Quản lý nhà nước về phát thanh, truyền hình từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam
Bạn cần tải tài liệu vui lòng liên hệ zalo 0936885877
Tham khảo giá dịch vụ làm luận văn luanvantrithuc.com
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
Luận văn thạc sĩ Quản lý nhà nước về phát thanh, truyền hình từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam
1. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
TRỊNH THỊ BÍCH UYÊN
QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ
PHÁT THANH, TRUYỀN HÌNH
TỪ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI, năm 2019
2. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
TRỊNH THỊ BÍCH UYÊN
QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ
PHÁT THANH, TRUYỀN HÌNH
TỪ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG NAM
Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính
Mã số: 8.38.01.02
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS ĐỖ THỊ KIM ĐỊNH
HÀ NỘI, năm 2019
3. LỜI CẢM ƠN
Luận văn tốt nghiệp cao học chuyên ngành Luật hành chính và Luật
hiến pháp với đề tài “Quản lý nhà nước về phát thanh, truyền hình từ thực tiễn
tỉnh Quảng Nam” được thực hiện tại Viện Khoa học xã hội đã hoàn thành
đúng thời gian quy định.
Cho phép tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến quý thầy cô giáo, cán
bộ quản lý học viện đã giảng dạy nhiệt tình, tạo điều kiện thuận lợi cho tôi
được tham gia nghiên cứu và học tập trong hai năm vừa qua.
Để đạt được kết quả này, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu
sắc nhất đến cô giáo, Tiến sĩ Đỗ Thị Kim Định, người đã quan tâm, hướng
dẫn tận tình cho tôi nghiên cứu khoa học và hoàn thành luận văn một cách
nghiêm túc.
Chân thành cảm ơn đến Lãnh đạo UBND huyện Phú Ninh tỉnh Quảng
Nam đã quan tâm, hỗ trợ và tạo điều kiện về thời gian và công việc để tôi
tham gia và hoàn thành khóa học. Tôi xin chân thành cảm ơn Ban lãnh đạo Sở
Thông tin và Truyền thông, Ban giám đốc Đài Phát thanh - Truyền hình tỉnh
Quảng Nam và các phòng ban chuyên môn và các cơ quan liên quan của Tỉnh
đã tạo điều kiện cho tôi trong việc thu thập tài liệu, thống kê số liệu góp phần
làm cho luận văn bám sát thực tiễn và sâu sắc hơn.
Một lần nữa xin trân trọng cảm ơn!
4. LỜI CAM ĐOAN
- Nội dung luận văn là do tôi thực hiện dưới sự hướng dẫn trực tiếp của
cô giáo TS. Đỗ Thị Kim Định.
- Mọi tài liệu tham khảo dùng trong luận văn đều được trích dẫn rõ ràng
và trung thực tên tác giả, tên công trình, thời gian, địa điểm công bố.
- Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực.
- Tôi xin cam đoan và chịu hoàn toàn trách nhiệm về đề tài của mình.
Tác giả
Trịnh Thị Bích Uyên
5. MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ......................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CỦA QUẢN LÝ NHÀ
NƯỚC VỀ PHÁT THANH, TRUYỀN HÌNH........................................... 11
1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của quản lý nhà nước về phát thanh,
truyền hình...................................................................................................... 11
1.2. Nội dung quản lý Nhà nước đối với phát thanh, truyền hình ................. 20
1.3. Hình thức quản lý Nhà nước đối với PT-TH .......................................... 27
1.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến quản lý nhà nước về phát thanh, truyền hình29
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ PHÁT
THANH, TRUYỀN HÌNH TẠI TỈNH QUẢNG NAM ............................ 33
2.1. Khái quát về phát thanh, truyền hình tại tỉnh Quảng Nam. .................... 33
2.2. Thực trạng quản lý nhà nước về phát thanh, truyền hình tại tỉnh Quảng
Nam ................................................................................................................ 41
2.3. Đánh giá thực trạng quản lý nhà nước về phát thanh, truyền hình tại
tỉnh Quảng Nam ............................................................................................. 48
CHƯƠNG 3. ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG QUẢN
LÝ NHÀ NƯỚC VỀ PHÁT THANH, TRUYỀN HÌNH TẠI TỈNH
QUẢNG NAM .............................................................................................. 63
3.1. Định hướng tăng cường quản lý nhà nước về phát thanh, truyền hình .. 63
3.2. Giải pháp tăng cường quản lý Nhà nước về phát thanh, truyền hình từ
thực tiễn tỉnh Quảng Nam ............................................................................. 66
KẾT LUẬN................................................................................................... 75
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
6. DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
1. BTV : Biên tập viên
2. CNXH : Chủ nghĩa xã hội
3. CT : chương trình
4. ĐCSVN : Đảng Cộng sản Việt Nam
5. ĐKTS : Đăng ký tần số
6. HĐND : Hội đồng nhân dân
7. KT-XH : Kinh tế xã hội
8. KTV : Kỹ thuật viên
9. PT-TH : Phát thanh, truyền hình
10. PV : Phóng viên
11. THPT : Trung học phổ thông
12. Tr. : Trang
13. TTĐT : Thông tin điện tử
14. TT- TH : Truyền thanh, truyền hình
15. TT-TT : Thông tin và truyền thông
16. UBND : Ủy ban nhân dân
17. VHTT : Văn hóa thông tin
18. XHCN : Xã hội chủ nghĩa
7. 1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Phát thanh, truyền hình với tư cách là một phương tiện truyền thông đại
chúng hiện đại có khả năng thông tin nhanh chóng, kịp thời hơn so với các
phương tiện khác; PT-TH phản ánh ngay lập tức các sự kiện khi vừa mới diễn
ra, thậm chí đang diễn ra, khán thính giả có thể nghe, quan sát một cách chi
tiết, tường tận, trực tiếp và liên tục 24/24h trong ngày; mang đến cho khán,
thính giả những thông tin nóng hổi nhất về các sự kiện diễn ra, cập nhật
những tin tức mới nhất. Đây là ưu thế đặc biệt của PT-TH so với các loại hình
báo chí khác, là phương tiện cung cấp thông tin rất lớn, có độ tin cậy cao, có
khả năng làm thay đổi nhận thức của con người trước sự kiện.
Hiện nay, cả nước có 67 Đài PT-TH bao gồm: 02 đài trực thuộc Trung
ương (Đài Tiếng nói Việt Nam, Đài Truyền hình Việt Nam); 01 Đài thuộc Bộ
TTTT (Đài Truyền hình Kỹ thuật số VTC); 64 Đài PT-TH địa phương (62
Đài PT-TH các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; riêng Thành phố Hồ
Chí Minh có 02 Đài: Đài Truyền hình Thành phố Hồ Chí Minh và Đài Tiếng
nói nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh). Với 268 kênh được cấp phép, các Đài
PT-TH không ngừng nâng cao chất lượng, sản xuất chương trình bằng công
nghệ chuẩn HD. Số lượng thuê bao của dịch vụ truyền hình trả tiền tăng
nhanh, lên tới 12,5 triệu thuê bao, doanh thu 12.000 tỷ đồng [9].
Có 6 kênh truyền hình hoạt động không có hạ tầng phát sóng truyền
hình riêng gồm: Kênh truyền hình Đài Tiếng nói Việt Nam (VOV TV), Kênh
truyền hình Công an nhân dân (ANTV), Kênh truyền hình Thông tấn
(Vnews), Kênh truyền hình Quốc phòng, Kênh truyền hình Quốc hội, Kênh
truyền hình Nhân dân. Số lượng kênh chương trình phát thanh trong nước là
78 kênh; trong đó phát thanh tiếng dân tộc là 1 kênh (VOV4), phát thanh đối
ngoại 1 kênh (VOV5), số kênh phát thanh qua truyền hình cáp, Internet, vệ
8. 2
tinh có 9 kênh. Số kênh truyền hình trong nước có 106 kênh; số kênh truyền
hình trên cáp truyền hình trả tiền, Internet, vệ tinh là 91 kênh, trong đó có 58
kênh nước ngoài [9]. Thông qua sóng phát thanh, kênh truyền hình đã đẩy
mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến đường lối, chính sách của Đảng và Nhà
nước. PT-TH đã góp phần tạo sự đồng thuận trong xã hội, tạo diễn đàn phản
ánh kịp thời những ý kiến sinh động từ thực tiễn cuộc sống để Đảng, Nhà
nước có thêm thông tin nhằm tiếp tục ban hành các quyết sách đúng đắn, phù
hợp với thực tiễn của người dân; nhiều chương trình giải trí thú vị được đầu
tư ngày càng phong phú, đa dạng đã góp phần nâng cao giá trị về mặt tinh
thần.
Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước luôn quan tâm sâu sắc tới sự
phát triển của ngành PT-TH trên phạm vi cả nước. Nghị quyết Đại hội Đại
biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã chỉ rõ: “Phát triển và hiện đại hóa
mạng lưới thông tin đại chúng, nâng cao chất lượng các sản phẩm, dịch vụ
phát thanh, truyền hình, báo chí, xuất bản. Đến năm 2010 hoàn thành cơ bản
việc phổ cập các phương tiện phát thanh, truyền hình đến mỗi gia đình”. Nghị
quyết số 26/NQ-TW ngày 05/8/2008 của Ban chấp hành Trung ương Đảng về
nông nghiệp, nông dân, nông thôn đề ra nhiệm vụ: “Nâng cao khả năng tiếp
cận thông tin cho mọi vùng nông thôn, đặc biệt là miền núi, vùng sâu, vùng
xa, hải đảo”. Ngày 16/02/2009, Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Quy hoạch
truyền dẫn, phát sóng PT-TH đến năm 2020 với mục tiêu “…Đến năm 2020,
từng bước triển khai lộ trình số hóa mạng truyền dẫn, phát sóng truyền hình
số mặt đất phù hợp với điều kiện thực tế về thiết bị thu truyền hình số của
người dân trên từng địa bàn cụ thể. Theo quy định sẽ ngừng phát sóng truyền
hình mặt đất công nghệ tương tự để chuyển sang phát sóng truyền hình mặt
đất công nghệ số khi 95% số hộ gia đình có máy thu hình thu các kênh
chương trình truyền hình bằng những phương thức truyền dẫn, phát sóng số
khác nhau. Theo đó, trước năm 2020 sẽ ngừng việc sử dụng công nghệ truyền
9. 3
hình cáp tương tự trước để chuyển sang công nghệ số. Hệ thống mạng cáp
được ngầm hóa trên các tuyến đường chính tạicác tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương…”
Hệ thống PT-TH trong cả nước hiện nay đang phát triển nhanh cả về
nội dung, chất lượng chương trình, hạ tầng kỹ thuật và phương thức truyền
dẫn, phát sóng, góp phần tích cực vào sự phát triển KT-XH của đất nước. Tuy
nhiên, sự phát triển nhanh, mạnh của hệ thống PT-TH đang đặt ra những
thách thức trong công tác quản lý nhà nước, nhất là đối với các cơ quan quản
lý nhà nước ở địa phương. PT-TH là loại hình báo chí mang tính đặc thù, đòi
hỏi sự gắn kết giữa nội dung, kỹ thuật và hạ tầng. Vì vậy, quản lý nhà nước về
PT-TH đòi hỏi sự thống nhất, mang tính đồng bộ cao cả về nội dung và kỹ
thuật, trong khi đó ở nhiều địa phương điều này vẫn chưa đáp ứng được.
Để PT-TH phát triển, phát huy tối đa vai trò là cầu nối giữa nhân dân
với Đảng, Nhà nước, cần tăng cường vai trò của quản lý nhà nước, nhất là
tăng cường quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với lĩnh vực này. Phương
tiện bảo đảm cho việc quản lý nhà nước đối với kênh thông tin này đó là pháp
luật và được tiến hành một cách đồng bộ trên cơ sở có sự phân công và phối
hợp chặt chẽ [11]. Điều 2, Luật Báo chí 2016 quy định cụ thể về hoạt động
của báo chí là trong khuôn khổ pháp luật và được nhà nước bảo hộ. Luật này
cũng quy định không một tổ chức, cá nhân nào được hạn chế, cản trở báo chí,
nhà báo hoạt động; đồng thời không ai được lạm dụng quyền tự do báo chí, tự
do ngôn luận trên báo chí để xâm phạm lợi ích của nhà nước, tập thể và công
dân[62]. .
