SlideShare a Scribd company logo
1 of 53
Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HẠN CHẾ CẠNH TRANH TRONG
HOẠT ĐỘNG NHƢỢNG QUYỀN THƢƠNG MẠI VÀ PHÁP LUẬT
HẠN CHẾ CẠNH TRANH TRONG HOẠT ĐỘNG NHƢỢNG
QUYỀN THƢƠNG MẠI
2.1. Những vấn đề lý luận chung về hoạt động nhƣợng quyền
thƣơng mại
2.1.1. Khái niệm hoạt động nhượng quyền thương mại
Dưới góc độ kinh tế, nhượng quyền thương mại là phương thức kinh
doanh, theo đó bên nhượng quyền cấp cho bên nhận quyền quyền kinh doanh
sản phẩm, dịch vụ của mình trong một thời gian, dưới nhãn hiệu, bí quyết kinh
doanh, kế hoạch kinh doanh của bên nhượng quyền. Bên nhận quyền là bên
sử dụng toàn bộ các yếu tố được bên nhượng quyền chuyển giao để tiến hành
kinh doanh sản phẩm, dịch vụ theo phương thức của bên nhượng quyền. Trong
hoạt động này, bên nhượng quyền và bên nhận quyền vẫn duy trì mối quan hệ
hợp tác chặt chẽ trong suốt quá trình có hiệu lực của hợp đồng. Việc hợp tác
trong hệ thống được thiết lập nhằm mục đích hướng người tiêu dùng nhận biết
sản phẩm, dịch vụ của bên nhượng quyền và bên nhận quyền như là một phần
của hệ thống mà không giống như người bán lẻ độc lập. Bằng cách này, bên
nhượng quyền có thể mở rộng hệ thống phân phối sản phẩm, sự phát triển
thương hiệu của mình thông qua chủ thể đầu tư khác. Về phía bên nhận quyền,
thông qua việc kinh doanh dưới hình thức nhượng quyền thương mại sẽ hạn
chế được rủi ro bởi có sự trợ giúp kỹ thuật và trợ giúp về cách thức quản lý
của bên nhượng quyền.
Ở Việt Nam, những nền tảng ban đầu của hoạt động nhượng quyền
thương mại được ghi nhận lần đầu tiên năm 1999 tại Thông tư 1254/1999/TT-
BKHCN của Bộ Khoa học và Công nghệ hướng dẫn Nghị
Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
định 45/1998/NĐ-CP về chuyển giao công nghệ. Tại Mục 4.1.1(a) đoạn 5 của
Thông tư này đã đề cập đến cụm từ “hợp đồng cấp phép đặc quyền kinh
doanh” với giải thích tiếng Anh là “franchise”. Hàm ý của cụm từ này theo
Thông tư này là việc chuyển giao độc quyền khai thác quyền sở hữu trí tuệ,
theo đó, loại hợp đồng này được hiểu là hợp đồng với nội dung cấp li xăng
sử dụng nhãn hiệu hàng hoá kèm theo các bí quyết sản xuất, kinh doanh được
chuyển giao từ nước ngoài vào Việt nam có giá trị thanh toán cho một hợp
đồng trên 30.000 USD (Mục 4.1.1(a), đoạn 5 Thông tư 1254/1999/TT-
BKHCN do Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ ban hành về việc hướng
dẫn Nghị định số 45/1998/NĐ-CP về chuyển giao công nghệ). Thông tư này
không coi “nhượng quyền thương mại” là một hoạt động kinh doanh và cũng
không đưa ra một khái niệm rõ ràng cụ thể về hoạt động nhượng quyền
thương mại. Tiếp đó, năm 2005, Chính phủ đã thay thế Nghị định số
45/1998/NĐ-CP bằng việc ban hành Nghị định 11/2005/NĐ-CP quy định chi
tiết về chuyển giao công nghệ và Thông tư số 30/2005/TT-BKHCN hướng
dẫn một số điều của Nghị định 11/2005/NĐ- CP quy định chi tiết về chuyển
giao công nghệ đã quy định về hoạt động chuyển giao công nghệ, theo đó,
hoạt động cấp phép đặc quyền kinh doanh chỉ được coi là một hoạt động
chuyển giao công nghệ. Điều này cho thấy hoạt động nhượng quyền thương
mại đã có ở Việt Nam trên thực tế, nhưng hoạt động này được tiếp cận dưới
góc độ của chuyển giao công nghệ, chưa phản ánh được bản chất thực sự của
hoạt động thương mại đặc thù này. Cho đến năm 2005, hoạt động nhượng
quyền thương mại mới được pháp luật Việt Nam ghi nhận như là một hoạt
động thương mại độc lập trong Luật Thương mại năm 2005 có hiệu lực từ
ngày 01 tháng 01 năm 2006 từ Điều 284 đến Điều 291. Điều 284, Luật Thương
mại 2005 đã quy định: Nhượng quyền thương mại là hoạt động thương mại,
theo đó bên nhượng quyền cho phép và yêu cầu bên nhận quyền tự mình tiến
hành việc mua bán
Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
hàng hoá, cung ứng dịch vụ. Một hoạt động thương mại được coi là nhượng
quyền thương mại nếu đáp ứng các điều kiện sau đây:
(1) Việc mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ được tiến hành theo cách
thức tổ chức kinh doanh do bên nhượng quyền quy định và được gắn với nhãn
hiệu hàng hoá, tên thương mại, bí quyết kinh doanh, khẩu hiệu kinh doanh,
biểu tượng kinh doanh, quảng cáo của bên nhượng quyền;
(2) Bên nhượng quyền có quyền kiểm soát và trợ giúp cho bên nhận
quyền trong việc điều hành công việc kinh doanh.
