Download luận án tiến sĩ ngành kinh tế quốc tế với đề tài: Vai trò của Nhật Bản trong tiến trình liên kết kinh tế Đông Á, cho các bạn làm luận án tham khảo
Luận án: Vai trò của Nhật Bản trong tiến trình liên kết kinh tế Đông Á
1. VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
ĐỖ THỊ ÁNH
VAI TRÒ CỦA NHẬT BẢN TRONG TIẾN TRÌNH
LIÊN KẾT KINH TẾ ĐÔNG Á
LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ
HÀ NỘI - 2019
2. VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
ĐỖ THỊ ÁNH
VAI TRÒ CỦA NHẬT BẢN TRONG TIẾN TRÌNH
LIÊN KẾT KINH TẾ ĐÔNG Á
Ngành: Kinh tế quốc tế
Mã số: 9310106
LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
1. TS. TRẦN QUANG MINH
2. TS. NGUYỄN MẠNH HÙNG
HÀ NỘI - 2019
3. i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu
được thu thập, tính toán, tổng hợp từ các nguồn thống kê và cơ sở dữ liệu công khai,
tin cậy của các tổ chức quốc tế và chính phủ các nước. Các trích dẫn trong luận án
là trung thực. Những kết luận khoa học của luận án không trùng lặp với bất kỳ công
trình nào khác.
Hà Nội, ngày tháng năm 2019
Tác giả luận án
Đỗ Thị Ánh
4. ii
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
Chương 1: TỔNG QUAN CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN
QUAN ĐẾN CHỦ ĐỀ LUẬN ÁN..........................................................................10
1.1. Những nghiên cứu liên quan đến cơ sở lý luận về liên kết kinh tế khu
vực Đông Á và vai trò của một chủ thể.................................................................10
1.1.1. Nghiên cứu liên quan đến cơ sở lý luận về liên kết kinh tế khu vực .....10
1.1.2. Những nghiên cứu liên quan đến cơ sở lý luận về vai trò của một
quốc gia trong hội nhập khu vực......................................................................12
1.2. Những nghiên cứu về liên kết kinh tế Đông Á...............................................13
1.2.1. Nghiên cứu trong nước...........................................................................13
1.2.2. Nghiên cứu nước ngoài ..........................................................................15
1.3. Những nghiên cứu về vai trò của Nhật Bản trong liên kết kinh tế Đông Á.......18
1.3.1. Nghiên cứu trong nước...........................................................................18
1.3.2. Nghiên cứu nước ngoài ..........................................................................20
1.4. Đánh giá những điểm đã thống nhất và vấn đề còn tồn tại, xác định nội
dung luận án sẽ tập trung giải quyết.....................................................................23
1.4.1. Những điểm đã thống nhất .....................................................................23
1.4.2. Vấn đề còn tồn tại và những nội dung luận án sẽ tập trung giải quyết ..24
Chương 2: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA LIÊN
KẾT KINH TẾ ĐÔNG Á VÀ VAI TRÒ CỦA MỘT CHỦ THỂ.......................26
2.1. Một số vấn đề lý luận về liên kết kinh tế khu vực và vai trò của một
chủ thể ......................................................................................................................26
2.1.1. Lý thuyết về liên kết kinh tế khu vực trên phương diện thể chế............26
2.1.2. Một số lý luận về liên kết kinh tế trên phương diện thực tế (De-facto) .......32
2.1.3. Một số lý luận liên quan đến vai trò của một chủ thể trong quan hệ
quốc tế ..............................................................................................................36
2.1.4. Điều kiện cơ bản của liên kết kinh tế Đông Á và vai trò của một số
chủ thể có ảnh hưởng quan trọng đối với sự hình thành và tiến triển của
liên kết kinh tế Đông Á ....................................................................................40
5. iii
2.2. Thực tiễn liên kết kinh tế Đông Á...................................................................43
2.2.1. Liên kết kinh tế trên phương diện thực tế - Mạng sản xuất Đông Á......43
2.2.2. Liên kết kinh tế trên phương diện thể chế tại Đông Á...........................48
2.2.3. Một số nhận xét về tiến trình liên kết kinh tế Đông Á...........................57
2.3. Vai trò của một số chủ thể có ảnh hưởng quan trọng đối với tiến trình
liên kết kinh tế Đông Á (ASEAN, Trung Quốc, Mỹ) ...........................................60
2.3.1. Vai trò của ASEAN................................................................................60
2.3.2. Vai trò của Trung Quốc..........................................................................63
2.3.3. Vai trò của Mỹ.......................................................................................67
2.4. Tiểu kết chương 2.............................................................................................71
Chương 3: THỰC TRẠNG VAI TRÒ CỦA NHẬT BẢN TRONG TIẾN
TRÌNH LIÊN KẾT KINH TẾ ĐÔNG Á ..............................................................73
3.1. Những vai trò chủ yếu của Nhật Bản trong liên kết kinh tế Đông Á từ
khoảng giữa thập niên 1980 đến những năm đầu thập niên 2010......................73
3.1.1. Những vai trò chủ yếu của Nhật Bản .....................................................73
3.1.2. Một số đánh giá về vai trò của Nhật Bản trong liên kết kinh tế Đông
Á từ giữa thập niên 1980 đến những năm đầu thập niên 2010 ........................80
3.2. Vai trò nổi bật của Nhật Bản trong tiến trình liên kết kinh tế từ khoảng
đầu thập niên 2010 đến nay....................................................................................82
3.2.1. Thuận lợi và thách thức của Nhật Bản trong việc nâng cao vai trò
trong liên kết kinh tế Đông Á...........................................................................83
3.2.2. Vai trò của Nhật Bản trong tiến trình liên kết kinh tế Đông Á trong
bối cảnh cạnh tranh Trung Mỹ .........................................................................99
3.3. Tiểu kết chương 3...........................................................................................122
Chương 4: VIỆT NAM VÀ NHẬT BẢN TRONG TIẾN TRÌNH LIÊN
KẾT KINH TẾ ĐÔNG Á .....................................................................................124
4.1. Một số dự báo về tương lai tiến trình liên kết kinh tế Đông Á (từ nay
đến 2025) và vai trò của Nhật Bản.......................................................................124
4.1.1. Triển vọng tiến trình liên kết kinh tế Đông Á (từ nay đến 2025) ........124
4.1.2. Triển vọng vai trò của Nhật Bản ..........................................................128
6. iv
4.2. Quan điểm của Việt Nam về liên kết kinh tế Đông Á và một số hàm ý
chính sách nhằm nâng cao hiệu quả của liên kết kinh tế khu vực ...................130
4.2.1. Quan điểm cơ bản của Việt Nam về liên kết kinh tế Đông Á..............130
4.2.2. Hàm ý chính sách đối với Việt Nam về liên kết kinh tế Đông Á.........132
4.3. Quan hệ Việt Nam – Nhật Bản trong liên kết kinh tế Đông Á...................135
4.3.1. Khái quát lịch sử hợp tác kinh tế Việt Nam Nhật Bản.........................135
4.3.2. Thực trạng quan hệ Việt Nam Nhật Bản hiện nay ...............................136
4.4. Một số kiến nghị, giải pháp nhằm vận dụng có hiệu quả vai trò của
Nhật Bản trong tiến trình liên kết kinh tế Đông Á và thúc đẩy hơn nữa
quan hệ hợp tác Việt Nam – Nhật Bản................................................................139
4.5. Tiểu kết chương 4...........................................................................................144
KẾT LUẬN............................................................................................................146
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ ....149
TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................................................150
7. v
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Viết tắt Tiếng Anh Tiếng Việt
ACFTA ASEAN-China Free Trade Area Khu vực Thương mại Tự do
ASEAN-Trung Quốc
ADB Asian Development Bank Ngân hàng Phát triển Châu Á
AEC ASEAN Economic Community Cộng đồng kinh tế ASEAN
AFTA ASEAN Free Trade Area Khu vực Thương mại Tự do
ASEAN
AIIB Asian Infrastructure Investment
Bank
Ngân hàng Đầu tư Cơ sở Hạ tầng
châu Á
AJCEP ASEAN-Japan Comprehensive
Economic Partnership
Hiệp định Đối tác Kinh tế toàn diện
ASEAN-Nhật Bản
APEC Asia-Pacific Economic
Cooperation
Diễn đàn Hợp tác Kinh tế Châu Á-
Thái Bình Dương
ASEAN Association of South East Asian
Nations
Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
ASEAN+1 Khung khổ hợp tác giữa ASEAN
và một nước đối tác
ASEAN+3 Khung khổ hợp tác giữa ASEAN
và 3 đối tác Đông Bắc Á
ASEAN+6 Khung khổ hợp tác giữa ASEAN
và 3 đối tác Đông Bắc Á,
Ốtxtrâylia, Niudilân, Ấn Độ
ASEM Asia-Europe Meeting Hội nghị Thượng đỉnh Á-Âu
CEPEA Comprehensive Economic
Partnership for East Asia
Đối tác kinh tế toàn diện Đông Á
CEPT Common Effective Preferential Hiệp định Thuế quan ưu đãi có hiệu
8. vi
Tariff lực chung
CFTA Continental Free Trade Area Thỏa thuận thương mại tự do châu
Phi
Châu Á-
TBD
Châu Á – Thái Bình Dương
CJKFTA China–Japan-South Korea Free
Trade Agreement
Hiệp định Thương mại tự do Trung
Quốc-Nhật Bản-Hàn Quốc
CLMV Cambodia, Laos, Myanmar and
Viet Nam
Nhóm thành viên mới ASEAN gồm
Campuchia, Lào, Myanma, Việt
Nam
COMESA Common Market for Eastern and
Southern Africa
Thị trường chung Đông và Nam
Phi
CPTPP Comprehensive and Progressive
Agreement for Trans-Pacific
Partnership
Hiệp định Đối tác Toàn diện và
Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương
CU Customs Union Đồng minh Thuế quan
EAC East African Community Cộng đồng Kinh tế Đông Phi
EAFTA East Asia Free Trade Area Hiệp định Thương mại Tự do Đông
Á
EAS East Asia Summit Hội nghị Thượng đỉnh Đông Á
EPA Economic Partnership Agreements Hiệp định đối tác kinh tế
EU European Union Liên minh Châu Âu
FDI Foreign Direct Investment Đầu tư trực tiếp nước ngoài
FOIP Free and Open Indo-Pacific Chiến lược Ấn Độ Dương-Thái
Bình Dương tự do và cởi mở
FTA Free trade agreement Hiệp định thương mại tự do
FTA Free trade area Khu vực thương mại tự do
GATT General Agreement on Tariffs and Hiệp ước chung về thuế quan và
9. vii
Trade mậu dịch
GATS General Agreement on Trade in
Services
Hiệp định Chung về Thương mại
và Dịch vụ
GCC Gulf Cooperation Council Hội đồng Hợp tác Vùng Vịnh
GDP Gross Domestic Product Tổng sản phẩm quốc nội
GMS Greater Mekong Subregion Tiểu vùng Sông Mê-công
IPS Indo-Pacific Strategy Chiến lược Ấn Độ-Thái Bình
Dương
JETRO Japan External Trade Organization Tổ chức Xúc tiến Mậu dịch Nhật
Bản
MERCOS
UR
Mercado Común del Sur Thị trường chung Nam Mỹ
MNC Multinational corporation Tập đoàn đa quốc gia
MNF Most Favoured Nation Quy chế tối huệ quốc
NAFTA North American Free Trade
Agreement
Khu vực mậu dịch tự do Bắc Mỹ
NIC Newly Industrialized Country Nước công nghiệp mới
NIEs Newly industrialized economies Các nền kinh tế mới công nghiệp
hóa
OECD Organisation for Economic Co-
operation and Development
Tổ chức Hợp tác kinh tế và Phát
triển
PTA Preferential Trade Arrangement Thỏa thuận thương mại ưu đãi
RCEP Regional Comprehensive
Economic Partnership
Hiệp định đối tác kinh tế toàn diện
khu vực
ROO Rules of origin Quy định xuất xứ hàng hóa
RTA Regional trade agreement Hiệp định thương mại khu vực
SAARC South Asian Association for Hiệp hội hợp tác khu vực Nam Á
10. viii
Regional Cooperation
SACU Southern African Customs Union Liên minh thuế quan Nam Châu
Phi
SADC Southern African Development
Community
Cộng đồng phát triển Nam Châu
Phi
TiSA Trade in Services Agreement Hiệp định Thương mại dịch vụ
TTIP Transatlantic Trade and Investment
Partnership
Hiệp định đối tác thương mại và
đầu tư xuyên Đại Tây Dương
TPP Trans-Pacific Partnership
Agreement
Hiệp định đối tác kinh tế xuyên
Thái Bình Dương
TFTA Tripartite Free Trade Area Khu vực thương mại tự do ba bên
USD United States dollar Dollar Mỹ
WB World Bank Ngân hàng Thế giới
WTO World Trade Organization Tổ chức Thương mại Thế giới
11. ix
DANH MỤC BẢNG VÀ HÌNH
BẢNG
Bảng 3.1. Xếp hạng các nước về Chỉ số thịnh vượng toàn diện (IWI) bình quân
đầu người của Liên Hợp Quốc (năm 2008)...........................................76
Bảng 3.2. Vốn sản xuất tính theo đầu người.............................................................77
Bảng 3.3. Tỷ lệ thất nghiệp của Nhật Bản ................................................................87
Bảng 3.4. Bảng xếp hạng Top 50 công ty hàng đầu châu Á (2005 và 2011) ..........94
HÌNH
Hình 2.1. Tỷ lệ thương mại nội khối của Đông Á so với các khu vực khác.............44
Hình 2.2. Xuất khẩu nội khối tại Đông Á trong từng lĩnh vực (1980~2008) ...........45
Hình 2.3. Tỷ lệ các mặt hàng trong tổng giá trị thương mại của Đông Á (theo
từng quý trong các năm từ 2011-2018) ...................................................46
Hình 2.4. Tăng trưởng thương mại Đông Á theo danh mục sản phẩm trong thời
gian từ 2001–2016 ...................................................................................47
Hình 2.5. Xuất khẩu của các quốc gia Đông Á sang hai nền kinh tế lớn nhất
thế giới ....................................................................................................65
Hình 3.1. FDI của Nhật Bản tại Đông Á (1996-2015)..............................................74
Hình 3.2. Tỷ lệ FDI của Nhật Bản đối với các quốc gia Đông Á (2015) .................75
Hình 3.3 Quyền phủ quyết của Trung Quốc nếu Nhật Bản tham gia AIIB..............78
Hình 3.4. GDP danh nghĩa của Nhật Bản .................................................................86
Hình.3.5. Quan điểm của các nước về ảnh hưởng của Nhật Bản .............................91
Hình 4.1. Điểm đến tiềm năng sau khi Nhật Bản di chuyển cơ sở sản xuất khỏi
Trung Quốc............................................................................................138
13. 1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cùng với trào lưu toàn cầu hóa, liên kết/ hội nhập kinh tế khu vực đã trở thành
xu thế tất yếu trong quan hệ quốc tế hiện đại [9]. Nếu phân chia nền kinh tế toàn cầu
thành ba “cực tăng trưởng”, có thể thấy rằng ứng với mỗi “cực tăng trưởng” này lại
có một hình thái liên kết/ hội nhập kinh tế khác nhau, thứ nhất phải kể đến châu Âu
(EU), tiếp theo là châu Mỹ (NAFTA, MERCOSUR) và thứ ba là Đông Á - khu vực
hiện cũng là động lực tăng trưởng chính của kinh tế thế giới.