Thực hiện chủ trương, đường lối, sự chỉ đạo của Đảng, Nhà nước, tỉnh
Quảng Nam đã dành nhiều sự quan tâm đến lĩnh vực PT-TH; tạo điều kiện
cho hệ thống PT-TH phát triển, góp phần tuyên truyền chủ trương của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước; phản ánh kịp thời những chỉ đạo của các
cấp và chính quyền địa phương; góp phần xây dựng KT-XH trên địa bàn tỉnh.
10. 4
Tuy nhiên, hoạt động của hệ thống PT-TH trên địa bàn tỉnh Quảng Nam còn
bộc lộ nhiều hạn chế, đó là: chưa ban hành văn bản quy phạm pháp luật về
các quy định về PT-TH (trong đó có Truyền thanh xã); nội dung chương trình
PT-TH chưa phong phú; hình thức thể hiện còn đơn điệu; chuyên môn nghiệp
vụ của đội ngũ cán bộ chưa xứng tầm, nhất là cán bộ Truyền thanh xã còn bất
cập; hệ thống trang thiết bị nhiều nơi kỹ thuật lạc hậu và xuống cấp nghiêm
trọng; kinh phí duy trì hoạt động thấp; chính quyền một số địa phương chưa
nhận thức rõ tầm quan trọng, nhất là hệ thống Truyền thanh xã nên thiếu sự
quan tâm cả về nhân lực và công tác quản lý.
Xuất phát từ những lý do trên, tôi chọn đề tài “Quản lý nhà nước về
phát thanh, truyền hình từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam” làm đề tài luận văn
thạc sĩ ngành Luật hiến pháp và luật hành chính, với mục đích nghiên cứu
những giải pháp hữu hiệu để tăng cường quản lý nhà nước cả về phương diện
pháp lý lẫn thực tiễn ở lĩnh vực PT-TH của tỉnh Quảng Nam.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Lịch sử hình thành nền báo chí cách mạng Việt Nam đã có các nghiên
cứu cung cấp cho người đọc những tri thức về báo chí, quản lý nhà nước về
báo chí nói chung và PT-TH nói riêng. Các nghiên cứu đó đã đưa ra nhiều góc
nhìn, trong đó có nhìn nhận theo quan điểm hệ thống, tức là nhìn nhận mọi sự
vật hiện tượng trong sự cấu thành của nhiều yếu tố và các yếu tố này có sự chi
phối lẫn nhau trong những điều kiện, hoàn cảnh cụ thể. Có thể kể đến những
công trình tiêu biểu như sau:
- Hồng Chương, Lịch sử báo chí Việt Nam (1985), Nxb. Sự thật, tác giả
khái quát lịch sử báo chí từ khi xuất hiện ấn phẩm báo chí đầu tiên ở Việt
Nam năm 1865, dưới sự quản lý của chính quyền thực dân Pháp, báo chí chủ
yếu là công cụ tuyên truyền của chế độ thực dân. Nhiều đạo luật, sắc lệnh về
báo chí cho Đông Dương đã được thực dân Pháp ban hành. Sắc lệnh ngày 30-
12-1898 đã đình chỉ việc thi hành luật tự do báo chí, ngày 29-7-1881, của
11. 5
Chính phủ Pháp ở Đông Dương. Theo Sắc lệnh này, việc thành lập một tờ báo
hay xuất bản ấn phẩm định kì bằng bất cứ thứ tiếng nào đều có thể bị đình chỉ
bởi nghị định của quan Toàn quyền và không một tờ báo tiếng Việt nào có thể
xuất bản nếu không được phép của quan Toàn quyền. Báo chí từ sau Cách
mạng tháng Tám được hoạt động tự do để bảo vệ chính quyền Cách mạng non
trẻ, phục vụ hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ; báo chí từ sau
năm 1975 nặng về thông tin một chiều.
- Hồng Chương, 124 năm báo chí Việt Nam (1985), Nxb. Bộ Tư pháp
Thành phố Hồ Chí Minh, tác phẩm giới thiệu tóm tắt lịch sử báo chí Việt
Nam, nhất là báo chí cách mạng qua các thời kỳ. Qua đó, nói lên chức năng
và vai trò của báo chí, hình thức và mức độ quản lý của Nhà nước đối với báo
chí qua từng thời kỳ.
- Đinh Văn Hường, Báo chí truyền thông Việt Nam trong tiến trình
phát triển và hội nhập, Đại học Khoa học xã hội và nhân văn, Đại học Quốc
gia Hà Nội (http://www.hids.hochiminhcity. gov.vn/c/document library) điểm
lại tiến trình lịch sử báo chí Việt Nam từ khi có tờ Gia Định báo (năm 1865).
Trong đó, đề cập đến dấu mốc ra đời nền báo chí cách mạng Việt Nam, khi
lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc thành lập báo Thanh niên. Cuốn sách cũng khẳng
định báo chí truyền thông đã có những đóng góp lớn cho sự nghiệp đấu tranh
thống nhất đất nước và công cuộc xây dựng, phát triển đất nước.
- Đào Duy Quát, Vũ Duy Thông, Đỗ Quang Hưng, Tổng quan lịch sử
báo chí Cách mạng Việt Nam (1925 - 2010) (2010), Nxb. Chính trị Quốc gia,
Hà Nội, tác phẩm khái lược lại hoạt động báo chí cách mạng từ khi ra đời.
Trong số 6 chương, cuốn sách đã dành 2 chương cuối khái lược về “Báo chí
Cách mạng Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới đất nước (1986 - 2000)” và
“Báo chí Cách mạng Việt Nam trong thời kỳ tiếp tục đổi mới, đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước (2001 - 2010)”. Đây cũng là thời kỳ hoạt
động quản lý nhà nước về báo chí được tăng cường một bước. Bộ VHTT (nay
12. 6
là Bộ TT-TT) được xác định là cơ quan chịu trách nhiệm quản lý nhà nước về
báo chí. Trong khuôn khổ gần 500 trang, cuốn sách đã khái lược được những
điểm mốc quan trọng trong quá trình hình thành và phát triển của báo chí cách
mạng Việt Nam, tuy nhiên chưa đề cập một cách kỹ lưỡng và sâu sắc đến báo
chí từ thời kỳ đổi mới năm 1986.
- Cuốn Báo chí trong đấu tranh chống “diễn biến hòa bình” (2000),
của Vũ Hiền, Nxb. Chính trị Quốc gia cũng khẳng định vai trò của báo chí
trước âm mưu diễn biến hòa bình của các thế lực thù địch. Năm 1995, Việt
Nam chính thức gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới - WTO, bước những
bước đầu tiên trên con đường hội nhập và phát triển, đây cũng là thời điểm
âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” gây tác động, ảnh hưởng đến đời sống
xã hội, tâm lý nhân dân. Trong bối cảnh đó, báo chí dưới sự lãnh đạo của
Đảng, quản lý của Nhà nước đã thực sự trở thành một vũ khí sắc bén, hiệu
quả trên mặt trận chống “diễn biến hòa bình”.
- Luận án tiến sĩ “Sự lãnh đạo của Đảng đối với báo chí trong thời kỳ
đổi mới” của Nguyễn Vũ Tiến (2003) đã nghiên cứu những tư duy mới, quan
điểm mới của Đảng về báo chí và công tác quản lý báo chí trong tình hình đất
nước đang tiến hành công cuộc đổi mới.
- Luận án tiến sĩ “Hoàn thiện pháp luật về báo chí ở Việt Nam hiện
nay” (2016) của Phí Thị Thanh Tâm đã khái quát kết quả các công trình
nghiên cứu về báo chí và pháp luật báo chí trên thế giới cũng như ở Việt
Nam. Phân tích làm rõ những vấn đề lý luận như khái niệm, nội dung, những
tiêu chí xác định vai trò của pháp luật báo chí. Đồng thời phân tích thực trạng
pháp luật báo chí ở Việt Nam từ năm 1945 đến nay theo từng giai đoạn lịch
sử. Những lập luận và phân tích của tác giả về những tồn tại, hạn chế và
nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế trong pháp luật báo chí. Từ đó, đề
xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật về báo chí ở Việt Nam hiện nay…
- Ngoài ra, còn có những công trình: Tạ Ngọc Tấn “Từ lý luận đến thực
13. 7
tiễn báo chí” (2000), Nxb. Văn hóa - Thông tin; “Báo chí - những vấn đề lý
luận và thực tiễn” các kỳ xuất bản năm 1994, 1996, 1997, 2001, 2010 do các
Nxb. Giáo dục, Nxb. Đại học quốc gia xuất bản; Hà Minh Đức, “Cơ sở lý
luận báo chí - Đặc tính chung và phong cách” (2000), Nxb. Đại học quốc gia;
Nguyễn Văn Dững, Hồ Bất Khuất, “Báo chí: Những điểm nhìn từ thực tiễn”
(2000), Nxb. VHTT đã làm sáng rõ một số phạm trù, khái niệm cơ bản, tìm ra
mối quan hệ bên trong, các sự liên hệ trong quá trình vận hành với các tiến
trình xã hội; đưa ra các quy luật, phương pháp nguyên tắc, con đường nhằm
tăng cường chất lượng hoạt động của báo chí và các cơ quan quản lý báo chí.
- “Cơ sở lý luận báo chí” (2005) của nhóm tác giả Tạ Ngọc Tấn, Trịnh
Đình Thắng, Đinh Thế Huynh, Lê Mạnh Bỉnh, Học viện Báo chí và Tuyên
truyền, Nxb. Lý luận chính trị; Tạ Ngọc Tấn, “Truyền thông đại chúng”
(2001), Nxb. Chính trị quốc gia; Nguyễn Văn Dững, “Cơ sở lý luận báo chí”
(2012), Nxb. Lao động; Dương Xuân Sơn, “Cơ sở lý luận báo chí truyền
thông”, các kỳ xuất bản năm 1995, 2004, 2005, do các Nxb. VHTT, Đại học
quốc gia Hà Nội xuất bản; Nguyễn Văn Hà, “Cơ sở lý luận báo chí”, các kỳ
xuất bản 2011, 2012, Nxb. Đại học quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh;… đã
cho rằng báo chí là một hình thức hoạt động truyền thông đại chúng, là loại
hình thông tin chính trị - xã hội. Đồng thời, xác định các chức năng của báo
chí, các nguyên tắc hoạt động báo chí; nêu những khái niệm cơ bản về báo
chí, các loại hình báo chí truyền thống như báo in, báo nói, báo hình. Đồng
thời, đề cập đến một số vấn đề cơ bản về báo chí như: vị trí, vai trò của báo
chí trong đời sống xã hội; đưa ra quan niệm chung về báo chí dưới góc độ
phân tích tính giai cấp của báo chí, tự do báo chí, luật pháp và báo chí.
Hầu hết các công trình nghiên cứu trong thời gian qua đã khái quát quá
trình hình thành và phát triển của báo chí Việt Nam, khẳng định vị trí, vai trò
quan trọng của báo chí và sự cần thiết phải quản lý nhà nước về báo chí, trong
đó có PT-TH. Tuy nhiên, trong nhóm các công trình khoa học đã công bố, hầu
14. 8
hết chỉ tập trung nghiên cứu về sự lãnh đạo của Đảng, hoạt động quản lý nhà
nước về báo chí còn khá thiếu hụt, hơn nữa các công trình nghiên cứu đều đã
được nghiên cứu từ 5 đến 10 năm trước, do vậy, nhiều vấn đề mới nảy sinh
trong thực tiễn chưa được đề cập kịp thời. Chưa có nhiều công trình nghiên
cứu liên quan đến quản lý nhà nước về PT-TH. Riêng đối với tỉnh Quảng
Nam thì chưa có công trình nghiên cứu nào. Với mục đích nâng cao vai trò
của quản lý nhà nước đối với PT-TH để PT-TH phát triển và có nhiều đóng
góp cho sự phát triển của đất nước, việc lựa chọn đề tài của luận văn là phù
hợp và đảm bảo không có sự trùng lặp.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về quản lý nhà
nước về PT-TH nói chung và PT-TH tại tỉnh Quảng Nam nói riêng, từ đó đề
xuất các giải pháp nhằm thực hiện tốt công tác quản lý nhà nước về PT-TH;
giúp cho các Đài PT-TH tỉnh, Đài TT-TH cấp huyện, thị xã, thành phố (sau
đây gọi chung là Đài TT-TH huyện), Đài truyền thanh xã hoạt động đúng tôn
chỉ, mục đích; bám sát thực tiễn đời sống xã hội, định hướng tư tưởng và
nhiệm vụ chính trị của tỉnh, của cơ sở; tích cực tuyên truyền, phản ánh nhiều
chiều, phong phú, đa dạng mọi mặt đời sống kinh tế, chính trị, văn hoá-xã hội,
an ninh quốc phòng, xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm sáng tỏ khái niệm, đặc điểm, vai trò, nội dung, hình thức cũng
như các yếu tố ảnh hưởng đến quản lý nhà nước về PT-TH.