Như vậy, với cách định nghĩa này, nhượng quyền thương mại không
phải là hoạt động chuyển giao công nghệ đơn thuần như trước đây. Đây là
phương thức nhân rộng mô hình kinh doanh của một chủ thể kinh doanh đã
thành công trước đó, bằng việc chuyển giao quyền được kinh doanh theo
chính mô hình, cách thức, các dấu hiệu nhận biết thương nhân (nhãn hiệu
hàng hoá, tên thương mại, bí quyết kinh doanh, khẩu hiệu kinh doanh, biểu
tượng kinh doanh, quảng cáo) cho một thương nhân khác. Hoạt động này có
một số điểm tương đồng với một số hoạt động thương mại khác như đại lý
thương mại, li xăng, chuyển giao công nghệ. Tuy vậy, chúng ta có thể phân
biệt được hoạt động nhượng quyền thương mại dưới các đặc trưng sau đây:
Một là, trong mối quan hệ với đại lý thương mại, mặc dù có một số nét
tương đồng (như cả hai đều là phương thức phân phối hàng hóa/dịch vụ, các
bên trong quan hệ hợp đồng đều là các chủ thể độc lập nhau; bên giao/nhượng
(bên giao đại lý/bên nhượng quyền) thường yêu cầu bên nhận (bên đại
lý/bên nhận quyền) không được bày bán hoặc thực hiện những hành vi cạnh
tranh với sản phẩm được phân phối theo hợp đồng. Tuy nhiên, giữa hai
phương thức có sự khác biệt đáng kể về mặt bản chất, thể hiện ở các khía
cạnh sau đây: (i) trong quan hệ đại lý, không có sự kiểm soát chặt chẽ cũng
như sự trợ giúp đáng kể của bên giao đại lý đối
Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
với bên đại lý, trong khi trong quan hệ nhượng quyền thương mại, bên nhận
quyền được bên nhượng quyền trợ giúp đáng kể về mặt kỹ thuật trong suốt
quá trình có hiệu lực của hợp đồng, cũng như chịu sự kiểm tra giám sát rất
chặt chẽ từ phía bên nhượng quyền; (ii) trong quan hệ đại lý, bên đại lý không
phải trả phí đại lý mà ngược lại, được hưởng tiền hoa hồng từ bên giao đại
lý. Trong khi đó, trong quan hệ nhượng quyền thương mại bên nhận quyền
phải trả phí nhượng quyền cho bên nhượng quyền; (iii) về trách nhiệm đối
với các rủi ro trong kinh doanh, trong quan hệ đại lý, bên giao đại lý chỉ thực
hiện việc giao hàng cho bên đại lý mà không chuyển giao cho bên đại lý
quyền sở hữu đối với hàng hoá đó, vì vậy, khi không bán được hàng hoá hoặc
có rủi ro xảy ra với hàng hoá mà không do lỗi của bên đại lý, người phải gánh
vác nghĩa vụ đối với rủi ro đó một cách đầu tiên và trực tiếp chính là bên
giao đại lý - chủ sở hữu hàng hoá. Trong khi đó, trong quan hệ nhượng
quyền thương mại, việc bên nhận quyền hoặc bên nhượng quyền kinh doanh
thua lỗ, không có khách hàng hoặc có rủi ro xảy ra với hàng hoá của mỗi bên
không liên quan trực tiếp tới bên kia nếu những sự kiện đó không bắt nguồn
từ một sự vi phạm nghĩa vụ hợp đồng nhượng quyền. Sở dĩ như vậy là do
bên nhận quyền và bên nhượng quyền không những có sự độc lập về mặt
chủ thể pháp lý mà còn có sự độc lập về tài chính trong hoạt động kinh doanh
của các bên còn sự độc lập giữa các bên trong quan hệ đại lý chỉ là sự độc
lập về tư cách chủ thể. Có thể khẳng định, bên đại lý chỉ là bên “bán hộ” cho
bên giao đại lý. Còn đối với nhượng quyền thương mại, mỗi bên đều thực
hiện hoạt động kinh doanh độc lập, không bên nào “bán hộ” hàng hoá, dịch
vụ cho nhau. Về bản chất, trong hoạt động nhượng quyền thương mại, hai
bên nhượng quyền và nhận quyền chỉ cùng nhau kinh doanh dưới một tên
thương mại mà thôi.
Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
Hai là, trong quan hệ với li xăng, hoạt động nhượng quyền thương mại
cũng có một số điểm tương đồng như: đối tượng được chuyển giao quyền sử
dụng là các yếu tố thuộc quyền sở hữu trí tuệ; chủ thể chuyển giao là bên có
quyền sở hữu hoặc có quyền chuyển giao hợp pháp đối tượng được chuyển
giao. Tuy nhiên, điểm khác biệt lớn nhất giữa li xăng và nhượng quyền
thương mại là, (i) phạm vi sử dụng đối tượng chuyển giao: trong quan hệ
nhượng quyền, bên nhận chuyển giao (bên nhận quyền) chỉ được sử dụng đối
tượng chuyển giao gắn với hàng hóa, dịch vụ xác định, được cung ứng trong
hệ thống nhượng quyền thì trong quan hệ li xăng, bên nhận chuyển giao có
thể sử dụng đối tượng được li xăng gắn vào bất kỳ hàng hóa, dịch vụ nào mà
các bên thỏa thuận, hoặc dùng kiểu dáng được thiết kế của đối tượng được li
xăng để gắn vào sản phẩm do mình sản xuất; (ii) đối tượng được chuyển giao
trong quan hệ li xăng được giới hạn trong phạm vi một số yếu tố mà pháp luật
sở hữu trí tuệ cho phép, nhưng trong nhượng quyền, đối tượng được phép
chuyển giao không giới hạn trong phạm vi các yếu tố mà pháp luật sở hữu trí
tuệ ghi nhận mà bao gồm cả những yếu tố khác tuy không được quy định
trong pháp luật sở hữu trí tuệ, nhưng lại là bộ phận của quyền thương mại
được xác định trong luật thương mại; (iii) việc xác định hành vi vi phạm: trong
quan hệ li xăng, trong trường hợp cùng lúc li xăng nhiều yếu tố thì việc vi
phạm mỗi yếu tố mang tính chất là các vi phạm độc lập, còn trong nhượng
quyền thương mại các yếu tố được chuyển giao không tồn tại độc lập mà kết
hợp lại thành một “gói” quyền thương mại, do vậy, việc vi phạm bất cứ một
yếu tố nào thuộc quyền thương mại cũng là vi phạm cả gói quyền – đối tượng
chuyển giao của hợp đồng nhượng quyền thương mại.
Ba là, trong quan hệ với chuyển giao công nghệ, hoạt động nhượng
quyền cũng có những điểm tương đồng như cùng chuyển giao công nghệ cho
bên nhận chuyển giao. Bên cạnh đó cũng có những điểm khác biệt cơ
Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
bản, như: (i) phạm vi sử dụng công nghệ: trong nhượng quyền thương mại,
việc sử dụng công nghệ phải theo cách thức thống nhất, áp dụng cho những
hàng hóa, dịch vụ đồng nhất trong hệ thống, bên nhận chuyển giao không được
tự ý phát triển công nghệ thì chuyển giao công nghệ lại cho phép bên nhận
chuyển giao có thể sử dụng công nghệ được chuyển giao để sản xuất ra sản
phẩm của mình, tuy nhiên, việc hàng hoá đó gắn nhãn hiệu sản phẩm nào,
được bán ra với tên thương mại nào còn phụ thuộc vào việc giữa hai bên có
thỏa thuận li xăng đính kèm hay không. Sau khi nhận chuyển giao công nghệ,
bên nhận chuyển giao có thể lựa chọn giữ nguyên công nghệ để áp dụng hoặc
phát triển công nghệ đó; (ii) về nội dung chính của hợp đồng, trong khi các
bên trong quan hệ chuyển giao công nghệ chủ yếu thỏa thuận về mặt chất
lượng, công nghệ, kỹ thuật sản xuất ra sản phẩm thì các bên trong quan hệ
nhượng quyền thương mại ngoài việc quan tâm đến chất lượng, công nghệ, kỹ
thuật còn quan tâm đến hình thức, cách thức, phương thức của sản phẩm trong
quá trình thực hiện các các hoạt động thương mại liên quan đến sản phẩm.
Tóm lại, một hoạt động được coi là nhượng quyền thương mại khi có đầy
đủ các yếu tố sau:
(i) Là hành vi của các chủ thể kinh doanh chuyên nghiệp,
(ii) Là hoạt động nhằm hướng tới việc chuyển giao quyền thương mại
(quyền kinh doanh theo một phương thức thống nhất của bên nhượng quyền),
(iii) Hoạt động kinh doanh theo phương thức nhượng quyền luôn phải
đảm bảo tính đồng bộ trong toàn bộ hệ thống.
