư tưởng hồ chí minh về đạo đức cách mạngDzaigia1988
 
ĐẠO ĐỨC TRONG QUAN HỆ VỚI CÁC ĐỐI TƯỢNG HỮU QUAN  TS. BÙI QUANG XUÂN
ĐẠO ĐỨC TRONG QUAN HỆ VỚI CÁC ĐỐI TƯỢNG HỮU QUAN    TS. BÙI QUANG XUÂNĐẠO ĐỨC TRONG QUAN HỆ VỚI CÁC ĐỐI TƯỢNG HỮU QUAN    TS. BÙI QUANG XUÂN
ĐẠO ĐỨC TRONG QUAN HỆ VỚI CÁC ĐỐI TƯỢNG HỮU QUAN  TS. BÙI QUANG XUÂNBùi Quang Xuân
 
TS BÙI QUANG XUÂN. HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM
TS BÙI QUANG XUÂN. HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAMTS BÙI QUANG XUÂN. HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM
TS BÙI QUANG XUÂN. HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAMBùi Quang Xuân
 
TÁC ĐỘNG CỦA KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐẾN ĐẠO ĐỨC SINH VIÊN NGÀNH XÂY DỰNG Ở VIỆT N...
TÁC ĐỘNG CỦA KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐẾN ĐẠO ĐỨC SINH VIÊN NGÀNH XÂY DỰNG Ở VIỆT N...TÁC ĐỘNG CỦA KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐẾN ĐẠO ĐỨC SINH VIÊN NGÀNH XÂY DỰNG Ở VIỆT N...
TÁC ĐỘNG CỦA KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐẾN ĐẠO ĐỨC SINH VIÊN NGÀNH XÂY DỰNG Ở VIỆT N...phamhieu56
 
so sánh cương lĩnh tháng 2 và cương lĩnh tháng 10
so sánh cương lĩnh tháng 2 và cương lĩnh tháng 10so sánh cương lĩnh tháng 2 và cương lĩnh tháng 10
so sánh cương lĩnh tháng 2 và cương lĩnh tháng 10nuna_l0v3_rain
 
Ngân hàng câu hỏi trắc nghiệm tư tưởng hcm
Ngân hàng câu hỏi trắc nghiệm tư tưởng hcmNgân hàng câu hỏi trắc nghiệm tư tưởng hcm
Ngân hàng câu hỏi trắc nghiệm tư tưởng hcmNguyen_Anh_Nguyet
 
BÀI GIẢNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ KINH TẾ TS. BÙI QUANG XUÂN
BÀI GIẢNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ KINH TẾ  TS. BÙI QUANG XUÂNBÀI GIẢNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ KINH TẾ  TS. BÙI QUANG XUÂN
BÀI GIẢNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ KINH TẾ TS. BÙI QUANG XUÂNBùi Quang Xuân
 
Trắc nghiệm Lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam
Trắc nghiệm Lịch sử Đảng cộng sản Việt NamTrắc nghiệm Lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam
Trắc nghiệm Lịch sử Đảng cộng sản Việt Namvietlod.com
 
Đường lối kháng chiến chống mỹ cứu nước, thống nhất tổ quốc (1954 1975)
Đường lối kháng chiến chống mỹ cứu nước, thống nhất tổ quốc (1954 1975)Đường lối kháng chiến chống mỹ cứu nước, thống nhất tổ quốc (1954 1975)
Đường lối kháng chiến chống mỹ cứu nước, thống nhất tổ quốc (1954 1975)akirahitachi
 
Câu 8_ Trình bày những đặc trưng cơ bản của nền dân chủ XHCN. Liên hệ với thự...
Câu 8_ Trình bày những đặc trưng cơ bản của nền dân chủ XHCN. Liên hệ với thự...Câu 8_ Trình bày những đặc trưng cơ bản của nền dân chủ XHCN. Liên hệ với thự...
Câu 8_ Trình bày những đặc trưng cơ bản của nền dân chủ XHCN. Liên hệ với thự...canhpham123
 
Bài tiểu luận môn tư tưởng hồ chí minh chuẩn
Bài tiểu luận môn tư tưởng hồ chí minh chuẩnBài tiểu luận môn tư tưởng hồ chí minh chuẩn
Bài tiểu luận môn tư tưởng hồ chí minh chuẩnkuki29292
 
Câu hỏi tự luận - tư tưởng Hồ Chí Minh
Câu hỏi tự luận - tư tưởng Hồ Chí MinhCâu hỏi tự luận - tư tưởng Hồ Chí Minh
Câu hỏi tự luận - tư tưởng Hồ Chí MinhMyLan2014
 

What's hot (20)

hội nhập kinh tế quốc tế của việt nam
hội nhập kinh tế quốc tế của việt namhội nhập kinh tế quốc tế của việt nam
hội nhập kinh tế quốc tế của việt nam
 
Cách mạng tháng 8
Cách mạng tháng 8Cách mạng tháng 8
Cách mạng tháng 8
 
Tiểu luận Những tác động của hội nhập kinh tế quốc tế đối với kinh tế, thương...
Tiểu luận Những tác động của hội nhập kinh tế quốc tế đối với kinh tế, thương...Tiểu luận Những tác động của hội nhập kinh tế quốc tế đối với kinh tế, thương...
Tiểu luận Những tác động của hội nhập kinh tế quốc tế đối với kinh tế, thương...
 
Tiểu luận tư tưởng hồ chí minh về đạo đức cách mạng
Tiểu luận tư tưởng hồ chí minh về đạo đức cách mạngTiểu luận tư tưởng hồ chí minh về đạo đức cách mạng
Tiểu luận tư tưởng hồ chí minh về đạo đức cách mạng
 
Đề tài: Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội
Đề tài: Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hộiĐề tài: Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội
Đề tài: Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội
 
ĐẠO ĐỨC TRONG QUAN HỆ VỚI CÁC ĐỐI TƯỢNG HỮU QUAN  TS. BÙI QUANG XUÂN
ĐẠO ĐỨC TRONG QUAN HỆ VỚI CÁC ĐỐI TƯỢNG HỮU QUAN    TS. BÙI QUANG XUÂNĐẠO ĐỨC TRONG QUAN HỆ VỚI CÁC ĐỐI TƯỢNG HỮU QUAN    TS. BÙI QUANG XUÂN
ĐẠO ĐỨC TRONG QUAN HỆ VỚI CÁC ĐỐI TƯỢNG HỮU QUAN  TS. BÙI QUANG XUÂN
 
TS BÙI QUANG XUÂN. HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM
TS BÙI QUANG XUÂN. HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAMTS BÙI QUANG XUÂN. HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM
TS BÙI QUANG XUÂN. HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM
 
Luận án: Quan hệ kinh tế chính trị Hàn Quốc - Nhật Bản (1980 - 2013)
Luận án: Quan hệ kinh tế chính trị Hàn Quốc - Nhật Bản (1980 - 2013)Luận án: Quan hệ kinh tế chính trị Hàn Quốc - Nhật Bản (1980 - 2013)
Luận án: Quan hệ kinh tế chính trị Hàn Quốc - Nhật Bản (1980 - 2013)
 
TÁC ĐỘNG CỦA KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐẾN ĐẠO ĐỨC SINH VIÊN NGÀNH XÂY DỰNG Ở VIỆT N...
TÁC ĐỘNG CỦA KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐẾN ĐẠO ĐỨC SINH VIÊN NGÀNH XÂY DỰNG Ở VIỆT N...TÁC ĐỘNG CỦA KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐẾN ĐẠO ĐỨC SINH VIÊN NGÀNH XÂY DỰNG Ở VIỆT N...
TÁC ĐỘNG CỦA KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐẾN ĐẠO ĐỨC SINH VIÊN NGÀNH XÂY DỰNG Ở VIỆT N...
 
so sánh cương lĩnh tháng 2 và cương lĩnh tháng 10
so sánh cương lĩnh tháng 2 và cương lĩnh tháng 10so sánh cương lĩnh tháng 2 và cương lĩnh tháng 10
so sánh cương lĩnh tháng 2 và cương lĩnh tháng 10
 
Ngân hàng câu hỏi trắc nghiệm tư tưởng hcm
Ngân hàng câu hỏi trắc nghiệm tư tưởng hcmNgân hàng câu hỏi trắc nghiệm tư tưởng hcm
Ngân hàng câu hỏi trắc nghiệm tư tưởng hcm
 
BÀI GIẢNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ KINH TẾ TS. BÙI QUANG XUÂN
BÀI GIẢNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ KINH TẾ  TS. BÙI QUANG XUÂNBÀI GIẢNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ KINH TẾ  TS. BÙI QUANG XUÂN
BÀI GIẢNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ KINH TẾ TS. BÙI QUANG XUÂN
 
Trắc nghiệm Lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam
Trắc nghiệm Lịch sử Đảng cộng sản Việt NamTrắc nghiệm Lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam
Trắc nghiệm Lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam
 
Luận án: Sự biến đổi của giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay
Luận án: Sự biến đổi của giai cấp công nhân Việt Nam hiện nayLuận án: Sự biến đổi của giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay
Luận án: Sự biến đổi của giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay
 
Đường lối kháng chiến chống mỹ cứu nước, thống nhất tổ quốc (1954 1975)
Đường lối kháng chiến chống mỹ cứu nước, thống nhất tổ quốc (1954 1975)Đường lối kháng chiến chống mỹ cứu nước, thống nhất tổ quốc (1954 1975)
Đường lối kháng chiến chống mỹ cứu nước, thống nhất tổ quốc (1954 1975)
 
Câu 8_ Trình bày những đặc trưng cơ bản của nền dân chủ XHCN. Liên hệ với thự...
Câu 8_ Trình bày những đặc trưng cơ bản của nền dân chủ XHCN. Liên hệ với thự...Câu 8_ Trình bày những đặc trưng cơ bản của nền dân chủ XHCN. Liên hệ với thự...
Câu 8_ Trình bày những đặc trưng cơ bản của nền dân chủ XHCN. Liên hệ với thự...
 
Bài tiểu luận môn tư tưởng hồ chí minh chuẩn
Bài tiểu luận môn tư tưởng hồ chí minh chuẩnBài tiểu luận môn tư tưởng hồ chí minh chuẩn
Bài tiểu luận môn tư tưởng hồ chí minh chuẩn
 
Luận văn: Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Mường
Luận văn: Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc MườngLuận văn: Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Mường
Luận văn: Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Mường
 
Biên bản họp nhóm
Biên bản họp nhómBiên bản họp nhóm
Biên bản họp nhóm
 
Câu hỏi tự luận - tư tưởng Hồ Chí Minh
Câu hỏi tự luận - tư tưởng Hồ Chí MinhCâu hỏi tự luận - tư tưởng Hồ Chí Minh
Câu hỏi tự luận - tư tưởng Hồ Chí Minh
 

Similar to Luận văn: Chính sách Hội nhập Kinh tế quốc tế của Việt Nam hiện nay

Chính sách hội nhập quốc tế của Việt Nam trong giai đoạn từ năm 1995 đến nay
Chính sách hội nhập quốc tế của Việt Nam trong giai đoạn từ năm 1995 đến nayChính sách hội nhập quốc tế của Việt Nam trong giai đoạn từ năm 1995 đến nay
Chính sách hội nhập quốc tế của Việt Nam trong giai đoạn từ năm 1995 đến nayDịch vụ Làm Luận Văn 0936885877
 
TS BÙI QUANG XUÂN. HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM
TS BÙI QUANG XUÂN. HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAMTS BÙI QUANG XUÂN. HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM
TS BÙI QUANG XUÂN. HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAMBùi Quang Xuân
 
Trường đại học công nghệ thông tin và truyền thông
Trường đại học công nghệ thông tin và truyền thôngTrường đại học công nghệ thông tin và truyền thông
Trường đại học công nghệ thông tin và truyền thôngBảo Bối
 
Luận văn thạc sĩ.
Luận văn thạc sĩ.Luận văn thạc sĩ.
Luận văn thạc sĩ.ssuser499fca
 
Vấn đề sở hữu trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay
Vấn đề sở hữu trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nayVấn đề sở hữu trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay
Vấn đề sở hữu trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nayDịch vụ Làm Luận Văn 0936885877
 
Luận án: Quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở Việt Nam hiện nay
Luận án: Quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở Việt Nam hiện nayLuận án: Quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở Việt Nam hiện nay
Luận án: Quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở Việt Nam hiện nayViết thuê trọn gói ZALO 0934573149
 
Bài thuyết trình Học phần Lịch sử Đảng nhóm 5_.pptx
Bài thuyết trình Học phần Lịch sử Đảng nhóm 5_.pptxBài thuyết trình Học phần Lịch sử Đảng nhóm 5_.pptx
Bài thuyết trình Học phần Lịch sử Đảng nhóm 5_.pptxnguyenvu7103
 
Tiểu luận nội dung đấu tranh giai cấp
Tiểu luận nội dung đấu tranh giai cấpTiểu luận nội dung đấu tranh giai cấp
Tiểu luận nội dung đấu tranh giai cấpBaking Academi
 
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn ở tỉnh Thanh Hoá.pdf
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn ở tỉnh Thanh Hoá.pdfCông nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn ở tỉnh Thanh Hoá.pdf
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn ở tỉnh Thanh Hoá.pdfTieuNgocLy
 
VIỆT NAM APEC CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC ĐỐI VỚI CỘNG ĐỒNG DOANH NGHIỆP TRONG NƯỚC.doc
VIỆT NAM APEC CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC ĐỐI VỚI CỘNG ĐỒNG DOANH NGHIỆP TRONG NƯỚC.docVIỆT NAM APEC CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC ĐỐI VỚI CỘNG ĐỒNG DOANH NGHIỆP TRONG NƯỚC.doc
VIỆT NAM APEC CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC ĐỐI VỚI CỘNG ĐỒNG DOANH NGHIỆP TRONG NƯỚC.docTrường ĐH Quốc gia Hà Nội
 
Day 1 1-choosing success-v
Day 1 1-choosing success-vDay 1 1-choosing success-v
Day 1 1-choosing success-vHuu Nguyen
 
32333_Mr._Quy_s_Revised_Presentation_-_Vietnamese.pdf
32333_Mr._Quy_s_Revised_Presentation_-_Vietnamese.pdf32333_Mr._Quy_s_Revised_Presentation_-_Vietnamese.pdf
32333_Mr._Quy_s_Revised_Presentation_-_Vietnamese.pdfThoLam5
 

Similar to Luận văn: Chính sách Hội nhập Kinh tế quốc tế của Việt Nam hiện nay (20)

Chính sách hội nhập quốc tế của Việt Nam trong giai đoạn từ năm 1995 đến nay
Chính sách hội nhập quốc tế của Việt Nam trong giai đoạn từ năm 1995 đến nayChính sách hội nhập quốc tế của Việt Nam trong giai đoạn từ năm 1995 đến nay
Chính sách hội nhập quốc tế của Việt Nam trong giai đoạn từ năm 1995 đến nay
 
TS BÙI QUANG XUÂN. HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM
TS BÙI QUANG XUÂN. HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAMTS BÙI QUANG XUÂN. HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM
TS BÙI QUANG XUÂN. HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM
 
Trường đại học công nghệ thông tin và truyền thông
Trường đại học công nghệ thông tin và truyền thôngTrường đại học công nghệ thông tin và truyền thông
Trường đại học công nghệ thông tin và truyền thông
 
Luận văn thạc sĩ.
Luận văn thạc sĩ.Luận văn thạc sĩ.
Luận văn thạc sĩ.
 
Vấn đề sở hữu trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay
Vấn đề sở hữu trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nayVấn đề sở hữu trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay
Vấn đề sở hữu trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay
 
Luận án: Quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở Việt Nam hiện nay
Luận án: Quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở Việt Nam hiện nayLuận án: Quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở Việt Nam hiện nay
Luận án: Quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở Việt Nam hiện nay
 
Những tác động của hội nhập kinh tế quốc tế đối với kinh tế, thương mại Việt ...
Những tác động của hội nhập kinh tế quốc tế đối với kinh tế, thương mại Việt ...Những tác động của hội nhập kinh tế quốc tế đối với kinh tế, thương mại Việt ...
Những tác động của hội nhập kinh tế quốc tế đối với kinh tế, thương mại Việt ...
 