Tuy nhiên không như kỳ vọng, liên kết kinh tế Đông Á không chỉ là một tiến
trình lâu dài mà còn rất phức tạp. Sự phức tạp này có thể ví như một ma trận toán
học, thứ nhất bởi bên tham gia không chỉ là Chính phủ các nước mà còn bao gồm
Thị trường và Người dân (đặc biệt là tầng lớp trung lưu). Thứ hai, về quy mô, hội
nhập kinh tế không chỉ ở quy mô Khu vực (Đông Á), mà còn là Tiểu khu vực
(ASEAN) và Khu vực mở rộng (CEPEA, RCEP, EAFTA, CPTPP…). Thứ ba, về
trạng thái, cùng với sự Hợp tác, còn tồn tại quan hệ Cạnh tranh, thậm chí Đối lập.
Trong tiến trình lâu dài và phức tạp đó mỗi bên đều muốn khẳng định vai trò với
những toan tính khác nhau. Những chủ thể có vai trò quan trọng không chỉ có tác
quyết định tới nội dung, triển vọng… của tiến trình liên kết mà cả sự ổn định và
thịnh vượng của khu vực Đông Á.
Đông Á đang trải qua nhiều biến đổi sâu sắc hơn bất cứ khu vực nào khác với
một Trung Quốc lớn mạnh, đối đầu kinh tế Trung Mỹ quyết liệt, vai trò trung tâm
của ASEAN ngày càng thu hẹp... Thế nhưng ngay cả khi xu hướng bảo hộ và dân
tộc của chính quyền Mỹ gây nên sự thất vọng về vị thế lãnh đạo tự do hóa kinh tế,
thương mại và vai trò của nước này trong liên kết kinh tế khu vực, thì Trung Quốc
cũng chưa thể hiện được là một hình mẫu “lãnh đạo” thuyết phục. Không ít quốc gia
Đông Á, đặc biệt là ASEAN vẫn luôn kỳ vọng về một nhân tố cân bằng [15].
Là một cường quốc kinh tế khu vực và thế giới, Nhật Bản có ảnh hưởng rất
lớn đối với sự phát triển của các quốc gia Đông Á cũng như tiến trình liên kết kinh
tế. Lợi ích của Nhật Bản ở khu vực này đã được hình thành từ rất lâu và người Nhật
cũng luôn ý thức rằng Nhật Bản cần có một vai trò quan trọng tại Đông Á. Là con
14. 2
chim đầu đàn trong “Đàn ngỗng bay” những năm 1970 - 1980, Nhật Bản đã “kéo
theo” không ít quốc gia cùng phát triển, đóng góp đáng kể vào sự ra đời của những
“con rồng, “con hổ” Đông Á. Đến nay ngoài việc tích cực thúc đẩy các khuôn khổ
hội nhập kinh tế như ASEAN (AFTA, AEC), ASEAN+1 (AJCEP), ASEAN+3
(EAFTA), ASEAN+6 (CEPEA)…, Nhật Bản cũng là cường quốc kinh tế duy nhất
tại Đông Á và châu Á - TBD tham gia cùng lúc cả hai khuôn khổ thương mại tự do
đa phương quan trọng là TPP (với phiên bản mới là CPTPP) và RCEP.
Trong bối cảnh như vậy, việc nghiên cứu về vai trò của Nhật Bản trong tiến
trình liên kết kinh tế Đông Á, nhất là trước sự thay đổi nhanh chóng về tương quan
sức mạnh quốc tế và chiến lược của các “siêu cường” hiện nay rõ ràng đang là một
yêu cầu cấp thiết. Bên cạnh việc giúp hiểu rõ bản chất và tương lai của tiến trình
liên kết Đông Á, năng lực và vị thế thực sự của Nhật Bản ở khu vực, làm chủ thể
nào đang chi phối quan hệ kinh tế quốc tế thông qua việc đặt ra và kiểm soát các
“luật chơi” của Đông Á, nghiên cứu này cũng có ý nghĩa tham khảo trong hoạch
định chính sách hội nhập, phục vụ mục tiêu phát triển của đất nước và thúc đẩy hơn
nữa mối quan hệ song phương Việt Nam - Nhật Bản. Ngoài ra, mặc dù các vấn đề
liên quan tới Nhật Bản ở Đông Á đã được các nhà khoa học thế giới cũng như Việt
Nam nghiên cứu từ rất nhiều chiều cạnh, thế nhưng những nghiên cứu về vai trò của
Nhật Bản trong tiến trình liên kết kinh tế Đông Á lại không chỉ thiếu tính hệ thống,
mà còn thực sự ít ỏi, thậm chí có thể nhận xét rằng, sau nhiều thập niên “mất mát”
và suy thoái, vai trò kinh tế quốc tế của Nhật Bản dường như đã trở thành một chủ
đề nghiên cứu bị lãng quên. Bên cạnh đó, về phương diện lý luận, có thể thấy rằng
cho đến nay cũng vẫn chưa có một hệ thống lý luận phổ quát về liên kết/ hội nhập
kinh tế khu vực đặc trưng của Đông Á (như các khu vực khác, đặc biệt là EU), cũng
như chưa có một khung phân tích mang tính quy chuẩn về vai trò của một chủ thể
trong tiến trình này. Bởi vậy, nếu vai trò của Nhật Bản trong tiến trình liên kết được
làm rõ qua luận án, thì đây cũng là minh chứng cho sự hình thành của một khung
phân tích hợp lý, có ý nghĩa tham khảo cho những các nghiên cứu về sau. Có thể
nói, đó chính là những lý do khuyến khích nghiên cứu sinh lựa chọn đề tài “Vai trò
15. 3
của Nhật Bản trong tiến trình liên kết kinh tế Đông Á” cho luận án tiến sĩ sau một
quá trình học tập và nghiên cứu tại Học viện Khoa học Xã hội.
2. Mục đích, nhiệm vụ và câu hỏi nghiên cứu của đề tài luận án
2.1. Mục đích: Làm rõ vai trò của Nhật Bản trong tiến trình liên kết kinh tế
Đông Á, từ đó đề xuất một số khuyến nghị chính sách đối với Việt Nam.
2.2. Nhiệm vụ: Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, luận án sẽ giải quyết
các nhiệm vụ cụ thể sau:
+ Hệ thống hóa những vấn đề lý luận và thực tiễn về liên kết kinh tế Đông Á
và vai trò của các chủ thể có ảnh hưởng quan trọng đối với tiến trình này
+ Phân tích, làm rõ vai trò của Nhật Bản trong liên kết kinh tế Đông Á từ giữa
thập niên 1980 đến nay và dự báo triển vọng những năm tới đây (2019-2025)
+ Đề xuất các giải pháp nhằm giúp Việt Nam tranh thủ tốt các cơ hội có được
từ vai trò của Nhật Bản, tăng cường hơn nữa quan hệ với đối tác quan trọng này,
tham gia chủ động và hiệu quả hơn nữa vào tiến trình liên kết kinh tế khu vực
2.3. Câu hỏi nghiên cứu
Câu hỏi nghiên cứu chính:
Liên kết kinh tế Đông Á mang tính tất yếu, khách quan, song cũng là một tiến
trình lâu dài, phức tạp. Tiến triển của liên kết Đông Á cũng không giống những khu
vực khác trên thế giới, càng đòi hỏi phải có những chủ thể là nhân tố đóng vai trò
dẫn dắt tích cực và hiệu quả. Bởi vậy, câu hỏi nghiên cứu chính mà luận án cần làm
rõ là: Liên kết kinh tế Đông Á diễn ra theo những cách thức nào và trong tiến trình
đó vai trò của Nhật Bản được biểu hiện cụ thể như thế nào?
Các câu hỏi cụ thể :
1) Thực trạng và cách thức tiến triển của liên kết kinh tế Đông Á?
2) Nhật Bản có vai trò gì, những khó khăn và thuận lợi của Nhật Bản trong
việc gia tăng hơn nữa vai trò của mình là gì?
3) Trong tiến trình này vai trò của Nhật Bản có tiến triển để thích ứng với bối
cảnh mới của liên kết kinh tế hay không và những tiến triển (nếu có) này ảnh hưởng
thế nào đến tiến trình liên kết kinh tế Đông Á?
16. 4
4) Việt Nam cần có những chính sách gì để tận dụng tốt hơn các cơ hội có
được từ vai trò và những đóng góp của Nhật Bản trong liên kết kinh tế khu vực,
đồng thời tham gia một cách tích cực và hiệu quả vào tiến trình này ?
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu là vai trò của Nhật Bản
trong tiến trình liên kết kinh tế Đông Á.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi về không gian:
Đông Á theo cách hiểu về địa lý truyền thống là khu vực gồm 10 nước Đông
Nam Á (ASEAN10) và 3 nước Đông Bắc Á (Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc).
Tuy nhiên, với tính chất địa kinh tế, địa chính trị phức tạp, khái niệm Đông Á ngày
càng mang tính mở và động, thay đổi tùy theo bối cảnh và quan điểm (chẳng hạn
Ngân hàng Thế giới gần đây thường sử dụng cách gọi "East Asia and the Pacific –
EAP" thay vì "East Asia"). Do vậy mà căn cứ từ thực tiễn năng động của tiến trình
liên kết kinh tế Đông Á, trong một số nội dung của luận án phạm vi nghiên cứu sẽ
không chỉ gói gọn trong nội bộ khu vực mà là khu vực mở rộng (gồm các quốc gia
tham gia có lợi ích và ảnh hưởng ở khu vực, ví dụ như Ấn Độ, Úc, New Zealand
trong ASEAN+6, Mỹ và một số nước trong TPP - CPTPP…).