Việc ghi nhận nhượng quyền thương mại là một hoạt động thương mại
độc lập trong Luật Thương mại 2005 đã tạo ra cơ sở pháp lý cho việc phát
triển hoạt động nhượng quyền thương mại vốn đã tồn tại trước đó ở Việt Nam.
Đồng thời, người tiêu dùng cũng có nhiều điều kiện tiếp cận các
Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
sản phẩm khác nhau từ khắp nơi trên thế giới thông qua hệ thống nhượng
quyền thương mại.
2.1.2. Đặc điểm của hoạt động nhượng quyền thương mại
Nhượng quyền thương mại là hoạt động thương mại độc lập với các đặc
điểm sau đây:
Một là, hoạt động nhượng quyền thương mại là hoạt động thương mại
được thiết lập giữa các chủ thể kinh doanh chuyên nghiệp (thương nhân)
Theo quy định của pháp luật Việt Nam, một trong những điều kiện tối
thiểu để các bên có thể tham gia quan hệ nhượng quyền đó là phải có tư cách
thương nhân. Trong đó:
Bên nhƣợng quyền là bên đã xây dựng được một thương hiệu mạnh,
đã được kiểm nghiệm trên thị trường. Pháp luật các nước thường yêu cầu bên
nhượng quyền phải là thương nhân, đã có thời gian hoạt động trong lĩnh vực
dự định kinh doanh nhượng quyền trong một thời gian nhất định, thời gian cụ
thể bao nhiêu tùy theo điều kiện, mục tiêu cũng như chính sách của mỗi nước.
Quy định này được đặt ra nhằm đảm bảo hoạt động nhượng quyền thương mại
có khả năng thành công cao, giảm thiểu rủi ro kinh doanh cho bên nhận quyền
sau khi đã đầu tư một số tiền khá lớn (phí nhượng quyền) để được bên nhượng
quyền cấp quyền thương mại. Ở Việt Nam, theo quy định tại Điều 5, Nghị định
35/2006/NĐ-CP quy định chi tiết Luật Thương mại về hoạt động nhượng
quyền thương mại, bên nhượng quyền chỉ được phép cấp quyền thương mại
khi đáp ứng đủ các điều kiện sau đây: Thứ nhất, hệ thống kinh doanh dự định
dùng để nhượng quyền đã hoạt động được ít nhất 01 năm. Nếu thương nhân
Việt Nam là Bên nhận quyền sơ cấp từ Bên nhượng quyền nước ngoài, thương
nhân Việt Nam đó phải kinh doanh theo phương thức nhượng quyền thương
mại ít nhất 01 năm ở Việt Nam trước khi tiến hành cấp lại quyền thương mại;
Thứ hai, đã đăng ký hoạt động nhượng quyền thương mại với cơ quan có thẩm
quyền.
Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
Bên cạnh đó, hàng hoá, dịch vụ kinh doanh phải thuộc đối tượng được
phép kinh doanh nhượng quyền thương mại.
Bên nhận quyền là bên sử dụng quyền thương mại của bên nhượng
quyền để kinh doanh và phải trả một khoản phí nhất định cho việc sử dụng
quyền thương mại này. Điều kiện đặt ra đối với bên nhận quyền đơn giản hơn
rất nhiều so với bên nhượng quyền. Hầu hết các nước trên thế giới đều quy
định bên nhận quyền phải tồn tại dưới một tên thương mại riêng, có tư cách
pháp lý độc lập. Theo quy định tại Điều 6 Nghị định 35/2006/NĐ-CP quy định
chi tiết Luật Thương mại về hoạt động nhượng quyền thương mại, bên nhận
quyền phải là thương nhân và chỉ được phép kinh doanh dưới hình thức
nhượng quyền thương mại khi có đăng ký kinh doanh phù hợp với đối tượng
của quyền thương mại được chuyển nhượng theo hợp đồng nhượng quyền
thương mại.
Như vậy, chủ thể tham gia hợp đồng phải là thương nhân là một trong
những điều kiện tiên quyết để hợp đồng nhượng quyền thương mại có hiệu
lực. Đây là khác biệt cơ bản giữa hợp đồng nhượng quyền thương mại và các
hợp đồng thương mại thông thường khác. Đối với hợp đồng thương mại thông
thường, chủ thể thực hiện hợp đồng có thể là những tổ chức, cá nhân không
phải là thương nhân. Sự khác biệt này xuất phát từ bản chất đặc thù của hoạt
động nhượng quyền thương mại, do đây là một hoạt động rất phức tạp, chứa
đựng nhiều rủi ro, yêu cầu chủ thể thực hiện phải đáp ứng rất nhiều điều kiện
cả về năng lực kinh doanh lẫn năng lực tài chính. Bên cạnh đó, khi đã thực hiện
việc chuyển giao quyền thương mại, trước hết bên nhượng quyền phải là chủ
thể đã và đang thực hiện hoạt động kinh doanh; đối với bên nhận quyền, khi
tiếp nhận quyền thương mại cũng đồng nghĩa với việc thực hiện hoạt động kinh
doanh nhằm tìm kiếm lợi nhuận thông qua phương thức mà bên nhượng quyền
đã chuyển giao. Chính vì thế, hoạt động
Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
nhượng quyền thương mại cần phải được thực hiện bởi các thương nhân -
những chủ thể kinh doanh chuyên nghiệp trong nền kinh tế thị trường.
