SlideShare a Scribd company logo
1 of 95
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN QUỲNH ANH
TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI CỦA
VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG HOẠT
ĐỘNG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
Chuyên ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số:8380101.03
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học:TS. PHẠM MẠNH HÙNG
Hà Nội - 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào
khác. Cácsố liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác,
tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tấtcả các môn học và đã thanh toán
tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia
Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể
bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜICAM ĐOAN
Nguyễn Quỳnh Anh
i
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Mục lục
Lời cam đoan ..............................................................................................i
Danh mục các bảng....................................................................................iv
MỞ ĐẦU...................................................................................................1
Chương 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TRÁCH NHIỆM BỒI
THƯỜNG THIỆT HẠI CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG
HOẠT ĐỘNG TỐ TỤNG HÌNH SỰ........................................................6
1.1. Khái niệm, đặc điểm của trách nhiệm bồithường thiệt hại của Viện kiểm
sát nhân dân trong hoạt động tố tụng hình sự ...............................................6
1.1.1. Khái niệm trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Viện kiểm sát nhân dân
trong hoạt động tố tụng hình sự...................................................................6
1.1.2. Đặc điểm trách nhiệm bồithường thiệt hại của Viện kiểm sát nhân dân
trong hoạt động tố tụng hình sự...................................................................8
1.2. Khái quát lịch sử pháp luật Việt Nam về trách nhiệm bồi thường thiệt hại
của Viện kiểm sát nhân dân.......................................................................16
1.2.1. Giai đoạntừ 1945 đến trước khi có Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988
................................................................................................................16
1.2.2. Giai đoạntừ khi có Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988 đến trước khi có
Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003.............................................................18
1.2.3. Giai đoạntừ khi có Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 đến trước khi có
Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.............................................................23
Chương 2. QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ TRÁCH
NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN
DÂN TRONG HOẠT ĐỘNG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM VÀ
THỰC TIỄN ÁP DỤNG.........................................................................30
2.1. Căn cứ xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Viện kiểm sát nhân
dân trong hoạt động tố tụng hình sự...........................................................30
ii
2.2. Điều kiện để Viện kiểm sát nhân dân thụ lý, giải quyết việc bồithường
thiệt hại trong hoạt động tố tụng hình sự....................................................33
2.3. Trình tự, thủ tục thực hiện trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Viện
kiểm sát nhân dân trong hoạt động tố tụng hình sự.....................................34
2.4. Thực tiễn hoạt động thụ lý, giải quyết việc bồi thường thiệt hại thuộc
trách nhiệm của Viện kiểm sát nhân dân trong hoạt động tố tụng hình sự....47
2.4.1. Tình hình thụ lý, giải quyết các vụ việc yêu cầu bồithường của Viện
kiểm sát nhân dân các cấp trong 5 năm (từ 01/01/2014 đến 31/12/2018)......47
2.4.2. Một số tồn tại, hạn chế và khó khăn, vướng mắc trong việc giải quyết
yêu cầu bồi thường thiệt hại thuộc trách nhiệm của Viện kiểm sát nhân dân 54
2.4.3. Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế trong việc giải quyết yêu cầu
bồi thường thiệt hại thuộc trách nhiệm của Viện kiểm sát nhân dân.............66
Chương 3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG
PHÁP LUẬT VỀ TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI CỦA
VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG HOẠT ĐỘNG TỐ TỤNG
HÌNH SỰ VIỆT NAM ............................................................................74
3.1. Hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm bồi thường của nhà nước trong hoạt
động tố tụng hình sự.................................................................................74
3.2. Chú trọng việc giải thích, hướng dẫn áp dụng pháp luật về trách nhiệm
bồi thường của nhà nước...........................................................................76
3.3. Tăng cường quản lý, chỉ đạo, điều hành việc xem xét, giải quyết bồi
thường thiệt hại trong hoạt động tố tụng hình sự ........................................77
3.4. Đẩy mạnh việc đào tạo, bồi dưỡng kiến thức, nâng cao năng lực, trình độ
cho độingũ Lãnh đạo, cán bộ, Kiểm sát viên..............................................79
3.5. Tăng cường quan hệ phốihợp giữa Viện kiểm sát với các cơ quan có liên
quan trong việc xem xét, giải quyết yêu cầu bồithường thiệt hại trong hoạt
động tố tụng hình sự.................................................................................80
KẾT LUẬN.............................................................................................80
TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................................83
PHỤ LỤC................................................................................................88
iii
DANH MỤC CÁC BẢNG
STT Bảng Nội dung Trang
Tình hình thụ lý, giải quyết các vụ việc yêu cầu bồi
1 Bảng 2.1
thường thiệt hại của cơ quan Viện kiểm sát nhân
47
dân so với các cơ quan tiến hành tố tụng hình sự
(2014-2018)
Tình hình giải quyết các vụ việc yêu cầu bồithường
2 Bảng 2.2 thiệt hại thuộc trách nhiệm của ngành Kiểm sát 51
nhân dân (thời điểm từ 01/01/2014 đến 31/12/2018)
iv
MỞ ĐẦU
1. Tính cấpthiết và lý do chọn đề tài
Bảo đảm quyền con người là vấn đề ưu tiên hàng đầu của Đảng và Nhà
nước ta trong tiến trình cải cách tư pháp. Trong giai đoạn hiện nay, với mục
tiêu xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh,
việc tuyển chọn đội ngũ cán bộ công chức có trình độ chuyên môn cao, được
đào tạo bài bản đã được chú trọng. Tuy nhiên, những trường hợp bị oan trong
tố tụng hình sự do lỗi của những người tiến hành tố tụng vẫn còn xảy ra.
Vấn đề bảo đảm quyền con người, quyền công dân ở nước ta, trong đó
có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại khi có hành vi trái pháp luật của cán bộ,
công chức trong quá trình thực thi công vụ gây ra đã được Hiến pháp năm
1992 ghi nhận khá rõ tại Điều 72 và Điều 74. Quy định này tiếp tục được
khẳng định và cụ thể hóa hơn trong khoản 5 Điều 31 Hiến pháp năm 2013:
“Người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành
án trái pháp luậtcó quyền được bồi thường thiệt hại về vật chất, tinh thần và
phục hồi danh dự”[27]. Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988, năm 2003 và năm
2015 cũng quy định về nguyên tắc bồi thường thiệt hại của Nhà nước đối với
người bị oan trong hoạt động tố tụng hình sự. Cụ thể, Bộ luật Tố tụng hình sự
năm 2015 quy định: “Người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt,
bị tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án oan, trái
pháp luật có quyền được bồi thường thiệt hại về vật chất, tinh thần và phục
hồi danh dự.Nhànước có trách nhiệm bồi thường thiệt hại và phục hồi danh
dự, quyền lợi cho người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt, bị
tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án oan, trái pháp
luật do cơ quan, ngườicó thẩm quyền tiến hành tố tụng gâyra; Người khác bị
thiệt hạido cơ quan, ngườicó thẩm quyền tiến hành tố tụng gây ra có quyền
1
được Nhà nước bồi thường thiệt hại” [30]. Hiện nay, chế định về bồi thường
thiệt hại được Quốc hội quy định cụ thể tại Luật Trách nhiệm bồi thường của
nhà nước năm 2017.
Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, Luật Trách nhiệm bồi thường của
Nhà nước năm 2017 về cơ bản đã thiết lập cơ chế pháp lý bồi thường của nhà
nước minh bạch, khả thi để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân bị
thiệt hại. Tuy nhiên, các quy định của luật vẫn còn nhữngbất cập cần tiếp tục
nghiên cứu để hoàn thiện. Thực tiễn nhiều năm áp dụng pháp luật để giải
quyết bồi thường thiệt hại trong hoạt động tố tụng hình sự thuộc trách nhiệm
của Viện kiểm sát nhân dân cho thấy vẫn còn nhiều hạn chế, khó khăn, vướng
mắc cần được giải quyết. Đó là lý do tác giả chọn làm đề tài “Trách nhiệm
bồi thường thiệt hại của Viện kiểm sát nhân dân trong hoạt động tố tụng
hình sự Việt Nam” để làm rõ các quy định của pháp luật có liên quan đến vấn
đề bồi thường trong tố tụng hình sự thuộc trách nhiệm của Viện kiểm sát nhân
dân. Qua đó, đánh giá đúng thực trạng việc giải quyết bồi thường thiệt hại,
xác định những khó khăn, vướng mắc trong hoạt động này của ngành Kiểm
sát. Từ đó đề xuất giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về
trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Viện kiểm sát nhân dân trong hoạt động
tố tụng hình sự, bảo đảm quyền con người, quyền công dân theo quy định của
Hiến pháp và pháp luật.
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích của việc nghiên cứu đề tài nhằm làm rõ các quy định của
pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Viện kiểm sát nhân dân
trong hoạt động tố tụng hình sự; đánh giá đúng thực trạng áp dụng pháp luật
về bồi thường trong hoạt động tố tụng hình sự của ngành Kiểm sát; từ đó đề
xuất một số giải pháp để nâng cao hiệu quả việc áp dụng pháp luật đối với
trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Viện kiểm sát nhân dân trong hoạt động
tố tụng hình sự.
2
Để đạt được mục đíchnêu trên, nhiệm vụ nghiên cứu được đặt ra là:
- Làm sáng tỏ khái niệm, đặc điểm về trách nhiệm bồithường thiệt hại
của Viện kiểm sát nhân dân trong hoạt động tố tụng hình sự.
- Khái quát lịch sử pháp luật Việt Nam về trách nhiệm bồithường thiệt
hại của Viện kiểm sát nhân dân qua các giai đoạn lịch sử.
- Tìm hiểu căn cứ xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Viện
kiểm sát nhân dân trong hoạt động tố tụng hình sự.
- Phân tích điều kiện để Viện kiểm sát nhân dân thụ lý, giải quyết việc
bồi thường thiệt hại trong tố tụng hình sự.
- Tìm hiểu về trình tự, thủ tục thực hiện trách nhiệm bồi thường thiệt
hại của Viện kiểm sát nhân dân trong hoạt động tố tụng hình sự.
- Đánh giáthực trạng hoạt động giải quyết bồi thường thiệt hại của Viện
kiểm sát nhân dân trong những năm gần đây, xác định những khó khăn vướng
mắc trong công tác này.
- Đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về
trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Viện kiểm sát nhân dân trong hoạt động
tố tụng hình sự,
3. Tình hình nghiên cứu
Vấn đề Trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước trong hoạt động
tố tụng hình sự đã được đưa vào giáo trình giảng dạy ở các cơ sở giáo dục, các
sách tham khảo bình luận khoa học, các luận án, các bài báo trên tạp chí. Có
thể kể đến một số công trình nghiên cứu như: PGS.TS Đỗ Văn Đại và Thạc sĩ
Nguyễn Trương Tín, giảng viên Đại học quốc gia Hồ Chí Minh đã in thành
sách cuốn “Pháp luật Việt Nam về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước”,
xuất bản năm 2015. PGS.TSKH Lê Văn Cảm đã biên soạn sách chuyên khảo
sau đại học “Những vấn đề cơ bản trong khoa học luật hình sự”, xuất bản
năm 2005. Trong đó tác giả xây dựng độc lập nguyên tắc minh oan trong tố
tụng hình sự tkhi bàn về chính sách pháp luật tố tụng hình sự.
3
Trong những năm qua, đã có một số luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ có
đề tài liên quan đến vấn đề bồi thường của Nhà nước đối với người bị thiệt hại
trong tố tụng hình sự như: luận án tiến sĩ“Bồi thường thiệt hại do người có
thẩm quyền của cơquan tiến hành tố tụng gây ra” của tác giả Lê Mai Anh,
bảo vệ năm 2002 tại trường Đại học Luật Hà Nội; một số luận văn thạc sĩ bảo
vệ tại Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội như: luận văn thạc sĩ của học viên
Phạm Tiến Dũng “Vấn đề oan và chính sách pháp luật tố tụng hình sự về bồi
thường thiệt hại cho người bị oan trong tố tụng hình sự”, bảo vệ năm 2008;
Luận văn thạc sĩ của học viên Vũ Thị Lan Anh “Pháp luật về bồi thường nhà
nước trong hoạt động thực thi công vụ” bảo vệ năm 2010; Luận văn thạc sĩ
của học viên Thang Thanh Hoa bảo vệ năm 2010 về “Xác định thiệt hại và
mức bồi thường cho người bị oan trong hoạtđộng tố tụng hình sự”; Luận văn
thạc sĩ của học viên Hoàng Xuân Hoan bàn về vấn đề “PhápluậtViệt Nam và
một số quốc gia trên thế giới về trách nhiệm bồi thường của nhà nước”, bảo
vệ năm 2013; Luận văn thạc sĩ của học viên Đào Thị Hải Yến nghiên cứu về
đề tài“Bảo đảm quyền con người thông qua cơ chế bồi thường Nhà nước cho
người bị oan trong hoạt động tố tụng hình sự”, năm bảo vệ 2016.
4. Tính mới và những đóng gópcủa đề tài
- Luận văn làm rõ khái niệm, đặc điểm về trách nhiệm bồi thường thiệt
hại của Viện kiểm sát nhân dân trong hoạt động tố tụng hình sự.
- Đã phân tích làm rõ những quy định của pháp luật về trách nhiệm bồi
thường thiệt hại của Viện kiểm sát nhân dân trong hoạt động tố tụng hình sự.
- Trên cơ sở các số liệu về tình hình thụ lý, giải quyết các vụ việc yêu
cầu bồi thường thuộc trách nhiệm của ngành Kiểm sát trong 5 năm (2014-
2018), luận văn đánh giá thực trạng hoạt động giải quyết bồi thường thiệt hại
của Viện kiểm sát nhân dân trong những năm gần đây, những khó khăn vướng
mắc trong công tác này.
4
- Luận văn đã đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng pháp
nhằm đưa công tác giải quyết yêu cầu bồi thường của nhà nước nói chung và
của ngành Kiểm sát nói riêng ngày càng hiệu quả.
- Kết quả của luận văn có thểcó giá trị tham khảo đối với các cơ quan
tiến hành tố tụng hình sự nói chung và cơ quan Viện kiểm sát nói riêng, là tài
liệu tham khảo trong các cơ sở giáo dục về Luật học.
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của luận văn là vấn đề trách nhiệm bồi thường
thiệt hại của Viện kiểm sát nhân dân trong hoạt động tố tụng hình sự Việt Nam.
- Phạm vi nghiên cứucủa luận văn là các quy định Bộ luật tố tụng hình
sự, Luật trách nhiệm bồi thường của nhà nước; luận văn lấy số liệu về công
tác giải quyết bồi thường thiệt hại trong tố tụng hình sự của Viện kiểm sát
nhân dân và của các cơ quan tiến hành tố tụng hình sự (Tòa án nhân dân, Cơ
quan điều tra) thời điểm từ 2014 đến 2018.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo,
luận văn gồm có 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề chung về trách nhiệm bồi thường thiệt hại
của Viện kiểm sát nhân dân trong hoạt động tố tụng hình sự.
Chương 2: Quy định của pháp luật hiện hành về trách nhiệm bồi thường
thiệt hại của Viện kiểm sát nhân dân trong hoạt động tố tụng hình sự Việt
Nam và thực tiễn áp dụng.
Chương 3: Một số giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng pháp đối với
trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Viện kiểm sát nhân dân trong hoạt động
tố tụng hình sự Việt Nam.
5
Chương 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TRÁCH NHIỆM BỒI
THƯỜNG THIỆT HẠI CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG
HOẠT ĐỘNG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
1.1. Khái niệm, đặc điểm của trách nhiệm bồi thường thiệt hại của
Viện kiểm sát nhân dân trong hoạt động tố tụng hình sự
1.1.1. Khái niệm trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Viện kiểm sát
nhân dân trong hoạt động tố tụng hình sự
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Viện kiểm sát nhân dân trong hoạt
động tố tụng hình sự là một loại trách nhiệm bồi thường thiệt hại của nhà
nước, ở đây cơ quan Viện kiểm sát nhân dân thay mặt nhà nước bồi thường
thiệt hại cho người bị oan do lỗi của cán bộ, công chức Viện kiểm sát gây ra
trong quá trình tiến hành tố tụng.
Có thể xem trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước (cụ thể là
trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Viện kiểm sát nhân dân) là một loại trách
nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng đặc biệt, bởi nó có những đặc thù
riêng là bên có trách nhiệm bồi thường là Nhà nước (do Viện kiểm sát nhân
dân thay mặt) mà không phải trách nhiệm của cá nhân cán bộ, công chức hay
cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Vì vậy, để bảo vệ lợi ích chính đáng của cá
nhân, tổ chức bị thiệt hại cần phải xây dựng pháp luật về trách nhiệm bồi
thường thiệt hại của Nhà nước độc lập so với việc điều chỉnh các quan hệ dân
sự, hành chính nhưng cơ chế điều chỉnh phải bảo đảm tính liên thông hoặc có
khả năng hoán đổi linh hoạt giữa các cơ chế khi cần thiết.
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước là một loại hình trách
nhiệm pháp lý đặc biệt, chỉ xuất hiện trong những điều kiện và có cơ sở pháp
luật cụ thể. Thuật ngữ “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước”được
nhắc đến ở nhiều các văn bản pháp luật nhưng hiện nay vẫn không có định
6
nghĩa chính thức về trách nhiệm này. Thông qua văn bản cũng như thực tiễn
và trên cơ sở lý luận, chúng ta có thể hiểu trách nhiệm bồi thường của Nhà
nước là việc Nhà nước chịu trách nhiệm bồi thường đối với lỗi do hành vi của
người thi hành công vụ gây ra.
Viện kiểm sát nhân dân là cơ quan tiến hành tố tụng hình sự, trong quá
trình giải quyết một vụ án hình sự, nhiệm vụ của cơ quan tiến hành tố tụng là
phát hiện chính xác, nhanh chóng và xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi
phạm tội, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội. Bộ luật Tố tụng
hình sự Việt Nam đã thể hiện rõ nguyên tắc bảo đảm quyền công dân, xử lý
kiên quyết và triệt để mọi hành vi phạm tội. Tuy nhiên, hoạt động tố tụng hình
sự nói riêng, hoạt động của các cơ quan nhà nước nói chung trong bất cứ lĩnh
vực nào cũng khó tránh khỏi những sai sót nhất định.
Đối với trách nhiệm bồi thường cho người bị thiệt hại (người bị oan)
trong hoạt động tố tụng hình sự thì vấn đề quan trọng phải xác định đúng đối
tượng được bồi thường. Theo cuốn Từ điển Luật học của Viện khoa học pháp
lý - Bộ Tư pháp thì “oan”có nghĩa là “bị quy cho tội mà bản thân không
phạm, phải chịu sự trừng phạt mà bản thân không đáng phải chịu”[44] hay
theo Từ điển Tiếng Việt của Viện ngôn ngữ học thì“oan” là một người “bị
quy tội không đúng, phảichịu sự trừng phạt một cách sai trái, vô lý”[45].Như
vậy, oan trong tố tụng hình sự là việc một người trên thực tế không thực hiện
hành vi nguy hiểm cho xã hội, không cấu thành tội phạm nhưng đã bị các cơ
quan tiến hành tố tụng áp dụng biện pháp ngăn chặn, bị khởi tố, điều tra, truy
tố, xét xử, thi hành án.
Từ những nhận định trên, có thể đưa ra khái niệm trách nhiệm bồi
thường thiệt hại của Viện kiểm sát nhân dân trong hoạt động tố tụng hình sự
như sau: Trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Viện kiểm sát nhân dân trong
hoạt động tố tụng hình sự là trách nhiệm bồi thường Nhà nước mà Nhà nước
7
giao cho Viện kiểm sát thực hiện trong trường hợp người có thẩm quyền tiến
hành tố tụng của Viện kiểm sát thực hiện hành vi, quyết định tố tụng làm oan
người vô tội, thể hiện ở việc Viện kiểm sát nhân dân phải bồi thường thiệt hại
cho người bị oan theo trình tự thủ tục do pháp luật quy định nhằm phục hồi
danh dự, khôi phục quyền, lợi ích hợp pháp của người bị oan.
1.1.2. Đặc điểm trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Viện kiểm sát
nhân dân trong hoạt động tố tụng hình sự
Thứ nhất, trách nhiệm bồi thường thiệt hạicủa Viện kiểm sát nhân dân
trong hoạt động tố tụng hình sự phát sinh do người có thẩm quyền tiến hành
tố tụng của Viện kiểm sát đã thực hiện hành vi, quyết định tố tụng làm oan
người vô tội
Trách nhiệm bồi thường của Viện kiểm sát nhân dân trong hoạt động tố
tụng hình sự phát sinh từ các hành vi, quyết định tố tụng của công chức Viện
kiểm sát làm oan người vô tội (tức là phải có thiệt hại thực tế xảy ra và phải
có mối quan hệ nhân quả giữa thiệt hại thực tế và hành vi gây thiệt hại).
Những hành vi, quyết định tố tụng đócủa người có thẩm quyền tiến hành tố
tụng của Viện kiểm sát bao gồm [32]:
- Đã phê chuẩn lệnh bắt, quyết định gia hạn tạm giữ, quyết định khởi tố
bị can, lệnh tạm giam của Cơ quan điều tra hoặc đã ra quyết định khởi tố bị
can, lệnh tạm giam, quyết định gia hạn tạm giam mà sau đó có quyết định của
cơ quan, người có thẩm quyền xác định không có sự việc phạm tội hoặc hành
vi không cấu thành tội phạm hoặc đã hết thời hạn điều tra vụ án mà không
chứng minh được bị can đã thực hiện tội phạm; đã quyết định trả hồ sơ vụ án
để điều tra bổ sung nhưng Cơ quan điều tra ra quyết định đình chỉ điều tra đối
với bị can vì lý do như trên;
- Đã ra quyết định truy tố bị can nhưng Tòa án cấp sơ thẩm tuyên bị cáo
không có tội vì không có sự việc phạm tội hoặc hành vi không cấu thành tội
phạm và bản án sơ thẩm đã có hiệu lực pháp luật;
8
- Viện kiểm sát đã có cáo trạng truy tố nhưng Tòa án cấp sơ thẩm quyết
định trả hồ sơ vụ án để điều tra bổ sung nhưng sau đó có quyết định của người
có thẩm quyền của Viện kiểm sát đìnhchỉ điều tra, đình chỉ vụ án vì không có
sự việc phạm tội hoặc hành vi không cấu thành tội phạm hoặc đã hết thời hạn
điều tra vụ án mà không chứng minh được bị can đã thực hiện tội phạm;
- Viện kiểm sát đã có cáo trạng truy tố nhưngTòa án cấp sơ thẩm quyết
định trả hồ sơ vụ án để điều tra bổ sung nhưng sau đó tuyên bị cáo không có
tội vì không có sự việc phạm tội hoặc hành vi không cấu thành tội phạm và
bản án sơ thẩm đã có hiệu lực pháp luật;
- Viện kiểm sát đã có cáo trạng, quyết định truy tố nhưngTòa án cấp
phúc thẩm giữ nguyên bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm xác định bị
cáo không có tội vì không có sự việc phạm tội hoặc hành vi không cấu thành
tội phạm;
- Viện kiểm sát đã có cáo trạng, quyết định truy tố nhưng Tòa án cấp
phúc thẩm giữ nguyên bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm xác
định bị cáo không có tội vì không có sự việc phạm tội hoặc hành vi không cấu
thành tội phạm và sau đó Tòa án xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm
vẫn giữ nguyên bản án, quyết định của Tòa án cấp phúc thẩm xác định bị cáo
không có tội vì không có sự việc phạm tội hoặc hành vi không cấu thành tội
phạm.
Thứ hai, trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Viện kiểm sát nhân dân
trong hoạt động tố tụng hình sựthuộc trách nhiệm bồi thường nhà nước được
nhà nước giao cho Viện kiểm sát thực hiện
Có thể xem Viện kiểm sát nhân dân là cơ quan nhân danh nhà nước
thực hiện trách nhiệm bồi thường đối với người bị oan do hành vi, quyết định
tố tụng của Viện kiểm sát nhân dân gây ra. Như vậy, đây được hiểu là một
loại của trách nhiệm bồi thường thiệt hại của nhà nước. Với tính chất là một
9
loại hình trách nhiệm pháp lý đặc biệt, trách nhiệm bồi thường thiệt hại của
nhà nước (cụ thể là của Viện kiểm sát nhân dân) chỉ xuất hiện trong những
điều kiện và có cơ sở pháp luật cụ thể. Nhà nước, với tư cách là chủ thể của
quan hệ pháp luật, có những quyền và nghĩa vụ nhất định, đồng thời phải chịu
những hậu quả pháp lý phát sinh từ những quan hệ pháp luật đó. Nếu Nhà
nước và các cán bộ, công chức trong quá trình thực thi công vụ có hành vi vi
phạm pháp luật, gây tổn hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tổ
chức thì Nhà nước phải chịu trách nhiệm bồi thường. Theo đó, trách nhiệm
bồi thường của Nhà nước được phát sinh từ các hoạt động mang tính công
quyền, do cơ quan nhà nước hoặc các cá nhân, tổ chức nhân danh Nhà nước
thực hiện [35].
Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 17/3/2003 của Ủy ban thường vụ Quốc
hội về bồi thường thiệt hại cho người bị oan do người có thẩm quyền trong
hoạt động tố tụng gây ra đã quy định: Kinh phí bồi thường thiệt hại là một
khoản trong ngân sách nhà nước; Bộ Tài chính có trách nhiệm quản lý, cấp
phát và quyết toán kinh phí bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật
về ngân sách nhà nước; căn cứ vào bản án, quyết định của cơ quan có thẩm
quyền trong hoạt động tố tụng hình sự xác định người bị oan và quyết định
của cơ quan có trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong trường hợp thương
lượng thành hoặc bản án, quyết định của Toà án về việc bồi thường thiệt hại,
cơ quan có trách nhiệm chi trả phải trả tiền cho người bị oan hoặc thân nhân
của người bị oan. Luật Trách nhiệm bồi thường của nhà nước năm 2017 và cá
văn bản hướng dẫn thi hành cũng quy định việc chi trả tiền bồi thường là kết
quả của quá trình giải quyết bồi thường, trên cơ sở xác định thiệt hại, mức bồi
thường, kết quả của quá trình thỏa thuận bồi thường hoặc bản án, quyết định
của Tòa án có thẩm quyền. Số tiền chi trả cho người bị thiệt hại được lấy từ
kinh phí bồi thường trên cơ sở dự toán hàng năm của Bộ Tài chính.
10
Kinh phí chi trả tiền bồi thường thiệt hạ trong tố tụng hình sự bao gồm:
tiền chi trả cho người bị thiệt hại và chi phí cho việc định giá tài sản, giám
định thiệt hại. Hằng năm, căn cứ thực tế số tiền bồi thường, chi phí cho việc
định giá tài sản, giám định thiệt hại đã cấp phát của năm trước, Bộ Tài chính
có trách nhiệm lập dự toán kinh phí bồi thường của cơ quan giải quyết bồi
thường được bảo đảm kinh phí hoạt động từ ngân sách trung ương, báo cáo
Chính phủ trình Quốc hội xem xét, quyết định theo quy định của pháp luật về
ngân sách nhà nước.
Việc quy định nguồn kinh phí để giải quyết bồi thường được lấy từ
ngân sách nhà nước là hoàn toàn phù hợp với chế định về bồi thường của các
nước trên thế giới. Điều này cũng thể hiện trách nhiệm của nhà nước đối với
lỗi gây ra cho người dân. Tuy nhiên, cũng có một số ý kiến cho rằng: ngân
sách nhà nước bao gồm cả tiền do nhân dân đóng góp, nếu như lấy tiền của
dân để bồi thường cho dân thì có thỏa đáng không? Với quan điểm như vậy
mà quy định về trách nhiệm hoàn trả của người thi hành công vụ có lỗi gây
thiệt hại cho người bị oan đã được xây dựng.
Thứ ba, Viện kiểm sát nhân dân có trách nhiệm bồi thường thiệt hại đối
với người bị oan trong hoạt động tố tụng hình sự,đó là những người bị oan
trong quá trình Viện kiểm sát giải quyết nguồn tin về tội phạm, khi Viện kiểm
sát thực hiện những hành vi, quyết định tố tụng trong quá trình giải quyết vụ
án hình sự, cụ thể là những trường hợp sau[32]:
- Người bị bắt trong trường hợp Viện kiểm sát nhân dân đã phê chuẩn
lệnh bắt nhưng người bị bắt không có hành vi vi phạm pháp luật;
- Người bị tạm giữ trong trường hợp Viện kiểm sát nhân dân đã phê
chuẩn quyết định gia hạn tạm giữ nhưng người bị tạm giữ không có hành vi vi
phạm pháp luật;
- Bị can trong trường hợp:
11
+ Viện kiểm sát nhân dân đã phê chuẩn quyết định khởi tố bị can, lệnh
tạm giam hoặc đã ra quyết định khởi tố bị can, lệnh tạm giam, quyết định gia
hạn tạm giam mà sau đó có quyết định của cơ quan, người có thẩm quyền xác
định không có sự việc phạm tội hoặc hành vi không cấu thành tội phạm hoặc
đã hết thời hạn điều tra vụ án mà không chứng minh được bị can đã thực hiện
tội phạm; Viện kiểm sát nhân dân đã quyết định trả hồ sơ vụ án để điều tra bổ
sung nhưng căn cứ kết quả điều tra bổ sung, Cơ quan điều tra ra quyết định
đình chỉ điều tra đối với bị can vì không có sự việc phạm tội hoặc hành vi
không cấu thành tội phạm hoặc đã hết thời hạn điều tra vụ án mà không chứng
minh được bị can đã thực hiện tội phạm;
+ Viện kiểm sát nhân dân đã ra quyết định truy tố bị can nhưng Tòa án
cấp sơ thẩm tuyên bị cáo không có tội vì không có sự việc phạm tội hoặc hành
vi không cấu thành tội phạm và bản án sơ thẩm đã có hiệu lực pháp luật;
Những trường hợp vụ án đã chuyển sang giai đoạn xét xử, tuy nhiên lỗi
của cơ quan Viện kiểm sát nhân dân thì đã phát sinh từ giai đoạn trước (giai
đoạn truy tố), bởi vậy các bị cáo mà Viện kiểm sát nhân dân có trách nhiệm
bồi thường trong trường hợp này được hiểu là những bị can mà cơ quan Viện
kiểm sát nhân dân truy tố oan, bao gồm những trường hợp sau:
+ Tòa án cấp sơ thẩm quyết định trả hồ sơ vụ án để điều tra bổ sung
nhưng sau đó có quyết định của cơ quan, người có thẩm quyền đình chỉ điều
tra, đình chỉ vụ án vì không có sự việc phạm tội hoặc hành vi không cấu thành
tội phạm hoặc đã hết thời hạn điều tra vụ án mà không chứng minh được bị
can đã thực hiện tội phạm;
+ Tòa án cấp sơ thẩm quyết định trả hồ sơ vụ án để điều tra bổ sung
nhưng sau đó tuyên bị cáo không có tội vì không có sự việc phạm tội hoặc
hành vi không cấu thành tội phạm và bản án sơ thẩm đã có hiệu lực pháp luật;
+ Tòa án cấp phúc thẩm giữ nguyên bản án, quyết định của Tòa án cấp
sơ thẩm xác định bị cáo không có tội vì không có sự việc phạm tội hoặc hành
vi không cấu thành tội phạm;
12
+ Tòa án cấp phúc thẩm giữ nguyên bản án, quyết định của Tòa án cấp
sơ thẩm xác định bị cáo không có tội vì không có sự việc phạm tội hoặc hành
vi không cấu thành tội phạm và sau đó Tòa án xét xử theo thủ tục giám đốc
thẩm, tái thẩm vẫn giữ nguyên bản án, quyết định của Tòa án cấp phúc thẩm
xác định bị cáo không có tội vì không có sự việc phạm tội hoặc hành vi không
cấu thành tội phạm.
Thứ tư, trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Viện kiểm sát nhân dân
được thực hiện theo trình tự, thủ tục do pháp luậtquyđịnh
Nguyên tắc bồi thường thiệt hại cho người bị oan trong tố tụng hình sự
được ghi nhận ngay từ Bộ luật Tố tụng hình sự đầu tiên của Việt Nam (Bộ
luật Tố tụng hình sự năm 1988). Trải qua hai lần pháp điển hóa, Bộ luật tố
tụng hình sự năm 2003 và năm 2015 tiếp tục ghi nhận nguyên tắc bồi thường
này ngày một rõ ràng, cụ thể hơn. Theo đó, Bộ luật Tố tụng hình sự quy định
về việc Nhà nước có trách nhiệm bồi thường thiệt hại và phục hồi danh dự,
quyền lợi cho người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt, bị tạm
giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án oan, trái pháp luật
do cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng gây ra.
Nghị quyết số 388/2003/NQ-UBTVQH ngày 17/3/2003 của Ủy ban
thường vụ Quốc hội về Bồi thường thiệt hại cho người bị oan do người có
thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra (viết tắt là Nghị quyết 388)
và Thông tư liên tịch số 01/2004/TTLT-VKSNDTC-BCA-TANDTC-BTP-
BQP-BTC ngày25/3/2004 của Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an,
Tòa án nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp, Bộ Quốc phòng, Bộ Tài chính hướng
dẫn thực hiện một số nội dung của Nghị quyết 388 (viết tắt là Thông tư 01) là
những văn bản pháp luật đầu tiên quy định một cách chi tiết, cụ thể mọi vấn
đề liên quan đến trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước.
13
Sau quá trình thi hành Nghị quyết 388 và Thông tư 01 đã bộc lộ một số
tồn tại, vướng mắc. Để khắc phục những hạn chế đó, tại kỳ họp thứ 5, Quốc
hội Khóa XII ngày 18/6/2009, Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam đã thông
qua Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2009 có hiệu lực thi
hành từ ngày 01/01/2010. Để hướng dẫn áp dụng quy định của Luật này, ngày
01/11/2012, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao, Bộ
Công an, Bộ Tư pháp, Bộ Quốc phòng, Bộ Tài chính, Bộ Nông nghiệp và
Phát triển nông thôn đã ban hành Thông tư liên tịch số 05/2012/TTLT-
VKSNDTC-TANDTC-BCA-BTP-BQP-BTC-BNN&PTNT hướng dẫn thực
hiện trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trong hoạt động tố tụng hình
sự(viết tắt là Thông tư 05).
Với mục đích hoàn thiện hơn nữa khuôn khổ pháp luật về trách nhiệm
bồi thường, đảm bảo phù hợp với Hiến pháp 2013, đồng bộ, thống nhất với
các luật hiện hành; thiết lập cơ chế pháp lý bồi thường của Nhà nước minh
bạch, khả thi để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức bị thiệt
hại và quyền, lợi ích của Nhà nước; từng bước nâng cao trách nhiệm của
người thi hành công vụ, hiệu lực, hiệu quả của nền công vụ, đáp ứng yêu cầu
xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam và hội nhập quốc
tế. Ngày 20/6/2017, Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2017
được Quốc hội khóa XIV thông qua tại kỳ họp thứ 3, có hiệu lực thi hành từ
ngày 01/7/2018 đã thay thế cho Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước
năm 2009. Bên cạnh đó, Chính Phủ đã ban hành Nghị định số 68/2018/NĐ-
CP ngày 15/5/2018 quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật
Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước. Để cụ thể hóa Luật và Nghị định,
ngày 29/6/2018, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã ký Quyết định
số 304/QĐ-VKSNDTC về việc ban hành quy định về quy trình giải quyết yêu
cầu bồi thường nhà nước trong hoạt động tố tụng hình sự thuộc trách nhiệm
của Viện kiểm sát nhân dân.
14
Vấn đề trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước là một dạng
trách nhiệm dân sự nhưng thủ tục thụ lý, xem xét, giải quyết lại theo Luật
Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước. Theo đó, trình tự, thủ tục thực hiện
trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Viện kiểm sát nhân dân trong hoạt động
tố tụng hình sự được quy định tại các điều luật sau:Thủ tục tiếp nhận và xử lý
hồ sơ yêu cầu bồi thường (Điều 42), Thụ lý hồ sơ và cử người giải quyết bồi
thường (Điều 43), Chủ động phục hồi danh dự (Điều 57), Trực tiếp xin lỗi và
cải chính công khai (Điều 58), Đăng báo xin lỗi và cải chính công khai (Điều
59), Tạm ứng kinh phí bồi thường (Điều 44), Xác minh thiệt hại (Điều 45),
Thương lượng việc bồi thường (Điều 46), Quyết định giải quyết bồi thường
(Điều 47), Khởi kiện và thủ tục giải quyết yêu cầu bồi thường tại Tòa án
(Điều 52), Lập dự toán kinh phí bồi thường (Điều 61), Cấp phát kinh phí bồi
thường và chi trả tiền bồi thường (Điều 62), tiến hành xem xét trách nhiệm
hoàn trả (từ Điều 65 đến Điều 72).
Thứ năm, trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Viện kiểm sát nhân dân có
mục đích phục hồi danh dự, khôi phục lại những tổn thất về vật chất, tinh thần
đền bù những tổn thất về vật chất, tinh thần, bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp
của cá nhân bị oan do hành vi, quyết định tố tụng của Viện kiểm sát gây ra.
Khi một người bị oan thì nỗi đau, sự mất mát và tổn thất không chỉ cá
nhân họ phải chịu đựng, mà đó còn là nỗi đau của cả gia đình, họ hàng, dòng
tộc họ. Hậu quả từ những quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan có thẩm
quyền gây oan cho người bị thiệt hại không chỉ khiến họ bị tổn thất về mặt vật
chất, mà cá nhân và gia đình họ phải gánh chịu; đó còn là những tổn thất về
tinh thần không thể bù đắp. Qua các phương tiện truyền thông, chúng ta đã
được nghe rất nhiều lời tự sự của những người bị oan như: ông Nguyễn Thanh
Chấn ở Bắc Giang, ông Huỳnh Văn Nén ở Bình Thuận… về những mất mát,
tổn thương mà gia đình, vợ con họ phải hứng chịu, ấy là sự kỳ thị của dân
15
làng, sự miệt thị của dư luận, sự tẩy chay của những người phẫn nộ đến mức
con cái họ không đủ bản lĩnh thể tiếp tục đến trường, không thể tìm kiếm công
việc hay dựng vợ gả chồng ở địa phương – nơi mà ai ai cũng biết rằng họ là
con, là vợ, là chồng, là anh em ruột thịt, là họ hàng với người phạm tội. Thấu
hiểu nỗi đau đó, cơ quan có trách nhiệm bồi thường và người giải quyết bồi
thường phải làm việc bằng cả cái tâm và sự cầu thị trên phương diện của
người đã làm sai và đi sửa sai.
Trên thực tế, trong nhiều trường hợp, sự bù đắp có thể không tương
xứng với thiệt hại nhưng vẫn có ý nghĩa đối với người bị thiệt hại cũng như
người tiến hành tố tụng và cơ quan tiến hành tố tụng gây thiệt hại. Với những
tổn thất về tinh thần, sự bù đắp của việc bồi thường thiệt hại có ý nghĩa an ủi,
chia sẻ những mất mát mà người bị thiệt hại hoặc thân nhân của họ phải gánh
chịu, góp phần giúp cho người bị thiệt hại ổn định lại cuộc sống sau những gì
họ phải chịu đựng. Bên cạnh đó, cũng thể hiện thái độ cầu thị, mong muốn
sửa sai, khắc phục những sai lầm của chủ thể gây thiệt hại. Đây cũng là đạo lý
cần được giữ gìn thông qua sự điều chỉnh của pháp luật.
1.2. Khái quát lịch sử pháp luật Việt Nam về trách nhiệm bồi
thường thiệt hại của Viện kiểm sát nhân dân
1.2.1. Giai đoạn từ 1945 đến trước khi có Bộ luật Tố tụng hình sự
năm 1988
Pháp luật về cơ chế bồi thường nhà nước cho người bị oan trong hoạt
động tố tụng hình sự có lịch sử lập pháp từ khi Nhà nước Việt Nam dân chủ
cộng hoà ra đời năm 1945. Mặc dù các quy định còn nhiều hạn chế, nhưng đã
chứng tỏ sự quan tâm của Nhà nước đối với việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của công dân. Do Nhà nước mới hình thành, hệ thống pháp luật chưa
được hoàn thiện nên còn áp dụng một số văn bản pháp luật của chế độ cũ với
những quy định phù hợp với tình hình xã hội lúc bấy giờ. Đồng thời, Nhà
16
nước dần từng bước ban hành hệ thống văn bản pháp luật mới, trong đó có
những văn bản pháp luật liên quan đến vấn đề hạn chế oan, sai và bồi thường
thiệt hại cho người bị oan trong hoạt động tố tụng hình sự. Đó là:
Sắc lệnh số 46/SL ngày 10/10/1945 về tổ chức Đoàn thể luật sư đã cho
phép luật sư của chế độ cũ vẫn được duy trì hoạt động. Tuy nhiên, những
điểm không phù hợp với thể chế chính trị mới phải loại bỏ. Theo quy định
này, các luật sư có quyền bào chữa ở tất cả toà án từ cấp tỉnh trở lên và trước
các toà quân sự. Ngay trong bản Hiến pháp đầu tiên - Hiến pháp 1946, vấn đề
quyền con người, quyền công dân đã được chú ý, trong đó có các quyền liên
quan đến hoạt động tố tụng hình sự như: “Tư pháp chưa quyết định thì không
được bắt bớ và giam cầm người công dân Việt Nam”. Điều 67 Hiến pháp
1946 cũng quy định:“Các phiên toà đều phải công khai, trừ những trường
hợp đặc biệt. Người bị cáo được quyền tự bào chữa lấy hoặc mượn luật sư”.
Như vậy, các quy định pháp luật tố tụng hình sự đầu tiên của Nhà nước ta đã
chú trọng bảo vệ quyền con người, ghi nhận quyền bào chữa của bị cáo trong
tố tụng hình sự - một nhân tố quan trọng góp phần hạn chế oan, sai trong xét
xử vụ án hình sự.
Tiếp đó, Điều 101 Hiến pháp 1959 và những văn bản pháp luật khác
ban hành trong thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Miền Bắc, đấu tranh
thống nhất đất nước đã tiếp tục khẳng định quyền bào chữa của bị can, bị cáo,
hạn chế những oan, sai trong tố tụng hình sự. Tuy nhiên, việc bồi thường thiệt
hại cho người bị oan thì chưa được quy định cụ thể trong luật.
Để thống nhất về hoạt động bồi thường thiệt hại trong tố tụng hình sự,
ngày 23/3/1972, Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành Thông tư số 173/UBTP
hướng dẫn xét xử bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, trong đó có việc bồi
thường thiệt hại cho người bị oan trong tố tụng hình sự. Tuy không trực tiếp
quy định việc bồi thường trong tố tụng hình sự, nhưng Thông tư 173/UBTP là
17
văn bản pháp luật duy nhất tạo cơ sở pháp lý cho việc bồi thường thiệt hại do
làm oan trong thời kỳ này. Cùng với việc bồi thường thiệt hại, người tiến hành
tố tụng có hành vi vi phạm dẫn đến làm oan người vô tội cũng bị xử lý tuỳ
theo mức độ khác nhau, nặng nhất là phải chịu truy cứu trách nhiệm hình sự.
Tuy chỉ là văn bản của Ủy ban thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, nhưng
Thông tư 173/UBTP đã trở thành văn bản đầu tiên đặt nền móng và cơ sở cho
việc bồi thường thiệt hại, trong đó có bồi thường thiệt hại cho người bị oan
trong tố tụng hình sự.
Như vậy, có thể thấy vấn đề bồi thường thiệt hại cho người bị oan trong
hoạt động tố tụng hình sự đã được Nhà nước quan tâm và đã có những quy
định tại văn bản pháp luật. Tuy nhiên, do đặc điểm của hoàn cảnh đất nước
thời kỳ này nên những quy định pháp luật về oan, sai và bồi thường thiệt hại
cho người bị oan trong tố tụng hình sự còn thiếu quy định cụ thể, đặc thù. Vì
vậy, việc áp dụng pháp luật trong thực tế còn hạn chế.
1.2.2. Giai đoạn từ khi có Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988 đến
trước khi có Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003
Một bước đột phá quan trọng trong lịch sử tố tụng hình sự Việt Nam đó
là việc Nhà nước ban hành Bộ luật Tố tụng hình sựnăm 1988, đánh dấu một
bước tiến mới của quá trình pháp điển hóa pháp luật tố tụng hình sự, đồng
thời cùng với Bộ luật Hình sự năm 1985 là cơ sở pháp lý bảo đảm quyền con
người trong tố tụng hình sự. Tại Bộ luật Tố tụng hình sự 1988 đã nêu lên
nhiệm vụ của Bộ luật là “xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội,
không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội”[28]. Đồng thời, quyền
công dân tiếp tục được bảo đảm qua các nguyên tắc cơ bản và những quy định
cụ thể trong Bộ luật Tố tụng hình sự 1988 đó là các nguyên tắc “bảo đảm
quyền khiếu nại tố cáo của công dân đối với hoạt động của các cơ quan tiến
hành tố tụng”; “cơ quan đã làm oan phải khôi phục danh dự, quyền lợi và
18
bồi thường cho người bị thiệt hại”[28]. Đây là lần đầu tiên vấn đề bồi thường
thiệt hại cho người bị oan trong hoạt động tố tụng hình sự được quy định cụ
thể trong một văn bản pháp luật. Theo đó, cơ quan tiến hành tố tụng không
những phải bồi thường thiệt hại mà còn phải thực hiện các biện pháp như:
khôi phục danh dự, quyền lợi cho người bị thiệt hại.
Nhà nước ta đã ban hành một hệ thống pháp luật, bước đầu đáp ứng
được những yêu cầu cơ bản của quản lý nhà nước đối với mọi mặt của đời
sống xã hội, trong đó có pháp luật về trách nhiệm bồi thường của cơ quan nhà
nước đối với các thiệt hại do cán bộ, công chức nhà nước gây ra trong khi thi
hành công vụ. Hiến pháp năm 1992 quy định: “Người bị bắt, bị giam giữ, bị
truy tố, bị xét xử trái pháp luậtcó quyền được bồi thường thiệt hại về vật chất
và phục hồi danh dự” (Điều 72); “Mọi hành vi xâm phạm lợi ích của Nhà
nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tập thể và của công dân phải được kịp
thời xử lý nghiêm minh. Người bị thiệt hại có quyền được bồi thường về vật
chất và phụchồi về danh dự” (Điều 74). Bên cạnh đó, Chính phủ đã ban hành
Nghị định số 47/CP ngày 3/5/1997 về việc giải quyết bồi thường thiệt hại do
công chức, viên chức nhà nước, người có thẩm quyền của cơ quan tiến hành
tố tụng gây ra. Theo Nghị định số 47/CP, việc bồi thường thiệt hại được giải
quyết theo thủ tục hành chính và thủ tục tư pháp. Nguyên tắc “người bị thiệt
hại có quyền yêu cầu cơ quan nhà nước, cơ quan tiến hành tố tụng bồi thường
cho mình thiệt hại do công chức, viên chức nhà nước, người có thẩm quyền
của cơ quan tiến hành tố tụng gây ra hoặc yêu cầu toà án bảo vệ quyền lợi
ích hợp pháp của mình” (Điều 3) [12]. Về cơ bản cách thức giải quyết này là
phù hợp. Tuy nhiên, qua thực tiễn áp dụng pháp luật và cách thức giải quyết
bồi thường có thể thấy tính chất bình đẳng của quan hệ bồi thường thiệt hại
không thể hiện rõ và đúng với tính chất của quan hệ dân sự. Dù có những quy
định khá tiến bộ, nhưng chưa thật sự tạo điều kiện cho người bị thiệt hại thực
19
hiện quyền được bảo vệ lợi ích hợp pháp của mình sau khi bị oan sai, không ít
vụ việc giải quyết chưa thực sự khách quan và thường phải kéo dài sang trình
tự tư pháp.
Trước yêu cầu nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác đấu tranh phòng,
chống tội phạm, không để xảy ra các trường hợp oan, sai, các Nghị quyết của
Đảng về cải cách tư pháp đã có những chỉ đạo khá cụ thể. Nghị quyết 08/NQ-
TW ngày 02/01/2002 về một số nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp
trong thời gian tới đã nhấn mạnh đến trách nhiệm của cơ quan tư pháp đối với
các trường hợp oan, sai nhằm bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp của
công dân.
Thể chế hoá các Nghị quyết của Đảng về cải cách tư pháp, Quốc hội,
Uỷ ban thường vụ Quốc hội và các cơ quan khác của Nhà nước đã ban hành
các văn bản quy phạm pháp luật nêu rõ trách nhiệm của người tiến hành tố
tụng và quyền được bồi thường của người bị thiệt hại do người có thẩm quyền
trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra. Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân
năm 2002 đã quy định: “Viện trưởng, Phó Viện trưởng, Kiểm sát viên, Thủ
trưởng cơ quan điều tra, Điều tra viên trong khi thực hiện nhiệm vụ, quyền
hạn mà gây ra thiệt hạithì Viện kiểm sát nhân dân nơingười đó công tác phải
có trách nhiệm bồi thường. Những người đã gây ra thiệt hại phải có trách
nhiệm bồi hoàn cho Viện kiểm sát nhân dân theo quy định của pháp luật”
(Điều 46) [33].
Có thể thấy rằng, quy định của pháp luật về giải quyết bồi thường thiệt
hại do cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng gây ra cho người bị
oan trong thời kỳ này về cơ bản đã được hình thành. Các đạo luật đã quy định
cơ sở pháp lý cho việc bồi thường thiệt hại cho người bị oan trong tố tụng
hình sự. Tuy nhiên, các quy định về việc bồi thường cho người bị oan do
người có thẩm quyền tố tụng hình sự gây ra và trách nhiệm hoàn trả của
20
người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra thiệt hại chưa rõ
ràng, cụ thể. Vì vậy, tuy pháp luật có quy định nhưng suốt một thời gian dài
hiệu quả của những quy định pháp luật này còn hạn chế và thiếu khả thi.
Quán triệt tư tưởng, định hướng về cải cách tư pháp được đề ra từ Nghị
quyết số 08 ngày 02/01/2002 của Bộ chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm
của công tác tư pháp trong thời gian tới, nhằm đáp ứng đòi hỏi của thực tiễn,
ngày 17/3/2003, Ủy ban thường vụ Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số
388/2003/NQ-UBTVQH về Bồi thường thiệt hại cho người bị oan do người
có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra. Để thực hiện có hiệu
quả về bồi thường cho người bị oan trong tố tụng hình sự, ngày 25/3/2004,
Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư
pháp, Bộ Quốc phòng, Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư liên tịch số
01/2004/TTLT-VKSNDTC-BCA- TANDTC-BTP-BQP-BTC hướng dẫn thực
hiện một số nội dung của Nghị quyết 388. Với mục đích là “khôi phục quyền,
lợi ích của người bị oan trong hoạt động tố tụng hình sự, nâng cao trách
nhiệm của người có thẩm quyền trong hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét
xử và thi hành án hình sự” đã tạo cơ sở pháp lý cho việc giải quyết bồi
thường thiệt hại cho người bị oan, trở thành một hiện tượng công bằng của cải
cách tư pháp. Theo đó, Nghị quyết quy định những trường hợp Viện kiểm sát
nhân dân có trách nhiệm bồi thường thiệt hại bao gồm:
- Cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự đã ra quyết
định khởi tố bị can có trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong trường hợp có
quyết định đình chỉ điều tra, đình chỉ vụ án vì người bị khởi tố không thực
hiện hành vi phạm tội.
- Cơ quan đã ra lệnh tạm giữ, tạm giam có trách nhiệm bồi thường thiệt
hại trong trường hợp việc tạm giữ bị huỷ bỏ vì người bị tạm giữ không có
hành vi vi phạm pháp luật hoặc việc tạm giam bị huỷ bỏ vì người bị tạm giam
21
không thực hiện hành vi phạm tội; nếu việc tạm giữ, tạm giam có phê chuẩn
của Viện kiểm sát, thì Viện kiểm sát đã phê chuẩn có trách nhiệm bồi thường.
- Viện kiểm sát đã ra quyết định truy tố có trách nhiệm bồi thường thiệt
hại trong các trường hợp sau đây:
+ Toà án cấp sơ thẩm tuyên bố bị cáo không có tội vì không thực hiện
hành vi phạm tội và bản án sơ thẩm đã có hiệu lực pháp luật;
+ Toà án cấp phúc thẩm giữ nguyên bản án, quyết định của Toàán cấp
sơ thẩm tuyên bố bị cáo không có tội vì không thực hiện hành vi phạm tội;
+ Toà án cấp phúc thẩm giữ nguyên bản án, quyết định của Toà án cấp
sơ thẩm tuyên bố bị cáo không có tội vì không thực hiện hành vi phạm tội và
sau đó Toà án xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm vẫn giữ nguyên bản
án, quyết định của Toà án phúc thẩm tuyên bị cáo không có tội vì không thực
hiện hành vi phạm tội.” (Điều 10) [42].
* Về cách thức bồi thường và xác định thiệt hại được bồi thường:
Cách thức bồi thường đối với thiệt hại vật chất và thiệt hại tinh thần lần
đầu tiên được lượng hoá thành tiền. Theo đó, mức bồi thường thiệt hại về tinh
thần được tính: một ngày bị tạm giữ, tạm giam, chấp hành hình phạt tù được
bồi thường ba ngày lương tính theo mức lương tối thiểu chung do Nhà nước
quy định tại thời điểm giải quyết bồi thường. Nếu người bị oan chết thì những
người thân của người này (vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con
đẻ, con nuôi, người trực tiếp nuôi dưỡng người bị oan) được bồi thường
chung một khoản tiền bù đắp về tinh thần là 360 tháng lương tính theo mức
lương tối thiểu chung. Các trường hợp còn lại được xác định mỗi ngày bị oan
được bồi thường một ngày lương tính theo mức lương tối thiểu chung.
Đối với thiệt hại về vật chất, pháp luật đã phân ra làm hai trường hợp:
người bị oan chết và người bị oan bị tổn hại về sức khoẻ. Trong trường hợp
người bị oan chết thì người gây thiệt hại phải bồi thường các khoản chi phí
22
cần thiết, hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, chăm sóc, mai táng người bị
oan và cả tiền cấp dưỡng cho những người mà người bị oan đang thực hiện
nghĩa vụ cấp dưỡng. Nếu người bị oan bị tổn hại về sức khoẻ thì phải bồi
thường tất cả các chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, phục hồi sức
khoẻ, thu nhập thực tế bị mất của người chăm sóc người bị oan…
Đối với tài sản bị thu giữ, tạm giữ, kê biên, tịch thu mà bị thiệt hại thì
sẽ phải trả lại tài sản nếu còn, không thì sẽ căn cứ vào giá trị tài sản để bồi
thường. Bên cạnh đó nếu thu nhập thực tế của người bị oan bị mất do bị tạm
giữ, tạm giam, chấp hành hình phạt tù thì người bị oan cũng được bồi thường
khoản thu nhập đó.
Ngoài ra, cơ quan có trách nhiệm bồi thường sẽ phải tiến hành xin lỗi,
cải chính công khai tại nơi cư trú của người bị oan.
* Về thủ tục bồi thường thiệt hại:
Nghị quyết 388 đã quy định hai phương thức: Giải quyết theo thủ tục
thương lượng và thủ tục khởi kiện tại toà án. Người bị oan có thể làm đơn yêu
cầu gửi đến cơ quan Viện kiểm sát nhân dân có trách nhiệm bồi thường. Sau
khi thụ lý đơn, cơ quan Viện kiểm sát sẽ tiến hành thương lượng với người bị
thiệt hại. Nếu việc thương lượng thành thì Viện trưởng Viện kiểm sát nhân
dân sẽ ra quyết định bồi thường. Nếu việc thương lượng không thành thì
người bị oan có thể yêu cầu toà án có thẩm quyền giải quyết việc yêu cầu bồi
thường. Theo đó, Toà án có thẩm quyền giải quyết là Tòa án nhân dân huyện,
quận, thị xã thuộc tỉnh nơi người bị oan cư trú hoặc làm việc và được giải
quyết theo trình tự tố tụng dân sự.
1.2.3. Giai đoạn từ khi có Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 đến
trước khi có Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015
Kế thừa những nguyên tắc dân chủ của Bộ luật Tố tụng hình sự năm
1988, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 có những quy định cụ thể hơn về
23
quyền được bồi thường thiệt hại trong tố tụng hình sự. Bộ luật Tố tụng hình
sự năm 2003 quy định:
“Ngườibị oan do người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự
gây ra có quyền được bồi thường thiệt hại và phục hồi danh dự, quyền lợi.
Cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự đã làm oan
phải bồi thường thiệt hại và phục hồi danh dự, quyền lợi cho người bị oan;
người đã gây ra thiệt hạicó trách nhiệm bồi hoàn cho cơ quan có thẩm quyền
theoquy định của pháp luật”(Điều 29) [29].
Bộ luật Tố tụng hình sự 2003 cũng quy định về việc bảo đảm quyền
được bồi thường của người bị thiệt hại do cơ quan hoặc người có thẩm quyền
tiến hành tố tụng gây ra:
“Người bị thiệt hại do cơ quan hoặc người có thẩm quyền trong hoạt
động tố tụng hình sự gây ra có quyền được bồi thường thiệt hại.
Cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự phải bồi
thường cho ngườibị thiệt hại; người đã gây thiệt hạicó trách nhiệm bồi hoàn
cho cơ quan có thẩm quyền theo quy định của pháp luật” (Điều 29) [30].
Quy định này thể hiện sự quan tâm và trách nhiệm của Nhà nước trong
việc bảo đảm việc bồi thường thiệt hại về vật chất và phục hồi danh dự cho
người bị oan.
Sau quá trình thi hành Nghị quyết 388 và Thông tư 01 hướng dẫn thi
hành một số quy định của Nghị quyết 38 đã bộc lộ những tồn tại, vướng mắc
như: hình thức văn bản quy phạm pháp luật quy định về trách nhiệm bồi
thường thiệt hại do người thi hành công vụ gây ra có hiệu lực pháp lý không
cao; pháp luật hiện hành về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người thi
hành công vụ gây ra chưa được xây dựng trên quan điểm coi đây là trách
nhiệm bồi thường của Nhà nước nói chung mà chỉ coi là trách nhiệm bồi
thường của từng cơ quan nhà nước cụ thể (cơ quan quản lý người thi hành
24
công vụ đã gây ra thiệt hại); cơ quan có trách nhiệm giải quyết bồi thường
trong nhiều trường hợp chưa được xác định rõ và đặc biệt là chưa quy định cụ
thể trách nhiệm phối hợp của các cơ quan nhà nước khác có liên quan, nên
việc giải quyết bồi thường không đạt được kết quả như mong muốn; các loại
thiệt hại được bồi thường, mức bồi thường và nhiều vấn đề liên quan khác
được pháp luật quy định không thống nhất, chưa hợp lý, gây bất lợi cho cả cơ
quan giải quyết bồi thường nhà nước lẫn người bị thiệt hại; trách nhiệm hoàn
trả của công chức chưa được quy định rõ ràng. Tổng kết thực tiễn cho thấy,
Nghị định số 47 hầu như không phát huy tác dụng, đối với bồi thường thiệt
hại cho các trường hợp bị oan trong tố tụng hình sự theo quy định của Nghị
quyết số 388.
Để khắc phục những hạn chế, tại kỳ họp thứ 5, Quốc hội Khóa XII ngày
18/6/2009, Quốc hội đã thông qua Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà
nước, tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho hoạt động bồi thường Nhà nước nói
chung và bồi thường thiệt hại cho người bị oan trong tố tụng hình sự nói
riêng. Việc ban hành Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước cũng là
nhằm thực hiện Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24 tháng 5 năm 2005 của Bộ
Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam
đến năm 2010, định hướng đến năm 2020. Một trong các nội dung quan trọng
về định hướng xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật được quy định trong
Nghị quyết này là xây dựng và hoàn thiện chế độ bảo hộ của Nhà nước đối
với các quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, trong đó có quyền được bồi
thường thiệt hại do cán bộ, công chức nhà nước gây ra khi thi hành công vụ.
Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2009 đã dành từng
điều luật để quy định cụ thể, riêng rẽ về trách nhiệm bồi thường của từng cơ
quan tiến hành tố tụng. Theo đó, Điều 31 đã quy định Viện kiểm sát có trách
nhiệm bồi thường thiệt hại trong các trường hợp sau đây: Đã phê chuẩn quyết
25
định gia hạn tạm giữ của cơ quan điều tra có thẩm quyền nhưng người bị tạm
giữ không có hành vi vi phạm pháp luật; Đã phê chuẩn lệnh tạm giam của cơ
quan điều tra có thẩm quyền hoặc ra lệnh tạm giam, gia hạn tạm giam mà sau
đó có quyết định của cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự
xác định người đó không thực hiện hành vi phạm tội; Toà án cấp sơ thẩm trả
hồ sơ để điều tra bổ sung nhưng sau đó có quyết định của cơ quan có thẩm
quyền đình chỉ điều tra vì người đó không thực hiện hành vi phạm tội;Đã có
quyết định truy tố bị can nhưng Toà án cấp sơ thẩm tuyên bị cáo không có tội
vì không thực hiện hành vi phạm tội và bản án sơ thẩm đã có hiệu lực pháp
luật; Toà án cấp phúc thẩm giữ nguyên bản án, quyết định của Toà án cấp sơ
thẩm tuyên là không có tội vì không thực hiện hành vi phạm tội; Toà án cấp
phúc thẩm giữ nguyên bản án, quyết định của Toà án cấp sơ thẩm tuyên bị cáo
không có tội vì không thực hiện hành vi phạm tội và sau đó Toà án xét xử
theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm vẫn giữ nguyên bản án, quyết định của
Toà án cấp phúc thẩm tuyên bị cáo không có tội vì không thực hiện hành vi
phạm tội [31].
* Về thủ tục giải quyết yêu cầu bồi thường:
- Thủ tục giải quyết yêu cầu bồi thường tại Viện kiểm sát nhân dân:
Thủ tục giải quyết yêu cầu bồi thường tại cơ quan có trách nhiệm bồi
thường (Viện kiểm sát nhân dân) diễn ra như sau: sau khi nhận được văn bản
xác định hành vi trái pháp luật của người thi hành công vụ, người bị thiệt hại
sẽ gửi đơn yêu cầu bồi thường đến cơ quan có trách nhiệm bồi thường. Cơ
quan đã nhận đơn yêu cầu bồi thường và hồ sơ có trách nhiệm kiểm tra tính
hợp lệ của hồ sơ yêu cầu bồi thường để thụ lý, trường hợp thấy không thuộc
thẩm quyền của mình thì có trách nhiệm hướng dẫn người bị thiệt hại gửi đơn
đến cơ quan có thẩm quyền. Kể từ khi thụ lý hồ sơ, trong thời hạn luật định,