- Phạm vi về thời gian: Từ khoảng giữa thập niên 1980 đến nay (cuối 2018)
và dự báo triển vọng đến 2025. Trong đó, để làm nổi bật được sự chuyển biến vai
trò của Nhật Bản trong tổng thể tiến trình liên kết, nội dung chương chính (chương
III) sẽ phân định theo hai giai đoạn: Giai đoạn thứ nhất từ khoảng giữa những năm
1980 đến những năm đầu thập niên 2010. Giai đoạn hai từ những năm đầu thập niên
2010 đến nay. Sở dĩ NCS lựa chọn cách phân định như vậy bởi ở hai thời điểm này
ko chỉ Nhật Bản mà cả tiến trình liên kết kinh tế Đông Á đều đứng trước những
bước ngoặt vô cùng to lớn. Đặc biệt, trật tự kinh tế khu vực và thế giới đều có sự
biến động, cho thấy khả năng chuyển dịch quyền lực từ Tây sang Đông, ảnh hưởng
hết sức sâu sắc tới tiến trình liên kết kinh tế khu vực. Ngay cả quy mô tiến trình liên
kết, nếu trước kia chủ yếu bó hẹp trong nội bộ khu vực, thì từ những năm đầu 2010
quy mô khu vực mở rộng đã trở thành xu thế mạnh mẽ và khó đảo ngược.
17. 5
Cụ thể, liên quan đến mốc thời gian thứ nhất, vào những năm đầu thập niên
1980, Nhật Bản trên đà tăng trưởng thần kỳ đã nhanh chóng vươn lên thành nền
kinh tế thứ 2 thế giới, trở thành mối đe dọa thực sự đối với vị thế số 1 của Mỹ. Mặc
dù Thỏa ước Plaza (Plaza Accord) ký ngày 22/9/1985 tại New York giữa 5 quốc gia
là Mỹ, (CHLB) Đức, Anh, Pháp và Nhật là nhằm làm giảm tỉ giá đồng đô la Mỹ so
với đồng Yên và các ngoại tệ khác, tuy nhiên thỏa ước này cũng được xem như một
“cuộc chiến tranh” kinh tế mà Mỹ chủ yếu nhằm vào Nhật Bản. Tăng trưởng GDP
và xuất khẩu của Nhật Bản gần như ngưng lại từ nửa đầu năm 1986. Những nỗ lực
của Ngân hàng Trung ương nước này nhằm duy trì tỉ giá đồng Yên đã tạo nên tình
trạng bong bóng trên thị trường chứng khoán. Sự sụp đổ của thị trường này đã đẩy
kinh tế Nhật rơi vào khủng hoảng. Những "thập kỷ mất mát" sau đó đã khiến nước
này không còn khả năng trở thành mối đe dọa về kinh tế đối với Mỹ.
Liên quan đến tiến trình liên kết kinh tế Đông Á, không chỉ là nguyên nhân
quan trọng dẫn tới sự đảo chiều của kinh tế Nhật, Thỏa ước Plaza cũng đã làm thay
đổi hẳn chiến lược công nghiệp hóa định hướng xuất khẩu của nước này, khiến
quan hệ kinh tế, thương mại Nhật – Mỹ xấu đi, trong khi quan hệ giữa Nhật với các
nước Đông Á được đẩy mạnh. Sự tăng giá của đồng Yên dẫn tới một làn sóng FDI ồ
ạt chảy từ Nhật Bản sang các nước Đông Á khác (NIEs, ASEAN4). Từ giữa những
năm 1980, hệ thống phân công lao động quốc tế do MNCs Nhật Bản khởi nguồn đã
kích hoạt chuỗi sản xuất và cung ứng cho nhiều ngành công nghiệp (điện máy, điện
tử, ô tô…). Mạng sản xuất khu vực ngày càng mở rộng, thúc đẩy liên kết kinh tế
trên phương diện thực tế (De-facto) tiến triển mạnh tại Đông Á.
Mốc thời gian thứ hai từ đầu thập niên 2010 cũng khởi nguồn từ sự trỗi dậy
của một siêu cường kinh tế mới, một lần nữa cho thấy kịch bản diễn ra chuyển giao
quyền lực thế giới mới. Theo dự báo của WB và IMF, nếu tốc độ tăng trưởng của
Mỹ và Trung Quốc không thay đổi thì chỉ 2025 hoặc 2030 Trung Quốc sẽ vươn lên
thay Mỹ thành nền kinh tế số 1 thế giới. Ngoài ra, cách thức Trung Quốc thiết lập
hệ thống quyền lực của riêng họ cũng giống những gì Mỹ từng làm sau Thế chiến II
để xây dựng và duy trì vị thế siêu cường. Quan hệ cạnh tranh, đối đầu quyết liệt
diễn ra giữa Mỹ và Trung Quốc đã tác động hết sức sâu sắc tới Đông Á và Nhật Bản.
18. 6
Liên kết kinh tế Đông Á trải qua nhiều biến động lớn, quy mô liên kết không còn là
Khu vực hay Tiểu khu vực mà Khu vực mở rộng với sự hình thành và tiến triển của
những thể chế liên kết kinh tế đa phương như EAFTA, FTAAP, RCEP, TPP, BRI,
AIIB. Về phần Nhật Bản, một lần nữa đối diện với trật tự quốc tế thay đổi, nước
này không chỉ bị Trung Quốc vượt lên, đánh mất vị trí nền kinh tế thứ hai mà còn
rơi vào tình thế khó khăn khi ở giữa "hai chiến tuyến", một bên là láng giềng phụ
thuộc sâu sắc về kinh tế, xã hội và một bên là đồng minh quan trọng nhất.
- Phạm vi về lĩnh vực nghiên cứu:
Tiến trình liên kết kinh tế Đông Á:
Có thể thấy rằng, liên kết kinh tế Đông Á thực chất là một tiến trình chứ
không phải là một kết quả hay đích đến. Luận án sẽ xem xét tiến trình này từ hai
phương diện Thực tế (Liên kết/ hội nhập kinh tế trên phương diện thực tế, tiếng
Anh: De facto economic integration, tiếng Nhật: 事実上の経済統合) và Thể chế
(Liên kết/ hội nhập kinh tế trên phương diện thể chế, tiếng Anh: De jure economic
integration, tiếng Nhật: 制度的経済統合). Ở phương diện thực tế, luận án tập trung
chủ yếu vào góc độ vi mô từ khía cạnh mạng sản xuất khu vực, cụ thể là các lĩnh
vực thương mại, đầu tư. Về phương diện thể chế, các phân tích sẽ xoay quanh
những vấn đề vĩ mô như hiệp định thương mại tự do khu vực. Ngoài ra, cũng liên
quan đến phương diện thể chế, có thể thấy rằng từ khoảng đầu thập niên 2010 tại
Đông Á đã diễn ra nhiều động thái cạnh tranh ảnh hưởng, điều chỉnh chiến lược, tập
hợp lực lượng thông qua các thể chế hội nhập giữa hai cường quốc Trung - Mỹ, tác
động rất lớn tới tiến trình liên kết kinh tế, phá vỡ giới hạn địa lý khu vực trước đây.
Với lý do như vậy, luận án này sẽ chú ý làm rõ về sự biến đổi vai trò của Nhật Bản
trong tình hình mới này. Bên cạnh đó, sự ra đời của chiến lược BRI của Trung Quốc
đã khiến Mỹ và các đồng minh trong đó có Nhật Bản buộc phải nhanh chóng lên
các kế hoạch cả trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng. Bởi vậy mà bên cạnh thương mại, đầu
tư và FTA thì cơ sở hạ tầng cũng là một lĩnh vực mà luận án muốn tập trung làm rõ.
Trong khuôn khổ có giới hạn của luận án, những lĩnh vực liên kết kinh tế khu
vực liên quan khác như thương mại phi truyền thống (thương mại điện tử, kinh tế
19. 7
môi trường...), thương mại dịch vụ, dịch chuyển thể nhân, mua sắm công, sở hữu trí
tuệ, lĩnh vực ngoại giao kinh tế (viện trợ chính thức của chính phủ - ODA), lĩnh vực
tài chính tiền tệ... chỉ được đề cập như các vấn đề chung chứ không nằm trong phạm
vi nghiên cứu chính của luận án.
Chủ thể/ Bên tham gia có ảnh hưởng quan trọng: Được hiểu là một nước
hoặc nhóm nước tham gia chủ chốt, có ảnh hưởng lớn đối với tiến trình liên kết
kinh tế Đông Á mà việc làm rõ vai trò của các chủ thể này sẽ làm nổi bật được vai
trò của Nhật Bản. Trong luận án này (ngoài Nhật Bản) Trung Quốc, Mỹ và ASEAN
sẽ được coi là các chủ thể (hay các bên tham gia) có ảnh hưởng quan trọng.
Vai trò quốc gia: Cách hiểu về vai trò một quốc gia trong luận án tương
đương với vị thế, chức năng, tầm ảnh hưởng và trách nhiệm quốc tế của quốc gia đó
(trách nhiệm quốc tế là thái độ tôn trọng các chuẩn mực quốc tế, xử lý hài hòa lợi
ích quốc gia, lợi ích cộng đồng và lợi ích chính đáng của quốc gia khác, đóng góp
cho việc xây dựng các khuôn khổ pháp lý phù hợp với điều kiện quốc tế, cung cấp
các dịch vụ công quốc tế, kiến tạo các khuôn khổ hội nhập theo hướng công bằng,
dân chủ, văn minh hơn…).
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Phương pháp luận:
Luận án này sử dụng các phương pháp luận trong nghiên cứu khoa học như
duy vật biện chứng với việc tập trung vào các cặp phạm trù như bản chất-hiện tượng,
khả năng- hiện thực, nguyên nhân-kết quả…; phương pháp luận mang quan điểm
thực tiễn, theo đó coi trọng tính ứng dụng của vấn đề nghiên cứu; phương pháp luận
duy vật lịch sử qua việc xem xét các sự vật trong những hoàn cảnh cụ thể.
4.2. Phương pháp nghiên cứu:
Các phương pháp nghiên cứu chính mà luận án sử dụng bao gồm :
- Phương pháp phân tích, thống kê kinh tế: tổng hợp, phân tích các thông tin
dữ liệu sơ cấp, thứ cấp trong đó có các kết quả phân tích định lượng của các công
trình nghiên cứu uy tín đã được công bố...
- Phương pháp so sánh: Bằng việc sử dụng biện pháp nghiên cứu so sánh, vai
trò của Nhật Bản trong liên kết Đông Á không chỉ được xem xét một cách riêng lẻ
20. 8
mà còn được đặt trong tổng thể nhiều mối quan hệ, qua đó đánh giá một cách chính
xác và khách quan hơn về đối tượng nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu liên ngành: Như đã đề cập ở trên, liên kết kinh tế
Đông Á là một tiến trình lâu dài và phức tạp, không ít vấn đề nếu chỉ riêng chuyên
ngành kinh tế sẽ không thể giải thích đầy đủ, đòi hỏi phải có sự kết hợp với nghiên
cứu liên ngành. Với lý do đó, luận án sẽ không chỉ gói gọn việc phân tích trong
khuôn khổ của chuyên ngành kinh tế (kinh tế thế giới, quan hệ kinh tế quốc tế), mà
trong những trường hợp cần thiết sẽ sử dụng cả phương pháp liên ngành (kinh tế -
chính trị) để có thể lý giải thuyết phục hơn về những vấn đề thực tiễn đặt ra đối với
liên kết kinh tế Đông Á và vai trò của Nhật Bản.
5. Những đóng góp mới về khoa học của luận án
Thứ nhất, luận án góp phần hệ thống hóa các vấn đề lý luận về liên kết kinh tế
Đông Á, hình thành nên một khung nghiên cứu tương đối hợp lý về vai trò của Nhật
Bản trong tiến trình này.
Thứ hai, luận án giúp có được một cái nhìn tổng thể về toàn bộ tiến trình liên
kết kinh tế Đông Á.
Thứ ba, luận án đưa ra được những đánh giá khá toàn diện và mang tính
xuyên suốt về vai trò của Nhật Bản trong tiến trình này.
Thứ tư, luận án đề xuất một số khuyến nghị chính sách cho Việt Nam về hội
nhập kinh tế khu vực, tận dụng có hiệu quả vai trò của Nhật Bản trong liên kết kinh
tế Đông Á, tăng cường hơn nữa mối quan hệ song phương, đóng góp cho định
hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển bền vững của Việt Nam hiện nay.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
6.1. Về mặt lý luận:
Luận án góp phần hệ thống hóa những cơ sở lý thuyết giải thích cho sự tiến
triển và tính tất yếu của liên kết kinh tế Đông Á, làm rõ vai trò của Nhật Bản trong
từng giai đoạn, hình thành nên khung nghiên cứu về vai trò của Nhật Bản đối với
tiến trình liên kết kinh tế Đông Á.