Hai là, đối tượng mà các bên hướng tới trong quan hệ nhượng quyền
chính là “quyền thương mại”
Theo quy định của pháp luật Việt Nam tại Khoản 6 Điều 3 Nghị định
35/2006/NĐ-CP ngày 31/03/2006 quy định chi tiết Luật Thương mại về
nhượng quyền thương mại, “quyền thương mại” được hiểu là một, một số hoặc
toàn bộ các quyền sau đây: (i) Quyền được bên nhượng quyền cho phép và
yêu cầu bên nhận quyền tự mình tiến hành công việc kinh doanh cung cấp
hàng hóa hoặc dịch vụ theo một hệ thống do bên nhượng quyền quy định và
được gắn với nhãn hiệu hàng hóa, tên thương mại, khẩu hiệu kinh doanh, biểu
tượng kinh doanh, quảng cáo của bên nhượng quyền; (ii) Quyền được bên
nhượng quyền cấp cho bên nhận quyền sơ cấp quyền thương mại chung; (iii)
Quyền được bên nhượng quyền thứ cấp cấp lại cho bên nhận quyền thứ cấp
theo hợp đồng nhượng quyền thương mại chung và
(iv) Quyền được bên nhượng quyền cấp cho bên nhận quyền quyền thương
mại theo hợp đồng phát triển quyền thương mại
Như vậy, hiểu một cách cơ bản, ngoài các quyền phái sinh như quyền
cấp lại quyền thương mại cho chủ thể khác, thì quyền thương mại về bản chất
là quyền được “tiến hành công việc kinh doanh cung cấp hàng hóa hoặc dịch
vụ theo một hệ thống do bên nhượng quyền quy định và được gắn với nhãn
hiệu hàng hóa, tên thương mại, khẩu hiệu kinh doanh, biểu tượng kinh doanh,
quảng cáo của bên nhượng quyền”
Tuy nhiên, với bản chất là việc chuyển giao cách thức tổ chức kinh
doanh do bên nhượng quyền quy định gắn với các yếu tố nhận biết thương
nhân cho bên nhận quyền, quyền thương mại trong hợp đồng nhượng quyền
phải được hiểu là một “gói quyền”, bao gồm các quyền đối với nhãn hiệu hàng
hóa, tên thương mại, bí quyết kinh doanh, biểu tượng kinh
Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
doanh, khẩu hiệu kinh doanh, logo và các đối tượng thuộc quyền sở hữu trí
tuệ khác. Các quyền này có sự gắn kết, liên hệ chặt chẽ với nhau trong một
chỉnh thể thống nhất chứ không chỉ đơn giản là một tập hợp các quyền liên
quan đến hoạt động nhượng quyền thương mại. Bên nhận quyền có quyền sử
dụng toàn bộ “gói quyền” này của bên nhượng quyền để tiến hành kinh doanh
hàng hóa, dịch vụ dưới thương hiệu của bên nhượng quyền. Cách nhìn nhận
này cũng phù hợp với quan điểm của Ủy ban Châu Âu về quyền thương mại
được chuyển giao trong quan hệ nhượng quyền, ghi nhận tại Điều 1(3)(a) Nghị
quyết 4087/88, đó là “một tổ hợp những quyền liên quan đến sở hữu trí tuệ
thuộc bên giao gắn liền với nhãn hiệu, tên thương mại, biển hiệu, biểu tượng
kinh doanh, bí quyết kinh doanh, quyền tác giả, quyền đối với sáng chế được
bên nhận quyền khai thác nhằm mục đích bán/phân phối hàng hóa/dịch vụ
cho người tiêu dùng”
Cần phải lưu ý rằng, trong một số trường hợp, mà phổ biến là trong
phương thức nhượng quyền phân phối sản phẩm, đối tượng các bên hướng tới
trong quan hệ nhượng quyền thương mại bao gồm cả "hàng hóa" được cung
ứng bởi bên nhượng quyền. Chẳng hạn, trong hệ thống nhượng quyền mỹ
phẩm của hãng The Body Shop, để có thể kinh doanh sản phẩm trên, bên
nhận quyền phải cam kết kinh doanh theo phương thức nhượng quyền (cách
thức kinh doanh, cách bài trí, màu sắc, trang thiết bị...) và mua sản phẩm do
bên nhượng quyền cung ứng. Thông thường, "hàng hóa" được nói đến ở đây
là những sản phẩm tương đối đặc thù, do bên nhượng quyền độc quyền cung
ứng. Chính vì vậy, để được kinh doanh hàng hóa đặc thù trên, bên nhận quyền
buộc phải chấp nhận cách thức kinh doanh theo phương thức nhượng quyền
như một điều kiện bắt buộc. Trong trường hợp này, sẽ tồn tại hai đối tượng
mà các bên hướng tới trong quan hệ nhượng quyền thương mại, (i) quyền
thương mại và (ii) hàng hóa được cung ứng bởi bên nhượng quyền.
Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
Ba là, quan hệ nhượng quyền hướng tới thiết lập và ổn định trạng thái
đồng bộ của hệ thống nhượng quyền trong suốt quá trình kinh doanh
Xuất phát từ việc chuyển giao cách thức kinh doanh và cùng sử dụng
các dấu hiệu nhận biết thương nhân, nhượng quyền thương mại đã làm cho
khách hàng nhận biết theo hướng toàn bộ các cơ sở trong hệ thống nhượng
quyền như cùng một chủ sở hữu duy nhất, mặc dù về bản chất họ là các thương
nhân độc lập nhau cả về mặt pháp lý và tài chính. Chẳng hạn, trong hệ thống
nhượng quyền cà phê Trung Nguyên, khi khách hàng uống một ly cà phê
Trung Nguyên ở Hà Nội hay sử dụng sản phẩm ở một cơ sở tại Thành phố
Hồ Chí Minh thì đều được phục vụ với cùng một cách thức, cùng chất lượng
sản phẩm như nhau, mặc dù hai cơ sở này hoàn toàn độc lập nhau về mặt tư
cách pháp lý, tài chính. Mặc dù vậy, ở khía cạnh là người tiêu dùng, khách
hàng thường nhận diện theo hướng tất cả các cơ sở trong hệ thống nhượng
quyền đều cùng một chủ sở hữu. Với dấu hiệu nhận biết như trên, nếu một bên
nhận quyền cung cấp sản phẩm không đảm bảo chất lượng, người tiêu dùng
sẽ mất niềm tin vào toàn bộ hệ thống nhượng quyền. Mặc dù sự đồng bộ trong
quan hệ nhượng quyền chỉ là sự đồng bộ tương đối, không phải là sự đồng bộ
một cách tuyệt đối, mức độ đồng bộ sẽ phụ thuộc vào chính sách của mỗi hệ
thống nhượng quyền. Tuy nhiên, dù mức độ đồng bộ như thế nào thì với sự
nhận biết của khách hàng như trên, việc thiết lập và vận hành hệ thống nhượng
quyền một cách đồng bộ là một trong những yếu tố đảm bảo sự tồn tại và phát
triển bền vững của hệ thống nhượng quyền. Để đảm bảo tính đồng bộ của hệ
thống nhượng quyền, bên nhượng quyền thường có những hoạt động nhằm
thường xuyên trợ giúp, hỗ trợ cho bên nhận quyền trong suốt quá trình kinh
doanh như trợ giúp về mặt kỹ thuật, đào tạo, huấn luyện kỹ năng kinh doanh
cho bên nhận quyền.
Bốn là, nhượng quyền thương mại là hoạt động thường chứa đựng
các yếu tố dẫn đến hành vi hạn chế cạnh tranh
Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
Không thể phủ nhận được thực tế là các chủ thể kinh doanh trong nền
kinh tế thị trường luôn hướng tới lợi nhuận thông qua hoạt động cạnh tranh.