- Đánh giá thực trạng về hoạt động quản lý nhà nước về PT-TH tại tỉnh
Quảng Nam; phân tích, làm sáng tỏ những thành tựu và hạn chế, nguyên nhân
của những hạn chế.
- Đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện quản lý nhà nước về PT-TH
nói chung và PT-TH tại tỉnh Quảng Nam nói riêng.
15. 9
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là hoạt động quản lý nhà nước về PT-TH tại tỉnh
Quảng Nam; những quy định pháp luật về quản lý nhà nước đối với hoạt động
PT-TH. Đề tài sẽ không đề cập các nội dung liên quan đến vấn đề nghiệp vụ.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi nghiên cứu: Tỉnh Quảng Nam
- Thời gian nghiên cứu: từ năm 2013 đến năm 2018
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Đề tài dựa trên phương pháp luận là chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ
nghĩa duy vật lịch sử và cách tiếp cận hệ thống.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: phương
pháp phân tích, tổng hợp, phương pháp đánh giá, phương pháp thống kê, mô
tả, phương pháp so sánh, phương pháp quan sát trực tiếp…
Chương 1: Sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp để đưa ra các
khái niệm về PT-TH, quản lý nhà nước về PT-TH. Trong chương này tác giả
còn khái quát nội dung quản lý nhà nước đối với báo chí PT-TH.
Chương 2: Sử dụng phương pháp thu thập số liệu, tài liệu, tổng hợp,
phân tích, đánh giá thực trạng quản lý nhà nước về PT-TH tại tỉnh Quảng
Nam.
Chương 3: Sử dụng phương pháp phân tích, đánh giá, tổng hợp để rút
ra những giải pháp nhằm góp phần tăng cường công tác quản lý nhà nước về
PT-TH nói chung và tại tỉnh Quảng Nam nói riêng.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Về lý luận, làm rõ thêm một số vấn đề lý luận về quản lý nhà nước về
16. 10
PT-TH nói chung và quản lý nhà nước về PT-TH tại tỉnh Quảng Nam nói
riêng.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Về thực tiễn, đề tài có giá trị tham khảo, giúp cho các cấp ủy Đảng,
chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các nhà quản lý nâng cao nhận thức về vai
trò, tầm quan trọng của PT-TH trong công tác tuyên truyền, thông tin và phản
ánh kịp thời, sâu rộng, toàn diện trên tất cả các lĩnh vực chính trị, KT-XH,
quốc phòng an ninh, công tác xây dựng Đảng, các vấn đề đặt ra trong đời
sống của nhân dân, nêu các gương tốt, các cá nhân và điển hình tiên tiến trên
tất cả các lĩnh vực; đồng thời phản ánh những việc làm sai trái, vi phạm...
hướng đến thực hiện tốt các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp
luật của Nhà nước.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận
văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận của quản lý nhà nước về phát thanh,
truyền hình
Chương 2: Thực trạng quản lý nhà nước về phát thanh, truyền hình tại
tỉnh Quảng Nam
Chương 3: Định hướng và giải pháp tăng cường quản lý nhà nước về
phát thanh, truyền hình tại tỉnh Quảng Nam.
17. 11
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CỦA QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
VỀ PHÁT THANH, TRUYỀN HÌNH
1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của quản lý nhà nước về phát
thanh, truyền hình
1.1.1. Khái niệm về phát thanh, truyền hình
1.1.1.1. Khái niệm về phát thanh
Phát thanh là một thể loại báo chí, thông báo về một sự kiện mới, tuyên
bố mới, tình hình mới về sự việc, hiện tượng con người đã, đang và sẽ xảy ra,
được truyền đạt trực tiếp, dễ hiểu đến đối tượng thính giả bằng phương tiện
radio. Như thế, phát thanh tác động đến thính giả bằng âm thanh, lời nói, tiếng
động, âm nhạc. Hay nói cách khác, thông qua kỹ thuật sóng điện từ và hệ
thống truyền thanh, phát thanh truyền đi âm thanh, tác động trực tiếp vào
thính giác của người tiếp nhận. Là một loại hình truyền thông độc đáo, hấp
dẫn, có khả năng tạo được sức hút và thiện cảm đối với đông đảo công chúng
[51].
Phát thanh có 2 loại hình: phát thanh qua sóng điện từ, phát thanh truyền
qua hệ thống dây dẫn.
Phát thanh được coi là một trong những loại hình truyền thông hiện đại,
có được một lượng công chúng rộng rãi và có sức ảnh hưởng lớn tới dư luận
xã hội. Phát thanh có những đặc điểm cơ bản:
Tỏa sóng rộng khắp: trong cùng một khoảng thời gian, hàng triệu người
có thể nghe được thông tin. Như vậy phát thanh có tính xã hội hóa cao.
Kỹ thuật đơn giản, tiện lợi: Chỉ cần một thiết bị thu tín hiệu nhỏ ở bất
cứ nơi nào dù là miền núi hay hải đảo, công chúng đã có thể hưởng thụ các
chương trình phát thanh. Chỉ với một chiếc radio nhỏ nhẹ có thể vừa nghe
18. 12
chương trình phát thanh vừa làm mọi công việc, kể cả đang làm việc ngoài
đồng, trong công trường hay đang lái xe ô tô …
Khả năng thông tin thời sự nhanh nhạy: Ưu thế nổi bật đầu tiên của
phát thanh là sự nhanh nhạy trong thông tin. Thông qua kênh phát thanh sẽ
cung cấp cho bạn nghe Đài những nội dung quan trọng, những thông tin mới,
và kịp thời khi mới xảy ra, đang xảy ra, hoặc sẽ xảy ra. Về ưu thế này, hiện
nay chỉ có báo mạng, điện tử mới có thể cạnh tranh được với báo phát thanh.
Tuy nhiên, do đặc điểm của báo mạng là phụ thuộc vào đường truyền và
phương tiện cồng kềnh, kỹ thuật phức tạp nên sự tiện lợi của chiếc radio vẫn
có những ưu thế do luôn đồng hành cùng với mỗi cá nhân trong mọi địa hình,
mọi hoàn cảnh.
Gần gũi công chúng, hiệu quả tác động cao: Ưu thế của báo phát thanh
là cách tôn trọng người nghe và tác động nhanh, hiệu quả đến công chúng và
được thính giả đánh giá cao đối với những người làm báo phát thanh. Và sự
thân mật, gần gũi với công chúng chính là sức hấp dẫn của báo phát thanh.
Với mục tiêu thu hút thính giả, tạo ra sức sống cho làn sóng phát thanh,
những người làm báo phát thanh hiện đại không chỉ quan tâm đến việc đem
lại cho công chúng những thông tin nóng hổi, bổ ích, gần gũi với cuộc sống
thường nhật mà còn ở cách thể hiện những thông tin đó một cách thân tình,
gần gũi “như nói với một người bạn”. Người làm báo phát thanh ngày nay rất
quan tâm đến những thói quen và sở thích của từng nhóm công chúng nghe
Đài, không ngừng cải tiến về hình thức, chất lượng để các chương trình phát
thanh ngày càng gần gũi hơn với thính giả, phù hợp với từng đối tượng nghe
đài, đáp ứng thị hiếu ở từng độ tuổi...
1.1.1.2. Khái niệm về truyền hình
Truyền hình (Television) có xuất xứ từ tiếng Latinh và tiếng Hy Lạp.
Theo tiếng Hy Lạp, từ “Tele” có nghĩa là ở xa, “videra” có nghĩa là thấy
được, còn theo tiếng Latinh có nghĩa là thấy được từ xa, ghép hai từ đó lại là
19. 13
“Televidera”. Tiếng Anh là Television, Tiếng Pháp cũng là “Television” [52].
Như vậy dù bất cứ quốc gia nào thì tên gọi truyền hình vẫn có chung một
nghĩa.
Với khả năng thu nhận tín hiệu sóng vô tuyến cũng như truyền dẫn các
tín hiệu điện, truyền hình mang hình ảnh và âm thanh được mã hóa. Truyền
hình được phát dưới dạng sóng vô tuyến, qua hệ thống cáp quang, hoặc cáp
đồng trục. Truyền hình đáp ứng bạn xem đài cả hình ảnh lẫn âm thanh cùng
một lúc [52].
Truyền hình có 02 loại là truyền hình sóng và truyền hình cáp.
- Truyền hình sóng:
Truyền hình sóng là truyền hình được thực hiện theo nguyên tắc kỹ
thuật như sau: hình ảnh và âm thanh được mã hóa dưới dạng các tín hiệu sóng
và phát vào không trung. Các tín hiệu được các máy thu tiếp nhận rồi giải mã
nhằm tạo ra các hình ảnh và âm thanh. Sóng truyền hình là sóng phẳng vì thế
ăngten thu bắt buộc phải “nhìn thấy” được ăngten phát và phải nằm trong
vùng phủ sóng thì mới bắt được tín hiệu tốt.
-Truyền hình cáp:
Truyền hình cáp (hữu tuyến) (CATV: Community Antenna
Television) là những tín hiệu được truyền thông qua cáp nối từ đầu máy phát
đến từng máy thu hình. Ưu điểm của truyền hình cáp là có thể chuyển đi trong
cùng một lúc theo nhu cầu của người sử dụng. Đồng thời truyền hình cáp còn
phục vụ nhiều dịch vụ khác, chức năng này không thể có được từ truyền hình
sóng.
So với các loại hình báo chí khác, truyền hình có những đặc điểm riêng
biệt mang tính đặc trưng.
Tính thời sự: Truyền hình mang tính thời sự và có khả năng thông tin
nhanh chóng, kịp thời trên cũng một lúc cả 2 phương diện nghe và nhìn.
Người xem có thể quan sát một cách chi tiết, tường tận qua truyền hình trực
20. 14
tiếp và cầu truyền hình những sự kiện vừa mới diễn ra thậm chí khi đang diễn
ra trong thời gian 24/24h trong ngày. Đây là ưu thế đặc biệt của truyền hình
so với các loại hình báo chí khác.
Ngôn ngữ truyền hình là ngôn ngữ hình ảnh và âm thanh: Một ưu thế
của truyền hình chính là truyền tải cả hình ảnh và âm thanh cùng một lúc.
Điều đó có nghĩa người xem truyền hình tiếp cận sự kiện bằng cả thị giác
(70%) và thính giác (30%). Chính vì vậy, truyền hình được xem là kênh thông
tin có độ tin cậy cao, có khả năng làm thay đổi nhận thức, suy nghĩ và hành
động của con người thông qua một sự kiện, một vấn đề nào đó.
Tính phổ cập và quảng bá: Thông tin, sự kiện trên các kênh truyền hình
có khả năng thu hút đông đảo người xem cùng một lúc, kể các vùng sâu ,
vùng xa nhờ sự phát triển của khoa học và công nghệ, đó là ưu thế của truyền
hình về tính phổ cập. Tính quảng bá của truyền hình thể hiện ở chỗ khắp nơi
trên thế giới có thể tiếp nhận thông tin, sự kiện xảy ra ở bất kì đâu khi được
đưa lên vệ tinh.
Khả năng thuyết phục công chúng: Với độ tin cậy cao nhờ 2 phương
diện nghe và nhìn thông qua âm thanh và hình ảnh nên truyền hình có khả
năng tác động mạnh mẽ vào suy nghĩ, nhận thức và hành động của con người.
Khả năng thuyết phục công chúng của truyền hình là công chúng có thể
chứng kiến tận mắt những hình ảnh chân thực của sự kiện dù nó xảy ra bất cứ
ở đâu. Đây là lợi thế lớn của truyền hình so với các loại hình chí khác.
Khả năng tác động dư luận xã hội nên truyền hình trở thành diễn đàn
của nhân dân: Các chương trình truyền hình mang tính thời sự, cập nhật, nóng
hổi, hấp dẫn người xem bằng cả hình ảnh, âm thanh và lời bình, vừa cho
người xem thấy được thực tế của vấn đề, vừa tác động vào nhận thức của
công chúng.
1.1.1.3. Vai trò, chức năng của phát thanh, truyền hình trong đời sống
xã hội
21. 15
PT-TH có vai trò, chức năng ngày càng quan trọng trong đời sống xã
hội bởi thông qua đó sẽ chuyển tải những chủ trương, đường lối của Ðảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước và của cấp ủy, chính quyền địa phương
nhằm nâng cao nhận thức của nhân dân, tạo sự ổn định về an ninh chính trị,
trật tự an toàn xã hội và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Chính vì vậy, Lênin coi
máy thu thanh là “công việc vĩ đại”, đã gọi nó là “tờ báo không có giấy và
không có khoảng cách” [Lênin toàn tập, tập 517, NXB Tiến bộ - 1978,
tr.167”].