6.2. Về mặt thực tiễn:
- Cung cấp các kết quả nghiên cứu có ý nghĩa tham khảo trong hoạch định
chính sách đối ngoại của các cơ quan quản lý vĩ mô Việt Nam.
21. 9
- Là tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu, giảng dạy và học tập chuyên
ngành quan hệ kinh tế quốc tế.
7. Kết cấu của luận án:
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, luận án gồm 4 chương:
Chương 1. Tổng quan các công trình nghiên cứu có liên quan đến chủ đề
luận án
Chương 2. Một số vấn đề lý luận và thực tiễn của liên kết kinh tế Đông Á
và vai trò của một chủ thể
Chương 3. Thực trạng vai trò của Nhật Bản trong tiến trình liên kết kinh
tế Đông Á
Chương 4. Việt Nam và Nhật Bản trong tiến trình liên kết kinh tế Đông Á
22. 10
Chương 1
TỔNG QUAN CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU
CÓ LIÊN QUAN ĐẾN CHỦ ĐỀ LUẬN ÁN
1.1. Những nghiên cứu liên quan đến cơ sở lý luận về liên kết kinh tế khu
vực Đông Á và vai trò của một chủ thể
1.1.1. Nghiên cứu liên quan đến cơ sở lý luận về liên kết kinh tế khu vực
1.1.1.1. Nghiên cứu trong nước
Điểm lại những nghiên cứu trong nước có đóng góp lớn về phương diện lý
luận, cuốn sách “Quan điểm của Nhật Bản về liên kết Đông Á trong bối cảnh toàn
cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế” (2007) do TS. Trần Quang Minh làm chủ
biên đã hệ thống hoá một cách khá đầy đủ về các học thuyết và chính sách chủ yếu
của Nhật Bản về liên kết Đông Á kể từ sau Chiến tranh Lạnh, cung cấp một cái nhìn
toàn diện và sâu sắc về liên kết kinh tế Đông Á từ góc độ tiếp cận của Nhật Bản,
một trong những quốc gia đầu tầu thúc đẩy tiến trình này [19].
Nghiên cứu “Ba quan điểm lý thuyết về Cộng đồng kinh tế Đông Á (EAEC)”
(2009) của TS. Nguyễn Mạnh Hùng đã phân tích một số lý luận giải thích cho sự
tiến triển của liên kết kinh tế Đông Á như Chủ nghĩa chức năng mới, Chủ nghĩa
hiện thực cấu trúc và Chủ nghĩa kiến tạo xã hội. Trong khi Chủ nghĩa chức năng
mới nhận định rằng, dựa trên những điều kiện hiện nay Cộng đồng kinh tế Đông Á
hoàn toàn khả thi và Chủ nghĩa hiện thực cho thấy hợp tác giữa các nước Đông Á
dù khó khăn song không phải không thể xảy ra, thì dưới góc nhìn của Chủ nghĩa
kiến tạo xã hội vốn dĩ nhấn mạnh các yếu tố “chuẩn mực”, đến nay dường như
EAEC vẫn chưa thể xây dựng một chuẩn mực cho quá trình hội nhập [13].
Bên cạnh đó, luận án “Xu hướng hình thành các hiệp định thương mại tự do
(FTA) tại Đông Á” (2008) của NCS. Bùi Trường Giang cũng là một công trình có
giá trị về phương diện lý luận. Nghiên cứu này đã đưa ra một cách tiếp cận đa chiều
đối với nền tảng lý luận về xu hướng hình thành các hiệp định thương mại tự do khu
vực và song phương tại Đông Á từ giữa thập niên 1990, qua đó làm rõ những đặc
điểm của thực tiễn hình thành các hiệp định thương mại tự do khu vực và chính
23. 11
sách của mỗi quốc gia, chiều hướng vận động và hệ quả của xu hướng hình thành
các hiệp định thương mại tự do khu vực trong tương lai [10].
1.1.1.2. Những nghiên cứu nước ngoài
Đề cập tới những nghiên cứu lý thuyết nước ngoài về liên kết kinh tế khu vực
trước tiên sẽ không thể không nhắc đến khung lý luận của nhà kinh tế học Béla
Balassa (1928 – 1991). Đặc biệt, những nội dung mà ông đề cập trong cuốn sách
“Lý luận về hội nhập kinh tế” (経済統合の理論, 1963) để giải thích về mô hình
hội nhập kinh tế khu vực cho đến nay vẫn được xem là một lý luận quan trọng [88].
Cũng trong cuốn sách này, Balassa đã đưa ra khái niệm và các cấp độ liên kết,
những lý thuyết đã cho thấy tầm nhìn sâu rộng của tác giả khi đã “dự báo” chính
xác tương lai nhiều thập kỷ thực tiễn của liên kết kinh tế khu vực tại châu Âu.
Ngoài ra, về các công trình nghiên cứu lý luận tạo dựng nền tảng cho nghiên
cứu liên kết kinh tế khu vực trên thế giới nói chung và Đông Á nói riêng khác còn
có “Hội nhập khu vực: Kinh nghiệm, Lý thuyết và Thước đo” (“Regional
Integration: Experience, Theory, and Measurement”, 1999) của Ali M. El-Agraa.
Nghiên cứu này đã phân tích tổng thể về lý thuyết và thực tiễn hội nhập kinh tế lấy
ý tưởng từ việc thành lập Cộng đồng Than và Thép tại châu Âu năm 1951 và một số
quá trình hội nhập khu vực khác từ sau những năm 1960. Tác giả chú trọng vào khía
cạnh nghiên cứu thực nghiệm lý thuyết và kỹ thuật thuần túy, bao gồm kỹ thuật lập
mô hình và kỹ thuật trừu tượng nhằm ước tính lợi ích của hội nhập kinh tế [40].
Nghiên cứu “Hội nhập kinh tế khu vực“ (“Regional economic integration”,
1995) của Richard Baldwin và Anthony Venables đã đề cập tới những lý thuyết áp
dụng trong đánh giá về hiệu quả kinh tế của các hiệp định liên kết khu vực
(Regional Integration Agreements - RIAs). Những hiệu quả này được chia thành ba
loại: hiệu quả phân bổ, hiệu quả tích lũy và hiệu quả vị trí. Loại thứ nhất bao gồm
tác động của RIAs tới việc phân bổ nguồn lực tĩnh, trong các môi trường có sự cạnh
tranh hoàn hảo và không hoàn hảo. Loại thứ hai bao gồm tác động của RIAs tới sự
tích tụ các yếu tố sản xuất và bao gồm cả các tác động tăng trưởng trung và dài hạn.
Loại thứ ba là ảnh hưởng của RIAs đối với việc phân bổ các nguồn lực không gian.
Ngoài ra, dựa trên lý thuyết về địa lý kinh tế, nghiên cứu này cũng thảo luận về các
24. 12
phương pháp và kết quả đánh giá thực nghiệm của các RIAs tại Bắc Mỹ (NAFTA)
và châu Âu (EC) cũng như giải thích các vấn đề khác như cơ cấu của RIAs và ý
nghĩa của RIAs đối với hệ thống thương mại thế giới [77].
Báo cáo nghiên cứu chính sách của Ngân hàng Thế giới (WB) “Hội nhập khu
vực và phát triển” (“Regional Integration and Development”, 2003) của các tác giả
Maurice Schiff và L. Alan Winters - kết quả của một dự án nghiên cứu về chủ nghĩa
khu vực - đã đưa ra những phân tích lý thuyết nhằm đánh giá ảnh hưởng của các
thỏa thuận liên kết kinh tế khu cũng như vấn đề như làm thế nào tận dụng tối đa các
thỏa thuận liên kết kinh tế khu vực, tác động của những thỏa thuận liên kết kinh tế
khu vực về đầu tư trực tiếp nước ngoài và hiệu quả tích cực của hội nhập kinh tế.
Ngoài ra, báo cáo cũng đề cập đến sự giao thoa giữa hiệu quả kinh tế và hiệu quả
chính trị, mối quan hệ giữa chủ nghĩa khu vực và chủ nghĩa đa phương [68].
Ngoài ra, về các lý thuyết có liên quan đến hiệu quả của liên kết kinh tế khu
vực khác còn có Jacob Viner (1950) với các khái niệm Hiệu quả sáng tạo và Hiệu
ứng chệch hướng thương mại [56]; L. Summers (1991) với thuật ngữ “Đối tác
thương mại tự nhiên” (Natural Trading Partner - NTP) khá phổ biến trong các
nghiên cứu về hội nhập kinh tế khu vực liên quan đến khía cạnh gia tăng phúc lợi
thương mại thông qua những thỏa thuận ưu đãi, khoảng cách và chi phí vận chuyển
trong giao dịch thương mại… [65].
1.1.2. Những nghiên cứu liên quan đến cơ sở lý luận về vai trò của một
quốc gia trong hội nhập khu vực
Có thể thấy rằng, cho đến nay các đề tài nghiên cứu lý thuyết về vai trò của
một quốc gia trong hội nhập quốc tế nói chung và hội nhập kinh tế khu vực nói
riêng là vô cùng ít ỏi. Bởi vậy, trong phạm vi những tài liệu có thể tiếp cận, nghiên
cứu sinh chỉ tổng hợp lại một số nghiên cứu tiêu biểu có liên quan trực tiếp tới chủ
đề luận án như sau.
Trước hết, cuốn sách “Những khái niệm về vai trò quốc gia trong nghiên
cứu chính sách đối ngoại” (National Role Conceptions in the Study of Foreign
Policy, 1970) của tác giả K. J. Holsti được đánh giá là một nghiên cứu lý thuyết về
vai trò của quốc gia đầu tiên thu hút được sự chú ý đối với các ấn phẩm về chính
25. 13
sách đối ngoại sau khi xuất bản. Trước khi Holsti đưa ra các khái niệm về vai trò
quốc gia này, một số lý thuyết về vai trò đã được phát triển trong gần bốn thập kỷ
nhưng là thuộc các lĩnh vực xã hội học, tâm lý học xã hội và nhân học. Không áp
dụng toàn bộ các lý thuyết đi trước, thay vào đó Holsti quan tâm tới những khía
cạnh như lãnh đạo quốc gia có thể tạo dựng uy tín, bản sắc của nhà nước, hay đưa ra
các khái niệm về vai trò quốc gia theo cách thức một quốc gia hành động trong
khuôn khổ hệ thống quốc tế [60].
Tiếp theo, nghiên cứu “Lý thuyết vai trò và phân tích chính sách đối
ngoại” (“Role Theory and Foreign Policy Analysis”, 1987) của giáo sư Đại học
Arizona Stephen G. Walker đã có những bước phát triển hơn nữa trong việc vận
dụng lý thuyết vai trò trong nghiên cứu chính sách đối ngoại và quan hệ quốc tế.
Walker lập luận rằng lý thuyết về vai trò có giá trị mô tả, tổ chức và giải thích cho
việc nghiên cứu về chính sách đối ngoại. Walker đã phân tích chính sách đối ngoại
với ba hình thức nghiên cứu truyền thống là nghiên cứu so sánh về chính sách đối
ngoại, cách tiếp cận quy trình ra quyết định, chủ nghĩa hiện thực chính trị [78].
Ngoài ra, trong nghiên cứu “Lý thuyết vai trò và chính sách đối ngoại”
(“Role Theory and Foreign Policy”), giáo sư Cameron G. Thies (Đại học Iowa) đã
lập luận rằng những cách tiếp cận lý thuyết về vai trò trong phân tích chính sách đối
ngoại tập trung vào một hoặc chỉ một vài vai trò thường nhằm mục đích cung cấp
một lời giải thích về một sự lựa chọn chính sách đối ngoại. Có thể nói lý thuyết vai
trò của Cameron là một khung lý luận tương đối giá trị trong việc phân tích chính
sách đối ngoại và quan hệ quốc tế nói chung [43].