cơ quan đã thụ lý đơn có trách nhiệm tiến hành xác minh thiệt hại. Kết thúc
26
việc xác minh thiệt hại, cơ quan có trách nhiệm bồi thường phải tiến hành việc
thương lượng với người bị thiệt hại. Kết quả thương lượng sẽ là căn cứ để cơ
quan này ra quyết định giải quyết bồi thường. Một điểm cần lưu ý là trong bất cứ
trường hợp nào (thương lượng thành hoặc không) thì cơ quan có trách nhiệm bồi
thường vẫn phải ra quyết định giải quyết bồi thường. Trường hợp người bị thiệt
hại đồng ý với quyết định giải quyết bồi thường và không khởi kiện yêu cầu Toà
án giải quyết thì quyết định giải quyết bồi thường sẽ có hiệu lực pháp luật và là
căn cứ để cơ quan có trách nhiệm bồi thường tiến hành các thủ tục cần thiết để
bồi thường cho người bị thiệt hại. Trường hợp người bị thiệt hại không đồng ý
với quyết định giải quyết bồi thường thì trong thời hạn luật định, họ có quyền
khởi kiện ra Toà án yêu cầu giải quyết bồi thường.
Trong trường hợp quyết định giải quyết bồi thường đã có hiệu lực pháp
luật thì người bị thiệt hại không có quyền khởi kiện yêu cầu Toà án giải quyết
bồi thường.
- Thủ tục giải quyết yêu cầu bồi thường tại Toà án:
Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước quy định người bị thiệt hại
có quyền khởi kiện yêu cầu Toà án giải quyết bồi thường nếu hết thời hạn luật
định mà cơ quan có trách nhiệm bồi thường không ra quyết định giải quyết
bồi thường hoặc khi họ đã nhận được quyết định nhưng không đồng ý với nội
dung của quyết định đó. Về cơ bản, Toà án có thẩm quyền xét xử sơ thẩm là
Toà án cấp huyện nơi cá nhân bị thiệt hại cư trú, làm việc, nơi tổ chức bị thiệt
hại đặt trụ sở nơi thiệt hại xảy ra theo sự lựa chọn của người bị thiệt hại hoặc
trường hợp khác theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Do xác định
quan hệ trách nhiệm bồi thường nhà nước, xét về bản chất là quan hệ dân sự,
nên Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước đã quy định thủ tục giải quyết
yêu cầu bồi thường tại Toà án được thực hiện theo quy định của pháp luật về
tố tụng dân sự.
27
* Về các thiệt hạiđược bồi thường và mức bồi thường:
Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước quy định cụ thể từng loại
thiệt hại được bồi thường, bao gồm: thiệt hại do tài sản bị xâm phạm; thiệt hại
do thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút; thiệt hại do tổn thất về tinh thần;
thiệt hại về vật chất do người bị thiệt hại chết; thiệt hại về vật chất do bị tổn
hại về sức khoẻ; trả lại tài sản; khôi phục danh dự cho người bị thiệt hại trong
hoạt động tố tụng hình sự.
Đối với quy định về thiệt hại thực tế do thu nhập bị mất hoặc giảm sút,
Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước quy định cụ thể các căn cứ để xác
định thu nhập của người bị thiệt hại, riêng đối với trường hợp không thể xác
định được căn cứ để tính thu nhập bình quân của lao động cùng loại tại địa
phương thì sẽ lấy mức lương tối thiểu chung đối với các cơ quan nhà nước
làm căn cứ để tính thu nhập của người bị thiệt hại.
Đối với các quy định về thiệt hại do tổn thất về tinh thần trong hoạt
động tố tụng hình sự, Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước phân biệt rõ
đối với các trường hợp sau đây:
- Trường hợp bị tạm giữ, tạm giam, chấp hành hình phạt tù thì thiệt hại
do tổn thất về tinh thần được bồi thường được xác định là ba ngày lương tối
thiểu cho một ngày bị tạm giữ, tạm giam, chấp hành hình phạt tù.
- Trường hợp bị khởi tố, truy tố, xét xử, thi hành án mà không bị giam
giữ, tạm giam thì thiệt hại do tổn thất về tinh thần được bồi thường được xác
định là một ngày lương tối thiểu cho một ngày bị khởi tố, truy tố, xét xử, thi
hành án mà không bị giam giữ, tạm giam.
- Trường hợp người bị thiệt hại chết thì mức bồi thường do tổn thất về
tinh thần tối đa là 360 tháng lương tối thiểu.
* Về trình tự, thủ tục cấp và chi trả tiền bồi thường:
Sau khi Quyết định giải quyết bồi thường hoặc bản án dân sự về việc
giải quyết bồi thường có hiệu lực pháp luật, cơ quan Viện kiểm sát có trách
28
nhiệm giải quyết bồi thường sẽ phải lập hồ sơ đề nghị cấp kinh phí chuyển
đến Viện kiểm sát nhân dân tối cao thẩm định. Sau khi kiểm tra tính chính xác
và đầy đủ của hồ sơ, Viện kiểm sát nhân dân tối cao sẽ đề nghị Bộ Tài chính
cấp kinh phí bồi thường. Khi nhận được kinh phí, cơ quan có trách nhiệm bồi
thường sẽ tiến hành chi trả tiền bồi thường một lần cho người bị thiệt hại.
* Về trách nhiệm hoàn trả của người thi hành công vụ
Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2009 đã quy định một
cách toàn diện về trách nhiệm hoàn trả, bao gồm: nghĩa vụ hoàn trả và xử lý
trách nhiệm của người thi hành công vụ (Điều 56); căn cứ xác định mức hoàn
trả (Điều 57); trình tự, thủ tục quyết định việc hoàn trả (Điều 58); thẩm quyền
ra quyết định hoàn trả (Điều 59); khiếu nại, khởi kiện quyết định hoàn trả
(Điều 60); hiệu lực của quyết định hoàn trả (Điều 61); thực hiện việc hoàn trả
(Điều 62); quản lý, sử dụng tiền hoàn trả (Điều 63).
Đối với việc bồi thường cho người bị thiệt hại trong hoạt động tố tụng
hình sự, do đặc thù của hoạt động tố tụng hình sự, do yêu cầu của việc đấu
tranh phòng và chống tội phạm, đã đòi hỏi các cơ quan tiến hành tố tụng,
người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải đưa ra các quyết định một cách
nhanh chóng, chính vì vậy, khó có thể tránh khỏi việc gây ra thiệt hại cho
người khác. Vì vậy, Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước đã quy định
trong trường hợp gây ra thiệt hại mà do lỗi vô ý thì người có thẩm quyền tiến
hành tố tụng hình sự không phải chịu trách nhiệm hoàn trả (khoản 2 Điều 56).
Trường hợp người thi hành công vụ có trách nhiệm hoàn trả không
đồng ý với quyết định hoàn trả thì Luật cũng quy định họ có quyền khiếu nại
hoặc khởi kiện quyết định hoàn trả theo quy định của pháp luật về khiếu nại,
tố cáo và pháp luật về thủ tục giải quyết các vụ án hành chính (Điều 60).
Trường hợp người thi hành công vụ không có khiếu nại, khởi kiện quyết định
hoàn trả thì sau 15 ngày, quyết định hoàn trả có hiệu lực pháp luật và cơ quan
đã ra quyết định có trách nhiệm tổ chức thi hành quyết định này (Điều 61).
29
Chương 2. QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ TRÁCH
NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN
DÂN TRONG HOẠT ĐỘNG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM VÀ
THỰC TIỄN ÁP DỤNG
2.1. Căn cứ xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Viện
kiểm sát nhân dân trong hoạt động tố tụng hình sự
Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định nguyên tắc bảo đảm quyền
được bồi thường của người bị thiệt hại trong hoạt động tố tụng hình sự tại
Điều 31. Nguyên tắc có ý nghĩa bảo đảm khôi phục các quyền và lợi ích hợp
pháp của người bị thiệt hại do cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng
gây ra; nâng cao trách nhiệm của người có thẩm quyền trong các hoạt động tố
tụng, giúp cho việc giải quyết vụ án đúng đắn và hợp pháp. Nguyên tắc này
thể hiện sự kiên quyết của Đảng và Nhà nước ta trong việc khắc phục các
trường hợp làm oan, sai đối với người tham gia tố tụng và xử lý những người
có trách nhiệm, bảo đảm quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của
công dân, qua đó nâng cao uy tín của các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố
tụng, củng cố lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và các cơ quan
có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Cụ thể Điều 31 quy định như sau:
Người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt, bị tạm giữ, tạm
giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án oan, trái pháp luật có
quyền được bồi thường thiệt hại về vật chất, tinh thần và phục hồi danh dự.
Nhà nước có trách nhiệm bồi thường thiệt hại và phụchồi danh dự, quyền lợi
cho người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt, bị tạm giữ, tạm
giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án oan, trái pháp luật do cơ
quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng gây ra.
30
Người khác bị thiệt hại do cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố
tụng gây ra có quyền được Nhà nước bồi thường thiệt hại [30].
Một điểm mới của Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 so với Bộ luật Tố tụng
hình sự 2003 đã khẳng định bồi thường thiệt hại cho người bị oan là trách
nhiệm của Nhà nước, trước đây quy định trách nhiệm này là trách nhiệm của
cơ quan tiến hành tố tụng. Với quy định này, đã thể hiện đúng đắn hơn bản
chất của cơ chế bồi thường nhà nước cho người bị oan trong hoạt động tố tụng
hình sự, không có sự nhầm lẫn đây là trách nhiệm của các cơ quan tiến hành
tố tụng, thực chất các cơ quan đó chỉ đại diện cho Nhà nước thực hiện việc
giải quyết bồi thường.
Ngoài ra, so với Bộ luật Tố tụng hình sự 2003, Bộ luật Tố tụng hình sự
2015 đã quy định mở rộng hơn, cụ thể hơn đối tượng được bồi thường trong
hoạt động tố tụng hình sự, trước đây chỉ là quy định chung chung là “Người
bị oan do người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự” (Điều 29),
Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 đã liệt kê cụ thể là “Người bị giữ trong trường
hợp khẩn cấp, ngườibị bắt, bị tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét
xử, thi hành án oan” và cả “trái pháp luật” có quyền được bồi thường thiệt
hại về vật chất, tinh thần và phục hồi danh dự. Như vậy, với quy định này có
thể hiểu không chỉ những người bị oan được bồi thường mà cả trường hợp
“sai” có phát sinh thiệt hại cũng được Nhà nước bồi thường. Tuy nhiên, trong
Bộ luật Hình sự 2015 đã quy định trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân
thương mại và Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 có quy định riêng về thủ tục tố
tụng đối với pháp phân, nhưng lại không có quy định về nguyên tắc bồi
thường cho đối tượng này khi bị truy cứu trách nhiệm hình sự oan, trái pháp
luật trong hoạt động tố tụng hình sự.
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Viện kiểm sát nhân dân trong hoạt
động tố tụng hình sự là việc Viện kiểm sát nhân dân thực hiện hành vi,
31
quyết định tố tụng làm oan người vô tội, hành vi gây thiệt hại của Viện kiểm
sát có mối quan hệ nhân quả với thiệt hại thực tế xảy ra. Những hành vi, quyết
định tố tụng đó được quy định rõ ràng, chi tiết tại Điều 35 Luật Trách nhiệm
bồi thường của Nhà nước năm 2017, bao gồm [32]:
- Đã phê chuẩn lệnh bắt, quyết định gia hạn tạm giữ của Cơ quan điều
tra hoặc cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra
nhưng người bị bắt, bị tạm giữ không có hành vi vi phạm pháp luật;
- Đã phê chuẩn quyết định khởi tố bị can, lệnh tạm giam của Cơ quan
điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều
tra hoặc đã ra quyết định khởi tố bị can, lệnh tạm giam, quyết định gia hạn
tạm giam mà sau đó có quyết định của cơ quan, người có thẩm quyền xác
định không có sự việc phạm tội hoặc hành vi không cấu thành tội phạm hoặc
đã hết thời hạn điều tra vụ án mà không chứng minh được bị can đã thực hiện
tội phạm, (trừ trường hợp Viện kiểm sát quyết định trả hồ sơ vụ án để điều tra
bổ sung, Cơ quan điều tra ra kết luận điều tra bổ sung hoặc kết luận điều tra
mới đề nghịtruy tố nhưng Viện kiểm sát ra quyết định đình chỉ vụ án đối với
bị can vì không có sự việc phạm tội hoặc hành vi không cấu thành tội phạm);
đã quyết định trả hồ sơ vụ án để điều tra bổ sung nhưng căn cứ kết quả điều
tra bổ sung, Cơ quan điều tra ra quyết định đình chỉ điều tra đối với bị can vì
không có sự việc phạm tội hoặc hành vi không cấu thành tội phạm hoặc đã hết
thời hạn điều tra vụ án mà không chứng minh được bị can đã thực hiện tội
phạm;
- Đã ra quyết định truy tố bị can nhưng Tòa án cấp sơ thẩm tuyên bị cáo
không có tội vì không có sự việc phạm tội hoặc hành vi không cấu thành tội
phạm và bản án sơ thẩm đã có hiệu lực pháp luật;
- Tòa án cấp sơ thẩm quyết định trả hồ sơ vụ án để điều tra bổ sung
nhưng sau đó có quyết định của cơ quan, người có thẩm quyền đình chỉ điều
32
tra, đình chỉ vụ án vì không có sự việc phạm tội hoặc hành vi không cấu thành
tội phạm hoặc đã hết thời hạn điều tra vụ án mà không chứng minh được bị
can đã thực hiện tội phạm;
- Tòa án cấp sơ thẩm quyết định trả hồ sơ vụ án để điều tra bổ sung
nhưng sau đó tuyên bị cáo không có tội vì không có sự việc phạm tội hoặc
hành vi không cấu thành tội phạm và bản án sơ thẩm đã có hiệu lực pháp luật;
- Tòa án cấp phúc thẩm giữ nguyên bản án, quyết định của Tòa án cấp
sơ thẩm xác định bị cáo không có tội vì không có sự việc phạm tội hoặc hành
vi không cấu thành tội phạm;
- Tòa án cấp phúc thẩm giữ nguyên bản án, quyết định của Tòa án cấp
sơ thẩm xác định bị cáo không có tội vì không có sự việc phạm tội hoặc hành
vi không cấu thành tội phạm và sau đó Tòa án xét xử theo thủ tục giám đốc
thẩm, tái thẩm vẫn giữ nguyên bản án, quyết định của Tòa án cấp phúc thẩm
xác định bị cáo không có tội vì không có sự việc phạm tội hoặc hành vi không
cấu thành tội phạm.
2.2. Điều kiện để Viện kiểm sát nhân dân thụ lý, giải quyết việc bồi
thường thiệt hại trong hoạt động tố tụng hình sự
- Có hành vi, quyết định tố tụng của Viện kiểm sát nhân dân làm oan
người vô tội:
Hành vi, quyết định tố tụng của Viện kiểm sát nhân dân phải là hành vi
cuối cùng trong trình tự, thủ tục tố tụng, xác định rõ hành vi trái pháp luật của
người thi hành công vụ hoặc quyết định của cơ quan Viện kiểm sát xác nhận
người bị thiệt hại thuộc trường hợp được Viện kiểm sát bồi thường (hay còn
gọi là văn bản làm căn cứ yêu cầu bồi thường) bao gồm: những quyết định mà
Viện kiểm sát ban hành (quyết định khởi tố bị can, quyết định truy tố); phê
chuẩn lệnh, quyết định của Cơ quan điểu tra (phê chuẩn lệnh bắt, lệnh tạm
giam, quyết định gia hạn tạm giữ,quyết định khởi tố bị can).Những hành vi,
33
quyết định đó phải có lỗi của Viện kiểm sát, có căn cứ xác định có mối quan
hệ nhân quả giữa thiệt hại thực tế và hành vi gây thiệt hại .
- Có yêu cầu bồi thường của người bị oan:
Viện kiểm sát nhân dân chỉ giải quyết bồi thường thiệt hại khi có yêu
cầu của những người sau [32]: người bị thiệt hại; người thừa kế của người bị
thiệt hại trong trường hợp người bị thiệt hại chết; người đại diện theo pháp
luật của người bị thiệt hại thuộc trường hợp phải có người đại diện theo pháp
luật theo quy định của Bộ luật Dân sự; cá nhân được những người trên ủy
quyền thực hiện quyền yêu cầu bồi thường.
- Yêu cầu bồi thường của ngườiyêu cầu còn thời hiệu:
Thời hiệu yêu cầu bồi thường theo pháp luật hiện hành là 03 năm kể từ
ngày người có quyền yêu cầu bồi thường nhận được văn bản làm căn cứ yêu cầu
bồi thường [32], trừ trường hợp yêu cầu phục hồi danh dự và trường hợp yêu cầu
Tòa án giải quyết sau khi Viện kiểm sát đã giải quyết bồi thường. Việc Luật
Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2017 sửa đổi tăng tăng thời hiệu yêu
cầu bồi thường từ 02 năm (quy định của Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà
nước năm 2009) lên 03 năm là để bảo đảm phù hợp với quy định tại Điều 588 Bộ
luật Dân sự năm 2015 về thời hiệu khởi kiện yêu cầu bồi thường.
Ngoài ra, Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2017 cũng
quy định về thời gian không tính vào thời hiệu yêu cầu bồi thường (thời gian
có sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan theo quy định của Bộ luật
Dân sự) và nghĩa vụ chứng minh của người yêu cầu bồi thường đối với
khoảng thời gian không tính vào thời hiệu. Quy định này là hoàn toàn phù hợp
nhằm bảo đảm tốt hơn quyền và lợi ích hợp pháp của người bị thiệt hại.
2.3. Trình tự, thủ tục thực hiện trách nhiệm bồi thường thiệt hại
của Viện kiểm sát nhân dân trong hoạt động tố tụng hình sự
Hiện nay, trách nhiệm bồi thường thiệt hại của nhà nước được Luật
Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2017 có hiệu lực thi hành từ
34
ngày 01/7/2018 điều chỉnh. Ngoài ra, Nghị định số 68/2018/NĐ-CP ngày
15/5/2018 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành
Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước. Bên cạnh đó, Viện kiểm sát nhân
dân tối cao cũng có Quyết định số 304/QĐ-VKSNDTC quy định riêng, đặc
thù về quy trình giải quyết yêu cầu bồi thường nhà nước trong hoạt động tố
tụng hình sự thuộc trách nhiệm của Viện kiểm sát nhân dân. Theo đó, trình tự,
thủ tục thực hiện trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Viện kiểm sát nhân dân
trong hoạt động tố tụng hình sự được thực hiện như sau:
* Về việc tiếp nhận, xử lý hồ sơ yêu cầu bồi thường:
Tiếp nhận hồ sơ yêu cầu bồi thường là việc Viện kiểm sát nhân dân có
trách nhiệm giải quyết bồi thường phân công người tiếp nhận văn bản, tài liệu
do người bị thiệt hại hoặc người yêu cầu bồi thường nộp trực tiếp hoặc gửi
qua dịch vụ bưu chính đến Viện kiểm sát nhân dân để yêu cầu bồi thường
thiệt hại theo quy định của Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước.
Viện kiểm sát nhân dân có trách nhiệm tiếp nhận hồ sơ yêu cầu bồi
thường, xử lý theo các trường hợp sau:
Thứ nhất, trường hợp hồ sơ yêu cầu bồi thường chưa đầy đủ theo quy
định thì người tiếp nhận hồ sơ báo cáo Lãnh đạo Viện kiểm sát ban hành văn
bản yêu cầu bổ sung hồ sơ. Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận
được văn bản yêu cầu của Viện kiểm sát, người yêu cầu bồi thường phải nộp
tài liệu bổ sung hồ sơ.
Thứ hai, đối với trường hợp người yêu cầu bồi thường đề nghị Viện
kiểm sát giải quyết bồi thường thu thập tài liệu hoặc làm rõ nội dung văn bản
làm căn cứ yêu cầu bồi thường thì trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày
nhận được đề nghị, người tiếp nhận hồ sơ báo cáo Lãnh đạo Viện kiểm sát ra
văn bản yêu cầu cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền cung cấp văn bản
hoặc làm rõ nội dung văn bản làm căn cứ yêu cầu bồi thường.
35
Thứ ba, trường hợp hồ sơ yêu cầu bồi thường đã đầy đủ và hợp lệ thì
trong thời hạn 02 ngày làm việc, người tiếp nhận hồ sơ ghi vào Sổ thụ lý hồ
sơ yêu cầu bồi thường và thông báo bằng văn bản về việc thụ lý hồ sơ yêu cầu
bồi thường cho người yêu cầu.
Thứ tư, trường hợp hồ sơ có một trong các căn cứ sau đây thì Viện
kiểm sát ban hành văn bản thông báo không thụ lý hồ sơ yêu cầu bồi thường,
trả lại hồ sơ cho người yêu cầu bồi thường và nêu rõ lý do: yêu cầu bồi
thường không thuộc thẩm quyền giải quyết của Viện kiểm sát tiếp nhận hồ sơ
hoặc phạm vi trách nhiệm bồi thường của Nhà nước; thời hiệu yêu cầu bồi
thường đã hết; người yêu cầu bồi thường không phải là người có quyền yêu
cầu bồi thường; hồ sơ không đầy đủ mà người yêu cầu bồi thường không bổ
sung trong thời hạn quy định; yêu cầu bồi thường đã được thực hiện theo thủ
tục tại Tòa án; yêu cầu bồi thường đã được giải quyết bằng bản án, quyết định
đã có hiệu lực pháp luật.
Thứ năm, trường hợp sau khi thụ lý hồ sơ yêu cầu bồi thường mới phát
hiện có một trong các căn cứ trên thì người tiếp nhận hồ sơ báo cáo Lãnh đạo
Viện kiểm sát ban hành văn bản thông báo dừng việc giải quyết yêu cầu bồi
thường, xóa tên vụ việc trong Sổ thụ lý hồ sơ yêu cầu bồi thường và trả lại hồ
sơ cho người yêu cầu bồi thường.
* Về việc cử người giải quyếtyêu cầu bồi thường:
Trong thời hạn 02 ngày làm việc, kể từ ngày thụ lý hồ sơ, Viện trưởng
Viện kiểm sát có trách nhiệm giải quyết bồi thường ra Quyết định cử người
giải quyết bồi thường.
Căn cứ vào tính chất của từng vụ việc, Viện trưởng Viện kiểm sát giải
quyết bồi thường cử một Phó Viện trưởng, một hoặc nhiều Kiểm sát viên,
Kiểm tra viên, công chức giải quyết yêu cầu bồi thường.
36
Người được cử giải quyết yêu cầu bồi thường phải có trình độ chuyên
môn, nghiệp vụ, kinh nghiệm thực tiễn trong lĩnh vực hình sự, tố tụng hình sự,
bồi thường nhà nước và không có quyền và lợi ích liên quan đến việc giải
quyết bồi thường, không là người thân thích của người thi hành công vụ gây
thiệt hại, người bị thiệt hại.
* Về việc phục hồi danhdự cho người bị oan:
Bên cạnh việc bồi thường cho người bị thiệt hại về vật chất thì việc
phục hồi danh dự cho họ mang một ý nghĩa vô cùng lớn. Điều đó thể hiện thái
độ cầu thị, nhận sai và muốn sửa sai của cơ quan Viện kiểm sát gây thiệt hại;
đồng thời cũng là sự an ủi, động viên phần nào đối với người bị thiệt hại và
gia đình họ. Vì vậy mà Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2017
đã có một thay đổi so với Luật năm 2009, đó là: việc phục hồi danh dự tiến
hành song song với việc giải quyết yêu cầu bồi thường chứ không đợi đến khi
bồi thường xong về vật chất mới tiến hành phục hồi danh dự như trước đây.
Việc phục hồi danh dự đối với người bị thiệt hại trong hoạt động tố
tụng hình sự được thực hiện bằng hình thức: Trực tiếp xin lỗi và cải chính
công khai; đăng báo xin lỗi và cải chính công khai.
Viện kiểm sát nhân dân có trách nhiệm giải quyết bồi thường phải chủ
động tổ chức thực hiện phục hồi danh dự cho người bị thiệt hại, trừ trường
hợp người bị thiệt hại yêu cầu không phục hồi danh dự. Việc phục hồi danh
dự cho người bị thiệt hại phải bảo đảm kịp thời, công khai, đúng pháp luật,
tôn trọng nguyện vọng chính đáng của người bị thiệt hại.
- Chủ động phục hồi danh dự:
Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày có bản án, quyết định có hiệu lực
pháp luật của cơ quan, người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự
xác định rõ người bị thiệt hại thuộc trường hợp được Nhà nước bồi thường,
Viện kiểm sát giải quyết bồi thường gửi thông báo bằng văn bản cho người bị
thiệt hại về việc tổ chức thực hiện phục hồi danh dự.
37
TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG HOẠT ĐỘNG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777.149.703
TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG HOẠT ĐỘNG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777.149.703
TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG HOẠT ĐỘNG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777.149.703
TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG HOẠT ĐỘNG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777.149.703
TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG HOẠT ĐỘNG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777.149.703
TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG HOẠT ĐỘNG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777.149.703
TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG HOẠT ĐỘNG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777.149.703
TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG HOẠT ĐỘNG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777.149.703
TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG HOẠT ĐỘNG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777.149.703
TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG HOẠT ĐỘNG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777.149.703
TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG HOẠT ĐỘNG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777.149.703
TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG HOẠT ĐỘNG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777.149.703
TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG HOẠT ĐỘNG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777.149.703
TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG HOẠT ĐỘNG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777.149.703
TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG HOẠT ĐỘNG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777.149.703
TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG HOẠT ĐỘNG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777.149.703
TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG HOẠT ĐỘNG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777.149.703
TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG HOẠT ĐỘNG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777.149.703
TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG HOẠT ĐỘNG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777.149.703
TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG HOẠT ĐỘNG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777.149.703
TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG HOẠT ĐỘNG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777.149.703
TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG HOẠT ĐỘNG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777.149.703
TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG HOẠT ĐỘNG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777.149.703
TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG HOẠT ĐỘNG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777.149.703
TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG HOẠT ĐỘNG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777.149.703
TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG HOẠT ĐỘNG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777.149.703
TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG HOẠT ĐỘNG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777.149.703
TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG HOẠT ĐỘNG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777.149.703
TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG HOẠT ĐỘNG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777.149.703
TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG HOẠT ĐỘNG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777.149.703
TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG HOẠT ĐỘNG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777.149.703
TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG HOẠT ĐỘNG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777.149.703
TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG HOẠT ĐỘNG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777.149.703
TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG HOẠT ĐỘNG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777.149.703
TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG HOẠT ĐỘNG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777.149.703
TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG HOẠT ĐỘNG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777.149.703
TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG HOẠT ĐỘNG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777.149.703
TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG HOẠT ĐỘNG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777.149.703
TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG HOẠT ĐỘNG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777.149.703
TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG HOẠT ĐỘNG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777.149.703
TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG HOẠT ĐỘNG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777.149.703
TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG HOẠT ĐỘNG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777.149.703
TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG HOẠT ĐỘNG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777.149.703
TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG HOẠT ĐỘNG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777.149.703
TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG HOẠT ĐỘNG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777.149.703
TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG HOẠT ĐỘNG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777.149.703
TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG HOẠT ĐỘNG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777.149.703
TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG HOẠT ĐỘNG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777.149.703
TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG HOẠT ĐỘNG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777.149.703
TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG HOẠT ĐỘNG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777.149.703
TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG HOẠT ĐỘNG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777.149.703
TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG HOẠT ĐỘNG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777.149.703
TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG HOẠT ĐỘNG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777.149.703