Chính vì vậy, trong bất kỳ hoạt động thương mại nào cũng luôn tiềm ẩn xu thế
này và hoạt động nhượng quyền thương mại cũng không phải là ngoại lệ. Điều
này được thể hiện ở chỗ, các bên trong hệ thống nhượng quyền là các chủ thể
độc lập nhau về mặt tư cách pháp lý và tài chính, trong khi họ lại cùng kinh
doanh một loại sản phẩm theo một phương thức như nhau, dẫn tới họ cùng
tiếp cận chung một đối tượng khách hàng. Như một quy luật, để thu hút khách
hàng về phía mình, các bên trong hệ thống nhượng quyền sẽ tìm mọi cách
cạnh tranh với nhau trên mọi phương diện (như: giá cả, chất lượng, phương
thức cung ứng dịch vụ, chế độ chăm sóc khách hàng…), khi đó tính đồng bộ
trong hệ thống nhượng quyền thương mại có khả năng bị phá vỡ. Chính vì
vậy, nếu giữa các bên không có ràng buộc nhằm cấm hoặc hạn chế cạnh tranh
trong hệ thống thì đương nhiên hành vi cạnh tranh giữa các bên trong hệ thống
nhượng quyền sẽ tất yếu phát sinh và tính đồng bộ của hệ thống nhượng quyền
theo đó cũng không giữ vững được. Do nhận thức được khả năng và nhu cầu
cạnh tranh giữa các bên trong hệ thống nhượng quyền là tất yếu, khách quan
nên khi thiết lập quan hệ nhượng quyền, các bên thường có những hành vi
nhằm hạn chế cạnh tranh giữa các bên trong hệ thống. Để viện dẫn cho tính
hợp lý của các hành vi hạn chế cạnh tranh này, các bên thường vin vào lý do
nhằm đảm bảo tính đồng bộ trong toàn bộ hệ thống nhượng quyền để lẩn
tránh sự kiểm soát của pháp luật cạnh tranh. Với sự tồn tại của cạnh tranh và
hành vi hạn chế cạnh tranh giữa các bên trong hệ thống nhượng quyền diễn
ra một cách phổ biến và khách quan như trên, đặt ra nhu cầu điều tiết hành vi
cạnh tranh của pháp luật nhằm đảm bảo môi trường cạnh tranh lành mạnh,
bình đẳng trong quan hệ nhượng quyền thương mại.
Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
2.2. Hành vi hạn chế cạnh tranh và yếu tố làm phát sinh hành vi hạn
chế cạnh tranh trong hoạt động nhƣợng quyền thƣơng mại
Theo nghĩa rộng, hành vi hạn chế cạnh tranh trong hoạt động nhượng
quyền thương mại bao gồm hai nhóm hành vi: (i) Hành vi hạn chế cạnh tranh
được thiết lập giữa các bên trong hệ thống nhượng quyền với các đối thủ cạnh
tranh khác ngoài hệ thống và (ii) Hành vi hạn chế cạnh tranh được thiết lập từ
hoặc giữa các bên trong hệ thống nhượng quyền. Ở nhóm hành vi hạn chế
cạnh tranh thứ nhất, thông thường không xuất phát từ bản chất của hoạt động
nhượng quyền, không hướng tới bảo vệ tính đồng bộ của hệ thống nhượng
quyền, vì vậy sẽ được điều chỉnh theo những quy định của pháp luật cạnh
tranh nói chung. Ở nhóm hành vi hạn chế cạnh tranh thứ hai, là hành vi gây
hạn chế cạnh tranh giữa các bên trong hệ thống nhượng quyền hoặc làm mất
khả năng lựa chọn đối tác của các bên nhận quyền, thường xuất phát từ bản
chất của hoạt động nhượng quyền thì cần phải nghiên cứu một cách thấu đáo
để điều chỉnh theo quy định chung của pháp luật cạnh tranh hay cần phải có
những quy định riêng biệt để điều chỉnh. Trong phạm vi luận án này, tác giả
tiếp cận hành vi hạn chế cạnh tranh trong hoạt động nhượng quyền thương
mại thuộc nhóm thứ hai, dưới khía cạnh là hành vi hạn chế cạnh tranh giữa
các bên trong một hệ thống nhượng quyền xác định, bao gồm hành vi hạn
chế cạnh tranh giữa bên nhượng quyền với bên nhận quyền và hành vi hạn chế
cạnh tranh giữa các bên nhận quyền với nhau trong cùng hệ thống nhượng
quyền.
2.2.1. Khái niệm hành vi hạn chế cạnh tranh
Khái niệm cạnh tranh được cuốn Black Law Dictionary miêu tả là “sự nỗ
lực hoặc hành vi của hai hay nhiều thương nhân nhằm cạnh tranh giành những
lợi ích giống nhau từ chủ thể thứ ba [12, tr.278]. Ở khía cạnh kinh tế, cạnh
tranh giúp cho nền kinh tế vận động và phát triển, chất lượng sản phẩm sẽ
ngày được nâng cao với giá thành hợp lý dưới sự điều phối của
Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
các quy luật cung - cầu. Tuy nhiên, một hành vi cạnh tranh thái quá, có thể
dẫn đến triệt tiêu, giảm bớt cạnh tranh lại ảnh hưởng tiêu cực cho nền kinh tế,
nhóm hành vi này được gọi là hành vi hạn chế cạnh tranh, là hành vi luôn
hướng tới việc hình thành một sức mạnh thị trường hoặc tận dụng sức mạnh
thị trường để làm cho tình trạng cạnh tranh trên thị trường bị biến dạng [8,
tr.25]. Chính vì vậy, cạnh tranh là hiện tượng tất yếu và cần thiết trong nền
kinh tế, thiếu vắng cạnh tranh, nền kinh tế sẽ khó vận hành, phát triển. Với
bản chất như trên, pháp luật của hầu hết các quốc gia trên thế giới đều có
những quy định nhằm bảo vệ cạnh tranh, đảm bảo để hành vi cạnh tranh tồn
tại theo đúng quy luật thị trường.
Theo pháp luật cạnh tranh của Việt Nam tại Khoản 3, Điều 3, Luật Cạnh
tranh 2004, hành vi hạn chế cạnh tranh là "hành vi của doanh nghiệp làm giảm,
sai lệch, cản trở cạnh tranh trên thị trường, bao gồm hành vi thoả thuận hạn
chế cạnh tranh, lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, lạm dụng vị trí độc quyền
và tập trung kinh tế”. Dưới góc độ kinh tế, cạnh tranh là yếu tố tất yếu trong
nền kinh tế thị trường, thúc đẩy các thương nhân phải tìm mọi cách giành giật
thị trường thông qua việc nỗ lực cung cấp các sản phẩm tốt với giá cả phải
chăng, với các nỗ lực không ngừng như vậy, nhiều sản phẩm mới ra đời với
chi phí thấp và giá cả có lợi cho người tiêu dùng, phúc lợi xã hội vì vậy cũng
tăng cao và nền kinh tế nhờ vậy sẽ có động lực để phát triển. Có thể nói, ý
nghĩa ngắn gọn của cạnh tranh là “động lực phát triển cho nền kinh tế”.
Chính vì vậy, về lý thuyết, một nền kinh tế không có cạnh tranh sẽ là nền kinh
tế “chết”, không phát triển. Tuy nhiên, trên thực tế, sự tồn tại của cạnh tranh
là khách quan, chỉ có điều ở các giai đoạn khác nhau thì mức độ cạnh tranh và
mức độ ảnh hưởng của cạnh tranh tới nền kinh tế là khác nhau. Nhận thức rõ
vai trò của cạnh tranh như vậy, Luật Cạnh tranh các nước đều tăng cường bảo
vệ cạnh tranh thông qua việc kiểm soát các hành vi có khả năng làm giảm, sai
lệch hoặc triệt tiêu năng
Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
lực cạnh tranh của các thương nhân (hành vi hạn chế cạnh tranh). Các hành vi
này được chia thành hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, lạm dụng vị trí
thống lĩnh/vị trí độc quyền và tập trung kinh tế. Bên cạnh đó, những hành vi
cạnh tranh trái với các chuẩn mực thông thường về đạo đức kinh doanh, gây
thiệt hại hoặc có thể gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích
hợp pháp của doanh nghiệp khác hoặc người tiêu dùng (hành vi cạnh tranh
không lành mạnh) cũng được pháp luật cạnh tranh Việt Nam ghi nhận như là
những yếu tố xâm phạm đến môi trường cạnh tranh cần kiểm soát.