Báo phát thanh như một tiểu hệ thống trong hệ thống báo chí nói riêng
và hệ thống xã hội liên tục vận động và phát triển nói chung, báo phát thanh
có những chức năng cơ bản như sau: chức năng thông tin, chức năng tư
tưởng, chức năng khai sáng - giải trí, chức năng tổ chức - quản lý, giám sát và
phản biện xã hội, chức năng kinh tế - dịch vụ [42].
Thông tin là chức năng cơ bản, chức năng khởi nguồn của PT- TH bởi
nó ra đời là để đáp ứng, thỏa mãn nhu cầu thông tin giao tiếp của con người
và xã hội. Trong thời đại công nghệ phát triển như hiện nay thì PT-TH chính
là chức năng đưa thông tin đến thính giả và ngày càng đòi hỏi sự đa dạng,
phong phú. Quá trình đáp ứng nhu cầu này làm cho các loại hình báo chí này
phát triển nhanh chóng.
Chức năng tư tưởng: với PT-TH, đây là chức năng xuyên suốt, mục
đích của báo chí PT-TH là khai sáng và định hướng dư luận. Quan điểm của
Đảng và Nhà nước ta, cũng như các loại hình báo chí khác, PT- TH là công
cụ, phương tiện quan trọng dùng để tuyên truyền chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, các chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà
nước tới nhân dân. Báo chí trong đó có PT-TH là một lực lượng xung kích, đi
đầu trong công tác định hướng tư tưởng của Đảng.
Chức năng khai sáng – giải trí: PT-TH là kênh thông tin, truyên truyền
đồng thời là diễn đàn của nhân dân. Thông qua kênh sóng PT- TH, người dân
22. 16
có thể nói lên tiếng nói của mình, cũng chia sẻ kỹ năng và kinh nghiệm phong
phú trong cuộc sống nhằm nâng cao trình độ dân trí, đáp ứng nhu cầu phát
triển hiện nay.
Trong điều kiện kinh tế thị trường hiện nay, khi điều kiện xã hội ngày
càng phát triển thì việc giải trí càng được chú trọng bởi thông qua kênh sóng
PT-TH người dân có thể xem, nghe nhiều chương trình giải trí thú vị, ý nghĩa.
Chức năng quản lý, giám sát và phản biện xã hội của PT-TH thể hiện ở
chỗ duy trì và phát triển mối liên hệ chặt chẽ giữa chủ thể và khách thể quản
lý thông qua việc duy trì và phát triển dòng thông tin hai chiều, bảo đảm cho
các quyết định quản lý được thông suốt và thực thi. Giám sát xã hội của báo
chí là đề cao tinh thần trách nhiệm của các nhà quản lý, những người làm
chuyên môn và của người dân trong việc theo dõi, kiểm tra quá trình thưc
hiện đường lối, chủ trương chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước.
Thông qua chức năng giám sát xã hội của báo chí sẽ kịp thời tuyên dương,
khen thưởng những gương điển hình, những cá nhân người tốt việc tốt để biểu
dương và nhân rộng; đồng thời kịp thời phát hiện những nơi đi chệch hướng,
làm sai, những vi phạm pháo luật để uốn nắn, đấu tranh và xử lý nhằm bảo
đảm cho đường lối, chính sách chủ trương của Đảng, pháp luật Nhà nước
được thực thi đúng trong thực tế.
Chức năng kinh tế – dịch vụ: với sự phát triển của kinh tế thị trường thì
PT-TH mang tính kinh tế, dịch vụ bởi thông qua đó, nhiều nguồn thu được
tích lũy để đưa vào ngân sách nhà nước và chi vào hoạt động ý nghĩa khác
nhằm nâng cao đời sống con người.
1.1.2. Khái niệm, vai trò quản lý nhà nước đối với phát thanh, truyền
hình
1.1.2.1. Khái niệm quản lý nhà nước
Quản lý là nhằm phối hợp, tác động qua lại giữa các lao động đơn lẻ để
đạt được cái thống nhất của toàn bộ quá trình sản xuất [Các Mác – Ph. Ăng
23. 17
ghen, toàn tập, tập 23, tr.23]. Trên thế giới hiện nay, cách hiểu về quản lý có
tính thống nhất tương đối. Khoa học về quản lý định nghĩa: Quản lý là sự tác
động liên tục, qua lại có tính tổ chức, có tính định hướng của chủ thể quản lý
lên khách thể quản lý ở các phương diện chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội…
thông qua hệ thống pháp luật, chính sách, các nguyên tắc, các quy định và
bằng các biện pháp cụ thể, nhằm tạo ra môi trường và điều kiện cho sự phát
triển của đối tượng quản lý. Như vậy, hiểu một cách đơn giản nhất, quản lý
chính là sự tác động của chủ thể quản lý tới đối tượng quản lý thông qua các
công cụ quản lý nhằm đạt mục tiêu đề ra.
Quản lý nhà nước là sự tác động có tổ chức và điều chỉnh bằng quyền
lực Nhà nước đối với các quá trình phát triển của xã hội và hành vi hoạt động
của con người. Từ đó duy trì và phát triển các mối quan hệ xã hội và trật tự
pháp luật nhằm thực hiện những chức năng và nhiệm vụ của Nhà nước trong
công cuộc xây dựng CNXH và bảo vệ tổ quốc XHCN [Giáo trình quản lý
hành chính nhà nước, tập 1, tr.407].
Như vậy, quản lý nhà nước là hoạt động mang tính chất quyền lực để
điều chỉnh các quan hệ xã hội. Quản lý nhà nước được xem là một hoạt động
chức năng của Nhà nước trong quản lý xã hội và có thể xem là hoạt động
chức năng đặc biệt. Quản lý nhà nước được hiểu theo hai nghĩa.
Theo nghĩa rộng: quản lý nhà nước được hiểu là toàn bộ các hoạt động
từ ban hành các văn bản luật, các văn bản dưới luật đến việc chỉ đạo trực tiếp
hoạt động của đối tượng bị quản lý thông qua pháp luật. Hoạt động quản lý
nhà nước được thực hiện bởi tất cả các cơ quan nhà nước, các tổ chức chính
trị - xã hội, các đoàn thể và nhân dân nếu được nhà nước uỷ quyền, trao quyền
thực hiện theo quy định của pháp luật.
Quản lý nhà nước là được xem là một dạng của quản lý xã hội đặc biệt,
mang tính quyền lực nhà nước thông qua pháp luật. Những điều khoản, chính
sách được Nhà nước ban hành trong công tác quản lý nhằm điều chỉnh hành
24. 18
vi cá nhân, tổ chức trên tất cả các mặt của đời sống xã hội và được thực hiện
trong các cơ quan nhà nước với mục đích ổn định và phát triển xã hội và
nhằm phục vụ lợi ích nhân dân. Theo đó có 03 chức năng cơ bản của quản lý
nhà nước, đó là: chức năng lập pháp do cơ quan lập pháp thực hiện; chức
năng hành pháp (chấp hành và điều hành) do hệ thống hành chính nhà nước
đảm nhiệm; chức năng tư pháp do cơ quan tư pháp thực hiện.
Theo nghĩa hẹp: Quản lý nhà nước là quản lý, điều hành các lĩnh vực
của đời sống xã hội theo quy định của pháp luật của các cơ quan thực thi
quyền lực nhà nước (quyền hành pháp). Theo đó, quản lý hành chính nhà
nước là hoạt động quản lý được giới hạn trong các cơ quan hành pháp, đó là
Chính phủ và UBND các cấp; hệ thống các cơ quan quyền lực, xét xử và kiểm
sát thực hiện quyền lập pháp và tư pháp không thuộc hệ thống quản lý hành
chính nhà nước [55].
1.1.2.2. Khái niệm quản lý nhà nước về phát thanh, truyền hình
Quản lý nhà nước về PT-TH là cách thức quản lý hoạt động PT- TH
của các cơ quan chủ quản được nhà nước giao nhiệm vụ nhằm bảo đảm cho
hoạt động ở lĩnh vực này được ổn định và phù hợp với xu thế phát triển chung
của xã hội. Thông qua các quy định được ban hành, nhà nước đại diện cho
nhân dân, đảm bảo cho công dân được thực hiện các quyền cơ bản của mình,
trong đó có quyền về tự do ngôn luận, tự do báo chí [62]. Nhà nước có trách
nhiệm điều tiết để đảm bảo cho báo nói, báo hình phát triển, đáp ứng các nhu
cầu về thông tin của nhân dân, góp phần vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, Nhà nước đóng vai trò hết sức
quan trọng trong việc đấu tranh chống các thế lực thù địch lợi dụng chính
sách tự do ngôn luận, tự do báo chí để đưa ra các luận điệu sai trái, thực hiện
chiến lược “diễn biến hòa bình” gây mất an ninh chính trị và trật tự trong
nước [67].
Quản lý nhà nước trong lĩnh vực báo chí nói chung và PT-TH nói riêng
25. 19
cũng như bất kỳ một dạng quản lý xã hội khác, là dạng quản lý công vụ quốc
gia của bộ máy nhà nước, là công việc của bộ máy hành pháp. Thông qua
pháp luật, quản lý nhà nước về báo chí PT- TH là sự tác động có tổ chức và
được điều chỉnh trên cơ sở quyền lực nhà nước đối với các quá trình xã hội và
hoạt động báo chí. Quản lý nhà nước do các cơ quan có thẩm quyền trong hệ
thống hành pháp từ Trung ương đến địa phương thực hiện theo chức năng
nhiệm vụ nhằm phát triển các mối quan hệ xã hội, thỏa mãn nhu cầu tự do báo
chí của công dân [57].
Chủ thể của hoạt động quản lý nhà nước chủ yếu là các cơ quan nhà
nước hay các cá nhân quản lý chuyên ngành về hoạt động báo chí được nhà
nước trao quyền về quản lý nhà nước đối với lĩnh vực đó. Mục đích của hoạt
động quản lý là phát huy mọi nguồn lực tạo ra một cơ chế hợp lý cho hoạt
động PT-TH phát triển.
1.1.2.3. Vai trò của quản lý nhà nước về phát thanh, truyền hình
Là một hoạt động mang tính chính trị xã hội, ra đời do nhu cầu khách
quan của xã hội và phát triển đến một trình độ nhất định nên báo chí PT-TH
giữ một vai trò rất quan trọng trong quá trình hình thành và phát triển của đất
nước. Trong xã hội bùng nổ thông tin như hiện nay, báo chí có vai trò vô cùng
quan trọng, bên cạnh bộ ba quyền lực được công nhận chính thức (lập pháp,
hành pháp và tư pháp), xã hội còn thừa nhận (nhưng chưa chính thức) báo chí
là quyền lực thứ tư. Tuy nhiên, để báo chí hoạt động đúng tôn chỉ, mục đích
thì vai trò quản lý nhà nước về báo chí rất cần thiết. Bởi trong họat động lãnh
đạo và quản lý KT-XH, báo chí PT-TH là phương tiện và phương thức lợi hại.
Trên phương diện vĩ mô, hoạt động quản lý báo chí sẽ góp phần định hướng,
điều chỉnh sự phát triển của báo chí, giúp hiện thực hóa các chủ trương,
đường lối đến người dân. Trên phương diện vi mô, hoạt động quản lý báo chí
ở từng địa phương sẽ tránh sự tùy tiện, sai lệch trong khi thực thi các cơ chế,
chính sách của Nhà nước trên lĩnh vực báo chí.
26. 20
Do đó, quản lý nhà nước về PT-TH đòi hỏi tất yếu khách quan, là
nguyên tắc và phương thức bắt buộc để huy động tối đa năng lực tác động của
báo chí, truyền thông vào mục đích phát triển đất nước, hạn chế đến mức thấp
nhất những hiệu ứng ngoài mong đợi.
Quản lý nhà nước về PT-TH làm cho sức mạnh của kênh thông tin này
được phát huy cao nhất, để từ đó tập trung nguồn lực và mọi cố gắng vào
phục vụ mục đích phát triển đất nước dưới sự lãnh đạo của Đảng; tạo mọi
điều kiện cho PT-TH phát triển và phục vụ sự phát triển KT-XH của đất nước.