More Related Content

Similar to TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG HOẠT ĐỘNG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777.149.703

Similar to TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG HOẠT ĐỘNG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777.149.703 (20)

Luận văn: Thực trạng về Pháp luật thi hành án dân sự, HOT
Luận văn: Thực trạng về Pháp luật thi hành án dân sự, HOTLuận văn: Thực trạng về Pháp luật thi hành án dân sự, HOT
Luận văn: Thực trạng về Pháp luật thi hành án dân sự, HOT
 
Luận văn: Người tiến hành tố tụng trong Toà án nhân dân, HAY
Luận văn: Người tiến hành tố tụng trong Toà án nhân dân, HAYLuận văn: Người tiến hành tố tụng trong Toà án nhân dân, HAY
Luận văn: Người tiến hành tố tụng trong Toà án nhân dân, HAY
 
Bảo vệ quyền con người bằng chế định loại trừ trách nhiệm hình sự
Bảo vệ quyền con người bằng chế định loại trừ trách nhiệm hình sựBảo vệ quyền con người bằng chế định loại trừ trách nhiệm hình sự
Bảo vệ quyền con người bằng chế định loại trừ trách nhiệm hình sự
 
Quyền con người qua biện pháp ngăn chặn hạn chế quyền tự do
Quyền con người qua biện pháp ngăn chặn hạn chế quyền tự doQuyền con người qua biện pháp ngăn chặn hạn chế quyền tự do
Quyền con người qua biện pháp ngăn chặn hạn chế quyền tự do
 
Luận văn: Căn cứ quyết định hình phạt theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Căn cứ quyết định hình phạt theo luật hình sự, HOTLuận văn: Căn cứ quyết định hình phạt theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Căn cứ quyết định hình phạt theo luật hình sự, HOT
 
Luận văn: Căn cứ xác định trách nhiệm bồi thường của Nhà nước
Luận văn: Căn cứ xác định trách nhiệm bồi thường của Nhà nướcLuận văn: Căn cứ xác định trách nhiệm bồi thường của Nhà nước
Luận văn: Căn cứ xác định trách nhiệm bồi thường của Nhà nước
 
Luận văn: Xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước
Luận văn: Xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nướcLuận văn: Xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước
Luận văn: Xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước
 
Luận văn: Đại diện theo pháp luật của đương sự, HOT, HAY
Luận văn: Đại diện theo pháp luật của đương sự, HOT, HAYLuận văn: Đại diện theo pháp luật của đương sự, HOT, HAY
Luận văn: Đại diện theo pháp luật của đương sự, HOT, HAY
 
Thi hành nghĩa vụ dân sự trong bản án và quyết định hình sự, HAY
Thi hành nghĩa vụ dân sự trong bản án và quyết định hình sự, HAYThi hành nghĩa vụ dân sự trong bản án và quyết định hình sự, HAY
Thi hành nghĩa vụ dân sự trong bản án và quyết định hình sự, HAY
 
Vai trò của Tòa án trong việc bảo vệ quyền con người ở Việt Nam hiện nay
 Vai trò của Tòa án trong việc bảo vệ quyền con người ở Việt Nam hiện nay Vai trò của Tòa án trong việc bảo vệ quyền con người ở Việt Nam hiện nay
Vai trò của Tòa án trong việc bảo vệ quyền con người ở Việt Nam hiện nay
 
Đề tài: Vai trò của Tòa án trong việc bảo vệ quyền con người, HOT
Đề tài: Vai trò của Tòa án trong việc bảo vệ quyền con người, HOTĐề tài: Vai trò của Tòa án trong việc bảo vệ quyền con người, HOT
Đề tài: Vai trò của Tòa án trong việc bảo vệ quyền con người, HOT
 
Đề tài: Địa vị pháp lý của người bị hại trong tố tụng hình sự, HOT
Đề tài: Địa vị pháp lý của người bị hại trong tố tụng hình sự, HOTĐề tài: Địa vị pháp lý của người bị hại trong tố tụng hình sự, HOT
Đề tài: Địa vị pháp lý của người bị hại trong tố tụng hình sự, HOT
 
Luận văn: Biện pháp khẩn cấp tạm thời tiền tố tụng, HOT, HAY
Luận văn: Biện pháp khẩn cấp tạm thời tiền tố tụng, HOT, HAYLuận văn: Biện pháp khẩn cấp tạm thời tiền tố tụng, HOT, HAY
Luận văn: Biện pháp khẩn cấp tạm thời tiền tố tụng, HOT, HAY
 
Luận văn: Bảo vệ quyền con người bằng pháp luật hình sự, HOT
Luận văn: Bảo vệ quyền con người bằng pháp luật hình sự, HOTLuận văn: Bảo vệ quyền con người bằng pháp luật hình sự, HOT
Luận văn: Bảo vệ quyền con người bằng pháp luật hình sự, HOT
 
Luận văn: Bảo vệ các quyền con người bằng pháp luật hình sự
Luận văn: Bảo vệ các quyền con người bằng pháp luật hình sựLuận văn: Bảo vệ các quyền con người bằng pháp luật hình sự
Luận văn: Bảo vệ các quyền con người bằng pháp luật hình sự
 
Luận văn: Bảo đảm quyền lợi hợp pháp của người được thi hành án
Luận văn: Bảo đảm quyền lợi hợp pháp của người được thi hành ánLuận văn: Bảo đảm quyền lợi hợp pháp của người được thi hành án
Luận văn: Bảo đảm quyền lợi hợp pháp của người được thi hành án
 
Luận văn: Quyền và lợi ích hợp pháp của người được thi hành án
Luận văn: Quyền và lợi ích hợp pháp của người được thi hành ánLuận văn: Quyền và lợi ích hợp pháp của người được thi hành án
Luận văn: Quyền và lợi ích hợp pháp của người được thi hành án
 
Luận văn: Người tiến hành tố tụng trong cơ quan Tòa án Nhân dân
Luận văn: Người tiến hành tố tụng trong cơ quan Tòa án Nhân dânLuận văn: Người tiến hành tố tụng trong cơ quan Tòa án Nhân dân
Luận văn: Người tiến hành tố tụng trong cơ quan Tòa án Nhân dân
 
Luận văn: Người tiến hành tố tụng trong cơ quan Tòa án, HAY
Luận văn: Người tiến hành tố tụng trong cơ quan Tòa án, HAYLuận văn: Người tiến hành tố tụng trong cơ quan Tòa án, HAY
Luận văn: Người tiến hành tố tụng trong cơ quan Tòa án, HAY
 
VAI TRÒ BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI CỦA VIỆN KIỂM SÁT
VAI TRÒ BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI CỦA VIỆN KIỂM SÁTVAI TRÒ BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI CỦA VIỆN KIỂM SÁT
VAI TRÒ BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI CỦA VIỆN KIỂM SÁT
 

More from OnTimeVitThu

More from OnTimeVitThu (20)

Luận văn thạc sĩ kế toán: Phân tích tài chính công ty
Luận văn thạc sĩ kế toán: Phân tích tài chính công tyLuận văn thạc sĩ kế toán: Phân tích tài chính công ty
Luận văn thạc sĩ kế toán: Phân tích tài chính công ty
 
Luận văn thạc sĩ: Pháp luật về thời gian làm việc, thời giờ nghỉ ngơi ở VN
Luận văn thạc sĩ: Pháp luật về thời gian làm việc, thời giờ nghỉ ngơi ở VNLuận văn thạc sĩ: Pháp luật về thời gian làm việc, thời giờ nghỉ ngơi ở VN
Luận văn thạc sĩ: Pháp luật về thời gian làm việc, thời giờ nghỉ ngơi ở VN
 
Luận văn thạc sĩ: Khung pháp lý điều chỉnh hoạt động tài trợ của bên thứ 3 tr...
Luận văn thạc sĩ: Khung pháp lý điều chỉnh hoạt động tài trợ của bên thứ 3 tr...Luận văn thạc sĩ: Khung pháp lý điều chỉnh hoạt động tài trợ của bên thứ 3 tr...
Luận văn thạc sĩ: Khung pháp lý điều chỉnh hoạt động tài trợ của bên thứ 3 tr...
 