Hiện nay có rất nhiều tiêu chí để phân loại hành vi hạn chế cạnh tranh,
tuy nhiên, cách phân loại phổ biến hiện nay là dựa vào thái độ của nhà nước
đối với hành vi hạn chế cạnh tranh mà chia hành vi hạn chế cạnh tranh thành
hai loại sau đây:
(1) Hành vi hạn chế cạnh tranh hợp pháp: Đây là hành vi cạnh tranh của
các chủ thể kinh doanh nhằm mở rộng thị trường mà không xâm hại hoặc ít
xâm hại đến khả năng cạnh tranh, khả năng gia nhập thị trường của các chủ
thể kinh doanh khác. Với bản chất như vậy, hành vi cạnh tranh loại này luôn
được pháp luật khuyến khích và bảo vệ, cho phép.
(2) Hành vi hạn chế cạnh tranh không hợp pháp: Là hành vi cạnh tranh
của các chủ thể kinh doanh nhằm mở rộng thị trường mà hậu quả của hành vi
là xâm hại nghiêm trọng hoặc có khả năng xâm hại nghiêm trọng đến năng
lực cạnh tranh, khả năng gia nhập thị trường của các chủ thể kinh doanh khác,
thông qua đó sẽ ảnh hưởng đến sự phát triển của nền kinh tế.
Về cơ bản, tất cả hành vi cạnh tranh đều bị pháp luật kiểm soát thông qua
việc vạch ra ranh giới để xác định một hành vi cạnh tranh là hợp pháp hay bất
bợp pháp. Vượt ra khỏi ranh giới đó, pháp luật sẽ ngăn cấm và có biện pháp xử
lý thích hợp.
Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
2.2.2. Các yếu tố làm phát sinh hành vi hạn chế cạnh tranh trong hoạt
động nhượng quyền thương mại
2.2.2.1. Nhu cầu tối đa hóa lợi nhuận và mở rộng thị trường của các
thương nhân trong hệ thống nhượng quyền
Dưới khía cạnh cạnh tranh, có thể nói, bất kỳ một thương nhân nào khi
gia nhập thị trường đều mong muốn tạo lập và nâng cao năng lực thị thường,
từ đó “lôi kéo” được khách hàng về phía mình. Mong muốn này về bản chất là
chính đáng, bởi lẽ khi thực hiện bất cứ hoạt động kinh doanh nào, các thương
nhân đều muốn thu về thật nhiều lợi nhuận, vì vậy, một khi “miếng bánh thị
phần” rộng lớn thì lợi nhuận của họ mới được tăng cao. Để mở rộng thị trường,
hai yếu tố cơ bản sẽ được sử dụng chủ yếu để chi phối sự lựa chọn của khách
hàng, đó là yếu tố về giá và chất lượng sản phẩm. Theo đó, nếu một sản phẩm
có chất lượng tốt với giá cả phải chăng sẽ dễ dàng được khách hàng chấp nhận.
Ở cấp độ đơn giản, việc tạo dựng năng lực thị trường có thể xuất phát từ việc
tác động vào từng yếu tố (chất lượng tăng hoặc giá giảm), ở cấp độ cao hơn,
các thương nhân có thể vừa tăng chất lượng (bằng cách tạo ra sự khác biệt, tạo
ra nhiều tính năng, công dụng của sản phẩm…) vừa giảm giá thành sản phẩm
để tăng tính hấp dẫn đối với khách hàng.
Trong hoạt động nhượng quyền thương mại, các bên nhượng quyền và
nhận quyền đều là những thương nhân độc lập, lại cùng kinh doanh một loại
sản phẩm theo cùng một phương thức như nhau, chính vì vậy khi mà sản phẩm
là giống nhau, nhu cầu chiếm lĩnh thị trường về phía mình lớn thì khả năng
thực hiện các hành vi cạnh tranh để giành lợi thế cạnh tranh, thu hút khách
hàng về phía mình là điều luôn luôn tồn tại trong ý thức của các bên trong hệ
thống nhượng quyền. Tuy nhiên, do kinh doanh cùng một sản phẩm theo một
phương thức như nhau, việc sáng tạo trong quá trình kinh doanh theo phương
thức nhượng quyền là điều không thể tồn tại trong hoạt động nhượng quyền,
chính vì vậy, các hành vi hạn chế cạnh tranh dưới
Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
dạng phân chia thị trường tiêu thụ thường xuất hiện như một nhu cầu tất
yếu trong hoạt động nhượng quyền.
Chính vì vậy, có thể khẳng định, hành vi cạnh tranh là hành vi tồn tại
tất yếu, khách quan trong bất kỳ một quan hệ thương mại nào, trong đó,
nhượng quyền thương mại không phải là một ngoại lệ.
2.2.2.2. Yêu cầu đảm bảo tính đồng bộ trong hệ thống nhượng quyền
Nhượng quyền thương mại là một hoạt động thương mại tương đối đặc
thù so với các hoạt động thương mại thông thường khác. Tính đặc thù thể hiện
ở chỗ mặc dù các bên là các thương nhân độc lập với nhau về mặt tư cách
pháp lý và tài chính, sở hữu các cơ sở kinh doanh khác nhau nhưng lại kinh
doanh cùng một sản phẩm như nhau, với việc cùng sử dụng tất cả các dấu hiệu
nhận biết thương nhân (tên thương mại, nhãn hiệu, bí quyết kỹ thuật, khẩu
hiệu kinh doanh…). Vì lẽ này mà trong con mắt khách hàng, tất cả các cơ sở
nhượng quyền đều có cùng chung một chủ sở hữu với chất lượng, chính sách
bán hàng như nhau. Do vậy, nếu một bên trong hệ thống nhượng quyền cung
cấp sản phẩm kém chất lượng (so với yêu cầu của bên nhượng quyền) sẽ làm
cho khách hàng đánh giá sản phẩm của toàn bộ hệ thống nhượng quyền đó
không tốt, làm ảnh hưởng đến quyết định tiếp tục sử dụng sản phẩm trong
tương lai của khách hàng.
Để hạn chế rủi ro trên cũng như nhằm tăng mức độ thành công của
phương thức kinh doanh nhượng quyền, trong quan hệ nhượng quyền bên
nhượng quyền thường có những hành vi nhằm kiểm soát chất lượng và giá cả
của các bên nhận quyền trong hệ thống, bởi đây là hai yếu tố chủ yếu có khả
năng làm chệch hướng tính đồng bộ của hệ thống nhượng quyền. Theo đó,
bên nhượng quyền thường buộc bên nhận quyền phải chấp nhận những điều
khoản nhất định khi giao kết hợp đồng, như: giới hạn về địa điểm kinh doanh,
hạn chế về giá, buộc bên nhận quyền phải mua các nguyên vật liệu đầu vào từ
bên nhượng quyền hay bên thứ ba được chỉ định… Xét trên bình
Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
diện pháp luật hạn chế cạnh tranh thì những điều khoản này chính là những
điều khoản hạn chế cạnh tranh.