1.2. Những nghiên cứu về liên kết kinh tế Đông Á
1.2.1. Nghiên cứu trong nước
Tại Việt Nam, những nghiên cứu về chủ đề liên kết Đông Á nhìn chung khá
phong phú. Trong số đó, không thể không nhắc đến một số công trình có ý nghĩa
đặt nền móng cho nghiên cứu liên kết kinh tế Đông Á như “Hướng tới Cộng đồng
Kinh tế Đông Á” (2004) do GS. TS. Đỗ Hoài Nam và PGS. TSKH. Võ Đại Lược
đồng chủ biên [21], “Đối sách của các nước Đông Á trước việc hình thành các
khu vực mậu dịch tự do (FTA) từ cuối những năm 1990” (2006) do PGS. TS. Lưu
26. 14
Ngọc Trịnh chủ biên [35], “Quan điểm của Nhật Bản về liên kết Đông Á trong bối
cảnh toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế” (2007) do TS. Trần Quang Minh
chủ biên [18], “Biến động kinh tế Đông Á và con đường công nghiệp hóa của Việt
Nam” (2005, tái bản 2006, 2010) của GS. Đại học Waseda Trần Văn Thọ [28], cuốn
sách “Cộng đồng kinh tế Đông Á (EAEC) và toan tính của các nước lớn” (2010)
do PGS. TS. Lưu Ngọc Trịnh chủ biên [37], hay luận án tiến sĩ “Xu hướng hình
thành các hiệp định thương mại tự do (FTA) tại Đông Á” (2008) do NCS Bùi
Trường Giang thực hiện [10]…
Đi sâu vào một số nghiên cứu liên quan khác còn có “Biến đổi trong quan hệ
tam giác Trung Quốc - ASEAN - Nhật Bản với triển vọng nhất thế hóa Đông Á”
(2009) của tác giả Nguyễn Anh Chương. Nghiên cứu này đã đề cập đến vai trò quan
trọng của “Tam giác chiến lược” Trung Quốc - ASEAN - Nhật Bản trong cục diện
quan hệ quốc tế ở Đông Á, đó là thúc đẩy và quyết định chiều hướng vận động của
liên kết khu vực. Theo tác giả, với sự phát triển và vai trò ngày càng quan trọng của
ASEAN cùng tính chất phức tạp của quan hệ Trung - Nhật, tính khả thi của việc
thiết lập một liên minh Trung - Nhật ở Đông Á là không lớn [8].
Nghiên cứu “ASEAN trong thế kỷ XXI: Xây dựng Cộng đồng và khẳng định
vai trò trong khu vực” (2012) của PGS. TS. Nguyễn Huy Hoàng cho thấy sự hình
thành Cộng đồng ASEAN trong thời điểm chuyển giao giai đoạn phát triển có ý
nghĩa thử thách quan trọng đối với sự tăng cường liên kết. Mặc dù tác động của
khủng hoảng kinh tế toàn cầu đối với các nền kinh tế là rất lớn nhưng vai trò và vị
thế của ASEAN trong các cấu trúc hợp tác khu vực là không thể phủ nhận [39].
Bài viết “Nhật – Trung: Những trở ngại tiềm tàng trong quan hệ song
phương” (2009) của Đỗ Minh Cao cho rằng, Trung Quốc, Nhật Bản, ASEAN…
đều nỗ lực thể hiện vai trò của mình trước ý tưởng về Cộng đồng Đông Á. Hệ quả
tích cực là tiến trình liên kết được thúc đẩy, tuy nhiên mặt trái lại là những nổi cộm
trong quan hệ giữa các chủ thể như Trung Quốc và Nhật Bản [7].
Nghiên cứu “Phương thức hình thành các hiệp định thương mại tự do
(FTA) trong khu vực Đông Á hướng tới một cộng đồng kinh tế Đông Á trong
tương lai” (2009) của TS. Bùi Trường Giang đã phân tích những động thái nhằm
27. 15
thiết lập một cộng đồng kinh tế thông qua một số khung khổ hội nhập, trong đó có
ASEAN+6 do Nhật Bản đề xuất với tên gọi Sáng kiến Đối tác Kinh tế Toàn diện
Đông Á (CEPEA). Theo tác giả, CEPEA là một nỗ lực “cân bằng” của Nhật Bản
trước ảnh hưởng ngày càng lớn của Trung Quốc trong liên kết kinh tế khu vực [11].
Cuốn sách “Quan hệ Hoa Kỳ - ASEAN 2001-2020” của GS.TS. Nguyễn
Thiết Sơn đã đưa ra những đánh giá về bối cảnh quốc tế, khu vực của quan hệ Mỹ -
ASEAN trong hai thập niên đầu thế kỷ XXI, sự điều chỉnh chính sách của Mỹ, thực
trạng, triển vọng quan hệ kinh tế, chính trị, an ninh của Mỹ với ASEAN và những
tác động đối với sự phát triển của các nước ASEAN trong đó có Việt Nam [24].
PGS. TS. Nguyễn Huy Hoàng trong nghiên cứu “Hợp tác kinh tế trong quan
hệ đối tác chiến lược Trung Quốc – ASEAN” (2018) với việc phân tích quan hệ
kinh tế và mối liên quan giữa quan hệ kinh tế với quan hệ đối tác chiến lược Trung
Quốc – ASEAN đã chỉ ra rằng, bên cạnh thúc đẩy quan hệ đối tác chiến lược, quan
hệ kinh tế Trung Quốc – ASEAN đồng thời cũng gặp phải những cản trở nhất định
như sự sụt giảm lòng tin từ phía ASEAN với Trung Quốc về động cơ thực sự của
nước này trong thúc đẩy quan hệ hai bên [136].
Nhấn mạnh tới nhân tố Việt Nam trong tiến trình liên kết kinh tế, cuốn sách
“Việt Nam hội nhập kinh tế Đông Á trong khuôn khổ ASEAN + 3” (2015) của
PGS. TS. Nguyễn Hồng Sơn, PGS. TS Hà Văn Hội và TS. Nguyễn Anh Thu đã
phân tích cơ chế hợp tác giữa ASEAN với ba đối tác Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn
Quốc và chỉ rõ, hội nhập kinh tế thông qua ASEAN, ASEAN+3 mang lại cho Việt
Nam nhiều cơ hội cải thiện cơ cấu kinh tế, tăng xuất khẩu, thu hút FDI…, tuy nhiên
Việt Nam cũng phải đối mặt với thách thức không nhỏ từ hàng hóa và dịch vụ của
các nước khác, đặc biệt là Trung Quốc, cũng như các vấn đề nảy sinh từ quan hệ địa
- chính trị phức tạp trong khu vực [25].
1.2.2. Nghiên cứu nước ngoài
Trong số những công trình nghiên cứu nước ngoài, “TPP, RCEP và chiến
lược châu Á - TBD của Nhật Bản”, (“TPP, RCEP, and Japan’s FTA Strategy in
Asia-Pacific”, 2014) của GS. Đại học Waseda Urata Shujiro đã giải thích về chiến
lược của Nhật Bản đối với RCEP trong trào lưu FTA tại Đông Á và châu Á - TBD,
28. 16
qua đó đưa ra đáp án cho câu hỏi, liệu quan hệ giữa hai khuôn khổ hội nhập kinh tế
RCEP và TPP là mâu thuẫn hay bổ sung cho nhau [82].
Nghiên cứu “CEPEA: Thực trạng liên kết kinh tế Đông Á” (“CEPEA~東ア
ジ ア 経 済 統 合 の 現 状 ”, 2008) của Yoshizaki Tatsuhiko thuộc
Sojitz Research Institute [91] và “Liên kết kinh tế Đông Á một cách toàn diện đã
khởi động” (“動き始めた包括的東アジア経済連携”, 2009) của Nezuri Saburo
[95] thuộc báo cáo tổng hợp kết quả nghiên cứu Sáng kiến CEPEA của các học giả
Nhật Bản và Đông Á đã nhận định, ASEAN+6 là con đường khởi đầu của khuôn
khổ hợp tác OECD phiên bản Đông Á và có ý nghĩa quan trọng trong việc thể hiện
vai trò của Nhật Bản trong hội nhập Đông Á.
Sách trắng về Cộng đồng Đông Á xuất bản đầu tiên trên thế giới "Cộng đồng
Đông Á năm 2010 - Cộng đồng Đông Á liệu có khả thi không? Có cần thiết
không?" (“東アジア共同体白書二〇一〇 東アジア共同体は可能か、必要か
", 2010) của Viện Nghiên cứu Cộng đồng Đông Á Nhật Bản (東アジア共同体評議
会) đã hệ thống hóa thực trạng và những thách thức của "Cộng đồng Đông Á" nhìn
từ quan điểm của Nhật Bản. Cuốn sách là kết quả của những hội thảo diễn ra trong
2 năm xoay quanh các vấn đề như Cộng đồng Đông Á là gì? Khả năng hiện thực?
Chiến lược quốc gia của Nhật Bản với các sáng kiến thúc đẩy Cộng đồng Đông Á?
Nhật Bản cần đóng vai trò như thế nào trong các sáng kiến đó? [94]
Tập hợp các công trình nghiên cứu thuộc đề tài "Châu Á trong thời đại toàn
cầu hóa và vai trò của Nhật Bản" (“グローバリゼーション下のアジアと日本
の役割”, 2005) của Viện nghiên cứu tài chính, Ngân hàng Hợp tác Quốc tế Nhật
Bản – JBIC là kết quả sau 16 lần hội thảo của nhóm các học giả hàng đầu của Nhật
Bản nhằm làm sáng tỏ vai trò cần thiết của Nhật Bản trong bối cảnh toàn cầu hóa,
khu vực hóa tiến triển mạnh mẽ tại châu Á. Toàn cầu hóa là một hiện tượng phức
tạp, không chỉ là sự di chuyển quốc tế của số lượng lớn vốn, hàng hóa, dịch vụ,
thông tin mà còn là sự thống nhất các quy tắc luật lệ hướng tới việc đơn nhất hóa
các mô hình, hội tụ các hành vi. Châu Á theo quan niệm của các tác giả bao gồm
Đông Bắc Á, Đông Nam Á và Ấn Độ. Kết quả tổng hợp được gồm 9 phần đưa ra
những phân tích về thực trạng, đánh giá triển vọng và đề xuất chính sách [85].
29. 17
Nghiên cứu "Hội nhập kinh tế Đông Á sẽ đi về đâu ?" ("Whither East Asian
Economic Integration?” (2002) của tác giả Naoko Munakata đã làm rõ sự tiến triển
của các khuôn khổ liên kết khác nhau tại Đông Á, qua đó đánh giá triển vọng liên
kết kinh tế khu vực. Ngoài ra, tác giả cũng đã phân tích những nỗ lực của Nhật Bản
nhằm vượt qua những thách thức về kinh tế và chính trị trong quá trình hội nhập,
cũng như đánh giá những tác động của chính sách của Mỹ đối với Đông Á [71].
Báo cáo "Liên kết Đông Á hướng tới Cộng đồng kinh tế Đông Á" (East
Asian intergration towards an East Asian economic community), của Christopher M.
Dent (2017) đã mô tả sự tiến triển của liên kết kinh Đông Á ở cấp vi mô từ những
năm 1960, sau đó kể từ những năm 1990 các chính phủ Đông Á đã tăng cường hội
nhập ở cấp vĩ mô trong bối cảnh sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế gia tăng. Gần đây,
nhiều nỗ lực thúc đẩy liên kết đang ưu tiên hơn vấn đề kết nối mạng lưới các trung
tâm hạ tầng. Đáng chú ý, năm 2013 chính phủ Trung Quốc đã khởi động Ngân hàng
Đầu tư Cơ sở Hạ tầng Châu Á (AIIB) cung cấp tài chính cho các dự án hạ tầng với
mục đích nâng cao năng lực phát triển kinh tếi của các nước châu Á [44].
Nghiên cứu “Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) và hội nhập kinh tế
Đông Á” (Trans - Pacific Partnership (TPP) and East Asian Economic Integration)
của Kaewkamol Pitakdumrongkit (2017) đề cập tới viễn cảnh của hội nhập kinh tế
Đông Á khi quan điểm của Mỹ về TPP gần đây thay đổi, đặc biệt là thái độ tiêu cực
của chính quyền Trump về hiệp định thương mại tự do đa phương này [61].
“Báo cáo 2016 về liên kết kinh tế châu Á: Điều gì dẫn dắt đầu tư trực tiếp
nước ngoài ở châu Á và Thái Bình Dương” ("Asian Economic Integration Report
2016: What Drives Foreign Direct Investment in Asia and The Pacific", 2016) nhận
định rằng hội nhập khu vực ở Châu Á và TBD đã tạo nguồn lực quan trọng cho sự
tăng trưởng. Bất chấp bối cảnh nhiều yếu tố thiếu chắc chắn gia tăng sau bầu cử
tổng thống 2016 của Mỹ, Anh rời EU, tăng trưởng toàn cầu chậm lại hay quá trình
tái cơ cấu kinh tế diễn ra tại Trung Quốc... Châu Á và TBD vẫn là điểm đến quan
trọng trên thế giới về FDI, thúc đẩy hội nhập kinh tế, đóng góp cho xã hội thông
qua việc tích lũy vốn vật chất, con người, chuyển giao công nghệ và tri thức [46].