Luận văn thạc sĩ: Các hình thức xử lý kỷ luật lao động trong pháp luật lao độ...
Luận văn thạc sĩ: Các hình thức xử lý kỷ luật lao động trong pháp luật lao độ...Luận văn thạc sĩ: Các hình thức xử lý kỷ luật lao động trong pháp luật lao độ...
Luận văn thạc sĩ: Các hình thức xử lý kỷ luật lao động trong pháp luật lao độ...
 
Luận văn thạc sĩ: Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do gây ô nhiễm môi trường ...
Luận văn thạc sĩ: Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do gây ô nhiễm môi trường ...Luận văn thạc sĩ: Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do gây ô nhiễm môi trường ...
Luận văn thạc sĩ: Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do gây ô nhiễm môi trường ...
 
Luận văn thạc sĩ: Pháp luật về thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi cơ bản
Luận văn thạc sĩ: Pháp luật về thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi cơ bảnLuận văn thạc sĩ: Pháp luật về thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi cơ bản
Luận văn thạc sĩ: Pháp luật về thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi cơ bản
 
Khoá luận: Phân tích các yếu tố ảnh hưởng tới niềm tin của người tiêu dùng và...
Khoá luận: Phân tích các yếu tố ảnh hưởng tới niềm tin của người tiêu dùng và...Khoá luận: Phân tích các yếu tố ảnh hưởng tới niềm tin của người tiêu dùng và...
Khoá luận: Phân tích các yếu tố ảnh hưởng tới niềm tin của người tiêu dùng và...
 
Tiểu luận ngành Ngôn ngữ nhật, Đề tài sân khấu truyền thống Nhật Bản
Tiểu luận ngành Ngôn ngữ nhật, Đề tài sân khấu truyền thống Nhật BảnTiểu luận ngành Ngôn ngữ nhật, Đề tài sân khấu truyền thống Nhật Bản
Tiểu luận ngành Ngôn ngữ nhật, Đề tài sân khấu truyền thống Nhật Bản
 
Tiểu luận tiếng nhật, Đề tài ngôn ngữ chấp dính
Tiểu luận tiếng nhật, Đề tài ngôn ngữ chấp dínhTiểu luận tiếng nhật, Đề tài ngôn ngữ chấp dính
Tiểu luận tiếng nhật, Đề tài ngôn ngữ chấp dính
 
TIỂU LUẬN: MÔ HÌNH THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ TẠI VIỆT NAM, ĐIỂM CAO
TIỂU LUẬN: MÔ HÌNH THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ TẠI VIỆT NAM, ĐIỂM CAOTIỂU LUẬN: MÔ HÌNH THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ TẠI VIỆT NAM, ĐIỂM CAO
TIỂU LUẬN: MÔ HÌNH THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ TẠI VIỆT NAM, ĐIỂM CAO
 
MẪU 6: TIỂU LUẬN MARKETING DỊCH VỤ, TẢI MIỄN PHÍ
MẪU 6: TIỂU LUẬN MARKETING DỊCH VỤ, TẢI MIỄN PHÍMẪU 6: TIỂU LUẬN MARKETING DỊCH VỤ, TẢI MIỄN PHÍ
MẪU 6: TIỂU LUẬN MARKETING DỊCH VỤ, TẢI MIỄN PHÍ
 
MẪU 3: TIỂU LUẬN MARKETING DỊCH VỤ, TẢI MIỄN PHÍ
MẪU 3: TIỂU LUẬN MARKETING DỊCH VỤ, TẢI MIỄN PHÍMẪU 3: TIỂU LUẬN MARKETING DỊCH VỤ, TẢI MIỄN PHÍ
MẪU 3: TIỂU LUẬN MARKETING DỊCH VỤ, TẢI MIỄN PHÍ
 
MẪU 1: TIỂU LUẬN MARKETING DỊCH VỤ, TẢI MIỄN PHÍ
MẪU 1: TIỂU LUẬN MARKETING DỊCH VỤ, TẢI MIỄN PHÍMẪU 1: TIỂU LUẬN MARKETING DỊCH VỤ, TẢI MIỄN PHÍ
MẪU 1: TIỂU LUẬN MARKETING DỊCH VỤ, TẢI MIỄN PHÍ
 
Luận văn: Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả tài chính của các doa...
Luận văn: Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả tài chính của các doa...Luận văn: Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả tài chính của các doa...
Luận văn: Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả tài chính của các doa...
 
Luận văn: Hoàn thiện công tác thẩm định giá bất động sản trong cho vay tại Ng...
Luận văn: Hoàn thiện công tác thẩm định giá bất động sản trong cho vay tại Ng...Luận văn: Hoàn thiện công tác thẩm định giá bất động sản trong cho vay tại Ng...
Luận văn: Hoàn thiện công tác thẩm định giá bất động sản trong cho vay tại Ng...
 
Báo cáo thực tập: Phân tích hoạt động cho vay mua bất động sản có tài sản đảm...
Báo cáo thực tập: Phân tích hoạt động cho vay mua bất động sản có tài sản đảm...Báo cáo thực tập: Phân tích hoạt động cho vay mua bất động sản có tài sản đảm...
Báo cáo thực tập: Phân tích hoạt động cho vay mua bất động sản có tài sản đảm...
 
Luận văn Thạc sĩ: Nâng cao hiệu quả kinh doanh bất động sản của công ty
Luận văn Thạc sĩ: Nâng cao hiệu quả kinh doanh bất động sản của công tyLuận văn Thạc sĩ: Nâng cao hiệu quả kinh doanh bất động sản của công ty
Luận văn Thạc sĩ: Nâng cao hiệu quả kinh doanh bất động sản của công ty
 
Khóa luận: Phát triển kinh doanh bất động sản của Công ty Cổ phần
Khóa luận: Phát triển kinh doanh bất động sản của Công ty Cổ phần Khóa luận: Phát triển kinh doanh bất động sản của Công ty Cổ phần
Khóa luận: Phát triển kinh doanh bất động sản của Công ty Cổ phần
 
Báo cáo thực tập: Phân tích hoạt động cho vay khách hàng cá nhân mua bất động...
Báo cáo thực tập: Phân tích hoạt động cho vay khách hàng cá nhân mua bất động...Báo cáo thực tập: Phân tích hoạt động cho vay khách hàng cá nhân mua bất động...
Báo cáo thực tập: Phân tích hoạt động cho vay khách hàng cá nhân mua bất động...
 
Luận văn: Các nhân tố ảnh hưởng đến bong bóng cổ phiếu bất động sản trên thị ...
Luận văn: Các nhân tố ảnh hưởng đến bong bóng cổ phiếu bất động sản trên thị ...Luận văn: Các nhân tố ảnh hưởng đến bong bóng cổ phiếu bất động sản trên thị ...
Luận văn: Các nhân tố ảnh hưởng đến bong bóng cổ phiếu bất động sản trên thị ...
 

Recently uploaded

Tử Vi Là Gì Học Luận Giải Tử Vi Và Luận Đoán Vận Hạn
Tử Vi Là Gì Học Luận Giải Tử Vi Và Luận Đoán Vận HạnTử Vi Là Gì Học Luận Giải Tử Vi Và Luận Đoán Vận Hạn
Tử Vi Là Gì Học Luận Giải Tử Vi Và Luận Đoán Vận Hạn
Kabala
 
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdfxemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
Xem Số Mệnh
 

Recently uploaded (20)

Access: Chuong III Thiet ke truy van Query.ppt
Access: Chuong III Thiet ke truy van Query.pptAccess: Chuong III Thiet ke truy van Query.ppt
Access: Chuong III Thiet ke truy van Query.ppt
 
Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hội
Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hộiTrắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hội
Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hội
 
20 ĐỀ DỰ ĐOÁN - PHÁT TRIỂN ĐỀ MINH HỌA BGD KỲ THI TỐT NGHIỆP THPT NĂM 2024 MÔ...
20 ĐỀ DỰ ĐOÁN - PHÁT TRIỂN ĐỀ MINH HỌA BGD KỲ THI TỐT NGHIỆP THPT NĂM 2024 MÔ...20 ĐỀ DỰ ĐOÁN - PHÁT TRIỂN ĐỀ MINH HỌA BGD KỲ THI TỐT NGHIỆP THPT NĂM 2024 MÔ...
20 ĐỀ DỰ ĐOÁN - PHÁT TRIỂN ĐỀ MINH HỌA BGD KỲ THI TỐT NGHIỆP THPT NĂM 2024 MÔ...
 
ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 BIÊN SOẠN THEO ĐỊNH HƯỚNG ĐỀ BGD 2025 MÔN TOÁN 10 - CÁN...
ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 BIÊN SOẠN THEO ĐỊNH HƯỚNG ĐỀ BGD 2025 MÔN TOÁN 10 - CÁN...ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 BIÊN SOẠN THEO ĐỊNH HƯỚNG ĐỀ BGD 2025 MÔN TOÁN 10 - CÁN...
ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 BIÊN SOẠN THEO ĐỊNH HƯỚNG ĐỀ BGD 2025 MÔN TOÁN 10 - CÁN...
 
các nội dung phòng chống xâm hại tình dục ở trẻ em
các nội dung phòng chống xâm hại tình dục ở trẻ emcác nội dung phòng chống xâm hại tình dục ở trẻ em
các nội dung phòng chống xâm hại tình dục ở trẻ em
 
Bài học phòng cháy chữa cháy - PCCC tại tòa nhà
Bài học phòng cháy chữa cháy - PCCC tại tòa nhàBài học phòng cháy chữa cháy - PCCC tại tòa nhà
Bài học phòng cháy chữa cháy - PCCC tại tòa nhà
 
Tử Vi Là Gì Học Luận Giải Tử Vi Và Luận Đoán Vận Hạn
Tử Vi Là Gì Học Luận Giải Tử Vi Và Luận Đoán Vận HạnTử Vi Là Gì Học Luận Giải Tử Vi Và Luận Đoán Vận Hạn
Tử Vi Là Gì Học Luận Giải Tử Vi Và Luận Đoán Vận Hạn
 
xemsomenh.com-Vòng Lộc Tồn - Vòng Bác Sĩ và Cách An Trong Vòng Lộc Tồn.pdf
xemsomenh.com-Vòng Lộc Tồn - Vòng Bác Sĩ và Cách An Trong Vòng Lộc Tồn.pdfxemsomenh.com-Vòng Lộc Tồn - Vòng Bác Sĩ và Cách An Trong Vòng Lộc Tồn.pdf
xemsomenh.com-Vòng Lộc Tồn - Vòng Bác Sĩ và Cách An Trong Vòng Lộc Tồn.pdf
 
Đề thi tin học HK2 lớp 3 Chân Trời Sáng Tạo
Đề thi tin học HK2 lớp 3 Chân Trời Sáng TạoĐề thi tin học HK2 lớp 3 Chân Trời Sáng Tạo
Đề thi tin học HK2 lớp 3 Chân Trời Sáng Tạo
 
Bài giảng môn Truyền thông đa phương tiện
Bài giảng môn Truyền thông đa phương tiệnBài giảng môn Truyền thông đa phương tiện
Bài giảng môn Truyền thông đa phương tiện
 
Giáo trình nhập môn lập trình - Đặng Bình Phương
Giáo trình nhập môn lập trình - Đặng Bình PhươngGiáo trình nhập môn lập trình - Đặng Bình Phương
Giáo trình nhập môn lập trình - Đặng Bình Phương
 
Kiến thức cơ bản về tư duy số - VTC Net Viet
Kiến thức cơ bản về tư duy số - VTC Net VietKiến thức cơ bản về tư duy số - VTC Net Viet
Kiến thức cơ bản về tư duy số - VTC Net Viet
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...
TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...
TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...
 
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
 
bài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docx
bài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docxbài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docx
bài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docx
 
TUYỂN TẬP ĐỀ THI GIỮA KÌ, CUỐI KÌ 2 MÔN VẬT LÍ LỚP 11 THEO HÌNH THỨC THI MỚI ...
TUYỂN TẬP ĐỀ THI GIỮA KÌ, CUỐI KÌ 2 MÔN VẬT LÍ LỚP 11 THEO HÌNH THỨC THI MỚI ...TUYỂN TẬP ĐỀ THI GIỮA KÌ, CUỐI KÌ 2 MÔN VẬT LÍ LỚP 11 THEO HÌNH THỨC THI MỚI ...
TUYỂN TẬP ĐỀ THI GIỮA KÌ, CUỐI KÌ 2 MÔN VẬT LÍ LỚP 11 THEO HÌNH THỨC THI MỚI ...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
xemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdf
xemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdfxemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdf
xemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdf
 
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdfxemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
 

TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG HOẠT ĐỘNG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777.149.703