Bai giang chinh c8
Bai giang chinh c8Bai giang chinh c8
Bai giang chinh c8
 
Luận văn: Phát triển kinh tế tư nhân huyện Mê Linh, Hà Nội, 9đ
Luận văn: Phát triển kinh tế tư nhân huyện Mê Linh, Hà Nội, 9đLuận văn: Phát triển kinh tế tư nhân huyện Mê Linh, Hà Nội, 9đ
Luận văn: Phát triển kinh tế tư nhân huyện Mê Linh, Hà Nội, 9đ
 
Luận án: Vai trò của an sinh xã hội đối với tiến bộ xã hội Việt Nam
Luận án: Vai trò của an sinh xã hội đối với tiến bộ xã hội Việt NamLuận án: Vai trò của an sinh xã hội đối với tiến bộ xã hội Việt Nam
Luận án: Vai trò của an sinh xã hội đối với tiến bộ xã hội Việt Nam
 
Bài thuyết trình Học phần Lịch sử Đảng nhóm 5_.pptx
Bài thuyết trình Học phần Lịch sử Đảng nhóm 5_.pptxBài thuyết trình Học phần Lịch sử Đảng nhóm 5_.pptx
Bài thuyết trình Học phần Lịch sử Đảng nhóm 5_.pptx
 
Quá trình bảo vệ độc lập dân tộc của Việt Nam từ 1986 đến 2015
Quá trình bảo vệ độc lập dân tộc của Việt Nam từ 1986 đến 2015Quá trình bảo vệ độc lập dân tộc của Việt Nam từ 1986 đến 2015
Quá trình bảo vệ độc lập dân tộc của Việt Nam từ 1986 đến 2015
 
Luận văn: Phát triển kinh tế tư nhân trên địa bàn huyện Mê Linh, HAY
Luận văn: Phát triển kinh tế tư nhân trên địa bàn huyện Mê Linh,  HAYLuận văn: Phát triển kinh tế tư nhân trên địa bàn huyện Mê Linh,  HAY
Luận văn: Phát triển kinh tế tư nhân trên địa bàn huyện Mê Linh, HAY
 
Tiểu luận nội dung đấu tranh giai cấp
Tiểu luận nội dung đấu tranh giai cấpTiểu luận nội dung đấu tranh giai cấp
Tiểu luận nội dung đấu tranh giai cấp
 
Luận văn: Thực hiện chính sách phát triển giáo dục quận Thanh Xuân
Luận văn: Thực hiện chính sách phát triển giáo dục quận Thanh XuânLuận văn: Thực hiện chính sách phát triển giáo dục quận Thanh Xuân
Luận văn: Thực hiện chính sách phát triển giáo dục quận Thanh Xuân
 
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn ở tỉnh Thanh Hoá.pdf
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn ở tỉnh Thanh Hoá.pdfCông nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn ở tỉnh Thanh Hoá.pdf
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn ở tỉnh Thanh Hoá.pdf
 
VIỆT NAM APEC CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC ĐỐI VỚI CỘNG ĐỒNG DOANH NGHIỆP TRONG NƯỚC.doc
VIỆT NAM APEC CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC ĐỐI VỚI CỘNG ĐỒNG DOANH NGHIỆP TRONG NƯỚC.docVIỆT NAM APEC CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC ĐỐI VỚI CỘNG ĐỒNG DOANH NGHIỆP TRONG NƯỚC.doc
VIỆT NAM APEC CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC ĐỐI VỚI CỘNG ĐỒNG DOANH NGHIỆP TRONG NƯỚC.doc
 
Day 1 1-choosing success-v
Day 1 1-choosing success-vDay 1 1-choosing success-v
Day 1 1-choosing success-v
 
Phương pháp ngoại giao Hồ Chí Minh trong bảo vệ Tổ quốc, HOT
Phương pháp ngoại giao Hồ Chí Minh trong bảo vệ Tổ quốc, HOTPhương pháp ngoại giao Hồ Chí Minh trong bảo vệ Tổ quốc, HOT
Phương pháp ngoại giao Hồ Chí Minh trong bảo vệ Tổ quốc, HOT
 
32333_Mr._Quy_s_Revised_Presentation_-_Vietnamese.pdf
32333_Mr._Quy_s_Revised_Presentation_-_Vietnamese.pdf32333_Mr._Quy_s_Revised_Presentation_-_Vietnamese.pdf
32333_Mr._Quy_s_Revised_Presentation_-_Vietnamese.pdf
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0936 885 877

Hoàn Thiện Tổ Chức Kế Toán Quản Trị Tại Công Ty Tnhh Thương Mại Đầu Tư Và Phá...
Hoàn Thiện Tổ Chức Kế Toán Quản Trị Tại Công Ty Tnhh Thương Mại Đầu Tư Và Phá...Hoàn Thiện Tổ Chức Kế Toán Quản Trị Tại Công Ty Tnhh Thương Mại Đầu Tư Và Phá...
Hoàn Thiện Tổ Chức Kế Toán Quản Trị Tại Công Ty Tnhh Thương Mại Đầu Tư Và Phá...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0936 885 877
 
Tiểu Luận Nâng Cao Hiệu Quả Công Tác Quản Lý Các Điểm Di Tích Lịch Sử Văn H...
Tiểu Luận Nâng Cao Hiệu Quả Công Tác Quản Lý Các Điểm Di Tích Lịch Sử Văn H...Tiểu Luận Nâng Cao Hiệu Quả Công Tác Quản Lý Các Điểm Di Tích Lịch Sử Văn H...
Tiểu Luận Nâng Cao Hiệu Quả Công Tác Quản Lý Các Điểm Di Tích Lịch Sử Văn H...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0936 885 877
 
Một Số Kiến Nghị Để Nâng Cao Hiệu Quảng Đối Với Dịch Vụ Quảng Cáo Và Tổ Chức ...
Một Số Kiến Nghị Để Nâng Cao Hiệu Quảng Đối Với Dịch Vụ Quảng Cáo Và Tổ Chức ...Một Số Kiến Nghị Để Nâng Cao Hiệu Quảng Đối Với Dịch Vụ Quảng Cáo Và Tổ Chức ...
Một Số Kiến Nghị Để Nâng Cao Hiệu Quảng Đối Với Dịch Vụ Quảng Cáo Và Tổ Chức ...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0936 885 877
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0936 885 877 (20)

Hoàn Thiện Công Tác Kế Toán Tại Bệnh Viện Chỉnh Hình Và Phục Hồi...
Hoàn Thiện Công Tác Kế Toán Tại Bệnh Viện Chỉnh Hình Và Phục Hồi...Hoàn Thiện Công Tác Kế Toán Tại Bệnh Viện Chỉnh Hình Và Phục Hồi...
Hoàn Thiện Công Tác Kế Toán Tại Bệnh Viện Chỉnh Hình Và Phục Hồi...
 
Hoàn Thiện Công Tác Kế Toán Tại Các Đơn Vị Sự Nghiệp Thuộc Sở Xây...
Hoàn Thiện Công Tác Kế Toán Tại Các Đơn Vị Sự Nghiệp Thuộc Sở Xây...Hoàn Thiện Công Tác Kế Toán Tại Các Đơn Vị Sự Nghiệp Thuộc Sở Xây...
Hoàn Thiện Công Tác Kế Toán Tại Các Đơn Vị Sự Nghiệp Thuộc Sở Xây...
 
Hoàn Thiện Công Tác Hạch Toán Kế Toán Tại Các Đơn Vị Dự Toán Cấp...
Hoàn Thiện Công Tác Hạch Toán Kế Toán Tại Các Đơn Vị Dự Toán Cấp...Hoàn Thiện Công Tác Hạch Toán Kế Toán Tại Các Đơn Vị Dự Toán Cấp...
Hoàn Thiện Công Tác Hạch Toán Kế Toán Tại Các Đơn Vị Dự Toán Cấp...
 
Hoàn Thiện Tổ Chức Công Tác Kế Toán Tại Sở Giáo Dục Và Đào Tạo ...
Hoàn Thiện Tổ Chức Công Tác Kế Toán Tại Sở Giáo Dục Và Đào Tạo ...Hoàn Thiện Tổ Chức Công Tác Kế Toán Tại Sở Giáo Dục Và Đào Tạo ...
Hoàn Thiện Tổ Chức Công Tác Kế Toán Tại Sở Giáo Dục Và Đào Tạo ...
 
Hoàn Thiện Tổ Chức Kế Toán Quản Trị Tại Công Ty Tnhh Thương Mại Đầu Tư Và Phá...
Hoàn Thiện Tổ Chức Kế Toán Quản Trị Tại Công Ty Tnhh Thương Mại Đầu Tư Và Phá...Hoàn Thiện Tổ Chức Kế Toán Quản Trị Tại Công Ty Tnhh Thương Mại Đầu Tư Và Phá...
Hoàn Thiện Tổ Chức Kế Toán Quản Trị Tại Công Ty Tnhh Thương Mại Đầu Tư Và Phá...
 
Hoàn Thiện Tổ Chức Công Tác Kế Toán Tại Các Đơn Vị Thuộc Trung Tâm Y Tế
Hoàn Thiện Tổ Chức Công Tác Kế Toán Tại Các Đơn Vị Thuộc Trung Tâm Y TếHoàn Thiện Tổ Chức Công Tác Kế Toán Tại Các Đơn Vị Thuộc Trung Tâm Y Tế
Hoàn Thiện Tổ Chức Công Tác Kế Toán Tại Các Đơn Vị Thuộc Trung Tâm Y Tế
 
Tiểu Luận Thực Trạng Đời Sống Văn Hóa Của Công Nhân Khu Công Nghiệp - Hay T...
Tiểu Luận Thực Trạng Đời Sống Văn Hóa Của Công Nhân Khu Công Nghiệp - Hay T...Tiểu Luận Thực Trạng Đời Sống Văn Hóa Của Công Nhân Khu Công Nghiệp - Hay T...
Tiểu Luận Thực Trạng Đời Sống Văn Hóa Của Công Nhân Khu Công Nghiệp - Hay T...
 
Tiểu Luận Quản Lý Hoạt Động Nhà Văn Hóa - Đỉnh Của Chóp!
Tiểu Luận Quản Lý Hoạt Động Nhà Văn Hóa - Đỉnh Của Chóp!Tiểu Luận Quản Lý Hoạt Động Nhà Văn Hóa - Đỉnh Của Chóp!
Tiểu Luận Quản Lý Hoạt Động Nhà Văn Hóa - Đỉnh Của Chóp!
 
Tiểu Luận Quản Lý Nhà Nước Về Văn Hóa - Hay Bá Cháy!
Tiểu Luận Quản Lý Nhà Nước Về Văn Hóa - Hay Bá Cháy!Tiểu Luận Quản Lý Nhà Nước Về Văn Hóa - Hay Bá Cháy!
Tiểu Luận Quản Lý Nhà Nước Về Văn Hóa - Hay Bá Cháy!
 
Tiểu Luận Quản Lý Nhà Nước Về Thiết Chế Văn Hóa - Hay Quên Lối Ra!.
Tiểu Luận Quản Lý Nhà Nước Về Thiết Chế Văn Hóa - Hay Quên Lối Ra!.Tiểu Luận Quản Lý Nhà Nước Về Thiết Chế Văn Hóa - Hay Quên Lối Ra!.
Tiểu Luận Quản Lý Nhà Nước Về Thiết Chế Văn Hóa - Hay Quên Lối Ra!.
 
Tiểu Luận Quản Lý Di Tích Kiến Trúc Nghệ Thuật Chùa Tứ Kỳ - Hay Bá Đạo!
Tiểu Luận Quản Lý Di Tích Kiến Trúc Nghệ Thuật Chùa Tứ Kỳ - Hay Bá Đạo!Tiểu Luận Quản Lý Di Tích Kiến Trúc Nghệ Thuật Chùa Tứ Kỳ - Hay Bá Đạo!
Tiểu Luận Quản Lý Di Tích Kiến Trúc Nghệ Thuật Chùa Tứ Kỳ - Hay Bá Đạo!
 
Tiểu Luận Quản Lý Các Dịch Vụ Văn Hóa Tại Khu Du Lịch - Hay Xĩu Ngang!
Tiểu Luận Quản Lý Các Dịch Vụ Văn Hóa Tại Khu Du Lịch - Hay Xĩu Ngang!Tiểu Luận Quản Lý Các Dịch Vụ Văn Hóa Tại Khu Du Lịch - Hay Xĩu Ngang!
Tiểu Luận Quản Lý Các Dịch Vụ Văn Hóa Tại Khu Du Lịch - Hay Xĩu Ngang!
 
Tiểu Luận Nâng Cao Hiệu Quả Công Tác Quản Lý Các Điểm Di Tích Lịch Sử Văn H...
Tiểu Luận Nâng Cao Hiệu Quả Công Tác Quản Lý Các Điểm Di Tích Lịch Sử Văn H...Tiểu Luận Nâng Cao Hiệu Quả Công Tác Quản Lý Các Điểm Di Tích Lịch Sử Văn H...
Tiểu Luận Nâng Cao Hiệu Quả Công Tác Quản Lý Các Điểm Di Tích Lịch Sử Văn H...
 
Tiểu Luận Công Tác Quản Lý Lễ Hội Tịch - Xuất Sắc Nhất!
Tiểu Luận Công Tác Quản Lý Lễ Hội Tịch - Xuất Sắc Nhất!Tiểu Luận Công Tác Quản Lý Lễ Hội Tịch - Xuất Sắc Nhất!
Tiểu Luận Công Tác Quản Lý Lễ Hội Tịch - Xuất Sắc Nhất!
 
Tiểu Luận Công Tác Quản Lý Di Tích Và Phát Triển Du Lịch - Hay Nhứ...
Tiểu Luận Công Tác Quản Lý Di Tích Và Phát Triển Du Lịch - Hay Nhứ...Tiểu Luận Công Tác Quản Lý Di Tích Và Phát Triển Du Lịch - Hay Nhứ...
Tiểu Luận Công Tác Quản Lý Di Tích Và Phát Triển Du Lịch - Hay Nhứ...
 
Tiểu Luận Bảo Vệ Và Phát Huy Di Sản Văn Hóa Dân Tộc - Hay Chảy Ke!
Tiểu Luận Bảo Vệ Và Phát Huy Di Sản Văn Hóa Dân Tộc - Hay Chảy Ke!Tiểu Luận Bảo Vệ Và Phát Huy Di Sản Văn Hóa Dân Tộc - Hay Chảy Ke!
Tiểu Luận Bảo Vệ Và Phát Huy Di Sản Văn Hóa Dân Tộc - Hay Chảy Ke!
 
Quy Trình Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Cổ Phần Truyền Thông Và Sự Kiện Taf
Quy Trình Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Cổ Phần Truyền Thông Và Sự Kiện TafQuy Trình Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Cổ Phần Truyền Thông Và Sự Kiện Taf
Quy Trình Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Cổ Phần Truyền Thông Và Sự Kiện Taf
 
Thực Trạng Hoạt Động Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Quảng Cáo
Thực Trạng Hoạt Động Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Quảng CáoThực Trạng Hoạt Động Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Quảng Cáo
Thực Trạng Hoạt Động Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Quảng Cáo
 
Một Số Kiến Nghị Để Nâng Cao Hiệu Quảng Đối Với Dịch Vụ Quảng Cáo Và Tổ Chức ...
Một Số Kiến Nghị Để Nâng Cao Hiệu Quảng Đối Với Dịch Vụ Quảng Cáo Và Tổ Chức ...Một Số Kiến Nghị Để Nâng Cao Hiệu Quảng Đối Với Dịch Vụ Quảng Cáo Và Tổ Chức ...
Một Số Kiến Nghị Để Nâng Cao Hiệu Quảng Đối Với Dịch Vụ Quảng Cáo Và Tổ Chức ...
 