Về nguyên lý chung, hành vi hạn chế cạnh tranh ở một mức độ nhất định
sẽ có khả năng triệt tiêu cạnh tranh, đi ngược lại với quy luật chung của thị
trường. Tuy nhiên, trong quan hệ nhượng quyền thương mại, nếu không thừa
nhận hành vi hạn chế cạnh tranh ở một số trường hợp nhất định sẽ làm cho các
bên không dám “dấn thân” vào một quan hệ mà sự sụp đổ của toàn bộ hệ
thống luôn luôn “rình rập” bởi hành vi tự do cạnh tranh của các bên có khả
năng làm lệch chuẩn tính “đồng bộ” của hệ thống nhượng quyền. Chính vì
vậy, sự tồn tại của hành vi hạn chế cạnh tranh trong một số trường hợp nhất
định sẽ giúp cho các bên trong quan hệ nhượng quyền yên tâm kinh doanh, kể
cả các bên đang dự định kinh doanh theo phương thức nhượng quyền cũng sẽ
tự tin lựa chọn một phương thức kinh doanh đầy tiềm năng này.
2.2.2.3. Bản chất kinh tế của mối quan hệ
Mối quan hệ ở đây được hiểu là mối quan hệ giữa các bên trong hệ thống
nhượng quyền. Trong hoạt động nhượng quyền thương mại, sự xuất hiện của
cạnh tranh giữa các bên trong hệ thống (giữa bên nhượng quyền với bên nhận
quyền, giữa các bên nhận quyền với nhau) là tất yếu, khách quan. Mặc dù,
nhìn bề ngoài ở cấp độ hệ thống nhượng quyền, khi mà các bên trong quan hệ
nhượng quyền thương mại cùng kinh doanh theo một phương thức duy nhất,
sản phẩm, chất lượng đồng bộ nhau, thậm chí giá cả tương đồng nhau thì họ
không phải là đối thủ cạnh tranh. Tuy nhiên, ở khía cạnh bản chất, trong nội
bộ hệ thống, họ là các thương nhân độc lập về mặt tài chính và pháp lý, các
bên trong hệ thống nhượng quyền đều mong muốn tăng cường lợi nhuận, đặc
biệt khi kinh doanh cùng một sản phẩm, họ lại càng có cùng đối tượng khách
hàng như nhau, nếu khách hàng sử dụng sản phẩm của một bên thì các bên
còn lại trong hệ thống sẽ không còn cơ hội
Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
cung ứng được sản phẩm cho khách hàng đó nữa. Chính vì vậy, ở khía cạnh
nhất định, họ đều là đối thủ cạnh tranh của nhau.
Bên cạnh đó, khi mà tính đồng bộ xuyên suốt trong toàn bộ hệ thống
nhượng quyền, thì nhu cầu tất yếu xuất hiện trong ý chí của các bên là, không
một hành vi cạnh tranh nào được cho phép trong quan hệ nhượng quyền. Tuy
nhiên, vấn đề đặt ra là, cạnh tranh về bản chất tồn tại trong nội tại giữa các
bên. Chính vì vậy, để đạt được tính đồng bộ của hệ thống, các bên trong quan
hệ nhượng quyền phải cùng nhau cam kết không cạnh tranh trong hệ thống
dưới dạng những thỏa thuận liên quan đến giá bán sản phẩm mà hệ thống
nhượng quyền cung ứng, thỏa thuận về nguồn cung cấp nguyên vật liệu cho
bên nhận quyền, thỏa thuận độc quyền lãnh thổ…. Như vậy, trước khi đạt đến
tính đồng bộ, các bên đã phải có những thỏa thuận, ràng buộc mang tính chất
hạn chế cạnh tranh.
Như vậy, có thể khẳng định, xu hướng hạn chế cạnh tranh là hiện tượng
tồn tại trong tất cả các hoạt động thương mại, kể cả quan hệ nhượng quyền và
cần phải được điều chỉnh bởi pháp luật cạnh tranh. Tuy nhiên, với bản chất của
quan hệ nhượng quyền thương mại như đã phân tích trên, việc điều tiết của nhà
nước cần phải có những đặc thù nhất định.
2.2.3. Nhận diện hành vi hạn chế cạnh tranh trong hoạt động nhượng
quyền thương mại
Dưới khía cạnh kinh tế, cạnh tranh là hành vi của các đối thủ cùng kinh
doanh các sản phẩm có khả năng thay thế được cho nhau và có cùng chung
một nhóm đối tượng khách hàng trong một khu vực địa lý nhất định. Trong
một thị trường với số lượng khách hàng ổn định (cầu) các nhà sản xuất, cung
ứng (cung) luôn tìm cách thực hiện những hành vi nhằm thu hút khách hàng
về phía mình, thông qua đó, nâng cao thị phần và khả năng ảnh hưởng tới thị
trường. Để có thể thu được nhiều lợi nhuận, các đối thủ cạnh tranh thường
lựa chọn một trong hai cách: (i) Cạnh tranh lành mạnh theo
Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
kiểu truyền thống (nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm giá thành…) và (ii)
thực hiện những hành vi phản cạnh tranh (làm cho cạnh tranh không còn tồn
tại hoặc giảm bớt cạnh tranh), đẩy bất lợi về phía xã hội, người tiêu dùng và
tối đa hóa lợi nhuận về phía các nhà cung cấp bằng cách thỏa thuận không
cạnh tranh giữa các đối thủ cạnh tranh nhằm làm cho người tiêu dùng không
có cơ hội lựa chọn, so sánh về giá, chất lượng hoặc ngăn cản, kìm hãm các đối
thủ cạnh tranh khác, ép buộc các chủ thể khác phải tham gia giao dịch…
Nhóm hành vi thứ nhất được pháp luật khuyến khích và bảo hộ. Nhóm
hành vi thứ hai (hành vi phản cạnh tranh) pháp luật của các quốc gia trên thế
giới cũng như Việt Nam thường có sự kiểm soát chặt chẽ, theo đó, những
hành vi có dấu hiệu triệt tiêu, hạn chế, bóp méo cạnh tranh nếu gây hoặc có
khả năng gây ra ảnh hưởng tiêu cực nghiêm trọng đến thị trường đều bị pháp
luật ngăn cấm, trường hợp hành vi cạnh tranh đó nếu có những lợi ích khác bù
lại thì có thể được xem xét cho hưởng miễn trừ. Để xác định khả năng ảnh
hưởng nghiêm trọng của nhóm hành vi thứ hai, pháp luật Việt Nam và các
quốc gia khác trên thế giới thường dựa vào một trong hai yếu tố (thị phần/thị
phần kết hợp trên thị trường liên quan của chủ thể thực hiện hành vi hoặc khả
năng ảnh hưởng nghiêm trọng của hành vi đến thị trường) để quyết định cho
phép hay ngăn cấm các hành vi phản cạnh tranh nêu trên. Ở một chừng mực
nhất định, nhóm hành vi thứ hai (mà cụ thể là hành vi hạn chế cạnh tranh)
cũng có những lợi ích nhất định cho nền kinh tế như giúp các chủ thể kinh
doanh có quy mô và thị phần nhỏ có thể phối hợp với nhau để nâng cao năng
lực cạnh tranh trên thị trường trước những đối thủ cạnh tranh lớn, thông qua
đó thúc đẩy cạnh tranh trên thị trường tốt hơn. Ở khía cạnh kinh tế, sự kết hợp
cùng hành động giữa các doanh nghiệp góp phần tạo ra sức mạnh kinh doanh
và sức cạnh tranh tập thể cho các thành viên của thỏa thuận. Sức mạnh đó
đặc biệt có ý nghĩa đối
Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
với các doanh nghiệp nhỏ trong môi trường cạnh tranh khốc liệt mà ở đó các
doanh nghiệp nhỏ luôn ở vào vị trí bất lợi, làm ăn khó khăn, thậm chí bị phá
sản, là nguyên nhân hình thành các thế lực độc quyền của thị trường [5, tr.65].