  • 1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN QUỲNH ANH TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG HOẠT ĐỘNG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM Chuyên ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự Mã số:8380101.03 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học:TS. PHẠM MẠNH HÙNG Hà Nội - 2020
  • 2. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Cácsố liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tấtcả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƯỜICAM ĐOAN Nguyễn Quỳnh Anh i
  • 3. MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Mục lục Lời cam đoan ..............................................................................................i Danh mục các bảng....................................................................................iv MỞ ĐẦU...................................................................................................1 Chương 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG HOẠT ĐỘNG TỐ TỤNG HÌNH SỰ........................................................6 1.1. Khái niệm, đặc điểm của trách nhiệm bồithường thiệt hại của Viện kiểm sát nhân dân trong hoạt động tố tụng hình sự ...............................................6 1.1.1. Khái niệm trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Viện kiểm sát nhân dân trong hoạt động tố tụng hình sự...................................................................6 1.1.2. Đặc điểm trách nhiệm bồithường thiệt hại của Viện kiểm sát nhân dân trong hoạt động tố tụng hình sự...................................................................8 1.2. Khái quát lịch sử pháp luật Việt Nam về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Viện kiểm sát nhân dân.......................................................................16 1.2.1. Giai đoạntừ 1945 đến trước khi có Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988 ................................................................................................................16 1.2.2. Giai đoạntừ khi có Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988 đến trước khi có Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003.............................................................18 1.2.3. Giai đoạntừ khi có Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 đến trước khi có Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.............................................................23 Chương 2. QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG HOẠT ĐỘNG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG.........................................................................30 2.1. Căn cứ xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Viện kiểm sát nhân dân trong hoạt động tố tụng hình sự...........................................................30 ii
  • 4. 2.2. Điều kiện để Viện kiểm sát nhân dân thụ lý, giải quyết việc bồithường thiệt hại trong hoạt động tố tụng hình sự....................................................33 2.3. Trình tự, thủ tục thực hiện trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Viện kiểm sát nhân dân trong hoạt động tố tụng hình sự.....................................34 2.4. Thực tiễn hoạt động thụ lý, giải quyết việc bồi thường thiệt hại thuộc trách nhiệm của Viện kiểm sát nhân dân trong hoạt động tố tụng hình sự....47 2.4.1. Tình hình thụ lý, giải quyết các vụ việc yêu cầu bồithường của Viện kiểm sát nhân dân các cấp trong 5 năm (từ 01/01/2014 đến 31/12/2018)......47 2.4.2. Một số tồn tại, hạn chế và khó khăn, vướng mắc trong việc giải quyết yêu cầu bồi thường thiệt hại thuộc trách nhiệm của Viện kiểm sát nhân dân 54 2.4.3. Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế trong việc giải quyết yêu cầu bồi thường thiệt hại thuộc trách nhiệm của Viện kiểm sát nhân dân.............66 Chương 3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG HOẠT ĐỘNG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM ............................................................................74 3.1. Hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm bồi thường của nhà nước trong hoạt động tố tụng hình sự.................................................................................74 3.2. Chú trọng việc giải thích, hướng dẫn áp dụng pháp luật về trách nhiệm bồi thường của nhà nước...........................................................................76 3.3. Tăng cường quản lý, chỉ đạo, điều hành việc xem xét, giải quyết bồi thường thiệt hại trong hoạt động tố tụng hình sự ........................................77 3.4. Đẩy mạnh việc đào tạo, bồi dưỡng kiến thức, nâng cao năng lực, trình độ cho độingũ Lãnh đạo, cán bộ, Kiểm sát viên..............................................79 3.5. Tăng cường quan hệ phốihợp giữa Viện kiểm sát với các cơ quan có liên quan trong việc xem xét, giải quyết yêu cầu bồithường thiệt hại trong hoạt động tố tụng hình sự.................................................................................80 KẾT LUẬN.............................................................................................80 TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................................83 PHỤ LỤC................................................................................................88 iii
  • 5. DANH MỤC CÁC BẢNG STT Bảng Nội dung Trang Tình hình thụ lý, giải quyết các vụ việc yêu cầu bồi 1 Bảng 2.1 thường thiệt hại của cơ quan Viện kiểm sát nhân 47 dân so với các cơ quan tiến hành tố tụng hình sự (2014-2018) Tình hình giải quyết các vụ việc yêu cầu bồithường 2 Bảng 2.2 thiệt hại thuộc trách nhiệm của ngành Kiểm sát 51 nhân dân (thời điểm từ 01/01/2014 đến 31/12/2018) iv
  • 6. MỞ ĐẦU 1. Tính cấpthiết và lý do chọn đề tài Bảo đảm quyền con người là vấn đề ưu tiên hàng đầu của Đảng và Nhà nước ta trong tiến trình cải cách tư pháp. Trong giai đoạn hiện nay, với mục tiêu xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, việc tuyển chọn đội ngũ cán bộ công chức có trình độ chuyên môn cao, được đào tạo bài bản đã được chú trọng. Tuy nhiên, những trường hợp bị oan trong tố tụng hình sự do lỗi của những người tiến hành tố tụng vẫn còn xảy ra. Vấn đề bảo đảm quyền con người, quyền công dân ở nước ta, trong đó có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại khi có hành vi trái pháp luật của cán bộ, công chức trong quá trình thực thi công vụ gây ra đã được Hiến pháp năm 1992 ghi nhận khá rõ tại Điều 72 và Điều 74. Quy định này tiếp tục được khẳng định và cụ thể hóa hơn trong khoản 5 Điều 31 Hiến pháp năm 2013: “Người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án trái pháp luậtcó quyền được bồi thường thiệt hại về vật chất, tinh thần và phục hồi danh dự”[27]. Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988, năm 2003 và năm 2015 cũng quy định về nguyên tắc bồi thường thiệt hại của Nhà nước đối với người bị oan trong hoạt động tố tụng hình sự. Cụ thể, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định: “Người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án oan, trái pháp luật có quyền được bồi thường thiệt hại về vật chất, tinh thần và phục hồi danh dự.Nhànước có trách nhiệm bồi thường thiệt hại và phục hồi danh dự, quyền lợi cho người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án oan, trái pháp luật do cơ quan, ngườicó thẩm quyền tiến hành tố tụng gâyra; Người khác bị thiệt hạido cơ quan, ngườicó thẩm quyền tiến hành tố tụng gây ra có quyền 1
  • 7. được Nhà nước bồi thường thiệt hại” [30]. Hiện nay, chế định về bồi thường thiệt hại được Quốc hội quy định cụ thể tại Luật Trách nhiệm bồi thường của nhà nước năm 2017. Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2017 về cơ bản đã thiết lập cơ chế pháp lý bồi thường của nhà nước minh bạch, khả thi để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân bị thiệt hại. Tuy nhiên, các quy định của luật vẫn còn nhữngbất cập cần tiếp tục nghiên cứu để hoàn thiện. Thực tiễn nhiều năm áp dụng pháp luật để giải quyết bồi thường thiệt hại trong hoạt động tố tụng hình sự thuộc trách nhiệm của Viện kiểm sát nhân dân cho thấy vẫn còn nhiều hạn chế, khó khăn, vướng mắc cần được giải quyết. Đó là lý do tác giả chọn làm đề tài “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Viện kiểm sát nhân dân trong hoạt động tố tụng hình sự Việt Nam” để làm rõ các quy định của pháp luật có liên quan đến vấn đề bồi thường trong tố tụng hình sự thuộc trách nhiệm của Viện kiểm sát nhân dân. Qua đó, đánh giá đúng thực trạng việc giải quyết bồi thường thiệt hại, xác định những khó khăn, vướng mắc trong hoạt động này của ngành Kiểm sát. Từ đó đề xuất giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Viện kiểm sát nhân dân trong hoạt động tố tụng hình sự, bảo đảm quyền con người, quyền công dân theo quy định của Hiến pháp và pháp luật. 2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích của việc nghiên cứu đề tài nhằm làm rõ các quy định của pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Viện kiểm sát nhân dân trong hoạt động tố tụng hình sự; đánh giá đúng thực trạng áp dụng pháp luật về bồi thường trong hoạt động tố tụng hình sự của ngành Kiểm sát; từ đó đề xuất một số giải pháp để nâng cao hiệu quả việc áp dụng pháp luật đối với trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Viện kiểm sát nhân dân trong hoạt động tố tụng hình sự. 2
  • 8. Để đạt được mục đíchnêu trên, nhiệm vụ nghiên cứu được đặt ra là: - Làm sáng tỏ khái niệm, đặc điểm về trách nhiệm bồithường thiệt hại của Viện kiểm sát nhân dân trong hoạt động tố tụng hình sự. - Khái quát lịch sử pháp luật Việt Nam về trách nhiệm bồithường thiệt hại của Viện kiểm sát nhân dân qua các giai đoạn lịch sử. - Tìm hiểu căn cứ xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Viện kiểm sát nhân dân trong hoạt động tố tụng hình sự. - Phân tích điều kiện để Viện kiểm sát nhân dân thụ lý, giải quyết việc bồi thường thiệt hại trong tố tụng hình sự. - Tìm hiểu về trình tự, thủ tục thực hiện trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Viện kiểm sát nhân dân trong hoạt động tố tụng hình sự. - Đánh giáthực trạng hoạt động giải quyết bồi thường thiệt hại của Viện kiểm sát nhân dân trong những năm gần đây, xác định những khó khăn vướng mắc trong công tác này. - Đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Viện kiểm sát nhân dân trong hoạt động tố tụng hình sự, 3. Tình hình nghiên cứu Vấn đề Trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước trong hoạt động tố tụng hình sự đã được đưa vào giáo trình giảng dạy ở các cơ sở giáo dục, các sách tham khảo bình luận khoa học, các luận án, các bài báo trên tạp chí. Có thể kể đến một số công trình nghiên cứu như: PGS.TS Đỗ Văn Đại và Thạc sĩ Nguyễn Trương Tín, giảng viên Đại học quốc gia Hồ Chí Minh đã in thành sách cuốn “Pháp luật Việt Nam về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước”, xuất bản năm 2015. PGS.TSKH Lê Văn Cảm đã biên soạn sách chuyên khảo sau đại học “Những vấn đề cơ bản trong khoa học luật hình sự”, xuất bản năm 2005. Trong đó tác giả xây dựng độc lập nguyên tắc minh oan trong tố tụng hình sự tkhi bàn về chính sách pháp luật tố tụng hình sự. 3
  • 9. Trong những năm qua, đã có một số luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ có đề tài liên quan đến vấn đề bồi thường của Nhà nước đối với người bị thiệt hại trong tố tụng hình sự như: luận án tiến sĩ“Bồi thường thiệt hại do người có thẩm quyền của cơquan tiến hành tố tụng gây ra” của tác giả Lê Mai Anh, bảo vệ năm 2002 tại trường Đại học Luật Hà Nội; một số luận văn thạc sĩ bảo vệ tại Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội như: luận văn thạc sĩ của học viên Phạm Tiến Dũng “Vấn đề oan và chính sách pháp luật tố tụng hình sự về bồi thường thiệt hại cho người bị oan trong tố tụng hình sự”, bảo vệ năm 2008; Luận văn thạc sĩ của học viên Vũ Thị Lan Anh “Pháp luật về bồi thường nhà nước trong hoạt động thực thi công vụ” bảo vệ năm 2010; Luận văn thạc sĩ của học viên Thang Thanh Hoa bảo vệ năm 2010 về “Xác định thiệt hại và mức bồi thường cho người bị oan trong hoạtđộng tố tụng hình sự”; Luận văn thạc sĩ của học viên Hoàng Xuân Hoan bàn về vấn đề “PhápluậtViệt Nam và một số quốc gia trên thế giới về trách nhiệm bồi thường của nhà nước”, bảo vệ năm 2013; Luận văn thạc sĩ của học viên Đào Thị Hải Yến nghiên cứu về đề tài“Bảo đảm quyền con người thông qua cơ chế bồi thường Nhà nước cho người bị oan trong hoạt động tố tụng hình sự”, năm bảo vệ 2016. 4. Tính mới và những đóng gópcủa đề tài - Luận văn làm rõ khái niệm, đặc điểm về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Viện kiểm sát nhân dân trong hoạt động tố tụng hình sự. - Đã phân tích làm rõ những quy định của pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Viện kiểm sát nhân dân trong hoạt động tố tụng hình sự. - Trên cơ sở các số liệu về tình hình thụ lý, giải quyết các vụ việc yêu cầu bồi thường thuộc trách nhiệm của ngành Kiểm sát trong 5 năm (2014- 2018), luận văn đánh giá thực trạng hoạt động giải quyết bồi thường thiệt hại của Viện kiểm sát nhân dân trong những năm gần đây, những khó khăn vướng mắc trong công tác này. 4
  • 10. - Luận văn đã đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng pháp nhằm đưa công tác giải quyết yêu cầu bồi thường của nhà nước nói chung và của ngành Kiểm sát nói riêng ngày càng hiệu quả. - Kết quả của luận văn có thểcó giá trị tham khảo đối với các cơ quan tiến hành tố tụng hình sự nói chung và cơ quan Viện kiểm sát nói riêng, là tài liệu tham khảo trong các cơ sở giáo dục về Luật học. 5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu của luận văn là vấn đề trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Viện kiểm sát nhân dân trong hoạt động tố tụng hình sự Việt Nam. - Phạm vi nghiên cứucủa luận văn là các quy định Bộ luật tố tụng hình sự, Luật trách nhiệm bồi thường của nhà nước; luận văn lấy số liệu về công tác giải quyết bồi thường thiệt hại trong tố tụng hình sự của Viện kiểm sát nhân dân và của các cơ quan tiến hành tố tụng hình sự (Tòa án nhân dân, Cơ quan điều tra) thời điểm từ 2014 đến 2018. 6. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm có 3 chương: Chương 1: Một số vấn đề chung về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Viện kiểm sát nhân dân trong hoạt động tố tụng hình sự. Chương 2: Quy định của pháp luật hiện hành về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Viện kiểm sát nhân dân trong hoạt động tố tụng hình sự Việt Nam và thực tiễn áp dụng. Chương 3: Một số giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng pháp đối với trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Viện kiểm sát nhân dân trong hoạt động tố tụng hình sự Việt Nam. 5
  • 11. Chương 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG HOẠT ĐỘNG TỐ TỤNG HÌNH SỰ 1.1. Khái niệm, đặc điểm của trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Viện kiểm sát nhân dân trong hoạt động tố tụng hình sự 1.1.1. Khái niệm trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Viện kiểm sát nhân dân trong hoạt động tố tụng hình sự Trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Viện kiểm sát nhân dân trong hoạt động tố tụng hình sự là một loại trách nhiệm bồi thường thiệt hại của nhà nước, ở đây cơ quan Viện kiểm sát nhân dân thay mặt nhà nước bồi thường thiệt hại cho người bị oan do lỗi của cán bộ, công chức Viện kiểm sát gây ra trong quá trình tiến hành tố tụng. Có thể xem trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước (cụ thể là trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Viện kiểm sát nhân dân) là một loại trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng đặc biệt, bởi nó có những đặc thù riêng là bên có trách nhiệm bồi thường là Nhà nước (do Viện kiểm sát nhân dân thay mặt) mà không phải trách nhiệm của cá nhân cán bộ, công chức hay cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Vì vậy, để bảo vệ lợi ích chính đáng của cá nhân, tổ chức bị thiệt hại cần phải xây dựng pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước độc lập so với việc điều chỉnh các quan hệ dân sự, hành chính nhưng cơ chế điều chỉnh phải bảo đảm tính liên thông hoặc có khả năng hoán đổi linh hoạt giữa các cơ chế khi cần thiết. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước là một loại hình trách nhiệm pháp lý đặc biệt, chỉ xuất hiện trong những điều kiện và có cơ sở pháp luật cụ thể. Thuật ngữ “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước”được nhắc đến ở nhiều các văn bản pháp luật nhưng hiện nay vẫn không có định 6
  • 12. nghĩa chính thức về trách nhiệm này. Thông qua văn bản cũng như thực tiễn và trên cơ sở lý luận, chúng ta có thể hiểu trách nhiệm bồi thường của Nhà nước là việc Nhà nước chịu trách nhiệm bồi thường đối với lỗi do hành vi của người thi hành công vụ gây ra. Viện kiểm sát nhân dân là cơ quan tiến hành tố tụng hình sự, trong quá trình giải quyết một vụ án hình sự, nhiệm vụ của cơ quan tiến hành tố tụng là phát hiện chính xác, nhanh chóng và xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội. Bộ luật Tố tụng hình sự Việt Nam đã thể hiện rõ nguyên tắc bảo đảm quyền công dân, xử lý kiên quyết và triệt để mọi hành vi phạm tội. Tuy nhiên, hoạt động tố tụng hình sự nói riêng, hoạt động của các cơ quan nhà nước nói chung trong bất cứ lĩnh vực nào cũng khó tránh khỏi những sai sót nhất định. Đối với trách nhiệm bồi thường cho người bị thiệt hại (người bị oan) trong hoạt động tố tụng hình sự thì vấn đề quan trọng phải xác định đúng đối tượng được bồi thường. Theo cuốn Từ điển Luật học của Viện khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp thì “oan”có nghĩa là “bị quy cho tội mà bản thân không phạm, phải chịu sự trừng phạt mà bản thân không đáng phải chịu”[44] hay theo Từ điển Tiếng Việt của Viện ngôn ngữ học thì“oan” là một người “bị quy tội không đúng, phảichịu sự trừng phạt một cách sai trái, vô lý”[45].Như vậy, oan trong tố tụng hình sự là việc một người trên thực tế không thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, không cấu thành tội phạm nhưng đã bị các cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng biện pháp ngăn chặn, bị khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án. Từ những nhận định trên, có thể đưa ra khái niệm trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Viện kiểm sát nhân dân trong hoạt động tố tụng hình sự như sau: Trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Viện kiểm sát nhân dân trong hoạt động tố tụng hình sự là trách nhiệm bồi thường Nhà nước mà Nhà nước 7
  • 13. giao cho Viện kiểm sát thực hiện trong trường hợp người có thẩm quyền tiến hành tố tụng của Viện kiểm sát thực hiện hành vi, quyết định tố tụng làm oan người vô tội, thể hiện ở việc Viện kiểm sát nhân dân phải bồi thường thiệt hại cho người bị oan theo trình tự thủ tục do pháp luật quy định nhằm phục hồi danh dự, khôi phục quyền, lợi ích hợp pháp của người bị oan. 1.1.2. Đặc điểm trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Viện kiểm sát nhân dân trong hoạt động tố tụng hình sự Thứ nhất, trách nhiệm bồi thường thiệt hạicủa Viện kiểm sát nhân dân trong hoạt động tố tụng hình sự phát sinh do người có thẩm quyền tiến hành tố tụng của Viện kiểm sát đã thực hiện hành vi, quyết định tố tụng làm oan người vô tội Trách nhiệm bồi thường của Viện kiểm sát nhân dân trong hoạt động tố tụng hình sự phát sinh từ các hành vi, quyết định tố tụng của công chức Viện kiểm sát làm oan người vô tội (tức là phải có thiệt hại thực tế xảy ra và phải có mối quan hệ nhân quả giữa thiệt hại thực tế và hành vi gây thiệt hại). Những hành vi, quyết định tố tụng đócủa người có thẩm quyền tiến hành tố tụng của Viện kiểm sát bao gồm [32]: - Đã phê chuẩn lệnh bắt, quyết định gia hạn tạm giữ, quyết định khởi tố bị can, lệnh tạm giam của Cơ quan điều tra hoặc đã ra quyết định khởi tố bị can, lệnh tạm giam, quyết định gia hạn tạm giam mà sau đó có quyết định của cơ quan, người có thẩm quyền xác định không có sự việc phạm tội hoặc hành vi không cấu thành tội phạm hoặc đã hết thời hạn điều tra vụ án mà không chứng minh được bị can đã thực hiện tội phạm; đã quyết định trả hồ sơ vụ án để điều tra bổ sung nhưng Cơ quan điều tra ra quyết định đình chỉ điều tra đối với bị can vì lý do như trên; - Đã ra quyết định truy tố bị can nhưng Tòa án cấp sơ thẩm tuyên bị cáo không có tội vì không có sự việc phạm tội hoặc hành vi không cấu thành tội phạm và bản án sơ thẩm đã có hiệu lực pháp luật; 8
  • 14. - Viện kiểm sát đã có cáo trạng truy tố nhưng Tòa án cấp sơ thẩm quyết định trả hồ sơ vụ án để điều tra bổ sung nhưng sau đó có quyết định của người có thẩm quyền của Viện kiểm sát đìnhchỉ điều tra, đình chỉ vụ án vì không có sự việc phạm tội hoặc hành vi không cấu thành tội phạm hoặc đã hết thời hạn điều tra vụ án mà không chứng minh được bị can đã thực hiện tội phạm; - Viện kiểm sát đã có cáo trạng truy tố nhưngTòa án cấp sơ thẩm quyết định trả hồ sơ vụ án để điều tra bổ sung nhưng sau đó tuyên bị cáo không có tội vì không có sự việc phạm tội hoặc hành vi không cấu thành tội phạm và bản án sơ thẩm đã có hiệu lực pháp luật; - Viện kiểm sát đã có cáo trạng, quyết định truy tố nhưngTòa án cấp phúc thẩm giữ nguyên bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm xác định bị cáo không có tội vì không có sự việc phạm tội hoặc hành vi không cấu thành tội phạm; - Viện kiểm sát đã có cáo trạng, quyết định truy tố nhưng Tòa án cấp phúc thẩm giữ nguyên bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm xác định bị cáo không có tội vì không có sự việc phạm tội hoặc hành vi không cấu thành tội phạm và sau đó Tòa án xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm vẫn giữ nguyên bản án, quyết định của Tòa án cấp phúc thẩm xác định bị cáo không có tội vì không có sự việc phạm tội hoặc hành vi không cấu thành tội phạm. Thứ hai, trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Viện kiểm sát nhân dân trong hoạt động tố tụng hình sựthuộc trách nhiệm bồi thường nhà nước được nhà nước giao cho Viện kiểm sát thực hiện Có thể xem Viện kiểm sát nhân dân là cơ quan nhân danh nhà nước thực hiện trách nhiệm bồi thường đối với người bị oan do hành vi, quyết định tố tụng của Viện kiểm sát nhân dân gây ra. Như vậy, đây được hiểu là một loại của trách nhiệm bồi thường thiệt hại của nhà nước. Với tính chất là một 9
  • 15. loại hình trách nhiệm pháp lý đặc biệt, trách nhiệm bồi thường thiệt hại của nhà nước (cụ thể là của Viện kiểm sát nhân dân) chỉ xuất hiện trong những điều kiện và có cơ sở pháp luật cụ thể. Nhà nước, với tư cách là chủ thể của quan hệ pháp luật, có những quyền và nghĩa vụ nhất định, đồng thời phải chịu những hậu quả pháp lý phát sinh từ những quan hệ pháp luật đó. Nếu Nhà nước và các cán bộ, công chức trong quá trình thực thi công vụ có hành vi vi phạm pháp luật, gây tổn hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức thì Nhà nước phải chịu trách nhiệm bồi thường. Theo đó, trách nhiệm bồi thường của Nhà nước được phát sinh từ các hoạt động mang tính công quyền, do cơ quan nhà nước hoặc các cá nhân, tổ chức nhân danh Nhà nước thực hiện [35]. Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 17/3/2003 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về bồi thường thiệt hại cho người bị oan do người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng gây ra đã quy định: Kinh phí bồi thường thiệt hại là một khoản trong ngân sách nhà nước; Bộ Tài chính có trách nhiệm quản lý, cấp phát và quyết toán kinh phí bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật về ngân sách nhà nước; căn cứ vào bản án, quyết định của cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự xác định người bị oan và quyết định của cơ quan có trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong trường hợp thương lượng thành hoặc bản án, quyết định của Toà án về việc bồi thường thiệt hại, cơ quan có trách nhiệm chi trả phải trả tiền cho người bị oan hoặc thân nhân của người bị oan. Luật Trách nhiệm bồi thường của nhà nước năm 2017 và cá văn bản hướng dẫn thi hành cũng quy định việc chi trả tiền bồi thường là kết quả của quá trình giải quyết bồi thường, trên cơ sở xác định thiệt hại, mức bồi thường, kết quả của quá trình thỏa thuận bồi thường hoặc bản án, quyết định của Tòa án có thẩm quyền. Số tiền chi trả cho người bị thiệt hại được lấy từ kinh phí bồi thường trên cơ sở dự toán hàng năm của Bộ Tài chính. 10
  • 16. Kinh phí chi trả tiền bồi thường thiệt hạ trong tố tụng hình sự bao gồm: tiền chi trả cho người bị thiệt hại và chi phí cho việc định giá tài sản, giám định thiệt hại. Hằng năm, căn cứ thực tế số tiền bồi thường, chi phí cho việc định giá tài sản, giám định thiệt hại đã cấp phát của năm trước, Bộ Tài chính có trách nhiệm lập dự toán kinh phí bồi thường của cơ quan giải quyết bồi thường được bảo đảm kinh phí hoạt động từ ngân sách trung ương, báo cáo Chính phủ trình Quốc hội xem xét, quyết định theo quy định của pháp luật về ngân sách nhà nước. Việc quy định nguồn kinh phí để giải quyết bồi thường được lấy từ ngân sách nhà nước là hoàn toàn phù hợp với chế định về bồi thường của các nước trên thế giới. Điều này cũng thể hiện trách nhiệm của nhà nước đối với lỗi gây ra cho người dân. Tuy nhiên, cũng có một số ý kiến cho rằng: ngân sách nhà nước bao gồm cả tiền do nhân dân đóng góp, nếu như lấy tiền của dân để bồi thường cho dân thì có thỏa đáng không? Với quan điểm như vậy mà quy định về trách nhiệm hoàn trả của người thi hành công vụ có lỗi gây thiệt hại cho người bị oan đã được xây dựng. Thứ ba, Viện kiểm sát nhân dân có trách nhiệm bồi thường thiệt hại đối với người bị oan trong hoạt động tố tụng hình sự,đó là những người bị oan trong quá trình Viện kiểm sát giải quyết nguồn tin về tội phạm, khi Viện kiểm sát thực hiện những hành vi, quyết định tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, cụ thể là những trường hợp sau[32]: - Người bị bắt trong trường hợp Viện kiểm sát nhân dân đã phê chuẩn lệnh bắt nhưng người bị bắt không có hành vi vi phạm pháp luật; - Người bị tạm giữ trong trường hợp Viện kiểm sát nhân dân đã phê chuẩn quyết định gia hạn tạm giữ nhưng người bị tạm giữ không có hành vi vi phạm pháp luật; - Bị can trong trường hợp: 11