Hoàn Thiện Quy Trình Dịch Vụ Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Đầu Tư
Hoàn Thiện Quy Trình Dịch Vụ Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Đầu TưHoàn Thiện Quy Trình Dịch Vụ Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Đầu Tư
Hoàn Thiện Quy Trình Dịch Vụ Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Đầu Tư
 

Recently uploaded

10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...Nguyen Thanh Tu Collection
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfhoangtuansinh1
 
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxTrích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxnhungdt08102004
 
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...Nguyen Thanh Tu Collection
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdfNQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdfNguyễn Đăng Quang
 
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...hoangtuansinh1
 
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líKiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líDr K-OGN
 
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...ThunTrn734461
 
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoabài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa2353020138
 
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhvanhathvc
 
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxChàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxendkay31
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdfSơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdftohoanggiabao81
 

Recently uploaded (19)

10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
 
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
 
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxTrích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
 
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdfNQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
 
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
 
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
 
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líKiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
 
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
 
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
 
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoabài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
 
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
 
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxChàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdfSơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
 

Luận văn: Chính sách Hội nhập Kinh tế quốc tế của Việt Nam hiện nay

  • 1. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN PHÚ HẢI CHÍNH SÁCH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM HIỆN NAY LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG HÀ NỘI - 2018
  • 2. 1 VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN PHÚ HẢI Chính sách hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam hiện nay Chuyên ngành: Chính sách công Mã số : 843 04 02 LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG Người hướng dẫn khoa học: GS. TS. Phạm Quang Minh HÀ NỘI - 2018
  • 3. 2 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Đại hội VI mở đầu cho thời kỳ đổi mới đất nước, Đảng ta đưa ra chủ trương tranh thủ những điều kiện thuận lợi về hợp tác kinh tế và khoa học kỹ thuật, tham gia ngày càng rộng rãi vào việc phân công và hợp tác quốc tế trong “Hội đồng tương trợ kinh tế và mở rộng với các nước khác". Tới Đại hội VII, Đảng ta định hướng “đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ với các quốc gia, các tổ chức kinh tế". Tại Đại hội VIII, thuật ngữ “hội nhập” bắt đầu được đề cập trong các văn kiện của Đảng: “Xây dựng một nền kinh tế mở, hội nhập với khu vực và thế giới”. Đại hội IX của Đảng nhấn mạnh việc “chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa”. Ngày 27-11-2001, Bộ Chính trị khóa IX đã ban hành Nghị quyết số 07-NQ/TW “Về hội nhập kinh tế quốc tế”. Tại Đại hội X, Đảng ta đã nhấn mạnh chủ trương “chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời mở rộng hợp tác trên các lĩnh vực khác”. Ngày 05-02-2007, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X đã ban hành Nghị quyết số 08-NQ/TW “Về một số chủ trương, chính sách lớn để nền kinh tế phát triển nhanh và bền vững khi Việt Nam là thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới”. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề ra đường lối đối ngoại của Việt Nam trong thời kỳ phát triển mới, trong đó có chủ trương rất quan trọng là “chủ động và tích cực hội nhập quốc tế”. Từ “hội nhập kinh tế quốc tế” của các kỳ đại hội trước, chuyển sang “hội nhập quốc tế” một cách toàn diện là một phát triển quan trọng về tư duy đối ngoại của Đảng ta tại Đại hội XI. Ngày 10-4-2013, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 22-NQ/TW về hội nhập quốc tế. Đây là văn kiện quan trọng, có ý nghĩa
  • 4. 3 chiến lược, làm rõ và thống nhất nhận thức trong toàn Đảng, toàn dân về hội nhập quốc tế trong tình hình mới. Nghị quyết đã xác định rõ hội nhập quốc tế sẽ được triển khai sâu rộng trên nhiều lĩnh vực, đặc biệt, hội nhập kinh tế phải gắn với yêu cầu đổi mới mô hình tăng trưởng và tái cơ cấu nền kinh tế. Việc thực hiện chủ trương trên đây của Đảng đã đạt được nhiều thành tựu, góp phần quan trọng vào sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội, gia tăng sức mạnh tổng hợp quốc gia, giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước, giữ vững an ninh chính trị và trật tự, an toàn xã hội; cải thiện đời sống nhân dân, củng cố niềm tin của các tầng lớp nhân dân vào công cuộc đổi mới; nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Nước ta đã thiết lập quan hệ ngoại giao với hầu hết các nước, có quan hệ kinh tế - thương mại với hơn 160 nước và 70 vùng lãnh thổ, là thành viên của hầu hết các tổ chức khu vực và quốc tế quan trọng với vị thế và vai trò ngày càng được khẳng định. Quan hệ giữa nước ta với các nước trên thế giới ngày càng đi vào chiều sâu; hợp tác về chính trị, quốc phòng, an ninh, văn hóa, xã hội và các lĩnh vực khác được mở rộng. Lịch sử toàn thế giới cho thấy nước nào đóng cửa thì không phát triển được vì không có “cầu” thì “cung” sẽ teo tóp; không tiếp thu được các nguồn lực bên ngoài như vốn, công nghệ…thì sẽ chìm trong tình trạng lạc hậu. Chẳng thế mà các nước mạnh hay áp dụng thủ đoạn bao vây, cấm vận để bóp nghẹt các nền kinh tế mà họ không ưa. Dưới tác động của nhu cầu phát triển, xu thế quốc tế hóa rồi toàn cầu hóa nẩy sinh, lan tỏa, lôi cuốn các quốc gia vào dòng chảy toàn cầu, nhờ vậy dòng hàng hóa, vốn đầu tư, dịch vụ, thông tin, lao động, phương tiện vận tải lan tỏa ra toàn thế giới. Xuất phát từ nhu cầu phát triển và nhận thức được những xu thế, quy luật khách quan đó nên nước ta đã chủ trương hội nhập. Tuy nhiên, khi đã đang tiến những bước vững chắc, tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế phải đột ngột
  • 5. 4 đối mặt với cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu 2008, dẫn tới những chuyển biến tiêu cực, suy thoái, và bất ổn trên nền kinh tế - tài chính toàn cầu trong gần một thập kỉ sau đó. Việc nghiên cứu hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam, đặc biệt trong giai đoạn từ 2008 đến nay, đã dần nhận được mối quan tâm lớn của các chuyên gia, học giả trong nước và quốc tế. Mặc dù đã có nhiều công trình nghiên cứu liên quan trực tiếp và gián tiếp, nhưng việc nhìn nhận tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam dưới góc độ chính sách công trong giai đoạn đặc biệt này là một chủ đề cần được tiếp tục nghiên cứu một cách sâu rộng hơn, phong phú hơn. Từ những lý do trên, Học viên quyết định lựa chọn đề tài Chính sách Hội nhập Kinh tế quốc tế của Việt Nam hiện nay để nghiên cứu làm đề tài luận văn thạc sĩ. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Các nghiên cứu quốc tế: Đề tài sử dụng các nghiên cứu về hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam được công bố quốc tế trong những năm gần đây có Carlyle A. Thayer, “Vietnamese Diplomacy, 1975-2015: From Member of the Socialist Camp to Proactive International Integration”, International Studies, No.34, June 2016; Peterson, Duc Anh Dang, “How Foreign Direct Investment Promote Institutional Quality: Evidence from Vietnam,” Journal of Comparative Economics, Vol. 41, Issue 4, 2013; và “Impacts of International Economic Integration on Vietnam’s Economy after Three Years of WTO Membership,” CIEM, 2010. *Theodore A. Couloumbis và James H. Wolfe: Introduction to international relations: power and justice. Công trình này của hai nhà khoa học Couloumbis và Wolfe được coi là một trong những nền tảng nhất của các giáo trình về quan hệ quốc tế trên thế giới. Trong công trình của mình, hai tác giả đã đề cập tới cách tiếp cận khoa học chính trị, quan hệ quốc tế, cũng như
  • 6. 5 cân bằng quyền lực. Về phương diện đối nội, các tác giả đi sâu vào các chu trình chính trị, phương thức ngoại giao, quản trị quốc gia, cũng như các phương thức tình báo và các công cụ phi quân sự. Về phương diện đối ngoại, các tác giả đi sâu vào mâu thuẫn và chiến tranh, các thể chế, hệ thống quốc tế với các nguyên tắc pháp lí quốc tế. * Karl W. Deutsch and all (1957), Political Community and the North Atlantic Area, Princeton, N.J., Princeton University Press. Cuốn sách này là công trình đầu tiên trong một loạt các công trình được Trung tâm nghiên cứu về các Thể chế chính trị quốc tế tại Đại học Princeton tiến hành. Các tác giả đã thực hiện nhiều nghiên cứu về hội nhập và các tổ chức quốc tế. Dựa trên các kết quả tìm được, các tác giả đã đề cập tới các hiệu ứng tích cực từ những tổ chức, thể chế quốc tế với sự tham gia của nhiều thành viên. Nói cách khác, hội nhập là hướng đi phù hợp và hiệu quả, và chính hội nhập sẽ phát huy tối đa năng lực của các quốc gia thành viên. * Ruggie, John Gerard (1992), Multilateralism: The Anatomy of an Institution, International Organization Vol. 46 (3), 1992, Print. Tác giả Ruggie đã đề xuất trong tác phẩm này rằng các bộ phận của trật tự thể chế quốc tế ngày nay xuất hiện khá mạnh mẽ và thích ứng. Điều này đúng không chỉ trong kinh tế mà còn trong các vấn đề an ninh; và điều đó không chỉ xuất hiện ở châu Âu mà còn ở cấp độ toàn cầu. Lý do là đây là các tổ chức và các tổ chức đó là "có nhu cầu". Một tính năng cốt lõi của trật tự thể chế quốc tế là hình thức đa phương của nó. Dạng đa phương, trong những trường hợp nhất định, dường như có những đặc điểm giúp tăng cường độ bền và khả năng thích nghi với sự thay đổi của nó. Tuy nhiên, khái niệm đa phương được định nghĩa kém và do đó không được hiểu rõ trong văn học. Tác phẩm này nhằm phục hồi ý nghĩa nguyên tắc của chủ nghĩa đa phương từ thực hành lịch sử, cho thấy cách thức và lý do tại sao những ý nghĩa nguyên tắc này đã được thể
  • 7. 6 chế hoá, và cho thấy tại sao đa phương có thể tiếp tục đóng một vai trò quan trọng ngày hôm nay ngay cả khi một số điều kiện sau chiến tranh đã thay đổi. Các nghiên cứu trong nước: * TS Ngô Văn Điểm (chủ biên): “Toàn cầu hóa kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam”, Nxb CTQG, H, 2004. Trong quá trình nghiên cứu, phân tích sâu về tính trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam, các tác giả đã tập trung vào ba lĩnh vực sau: thu hút vốn đầu tư nước ngoài FDI; thương mại; và đổi mới, quản lý các DNNN. * Trương Cường (chủ biên): “WTO: kinh doanh và tự vệ”, Nxb Hà Nội, 2007. Các tác giả đã có sự nghiên cứu, phân tích về vai trò; cấu trúc và quy định pháp lý; những nguyên tắc cơ bản của WTO; đồng thời đưa ra những yêu cầu mà việc gia nhập tổ chức này sẽ đòi hỏi ở các doanh nghiệp Việt Nam. * Tổng cục Thống kế: “Thông cáo báo chí giai đoạn quý I/2008 đến quý I/2018”, Hà Nội. Đây là tập hợp các thông cáo báo chí thường kì của Tổng cục Thống kê về tình hình kinh tế - xã hội của Việt Nam, cung cấp cho quá trình nghiên cứu các con số chính thức về các vấn đề có liên quan trong phát triển kinh tế. Bên cạnh đó, phải kể đến các nghiên cứu khác đăng tải trên các tạp chí chuyên ngành như “28 năm hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam: tiến tình, thành tựu, và giải pháp thúc đẩy”, Tạp chí Phát triển và Hội nhập, số 14 (24) – Tháng 01-02/2015, tr. 35-39 của GS. TS. Chu Văn Cấp; hay “Khủng hoảng tài chính toàn cầu và những vấn đề đặt ra đối với nền kinh tế Việt Nam”, Tạp chí Phát triển và Hội nhập, số 1 – Tháng 10/2009, tr. 23-28 của PGS. TS. Nguyễn Văn Luân và PGS. TS. Nguyễn Văn Trình; “Xu thế hội nhập quốc tế và lựa chọn của Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu Quốc tế, số 3(94)/2013; “Nguyên nhân sâu xa dẫn tới cuộc khủng hoảng tài chính của Mỹ”, Tạp chí Cộng sản, 5/4/2018; “Hội nhập kinh tế quốc tế: Từ quan điểm của Đảng đến