Đồng thời nhằm bảo đảm tự do kênh sóng này được thực hiện trong khuôn
khổ pháp luật, vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ,
văn minh”.
Quản lý nhà nước về báo chí nói chung và PT-TH nói riêng là nhằm
bảo đảm cho báo chí phát huy vai trò định hướng dư luận xã hội không chỉ
trong nước, trong khu vực mà còn trên phạm vi toàn thế giới.
1.2. Nội dung quản lý nhà nước đối với phát thanh, truyền hình
Quản lý nhà nước đối với PT-TH được thực hiện thông qua các nội
dung chủ yếu sau đây:
1.2.1. Công tác xây dựng kế hoạch, quy hoạch phát thanh, truyền
hình
Xây dựng kế hoạch, quy hoạch PT-TH là nội dung quản lý quan trọng
nhất nhằm xây dựng PT-TH có chất lượng, đáp ứng được yêu cầu phát triển
của ngành PT-TH nói riêng và sự phát triển đất nước nói chung. Điều 6, Luật
Báo chí năm 2016 quy định: “Có chiến lược quy hoạch, kế hoạch phát triển
báo chí trong đó có phát thanh, truyền hình”.
Ngày 16/2/2009 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định
số 22/2009/QĐ-TTg về việc phê duyệt Quy hoạch truyền dẫn, phát sóng phát
thanh, truyền hình đến năm 2020; Quyết định số 01/2015/QĐ-TTg sửa đổi, bổ
sung Quyết định số 22/2009/QĐ-TTg ngày 16/2/2009 về việc phê duyệt Quy
27. 21
hoạch truyền dẫn, phát sóng phát thanh, truyền hình đến năm 2020. Mục tiêu
của việc quy hoạch là “đổi mới hệ thống PT-TH theo hướng tập trung sản
xuất chương trình, bảo đảm các chương trình sản xuất trong nước đạt tối
thiểu 70% tổng thời lượng phát sóng. Bên cạnh đó, việc khai thác các nội
dung từ kênh chương trình truyền hình nước ngoài nhưng không vượt quá
30% tổng thời lượng phát sóng. Đến năm 2020, Nhà nước không hỗ trợ về tài
chính mà các Đài PT-TH địa phương phải tự chủ để duy trì hoạt động. Nhà
nước quy định cơ chế hỗ trợ, đặt hàng đối với các kênh sóng trong thực hiện
nhiệm vụ chính trị, tuyên truyền”.
Đối với truyền hình trả tiền, số lượng kênh truyền hình nước ngoài
được phép khai thác nguyên kênh trên hệ thống nhưng không vượt quá 30%
tổng số kênh khai thác.
Xây dựng kế hoạch, quy hoạch PT-TH tập trung vào những nội dung
chính sau:
Phát triển sự nghiệp PT-TH gắn liền với nâng cao phẩm chất chính trị,
trình độ chuyên môn và từng bước cải thiện đời sống của cán bộ làm công tác
phát thanh; phối hợp chặt chẽ với các ngành liên quan thực hiện quy hoạch
phát triển chung của hệ thống phát thanh, truyền thanh cơ sở.
Phát triển mạnh hệ thống phát thanh, truyền thanh cấp huyện, cấp xã
đến đông đảo các tầng lớp nhân dân, nâng cao chất lượng nội dung của
chương trình truyền thanh.
Phát triển truyền hình hướng tới mục tiêu phục vụ nhu cầu, lợi ích của
nhân dân; phát triển đi đôi với việc quản lý tốt để bảo đảm hệ thống truyền
hình là công cụ tuyên truyền của Đảng và Nhà nước, phục vụ đắc lực trong
công tác chỉ đạo, điều hành của các cấp chính quyền, góp phần bảo đảm an
ninh chính trị quốc gia trong mọi tình huống.
Phát triển nhanh, hiệu quả, bền vững; tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm
của các nước trong khu vực và trên thế giới, bảo đảm phù hợp với điều kiện
28. 22
tự nhiên, KT-XH từng địa phương, từng bước nâng cao chất lượng và hiệu
quả hoạt động truyền hình. Đồng thời sử dụng các phương thức, công nghệ
truyền dẫn phát sóng phù hợp, hỗ trợ cho nhau.
Phát triển sự nghiệp truyền hình trên cơ sở gắn kết các yếu tố nội dung,
kỹ thuật, kinh tế; từng bước đổi mới kỹ thuật và công nghệ truyền hình theo
hướng hội tụ các công nghệ.
Tăng cường xã hội hóa việc sản xuất các nội dung chương trình truyền
hình theo đúng định hướng của Đảng và các quy định của Nhà nước; đẩy mạnh
phát triển kênh truyền hình quảng bá song song với phát triển nhanh chóng các
loại hình dịch vụ truyền hình trả tiền. Phát triển đồng bộ cả 3 khâu: sản xuất
chương trình; truyền dẫn và phát sóng; phương tiện thu xem truyền hình.
1.2.2. Công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ biên tập viên, phóng viên,
kỹ thuật viên
Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ là khâu đặc biệt quan trọng trong các cơ
quan, tổ chức nói chung và trong lĩnh vực báo chí nói riêng. Chủ tịch Hồ Chí
Minh nhấn mạnh: “Cán bộ là cái gốc của công việc... Mọi việc thành công
hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém mà nên” [64]. Đào tạo, bồi dưỡng đội
ngũ BTV, PV, KTV là hoạt động bổ sung, hoàn thiện hệ thống kiến thức,
nâng cao trình độ chính trị, nghiệp vụ, đạo đức nghề nghiệp cho đội ngũ theo
chuẩn quy định và đáp ứng mục tiêu chiến lược phát triển của ngành trong
thời gian trước mắt và lâu dài. Chỉ thị 08-CT/TW ngày 31-3-1992 của Bộ
Chính trị (Khóa VII) chỉ rõ: ''Xây dựng quy hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ
báo chí, xuất bản đến năm 2000, bảo đảm đội ngũ những người làm báo chí
vững vàng về chính trị và tư tưởng, trong sạch về phẩm chất đạo đức và tinh
thông nghề nghiệp; chuẩn bị tốt đội ngũ cán bộ kế cận…”
Cơ chế và các quy định về công tác đào tạo, bồi dưỡng chính là những
yếu tố cơ bản góp phần nâng cao hiệu quả công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,
PV, BTV, KTV. Ngày 07/4/2016 của Bộ TT-TT và Bộ Nội vụ ban hành
29. 23
Thông tư số 11/2016/TTLT-BTTTT-BNV sửa đổi, bổ sung điều 6 Thông tư
số 15/2012/TT-BNV ngày 25/12/2012 của Bộ Nội vụ quy định mã số tiêu
chuẩn chức danh nghề nghiệp của các chức danh viên chức BTV, PV, KTV,
Biên dịch viên và Đạo diễn truyền hình thuộc chuyên ngành PT-TH, Quyết
định 1371/QĐ-BTTTT ngày 17/8/2017 của Bộ trưởng Bộ TT-TT về việc điều
chỉnh, bổ sung chương trình bồi dưỡng chức danh viên chức BTV, PV.
Việc tổ chức đào tạo, bồi dưỡng cần phải được thực hiện theo một quy
trình liên tục gồm các bước: xác định nhu cầu, biên soạn chương trình (tài
liệu), xây dựng kế hoạch mở lớp, tổ chức bồi dưỡng, tổ chức đánh giá kết quả,
chỉnh sửa, hoàn thiện để có thể áp dụng cho các khóa sau. Trong đó, có cơ
chế đưa hoạt động đánh giá đào tạo, bồi dưỡng thành hoạt động bắt buộc và
thường xuyên. Hoạt động đánh giá phải thực hiện đồng bộ, đầy đủ từ các
khâu: đánh giá trước, trong sau bồi dưỡng.
Để đáp ứng yêu cầu phát triển của thông tin đa phương tiện, việc đào
tạo, bồi dưỡng đội ngũ BTV, PV, KTV cần đặc biệt quan tâm đến một số vấn
đề về phương pháp đào tạo như sau:
Thứ nhất, quá trình đào tạo phải gắn giữa lý thuyết và thực hành, giữa
kỹ năng làm báo với khả năng sử dụng phương tiện kỹ thuật; trong đó vai trò
của đội ngũ BTV, PV, KTV trong tác nghiệp thực tế, kinh nghiệm thực tế làm
nghề được đề cao hàng đầu.
Đặc biệt, quá trình đào tạo PV, BTV đa năng cần chú trọng hơn đến bài
tập thực hành, đi thực tế tác nghiệp tại hiện trường, bởi qua đó học viên sẽ
bộc lộ những thế mạnh cũng như hạn chế để điều chỉnh cho phù hợp.
Thứ hai, việc đào tạo phải theo hướng mở, tương tác giảng viên và học
viên, trong đó chú ý phát huy cao độ khả năng và nhu cầu của học viên.
Phương thức học lý thuyết trên lớp, giảng viên giao bài tập thực hành, sau đó,
tập thể lớp cùng tham gia nhận xét, chữa bài với giảng viên, tìm ra phương án
tối ưu để thấy có hiệu quả rõ rệt.
30. 24
Chương trình, nội dung đào tạo cần được xây dựng theo hướng trang bị
các tri thức và kỹ năng cơ bản, tạo khả năng thích ứng nghề nghiệp tốt nhất,
đồng thời tạo cơ hội phát huy khả năng và thiên hướng cá nhân để đi vào một
số kỹ năng cần thiết do từng cá nhân lựa chọn.
Trong xu thế hội nhập, việc tăng cường hợp tác quốc tế nói chung và
hoạt động đào tạo, bồi dưỡng nói riêng là một tất yếu. Hợp tác quốc tế trong
lĩnh vực đào tạo, bồi dưỡng trong thời gian tới cần được nghiên cứu theo các
hướng cơ bản sau:
- Xây dựng các dự án hỗ trợ hoạt động đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao
năng lực cho đội ngũ đội ngũ BTV, PV, KTV; thu hút sự hỗ trợ của các nước,
các tổ chức quốc tế và các tổ chức phi chính phủ vào việc tài trợ cho các dự
án này.
- Lồng ghép hoạt động đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ BTV, PV, KTV vào
các dự án tăng cường năng lực cho cơ quan, đơn vị; coi hoạt động đào tạo, bồi
dưỡng là một bộ phận cấu thành quan trọng trong các dự án hỗ trợ nâng cao
năng lực.
- Chú trọng các hình thức hợp tác trong đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, PV,
BTV, KTV thông qua nhiều hình khác: Du học, du học tại chỗ. Ngoài ra còin
tổ chức các khóa bồi dưỡng kết hợp trong nước với nước ngoài để đáp ứng
nhu cầu trong thời đại kỷ nguyên số và truyền thông đa phương tiện.
Bên cạnh đó, cần đổi mới cơ chế tài chính, tăng cường, đa dạng hóa
nguồn kinh phí đào tạo, bồi dưỡng, chủ động tạo nguồn kinh phí hỗ trợ cho
công tác đào tạo, bồi dưỡng thay vì chỉ sử dụng duy nhất nguồn kinh phí ngân
sách nhà nước phân bổ hàng năm. Huy động sự đóng góp của chính bản thân
đội ngũ BTV, PV, KTV khi tham gia các khóa đào tạo.
1.2.3. Công tác thực hiện chế độ, chính sách phát triển phát thanh,
truyền hình
Quản lý công tác thực hiện chế độ, chính sách phát triển PT-TH tập
31. 25
trung vào những nội dung sau:
Đổi mới, bổ sung cơ chế, chính sách liên quan đến sự phát triển của
báo chí nói chung, PT-TH nói riêng phù hợp với quy định của pháp luật và sự
phát triển của PT-TH trong nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN; có
chế độ, chính sách hợp lý đối với người làm PT-TH, đặc biệt là cán bộ các
Đài truyền thanh xã.
Đổi mới cơ chế quản lý tài chính theo hướng đẩy mạnh thực hiện chế
độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm về tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính cho
Đài PT-TH tỉnh, Đài TT-TH huyện nhằm khuyến khích các đơn vị khai thác
và quản lý sử dụng có hiệu quả các nguồn lực để đầu tư phát triển sự nghiệp
PT-TH, từng bước thực hiện chủ trương xã hội hóa trong việc cung cấp dịch
vụ cho xã hội.
Xây dựng cơ chế, chính sách về tiền lương, phụ cấp và các chế độ khác
cho cán bộ của các Đài truyền thanh xã.
Nghiên cứu cơ chế, chính sách ưu tiên cho nhà báo, PV trong các nội
dung sau: Tuyển dụng, nâng lương, khen thưởng, xây dựng cơ chế bảo đảm
an toàn cho PV khi tham gia hoạt động báo chí PT-TH.