  • 17. + Viện kiểm sát nhân dân đã phê chuẩn quyết định khởi tố bị can, lệnh tạm giam hoặc đã ra quyết định khởi tố bị can, lệnh tạm giam, quyết định gia hạn tạm giam mà sau đó có quyết định của cơ quan, người có thẩm quyền xác định không có sự việc phạm tội hoặc hành vi không cấu thành tội phạm hoặc đã hết thời hạn điều tra vụ án mà không chứng minh được bị can đã thực hiện tội phạm; Viện kiểm sát nhân dân đã quyết định trả hồ sơ vụ án để điều tra bổ sung nhưng căn cứ kết quả điều tra bổ sung, Cơ quan điều tra ra quyết định đình chỉ điều tra đối với bị can vì không có sự việc phạm tội hoặc hành vi không cấu thành tội phạm hoặc đã hết thời hạn điều tra vụ án mà không chứng minh được bị can đã thực hiện tội phạm; + Viện kiểm sát nhân dân đã ra quyết định truy tố bị can nhưng Tòa án cấp sơ thẩm tuyên bị cáo không có tội vì không có sự việc phạm tội hoặc hành vi không cấu thành tội phạm và bản án sơ thẩm đã có hiệu lực pháp luật; Những trường hợp vụ án đã chuyển sang giai đoạn xét xử, tuy nhiên lỗi của cơ quan Viện kiểm sát nhân dân thì đã phát sinh từ giai đoạn trước (giai đoạn truy tố), bởi vậy các bị cáo mà Viện kiểm sát nhân dân có trách nhiệm bồi thường trong trường hợp này được hiểu là những bị can mà cơ quan Viện kiểm sát nhân dân truy tố oan, bao gồm những trường hợp sau: + Tòa án cấp sơ thẩm quyết định trả hồ sơ vụ án để điều tra bổ sung nhưng sau đó có quyết định của cơ quan, người có thẩm quyền đình chỉ điều tra, đình chỉ vụ án vì không có sự việc phạm tội hoặc hành vi không cấu thành tội phạm hoặc đã hết thời hạn điều tra vụ án mà không chứng minh được bị can đã thực hiện tội phạm; + Tòa án cấp sơ thẩm quyết định trả hồ sơ vụ án để điều tra bổ sung nhưng sau đó tuyên bị cáo không có tội vì không có sự việc phạm tội hoặc hành vi không cấu thành tội phạm và bản án sơ thẩm đã có hiệu lực pháp luật; + Tòa án cấp phúc thẩm giữ nguyên bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm xác định bị cáo không có tội vì không có sự việc phạm tội hoặc hành vi không cấu thành tội phạm; 12
  • 18. + Tòa án cấp phúc thẩm giữ nguyên bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm xác định bị cáo không có tội vì không có sự việc phạm tội hoặc hành vi không cấu thành tội phạm và sau đó Tòa án xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm vẫn giữ nguyên bản án, quyết định của Tòa án cấp phúc thẩm xác định bị cáo không có tội vì không có sự việc phạm tội hoặc hành vi không cấu thành tội phạm. Thứ tư, trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Viện kiểm sát nhân dân được thực hiện theo trình tự, thủ tục do pháp luậtquyđịnh Nguyên tắc bồi thường thiệt hại cho người bị oan trong tố tụng hình sự được ghi nhận ngay từ Bộ luật Tố tụng hình sự đầu tiên của Việt Nam (Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988). Trải qua hai lần pháp điển hóa, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 và năm 2015 tiếp tục ghi nhận nguyên tắc bồi thường này ngày một rõ ràng, cụ thể hơn. Theo đó, Bộ luật Tố tụng hình sự quy định về việc Nhà nước có trách nhiệm bồi thường thiệt hại và phục hồi danh dự, quyền lợi cho người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án oan, trái pháp luật do cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng gây ra. Nghị quyết số 388/2003/NQ-UBTVQH ngày 17/3/2003 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về Bồi thường thiệt hại cho người bị oan do người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra (viết tắt là Nghị quyết 388) và Thông tư liên tịch số 01/2004/TTLT-VKSNDTC-BCA-TANDTC-BTP- BQP-BTC ngày25/3/2004 của Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Tòa án nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp, Bộ Quốc phòng, Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện một số nội dung của Nghị quyết 388 (viết tắt là Thông tư 01) là những văn bản pháp luật đầu tiên quy định một cách chi tiết, cụ thể mọi vấn đề liên quan đến trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước. 13
  • 19. Sau quá trình thi hành Nghị quyết 388 và Thông tư 01 đã bộc lộ một số tồn tại, vướng mắc. Để khắc phục những hạn chế đó, tại kỳ họp thứ 5, Quốc hội Khóa XII ngày 18/6/2009, Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam đã thông qua Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2009 có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2010. Để hướng dẫn áp dụng quy định của Luật này, ngày 01/11/2012, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp, Bộ Quốc phòng, Bộ Tài chính, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã ban hành Thông tư liên tịch số 05/2012/TTLT- VKSNDTC-TANDTC-BCA-BTP-BQP-BTC-BNN&PTNT hướng dẫn thực hiện trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trong hoạt động tố tụng hình sự(viết tắt là Thông tư 05). Với mục đích hoàn thiện hơn nữa khuôn khổ pháp luật về trách nhiệm bồi thường, đảm bảo phù hợp với Hiến pháp 2013, đồng bộ, thống nhất với các luật hiện hành; thiết lập cơ chế pháp lý bồi thường của Nhà nước minh bạch, khả thi để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức bị thiệt hại và quyền, lợi ích của Nhà nước; từng bước nâng cao trách nhiệm của người thi hành công vụ, hiệu lực, hiệu quả của nền công vụ, đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam và hội nhập quốc tế. Ngày 20/6/2017, Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2017 được Quốc hội khóa XIV thông qua tại kỳ họp thứ 3, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2018 đã thay thế cho Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2009. Bên cạnh đó, Chính Phủ đã ban hành Nghị định số 68/2018/NĐ- CP ngày 15/5/2018 quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước. Để cụ thể hóa Luật và Nghị định, ngày 29/6/2018, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã ký Quyết định số 304/QĐ-VKSNDTC về việc ban hành quy định về quy trình giải quyết yêu cầu bồi thường nhà nước trong hoạt động tố tụng hình sự thuộc trách nhiệm của Viện kiểm sát nhân dân. 14
  • 20. Vấn đề trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước là một dạng trách nhiệm dân sự nhưng thủ tục thụ lý, xem xét, giải quyết lại theo Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước. Theo đó, trình tự, thủ tục thực hiện trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Viện kiểm sát nhân dân trong hoạt động tố tụng hình sự được quy định tại các điều luật sau:Thủ tục tiếp nhận và xử lý hồ sơ yêu cầu bồi thường (Điều 42), Thụ lý hồ sơ và cử người giải quyết bồi thường (Điều 43), Chủ động phục hồi danh dự (Điều 57), Trực tiếp xin lỗi và cải chính công khai (Điều 58), Đăng báo xin lỗi và cải chính công khai (Điều 59), Tạm ứng kinh phí bồi thường (Điều 44), Xác minh thiệt hại (Điều 45), Thương lượng việc bồi thường (Điều 46), Quyết định giải quyết bồi thường (Điều 47), Khởi kiện và thủ tục giải quyết yêu cầu bồi thường tại Tòa án (Điều 52), Lập dự toán kinh phí bồi thường (Điều 61), Cấp phát kinh phí bồi thường và chi trả tiền bồi thường (Điều 62), tiến hành xem xét trách nhiệm hoàn trả (từ Điều 65 đến Điều 72). Thứ năm, trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Viện kiểm sát nhân dân có mục đích phục hồi danh dự, khôi phục lại những tổn thất về vật chất, tinh thần đền bù những tổn thất về vật chất, tinh thần, bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân bị oan do hành vi, quyết định tố tụng của Viện kiểm sát gây ra. Khi một người bị oan thì nỗi đau, sự mất mát và tổn thất không chỉ cá nhân họ phải chịu đựng, mà đó còn là nỗi đau của cả gia đình, họ hàng, dòng tộc họ. Hậu quả từ những quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan có thẩm quyền gây oan cho người bị thiệt hại không chỉ khiến họ bị tổn thất về mặt vật chất, mà cá nhân và gia đình họ phải gánh chịu; đó còn là những tổn thất về tinh thần không thể bù đắp. Qua các phương tiện truyền thông, chúng ta đã được nghe rất nhiều lời tự sự của những người bị oan như: ông Nguyễn Thanh Chấn ở Bắc Giang, ông Huỳnh Văn Nén ở Bình Thuận… về những mất mát, tổn thương mà gia đình, vợ con họ phải hứng chịu, ấy là sự kỳ thị của dân 15
  • 21. làng, sự miệt thị của dư luận, sự tẩy chay của những người phẫn nộ đến mức con cái họ không đủ bản lĩnh thể tiếp tục đến trường, không thể tìm kiếm công việc hay dựng vợ gả chồng ở địa phương – nơi mà ai ai cũng biết rằng họ là con, là vợ, là chồng, là anh em ruột thịt, là họ hàng với người phạm tội. Thấu hiểu nỗi đau đó, cơ quan có trách nhiệm bồi thường và người giải quyết bồi thường phải làm việc bằng cả cái tâm và sự cầu thị trên phương diện của người đã làm sai và đi sửa sai. Trên thực tế, trong nhiều trường hợp, sự bù đắp có thể không tương xứng với thiệt hại nhưng vẫn có ý nghĩa đối với người bị thiệt hại cũng như người tiến hành tố tụng và cơ quan tiến hành tố tụng gây thiệt hại. Với những tổn thất về tinh thần, sự bù đắp của việc bồi thường thiệt hại có ý nghĩa an ủi, chia sẻ những mất mát mà người bị thiệt hại hoặc thân nhân của họ phải gánh chịu, góp phần giúp cho người bị thiệt hại ổn định lại cuộc sống sau những gì họ phải chịu đựng. Bên cạnh đó, cũng thể hiện thái độ cầu thị, mong muốn sửa sai, khắc phục những sai lầm của chủ thể gây thiệt hại. Đây cũng là đạo lý cần được giữ gìn thông qua sự điều chỉnh của pháp luật. 1.2. Khái quát lịch sử pháp luật Việt Nam về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Viện kiểm sát nhân dân 1.2.1. Giai đoạn từ 1945 đến trước khi có Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988 Pháp luật về cơ chế bồi thường nhà nước cho người bị oan trong hoạt động tố tụng hình sự có lịch sử lập pháp từ khi Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ra đời năm 1945. Mặc dù các quy định còn nhiều hạn chế, nhưng đã chứng tỏ sự quan tâm của Nhà nước đối với việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Do Nhà nước mới hình thành, hệ thống pháp luật chưa được hoàn thiện nên còn áp dụng một số văn bản pháp luật của chế độ cũ với những quy định phù hợp với tình hình xã hội lúc bấy giờ. Đồng thời, Nhà 16
  • 22. nước dần từng bước ban hành hệ thống văn bản pháp luật mới, trong đó có những văn bản pháp luật liên quan đến vấn đề hạn chế oan, sai và bồi thường thiệt hại cho người bị oan trong hoạt động tố tụng hình sự. Đó là: Sắc lệnh số 46/SL ngày 10/10/1945 về tổ chức Đoàn thể luật sư đã cho phép luật sư của chế độ cũ vẫn được duy trì hoạt động. Tuy nhiên, những điểm không phù hợp với thể chế chính trị mới phải loại bỏ. Theo quy định này, các luật sư có quyền bào chữa ở tất cả toà án từ cấp tỉnh trở lên và trước các toà quân sự. Ngay trong bản Hiến pháp đầu tiên - Hiến pháp 1946, vấn đề quyền con người, quyền công dân đã được chú ý, trong đó có các quyền liên quan đến hoạt động tố tụng hình sự như: “Tư pháp chưa quyết định thì không được bắt bớ và giam cầm người công dân Việt Nam”. Điều 67 Hiến pháp 1946 cũng quy định:“Các phiên toà đều phải công khai, trừ những trường hợp đặc biệt. Người bị cáo được quyền tự bào chữa lấy hoặc mượn luật sư”. Như vậy, các quy định pháp luật tố tụng hình sự đầu tiên của Nhà nước ta đã chú trọng bảo vệ quyền con người, ghi nhận quyền bào chữa của bị cáo trong tố tụng hình sự - một nhân tố quan trọng góp phần hạn chế oan, sai trong xét xử vụ án hình sự. Tiếp đó, Điều 101 Hiến pháp 1959 và những văn bản pháp luật khác ban hành trong thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Miền Bắc, đấu tranh thống nhất đất nước đã tiếp tục khẳng định quyền bào chữa của bị can, bị cáo, hạn chế những oan, sai trong tố tụng hình sự. Tuy nhiên, việc bồi thường thiệt hại cho người bị oan thì chưa được quy định cụ thể trong luật. Để thống nhất về hoạt động bồi thường thiệt hại trong tố tụng hình sự, ngày 23/3/1972, Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành Thông tư số 173/UBTP hướng dẫn xét xử bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, trong đó có việc bồi thường thiệt hại cho người bị oan trong tố tụng hình sự. Tuy không trực tiếp quy định việc bồi thường trong tố tụng hình sự, nhưng Thông tư 173/UBTP là 17
  • 23. văn bản pháp luật duy nhất tạo cơ sở pháp lý cho việc bồi thường thiệt hại do làm oan trong thời kỳ này. Cùng với việc bồi thường thiệt hại, người tiến hành tố tụng có hành vi vi phạm dẫn đến làm oan người vô tội cũng bị xử lý tuỳ theo mức độ khác nhau, nặng nhất là phải chịu truy cứu trách nhiệm hình sự. Tuy chỉ là văn bản của Ủy ban thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, nhưng Thông tư 173/UBTP đã trở thành văn bản đầu tiên đặt nền móng và cơ sở cho việc bồi thường thiệt hại, trong đó có bồi thường thiệt hại cho người bị oan trong tố tụng hình sự. Như vậy, có thể thấy vấn đề bồi thường thiệt hại cho người bị oan trong hoạt động tố tụng hình sự đã được Nhà nước quan tâm và đã có những quy định tại văn bản pháp luật. Tuy nhiên, do đặc điểm của hoàn cảnh đất nước thời kỳ này nên những quy định pháp luật về oan, sai và bồi thường thiệt hại cho người bị oan trong tố tụng hình sự còn thiếu quy định cụ thể, đặc thù. Vì vậy, việc áp dụng pháp luật trong thực tế còn hạn chế. 1.2.2. Giai đoạn từ khi có Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988 đến trước khi có Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 Một bước đột phá quan trọng trong lịch sử tố tụng hình sự Việt Nam đó là việc Nhà nước ban hành Bộ luật Tố tụng hình sựnăm 1988, đánh dấu một bước tiến mới của quá trình pháp điển hóa pháp luật tố tụng hình sự, đồng thời cùng với Bộ luật Hình sự năm 1985 là cơ sở pháp lý bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự. Tại Bộ luật Tố tụng hình sự 1988 đã nêu lên nhiệm vụ của Bộ luật là “xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội”[28]. Đồng thời, quyền công dân tiếp tục được bảo đảm qua các nguyên tắc cơ bản và những quy định cụ thể trong Bộ luật Tố tụng hình sự 1988 đó là các nguyên tắc “bảo đảm quyền khiếu nại tố cáo của công dân đối với hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng”; “cơ quan đã làm oan phải khôi phục danh dự, quyền lợi và 18
  • 24. bồi thường cho người bị thiệt hại”[28]. Đây là lần đầu tiên vấn đề bồi thường thiệt hại cho người bị oan trong hoạt động tố tụng hình sự được quy định cụ thể trong một văn bản pháp luật. Theo đó, cơ quan tiến hành tố tụng không những phải bồi thường thiệt hại mà còn phải thực hiện các biện pháp như: khôi phục danh dự, quyền lợi cho người bị thiệt hại. Nhà nước ta đã ban hành một hệ thống pháp luật, bước đầu đáp ứng được những yêu cầu cơ bản của quản lý nhà nước đối với mọi mặt của đời sống xã hội, trong đó có pháp luật về trách nhiệm bồi thường của cơ quan nhà nước đối với các thiệt hại do cán bộ, công chức nhà nước gây ra trong khi thi hành công vụ. Hiến pháp năm 1992 quy định: “Người bị bắt, bị giam giữ, bị truy tố, bị xét xử trái pháp luậtcó quyền được bồi thường thiệt hại về vật chất và phục hồi danh dự” (Điều 72); “Mọi hành vi xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tập thể và của công dân phải được kịp thời xử lý nghiêm minh. Người bị thiệt hại có quyền được bồi thường về vật chất và phụchồi về danh dự” (Điều 74). Bên cạnh đó, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 47/CP ngày 3/5/1997 về việc giải quyết bồi thường thiệt hại do công chức, viên chức nhà nước, người có thẩm quyền của cơ quan tiến hành tố tụng gây ra. Theo Nghị định số 47/CP, việc bồi thường thiệt hại được giải quyết theo thủ tục hành chính và thủ tục tư pháp. Nguyên tắc “người bị thiệt hại có quyền yêu cầu cơ quan nhà nước, cơ quan tiến hành tố tụng bồi thường cho mình thiệt hại do công chức, viên chức nhà nước, người có thẩm quyền của cơ quan tiến hành tố tụng gây ra hoặc yêu cầu toà án bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của mình” (Điều 3) [12]. Về cơ bản cách thức giải quyết này là phù hợp. Tuy nhiên, qua thực tiễn áp dụng pháp luật và cách thức giải quyết bồi thường có thể thấy tính chất bình đẳng của quan hệ bồi thường thiệt hại không thể hiện rõ và đúng với tính chất của quan hệ dân sự. Dù có những quy định khá tiến bộ, nhưng chưa thật sự tạo điều kiện cho người bị thiệt hại thực 19
  • 25. hiện quyền được bảo vệ lợi ích hợp pháp của mình sau khi bị oan sai, không ít vụ việc giải quyết chưa thực sự khách quan và thường phải kéo dài sang trình tự tư pháp. Trước yêu cầu nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm, không để xảy ra các trường hợp oan, sai, các Nghị quyết của Đảng về cải cách tư pháp đã có những chỉ đạo khá cụ thể. Nghị quyết 08/NQ- TW ngày 02/01/2002 về một số nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp trong thời gian tới đã nhấn mạnh đến trách nhiệm của cơ quan tư pháp đối với các trường hợp oan, sai nhằm bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Thể chế hoá các Nghị quyết của Đảng về cải cách tư pháp, Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội và các cơ quan khác của Nhà nước đã ban hành các văn bản quy phạm pháp luật nêu rõ trách nhiệm của người tiến hành tố tụng và quyền được bồi thường của người bị thiệt hại do người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra. Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002 đã quy định: “Viện trưởng, Phó Viện trưởng, Kiểm sát viên, Thủ trưởng cơ quan điều tra, Điều tra viên trong khi thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn mà gây ra thiệt hạithì Viện kiểm sát nhân dân nơingười đó công tác phải có trách nhiệm bồi thường. Những người đã gây ra thiệt hại phải có trách nhiệm bồi hoàn cho Viện kiểm sát nhân dân theo quy định của pháp luật” (Điều 46) [33]. Có thể thấy rằng, quy định của pháp luật về giải quyết bồi thường thiệt hại do cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng gây ra cho người bị oan trong thời kỳ này về cơ bản đã được hình thành. Các đạo luật đã quy định cơ sở pháp lý cho việc bồi thường thiệt hại cho người bị oan trong tố tụng hình sự. Tuy nhiên, các quy định về việc bồi thường cho người bị oan do người có thẩm quyền tố tụng hình sự gây ra và trách nhiệm hoàn trả của 20
  • 26. người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra thiệt hại chưa rõ ràng, cụ thể. Vì vậy, tuy pháp luật có quy định nhưng suốt một thời gian dài hiệu quả của những quy định pháp luật này còn hạn chế và thiếu khả thi. Quán triệt tư tưởng, định hướng về cải cách tư pháp được đề ra từ Nghị quyết số 08 ngày 02/01/2002 của Bộ chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp trong thời gian tới, nhằm đáp ứng đòi hỏi của thực tiễn, ngày 17/3/2003, Ủy ban thường vụ Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 388/2003/NQ-UBTVQH về Bồi thường thiệt hại cho người bị oan do người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra. Để thực hiện có hiệu quả về bồi thường cho người bị oan trong tố tụng hình sự, ngày 25/3/2004, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp, Bộ Quốc phòng, Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư liên tịch số 01/2004/TTLT-VKSNDTC-BCA- TANDTC-BTP-BQP-BTC hướng dẫn thực hiện một số nội dung của Nghị quyết 388. Với mục đích là “khôi phục quyền, lợi ích của người bị oan trong hoạt động tố tụng hình sự, nâng cao trách nhiệm của người có thẩm quyền trong hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự” đã tạo cơ sở pháp lý cho việc giải quyết bồi thường thiệt hại cho người bị oan, trở thành một hiện tượng công bằng của cải cách tư pháp. Theo đó, Nghị quyết quy định những trường hợp Viện kiểm sát nhân dân có trách nhiệm bồi thường thiệt hại bao gồm: - Cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự đã ra quyết định khởi tố bị can có trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong trường hợp có quyết định đình chỉ điều tra, đình chỉ vụ án vì người bị khởi tố không thực hiện hành vi phạm tội. - Cơ quan đã ra lệnh tạm giữ, tạm giam có trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong trường hợp việc tạm giữ bị huỷ bỏ vì người bị tạm giữ không có hành vi vi phạm pháp luật hoặc việc tạm giam bị huỷ bỏ vì người bị tạm giam 21
  • 27. không thực hiện hành vi phạm tội; nếu việc tạm giữ, tạm giam có phê chuẩn của Viện kiểm sát, thì Viện kiểm sát đã phê chuẩn có trách nhiệm bồi thường. - Viện kiểm sát đã ra quyết định truy tố có trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong các trường hợp sau đây: + Toà án cấp sơ thẩm tuyên bố bị cáo không có tội vì không thực hiện hành vi phạm tội và bản án sơ thẩm đã có hiệu lực pháp luật; + Toà án cấp phúc thẩm giữ nguyên bản án, quyết định của Toàán cấp sơ thẩm tuyên bố bị cáo không có tội vì không thực hiện hành vi phạm tội; + Toà án cấp phúc thẩm giữ nguyên bản án, quyết định của Toà án cấp sơ thẩm tuyên bố bị cáo không có tội vì không thực hiện hành vi phạm tội và sau đó Toà án xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm vẫn giữ nguyên bản án, quyết định của Toà án phúc thẩm tuyên bị cáo không có tội vì không thực hiện hành vi phạm tội.” (Điều 10) [42]. * Về cách thức bồi thường và xác định thiệt hại được bồi thường: Cách thức bồi thường đối với thiệt hại vật chất và thiệt hại tinh thần lần đầu tiên được lượng hoá thành tiền. Theo đó, mức bồi thường thiệt hại về tinh thần được tính: một ngày bị tạm giữ, tạm giam, chấp hành hình phạt tù được bồi thường ba ngày lương tính theo mức lương tối thiểu chung do Nhà nước quy định tại thời điểm giải quyết bồi thường. Nếu người bị oan chết thì những người thân của người này (vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi, người trực tiếp nuôi dưỡng người bị oan) được bồi thường chung một khoản tiền bù đắp về tinh thần là 360 tháng lương tính theo mức lương tối thiểu chung. Các trường hợp còn lại được xác định mỗi ngày bị oan được bồi thường một ngày lương tính theo mức lương tối thiểu chung. Đối với thiệt hại về vật chất, pháp luật đã phân ra làm hai trường hợp: người bị oan chết và người bị oan bị tổn hại về sức khoẻ. Trong trường hợp người bị oan chết thì người gây thiệt hại phải bồi thường các khoản chi phí 22
  • 28. cần thiết, hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, chăm sóc, mai táng người bị oan và cả tiền cấp dưỡng cho những người mà người bị oan đang thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng. Nếu người bị oan bị tổn hại về sức khoẻ thì phải bồi thường tất cả các chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, phục hồi sức khoẻ, thu nhập thực tế bị mất của người chăm sóc người bị oan… Đối với tài sản bị thu giữ, tạm giữ, kê biên, tịch thu mà bị thiệt hại thì sẽ phải trả lại tài sản nếu còn, không thì sẽ căn cứ vào giá trị tài sản để bồi thường. Bên cạnh đó nếu thu nhập thực tế của người bị oan bị mất do bị tạm giữ, tạm giam, chấp hành hình phạt tù thì người bị oan cũng được bồi thường khoản thu nhập đó. Ngoài ra, cơ quan có trách nhiệm bồi thường sẽ phải tiến hành xin lỗi, cải chính công khai tại nơi cư trú của người bị oan. * Về thủ tục bồi thường thiệt hại: Nghị quyết 388 đã quy định hai phương thức: Giải quyết theo thủ tục thương lượng và thủ tục khởi kiện tại toà án. Người bị oan có thể làm đơn yêu cầu gửi đến cơ quan Viện kiểm sát nhân dân có trách nhiệm bồi thường. Sau khi thụ lý đơn, cơ quan Viện kiểm sát sẽ tiến hành thương lượng với người bị thiệt hại. Nếu việc thương lượng thành thì Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân sẽ ra quyết định bồi thường. Nếu việc thương lượng không thành thì người bị oan có thể yêu cầu toà án có thẩm quyền giải quyết việc yêu cầu bồi thường. Theo đó, Toà án có thẩm quyền giải quyết là Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã thuộc tỉnh nơi người bị oan cư trú hoặc làm việc và được giải quyết theo trình tự tố tụng dân sự. 1.2.3. Giai đoạn từ khi có Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 đến trước khi có Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 Kế thừa những nguyên tắc dân chủ của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 có những quy định cụ thể hơn về 23
  • 29. quyền được bồi thường thiệt hại trong tố tụng hình sự. Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 quy định: “Ngườibị oan do người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra có quyền được bồi thường thiệt hại và phục hồi danh dự, quyền lợi. Cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự đã làm oan phải bồi thường thiệt hại và phục hồi danh dự, quyền lợi cho người bị oan; người đã gây ra thiệt hạicó trách nhiệm bồi hoàn cho cơ quan có thẩm quyền theoquy định của pháp luật”(Điều 29) [29]. Bộ luật Tố tụng hình sự 2003 cũng quy định về việc bảo đảm quyền được bồi thường của người bị thiệt hại do cơ quan hoặc người có thẩm quyền tiến hành tố tụng gây ra: “Người bị thiệt hại do cơ quan hoặc người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra có quyền được bồi thường thiệt hại. Cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự phải bồi thường cho ngườibị thiệt hại; người đã gây thiệt hạicó trách nhiệm bồi hoàn cho cơ quan có thẩm quyền theo quy định của pháp luật” (Điều 29) [30]. Quy định này thể hiện sự quan tâm và trách nhiệm của Nhà nước trong việc bảo đảm việc bồi thường thiệt hại về vật chất và phục hồi danh dự cho người bị oan. Sau quá trình thi hành Nghị quyết 388 và Thông tư 01 hướng dẫn thi hành một số quy định của Nghị quyết 38 đã bộc lộ những tồn tại, vướng mắc như: hình thức văn bản quy phạm pháp luật quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người thi hành công vụ gây ra có hiệu lực pháp lý không cao; pháp luật hiện hành về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người thi hành công vụ gây ra chưa được xây dựng trên quan điểm coi đây là trách nhiệm bồi thường của Nhà nước nói chung mà chỉ coi là trách nhiệm bồi thường của từng cơ quan nhà nước cụ thể (cơ quan quản lý người thi hành 24