  • 8. 7 thực tiễn” của TS. Nguyễn Tất Thắng, 3/1/2015; “Hội nhập quốc tế: một số vấn đề lý luận và thực tiễn” của TS. Phạm Quốc Trụ, Tạp chí Nghiên cứu Quốc tế, số 85 - tháng 6/2011. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1 Mục đích Phân tích làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về chính sách hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam hiện nay, từ đó rút ra bài học và đưa ra một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế trong tương lai. 3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục tiêu tổng thể nói trên, đề tài xác định những nhiệm vụ nghiên cứu cụ thể như sau: - Nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn của chính sách hội nhập kinh tế quốc tế; - Phân tích và làm rõ sự thực trạng chính sách hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam hiện nay; - Nghiên cứu làm rõ các tác động của chính sách hội nhập kinh tế quốc tế tới sự phát triển kinh tế Việt Nam, và kiến nghị một số giải pháp 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1 Đối tượng nghiên cứu - Chính sách hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam; - Tác động của chính sách hội nhập kinh tế quốc tế đến phát triển kinh tế Việt Nam; 4.2 Phạm vi nghiên cứu - Về nội dung: Đề tài tập trung nghiên cứu chính sách hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam trên cả hai phương diện lý luận và thực tiễn, cùng các tác động của các chính sách này tới sự phát triển kinh tế Việt Nam.
  • 9. 8 - Về thời gian: giai đoạn từ năm 2008 (thời điểm xảy ra khủng hoảng kinh tế tại Mỹ và năm đầu tiên sau khi Việt Nam chính thức gia nhập WTO) đến nay. - Về không gian: phạm vi lãnh thổ Việt Nam. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu 5.1 Phương pháp luận Đề tài nghiên cứu sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về hội nhập kinh tế quốc tế. 5.2 Phương pháp nghiên cứu - Phương pháp lịch sử và logic: đây là hai phương pháp được sử dụng để mô tả và hiểu rõ được tiến trình và nội dung chính sách hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam; - Phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, đối chiếu: trên cơ cở thu thập và tổng hợp nhiều nguồn tư liệu khác nhau, học viên tiến hành phân tích làm rõ thực trạng triển khai chính sách hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam trong giai đoạn khủng hoảng kinh tế 2008 đến nay; - Phương pháp tổng kết thực tiễn: phương pháp này được sử dụng để làm rõ, đánh giá và phân tích những mặt tích cực và hạn chế, tác động đến phát triển kinh tế, trên cơ sở thực tiễn thực thi chính sách hội nhập kinh tế quốc tế. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn - Ý nghĩa lý luận: - Luận văn góp phần làm phong phú thêm hệ thống lý thuyết nghiên cứu về chính sách hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam. - Ý nghĩa thực tiễn: - Luận văn có thể được dùng làm tài liệu tham khảo cho việc học tapajm nghiên cứu, giảng dạy về đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam
  • 10. 9 trong vấn đề phát triển kinh tế đất được và gợi ý một số kiến nghị nhằm thúc đẩy các hoạt động hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam hiện nay. 7. Kết cấu của luận văn: Luận văn gồm có 4 phần: Phần mở đầu, Nội dung, Kết Luận, và Tài liệu tham khảo. Trong đó, Nội dung gồm 3 chương và 11 tiểu mục. Trong đó, Chương I nêu lên các cơ sở lý luận và thực tiễn trong việc thực hiện đề tài này về chính sách hội nhập kinh tế quốc tế. Chương II đề cập tới các tiến trình mà Việt Nam đã thực hiện nhằm hội nhập kinh tế quốc tế. Và Chương III đề cập tới các thành tựu, hạn chế của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam, từ đó đưa ra các dự báo và đề xuất đối với một số chính sách trong tương lại.
  • 11. 10 CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA CHÍNH SÁCH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ 1.1 Cơ sở lý luận 1.1.1 Một số khái niệm cơ bản: Với mục đích tìm hiểu về việc hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam trong giai đoạn 2008 đến nay, một số khái niệm sau cần được làm rõ để phục vụ nội dung nghiên cứu: Hội nhập và hội nhập kinh tế là gì? Chính sách và chính sách kinh tế là gì? 1.1.2 Hội nhập và hội nhập kinh tế quốc tế Khái niệm Hội nhập kinh tế quốc tế Thuật ngữ “hội nhập quốc tế” trong tiếng Việt có nguồn gốc dịch từ tiếng nước ngoài (tiếng Anh là “international integration”, tiếng Pháp là “intégration internationale”). Đây là một khái niệm được sử dụng chủ yếu trong các lĩnh vực chính trị học quốc tế và kinh tế quốc tế, ra đời từ khoảng giữa thế kỷ trước ở châu Âu, trong bối cảnh những người theo trường phái thể chế chủ trương thúc đẩy sự hợp tác và liên kết giữa các cựu thù (Đức-Pháp) nhằm tránh nguy cơ tái diễn chiến tranh thế giới thông qua việc xây dựng Cộng đồng châu Âu. Trên thực tế cho đến nay, có nhiều cách hiểu và định nghĩa khác nhau về khái niệm “hội nhập quốc tế”. Ở Việt Nam, thuật ngữ ‘hội nhập kinh tế quốc tế” bắt đầu được sử dụng từ khoảng giữa thập niên 1990 cùng với quá trình Việt Nam gia nhập ASEAN, tham gia Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) và các thể chế kinh tế quốc tế khác. Những năm gần đây, cụm từ “hội nhập quốc tế” (thậm chí nói ngắn gọn là “hội nhập”) được sử dụng ngày càng phổ biến hơn và với hàm nghĩa rộng hơn hội nhập kinh tế quốc tế. Có một thực tiễn đáng lưu ý là trước khi thuật ngữ “hội nhập kinh tế quốc tế” được đưa vào sử dụng, trong
  • 12. 11 tiếng Việt đã xuất hiện các cụm từ “liên kết kinh tế quốc tế” và “nhất thể hóa kinh tế quốc tế”. Cả ba thuật ngữ này thực ra được sử dụng để chỉ cùng một khái niệm mà tiếng Anh gọi là “international economic integration”. Như vậy, cần xác định một cách tiếp cận phù hợp đối với khái niệm “hội nhập kinh tế quốc tế”. Trong bài viết Hội nhập quốc tế: một số vấn đề lý luận và thực tiễn, TS. Phạm Quốc Trụ cho rằng: “[h]ội nhập quốc tế được hiểu như là quá trình các nước tiến hành các hoạt động tăng cường sự gắn kết họ với nhau dựa trên sự chia sẻ về lợi ích, mục tiêu, giá trị, nguồn lực, quyền lực (thẩm quyền định đoạt chính sách) và tuân thủ các luật chơi chung trong khuôn khổ các định chế hoặc tổ chức quốc tế.” [20] Với cách tiếp cận như vậy về hội nhập kinh tế quốc tế, chúng ta có thể luận rằng hội nhập kinh tế quốc tế là một quá trình mà trong đó, hai hoặc nhiều hơn hai quốc gia trong một khu vực địa lý rộng lớn giảm một chuỗi các hàng rào thương mại để đạt được hoặc bảo vệ một số các lợi ích kinh tế nhất định. Như Nguyên Phó Thủ tướng Vũ Khoan đề cập, hội nhập kinh tế quốc tế được hiểu là “các quy định nhằm tự do hóa thương mại, dịch vụ, đầu tư như: Giảm thiểu rồi đi tới bãi bỏ các quy định hành chính phi quan thuế; giảm thiểu và đi tới xóa bỏ hàng rào quan thuế; mở cửa thị trường với mức độ và lộ trình khác nhau; hình thành sân chơi bình đẳng cho mọi loại hình doanh nghiệp; xóa bỏ bao cấp đối với hoạt động kinh doanh có liên quan tới thị trường bên ngoài; áp dụng những quy định chung về mua sắm chính phủ, hải quan, bảo vệ tài sản trí tuệ, vệ sinh an toàn thực phẩm, các tiêu chuẩn về môi trường sinh thái, lao động, các quy định về tự vệ, chống bán phá giá…” [28] Vai trò của hội nhập kinh tế quốc tế Tham gia vào các tổ chức kinh tế thế giới và khu vực sẽ tạo điều kiện cho các quốc gia thành viên có cơ hội phát triển kinh tế một cách nhanh chóng. Cơ hội này đến từ chính vai trò của hội nhập kinh tế quốc tế, trong đó
  • 13. 12 phải kể tới: mở rộng thị trường xuất nhập khẩu của quốc gia tham gia quá trình hội nhập kinh tế quốc tế; tăng thu hút đầu tư nước ngoài, viện trợ phát triển chính thức và giải quyết vấn đề nợ quốc tế; tiếp thu khoa học công nghệ tiên tiến, đào tạo cán bộ và giải quyết vấn đề việc làm; hay đóng góp vào công tác đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ cán bộ trong nhiều lĩnh vực. Trong trường hợp cụ thể là Việt Nam, một vai trò nữa của hội nhập kinh tế quốc tế là duy trì hoà bình ổn định, tạo dựng môi trường thuận lợi để Việt Nam xây dựng nền tảng, phát triển năng lực, và thực thi quyền lực mềm. Tuy nhiên, không ít thách thức được đặt ra, như: khả năng của con người, doanh nghiệp, cơ chế nhà nước, cũng như các thể chế, cơ quan chính phủ trong việc thích nghi với môi trường quốc tế cạnh tranh gay gắt mà hội nhập kinh tế quốc tế đem lại. 1.1.3 Chính sách hội nhập kinh tế quốc tế Khái niệm Chính sách hội nhập kinh tế quốc tế Vai trò của hội nhập kinh tế quốc tế là đối với Việt Nam là vô cùng to lớn, song hành với đó là yêu cầu thực tiễn về việc tiến hành hội nhập kinh tế quốc tế một cách hợp lý, hiệu quả. Để thực hiện điều đó, Chính phủ phải đưa ra và thực hiện các chính sách cụ thể. Nếu như chính sách được hiểu là “các chương trình hành động hướng đích của chủ thể nắm hoặc chi phối quyền lực chính trị nhằm thực hiện các mục tiêu cụ thể đối với các đối tượng cụ thể nào đó” [27]. Các mục tiêu này bao gồm sự phát triển toàn diện trên tất cả các lĩnh vực kinh tế - văn hóa – xã hội – môi trường. Hay nói cách khác, chính sách là công cụ để nhà nước, chính phủ thực hiện các ý định của họ đối với các lĩnh vực mà họ quản lý. Từ đó, chính sách hội nhập kinh tế quốc tế có thể được hiểu là chương trình hành động hướng đích của nhà nước, nhằm thực hiện việc hợp tác, song phương hoặc đa phương, với các quốc gia trên thế giới để đạt được và bảo vệ các thoả thuận đem lại lợi ích kinh tế của quốc gia đó.
  • 14. 13 Đặc điểm của chính sách hội nhập kinh tế quốc tế Có thể nói rằng, xu hướng tất yếu của hội nhập kinh tế quốc tế chính là việc cùng với sự gia tăng hội nhập kinh tế quốc tế, hàng rào thương mại giữa các thị trường sẽ dần biến mất. Để nhận diện các chính sách hội nhập kinh tế quốc tế, việc phân loại chúng dựa theo các đặc trưng mà chúng có là yếu tố quan trọng. Về đặc điểm phạm vi địa lý, có thể chia chính sách hội nhập kinh tế quốc tế theo các hướng: song phương, đa phương, và khu vực. Với chính sách hội nhập kinh tế quốc tế theo khu vực, các quốc gia tham gia vào loại hình chính sách này thường gắn kết với nhau trên nền tảng khu vực địa lý, mà điển hình tiêu biểu và gần gũi nhất đó chính là Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á (Association of South East Asian Nations – ASEAN), một liên minh chính trị, kinh tế, văn hóa và xã hội. Bên cạnh đó, các chính sách hội nhập kinh tế song phương được coi là nội dung cơ bản mà bất kì quốc gia nào cũng thực hiện. Hội nhập kinh tế quốc tế qua các chính sách song phương là cách hội nhập dựa trên các thỏa thuận chính sách giữa hai quốc gia, mà trong đó, các điều khoản, nội dung được các bên trong thỏa thuận đưa ra, hội ý, chấp thuận và cam kết thực hiện. Điểm mạnh của các chính sách hội nhập kinh tế quốc tế song phương đó là việc trao đổi đàm phán chính sách giữa hai quốc gia sẽ trực tiếp và mất ít thời gian (so với hình thức chính sách hội nhập kinh tế quốc tế đa phương). Tuy nhiên, điểm yếu của các chính sách song phương đó là các quốc gia nhỏ, yếu thế hơn sẽ gặp nhiều khó khăn khi đàm phán với các nước lớn hơn, do cửa sổ đàm phán của những nước nhỏ sẽ hẹp hơn, dẫn tới việc họ có thể bị các nước lớn gây áp lực, và phải chấp nhận các thỏa thuận không thực sự thuận lợi nhất có thể cho họ. Chính sách hội nhập kinh tế quốc tế đa phương là sản phẩm của chủ nghĩa đa phương. Theo công trình của Ruggie xuất bản năm 1992, chủ nghĩa
  • 15. 14 đa phương, một cách định lượng, là sự thỏa thuận, chấp thuận của nhóm từ ba thành viên trở lên. Một cách định tính, chủ nghĩa đa phương đề xuất việc các thành viên (cá nhân, quốc gia) ứng xử dựa trên việc tuân thủ các nguyên tắc chung đã được nhất trí, lấy lợi ích tập thể và lâu dài làm mục tiêu mà bỏ qua các lợi ích cá nhân, ngắn hạn. Chính sách hội nhập kinh tế quốc tế đa phương tuân theo bản chất này của chủ nghĩa đa phương. Đó là chính sách đa phương trong hội nhập kinh tế quốc tế diễn ra trong một nhóm từ ba nước trở lên, với việc: lợi ích của các quốc gia trong nhóm (liên minh) này không thể chia cắt; các quốc gia thành viên tham gia, ứng xử dựa trên các nguyên tắc, bộ nguyên tắc đã được chấp thuận bởi toàn bộ các thành viên liên minh; và sự hợp tác giữa các quốc gia thành viên phải đem lại lợi ích cho tập thể, giữa các quốc gia thành viên với nhau, không riêng lẻ [38]. Đây là xu hướng mà rất nhiều các quốc gia đang theo đuổi, dù là các nước đang phát triển, phát triển, siêu cường hay các nước nhỏ bởi nó phục vụ tốt nhất cho việc thực hiện các mục đích toàn cầu hóa, thúc đẩy tăng trưởng công bằng ở phạm vi rộng hơn và tốc độ cao hơn rất nhiều so với các chính sách hội nhập kinh tế quốc tế song phương. Các quốc gia nhỏ, yếu thế hơn cần loại chính sách này để có thể đạt được các lợi ích mà họ không thể đạt được trong các đàm phán chính sách với các nước lớn hơn. Còn các quốc gia lớn hơn, tuy có khó khăn hơn trong việc đạt được mục đích của mình một cách áp đảo, nhưng trong bối cảnh chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của khủng hoảng kinh tế năm 2008, thực sự cần loại hình chính sách đa phương để có thể tháo gỡ các vấn đề mà các nền kinh tế trong nước của họ gặp phải. 1. Nếu dựa trên đặc điểm về mức độ của chính sách với hội nhập kinh tế với các đối tượng khác nhau, các chính sách này có thể được phân loại với các mức độ từ nông tới sâu: (1) Thỏa thuận Thương mại ưu đãi (Preferential Trade Arrangement/PTA) với các bên tham gia thỏa thuận hạ