Huy động nguồn vốn thực hiện quy hoạch. Đối với dự án đầu tư xây
dựng cơ sở hạ tầng báo chí, nhất là lĩnh vực PT-TH phục vụ nhiệm vụ công
ích: Ưu tiên sử dụng vốn ngân sách Nhà nước, tận dụng từ nguồn vốn viện trợ
và cho vay ưu đãi từ nước ngoài cho Việt Nam để đầu tư xây dựng. Sử dụng
nguồn vốn từ doanh nghiệp, xã hội để đầu tư các dự án xây dựng cơ sở hạ
tầng phục vụ theo mục tiêu. Đối với dự án số hóa phương thức truyền dẫn
phát sóng PT-TH, cần tranh thủ nguồn vốn từ quỹ viễn thông công ích, hỗ trợ
thiết bị đầu cuối cho các hộ gia đình thuộc diện hộ nghèo, hộ gia đình chính
sách trong tỉnh.
Sở TT-TT phối hợp chặt chẽ với các sở, ban, ngành liên quan trong tỉnh
nghiên cứu, đề xuất các biện pháp thu hút các nguồn vốn trong và ngoài nước
32. 26
để thực hiện nội dung quy hoạch. Cụ thể như sau:
- Ngân sách từ Trung ương qua chương trình mục tiêu quốc gia đưa
thông tin về cơ sở, đầu tư cho hạng mục hạ tầng Truyền thanh xã.
- Ngân sách từ Trung ương qua quỹ viễn thông công ích thực hiện Đề
án số hoá của quốc gia trước năm 2020 theo quyết định số 22/QĐ-TTg của
Thủ tướng Chính phủ phê duyệt quy hoạch truyền dẫn phát sóng PT-TH Việt
Nam đến năm 2020 và các văn bản liên quan.
- Huy động từ nguồn các doanh nghiệp trong đó chủ yếu là các doanh
nghiệp xây dựng hạ tầng cung cấp dịch vụ truyền hình trả tiền, doanh nghiệp
xây dựng hạ tầng truyền dẫn phát sóng số. Để thu hút được doanh nghiệp,
phải tạo môi trường đầu tư minh bạch, mạnh mẽ, có cơ sở pháp lý về quản lý
nhà nước trong lĩnh vực báo chí nói chung và truyền hình trả tiền nói riêng.
1.2.4. Công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý các vi phạm pháp luật trong
lĩnh vực phát thanh, truyền hình
Để nâng cao năng lực thực thi pháp luật đối với báo chí, việc quản lý
công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý các vi phạm pháp luật trong lĩnh vực PT-
TH là một nội dung quan trọng trong quản lý nhà nước ở lĩnh vực này. Công
tác thanh tra, kiểm tra, xử lý các vi phạm pháp luật tập trung vào các nội dung
như:
- Tăng cường thanh tra, kiểm tra, xử lý nghiêm các sai phạm của cơ
quan, tác phẩm báo chí; kiên quyết xử lý người có trách nhiệm và xử phạt,
đình bản, rút giấy phép hoạt động đối với các cơ quan báo chí, tác phẩm báo
chí có sai phạm nghiêm trọng nhiều lần; chú trọng công tác phối hợp, tăng
cường công tác giám sát việc tuân thủ pháp luật trong hoạt động báo chí, quy
định đạo đức nghề nghiệp nhà báo theo đúng vai trò của Hội Nhà báo Việt
Nam ở địa phương [34].
Kiện toàn, tăng cường và nâng cao hiệu lực quản lý của cơ quan quản
lý nhà nước về báo chí PT-TH. Khắc phục tình trạng chồng chéo, phân công,
33. 27
phân cấp không rõ ràng giữa các cơ quan quản lý và các cấp; bảo đảm sự tập
trung, hiệu quả của công tác chỉ đạo, quản lý báo chí PT-TH của từng địa
phương. Đối với cơ quan quản lý nhà nước về báo chí, PT-TH ở tỉnh và các
huyện, thị xã, thành phố cần tăng thêm biên chế, đầu tư cơ sở vật chất, kỹ
thuật hiện đại, xây dựng bộ phận theo dõi để hoàn thành tốt công tác quản lý
nhà nước về báo chí PT-TH trên địa bàn.
Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, ngăn chặn, xử lý vi phạm. Xây
dựng kế hoạch thanh tra, kiểm tra những đơn vị để xảy ra sai phạm kéo dài
nhưng không có biện pháp chấn chỉnh; thanh, kiểm tra đột xuất những đơn vị
có dấu hiệu vi phạm. Tăng cường áp dụng hình thức xử phạt vi phạm hành
chính bằng tiền ở mức cao nhất của khung hình phạt và hình thức xử phạt bổ
sung như đình bản, thu hồi giấy phép hoạt động theo đúng thẩm quyền.
Hoàn thiện phương thức và cơ chế phối hợp để xử lý có hiệu quả thông
tin phản hồi, khiếu nại, tố cáo của cá nhân, tổ chức đối với thông tin trên hệ
thống PT-TH.
Xây dựng cơ chế khen thưởng đối với cá nhân, tổ chức cung cấp thông
tin giúp cơ quan quản lý nhà nước ngăn chặn, hạn chế và xử lý kịp thời những
sai phạm đã hoặc sẽ diễn ra.
1.3. Hình thức quản lý Nhà nước đối với phát thanh, truyền hình
Cơ quan quản lý nhà nước về báo chí trong đó có PT-TH được quy
định như sau:
- Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về báo chí.
- Chính phủ quy định Bộ TT-TT chịu trách nhiệm về thực hiện quản lý
nhà nước về báo chí.
- Trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, các bộ, cơ quan ngang
bộ có trách nhiệm phối hợp với Bộ TT-TT thực hiện quản lý nhà nước về báo
chí.
- UBND cấp tỉnh trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách
34. 28
nhiệm quản lý nhà nước về báo chí tại địa phương [62].
Theo đó, ở Trung ương, cơ quan có chức năng quản lý nhà nước đối
với PT-TH là Chính phủ và Bộ TT-TT. Việc quản lý nhà nước bằng các văn
bản pháp luật liên quan được Chính phủ thống nhất quy định. Theo đó, Thủ
tướng Chính phủ với cương vị là người đứng đầu Chính phủ, sẽ thực hiện một
số nhiệm vụ quản lý của mình trên thông qua Bộ TT-TT để kịp thời giải quyết
các vấn đề cấp bách quan trọng vượt quá thẩm quyền của Bộ TT-TT.
Là cơ quan của Chính phủ, Bộ TT- TH được giao thực hiện chức năng
quản lý nhà nước về báo chí, xuất bản; bưu chính và chuyển phát; viễn thông
và internet; truyền dẫn phát sóng; tần số vô tuyến điện; công nghệ thông tin,
điện tử; PT-TH và cơ sở hạ tầng thông tin truyền thông quốc gia; quản lý nhà
nước các dịch vụ công trong ngành, lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý nhà nước
của Bộ.
Ở địa phương, trách nhiệm quản lý nhà nước đối với báo chí (trong đó
có hệ thống Đài PT-TH Tỉnh, Đài TT-TH huyện, Đài Truyền thanh xã) là Sở
TT-TT. Sở TT-TT là cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương (gọi chung là UBND cấp tỉnh) có chức năng tham mưu,
giúp UBND cấp tỉnh thực hiện quản lý nhà nước về: báo chí, xuất bản, bưu
chính và chuyển phát; viễn thông và internet; truyền dẫn phát sóng; tần số vô
tuyến điện; công nghệ thông tin, điện tử, PT-TH; cơ sở hạ tầng thông tin
truyền thông; quảng cáo trên báo chí, mạng thông tin máy tính và xuất bản
phẩm; các dịch vụ công thuộc phạm vi quản lý của Sở TT-TT; thực hiện một
số nhiệm vụ, quyền hạn theo sự phân cấp, ủy quyền của UBND cấp tỉnh và
theo quy định của pháp luật [4].
Sở TT-TT cấp tỉnh được hình thành trên cơ sở Thông tư liên tịch số
06/2016/TTLT-BTTTT-BNV hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và
cơ cấu tổ chức của Sở TT-TT thuộc UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung
ương; Phòng VHTT thuộc UBND huyện, quận, thị xã, thành phố trực thuộc
35. 29
tỉnh. Sở TT-TT có nhiệm vụ và quyền hạn được quy định tại Điều 2 Thông tư
liên tịch số 06/2016/TTLT-BTTTT-BNV.
Nhằm tạo cơ sở để các ngành, địa phương nâng cao hiệu lực, hiệu quả
hoạt động của công tác quản lý nhà nước về PT-TH, Chính phủ, Bộ TT-TT đã
ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật như: Hiến pháp 2013 quy định về
tự do báo chí, ngôn luận, không ai được xâm phạm đến quyền này của nhân
dân và nghiêm cấm việc lợi dụng quyền tự do báo chí để xâm phạm lợi ích
của Nhà nước, tập thể và công dân. Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật
trong lĩnh vực báo chí, bao gồm cả PT-TH được quy định trong Luật Báo chí,
các văn bản do Đảng, Nhà nước ban hành. Báo chí năm 2016 (có hiệu lực từ
ngày 1-1-2017), việc khẳng định quyền tự do báo chí, quyền tự do ngôn luận
trên báo chí, đó là: quy định về quyền tự do báo chí, quyền tự do ngôn luận
trên báo chí của công dân; đồng thời quy định việc tổ chức và hoạt động báo
chí; nêu rõ quyền và nghĩa vụ của cơ quan, tổ chức, cá nhân tham gia và có
liên quan đến hoạt động báo chí; quản lý nhà nước về báo chí [62]. Và quyền
tự do báo chí, quyền tự do ngôn luận trên báo chí của công dân được quy định
cụ thể ở Điều 10, 11,12,13 Chương II Luật Báo chí năm 2016. Nếu Điều 10,
11 quy định công dân có quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận trên báo chí thì
Điều 12, 13 lại đề cập trách nhiệm của cơ quan báo chí và của Nhà nước với
quyền tự do báo chí, quyền tự do ngôn luận trên báo chí của công dân. Từ đó
cho thấy Luật Báo chí năm 2016 đã tạo khung pháp lý rộng nhưng nghiêm
khắc, bảo hộ cho công dân thực hiện quyền tự do báo chí và quyền tự do ngôn
luận trên báo chí; để các cơ quan báo chí và nhà báo có thể tự do tác nghiệp
trong khuôn khổ luật định.
1.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến quản lý nhà nước về phát thanh,
truyền hình
1.4.1. Bối cảnh chung trên thế giới, khu vực
Trong những năm qua, lĩnh vực báo chí nói chung và PT-TH nói riêng
36. 30
trên thế giới có nhiều thay đổi về loại hình, cách thức tổ chức, hình thức thể
hiện, công nghệ phát triển như vũ bão và cách thức thụ hưởng thông tin của
khán thính giả cũng thay đổi đáng kể. Cùng với các loại hình thông tin báo
chí truyền thống, ngày nay khán thính giả có thể tiếp cận thông tin qua nhiều
phương diện như: thông qua các diễn đàn, mạng xã hội. Bên cạnh đó mô hình
tổ chức của các cơ quan báo chí thay đổi theo xu hướng hội tụ thông tin, một
cơ quan báo chí thực hiện nhiều loại hình báo chí; các cơ quan báo chí cũng
rất chú trọng đến hình thức thể hiện các ấn phẩm, loại hình thông tin đảm bảo
tính phong phú, hấp dẫn hơn. Thông qua các hình thức này, về cơ bản người
dân thụ hưởng thông tin mọi lúc, mọi nơi, trên nhiều loại thiết bị.
Đặc biệt là cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 ra đời đã làm thay đổi cán
cân của sự phát triển đời sống kinh tế - xã hội của loài người trong đó có báo
chí PT-TH. Những vấn đề đặt ra đối với công tác quản lý nhà nước về báo chí
PT- TH trong bối cảnh phát triển xã hội thông tin và cách mạng công nghiệp
lần thứ tư cho thấy: sự phát triển của xã hội thông tin và cách mạng công
nghiệp 4.0 đã tác động một cách toàn diện, sâu sắc đến nền báo chí Việt Nam,
dẫn đến những thách thức mới, yêu cầu mới với công tác quản lý nhà nước về
báo chí trong đó có PT-TH. PT-TH phát triển nhanh, nhiều quốc gia đề xuất
và thực hiện lộ trình chuyển đổi từ công nghệ phát sóng tương tự sang công
nghệ số, phương thức phát sóng vệ tinh, phát sóng qua mạng viễn thông phát
triển mạnh; chất lượng chương trình tăng nhanh, nhiều chương trình phát
chuẩn chất lượng cao (HD), một số phát thử nghiệm và có kế hoạch phát thử
nghiệm công nghệ 3D.