30. 18
1.3. Những nghiên cứu về vai trò của Nhật Bản trong liên kết kinh tế
Đông Á
1.3.1. Nghiên cứu trong nước
Trong số các nghiên cứu trong nước đề cập tới vai trò của Nhật Bản trong liên
kết kinh tế Đông Á, cuốn sách "Hướng tới Cộng đồng kinh tế Đông Á" (2004) của
GS. TS. Đỗ Hoài Nam và PGS. TSKH Võ Đại Lược (chủ biên) đã tóm lược một
cách cơ bản về vai trò của Nhật Bản. Theo đó, về vai trò đề xuất các ý tưởng liên
kết, sau khủng hoảng tài chính tiền tệ châu Á 1997 Nhật Bản đã đề xuất thành lập
Quỹ tiền tệ châu Á (AMF), một tổ chức tài chính độc lập và thay thế IMF trong một
số lĩnh vực. Ngoài ra, ý tưởng về Cộng đồng Đông Á của Thủ tướng Koizumi đưa
ra năm 2002 trong chuyến thăm Đông Nam Á là bước tiếp theo của cơ chế 10+3
hướng tới một liên minh chặt chẽ như EU. Tuy nhiên trên thực tế, trước trào lưu
thương mại tự do, thay vì đóng vai trò chủ đạo trong thúc đẩy liên kết khu vực,
Nhật Bản lại tỏ ra khá thụ động, đặc biệt là khi so sánh với chính sách FTA tích cực
mà Trung Quốc xúc tiến [21].
Đề tài Nghị định thư giữa Viện Khoa học Xã hội Việt Nam và Đại học Tokyo
Nhật Bản “Quan hệ giữa Nhật Bản với các nước thành viên mới của ASEAN
trong bối cảnh Đông Á đầu thế kỷ XXI” do PGS.TS. Lê Bộ Lĩnh (2010) làm chủ
nhiệm ngoài khái quát lại lịch sử quan hệ giữa Nhật Bản với các nước CLMV trong
thế kỷ trước đã làm rõ thực trạng quan hệ giữa Nhật Bản với các nước thành viên
mới của ASEAN vào thập niên đầu của thế kỷ XIX, đồng thời chỉ ra những cơ hội
và thách thức lớn trong quan hệ hai bên. Trong trật tự Đông Á hiện nay không thể
phủ định vai trò và vị trí quan trọng của Nhật Bản, thứ nhất bởi Nhật Bản là một
cường quốc kinh tế khu vực, bên cạnh đó Nhật Bản cũng là một quốc gia có ý chí
mạnh mẽ trong việc trở thành thủ lĩnh của Đông Á [16].
Cuốn sách “Cộng đồng kinh tế Đông Á (EAEC) và những toan tính của các
nước lớn” (2010) của PGS. TS. Lưu Ngọc Trịnh không chỉ mang đến một cái nhìn
tổng thể về liên kết kinh tế Đông Á mà còn làm sáng tỏ những toan tính sâu xa của
các nước lớn trong và ngoài khu vực như Mỹ, Nhật, ASEAN và Trung Quốc. Đặc
31. 19
biệt, vai trò và động cơ của Nhật Bản trong hội nhập kinh tế với tư cách là một quốc
gia có ảnh hưởng mạnh mẽ cũng là nội dung đã được làm rõ một cách căn bản [37].
Bài viết “Tự do hóa thương mại của Nhật Bản, vai trò và nhân tố tác động”
(2010) của PGS. TS. Phạm Thị Thanh Bình nhận định quan điểm chính sách của
Nhật Bản đối với các FTAs chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố, trong đó có nỗ lực
duy trì các quy tắc thương mại của WTO. Ngoài ra, việc ký kết các hiệp định
thương mại khu vực cũng được xem là cách thức để đạt được mục tiêu quan trọng
với Nhật Bản là thiết lập một cơ cấu phân công lao động quốc tế ở Đông Á mà ở đó
Nhật Bản nắm giữ vị trí cao nhất [3].
Cuốn sách “Trung Quốc và Ấn Độ trỗi dậy: Tác động và đối sách của các
nước Đông Á” do PGS. TS. Phạm Thái Quốc chủ biên đã cho thấy một bức tranh
thể hiện sự lớn mạnh nhanh chóng của Trung Quốc và Ấn Độ, vươn lên là những
nền kinh tế tăng trưởng nhanh nhất thế giới, tạo động lực phát triển không chỉ tại
Đông Á mà cả thế giới. Sự trỗi dậy của hai cường quốc này đã khiến các nước
Đông Á, trong đó có Nhật Bản phải nhanh chóng có những đối sách khác nhau
trước những tác động to lớn cả về phương diện kinh tế, hợp tác, cạnh tranh ảnh
hưởng và vị thế quốc tế [23].
Nghiên cứu “Cơ sở tạo lập chính sách Đông Á – Thái Bình Dương của Nhật
Bản – Khía cạnh lịch sử và lợi ích quốc gia” (2008) của PGS. TS. Ngô Xuân Bình
đã nhìn lại lịch sử thời kỳ Minh Trị, khi Nhật Bản từng không muốn xem mình là
một quốc gia Đông Á và hết sức kỳ vọng vào việc sánh ngang hàng với các cường
quốc phương Tây. Tuy nhiên trong bối cảnh hiện nay, Đông Á - TBD đã trở thành
mối quan tâm to lớn của Nhật Bản. Với vị trí địa lý đặc thù, Nhật Bản xác định mục
tiêu đóng vai trò cầu nối giữa các mối quan hệ liên TBD giữa Mỹ với Đông Á [5].
Cũng trong cuốn sách “Chính sách đối ngoại của Nhật Bản sau thời kỳ
chiến tranh lạnh” (2000), PGS. TS. Ngô Xuân Bình đã đi sâu vào các khía cạnh đa
phương hóa chính sách đối ngoại, giảm sự phụ thuộc vào Mỹ, đối sách trước thách
thức từ Trung Quốc, thúc đẩy hợp tác với ASEAN, ảnh hưởng của Nhật Bản trong
các thể chế đa phương. Cuốn sách mô tả một diện mạo mới của các quan hệ quốc tế
sau Chiến tranh Lạnh, ở đó tồn tại nhiều xu hướng đa dạng, phụ thuộc, bổ sung cho
32. 20
nhau, thậm chí đối lập và loại trừ nhau. Sự chuyển dịch sang một thế giới đa cực
mang tính chất cạnh tranh và hợp tác đan xen cũng đã tạo ra một môi trường quốc tế
mới ẩn chứa nhiều cơ hội và không ít thách thức. Tuy nhiên, Nhật Bản là một trong
số không nhiều quốc gia đã thích nghi nhanh với sự biến đổi của tình hình mới [4].
1.3.2. Nghiên cứu nước ngoài
1.3.2.1. Các công trình nghiên cứu tiếng Anh
Nghiên cứu “Chính sách đối ngoại ngày nay của Nhật Bản” (“Japanese
Foreign Policy Today”, 2000) của các tác giả Inoguchi Takashi và Purnedra Jain là
công trình tập hợp nhiều bài viết phân tích về lĩnh vực quan hệ quốc tế của Nhật
Bản, các vấn đề toàn cầu và khu vực nổi bật, đồng thời làm rõ các định hướng chính
sách lớn của Nhật Bản. Các tác giả đã nhận định rằng mặc dù Mỹ là quốc gia quyền
lực hàng đầu thế giới, tuy nhiên tại khu vực Thái Bình Dương nói chung và Đông Á
nói riêng Nhật Bản là nền kinh tế có tầm ảnh hưởng rất lớn [79].
Nghiên cứu “Chính sách đối ngoại của Nhật Bản sau Chiến tranh Lạnh:
Đối phó với những thay đổi” (“Japan’s Foreign policy After the Cold War: Coping
with changes”, 1993) của GS. Đại học Columbia Gerald L. Curtis cùng 17 học giả
Mỹ, Nhật Bản và Hàn Quốc là những chuyên gia trong từng lĩnh vực cụ thể đã phân
tích một cách tương đối đầy đủ về chính sách đối ngoại của Nhật Bản đối với các
nước Đông Á trong các lĩnh vực khác nhau như ngoại giao, kinh tế và an ninh [49].
Báo cáo “Hội nhập kinh tế Đông Á và vai trò của Nhật Bản” (“Economic
Integration in East Asia and Japan’s Role”, 2004) của giáo sư Đại học Waseda
Kinoshita Toshihiko đã nhấn mạnh, thông qua các FTA chất lượng cao tại Đông Á
Nhật Bản có thể thực hiện hiệu quả vai trò dẫn dắt tiến trình liên kết, hợp tác với
Trung Quốc và các nước để hội nhập sâu và tiến nhanh hơn tới một cộng đồng kinh
tế châu Á. Khi Thủ tướng Malaysia Mahathir đề xuất các ý tưởng về EAEG, EAEC
và vấp phải sự phản đối của Mỹ, Nhật Bản đã không thể hỗ trợ những đề xuất đó.
Hiện tại khu vực đã có nhiều thay đổi và hy vọng Mỹ sẽ không phá vỡ “giấc mơ
Đông Á” một lần nữa. Trách nhiệm của Nhật Bản – một đồng minh tin cậy của Mỹ
- là đảm bảo rằng việc thiết lập cộng đồng Đông Á sẽ không gây tổn hại tới lợi ích
của Mỹ và quan hệ hai bên là không thể thay thế bởi Trung Quốc. Tính minh bạch
33. 21
và sự cởi mở của kinh tế khu vực trong lĩnh vực thương mại đầu tư sẽ là chìa khóa
gìn giữ niềm tin của Mỹ. Trong khi bảo vệ niềm tin này, Nhật Bản vẫn có thể đóng
vai trò lãnh đạo theo cách riêng của mình tại Đông Á [63].
Cuốn sách “Quan hệ quốc tế của Nhật Bản: Chính trị, Kinh tế và An ninh”
(“Japan's International Relations: Politics, Economics and Security”, 2001) của
bốn học giả Anh: Glenn Hook D., Julie Gilson, Christopher Hughes và Hugo
Dobson là một nghiên cứu khá toàn diện về chính sách đối ngoại của Nhật Bản sau
chiến tranh. Cuốn sách đề cập tới quan hệ Nhật - Mỹ, Nhật Bản - Đông Á, Nhật Bản
- Châu Âu, và Nhật Bản với các tổ chức toàn cầu. Về mối quan hệ của Nhật Bản với
Đông Á, ở phương diện kinh tế các tác giả đề cập tới Nhật Bản trong vai trò kiến
tạo mô hình phát triển cho các nước trong khu vực, vai trò của "con ngỗng đầu đàn"
và Nhật Bản trước và trong khủng hoảng tài chính châu Á 1997 [50].
Nghiên cứu “Nhật Bản và thế giới: Những cân nhắc với giới hoạch định
chính sách Mỹ” (“Japan and the world: Considerations for U.S. policymakers”,
1990) của các tác giả Kenneth B. Pyle, Chalmers Johnson và Edward J. Lincoln
gồm ba tiểu luận ”Vai trò mới nổi của Nhật Bản ở Đông Á” (“Japan's Emerging
Role in East Asia”, “Tương lai quan hệ Nhật - Mỹ: Tìm kiếm một sự cân bằng mới”
(“The Future of Japanese-American Relations: Seeking a New Balance”) và “Câu
hỏi Nhật Bản” (“The Japanese Question”). Trong số đó, tiểu luận “Vai trò mới nổi
của Nhật Bản ở Đông Á” của Lincoln đã mô tả về những thay đổi của mối quan hệ
giữa Nhật Bản với thế giới một thập kỷ trước khi nước này bước vào suy thoái.
Theo đó, mặc dù Nhật Bản mới chỉ được công nhận là một quốc gia công nghiệp
phát triển từ những năm 1970, tuy nhiên chỉ trong vài năm đã trở thành một chủ nợ
quốc tế lớn. Với sự thay đổi nhanh chóng đó, Nhật Bản đã có vai trò mạnh mẽ hơn
trong các vấn đề quốc tế, đặc biệt là tại Đông Á. Các tác giả dự đoán rằng tương lai
nước Nhật sẽ có vai trò kinh tế và chính trị to lớn và rõ ràng hơn trong khu vực [62].
Cuốn sách “Đối diện với Châu Á - Vai trò của Nhật Bản trong sự năng động
của hợp tác khu vực về chính trị và kinh tế” (“Facing Asia – Japan’s role in the
Political and Economic Dynamism of Regional Cooperation”, 2000), do Blechinger
Verena và Legewie Jochen đồng chủ biên bàn về các chủ đề vai trò của Nhật Bản
34. 22
trong hội nhập châu Á về các phương diện chính trị và kinh tế, Nhật Bản có nắm
giữ vai trò chủ đạo trong hội nhập chính trị và kinh tế hay không, những kỳ vọng
của châu Á đối với vai trò của Nhật Bản, vai trò của nhà nước và khu vực phi chính
phủ của Nhật Bản đối với trật tự đang thay đổi tại châu Á – TBD như thế nào [41].