  • 16. 15 thấp một phần hàng rào thương mại hàng hóa cho nhau và duy trì hàng rào đó với các bên thứ ba không tham gia thỏa thuận; (2) Khu vực Thương mại Tự do (Free Trade Area/FTA) với các bên tham gia thỏa thuận xóa bỏ hầu hết hàng rào thương mại, thuế quan và phi thuế quan cho nhau nhưng vẫn duy trì chính sách thuế quan riêng của mỗi bên đối với các nước ngoài FTA; (3) Liên minh Thuế quan (Custom Union/CU) với các bên tham gia hình thành FTA và có chính sách thuế quan chung đối với các nước bên ngoài liên minh; (4) Thị trường Chung (Common Market/CM) với các nước tham gia hình thành Liên minh Thuế quan đồng thời cho phép sự dịch chuyển tự do của các nhân tố sản xuất là vốn và lao động; và (5) Liên minh Kinh tế (Economic Union/EU): Các bên tham gia hình thành thị trường chung đồng thời xây dựng chính sách kinh tế chung toàn liên minh bằng cách hài hòa hóa các chính sách tài khóa và tiền tệ quốc gia. Sau này, nhà nghiên cứu El-Agraa, trong tác phẩm Regional Integration: Experience, Theory and Measurement, đã đi xa hơn trong việc phân loại các mức độ chính sách hội nhập kinh tế quốc tế bằng việc cụ thể hóa các yếu tố cấu thành của từng mức độ, dựa trên một hệ tiêu chuẩn chính sách chung, được thể hiện như sau: Bảng 1.1: Mức độ cam kết của các hình thức liên minh kinh tế quốc tế [30, tr. 2] Hình thức liên kết kinh tế Thương mại tự do nội khối Chính sách thương mại chung Dịch chuyển nhân tố sản xuất tự do Chính sách tiền tệ và tài khóa chung Một chính phủ Khu vực mậu dịch tự do Có Không Không Không Không Liên minh Có Có Không Không Không
  • 17. 16 thuế quan Thị trường chung Có Có Có Không Không Liên minh kinh tế Có Có Có Có Không Liên minh chính trị Có Có Có Có Có Cũng cần lưu ý rằng, từ những năm 1990 đến nay, khái niệm Hiệp định Thương mại Tự do (Free Trade Agreement – FTA) đã mở rộng hơn về phạm vi và sâu hơn về cam kết tự do hóa. Đây chính là lý do mà các học giả thường gọi các Hiệp định Thương mại Tự do ngày nay là FTA “thế hệ mới”. Các FTA ngày nay không chỉ dừng lại ở phạm vi cam kết cắt giảm thuế quan và hàng rào phi thuế quan, mà hơn thế còn bao gồm nhiều vấn đề rộng hơn cả cam kết trong khung khổ GATT/WTO cũng như một loạt vấn đề thương mại mới mà WTO chưa có quy định. Phạm vi cam kết của FTA này còn bao gồm những lĩnh vực như thuận lợi hóa thương mại, hoạt động đầu tư, mua sắm chính phủ, chính sách cạnh tranh (còn gọi là “những vấn đề Xingapo”), các biện pháp phi thuế quan, thương mại dịch vụ, quyền sở hữu trí tuệ, cơ chế giải quyết tranh chấp, tiêu chuẩn và hợp chuẩn, lao động, môi trường, thậm chí còn gắn với những vấn đề dân chủ và nhân quyền hay chống khủng bố… Điều này cũng có nghĩa khái niệm Hiệp định Thương mại Tự do được sử dụng rộng rãi ngày nay không còn được hiểu trong phạm vi hẹp của những thỏa thuận hội nhập khu vực và song phương có cấp độ liên kết kinh tế “nông” của giai đoạn trước thập kỷ 1980, mà đã được dùng để chỉ các thỏa thuận hội nhập kinh tế “sâu” giữa hai hay một nhóm nước với nhau. Khái niệm Hiệp định Thương mại Tự do (FTA) ngày nay không còn được hiểu theo ranh giới
  • 18. 17 truyền thống của bốn hình thức tự do hóa và hội nhập kinh tế khu vực như trình bày ở trên mà đã hàm nghĩa “thế hệ FTA mới” với phạm vi và lĩnh vực cam kết sâu rộng hơn, toàn diện hơn cả những quy định và phạm vi cam kết trong khung khổ WTO. 1.1.4 Nội dung của các chính sách hội nhập kinh tế quốc tế Xác định tầm quan trọng và tính tất yếu của việc hội nhập kinh tế quốc tế, các chính sách thúc đẩy chuyển dịch và tái cấu trúc nền kinh tế theo hướng nâng cao khả năng cạnh tranh và mở cửa thị trường để đón nhận sự tham gia của các tác nhân bên ngoài hay để bước chân sang các thị trường mới là vô cùng cần thiết, phù hợp với các nội dung của các chính sách hội nhập kinh tế quốc tế cơ bản. Các hình thức liên minh kinh tế quốc tế khác nhau sẽ có các đòi hỏi về chính sách hội nhập kinh tế quốc tế khác nhau. Đối với thương mại tự do, thuế quan (thuế đánh vào hàng hóa nhập khẩu) giữa các nước thành viên được giảm đáng kể, một số đã bãi bỏ hoàn toàn. Mỗi quốc gia thành viên giữ thuế quan riêng của mình đối với các nước thứ ba. Mục tiêu chung của các hiệp định thương mại tự do là phát triển các nền kinh tế có lợi thế về quy mô và lợi thế so sánh, thúc đẩy hiệu quả kinh tế. Đối với hình thức công đoàn tùy chỉnh, các quốc gia thành viên đặt mức thuế chung bên ngoài giữa các quốc gia thành viên, ngụ ý rằng mức thuế tương tự cũng được áp dụng cho các nước thứ ba; và như vậy đạt được một chế độ thương mại chung. Đối với hình thức thị trường chung, dịch vụ và vốn được tự do di chuyển trong các nước thành viên, mở rộng các nền kinh tế có quy mô với lợi thế so sánh. Tuy nhiên, mỗi thị trường quốc gia vẫn có những quy định riêng, ví dụ như tiêu chuẩn sản phẩm. Đối với hình thức liên minh kinh tế (thị trường đơn lẻ), tất cả thuế quan được loại bỏ để giao dịch giữa các quốc gia thành viên tạo ra một thị trường thống nhất. Ngoài ra còn có chuyển động lao động miễn phí, cho phép công
  • 19. 18 nhân ở một nước thành viên có thể di chuyển và làm việc ở một nước thành viên khác. Các chính sách tiền tệ và tài khóa giữa các nước thành viên được hài hòa, ngụ ý mức độ hội nhập chính trị, thậm chí sử dụng một loại tiền tệ chung, chẳng hạn như với Liên minh Châu Âu (Euro). Và cuối cùng là hình thức liên minh chính trị, đại diện cho hình thức tích hợp tiên tiến nhất có thể với một chính phủ chung và là chủ quyền của quốc gia thành viên được giảm đáng kể. Hình thức này chỉ được tìm thấy trong các quốc gia, chẳng hạn như các liên đoàn nơi có chính phủ trung ương và các vùng có mức độ tự chủ. Khi mức độ hội nhập kinh tế tăng lên, thì sự phức tạp cũng vậy. Điều này liên quan đến một loạt các quy định, cơ chế thi hành và trọng tài. Sự phức tạp đi kèm với chi phí có thể làm suy yếu khả năng cạnh tranh của các khu vực trong hội nhập kinh tế vì nó ít linh hoạt hơn đối với chính sách quốc gia. Một sự phân chia của hội nhập kinh tế có thể xảy ra nếu sự phức tạp mà nó tạo ra không còn được đánh giá là có thể chấp nhận được bởi các thành viên của nó. 1.1.5 Các nhân tố ảnh hưởng tới chính sách hội nhập kinh tế quốc tế Việc một quốc gia có thể thực hiện các chính sách phục vụ cho quá trình hội nhập kinh tế quốc tế hay không phụ thuộc vào nhiều yếu tố tác động khác nhau. Trong đó. tính đồng nhất của hàng hoá được sản xuất giữa các nước thành viên có thể trở thành các cản trở cho quan hệ thương mại. Nếu các nước sản xuất các loại hàng hóa giống nhau thì không cần phải giao dịch với nhau. Tình trạng này xảy ra ở các nước Đông Phi sản xuất hầu như các sản phẩm nông nghiệp tương tự như ngô, đường, v.v. làm suy yếu thương mại giữa các nước này. Một số quốc gia có thể gặp phải sự khó khăn trong khả năng trao đổi ngoại hối. Họ có thể không có đủ ngoại tệ để mua bán từ các nước khác và điều này có thể xuất phát từ khả năng hạn chế trong việc thu lại lợi nhuận từ các hoạt động xuất khẩu. Nếu theo góc nhìn của thuyết cấu trúc, các quốc gia có thể có ý thức hệ, văn hoá, tư tưởng, lịch sử khác nhau. Các chính sách
  • 20. 19 nhất định trong khuôn khổ đồng bộ hóa các chiến lược kinh tế của cả khối hoặc liên minh kinh tế có thể vấp phải các rào cản này, và khiến các quốc gia này phải khó khăn trong việc tuân thủ hay thực hiện các thoả thuận kinh tế chung. Trong các khối giao dịch, giao dịch bị suy yếu do giao thông và giao tiếp kém. Đây là kinh nghiệm chủ yếu ở các nước đang phát triển. Điều này làm cho việc giao dịch và di chuyển từ nước này sang nước khác trở nên khó khăn. Một môi trường chính trị - xã hội yên bình là yếu tố tiên quyết cho khả năng phát triển kinh tế tối đa mà một quốc gia có thể đạt được. Do đó, nếu một quốc gia thành viên đang trải qua bất ổn chính trị, nó sẽ ảnh hưởng đến quan hệ kinh doanh trong toàn bộ khối, dẫn tới việc các thoả thuận trong mối quan hệ thương mại trong khối và giữa các quốc gia thành viên bị đặt vào một tình huống nhiều rủi ro. Như vậy các chính sách đối nội, quản trị xã hội, chính trị của quốc gia đó ảnh hưởng trực tiếp tới nền kinh tế của nước đó, và ảnh hưởng gián tiếp tới khả năng thực hiện các chính sách hội nhập kinh tế quốc tế của nước đó. Trường hợp khác có thể xảy ra đó là các nước trong khối có thể có các mức phát triển khác nhau. Các nước phát triển hơn sẽ được hưởng lợi nhiều hơn từ thị trường chung. Các quốc gia kém phát triển hơn sẽ cảm thấy các chính sách kinh doanh chung của khối có thể không công bằng với họ. Hay nói cách khác, trên nền tảng phải tuân thủ và bảo đảm các chính sách chung và cơ bản của một khối các nước hội nhập kinh tế quốc tế, các quốc gia phát triển hơn sẽ có một khoảng cách quá lớn với các quốc gia kém phát triển hơn. Nếu tình trạng này diễn ra trong thời gian dài và phổ biến, mục đích của các chính sách hội nhập kinh tế quốc tế sẽ trở thành con dao hai lưỡi, gây khó khan cho các nước kém phát triển hơn. Sự kém phát triển này có thể đến từ khả năng công nghiệp hạn chế với nhiều sản phẩm đầu ra còn ở mức thô, chưa
  • 21. 20 qua chế biến, gây khó khăn đối với các chính sách trao đổi hàng hoá; hoặc cũng có thể đến từ khả năng thích nghi của con người với quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, mà ví dụ điển hình nhất là rào cản về ngoại ngữ dẫn tới tình trạng bỏ lỡ cơ hội hợp tác không đáng có. Cuối cùng, một số quốc gia thành viên, dù có cam kết tuân thủ và bảo vệ các chính sách chung của khối, nhưng ưa thích việc hội nhập kinh tế quốc tế với các cường quốc kinh tế khác nhưng ngoài khối. Chính sự can thiệp từ các nước phát triển không có trong khối giao dịch này dẫn tới việc họ, dù không ở trong khối đó, có thể áp đặt các điều kiện hạn chế giao dịch giữa các quốc gia thành viên. 1.2 Cơ sở thực tế 1.2.1 Khủng hoảng kinh tế 2008 Khủng hoảng kinh tế 2008 chính là thời điểm mấu chốt của đề tài này. Trong giai đoạn mà Việt Nam vừa đạt được các bước tiến đặc biệt trong tiến trình hội nhập quốc tế (gia nhập WTO vào năm 2007), cuộc khủng hoảng này xảy ra. Như nhiều các quốc gia khác, Việt Nam đã hứng chịu các tác động tiêu cực của nó, và tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của chúng ta đã bị ảnh hưởng, dẫn tới việc Chính phủ phải thực hiện các điều chỉnh chính sách mang tính bắt buộc. Nhưng cũng chính nhờ sự kiện này, Việt Nam đã tận dụng thành công một cơ hội khó để có các bước tiến mới trong hội nhập kinh tế quốc tế. Vậy cuộc Khủng hoảng kinh tế 2008 là gì? Theo phân tích của thời báo The Economist [37], yếu tố thứ nhất của cuộc khủng hoảng này bắt đầu từ năm 2001. Lạm phát bị đầy lui và lãi suất hạ, nhất là sau vụ khủng bố 11-9. Nhưng cuộc khủng hoảng tài chính hiện nay cũng bắt đầu từ đây. Đó là thời điểm mà FED đã bơm tiền vào nền kinh tế của Mỹ và giảm dần lãi suất cơ bản từ mức 3,5% năm hồi tháng 8-2001 xuống còn 1% vào giữa năm 2003. Giải pháp nới lỏng tiền tệ nhìn chung đã giúp cho việc vay tiền
  • 22. 21 ngân hàng dễ dàng hơn và hạ thấp chi phí trong phạm vi toàn bộ nền kinh tế nhưng đồng thời nó cũng làm đồng tiền bị mất giá và dẫn tới lạm phát. Hơn nữa, FED đã giữ lãi suất quá thấp như vậy trong một thời gian quá dài. Yếu tố thứ hai là những khoản vay lãi suất thấp kích thích việc mua nhà. Vào thời điểm 2006-2007, các ngân hàng thương mại và đầu tư đã tạo nới lỏng việc cho vay mua nhà dành cho những đối tượng vay ít tin cậy. FED đã không kiểm soát những thực tế giống như “con dao hai lưỡi” này. Kết quả là bất kỳ ai cũng có thể vay tiền mua nhà, cho dù họ ít có khả năng và thậm chí không có khả năng trả nợ. Lãi suất thấp khiến nhiều người đổ xô mua nhà đã thổi lên “bong bóng” địa ốc. Giá nhà lên cao khiến các ngân hàng cảm thấy an toàn để đem tiền cho những người không có khả năng trả nợ vay bởi các ngân hàng cho rằng, nếu những người vay không trả nợ được, họ sẽ tịch thu nhà với giá trị đã được đẩy lên cao hơn. Mọi việc cứ suôn sẻ như vậy chừng nào giá nhà vẫn tăng, nhưng một khi giá nhà lên đến đỉnh điểm và bắt đầu giảm, các điều kiện cho vay bị thắt chặt, khi đó các ngân hàng bỗng thấy họ đang sở hữu những ngôi nhà mà giá trị của nó không đủ bù đắp giá trị của các khoản vay. Yếu tố thứ ba chính là câu trả lời cho câu hỏi vì sao cả một hệ thống tài chính hùng mạnh bị điêu đứng khi mà những loại nợ tín dụng địa ốc (được hình thành do việc cho vay tiền mua nhà) trên thị trường tài chính Mỹ chỉ khoảng 500 tỉ USD - một con số nhỏ so với năng lực của thị trường? Vẫn theo The Economist [37], nguyên nhân khởi đầu là chính sách mượn tiền mua nhà. Trước kia các ngân hàng dùng tiền người dân ký thác cho vay mua nhà để kiếm lời. Đây là một trong những hoạt động bình thường và cổ điển của các ngân hàng. Điều kiện vay mua nhà phải trả ít nhất 20% tiền mặt, tiền trả mỗi tháng không quá 1/3 lương bổng, điểm tín dụng tốt, việc làm vững chắc, lâu dài … Các ngân hàng giữ các món mợ trong chương mục, và