1.4.2. Bối cảnh trong nước
Tính đến nay, Việt Nam có 67 Đài PT-TH bao gồm: 02 Đài trực thuộc
Trung ương (Đài Tiếng nói Việt Nam, Đài Truyền hình Việt Nam); 01 Đài
thuộc Bộ TT-TT (Đài Truyền hình Kỹ thuật số VTC); 64 Đài PT-TH địa
phương (62 Đài PT-TH các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; riêng
37. 31
Thành phố Hồ Chí Minh có 02 đài: Đài Truyền hình Thành phố Hồ Chí Minh
và Đài Tiếng nói nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh). Với 268 kênh được cấp
phép, các Đài PT-TH không ngừng nâng cao chất lượng, sản xuất chương
trình bằng công nghệ chuẩn HD [8]. Nhiều chương trình PT-TH được truyền
tải trên mạng Internet đã phục vụ tốt công tác thông tin đối nội, đối ngoại.
Bên cạnh hệ thống truyền hình quảng bá, nhiều loại công nghệ truyền
dẫn như: cáp, vệ tinh, số mặt đất và đang bước đầu áp dụng công nghệ IPTV
được các hệ thống truyền hình trả tiền chú trọng. Cả nước có 9 kênh phát
thanh qua truyền hình cáp, Internet, vệ tinh. Số kênh truyền hình trong nước
có 106 kênh; số kênh truyền hình trên cáp truyền hình trả tiền, Internet, vệ
tinh là 91 kênh, trong đó có 58 kênh nước ngoài [9]. Các Đài PT-TT địa
phương chủ yếu sử dụng công nghệ analog và đang từng bước thử nghiệm
công nghệ số truyền dẫn nhiều chương trình với nhiều loại hình dịch vụ, bao
gồm cả dịch vụ truyền hình độ phân giải cao (HDTV).
Về đội ngũ cán bộ báo chí, cả nước hiện có gần 17.000 người làm báo
chuyên nghiệp được cấp thẻ nhà báo, có hơn 19.000 hội viên Hội Nhà báo
sinh hoạt trong các hội, liên chi hội và chi hội nhà báo [67].
38. 32
Tiểu kết Chương 1
Qua phân tích cho thấy, trong bối cảnh quốc tế và trong nước có những
diễn biến phức tạp nhưng trên bình diện chung, các Đài PT-TH trong nước đã
làm tốt vai trò, trách nhiệm là cơ quan ngôn luận của Đảng và Nhà nước, là
diễn đàn tin cậy của nhân dân ở địa phương. Các chương trình luôn bám sát
định hướng của Đảng, đồng thời thể hiện được tính địa phương cao, đã phản
ánh khá đậm nét trên các lĩnh vực kinh tế, văn hóa xã hội của từng vùng,
miền; thực hiện tốt chức năng giáo dục và giải trí, góp phần nâng cao trình độ
hiểu biết cho người dân. Tuy nhiên, trong thời đại công nghệ số thì kênh sóng
PT-TH đang có xu hướng tụt hậu, vẫn còn một số chương trình giải trí trên
truyền hình, nhất là chương trình liên kết không được kiểm tra thẩm định gây
dư luận không tốt cho xã hội. Tạo điều kiện cho PT-TH phát triển phải trên cơ
sở tăng cường quản lý nhà nước về pháp luật đối với lĩnh vực này là vấn đề
đặt ra hiện nay. Và để hoàn thành nhiệm vụ nghiên cứu đặt ra, trong chương 1
đã làm rõ cơ sở lý luận và phương pháp luận cho việc phân tích, đánh giá thực
trạng và đề ra những chính sách, giải pháp hiệu quả đối với việc giải quyết
những khó khăn, vướng mắc trong việc quản lý nhà nước về PT-TH ở nước ta
hiện nay.
39. 33
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ PHÁT THANH,
TRUYỀN HÌNH TẠI TỈNH QUẢNG NAM
2.1. Khái quát về phát thanh, truyền hình tại tỉnh Quảng Nam.
2.1.1 . Khái quát về tỉnh Quảng Nam
Danh xưng Quảng Nam đã ra đời và tồn tại đến nay hơn 540 năm. Qua
nhiều giai đoạn lịch sử, địa giới hành chính và danh xưng Quảng Nam có
nhiều thay đổi và có thể phân biệt ở hai giai đoạn lịch sử. Giai đoạn đầu, từ
thời Lê Thánh Tông thành lập Thừa tuyên Quảng Nam (1472). Sau đó đổi
thành Xứ Quảng Nam (1490), Trấn Quảng Nam (1509). Đến đời Nguyễn
Hoàng lại đổi sang Doanh Quảng Nam. Giai đoạn thứ hai, bắt đầu với danh
xưng Dinh Quảng Nam dưới thời vua Gia Long, rồi đổi thành tỉnh Quảng
Nam (1832) dưới thời vua Minh Mạng. Trước năm 1975, Quảng Nam được
chính quyền cách mạng chia thành 2 đơn vị hành chính là tỉnh Quảng Nam và
Đặc khu Quảng Đà. Sau ngày quê hương hoàn toàn giải phóng, vào tháng
10/1975, hai đơn vị hành chính được sáp nhập trở lại thành tỉnh Quảng Nam-
Đà Nẵng. Từ năm 1997, do yêu cầu phát triển của khu vực nói chung, quê
hương Quảng Nam-Đà Nẵng nói riêng, nên Trung ương đã quyết định chia
tách tỉnh Quảng Nam-Đà Nẵng để thành lập 2 đơn vị hành chính trực thuộc
Trung ương là tỉnh Quảng Nam và thành phố Đà Nẵng [76] .
- Đặc điểm tự nhiên:
Quảng Nam thuộc khu vực Duyên hải miền Trung, là vùng kinh tế
trọng điểm miền Trung. Phía Bắc của tỉnh Quảng Nam giáp thành phố Đà
Nẵng và tỉnh Thừa Thiên Huế, tỉnh Quảng Ngãi và tỉnh Kon Tum là 2 địa
phương giám phía Nam của tỉnh, phía Tây giáp tỉnh Sê Kông của nước Cộng
hòa Dân chủ Nhân dân Lào và phía Đông giáp biển Đông.
40. 34
Quảng Nam có địa hình nghiêng dần từ Tây sang Đông, hình thành ba
vùng sinh thái: vùng núi cao phía Tây, vùng trung du ở giữa và dải đồng bằng
ven biển phía Đông. Trong đó, diện tích vùng đồi núi chiếm 72% diện tích tự
nhiên.
- Đặc điểm kinh tế
Kinh tế Quảng Nam có sự tăng trưởng vượt bậc về KT-XH. Tốc độ
tăng trưởng luôn đạt ở mức cao, bình quân đạt 11,3%/năm. Năm 2017, tổng
sản phẩm trên địa bàn toàn tỉnh (GRDP) đạt 32,3%. Cơ cấu kinh tế chuyển
dịch theo hướng tăng tỷ trọng ngành công nghiệp và dịch vụ, giảm tỷ trọng
khu vực Nông, Lâm nghiệp và Thủy sản. Nếu như năm 2000 cơ cấu kinh tế
của tỉnh: Nông, Lâm nghiệp và Thủy sản chiếm 41,53%, Công nghiệp và Xây
dựng chiếm 25,31%, Dịch vụ chiếm 33,16% thì đến năm 2017 cơ cấu Nông,
Lâm nghiệp và Thủy sản chiếm 11,6%, Công nghiệp và Xây dựng chiếm
35,8%, Dịch vụ chiếm 33,7%. GRDP bình quân đầu người năm 2017 khoảng
55,8 triệu đồng, tương đương 2.455 USD.
Đánh giá tốc độ tăng trưởng GRDP của Quảng Nam tăng 5,09% so với
giá trị thực hiện năm 2016 và đạt mức cao so với các tỉnh vùng Bắc Trung Bộ
và Duyên hải miền Trung và vùng kinh tế trọng điểm Trung bộ.
- Đặc điểm văn hóa – xã hội
Tỉnh Quảng Nam có diện tích tự nhiên là 10.438,37 km2; có 18 đơn vị
hành chính cấp huyện, gồm 2 thành phố (Tam Kỳ, Hội An), 01 thị xã (Điện
Bàn) và 15 huyện (gồm 6 huyện đồng bằng: Đại Lộc, Duy Xuyên, Quế Sơn,
Thăng Bình, Phú Ninh, Núi Thành; 9 huyện miền núi - trung du: Tây Giang,
Đông Giang, Nam Giang, Phước Sơn, Nam Trà My, Bắc Trà My, Nông Sơn,
Hiệp Đức và Tiên Phước), với 244 xã, phường, thị trấn
Dân số (năm 2017) 1.487.786 người, dân số thành thị 359.413 người
(chiếm 24,16%) và nông thôn 1.128.373 người (chiếm 75,84%); mật độ dân
số gần 143 người/km2. Quảng Nam có tỷ lệ dân số sinh sống ở nông thôn cao
41. 35
hơn tỷ lệ trung bình của cả nước với gần 76%. (Phụ lục 1)
Trên địa bàn tỉnh Quảng Nam có 32 dân tộc, đông nhất là dân tộc Kinh
93,2% và các dân tộc thiểu số như dân tộc Cơ Tu, Xơ Ðăng, M’nông, Giẻ
Triêng, Cor; Hoa; Tày; Mường; Nùng. Nền văn hoá Quảng Nam rất đa dạng
và mang nhiều sắc thái. Đây là vùng đất hội tụ và kết tinh của nhiều nền văn
hóa khác nhau, mảnh đất có nhiều di tích văn hóa, lịch sử, nơi đã sản sinh ra
nhiều thế hệ danh nhân; mảnh đất “Trung dũng kiên cường” giàu lòng yêu
nước và truyền thống cách mạng. Nói đến văn hóa Quảng Nam là nói đến
những di sản văn hoá vật thể tiêu biểu và độc đáo với 55 di tích cấp quốc gia
và 282 di tích cấp tỉnh. Nổi bật nhất là 2 di sản văn hoá thế giới là khu Phố cổ
Hội An và khu Đền tháp Mỹ Sơn; ngoài ra, có thể kể đến hệ thống tháp
Chăm, Kinh đô cổ Trà Kiệu,... Bên cạnh đó, Quảng Nam có nhiều di sản văn
hoá phi vật thể đặc sắc. Theo thống kê sơ bộ, toàn tỉnh hiện có trên 300 di sản
văn hóa phi vật thể, trong đó có 120 lễ hội dân gian tiêu biểu và nhiều di sản
phi vật thể khác có giá trị, như: về âm nhạc có Tuồng, hát bài chòi, hò bả trạo;
nghệ thuật ẩm thực; những tri thức dân gian; làng nghề truyền thống... [63]
Ở miền núi Quảng Nam, nét đặc trưng trong văn hóa tộc người Cơ tu
như Gươl, cồng chiêng, nói lý, hát lý… đến các nghi lễ, tập quán, nghệ thuật
diễn xướng của đồng bào Cor, Cadong, Xêđăng... những giá trị văn hoá đặc
sắc (phong tục, tập quán, lễ hội...) tạo ra một bức tranh sinh động, đa sắc về
văn hóa phi vật thể đang hiện hữu trong đời sống của nhân dân các vùng,
miền làm cho văn hóa Quảng Nam thêm phong phú và đa dạng.
2.1.2. Khái quát về phát thanh, truyền hình tại tỉnh Quảng Nam
2.1.2.1. Phát thanh
* Phát thanh tỉnh
- Ngày 01/01/1997 phát chương trình phát thanh đầu tiên trên sóng AM
tần số 702 KHz; Sóng FM: tần số 97,6 MHz của Đài Tiếng nói Việt Nam tại
thành phố Đà Nẵng với thời lượng phát sóng 2 buổi/ngày (sáng, chiều) vào tất
42. 36
cả các ngày trong tuần. Thời lượng chương trình phát thanh của Tỉnh là tự sản
xuất 2 giờ/ngày, thời gian tiếp sóng các chương trình của Trung ương trên 3
giờ/ngày. Sau hơn 20 năm thành lập, đến nay Đài QRT đã tự sản xuất và phát
sóng 2,5giờ/ngày và tiếp sóng chương trình Đài Tiếng nói Việt Nam 24/24h.