1.3.2.2. Các công trình nghiên cứu tiếng Nhật:
Mặc dù số lượng các nghiên cứu tiếng Nhật - ngôn ngữ cần thiết trong nghiên
cứu đất nước học – khá phong phú, tuy nhiên do phạm vi có hạn, luận án chỉ đưa ra
một số công trình tiêu biểu sau:
Nghiên cứu "Cộng đồng kinh tế ASEAN AEC và TPP – Vai trò được kỳ
vọng của Nhật Bản" (2013) (“ASEAN 経済共同体(AEC)構想とTPP ―求め
られる日本の役割―” ) của Machida Fumitaka đã phân tích sự cần thiết của việc
Nhật Bản cần đóng một vai trò tích cực hơn với tư cách là một cường quốc kinh tế
khu vực có ảnh hưởng lớn trong cả TPP và RCEP [98].
Sách trắng "Cộng đồng Đông Á năm 2010 - Cộng đồng Đông Á liệu có khả
thi không? Có cần thiết không?" (“東アジア共同体白書二〇一〇 東アジア共
同体は可能か、必要か", 2010) cho thấy rằng bước vào thế kỷ 21, đối với Nhật
Bản, liên kết Đông Á là một vấn đề chiến lược không thể né tránh. Cuốn sách là
một nỗ lực nhằm giải đáp cho những vấn đề thách thức đối với Nhật Bản cũng như
tìm kiếm những phương thức ứng phó với trào lưu liên kết khu vực tại Đông Á [94].
Cuốn sách “Liên kết kinh tế Đông Á và Nhật Bản”(“東アジアの地域経済
連携と日本”, 2012) do Mikio Sakata chủ biên đã đề cập đến hiện trạng liên kết
kinh tế Đông Á và lựa chọn của Nhật Bản, cũng như chiến lược tăng trưởng kinh tế
của Nhật Bản tại Đông Á. Trong phần thực trạng và triển vọng hợp tác kinh tế Nhật
- Trung, tác giả đã tập trung phân tích những rủi ro trong đầu tư đối với các công ty
Nhật Bản, những vấn đề đối với những doanh nghiệp quy mô nhỏ, môi trường đầu
tư và tình hình hiện tại của nền kinh tế khu vực Đông Bắc Trung Quốc, hợp tác kinh
tế Đông Bắc Á – Siberia. Ngoài ra, nghiên cứu cũng kiểm chứng về mức độ phụ
thuộc lẫn nhau với sự tăng trưởng kinh tế của các nước ASEAN [92].
35. 23
Nhà kinh tế học Nhật Bản Hara Yonosuke, GS. Đại học Tokyo trong phần đầu
dự án nghiên cứu "Vai trò của Nhật Bản trong thời đại toàn cầu hóa kinh tế" (“グ
ローバリゼーション時代の日本の役割”, 2005) đã đưa ra những dự báo về hợp
tác kinh tế trong thời đại toàn cầu hóa và bối cảnh chuyển đổi trật tự quốc tế. Tác
giả cho rằng các nền kinh tế thị trường khác nhau, các thể chế kinh tế khác nhau tại
châu Á vừa cạnh tranh vừa cùng tồn tại trong tương lai sẽ phải cùng xây dựng một
khuôn khổ quản trị chủ nghĩa tư bản toàn cầu (グローバル資本主義, Global
Capitalism) và việc can dự một cách tích cực vào khuôn khổ này chính là vai trò
của Nhật Bản trong bối cảnh toàn cầu hóa, khu vực hóa kinh tế [85].
Theo nghiên cứu "Tiến triển của liên kết kinh tế Đông Á và những động thái
hình thành mạng lưới FTA" (“東アジアにおける経済統合の進展とFTA形成
への動き:日本の役割”, 2005) của GS. Đại học Waseda Urata Shujiro, dựa trên
sự mở rộng thương mại và đầu tư nhờ vào những chính sách mở cửa, trong tương
lai tự do thương mại và đầu tư vẫn là những nhân tố quan trọng hỗ trợ cho tăng
trưởng của các nước Đông Á. Trước sự đình trệ của các vòng đàm phán đa phương
trong khuôn khổ WTO, vai trò của Nhật Bản trong tương lai cũng cần thích ứng
một cách tích cực theo hướng thiết lập những hiệp định liên kết kinh tế toàn diện
bao gồm cả cắt giảm thuế, thuận lợi hóa thương mại, đầu tư và hợp tác kinh tế [96].
1.4. Đánh giá những điểm đã thống nhất và vấn đề còn tồn tại, xác định
nội dung luận án sẽ tập trung giải quyết
1.4.1. Những điểm đã thống nhất
Qua việc khảo sát các công trình đi trước, có thể thấy rằng đây là những
nghiên cứu công phu và có giá trị rất lớn về mặt học thuật, tạo nền móng vững chắc
cho quá trình nghiên cứu về liên kết kinh tế Đông Á và vai trò của Nhật Bản sau
này. Trong đó, các nghiên cứu lý thuyết đã cung cấp nhiều cơ sở lý luận quan trọng,
giúp luận án triển khai một khung phân tích phù hợp về vai trò của Nhật Bản trong
liên kết kinh tế Đông Á. Ngoài ra, các nghiên cứu đi trước cũng đã giúp phác họa
nên một bức tranh tổng thể về liên kết kinh tế Đông Á cũng như hệ thống các quan
điểm, chính sách và sự tham gia của Nhật Bản vào tiến trình này. Với nội dung đa
36. 24
dạng, các nghiên cứu này đã gợi mở nhiều ý tưởng trong phương hướng triển khai
nội dung của luận án, cung cấp những thông tin đa chiều giúp luận án có được góc
nhìn khách quan hơn, tạo điều kiện, cơ sở nền tảng đáng tin cậy cho nhiều đánh giá
và nhận định quan trọng của luận án.
1.4.2. Vấn đề còn tồn tại và những nội dung luận án sẽ tập trung giải quyết
Vấn đề còn tồn tại
Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn còn một số khoảng trống bỏ ngỏ cần tiếp tục bổ
sung, nghiên cứu sâu, giải thích thấu đáo và cập nhật hơn nữa. Trước hết có thể
thấy, phạm vi về mặt thời gian của các nghiên cứu đi trước chủ yếu chỉ giới hạn
trong một thời điểm nhất định, không có tính xuyên suốt kéo dài, nhất là từ thời kỳ
ban đầu của tiến trình liên kết kinh tế Đông Á đến nay. Nhiều nghiên cứu chủ yếu
cũng chỉ dừng lại ở việc nêu lên thực trạng và triển vọng chứ chưa làm nổi bật
được bản chất, động cơ và các nhân tố tác động tới tiến trình liên kết kinh tế Đông
Á. Các vấn đề được đề cập hoặc mang tính chất chung chung hoặc chỉ là một mảng
đơn lẻ trong tiến trình liên kết kinh tế. Tiến trình liên kết cũng chỉ được xem xét từ
một phương diện, hoặc là thực tế, hoặc là thể chế, thiếu hẳn sự liên kết, xâu chuỗi
với nhau. Nhiều công trình nghiên cứu cả ở trong và ngoài nước ít nhiều có đề cập
đến sự tham gia và đóng góp của Nhật Bản trong liên kết khu vực ở Đông Á, nhưng
không dành nhiều phân tích, đánh giá sâu với tư cách là một chủ thể có vai trò nổi
bật trong tiến trình này. Đa số các nghiên cứu, ngay cả các công trình xuất bản gần
đây cũng không hoặc rất ít có sự liên hệ với những xu thế, vấn đề mới mang tính
thời sự liên quan đến vai trò của Nhật Bản trong bối cảnh khu vực Đông Á đang
biến chuyển hết sức nhanh chóng hiện nay. Ngoài ra, mặc dù chính sách đối ngoại,
thương mại, đầu tư của Nhật Bản tại khu vực Đông Á, cũng như sự tham gia của
nước này trong hội nhập Đông Á là đều những chủ đề rất được quan tâm, thế
nhưng đáng ngạc nhiên là số lượng những nghiên cứu chuyên sâu về vai trò của
Nhật Bản trong liên kết kinh tế lại hết sức khiêm tốn. Cụ thể, trong số các công
trình nghiên cứu tiếng Việt, trong khi lĩnh vực văn hóa, chính trị, an ninh... khá phổ
biến, thì về khía cạnh kinh tế, nhất là các nghiên cứu về vai trò của Nhật Bản trong
liên kết kinh tế Đông Á lại rất ít ỏi. Tương tự như vậy, từ việc khảo cứu những
37. 25
công trình nghiên cứu tiếng Anh cũng có thể thấy một điểm chung là hầu hết đều
chú trọng vào nội dung chính sách đối ngoại của Nhật Bản, nếu như có một số ít đề
cập đến vai trò đối với hội nhập Đông Á thì cũng chỉ là những nghiên cứu khái quát
chung, tập trung vào một cơ chế nhất định, thiếu sự xâu chuỗi thành một mạch tổng
thể, hoặc đi sâu vào các mảng chính trị, an ninh chứ không tập trung phân tích một
cách có chiều sâu về vai trò của Nhật Bản trong liên kết kinh tế. Còn về những
nghiên cứu bằng ngôn ngữ bản địa là tiếng Nhật, mặc dù so với nghiên cứu của thế
giới đây là những công trình sát nhất với nội dung nghiên cứu của đề tài, thế nhưng
không thể phủ nhận thực tế là trong quá trình thực hiện các công trình của mình,
các học giả Nhật Bản vẫn có khuynh hướng nhìn nhận vấn đề từ góc độ của người
Nhật, áp dụng những lý luận riêng và tiền đề cũng xuất phát từ lợi ích của Nhật Bản.
Những nội dung luận án sẽ tập trung giải quyết
Song song với việc kế thừa và tiếp nối những thành quả phong phú của các
nghiên cứu đi trước, với những khoảng trống còn tồn tại, luận án sẽ tập trung phân
tích, làm rõ vai trò của Nhật Bản đối với tiến trình liên kết kinh tế Đông Á ở các
phương diện thực tế, phương diện thể chế, đặc biệt là trong bối cảnh đối đầu kinh tế
Trung Mỹ đang diễn ra hết sức gay gắt thời gian gần đây.
Trong quá trình phân tích, luận án sẽ sử dụng những lý luận liên quan để phân
tích và làm rõ vai trò của Nhật Bản trong liên kết kinh tế Đông Á. Trên cơ sở
những kết luận thu được, luận án sẽ đưa ra một số kiến nghị, giải pháp phục vụ cho
quá trình hoạch định chính sách đối với một quốc gia đang tích cực tham gia hội
nhập kinh tế khu vực và thế giới như Việt Nam hiện nay.
38. 26
Chương 2
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA LIÊN KẾT KINH TẾ
ĐÔNG Á VÀ VAI TRÒ CỦA MỘT CHỦ THỂ
2.1. Một số vấn đề lý luận về liên kết kinh tế khu vực và vai trò của một
chủ thể
2.1.1. Lý thuyết về liên kết kinh tế khu vực trên phương diện thể chế
2.1.1.1. Khái niệm liên kết kinh tế khu vực
Về khái niệm liên kết khu vực (hay “hội nhập”, “thống nhất”, “nhất thể
hóa”... khu vực, tương đương “integration” trong tiếng Anh), Trung tâm Nghiên
cứu Châu Âu thuộc ĐH. Carleton đã định nghĩa: “Liên kết khu vực là quá trình hai
hay nhiều quốc gia nhất trí hợp tác và phối hợp chặt chẽ với nhau nhằm đạt được
hòa bình, ổn định và thịnh vượng” [115].
Về định nghĩa liên kết kinh tế khu vực, theo khái niệm được Béla Balassa đưa
ra gần nửa thế kỷ trước, “Trong trường hợp liên kết kinh tế được coi là một quá
trình, ở đó người ta tiến hành những biện pháp chính sách tiến tới loại bỏ các phân
biệt đối xử trong các đơn vị kinh tế của các quốc gia. Còn trong trường hợp chỉ
trạng thái, liên kết kinh tế là trạng thái không tồn tại những khác biệt giữa nền kinh
tế của các quốc gia” [88].