  • 23. 22 như vậy chỉ có thể đủ khả năng cho vay trong giới hạn tiền có trong ngân quỹ, ngoài số tiền dự trữ thường trực bắt buộc theo quy luật (ít nhất 10% cho các ngân hàng lớn). Những món nợ này được bảo đảm bởi nhà và như vậy xem như là rất ít rủi ro. Khủng hoảng kinh tế toàn cầu 2008 do nhóm tài phiệt Mỹ gây ra, với sự dính líu tới từ các ngân hàng lớn tại cả Châu Á, Châu Âu, và Mỹ. Năm 2008, xuất nhập khẩu trên cả thế giới tương đương khoảng 32% tổng sản lượng, tụt xuống 22% (xuống khoảng $6,000 tỷ). Từ giữa năm 2008 đến giữa năm 2009, nhập khẩu của Nhật, Mỹ, thị trường chung Âu Châu giảm 30%. Ngành du lịch, hàng không rất thê thảm trong những năm 2008-2010. Số tiền những người Mễ, Phi, Việt Nam, Nam Mỹ … gửi từ Mỹ về xứ của họ giảm đáng kể, gây nhiều khó khăn cho kinh tế và người dân ở các xứ nhược tiểu này. Các nước kém phát triển trông cậy vào du lịch chịu hậu quả năng nề. Ireland bị khủng hoảng nặng nề về địa ốc, subprime. Các xứ như Hy Lạp, Ý, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Trung Nam Mỹ, và Á Châu trong đó có Việt Nam chịu thiệt hại nặng nề về thu nhập du lịch. Nhiều xí nghiệp tại tất cả các nước trên thế giới đóng cửa hay lao đao. Tại Mỹ, hậu quả của khủng hoảng là 26 triệu người Mỹ đã mất việc, không kiếm được việc làm toàn thời gian, hoặc đã bỏ cuộc đi kiếm việc. Khoảng 4 triệu gia đình bị tịch thu nhà, 4.5 triệu gia đình khác đang đi vào con đường nhà bị tịch thu hay chậm trễ trả tiền vay mượn mua nhà. Gần $11 ngàn tỷ gia sản trong đó có tiền để dành, tiền hưu trí đã ra mây khói. Hậu quả của khủng hoảng ảnh hưởng đến nhiều thế hệ, và ngay chính nước Mỹ cũng rất khó khăn và mất thời gian trong việc tìm ra phương án phục hồi kinh tế một cách thực sự hiệu quả. Chính sách nới lỏng tiền tệ của FED, bắt đầu từ cuối năm 2007 để tránh suy giảm kinh tế, nay lại gây ra lạm phát chứ không giúp nền kinh tế Mỹ phục hồi. Giá dầu, lương thực và vàng tăng lên đến mức cao nhất trong lịch sử và
  • 24. 23 đồng USD cũng mất giá đến mức chưa từng có. Nhiều nhà phân tích đánh giá, nếu cứ tiếp tục đẩy mạnh chính sách nới lỏng tiền tệ sẽ khó có thể ngăn chặn được nguy cơ sụp đổ mà có khi còn tạo ra tình trạng lạm phát và kinh tế suy giảm hơn nữa. 1.2.2 Kinh nghiệm thực hiện chính sách hội nhập kinh tế quốc tế tại một số quốc gia trong khu vực và Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam Báo cáo Khủng hoảng Nợ 2009 của Tổ chức Jubilee Debt Campaign chỉ ra rằng, các quốc gia dễ bị ảnh hưởng nặng nề bởi các cuộc khủng hoảng kinh tế thường là các quốc gia theo đuổi các dạng chính sách hội nhập kinh tế như: thị trường tài chính mở; phụ thuộc nặng nề vào xuất khẩu, nhất là các mặt hàng mà giá trị thấp hoặc đang mất giá; phụ thuộc nặng nề vào các hình thức đầu tư từ nước ngoài; hoặc theo đuổi các hình thức tín dụng ngắn hạn, giá trị cao. [32] Vẫn theo báo cáo này, là một quốc gia láng giềng trong khu vực của Đông Nam Á của Việt Nam, nợ nước ngoài của Philippines đứng ở mức 60,3 tỷ đô la và họ đã trả nợ 13,6 tỷ đô la dịch vụ trong năm 2006. Các tổ chức như thế giới như Ngân hàng Thế giới World Bank (WB) đã đóng một vai trò quan trọng ở Philippines kể từ khi khủng hoảng nợ nước ngoài bắt đầu vào đầu những năm 1980. Nhưng, với việc là một quốc gia có thu nhập trung bình, Philippines không đủ điều kiện để hủy nợ theo các quy định quốc tế chung. Áp lực đối phó với các khoản nợ ở nhiều cấp độ đã khiến Chính phủ Philippines tìm kiếm thu nhập ngoại hối thông qua chính ngành công nghiệp khai khoáng của họ. Không may, nhiều dự án khai thác mỏ được thực hiện đã gây ra thiệt hại nặng nề về môi trường và xã hội, và động lực thu hút đầu tư cũng đồng nghĩa với việc lợi nhuận tài chính thu về không cao. Một ví dụ điển hình cho hệ quả của các chính sách kiểu này là mỏ lộ thiên tại Rapu Rapu ở phía đông nam của Philippines đã gây ra
  • 25. 24 việc ô nhiễm cyanide và chất thải, đã giết số lượng lớn cá, đồng thời là nguồn kiếm ăn chính của người dân tại địa phương. Hiện nay, tình trạng thiếu tín dụng toàn cầu và việc giá hàng hóa tụt giảm mạnh gây ra tình trạng các dự án khai thác bị bác bỏ hoặc bị trì hoãn, lợi nhuận cũng như triển vọng của chính những dự án này trở nên mù mịt hơn bao giờ. Khái quát hơn, với việc là một quốc gia thu nhập ở mức trung bình tương tự như Việt Nam, Philippines rất phụ thuộc vào tài chính tư nhân, thậm chí phụ thuộc hơn nhiều các quốc gia nghèo nhất khác. Do đó, theo đánh giá của WB, Philippines cũng sẽ yếu đuối hơn trước cuộc khủng hoảng 2008, và có khả năng cao bị ảnh hưởng bởi các cuộc khủng hoảng có thể xảy ra trong tương lai. Bởi vậy, người dân của nước này cũng có khả năng cao hơn hứng chịu nghèo đói và cuộc sống khó khăn trong giai đoạn hậu khủng hoảng. Cán cân thanh toán của Philippines thâm hụt khoảng 394 triệu đô la Mỹ trong quý III của năm 2008, một hình ảnh trái ngược của kết quả thặng dư 3,5 tỷ đô la Mỹ trong cùng kì năm 2007. Khoảng ba phần năm nợ nước ngoài của Philippines là thương mại và hơn 8 tỷ đô la Mỹ là từ các khoản nợ ngắn hạn, sắp đáo hạn trong năm 2009. Trong khi đó, theo nghiên cứu của Quỹ Kinh tế (Economics Foundation), vào năm 2007, Philippines đã yêu cầu mức hủy nợ 63% chỉ đơn thuần để chính phủ có thể đáp ứng các nhu cầu cơ bản của công dân. [32] 1.3 Tiểu kết Có thể nói rằng, Việt Nam, trước sự kiện khủng hoảng kinh tế 2008, đã đang trải qua một giai đoạn phát triển kinh tế với những dấu hiệu tích cực, phù hợp với thực trạng tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế còn nhiều hạn chế vào thời điểm đó. Việt Nam chịu ảnh hưởng lớn từ hệ quả của việc Trung Quốc, nền kinh tế lớn thứ 3 thế giới lúc bấy giờ, gia nhập WTO trước với những ưu thế từ việc đi trước trong tiến trình hội nhập, bổ sung vào đó là những điểm mạnh vốn có của thị trường này đối với Việt Nam. Điểm sáng
  • 26. 25 lớn nhất của giai đoạn trước 2008 của Việt Nam đó là các nỗ lực đạt được các Thỏa thuận Thương mại Tự do (FTA) như với ASEAN (1992), với Nhật Bản (2003); hay trở thành thành viên của các tổ chức, liên minh kinh tế thế giới như APEC (1998), WTO (2007). Khủng hoảng kinh tế 2008 là một thử thách không nhỏ đối với các nền kinh tế còn non trẻ trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, trong đó có Việt Nam. Tuy nhiên, Việt Nam đã có những điều chỉnh nhạy bén để nhanh chóng thích nghi với tình hình mới. Có thể nói rằng, chúng ta đã có thể biến khó khăn thành thời cơ để vươn lên, trong bối cảnh các nền kinh tế - tài chính lớn trên thế giới đang gặp phải các biến cố lớn, và thể hiện sự chậm chạp của họ trong khả năng phục hồi sau cú sốc 2008.
  • 27. 26 CHƯƠNG 2: THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM 2.1 Quan điểm, mục tiêu của Đảng về hội nhập kinh tế quốc tế Tại Việt Nam, các chính sách được Chính phủ đề ra và thực hiện đều phải mang tính thống nhất, xuyên suốt với tinh thần chỉ đạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam. Trong giai đoạn sau khủng hoảng kinh tế 2008, Đảng đã tiếp tục có những chỉ đạo, định hướng sâu sắc về chính sách hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam. Văn kiện Đại hội XI tiếp tục khẳng định tính khách quan của việc đa dạng hóa các hình thức sở hữu, coi trọng mọi thành phần kinh tế, mọi hình thức kinh doanh và vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế nhà nước. 2.1.1 Đa dạng hoá các hình thức sở hữu Trên cơ sở tổng kết thực tiễn đổi mới, Văn kiện Đại hội XI của Đảng đã có những khái quát mới về lý luận: “Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, hình thức tổ chức kinh doanh và hình thức phân phối.” [26, 1288] Lần đầu tiên trong Văn kiện, Đảng nêu đa dạng hóa các hình thức sở hữu, các thành phần kinh tế, các loại hình doanh nghiệp. Đây là một bước phát triển mới trong nhận thức lý luận của Đảng về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Từ thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội chúng ta ngày càng nhận thức rõ hơn mối quan hệ giữa chế độ sở hữu, hình thức sở hữu và loại hình kinh doanh. Mỗi chế độ sở hữu trong thực tiễn có thể có nhiều hình thức sở hữu mà ở đó sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và biểu hiện ra là các loại hình kinh doanh có hiệu quả cao góp vào quá trình tăng trưởng kinh tế. Sự phát triển đa dạng của các hình thức sở hữu là do sự phát triển của lực lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất càng đa dạng, trình độ xã hội càng phát triển, quan hệ sản xuất càng mở rộng thì tính đa dạng trong quan hệ sở hữu cũng ngày càng tăng lên.
  • 28. 27 Vì vậy, Văn kiện Đại hội XI của Đảng chỉ nhấn mạnh “Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, hình thức tổ chức kinh doanh” [26, 1288], còn số lượng các hình thức sử hữu, các thành phần kinh tế và theo đó là bao nhiêu loại hình doanh nghiệp là do nhu cầu khách quan của sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất quyết định. Đây là một bước tiến nhằm tạo một không gian mở cho quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất hoạt động, để có thể tránh giáo điều chủ quan. 2.1.2 Coi trọng mọi hình thức sở hữu và loại hình kinh doanh Văn kiện Đại hội XI của Đảng đã cho thấy khái quát mới về mặt lý luận, trong đó tập trung vào vào việc phát triển nền kinh tế thị trường với nhiều thành phần kinh tế, các thiết chết bảo vệc các hình thức sở hữu với mọi loại thành phần kinh tế, loại hình doanh nghiệp và đặc biệt là quyền và trách nhiệm của chủ sở hữu đối với xã hội. Những điều này được thể hiện qua việc, Đảng CSVN đề xuất “hoàn thiện cơ chế, chính sách để phát triển mạnh kinh tế tư nhân trở thành một trong những động lực của nền kinh tế. Phát triển mạnh các loại hình kinh tế tư nhân ở hầu hết các ngành, lĩnh vực kinh tế theo quy hoạch và quy định của pháp luật. Tạo điều kiện hình thành một số tập đoàn kinh tế tư nhân và tư nhân góp vốn vào các tập đoàn kinh tế nhà nước”, “Các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế, bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh”. [26, 1288] Có thể có ý kiến còn băn khoăn về cách tiếp cận nêu trên của Văn kiện Đại hội XI của Đảng so với lý luận của V.I. Lê-nin về các thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Chúng ta biết rằng, nhận thức về thành phần kinh tế của V.I. Lê-nin cũng rất uyển chuyển, linh hoạt phù hợp với các giai đoạn phát triển khác nhau: Giai đoạn áp dụng chính sách cộng sản
  • 29. 28 thời chiến, thành phần kinh tế được nhấn mạnh trên cơ sở quan hệ sở hữu nhất định, nhưng khi chính sách kinh tế mới (NEP) ra đời, thành phần kinh tế lại được nhấn mạnh đến các hình thức kinh tế. Như vậy, ở các giai đoạn khác nhau thì nhận thức về thành phần kinh tế cũng có sự thay đổi, đó là quá trình khách quan phù hợp với quy luật nhận thức. Vì vậy, quá trình đổi mới tư duy, đổi mới nhận thức về các thành phần kinh tế ở nước ta qua các kỳ đại hội của Đảng là hoàn toàn phù hợp với nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và phù hợp với thực tiễn Việt Nam trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế, thời kỳ đang phát triển cả về chiều rộng và chiều sâu. 2.1.3 Vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế nhà nước Trong Văn kiện Đại hội XI, Đảng tiếp tục khẳng định: “Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Kinh tế tập thể không ngừng được củng cố và phát triển. Kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Kinh tế tư nhân là một trong những động lực của nền kinh tế. Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài được khuyến khích phát triển. Các hình thức sở hữu hỗn hợp và đan kết với nhau hình thành các tổ chức kinh tế đa dạng ngày càng phát triển” [26, 1288]. Tại Đại hội VIII (năm 1996), Đảng lần đầu tiên đưa ra phạm trù kinh tế nhà nước thay vì cách gọi kinh tế quốc doanh trước đó, với nội hàm rộng hơn, bao quát được toàn bộ các hoạt động quản lý tài nguyên của đất nước; những cơ sở hạ tầng được tạo ra; các loại quỹ của quốc gia; các doanh nghiệp nhà nước bao gồm cả doanh nghiệp công ích và doanh nghiệp kinh doanh... nhờ đó đã giải quyết được vấn đề nhận thức thực tiễn cũng như lý luận về vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước. Các doanh nghiệp nhà nước hoạt động có hiệu quả cao sẽ góp phần tăng cường tiềm lực và sức mạnh của kinh tế nhà nước trong sứ mệnh chủ đạo
  • 30. 29 trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Cho nên, việc tăng hay giảm cả về quy mô, số lượng, chất lượng hiệu quả sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp nhà nước chỉ phản ánh một bộ phận của kinh tế nhà nước nói chung, chứ không thể coi đó là toàn bộ kinh tế nhà nước với vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân. Văn kiện Đại hội XI của Đảng cũng chỉ rõ: “Nhà nước quản lý nền kinh tế, định hướng, điều tiết, thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội bằng pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách và lực lượng vật chất” [26, 1289]. Luận điểm nêu trên của Đảng ta là hoàn toàn phù hợp với thực tiễn kinh tế khách quan. Bài học từ các nền kinh tế lớn vừa qua cũng cho thấy, vai trò của nhà nước không chỉ thể hiện ở sự điều hành vĩ mô nền kinh tế, mà còn ở thực lực của kinh tế nhà nước. Cuộc khủng hoảng tài chính - kinh tế toàn cầu bắt nguồn từ Mỹ và cuộc khủng hoảng nợ công ở các nước thành viên Liên minh châu Âu (EU) đã nói lên điều đó. Mỹ là nền kinh tế lớn nhất toàn cầu, đóng góp 19,39 nghìn tỷ đô la Mỹ vào GDP toàn cầu trong năm 2017 [34], nhưng thực lực kinh tế lại nằm trong tay các tập đoàn kinh tế tư nhân, nên khi các “đại gia” sụp đổ thì nhà nước cũng đứng trước nguy cơ vỡ nợ. Học thuyết chủ nghĩa tự do mới, với việc hạn chế sự can thiệp của nhà nước vào hoạt động kinh tế đã bị sụp đổ hoàn toàn. Ông Nicolas Sarkozy, Tổng thống Pháp đồng thời là Chủ tịch luân phiên của Liên minh châu Âu (EU) đã kêu gọi phải “tái xây dựng một chủ nghĩa tư bản điều chỉnh.” [18] Như vậy, để chuyển biến nhận thức từ giai đoạn phân chia các thành phần kinh tế thành hai loại: kinh tế xã hội chủ nghĩa và phi xã hội chủ nghĩa (trước đổi mới), đến thừa nhận nền kinh tế nhiều thành phần (trong đổi mới), và thừa nhận tất cả các thành phần kinh tế đều là những bộ phận cấu thành của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một quá trình