Năm 2017, Đài phát sóng trên kênh phát thanh 1.450 chương trình hệ
Thời sự - Chính trị - Tổng hợp, 522 chương trình hệ Văn hoá - Đời sống -
Khoa giáo, 976 chương trình hệ Âm nhạc - Thông tin - Giải trí, 52 chương
trình hệ phát thanh tiếng dân tộc. (Phụ lục 2)
* Truyền thanh huyện, thị xã, thành phố
Toàn tỉnh Quảng Nam có 18/18 huyện, thị xã, thành phố và đều có Đài
Truyền thanh huyện, thị xã, thành phố (gọi chung là Đài truyền thanh cấp
huyện). Hầu hết các Đài phát sóng FM, công suất từ 100W đến 500W. Đài
Truyền thanh huyện tiếp sóng chương trình phát thanh của Đài PT-TH tỉnh và
phát sóng chương trình của huyện. Bình quân thời lượng phát sóng các
chương trình tự sản xuất của Đài truyền thanh huyện là đạt 1,3 giờ/ngày, thời
lượng tiếp sóng chương trình Đài phát thanh Tỉnh bình quân 3,5 giờ/ngày.
Bình quân mỗi Đài TT-TH huyện sản xuất và phát sóng 461 CT/năm bao gồm
chương trình tổng hợp (Thời sự- chuyên đề-giải trí).
Cơ cấu tổ chức Đài TT-TH huyện chia thành 3 bộ phận chính: quản lý,
nội dung và kỹ thuật. Tổng số lao động 188 người trong đó: 75% trình độ đại
học; 8% cao đẳng; 17% trung cấp. (Phụ lục 3)
* Truyền thanh xã, phường, thị trấn
Thống kê năm 2018, toàn tỉnh có 233/244 xã, phường, thị trấn có Đài
truyền thanh (gọi chung là Truyền thanh xã) hoạt động, trong đó bao gồm 214
Đài truyền thanh vô tuyến (trong đó có 17 Đài vừa vô tuyến và hữu tuyến), 19
Đài truyền thanh hữu tuyến. Trong các Đài truyền thanh vô tuyến, hữu tuyến
có 181 Đài hoạt động tốt, 20 Đài hoạt động bình thường, 15 Đài hoạt động
kém, 17 Đài đã hỏng. (Phụ lục 4)
43. 37
Truyền thanh xã thực hiện 2 chức năng: Tiếp âm và là công cụ phục vụ
sự chỉ đạo của chính quyền xã. Đài truyền thanh xã ngoài việc tiếp sóng các
chương trình Đài Tiếng nói Việt Nam, Đài PT-TH tỉnh, Đài TT-TH huyện,
khoảng 35% Đài truyền thanh xã có các chương trình của địa phương, sản
xuất từ 01 - 02 CT/tuần, thời lượng mỗi chương trình khoảng 15 phút. Ngoài
ra còn phát các văn bản chỉ đạo, điều hành của cấp ủy, chính quyền địa
phương, các thông báo hỗ trợ hoạt động y tế, giáo dục, nông nghiệp, nông
thôn tại địa phương. Số hộ dân được tiếp cận các thông tin qua sóng truyền
thanh xã chiếm tỷ lệ cao. (Phụ lục 5, Phụ lục 6)
Toàn tỉnh có 229 người làm công tác quản lý, vận hành các Đài truyền
thanh xã, trong đó kiêm nhiệm 95 người và chuyên trách 134 người. Hiện
nay hầu hết các Đài truyền thanh xã đều bố trí 1 cán bộ phụ trách cả nội dung
và kỹ thuật. Tuy nhiên, có 23 Đài truyền thanh xã được UBND xã, phường
tạo điều kiện bố trí 02 cán bộ phụ trách: 1 cán bộ phụ trách kỹ thuật, 1 cán bộ phụ
trách nội dung.
2.1.2.2. Truyền hình
* Đài Phát thanh-Truyền hình Tỉnh Quảng Nam
Đài PT-TH tỉnh (QRT) là cơ quan sự nghiệp, trực thuộc UBND tỉnh
Quảng Nam. Ngày 19/5/1997, Đài PT-TH tỉnh phát sóng chương trình truyền
hình đầu tiên tại thị xã Tam Kỳ. Năm 1999, Đài Phát sóng An Hà đi vào hoạt
động với máy phát hình 10KW phát sóng chương trình truyền hình, máy phát
hình 10KW tiếp phát chương trình VTV1, máy phát hình 1KW phát chương
trình VTV3, máy phát 100W phát chương trình VTV2, máy phát thanh FM
5KW phát chương trình phát thanh của Đài PT-TH tỉnh và tiếp sóng chương
trình phát thanh của Đài Tiếng nói Việt Nam, cùng các thiết bị phụ trợ và cột
ăng ten 125m lắp đặt trên đồi cao 40m.
Đây là kênh truyền hình thời sự, chính trị, tổng hợp với thời lượng phát
sóng 18giờ/ngày, năng lực sản xuất chương trình đạt 10,8 giờ/ngày(Phụ lục 7)
44. 38
Đài PT-TH tỉnh Quảng Nam bám sát định hướng tuyên truyền, thực
hiện đúng tôn chỉ, mục đích, không để xảy ra sai sót về lập trường quan điểm,
tư tưởng chính trị. Đài PT-TH tỉnh tập trung tuyên truyền công tác lãnh, chỉ
đạo, thực hiện nhiệm vụ chính trị của tỉnh; thông tin về hoạt động của các sở,
ban, ngành, địa phương, đơn vị; giới thiệu gương người tốt - việc tốt, phản
ánh những vấn đề cuộc sống đặt ra và dư luận xã hội quan tâm. Ngoài ra, Đài
PT-TH tỉnh còn là kênh phổ biến, giáo dục kiến thức khoa học kỹ thuật, văn
hóa xã hội; cung cấp các chương trình giải trí, giáo dục, nâng cao đời sống
tinh thần của người dân; sản xuất và phát sóng các chương trình truyền hình
dành cho người dân tộc (tiếng Cơ Tu).
Năm 2017, Đài phát sóng 12.327 chương trình trong đó 3.825 chương
trình Tin tức – Thời sự, 2.617 chương trình Khoa học – Giáo dục, 3.495
chương trình Thể thao – Giải trí – Thông tin kinh tế, 1.147 chương trình
Thanh thiếu niên và các chương trình khác.
Mỗi năm, Đài PT-TH tỉnh còn tổ chức các chương trình truyền hình
trực tiếp nhân các sự kiện lớn của tỉnh, cả nước; thường xuyên cộng tác với
Đài Tiếng nói Việt Nam, Đài Truyền hình Việt Nam; thực hiện việc trao đổi
chương trình theo kế hoạch của cụm thi đua vùng.
- Truyền hình trả tiền
Hiện nay Quảng Nam có 7 đơn vị cung cấp dịch vụ Truyền hình trả
tiền gồm: Viễn thông Quảng Nam: truyền hình Internet MyTV; Viettel Quảng
Nam: truyền hình Internet NetTV; Tổng công ty Truyền hình cáp Việt Nam
chi nhánh Quảng Nam (VTVcab): truyền hình Cáp; Bưu điện tỉnh Quảng
Nam: truyền hình kỹ thuật số vệ tinh, kỹ thuật số mặt đất AVG; Công ty cổ
phần Viễn thông FPT Quảng Nam: truyền hình Internet OneTV; Công ty
TNHH Truyền hình số vệ tinh Việt Nam (chi nhánh Quảng Nam): truyền hình
vệ tinh K+
; Tổng công ty truyền thông đa phương tiện Việt Nam (chi nhánh
Quảng Nam): truyền hình vệ tinh, kỹ thuật số mặt đất. Các đơn vị cung cấp
45. 39
truyền hình trả tiền theo gói dịch vụ. Tổng số kênh đang cung cấp là 192
kênh, trong đó NetTV: 110 kênh; truyền hình cáp: 64 kênh; MyTV: 140 kênh;
AVG: 100 kênh; K+: 81 kênh; truyền hình kỹ thuật số: 73 kênh. Có 124 kênh
trong nước (chiếm 65%), 68 kênh nước ngoài (chiếm 35%) với 11 ngôn ngữ
được phát. Các kênh được phát bằng định dạng SD và HD, một số kênh phát
thử nghiệm 3D. (Phụ lục 8)
Hiện tỉnh Quảng Nam có 84% số hộ gia đình có thiết bị thu hình với
tổng số thuê bao đạt 34.500 thuê bao, chiếm 9,6% số hộ gia đình. Doanh thu
của các đơn vị truyền hình trả tiền tại Quảng Nam đạt trên 30 tỷ đồng. Người
dân Quảng Nam có thể thu kênh Truyền hình Quảng Nam qua nhiều loại hình
dịch vụ khác nhau: Truyền hình mặt đất, truyền hình vệ tinh, truyền hình cáp,
IPTV, NetTV, MyTV.
Tuy nhiên, khả năng đáp ứng của các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ
truyền hình trả tiền còn hạn chế, chưa triển khai hạ tầng cung cấp dịch vụ đến
các xã vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa và miền núi; các chính sách hỗ trợ
ưu đãi lắp đặt chưa phong phú nên chưa đáp ứng hết nhu cầu của người dân.
(Phụ lục 9)
2.1.2.3. Truyền dẫn và phát sóng
Hiện tại, Quảng Nam truyền dẫn các chương trình phát thanh từ Đài Pt-
TH tỉnh đến Đài TT-TT huyện theo phương thức bằng sóng vô tuyến FM.
Công nghệ phát sóng vẫn sử dụng công nghệ tương tự trên kênh tần số
97,6MHz (FM) và 702KHz (AM), phủ sóng phát thanh trên toàn tỉnh.
Đài PT-TH tỉnh sử dụng phương thức truyền dẫn phát sóng tương tự
mặt đất, công suất phát sóng 14KW (Tam Kỳ 10KW; Điện Ngọc 2KW; Bà
Nà 2KW). Ngoài ra, chương trình truyền hình của Đài PT-TH tỉnh còn được
tiếp sóng trên các trạm phát lại truyền hình của các huyện trong tỉnh.
Ngoài phương thức phát sóng tương tự, Đài PT-TH tỉnh phát sóng kênh
truyền hình Quảng Nam trên hạ tầng của VTVcab, AVG, HCTV, MyTV,
46. 40
NexTV, OneTV, HTV (vệ tinh) và phát sóng trực tuyến trên trang TTĐT của
Đài.
Các đơn vị truyền hình trả tiền khác: sử dụng nhiều phương thức truyền
tín hiệu khác nhau như cáp (cáp treo, cáp quang, cáp đồng trục...), sóng vô
tuyến điện (truyền hình vệ tinh), qua mạng internet... để đưa tín hiệu truyền
hình đến người dùng.
Hệ thống truyền thanh cơ sở đã ứng dụng 2 loại công nghệ, truyền
thanh vô tuyến (FM) và hữu tuyến (AM).
Thông qua hệ thống phát thanh, Đài PT- TH tỉnh, các Đài TT-TH
huyện, Đài truyền thanh xã đã làm tốt công tác tuyên truyền về chủ trương,
chính sách của Đảng; pháp luật của nhà nước và tình hình phát triển KT-XH
của địa phương. Tỷ lệ phủ sóng theo số hộ dân tại địa phương là 95%.
2.2.1.3. Phát thanh online và Truyền hình online
- Báo điện tử Quảng Nam
Trên Báo điện tử Báo Quảng Nam: http://www.baoquangnam.com.vn
đã xây dựng chương trình Truyền hình từ năm 2014. Ngoài ra còn sản xuất
video, audio phản ánh tình hình trên các lĩnh vực trong Tỉnh.
Số lượng khán giả truy cập: 11 triệu lượt (số liệu năm 2017).
+ Trang thông tin điện tử Đài PT-TH tỉnh Quảng Nam
Trang TTĐT của Đài PT-TH tỉnh http://www.qrt.vn bắt đầu hoạt động
từ năm 2007, hiện đang duy trì 7 chuyên mục chính. Đặc biệt, trên trang
TTĐT của Đài có thể xem lại các bản tin thời sự, các chuyên mục trên sóng
truyền hình của Đài, xem trực tuyến kênh truyền hình Trung ương và Truyền
hình kỹ thuật số VTC. Số lượng độc giả truy cập: 26 triệu lượt (năm 2017).
+ Trang TTĐT các Đài huyện: Hiện nay 90% các Đài TT-TH huyện, đã
xây dựng trang TTĐT nhằm đăng tải các chương trình truyền hình online,
phát thanh online.