Tương tự, Pinder (1969) cho rằng liên kết kinh tế khu vực là một quá trình kết
hợp các bộ phận, các nước thành viên vào một tổng thể, hướng tới việc loại bỏ sự
phân biệt các tác nhân kinh tế giữa các thành viên, và liên minh là kết quả của sự
kết hợp này [76]. F. Kahnert và các tác giả khác (1969) quan niệm liên kết kinh tế
khu vực là quá trình loại bỏ sự phân biệt tồn tại theo biên giới quốc gia [47].
Mennis và Sauvant (1976) nhận định đây là quá trình khiến cho ranh giới giữa các
quốc gia trở nên ít gián đoạn hơn, do đó dẫn đến sự hình thành một hệ thống [69].
Pelkmans (1984) cho rằng quá trình này tiến tới loại bỏ biên giới kinh tế, tăng
cường tính di động của hàng hóa, dịch vụ… giữa hai hoặc nhiều hơn nền kinh tế
[75]. W. Molle (1990) cũng quan niệm rằng quá trình này dần dần loại bỏ hoàn toàn
biên giới kinh tế giữa các quốc gia [83]. El-Agraa (1982) cho rằng quá trình này
39. 27
loại bỏ sự phân biệt đối xử giữa các quốc gia tham gia và thành lập nên các yếu tố
phối hợp nhất định [39].
Với đối tượng nghiên cứu chính là EU, Trung tâm Nghiên cứu Châu Âu, ĐH.
Carleton đã định nghĩa liên kết kinh tế khu vực là một quá trình mà các nước khác
nhau đồng ý loại bỏ rào cản thương mại giữa họ. Rào cản thương mại có thể là thuế
quan (thuế đối với hàng nhập khẩu vào một nước), hạn ngạch (giới hạn số lượng sản
phẩm có thể nhập khẩu) và hạn chế biên giới quốc gia [115].
Về quan điểm của đa phần các học giả Nhật Bản, tương tự như Kimura (1995),
liên kết kinh tế khu vực được hiểu là việc các quốc gia thỏa thuận cùng loại bỏ các
rào cản đối với các hoạt động khác nhau của nền kinh tế, trước hết là sự di chuyển
của hàng hóa qua biên giới các nước [93]. Từ điển bách khoa Mypedia (Asahi
Shimbun) giải thích liên kết kinh tế khu vực là việc hợp nhất nền kinh tế giữa các
quốc gia lân cận, vận hành nền kinh tế bởi các chính sách kinh tế chung. Điều này
có thể dẫn tới xu hướng bảo hộ đối với các nước ngoài khu vực, bởi vậy đây cũng là
một ngoại lệ có kèm theo điều kiện được quy định trong Hiệp định chung về Thuế
quan và Thương mại GATT 1994 [114].
2.1.1.2. Các cấp độ của liên kết kinh tế khu vực
Phân chia theo từng giai đoạn từ thấp đến cao, Balassa (1963) đã chỉ ra các
cấp độ của liên kết kinh tế khu vực là ① Khu vực mậu dịch tự do (Free trade area -
FTA), ② Đồng minh thuế quan (Custom union - CU). Tiếp theo là giai đoạn tự do
hóa các yếu tố sản xuất (vốn và lao động) khu vực với cấp độ ③ Thị trường chung
(Common market). Khi vốn và lao động được tự do hóa các nước trong khu vực sẽ
tiến tới hội nhập chính sách (như chính sách kinh tế, chính sách tài chính, chính
sách xã hội… ), tiến triển lên cấp độ tiếp theo là ④ Đồng minh kinh tế (Economic
union). Cuối cùng sẽ là giai đoạn ⑤ Hội nhập kinh tế hoàn toàn (Complete
economic integration). Nếu trong Khu vực thương mại tự do (FTA) các thành viên
thực hiện cắt giảm hàng rào thuế quan, phi thuế quan và hạn chế định lượng trong
thương mại nội khối, tuy nhiên vẫn duy trì chính sách thuế quan độc lập với các
nước ngoài khối, thì Liên minh thuế quan (CU) là một hình thức mở rộng hơn, ở đó
các nước thành viên cùng thiết lập một biểu thuế quan chung với phần còn lại của
40. 28
thế giới, tạo nên một rào cản chung với các nước không phải là thành viên. Thị
trường chung (Common market) là hình thức liên minh phức tạp và ở trình độ cao
hơn cả FTA và CU, ở đó các nước thành viên bãi bỏ mọi thuế quan và biện pháp
bảo hộ khác, bên cạnh đó cho phép di chuyển các nhân tố sản xuất, dịch vụ, nguyên
liệu, lao động và vốn. Liên minh kinh tế được xây dựng trên cơ sở các nước thành
viên thống nhất các chính sách thương mại, tiền tệ, tài chính và một số chính sách
kinh tế - xã hội chung với trong và ngoài khối. Ngoài việc các luồng vốn, hàng hóa,
lao động và dịch vụ được tự do di chuyển, các nước còn tiến tới thống nhất các
chính sách quản lý kinh tế - xã hội, phát triển hệ thống chung của các chính sách tài
khóa, tiền tệ, công nghiệp và giao thông, sử dụng chung một đồng tiền. Cùng quan
điểm với Balassa về các cấp độ của liên kết kinh tế còn có Pinder (1969) [76],
Holzman (1976) [54] và El-Agraa (1999) [40].
2.1.1.3. Lợi ích của liên kết kinh tế khu vực
Đối với một quốc gia, những lợi ích cơ bản của liên kết kinh tế khu vực là mở
rộng thị trường, thúc đẩy xuất khẩu, cân bằng cán cân xuất nhập khẩu, xóa bỏ độc
quyền, thu hút đầu tư, tận dụng lợi thế công nghệ, phát huy lợi thế so sánh, tập hợp
nguồn lực của nhiều quốc gia để phát triển kinh tế, nâng cao vị thế chính trị...
Còn đối với doanh nghiệp, lợi ích này là mở rộng thị trường, tăng khả năng
lựa chọn đầu vào sản xuất (từ đó giảm chi phí, giá thành, nâng cao chất lượng, tính
cạnh tranh của sản phẩm), tăng cơ hội tiếp cận với công nghệ sản xuất, phương
pháp quản lí mới, có động lực đầu tư thiết bị và công nghệ hiện đại, phân công lao
động và chuyên môn hoá tốt hơn, từ đó tăng được năng suất.
Lợi ích đối với người tiêu dùng là chất lượng, giá cả sản phẩm nội địa được
cải thiện (do doanh nghiệp trong nước phải đáp ứng hệ thống tiêu chuẩn và có mức
giá hợp lí để cạnh tranh), có thêm cơ hội sử dụng hàng hóa nhập khẩu đa dạng, chất
lượng tốt, giá thành rẻ hơn.
2.1.1.4. Một số khái niệm liên quan khác
Toàn cầu hóa kinh tế
Là sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế giữa các nền kinh tế trên thế giới do sự gia
tăng nhanh của dịch chuyển xuyên biên giới của hàng hóa, dịch vụ, công nghệ và
41. 29
vốn. Toàn cầu hóa kinh tế làm giảm các rào cản về thuế quan và các quy định hạn
chế thương mại thế giới, đồng thời tăng cường hội nhập kinh tế giữa các quốc gia và
tạo ra một thị trường toàn cầu duy nhất [139].
Thương mại tự do
Thương mại tự do (自由貿易、free trade) là một kiểu thị trường lý tưởng, ở
đó trao đổi thương mại được tiến hành tự do không có sự can thiệp của nhà nước
thông qua thuế quan và các chính sách hạn chế nhập khẩu khác. Vào thế kỷ 19,
thương mại tự do được ủng hộ bởi Adam Smith và David Ricardo của Anh,
François Quesnay của Pháp, đối lập với chủ nghĩa bảo hộ và chủ nghĩa trọng
thương [131]. Tuy nhiên, gần đây đôi khi thương mại tự do bị phong trào chống
toàn cầu hóa phản đối do xu hướng bị lạm dụng bởi những nước lớn giàu có.
Thương mại tự do bao gồm Thương mại tự do về hàng hóa; Thương mại tự do
về dịch vụ; Tự do lưu chuyển lao động giữa các nước; Tự do lưu chuyến vốn giữa
các nước; Không tồn tại những chính sách thương mại bảo hộ (như thuế, tiền trợ
cấp, quy định, luật…); Không tồn tại những chính sách bóp méo thương mại nhằm
mục đích củng cố quyền sở hữu nhà đất để đảm bảo các quyền lợi trên.
Hiệp định thương mại khu vực (Regional trade agreements - RTA):
Theo định nghĩa của WTO, RTA là hiệp định thương mại đối ứng giữa hai hay
nhiều đối tác, bao gồm hai hình thức hội nhập kinh tế là Khu vực Thương mại Tự
do (FTA) và Liên minh Thuế quan (CU). Về cơ sở pháp lý, RTA được GATT/WTO
công nhận trên nguyên tắc có đi có lại theo Điều XXIV/GATT 1994; Điều V/GATS
và Điều khoản Cho phép (Enabling Clause) 1979 [104]. Ví dụ về RTA có NAFTA,
EU, AFTA và EAFTA (thuộc Diễn đàn Hợp tác Kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương
(APEC), trong đó NAFTA, EU và ASEAN được nhìn nhận là một trong những
RTAs thành công nhất hiện nay. Năm 1990 có 50 RTAs hiệu lực vào con số này là
280 vào năm 2017 [129].
Hiệp định thương mại tự do (Free Trade Agreement - FTA) và Hiệp định đối
tác kinh tế (Economic Partnership Agreement - EPA):
Theo định nghĩa của Bộ Ngoại giao Nhật Bản, FTA là thỏa thuận giữa quốc
gia hoặc khu vực cụ thể với mục đích cắt giảm hoặc loại bỏ các rào cản như thuế
42. 30
quan đối với hàng hóa hoặc dịch vụ. Còn EPA mà nước này thường theo đuổi ngoài
tự do hoá thương mại còn bao gồm các quan hệ kinh tế khác như đầu tư, di chuyển
thể nhân, sở hữu trí tuệ, quy tắc cạnh tranh… [127]. Chính phủ Australia định nghĩa
FTA là hiệp ước quốc tế nhằm làm giảm các rào cản đối với thương mại và đầu tư
[117]. Còn theo định nghĩa Trung tâm WTO và Hội nhập – Phòng Công nghiệp và
Thương mại Việt Nam (VCCI), FTA là một thỏa thuận giữa hai hay nhiều quốc gia
hoặc vùng lãnh thổ nhằm mục đích tự do hóa thương mại về một hoặc một số nhóm
mặt hàng nào đó bằng việc cắt giảm thuế quan, tạo thuận lợi cho trao đổi hàng hóa,
dịch vụ và đầu tư giữa các thành viên. Hội nhập kinh tế thông qua các FTAs là
phương pháp giúp các quốc gia, nhất là nước đi sau tranh thủ cơ hội từ môi trường
quốc tế và có điều kiện để khai thác, phát huy tiềm năng của nền kinh tế [12].
Nội dung FTA thường gồm các quy định về việc cắt giảm các hàng rào thuế
quan và phi thuế quan, danh mục cắt giảm (thông lệ là 90%), lộ trình, thời gian thực
hiện (thường trong vòng 10 năm) và quy tắc xuất xứ. FTA có các phương thức khu
vực (các nước trong khu vực, ví dụ AFTA), song phương (giữa 2 nước), đa phương
(giữa nhiều nước, ví dụ TPP) hay FTA giữa một tổ chức với một nước (FTA giữa
ASEAN với Nhật Bản, Trung Quốc, Ấn Độ, Hàn Quốc... hay FTA Việt Nam EU).
Về phương thức đa phương, trong văn bản của WTO cũng nhắc đến thuật ngữ
thương mại “đa phương” (hoặc “đa biên” - multilateral trade), đây được hiểu là hệ
thống thương mại do WTO điều hành. Do không phải toàn bộ các nước trên thế giới
đều là thành viên WTO nên "đa phương" chỉ phạm vi hẹp hơn "toàn cầu". "Đa
phương" cũng không đồng nghĩa với những thoả thuận khu vực (như EU, ASEAN,
NAFTA), mà là một khái niệm ở giữa "toàn cầu" và "khu vực". Do phương thức đa
phương áp dụng đồng loạt với các thành viên nên thông qua đó việc xây dựng các
quy tắc chung cũng sẽ nhanh chóng hơn. Nhiều trường hợp các nước muốn sử dụng
hệ thống đa phương để giải quyết những vấn đề trong quan hệ song phương. Đặc
biệt, nếu những nước nhỏ yếu thế hơn những nước lớn khi đàm phán thương mại
song phương, thì tại một diễn đàn đa phương họ có thể góp chung tiếng nói để tránh
việc bị chèn ép, tạo ảnh hưởng nhất định.