  • 30. công vụ đã gây ra thiệt hại); cơ quan có trách nhiệm giải quyết bồi thường trong nhiều trường hợp chưa được xác định rõ và đặc biệt là chưa quy định cụ thể trách nhiệm phối hợp của các cơ quan nhà nước khác có liên quan, nên việc giải quyết bồi thường không đạt được kết quả như mong muốn; các loại thiệt hại được bồi thường, mức bồi thường và nhiều vấn đề liên quan khác được pháp luật quy định không thống nhất, chưa hợp lý, gây bất lợi cho cả cơ quan giải quyết bồi thường nhà nước lẫn người bị thiệt hại; trách nhiệm hoàn trả của công chức chưa được quy định rõ ràng. Tổng kết thực tiễn cho thấy, Nghị định số 47 hầu như không phát huy tác dụng, đối với bồi thường thiệt hại cho các trường hợp bị oan trong tố tụng hình sự theo quy định của Nghị quyết số 388. Để khắc phục những hạn chế, tại kỳ họp thứ 5, Quốc hội Khóa XII ngày 18/6/2009, Quốc hội đã thông qua Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước, tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho hoạt động bồi thường Nhà nước nói chung và bồi thường thiệt hại cho người bị oan trong tố tụng hình sự nói riêng. Việc ban hành Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước cũng là nhằm thực hiện Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24 tháng 5 năm 2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020. Một trong các nội dung quan trọng về định hướng xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật được quy định trong Nghị quyết này là xây dựng và hoàn thiện chế độ bảo hộ của Nhà nước đối với các quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, trong đó có quyền được bồi thường thiệt hại do cán bộ, công chức nhà nước gây ra khi thi hành công vụ. Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2009 đã dành từng điều luật để quy định cụ thể, riêng rẽ về trách nhiệm bồi thường của từng cơ quan tiến hành tố tụng. Theo đó, Điều 31 đã quy định Viện kiểm sát có trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong các trường hợp sau đây: Đã phê chuẩn quyết 25
  • 31. định gia hạn tạm giữ của cơ quan điều tra có thẩm quyền nhưng người bị tạm giữ không có hành vi vi phạm pháp luật; Đã phê chuẩn lệnh tạm giam của cơ quan điều tra có thẩm quyền hoặc ra lệnh tạm giam, gia hạn tạm giam mà sau đó có quyết định của cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự xác định người đó không thực hiện hành vi phạm tội; Toà án cấp sơ thẩm trả hồ sơ để điều tra bổ sung nhưng sau đó có quyết định của cơ quan có thẩm quyền đình chỉ điều tra vì người đó không thực hiện hành vi phạm tội;Đã có quyết định truy tố bị can nhưng Toà án cấp sơ thẩm tuyên bị cáo không có tội vì không thực hiện hành vi phạm tội và bản án sơ thẩm đã có hiệu lực pháp luật; Toà án cấp phúc thẩm giữ nguyên bản án, quyết định của Toà án cấp sơ thẩm tuyên là không có tội vì không thực hiện hành vi phạm tội; Toà án cấp phúc thẩm giữ nguyên bản án, quyết định của Toà án cấp sơ thẩm tuyên bị cáo không có tội vì không thực hiện hành vi phạm tội và sau đó Toà án xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm vẫn giữ nguyên bản án, quyết định của Toà án cấp phúc thẩm tuyên bị cáo không có tội vì không thực hiện hành vi phạm tội [31]. * Về thủ tục giải quyết yêu cầu bồi thường: - Thủ tục giải quyết yêu cầu bồi thường tại Viện kiểm sát nhân dân: Thủ tục giải quyết yêu cầu bồi thường tại cơ quan có trách nhiệm bồi thường (Viện kiểm sát nhân dân) diễn ra như sau: sau khi nhận được văn bản xác định hành vi trái pháp luật của người thi hành công vụ, người bị thiệt hại sẽ gửi đơn yêu cầu bồi thường đến cơ quan có trách nhiệm bồi thường. Cơ quan đã nhận đơn yêu cầu bồi thường và hồ sơ có trách nhiệm kiểm tra tính hợp lệ của hồ sơ yêu cầu bồi thường để thụ lý, trường hợp thấy không thuộc thẩm quyền của mình thì có trách nhiệm hướng dẫn người bị thiệt hại gửi đơn đến cơ quan có thẩm quyền. Kể từ khi thụ lý hồ sơ, trong thời hạn luật định, cơ quan đã thụ lý đơn có trách nhiệm tiến hành xác minh thiệt hại. Kết thúc 26
  • 32. việc xác minh thiệt hại, cơ quan có trách nhiệm bồi thường phải tiến hành việc thương lượng với người bị thiệt hại. Kết quả thương lượng sẽ là căn cứ để cơ quan này ra quyết định giải quyết bồi thường. Một điểm cần lưu ý là trong bất cứ trường hợp nào (thương lượng thành hoặc không) thì cơ quan có trách nhiệm bồi thường vẫn phải ra quyết định giải quyết bồi thường. Trường hợp người bị thiệt hại đồng ý với quyết định giải quyết bồi thường và không khởi kiện yêu cầu Toà án giải quyết thì quyết định giải quyết bồi thường sẽ có hiệu lực pháp luật và là căn cứ để cơ quan có trách nhiệm bồi thường tiến hành các thủ tục cần thiết để bồi thường cho người bị thiệt hại. Trường hợp người bị thiệt hại không đồng ý với quyết định giải quyết bồi thường thì trong thời hạn luật định, họ có quyền khởi kiện ra Toà án yêu cầu giải quyết bồi thường. Trong trường hợp quyết định giải quyết bồi thường đã có hiệu lực pháp luật thì người bị thiệt hại không có quyền khởi kiện yêu cầu Toà án giải quyết bồi thường. - Thủ tục giải quyết yêu cầu bồi thường tại Toà án: Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước quy định người bị thiệt hại có quyền khởi kiện yêu cầu Toà án giải quyết bồi thường nếu hết thời hạn luật định mà cơ quan có trách nhiệm bồi thường không ra quyết định giải quyết bồi thường hoặc khi họ đã nhận được quyết định nhưng không đồng ý với nội dung của quyết định đó. Về cơ bản, Toà án có thẩm quyền xét xử sơ thẩm là Toà án cấp huyện nơi cá nhân bị thiệt hại cư trú, làm việc, nơi tổ chức bị thiệt hại đặt trụ sở nơi thiệt hại xảy ra theo sự lựa chọn của người bị thiệt hại hoặc trường hợp khác theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Do xác định quan hệ trách nhiệm bồi thường nhà nước, xét về bản chất là quan hệ dân sự, nên Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước đã quy định thủ tục giải quyết yêu cầu bồi thường tại Toà án được thực hiện theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự. 27
  • 33. * Về các thiệt hạiđược bồi thường và mức bồi thường: Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước quy định cụ thể từng loại thiệt hại được bồi thường, bao gồm: thiệt hại do tài sản bị xâm phạm; thiệt hại do thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút; thiệt hại do tổn thất về tinh thần; thiệt hại về vật chất do người bị thiệt hại chết; thiệt hại về vật chất do bị tổn hại về sức khoẻ; trả lại tài sản; khôi phục danh dự cho người bị thiệt hại trong hoạt động tố tụng hình sự. Đối với quy định về thiệt hại thực tế do thu nhập bị mất hoặc giảm sút, Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước quy định cụ thể các căn cứ để xác định thu nhập của người bị thiệt hại, riêng đối với trường hợp không thể xác định được căn cứ để tính thu nhập bình quân của lao động cùng loại tại địa phương thì sẽ lấy mức lương tối thiểu chung đối với các cơ quan nhà nước làm căn cứ để tính thu nhập của người bị thiệt hại. Đối với các quy định về thiệt hại do tổn thất về tinh thần trong hoạt động tố tụng hình sự, Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước phân biệt rõ đối với các trường hợp sau đây: - Trường hợp bị tạm giữ, tạm giam, chấp hành hình phạt tù thì thiệt hại do tổn thất về tinh thần được bồi thường được xác định là ba ngày lương tối thiểu cho một ngày bị tạm giữ, tạm giam, chấp hành hình phạt tù. - Trường hợp bị khởi tố, truy tố, xét xử, thi hành án mà không bị giam giữ, tạm giam thì thiệt hại do tổn thất về tinh thần được bồi thường được xác định là một ngày lương tối thiểu cho một ngày bị khởi tố, truy tố, xét xử, thi hành án mà không bị giam giữ, tạm giam. - Trường hợp người bị thiệt hại chết thì mức bồi thường do tổn thất về tinh thần tối đa là 360 tháng lương tối thiểu. * Về trình tự, thủ tục cấp và chi trả tiền bồi thường: Sau khi Quyết định giải quyết bồi thường hoặc bản án dân sự về việc giải quyết bồi thường có hiệu lực pháp luật, cơ quan Viện kiểm sát có trách 28
  • 34. nhiệm giải quyết bồi thường sẽ phải lập hồ sơ đề nghị cấp kinh phí chuyển đến Viện kiểm sát nhân dân tối cao thẩm định. Sau khi kiểm tra tính chính xác và đầy đủ của hồ sơ, Viện kiểm sát nhân dân tối cao sẽ đề nghị Bộ Tài chính cấp kinh phí bồi thường. Khi nhận được kinh phí, cơ quan có trách nhiệm bồi thường sẽ tiến hành chi trả tiền bồi thường một lần cho người bị thiệt hại. * Về trách nhiệm hoàn trả của người thi hành công vụ Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2009 đã quy định một cách toàn diện về trách nhiệm hoàn trả, bao gồm: nghĩa vụ hoàn trả và xử lý trách nhiệm của người thi hành công vụ (Điều 56); căn cứ xác định mức hoàn trả (Điều 57); trình tự, thủ tục quyết định việc hoàn trả (Điều 58); thẩm quyền ra quyết định hoàn trả (Điều 59); khiếu nại, khởi kiện quyết định hoàn trả (Điều 60); hiệu lực của quyết định hoàn trả (Điều 61); thực hiện việc hoàn trả (Điều 62); quản lý, sử dụng tiền hoàn trả (Điều 63). Đối với việc bồi thường cho người bị thiệt hại trong hoạt động tố tụng hình sự, do đặc thù của hoạt động tố tụng hình sự, do yêu cầu của việc đấu tranh phòng và chống tội phạm, đã đòi hỏi các cơ quan tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải đưa ra các quyết định một cách nhanh chóng, chính vì vậy, khó có thể tránh khỏi việc gây ra thiệt hại cho người khác. Vì vậy, Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước đã quy định trong trường hợp gây ra thiệt hại mà do lỗi vô ý thì người có thẩm quyền tiến hành tố tụng hình sự không phải chịu trách nhiệm hoàn trả (khoản 2 Điều 56). Trường hợp người thi hành công vụ có trách nhiệm hoàn trả không đồng ý với quyết định hoàn trả thì Luật cũng quy định họ có quyền khiếu nại hoặc khởi kiện quyết định hoàn trả theo quy định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo và pháp luật về thủ tục giải quyết các vụ án hành chính (Điều 60). Trường hợp người thi hành công vụ không có khiếu nại, khởi kiện quyết định hoàn trả thì sau 15 ngày, quyết định hoàn trả có hiệu lực pháp luật và cơ quan đã ra quyết định có trách nhiệm tổ chức thi hành quyết định này (Điều 61). 29
  • 35. Chương 2. QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG HOẠT ĐỘNG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG 2.1. Căn cứ xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Viện kiểm sát nhân dân trong hoạt động tố tụng hình sự Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định nguyên tắc bảo đảm quyền được bồi thường của người bị thiệt hại trong hoạt động tố tụng hình sự tại Điều 31. Nguyên tắc có ý nghĩa bảo đảm khôi phục các quyền và lợi ích hợp pháp của người bị thiệt hại do cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng gây ra; nâng cao trách nhiệm của người có thẩm quyền trong các hoạt động tố tụng, giúp cho việc giải quyết vụ án đúng đắn và hợp pháp. Nguyên tắc này thể hiện sự kiên quyết của Đảng và Nhà nước ta trong việc khắc phục các trường hợp làm oan, sai đối với người tham gia tố tụng và xử lý những người có trách nhiệm, bảo đảm quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, qua đó nâng cao uy tín của các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, củng cố lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Cụ thể Điều 31 quy định như sau: Người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án oan, trái pháp luật có quyền được bồi thường thiệt hại về vật chất, tinh thần và phục hồi danh dự. Nhà nước có trách nhiệm bồi thường thiệt hại và phụchồi danh dự, quyền lợi cho người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án oan, trái pháp luật do cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng gây ra. 30
  • 36. Người khác bị thiệt hại do cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng gây ra có quyền được Nhà nước bồi thường thiệt hại [30]. Một điểm mới của Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 so với Bộ luật Tố tụng hình sự 2003 đã khẳng định bồi thường thiệt hại cho người bị oan là trách nhiệm của Nhà nước, trước đây quy định trách nhiệm này là trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng. Với quy định này, đã thể hiện đúng đắn hơn bản chất của cơ chế bồi thường nhà nước cho người bị oan trong hoạt động tố tụng hình sự, không có sự nhầm lẫn đây là trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng, thực chất các cơ quan đó chỉ đại diện cho Nhà nước thực hiện việc giải quyết bồi thường. Ngoài ra, so với Bộ luật Tố tụng hình sự 2003, Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 đã quy định mở rộng hơn, cụ thể hơn đối tượng được bồi thường trong hoạt động tố tụng hình sự, trước đây chỉ là quy định chung chung là “Người bị oan do người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự” (Điều 29), Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 đã liệt kê cụ thể là “Người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, ngườibị bắt, bị tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án oan” và cả “trái pháp luật” có quyền được bồi thường thiệt hại về vật chất, tinh thần và phục hồi danh dự. Như vậy, với quy định này có thể hiểu không chỉ những người bị oan được bồi thường mà cả trường hợp “sai” có phát sinh thiệt hại cũng được Nhà nước bồi thường. Tuy nhiên, trong Bộ luật Hình sự 2015 đã quy định trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân thương mại và Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 có quy định riêng về thủ tục tố tụng đối với pháp phân, nhưng lại không có quy định về nguyên tắc bồi thường cho đối tượng này khi bị truy cứu trách nhiệm hình sự oan, trái pháp luật trong hoạt động tố tụng hình sự. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Viện kiểm sát nhân dân trong hoạt động tố tụng hình sự là việc Viện kiểm sát nhân dân thực hiện hành vi, 31
  • 37. quyết định tố tụng làm oan người vô tội, hành vi gây thiệt hại của Viện kiểm sát có mối quan hệ nhân quả với thiệt hại thực tế xảy ra. Những hành vi, quyết định tố tụng đó được quy định rõ ràng, chi tiết tại Điều 35 Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2017, bao gồm [32]: - Đã phê chuẩn lệnh bắt, quyết định gia hạn tạm giữ của Cơ quan điều tra hoặc cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra nhưng người bị bắt, bị tạm giữ không có hành vi vi phạm pháp luật; - Đã phê chuẩn quyết định khởi tố bị can, lệnh tạm giam của Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra hoặc đã ra quyết định khởi tố bị can, lệnh tạm giam, quyết định gia hạn tạm giam mà sau đó có quyết định của cơ quan, người có thẩm quyền xác định không có sự việc phạm tội hoặc hành vi không cấu thành tội phạm hoặc đã hết thời hạn điều tra vụ án mà không chứng minh được bị can đã thực hiện tội phạm, (trừ trường hợp Viện kiểm sát quyết định trả hồ sơ vụ án để điều tra bổ sung, Cơ quan điều tra ra kết luận điều tra bổ sung hoặc kết luận điều tra mới đề nghịtruy tố nhưng Viện kiểm sát ra quyết định đình chỉ vụ án đối với bị can vì không có sự việc phạm tội hoặc hành vi không cấu thành tội phạm); đã quyết định trả hồ sơ vụ án để điều tra bổ sung nhưng căn cứ kết quả điều tra bổ sung, Cơ quan điều tra ra quyết định đình chỉ điều tra đối với bị can vì không có sự việc phạm tội hoặc hành vi không cấu thành tội phạm hoặc đã hết thời hạn điều tra vụ án mà không chứng minh được bị can đã thực hiện tội phạm; - Đã ra quyết định truy tố bị can nhưng Tòa án cấp sơ thẩm tuyên bị cáo không có tội vì không có sự việc phạm tội hoặc hành vi không cấu thành tội phạm và bản án sơ thẩm đã có hiệu lực pháp luật; - Tòa án cấp sơ thẩm quyết định trả hồ sơ vụ án để điều tra bổ sung nhưng sau đó có quyết định của cơ quan, người có thẩm quyền đình chỉ điều 32
  • 38. tra, đình chỉ vụ án vì không có sự việc phạm tội hoặc hành vi không cấu thành tội phạm hoặc đã hết thời hạn điều tra vụ án mà không chứng minh được bị can đã thực hiện tội phạm; - Tòa án cấp sơ thẩm quyết định trả hồ sơ vụ án để điều tra bổ sung nhưng sau đó tuyên bị cáo không có tội vì không có sự việc phạm tội hoặc hành vi không cấu thành tội phạm và bản án sơ thẩm đã có hiệu lực pháp luật; - Tòa án cấp phúc thẩm giữ nguyên bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm xác định bị cáo không có tội vì không có sự việc phạm tội hoặc hành vi không cấu thành tội phạm; - Tòa án cấp phúc thẩm giữ nguyên bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm xác định bị cáo không có tội vì không có sự việc phạm tội hoặc hành vi không cấu thành tội phạm và sau đó Tòa án xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm vẫn giữ nguyên bản án, quyết định của Tòa án cấp phúc thẩm xác định bị cáo không có tội vì không có sự việc phạm tội hoặc hành vi không cấu thành tội phạm. 2.2. Điều kiện để Viện kiểm sát nhân dân thụ lý, giải quyết việc bồi thường thiệt hại trong hoạt động tố tụng hình sự - Có hành vi, quyết định tố tụng của Viện kiểm sát nhân dân làm oan người vô tội: Hành vi, quyết định tố tụng của Viện kiểm sát nhân dân phải là hành vi cuối cùng trong trình tự, thủ tục tố tụng, xác định rõ hành vi trái pháp luật của người thi hành công vụ hoặc quyết định của cơ quan Viện kiểm sát xác nhận người bị thiệt hại thuộc trường hợp được Viện kiểm sát bồi thường (hay còn gọi là văn bản làm căn cứ yêu cầu bồi thường) bao gồm: những quyết định mà Viện kiểm sát ban hành (quyết định khởi tố bị can, quyết định truy tố); phê chuẩn lệnh, quyết định của Cơ quan điểu tra (phê chuẩn lệnh bắt, lệnh tạm giam, quyết định gia hạn tạm giữ,quyết định khởi tố bị can).Những hành vi, 33
  • 39. quyết định đó phải có lỗi của Viện kiểm sát, có căn cứ xác định có mối quan hệ nhân quả giữa thiệt hại thực tế và hành vi gây thiệt hại . - Có yêu cầu bồi thường của người bị oan: Viện kiểm sát nhân dân chỉ giải quyết bồi thường thiệt hại khi có yêu cầu của những người sau [32]: người bị thiệt hại; người thừa kế của người bị thiệt hại trong trường hợp người bị thiệt hại chết; người đại diện theo pháp luật của người bị thiệt hại thuộc trường hợp phải có người đại diện theo pháp luật theo quy định của Bộ luật Dân sự; cá nhân được những người trên ủy quyền thực hiện quyền yêu cầu bồi thường. - Yêu cầu bồi thường của ngườiyêu cầu còn thời hiệu: Thời hiệu yêu cầu bồi thường theo pháp luật hiện hành là 03 năm kể từ ngày người có quyền yêu cầu bồi thường nhận được văn bản làm căn cứ yêu cầu bồi thường [32], trừ trường hợp yêu cầu phục hồi danh dự và trường hợp yêu cầu Tòa án giải quyết sau khi Viện kiểm sát đã giải quyết bồi thường. Việc Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2017 sửa đổi tăng tăng thời hiệu yêu cầu bồi thường từ 02 năm (quy định của Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2009) lên 03 năm là để bảo đảm phù hợp với quy định tại Điều 588 Bộ luật Dân sự năm 2015 về thời hiệu khởi kiện yêu cầu bồi thường. Ngoài ra, Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2017 cũng quy định về thời gian không tính vào thời hiệu yêu cầu bồi thường (thời gian có sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan theo quy định của Bộ luật Dân sự) và nghĩa vụ chứng minh của người yêu cầu bồi thường đối với khoảng thời gian không tính vào thời hiệu. Quy định này là hoàn toàn phù hợp nhằm bảo đảm tốt hơn quyền và lợi ích hợp pháp của người bị thiệt hại. 2.3. Trình tự, thủ tục thực hiện trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Viện kiểm sát nhân dân trong hoạt động tố tụng hình sự Hiện nay, trách nhiệm bồi thường thiệt hại của nhà nước được Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2017 có hiệu lực thi hành từ 34
  • 40. ngày 01/7/2018 điều chỉnh. Ngoài ra, Nghị định số 68/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước. Bên cạnh đó, Viện kiểm sát nhân dân tối cao cũng có Quyết định số 304/QĐ-VKSNDTC quy định riêng, đặc thù về quy trình giải quyết yêu cầu bồi thường nhà nước trong hoạt động tố tụng hình sự thuộc trách nhiệm của Viện kiểm sát nhân dân. Theo đó, trình tự, thủ tục thực hiện trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Viện kiểm sát nhân dân trong hoạt động tố tụng hình sự được thực hiện như sau: * Về việc tiếp nhận, xử lý hồ sơ yêu cầu bồi thường: Tiếp nhận hồ sơ yêu cầu bồi thường là việc Viện kiểm sát nhân dân có trách nhiệm giải quyết bồi thường phân công người tiếp nhận văn bản, tài liệu do người bị thiệt hại hoặc người yêu cầu bồi thường nộp trực tiếp hoặc gửi qua dịch vụ bưu chính đến Viện kiểm sát nhân dân để yêu cầu bồi thường thiệt hại theo quy định của Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước. Viện kiểm sát nhân dân có trách nhiệm tiếp nhận hồ sơ yêu cầu bồi thường, xử lý theo các trường hợp sau: Thứ nhất, trường hợp hồ sơ yêu cầu bồi thường chưa đầy đủ theo quy định thì người tiếp nhận hồ sơ báo cáo Lãnh đạo Viện kiểm sát ban hành văn bản yêu cầu bổ sung hồ sơ. Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được văn bản yêu cầu của Viện kiểm sát, người yêu cầu bồi thường phải nộp tài liệu bổ sung hồ sơ. Thứ hai, đối với trường hợp người yêu cầu bồi thường đề nghị Viện kiểm sát giải quyết bồi thường thu thập tài liệu hoặc làm rõ nội dung văn bản làm căn cứ yêu cầu bồi thường thì trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được đề nghị, người tiếp nhận hồ sơ báo cáo Lãnh đạo Viện kiểm sát ra văn bản yêu cầu cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền cung cấp văn bản hoặc làm rõ nội dung văn bản làm căn cứ yêu cầu bồi thường. 35
  • 41. Thứ ba, trường hợp hồ sơ yêu cầu bồi thường đã đầy đủ và hợp lệ thì trong thời hạn 02 ngày làm việc, người tiếp nhận hồ sơ ghi vào Sổ thụ lý hồ sơ yêu cầu bồi thường và thông báo bằng văn bản về việc thụ lý hồ sơ yêu cầu bồi thường cho người yêu cầu. Thứ tư, trường hợp hồ sơ có một trong các căn cứ sau đây thì Viện kiểm sát ban hành văn bản thông báo không thụ lý hồ sơ yêu cầu bồi thường, trả lại hồ sơ cho người yêu cầu bồi thường và nêu rõ lý do: yêu cầu bồi thường không thuộc thẩm quyền giải quyết của Viện kiểm sát tiếp nhận hồ sơ hoặc phạm vi trách nhiệm bồi thường của Nhà nước; thời hiệu yêu cầu bồi thường đã hết; người yêu cầu bồi thường không phải là người có quyền yêu cầu bồi thường; hồ sơ không đầy đủ mà người yêu cầu bồi thường không bổ sung trong thời hạn quy định; yêu cầu bồi thường đã được thực hiện theo thủ tục tại Tòa án; yêu cầu bồi thường đã được giải quyết bằng bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật. Thứ năm, trường hợp sau khi thụ lý hồ sơ yêu cầu bồi thường mới phát hiện có một trong các căn cứ trên thì người tiếp nhận hồ sơ báo cáo Lãnh đạo Viện kiểm sát ban hành văn bản thông báo dừng việc giải quyết yêu cầu bồi thường, xóa tên vụ việc trong Sổ thụ lý hồ sơ yêu cầu bồi thường và trả lại hồ sơ cho người yêu cầu bồi thường. * Về việc cử người giải quyếtyêu cầu bồi thường: Trong thời hạn 02 ngày làm việc, kể từ ngày thụ lý hồ sơ, Viện trưởng Viện kiểm sát có trách nhiệm giải quyết bồi thường ra Quyết định cử người giải quyết bồi thường. Căn cứ vào tính chất của từng vụ việc, Viện trưởng Viện kiểm sát giải quyết bồi thường cử một Phó Viện trưởng, một hoặc nhiều Kiểm sát viên, Kiểm tra viên, công chức giải quyết yêu cầu bồi thường. 36
  • 42. Người được cử giải quyết yêu cầu bồi thường phải có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, kinh nghiệm thực tiễn trong lĩnh vực hình sự, tố tụng hình sự, bồi thường nhà nước và không có quyền và lợi ích liên quan đến việc giải quyết bồi thường, không là người thân thích của người thi hành công vụ gây thiệt hại, người bị thiệt hại. * Về việc phục hồi danhdự cho người bị oan: Bên cạnh việc bồi thường cho người bị thiệt hại về vật chất thì việc phục hồi danh dự cho họ mang một ý nghĩa vô cùng lớn. Điều đó thể hiện thái độ cầu thị, nhận sai và muốn sửa sai của cơ quan Viện kiểm sát gây thiệt hại; đồng thời cũng là sự an ủi, động viên phần nào đối với người bị thiệt hại và gia đình họ. Vì vậy mà Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2017 đã có một thay đổi so với Luật năm 2009, đó là: việc phục hồi danh dự tiến hành song song với việc giải quyết yêu cầu bồi thường chứ không đợi đến khi bồi thường xong về vật chất mới tiến hành phục hồi danh dự như trước đây. Việc phục hồi danh dự đối với người bị thiệt hại trong hoạt động tố tụng hình sự được thực hiện bằng hình thức: Trực tiếp xin lỗi và cải chính công khai; đăng báo xin lỗi và cải chính công khai. Viện kiểm sát nhân dân có trách nhiệm giải quyết bồi thường phải chủ động tổ chức thực hiện phục hồi danh dự cho người bị thiệt hại, trừ trường hợp người bị thiệt hại yêu cầu không phục hồi danh dự. Việc phục hồi danh dự cho người bị thiệt hại phải bảo đảm kịp thời, công khai, đúng pháp luật, tôn trọng nguyện vọng chính đáng của người bị thiệt hại. - Chủ động phục hồi danh dự: Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày có bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của cơ quan, người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự xác định rõ người bị thiệt hại thuộc trường hợp được Nhà nước bồi thường, Viện kiểm sát giải quyết bồi thường gửi thông báo bằng văn bản cho người bị thiệt hại về việc tổ chức thực hiện phục hồi danh dự. 37