  • 31. 30 lâu dài, phải trải qua hơn 15 năm đổi mới (đến Đại hội IX năm 2001). Ngày nay, từ kết quả 25 năm đổi mới chúng ta lại có một bước tiến quan trọng trong quá trình nhận thức bằng việc khẳng định vai trò của các thành phần kinh tế qua sự đóng góp đối với sự tăng trưởng và hiệu quả kinh tế mang lại cho nền kinh tế quốc dân. Vì thế, trong Văn kiện Đại hội XI, Đảng tiếp tục khẳng định: “Các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế, bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh. Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Kinh tế tập thể không ngừng được củng cố và phát triển. Kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Kinh tế tư nhân là một trong những động lực của nền kinh tế. Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài được khuyến khích phát triển. Các hình thức sở hữu hỗn hợp và đan kết với nhau hình thành các tổ chức kinh tế đa dạng ngày càng phát triển. Các yếu tố thị trường được tạo lập đồng bộ, các loại thị trường từng bước được xây dựng, phát triển, vừa tuân theo quy luật của kinh tế thị trường, vừa bảo đảm tính định hướng xã hội chủ nghĩa”. [26, 1288] 2.2 Hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam trước 2008 2.2.1 Định hướng của Đảng trước 2008 Với bước ngoặt là Đại hội Đảng lần thứ VI năm 1986 đề ra đường lối đổi mới toàn diện và sâu sắc mọi lĩnh vực của nền kinh tế, sự nghiệp đổi mới của Việt Nam được tiến hành trong bối cảnh quốc tế có nhiều thay đổi sâu sắc và một cục diện, trật tự thế giới mới đang hình thành, trong đó các nước có chế độ chính trị khác nhau vừa đấu tranh vừa hợp tác với nhau. Đảng đã nhận thức rõ rằng bối cảnh đó là điều kiện để chúng ta phát triển đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ và rộng mở.
  • 32. 31 Đại hội Đảng lần thứ VII (năm 1991) đã xác định rõ chủ trương “độc lập tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại” với phương châm “Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển” [8], đánh dấu bước khởi đầu tiến trình hội nhập trong giai đoạn mới của nước ta. Thực hiện chủ trương này, Việt Nam đã không ngừng mở rộng quan hệ hợp tác kinh tế đối ngoại song phương và đa phương với nhiều đối tác, dưới nhiều hình thức, trên nhiều lĩnh vực (trao đổi hàng hóa, đầu tư sản xuất, mở rộng quan hệ tài chính - tín dụng, hợp tác khoa học kỹ thuật), tạo ra môi trường kinh doanh trong nước thuận lợi và khai thác hiệu quả các nguồn lực bên ngoài phục vụ cho quá trình phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế của đất nước. Thực tế giai đoạn đó cho thấy chủ trương đúng đắn của Đảng đã đánh dấu bước khởi đầu của Việt Nam tham gia hội nhập kinh tế quốc tế. Tháng 11/1996, Bộ Chính trị đã ra Nghị quyết số 01-NQ/TW về mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại giai đoạn 1996 - 2000. Tới năm 2001, Nghị quyết Đại hội lần thứ IX của Đảng khẳng định chủ trương “chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển nhanh, có hiệu quả và bền vững” theo nguyên tắc “bảo đảm độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, bảo vệ môi trường”. Sau việc tham gia thành công vào Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), vào tháng 01/2007, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã ban hành Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 05/02/2007 về một số chủ trương, chính sách lớn để nền kinh tế phát triển nhanh và bền vững khi Việt Nam là thành viên của WTO. Nghị quyết đã nêu rõ các cơ hội và thách thức của việc gia nhập WTO và đề
  • 33. 32 ra các định hướng lớn để nền kinh tế nước ta phát triển nhanh và bền vững sau khi gia nhập WTO. Trên tinh thần đó, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 16/2007/NQ-CP, ngày 27/2/2007, Chương trình hành động của Chính phủ về “Một số chủ trương, chính sách lớn để nền kinh tế phát triển nhanh và bền vững khi Việt Nam là thành viên của WTO”; giao các bộ, ngành, địa phương triển khai các nhiệm vụ cụ thể nhằm tận dụng cơ hội, vượt qua thách thức, đưa nước ta bước vào giai đoạn phát triển mới. Đây là một bước ngoặt lớn, diễn ra vào thời điểm ngay trước khi xảy ra cuộc khủng hoảng kinh tế 2008, và vô hình chung đã tạo một nền tảng thuận lợi cho Việt Nam thực hiện các chính sách hội nhập kinh tế sau 2008, trong bối cảnh nền kinh tế thế giới hứng chịu nhiều tổn thất. 2.2.2 Thành tựu và Hạn chế Cho tới 2007, Việt Nam đã đạt được các kết quả nhất định, và là hệ quả trực tiếp từ các chính sách hội nhập kinh tế quốc tế. Thành tựu Theo báo cáo của Tổng cục Thống kê [24], kinh tế tăng trưởng cao, cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tiến bộ là thành tựu nổi bật nhất, cơ bản nhất của nền kinh tế Việt Nam năm 2007. Tổng sản phẩm trong nước ước tăng 8,44%, đạt kế hoạch đề ra (8,0 - 8,5%), cao hơn năm 2006 (8,17%) và là mức cao nhất trong vòng 11 năm gần đây. Với tốc độ này, Việt Nam đứng vị trí thứ 3 về tốc độ tăng GDP năm 2007 của các nước châu Á sau Trung Quốc (11,3%) và Ấn Độ (khoảng 9%) và cao nhất trong các nước ASEAN (6,1%). Tốc độ tăng trưởng GDP cả 3 khu vực kinh tế chủ yếu đều đạt mức khá: Khu vực nông - lâm nghiệp và thủy sản ước tăng 3,0%/ so với mức 3,32% cùng kỳ 2006, khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 10,33% (riêng công nghiệp tăng
  • 34. 33 10,32%)/ so với mức 10,4% và 10,32% cùng kỳ và khu vực dịch vụ tăng 8,5%/ so với mức 8,29% của năm 2006. (tính theo giá so sánh năm 1994). Bảng 2.1 - Tốc độ tăng trưởng kinh tế (GDP) năm từ 2001 - 2007 (%) [25, tr.69] Năm 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 GDP 6,89 7,08 7,34 7,79 8,44 8,17 8,44 NLTS 2,89 4,17 3,62 4,36 4,02 3,3 3,0 CNXD 10,39 9,48 10,48 10,22 10,69 10,37 10,4 DV 6,10 6,54 6,45 7,26 8,48 8,29 8,5 Cũng theo Tổng cục Thống kê, thu hút vốn đầu tư nước ngoài đạt mức kỷ lục: Ước tính vốn đăng ký mới và vốn tăng thêm của các dự án cũ bổ sung cả năm 2007 đạt trên 20,3 tỉ USD, tăng 8,3 tỉ USD, so năm 2006 (12 tỉ USD), vượt kế hoạch 7 tỉ USD và là mức cao nhất từ trước đến nay. Tổng số vốn FDI năm 2007 đạt mức gần bằng vốn đầu tư của 5 năm 1991 - 1995 là 17 tỉ USD và vượt qua năm cao nhất 1996 là 10,1 tỉ USD. Vốn đầu tư chủ yếu tập trung vào dịch vụ 63,7% và công nghiệp 35,0%, ngành nông - lâm nghiệp thủy sản 1,3%. Địa phương thu hút nhiều vốn FDI đăng ký mới trong 2007 là Thành phố Hồ Chí Minh 308 dự án với số vốn gần 2 tỉ USD; Phú Yên 5 dự án với số vốn trên 1,7 tỉ USD, Bà Rịa - Vũng Tàu 1 tỉ 69 triệu USD; Bình Dương 1 tỉ 20 triệu USD; Hà Nội 963 triệu USD và Vĩnh Phúc 789 triệu USD. Có 4 quốc gia và vùng lãnh thổ đạt trên 1 tỉ USD vốn đầu tư mới là: Hàn Quốc 3.686,9 triệu USD; Quần đảo Virgin thuộc Anh 3.501 triệu USD; Singapore 1.551,5 triệu USD; Đài Loan 1.141,9 triệu USD. [24]
  • 35. 34 Trong năm 2007 cả nước đã thu hút 350 lượt dự án tăng vốn với số vốn trên 3,2 tỉ USD vốn đầu tư tăng thêm của các dự án cũ. Nét mới trong thu hút vốn FDI năm 2007 là cơ cấu đầu tư đã chuyển dịch từ công nghiệp sang lĩnh vực dịch vụ khách sạn, căn hộ cho thuê, nhà hàng, du lịch, tài chính, ngân hàng... Địa bàn đầu tư cũng chuyển mạnh đến các vùng ít dự án như miền Trung, miền Bắc. Năm 2007, cả nước có 52 địa phương thu hút vốn FDI. Các tỉnh miền Trung năm 2007 đã thu hút 3,3 tỉ USD vốn đầu tư đăng ký mới, tăng 264,5% so với năm 2006 và gần bằng số vốn FDI của 18 năm trước đó cộng lại (3,5 tỉ USD). Nhà máy lọc dầu Vũng Rô do Anh và Nga hợp tác đầu tư, vốn FDI của tỉnh Phú Yên đạt 1,7 tỉ USD là đứng đầu các tỉnh miền Trung, vượt qua Đà Nẵng, Quảng Nam và Thừa Thiên - Huế [24]. Tổng số vốn đầu tư nước ngoài (FDI) năm 2007 của nước ta đạt 20,3 tỉ USD là mức cao nhất từ trước đến nay.Vốn đầu tư thực hiện năm 2007 ước đạt 5,1 tỉ USD, tăng 1,2 tỉ USD (30,7%) so năm 2006 (39,56 tỉ USD). Cùng với tăng vốn FDI, lượng kiều hối đổ về Việt Nam tiếp tục tăng cao. Dự kiến cả năm 2007, lượng kiều hối của người Việt Nam ở nước ngoài gửi về qua kênh chính thức đạt 5,5 tỉ USD so với mức 4,7 tỉ USD năm 2006 và gấp 157 lần năm 2001. Tốc độ tăng bình quân 37%/năm đưa lượng kiều hối gửi qua kênh chính thức được thực hiện từ năm 1991 đến 2007 lên con số 29,4 tỉ USD, chiếm 70% vốn FDI, tính từ năm 1998 và cao gấp rưỡi vốn ODA được giải ngân kể từ 1993. Nguồn vốn kiều hối năm 2007 chủ yếu là giúp người thân trong nước đầu tư chứng khoán, kinh doanh địa ốc, một phần mua sắm tài sản, hàng hóa, lễ hội vào dịp cuối năm. Vốn đầu tư gián tiếp từ thị trường chứng khoán cả năm ước đạt từ 4,5 đến 5 tỉ USD năm 2007 [24]. Vẫn theo Tổng cục Thống kê, xuất khẩu đạt mức cao nhất từ trước đến nay và tăng trưởng với tốc độ cao: Ước tính cả năm kim ngạch xuất khẩu đạt 47,7 tỉ USD, tăng 21% so năm 2006 (7,9 tỉ USD) và vượt 15,5% so kế hoạch.
  • 36. 35 Trong đó khu vực kinh tế trong nước chiếm 42% và tăng 22,3%; khu vực FDI chiếm 58% và tăng 18,4%, (kể cả dầu thô) nếu không có dầu thô, tăng 30,4% so với năm 2006). Có 10 mặt hàng đạt trên 1 tỉ USD. Hàng có kim ngạch xuất khẩu cao nhất là: dệt may đạt 7,8 tỉ USD, tăng 31% vượt qua dầu thô; dầu thô giảm bằng 97,7%, giày dép tăng 9,5%; thủy sản, tăng 11,9%; sản phẩm gỗ tăng 23,7%; điện tử, máy tính tăng 24,6%. Gạo xuất khẩu đạt 4,5 triệu tấn giảm 3, 4% nhưng kim ngạch là 1,5 tỉ USD tăng 14 % do giá xuất khẩu thế giới tăng. Cà phê tăng 52,3%, cao su tăng 5,3% so với năm 2006. Thu nhập quốc dân theo GDP năm 2007 tính bình quân đầu người đạt 835 USD, tăng 15 USD so kế hoạch. Dự trữ ngoại tệ đạt 20 tỉ USD, là mức cao so với các năm trước. Trong bối cảnh thiên tai, dịch bệnh của năm 2007, những kết quả đạt được về kinh tế như trên là những thành tựu to lớn, cơ bản và rất đáng tự hào. Nguyên nhân của những thành tựu đó có nhiều, trong đó đường lối đổi mới của Đảng và các chính sách kinh tế tài chính có tác dụng kích thích sản xuất, mở rộng dịch vụ của Nhà nước và sự điều hành của Chính phủ có vai trò quyết định. [24] Hạn chế Nhập siêu lớn là hạn chế tiêu biểu nhất của giai đoạn 2006-2007 [24]. Theo số liệu từ Tổng cục Thống kê, tựu chung cả năm 2007, nhập siêu ước lên tới trên 13,1 tỉ USD, bằng 27,5% kim ngạch xuất khẩu. Kim ngạch nhập khẩu cả năm 2007 ước đạt 60,8 tỉ USD, tăng 35,5% so năm 2006. Nguyên nhân nhập siêu cao có nhiều nhưng nguyên nhân khách quan do giá cả nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu thị trường thế giới tăng cao, nhất là xăng dầu, sắt thép, phôi thép, nhựa, vải sợi, phân bón, thức ăn gia súc. Nguyên nhân chủ quan do lúng túng trong điều hành xuất nhập khẩu của Nhà nước và các doanh nghiệp. Tốc độ tăng kim ngạch nhập khẩu cao hơn nhiều so với tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu; công tác dự báo thị trường chưa tốt, chất lượng
  • 37. 36 hàng hóa xuất khẩu chưa cao, sức cạnh tranh còn hạn chế. Tốc độ giải ngân vốn ODA tuy có tiến bộ, nhưng vẫn chậm so với yêu cầu. Trong 2 năm 2006 - 2007 cả nước mới giải ngân đươc 3,9 tỉ USD, tương đương 32% tổng vốn ODA dự kiến giải ngân thời kỳ 2006 - 2010. Nguyên nhân chính là do thiếu quy trình phù hợp, thủ tục phức tạp, thiếu rõ ràng, thiếu các quy định trách nhiệm của Việt Nam - nhà tài trợ, công tác di dân, giải phóng mặt bằng triển khai dự án, tổ chức đấu thầu lúng túng. Tỷ trọng vốn FDI trong nông nghiệp chỉ đạt 1,8% tổng số vốn đầu tư năm 2007 là quá thấp và không cân đối. Chất lượng tăng trưởng kinh tế chưa cao, chưa đều và chưa bền vững. Khuyết điểm này tồn tại đã nhiều năm nhưng vẫn tái diễn lại trong năm 2007. Trong công nghiệp, tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất khá cao 17%, nhưng tốc độ tăng trưởng giá trị tăng thêm vẫn thấp khoảng 10,2%. Khoảng cách chênh lệch giữa 2 tốc độ vẫn là gần 7%, chưa giảm, ngược lại cao hơn năm trước đó (17% và 10,34% của năm 2006). Nguyên nhân có nhiều, công nghiệp chế biến phụ thuộc vào nguyên liệu, vật liệu phụ nhập khẩu với giá cả tăng cao, nhất là dệt may, sắt thép, thị trường chưa thật ổn định, sức cạnh tranh còn thấp. Chất lượng tăng trưởng xuất khẩu cũng chưa thật vững. Sau 1 năm vào WTO, hàng dệt may Trung Quốc thống trị thị trường Việt Nam bằng mức giá siêu rẻ. Hàng chợ cũng trong tình cảnh tương tự. Quần áo Trung Quốc chiếm tới 70% lượng hàng tư thương dự trữ cho dịp lễ Noel và Tết dương lịch 2007 và cả tết Nguyên đán tới. Mẫu mã, mặt hàng Trung Quốc bắt mắt, giá cả cạnh tranh. Hàng xuất khẩu dệt may cũng đang gặp sự cạnh tranh gay gắt của hàng Trung Quốc nên kim ngạch xuất khẩu tăng chậm so với tiềm năng. Rào cản thương mại Hoa kỳ cũng là thách thức lớn. Năm 2007, hàng dệt may của Việt Nam vào thị trường Hoa Kỳ là 4,5 tỉ USD, nhưng sẽ còn cao hơn nếu không bị Hoa Kỳ đối xử thiếu công bằng bởi
  • 38. 37 chương trình giám sát hàng nhập khẩu từ Việt Nam. Vấn đề lao động đình công cũng là thách thức lớn của các doanh nghiệp dệt may. Xuất khẩu gạo tuy đạt kế hoạch về số lượng và giá tăng cao nhưng bất cập vẫn còn lớn. Nguồn cung thiếu nên phải nhập lúa từ Cam-pu-chia hàng trăm nghìn tấn với giá cao (trên 3.100đ/ kg lúa mùa 2007) tại biên giới An Giang, Đồng Tháp về chế biến nên hiệu quả không cao. Và như vậy, liệu lợi nhuận từ xuất khẩu gạo của các doanh nghiệp có đem lại lợi ích tương ứng cho người nông dân trồng lúa vùng đồng bằng sông Cửu Long khi giá vật tư, phân bón lên cao và chi phí thu gom, vận chuyển, xay xát... qua nhiều khâu trung gian, giá cả chưa hợp lý. Cao su, cà phê tuy tăng giá xuất khẩu nhưng chủ yếu là xuất khẩu thô, chưa qua chế biến, chưa có thương hiệu đủ sức cạnh tranh. 2.3 Thực hiện chính sách hội nhập kinh tế quốc tế trong giai đoạn 2008 – nay: Trong bối cảnh diễn ra cuộc khủng hoảng kinh tế 2008, con đường duy nhất và tốt nhất cho nền kinh tế Việt Nam là tiếp tục và đẩy mạnh hơn nữa việc hội nhập kinh tế quốc tế. Tuy nhiên, với diễn biến mới như vậy của nền kinh tế thế giới, Việt Nam đã phải cân nhắc và tính toán lại một bộ phận các nhóm chính sách hội nhập kinh tế quốc tế nhằm (1) tránh được các hệ quả xấu từ cuộc khủng hoảng kinh tế, (2) bình ổn được thị trường cũng như nền kinh tế trong bối cảnh đầy rủi ro và biến động của thế giới, và (3) sử dụng chính sự kiện này như một bước đà, một nền tảng cho quá trình hội nhập và phát triển kinh tế quốc tế sâu rộng hơn nữa. Các nhóm chính sách mà Việt Nam cần cân nhắc, điều chỉnh, cải thiện phải kể tới: hệ thống pháp luật; các chính sách vĩ mô; thủ tục hành chính; thu hút và sử dụng FDI; xuất – nhập khẩu; và các FTA. 2.3.1 Trên phương diện tài chính – thương mại Chính sách tài chính:
  • 39. 38 Chính sách tài chính bao gồm rất nhiều mảng, lĩnh vực phức tạp liên quan đến toàn bộ dòng chung chuyển vốn và tiền tệ của nền kinh tế. Do đó chính sách tài chính cũng có tầm quan trọng đặc biệt trong phát triển kinh tế. Để tham gia hội nhập thành công, chúng ta không những chỉ cần một hệ thống chính sách tài chính linh hoạt, nhất quán và đồng bộ, mà cần phải có những giải pháp nhằm cải cách chính sách tài chính phù hợp nhất. Chính sách tài chính có thể được tóm gọn trong ba mảng chính sách chính: thuế; tỉ giá; và lãi suất Về chính sách thuế: Theo nguyên tắc cơ bản của bất kỳ tổ chức kinh tế nào cũng đều có miễn giảm thuế nhập khẩu và xoá bỏ hàng rào phi thuế quan. Đối với thuế nhập khẩu cần phải xây dựng hệ thống thuế quan hợp lý, vận dụng chiến lược đàm phán thuế trần cao hơn mức áp dụng hiện tại; sử dụng tích cực chính sách thuế làm phương tiện bảo hộ hữu hiệu và hợp lý cho sản xuất trong nước, loại trừ dần các biện pháp phi quan thuế. Đối với thuế gián thu trong nứơc, tiếp tục hoàn thiện các sắc thuế, đặc biệt là thuế giá trị gia tăng (VAT). Đối với thuế thu nhập duy trì hợp lý thuế thu nhập doanh nghiệp, mở rộng diện đánh thuế thu nhập cá nhân với mức thuế suất thấp để dễ quản lý. Về chính sách tỉ giá: Trong bài trả lời của mình với Vietnamnet, PGS. TS. Phạm Thế Anh cho rằng, thứ nhất, chính sách tỷ giá của Việt Nam tương đối cứng nhắc, vì vậy nó không hỗ trợ cho hoạt động thương mại quốc tế. Thực tế cho thấy, tốc độ tăng năng suất của Việt Nam không theo kịp tốc độ tăng của tỷ giá, do vậy nó làm giảm sức cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam trên thị trường quốc tế. Thời gian vừa qua, xuất khẩu của Việt Nam chủ yếu đến từ khu vực DN nước ngoài, trong khi khu vực này ít chịu ảnh hưởng của chính sách tỷ giá, còn tỷ trọng xuất khẩu trong nước ngày càng suy giảm. Dù có điểm đáng mừng là việc
  • 40. 39 xuất khẩu ròng thặng dư nhưng chúng ta cũng cần phải đặt câu hỏi rằng, nếu chính sách tỷ giá linh hoạt hơn thì liệu Việt Nam có thặng dư thương mại lớn hơn hay cũng chỉ đạt mức cân bằng như hiện nay? Thứ hai, chính sách tỷ giá hiện nay không chống được lạm phát, mặc dù một trong những lý do chính của việc duy trì tỷ giá cố định là để đạt mục tiêu này. Thực tế, muốn ổn định lạm phát thì chỉ chính sách tỷ giá cố định là không đủ. Vấn đề cốt lõi của việc chống lạm phát trong dài hạn là phải đưa ra các chính sách kiểm soát được cung tiền, cụ thể là phải dựa trên nền tảng chính sách tài khóa lành mạnh và sự độc lập tương đối của NHNN trong việc thực thi chính sách tiền tệ. Vấn đề độc lập của NHNN được hiểu là Quốc hội và Chính phủ chỉ nên giao chỉ tiêu ổn định lạm phát ở mức 3-4%, không nên giao chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng. Theo đó, Chính phủ cũng không can thiệp vào việc điều hành chính sách tiền tệ của NHNN mà để cơ quan này sử dụng các công cụ chính sách tiền tệ khi thực hiện mục tiêu đó. Thứ ba, nếu chính sách tỷ giá không linh hoạt thì những cú sốc kinh tế từ bên ngoài sẽ truyền dẫn hoàn toàn vào nền kinh tế Việt Nam. Ví dụ, khi đồng USD trên thế giới tăng giá một đồng thì hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam cũng tăng chừng đó. Nếu tỷ giá linh hoạt thì nó trở thành “đệm”, trở thành công cụ để giảm sốc từ bên ngoài, còn nếu tỷ giá cố định thì sẽ không thực hiện được vai trò đó. Trong bối cảnh hiện nay, các cú sốc kinh tế từ bên ngoài ngày càng nhiều và ảnh hưởng không nhỏ đến tình hình trong nước, bởi thế Việt Nam càng cần phải cân nhắc vấn đề này. Thứ tư, Chính phủ buộc phải sử dụng biện pháp can thiệp hành chính vào chính sách tiền tệ. Trong khi Việt Nam cam kết những công cụ tỷ giá cố định thì điều kiện thị trường lại không cho phép. Chẳng hạn như lạm phát cao nghĩa là có sức ép đồng tiền mất giá, khi đó người dân sẽ tăng nhu cầu mua ngoại tệ và Nhà nước buộc phải sử dụng các biện pháp can thiệp hành chính.
  • 41. 40 Việc duy trì chính sách tỷ giá cố định đã khiến Chính phủ phải áp dụng quá nhiều biện pháp can thiệp hành chính vào thị trường ngoại hối, ví dụ như quy định lãi suất tiền gửi USD là 0%. Về chính sách lãi suất Chính phủ cần hạn chế sử dụng tiền thu được từ việc phát hành trái phiếu để cho vay đầu tư với lãi suất thấp. Từng bước bãi bỏ hệ thống lãi suất trần, tiến tới việc xác định lãi suất trên thị trường liên ngân hàng. Biện pháp tình thế: thực hiện chính sách lãi suất thấp để khuyến khích đầu tư và phát triển kinh tế. Như vậy nhìn chung cần phối hợp đồng bộ các chính sách kinh tế vĩ mô trên lĩnh vực tài chính trong quá trình hội nhập. Chính phủ cũng tiến hành tiếp tục cải thiện thị trường chứng khoán nhằm đáp ứng được quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Thị trường chứng khoán trong một nền kinh tế là điều kiện cần thiết thúc đầy hội nhập. Bởi thị trường chứng khoán là nơi huy động vốn dài hạn cho doanh nghiệp, đặc biệt là vốn cổ phần. Việc huy động vốn cổ phần qua thị trường chứng khoán là một biện pháp cân đối lại tỉ lệ vốn sở hữu so với vốn vay và như vậy giảm được các rủi ro, nguy cơ phá sản của các doanh nghiệp. Thị trường chứng khoán là nơi thuận tiện để mua bán trái phiếu chính phủ, tạo điều kiện cho việc phát hành trái phiều chính phủ quy mô lớn với chi phí thấp nhất. Thời kỳ khủng khoảng tài chính toàn cầu 2008 Nền kinh tế Việt Nam trong giai đoạn này chứng kiến mức độ tăng trưởng tín dụng cao lên đến 37% trong khi tốc độ tăng trưởng GDP chỉ ở mức 8%. Điều này thể hiện sự tăng trưởng nóng của nền kinh tế. Đồng thời thị trường chứng khoán lao dốc nhanh chóng sau khi tăng trưởng bong bóng trong khoảng thời gian 2005-2006. Cung tiền tăng vượt cầu đã đẩy lạm phát tăng lên mức 18,44% trong sáu tháng đầu năm 2008. Chính sách lãi suất được NHNN điều chỉnh liên tục làm cho các doanh nghiệp trong nền kinh tế rơi vào
  • 42. 41 tình trạng bị động trước những điều chỉnh lãi suất của NHNN [31]. Chính vì vậy mà mục tiêu hàng đầu của CSTT được NHNN thực hiện trong giai đoạn này đó chính là kiềm chế lạm phát. Để hạn chế lạm phát, NHNN đã tiến hành thắt chặt tiền tệ từ đầu năm và nới lỏng dần vào cuối năm 2008 đã tạo nên tần suất điều chỉnh chính sách lãi suất nhiều chưa từng có trong lịch sử (với 8 lần điều chỉnh LSCB, lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu, 5 lần điều chỉnh dự trữ bắt buộc và lãi suất tiền gửi dự trữ bắt buộc, 3 lần nới biên độ tỉ giá). Kết quả là lãi suất thị trường liên ngân hàng đã liên tục hạ nhiệt theo xu hướng giảm của LSCB và các mức lãi suất chỉ đạo của NHNN [16]. Xuất phát từ những can thiệp mạnh tay của NHNN, LSCB đã trở thành một công cụ truyền tải thông tin điều hành chính sách lãi suất cho nền kinh tế và làm cơ sở để các NHTM xác định lãi suất kinh doanh với các khách hàng. Điều này đã giúp cho các doanh nghiệp dễ dàng tiếp cận nguồn vốn vay và thúc đẩy sản xuất kinh doanh nhằm hạn chế sự suy giảm kinh tế. Việc điều chỉnh lãi suất trong giai đoạn cuối năm 2008 cũng được xem như một biện pháp hỗ trợ cho thị trường chứng khoán, chống lại đà suy giảm. Thời kỳ sau khủng khoảng tài chính toàn cầu từ năm 2009 đến nay Do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008, nền kinh tế Việt Nam có dấu hiệu suy giảm rõ rệt sau một thời gian tăng trưởng bong bóng mặc dù tình hình lạm phát cao đã được kiềm soát và tỷ lệ lạm phát có giảm dần. Chính vì vậy, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) thực thi chính sách tiền tệ theo điều hành linh hoạt theo hướng nới lỏng, kích cầu nhằm ngăn chặn nguy cơ suy giảm kinh tế, tuy nhiên cũng thận trọng nhằm kiểm soát lạm phát và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Theo đó, NHNN tiếp tục thực hiện chính sách tiền tệ nới lỏng một cách thận trọng đầu năm 2009 để khuyến khích sản xuất, tăng cường xuất khẩu, ổn định kinh tế vĩ mô.
  • 43. 42 Biểu đồ 2.1: Mối quan hệ Lãi suất – Lạm phát, 03/2008 – 11/2016 [16] Theo biểu đồ trên, chính sách lãi suất được NHNN điều hành tăng giảm theo những biến động của thị trường, trong đó phải kể tới việc (1) lãi suất cơ bản (LSCB) được điều chỉnh giảm về mức 7%/năm từ ngày 1/2/2009 đưa lãi suất cho vay tối đa về mức 10,5%/năm nhằm tạo điều kiện cho các ngân hàng thương mại mở rộng tín dụng đáp ứng nhu cầu vốn cho các doanh nghiệp kinh doanh trong nền kinh tế. (2) Để giải tỏa căng thẳng lãi suất cho hoạt động cho vay của các ngân hàng thương mại, theo Thông tư 01/2009/TT- NHNN được ban hành này 23/11/2009, NHNN vẫn điều hành chính sách lãi suất hướng đến tác động làm giảm lãi suất cho vay kinh doanh nhưng có khuynh hướng thả nổi lãi suất theo thỏa thuận đối với các hợp động cho vay tiêu. Điều này xuất phát từ chỉ đạo của Nhà nước thông qua Nghị quyết số 23/2008/NQ-QH12 ngày 6/11/2008 của Quốc hội khóa XII kỳ họp thứ tư và Nghị quyết số 30/2008/NQ-CP ngày 11/12/2008 của Chính phủ nhằm cởi trói cho các ngân hàng thương mại trong việc cho vay theo lãi suất thỏa thuận giữa người đi vay và người cho vay. (3) Theo Văn bản số 9484/2009/VB-NHNN ban hành ngày 21/2/2009, NHNN cũng tích cực tiến hành kiểm tra nghiêm ngặt, ngăn chặn tình trạng
  • 44. 43 vượt trần lãi suất của các ngân hàng thương mại. Nguyên nhân là do những khó khăn trong thanh khoản của các ngân hàng thương mại dẫn đến công tác huy động vốn trở nên ngày càng căng thẳng. Bảng 2.1: Biến động lãi suất huy động tại thời điểm cuối năm giai đoạn 2009 đến Quý I/2017 [16] Bảng này cho thấy với mức lãi suất cơ bản duy trì ở 7%/năm, các ngân hàng thương mại đã nâng lãi suất huy động lên đỉnh điểm ở mức 10,5%/năm (chưa tính đến các hình thức khuyến mãi, rút thăm trúng thưởng và cộng thưởng khác được các ngân hàng thương mại gián tiếp cộng vào làm tăng lãi suất huy động vượt trần lãi suất theo quy định). Ngoài ra, nhiều ngân hàng thương mại đã áp lãi suất tiền gửi ở mức cao nhất có thể là 10,49% hay 10,50%/năm cho hầu hết các kỳ hạn. Chính vì vậy mà đường cong lãi suất có khuynh hướng bị xóa nhoà [31]. (4) Việc thúc đẩy các ngân hàng thương mại kiểm soát rủi ro tín dụng một cách chặt chẽ và khắt khe trong việc cấp tín dụng cho khách hàng, hạn chế và tập trung xử lý nợ xấu thông qua việc thực hiện CSTT thắt chặt bằng cách điều chỉnh tăng lãi suất cơ bản vào cuối năm 2009. Việc điều chỉnh tăng
  • 45. 44 lãi suất cơ bản đã kéo theo sự gia tăng lãi suất huy động và lãi suất cho vay. Chính điều này làm cho các ngân hàng thương mại khắt khe trong việc lựa chọn đối tượng cho vay hay nói một cách khác là tập trung vào những đối tượng khách hàng có uy tín, hoạt động kinh doanh hiệu quả, tỷ suất sinh lời cao và có khả năng trang trải chi phí sử dụng vốn cao. Và (5), Thông tư 07/2010/TT-NHNN được NHNN (ban hành ngày 26/2/2010) và Thông tư 12/2010/TT-NHNN (ban hành ngày 14/4/2010) cho thấy bước chuyển mình của NHNN, khi từng bước cởi trói cho các ngân hàng thương mại thông qua việc cho phép các ngân hàng thương mại áp dụng lãi suất cho vay thỏa thuận đối với hoạt động cho vay trung và dài hạn và cho tất cả các loại hình cho vay, nhằm khơi thông thị trường vốn cho các doanh nghiệ. Việc trở lại áp dụng chính sách lãi suất thỏa thuận giữa người đi vay và người cho vay đã làm giảm đáng kể vai trò của lãi suất cơ bản vì đã chấm dứt điều hành theo chế độ trần lãi suất (tối đa bằng 150% lãi suất cơ bản). Có thể nói, NHNN điều hành lãi suất cơ bản, lãi suất tái cấp vốn và lãi suất chiết khấu tương đối linh hoạt, phù hợp với mục tiêu chính sách tiền tệ, cung - cầu vốn thị trường, đảm bảo mối quan hệ hài hoà giữa lãi suất VND - tỷ giá - lãi suất ngoại tệ và có xem xét quan hệ về mặt định lượng, xu thế biến động của các loại lãi suất chủ yếu trên thị trường tiền tệ. Chính sách thương mại Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế là một trong những phương hướng để tiếp tục phát triển kinh tế trong chiến lược 10 năm 2001 – 2010 của nước ta. Một chính sách quan trọng của hội nhập là mở cửa thị trường trong nước hướng ra thị trường quốc tế. Tức là các vấn để thương mại giữa các bên cần phải có sự quan tâm đặc biệt. Các cam kết trong các hiệp định thương mại quốc tế đặt ra những yêu cầu phải điều chỉnh quy chế thương mại của Việt Nam. Cải cách thương mại với các chính sách theo hướng mở cửa và tự do