Chẳng hạn, trong bức tranh tổng thể của thị trường nếu có nhiều đối thủ cạnh
tranh, trong đó có một đối thủ cạnh tranh đạt tới ngưỡng trên 70% thị phần thì
khả năng cạnh tranh của các đối thủ cạnh tranh nhỏ trước doanh nghiệp có thị
phần lớn là rất khó. Trong trường hợp này, việc các doanh nghiệp nhỏ liên
kết lại với nhau bằng cách hạn chế cạnh tranh giữa các doanh nghiệp nhỏ để
cùng nâng cao sức cạnh tranh trước doanh nghiệp lớn lại có tác động thúc
đẩy cạnh tranh mạnh mẽ hơn trên thị trường. Trong trường hợp này, mặc dù
có hiện tượng hạn chế cạnh tranh giữa các doanh nghiệp nhỏ những lại tạo ra
động lực cạnh tranh lớn hơn trong tổng thể thị trường thì pháp luật cạnh tranh
của hầu hết các quốc gia đều không ngăn cấm.
Trong quan hệ nhượng quyền thương mại, có hai nguyên nhân khiến cho
hành vi hạn chế cạnh tranh giữa các bên trong hệ thống nhượng quyền thương
mại xuất hiện:
Một là, với bản chất của thương nhân luôn hướng tới mục tiêu tối đa hóa
lợi nhuận, các bên trong hoạt động nhượng quyền giống như các chủ thể kinh
doanh thông thường khác thường thực hiện những hành vi hạn chế cạnh tranh.
Theo đó, thay vì thực hiện những hành vi cạnh tranh nhằm nâng cao chất
lượng, hạ giá thành sản phẩm, các đối thủ cạnh tranh lại phối hợp với nhau để
đẩy thị trường vào trạng thái không cạnh tranh với nhau nhằm bóc lột khách
hàng và triệt tiêu động lực phát triển cho nền kinh tế bằng cách thỏa thuận về
giá sản phẩm, phân chia thị trường tiêu thụ, hạn chế sản xuất kinh doanh….
Trong trường hợp này, hành vi hạn chế cạnh tranh của các bên trong hệ thống
nhượng quyền chỉ có một mục tiêu duy
Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
nhất là nhằm tối đa hóa lợi nhuận mà không có lý do chính đáng, đẩy bất
lợi về phía người tiêu dùng.
Hai là, với bản chất của phương thức kinh doanh luôn hướng tới và đảm
bảo tính đồng bộ trong hệ thống nhượng quyền. Nếu các chủ thể kinh doanh
trong hệ thống thực hiện hành vi cạnh tranh riêng lẻ theo cách truyền thống
(như thực hiện các hành vi nhằm tác động vào giá và chất lượng sản phẩm để
thu hút người tiêu dùng) thì tính đồng bộ trong kinh doanh theo phương thức
nhượng quyền trong toàn bộ hệ thống có khả năng không được đảm bảo.
Chẳng hạn, để thu hút khách hàng, các bên trong hệ thống nhượng quyền có
thể thay đổi một số chính sách về sản phẩm cũng như chính sách đối với khách
hàng, lúc này bản chất của hoạt động nhượng quyền thương mại (là kinh doanh
theo cách thức của bên nhượng quyền không được đảm bảo) hoặc vì lý do
chạy theo lợi nhuận, các bên trong hệ thống có thể giảm bớt một số yếu tố
trong đầu tư, tìm nguồn hàng giá rẻ với chất lượng không tốt, tăng/giảm giá
thành sản phẩm không theo chính sách giá của bên nhượng quyền…. Tất cả
những hành vi này đều dẫn đến sự khác biệt trong kinh doanh giữa các bên
trong hệ thống nhượng quyền, lúc này, hoạt động kinh doanh này không còn
bản chất của phương thức kinh doanh nhượng quyền nữa (không còn là phương
thức nhân rộng mô hình kinh doanh). Chính vì vậy, để đảm bảo tính đồng bộ
trong toàn bộ hệ thống nhượng quyền, các bên trong hệ thống không còn cách
nào khác hữu hiệu hơn là kiểm soát lẫn nhau hoặc không cho tồn tại những
hành vi cạnh tranh có khả năng làm mất đi đến tính đồng bộ của hệ thống
nhượng quyền như chỉ định nguồn cung cấp hàng hóa/nguyên liệu cho bên nhận
quyền, thỏa thuận phân chia lãnh thổ, áp đặt giá bán… Ở khía cạnh này, có thể
thấy, những hành vi hạn chế cạnh tranh như trên lại được coi như là “cứu cánh”
cho các bên trong hệ thống nhượng quyền trong xu thế cạnh tranh tất yếu giữa
các thương nhân
Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
trong hệ thống. Nói cách khác, nếu thiếu những hành vi hạn chế cạnh tranh
này, nhượng quyền thương mại sẽ khó mà tồn tại và phát triển.
Như vậy, trong quan hệ nhượng quyền thương mại, quan điểm về kiểm
soát hành vi hạn chế cạnh tranh đứng trước mâu thuẫn lớn: Nếu kiểm soát theo
đúng nguyên tắc chung của cạnh tranh đối với những hành vi hạn chế cạnh
tranh nhằm mục đích đảm bảo tính đồng bộ trong toàn bộ hệ thống, hoạt động
nhượng quyền thương mại sẽ khó có thể tồn tại và phát triển do không thể duy
trì được bản chất kinh doanh theo một cách thức duy nhất của hoạt động
nhượng quyền. Chính vì vậy, hệ thống pháp luật cũng cần phải tính đến những
ngoại lệ hợp lý nhằm ghi nhận những hành vi hạn chế cạnh tranh đặc thù trong
phương thức kinh doanh nhượng quyền thương mại.
Về mặt hình thức của hành vi hạn chế cạnh tranh, có thể chỉ ra ba nhóm
hành vi hạn chế cạnh tranh sau: một là, hành vi thoả thuận hạn chế cạnh tranh;
hai là, lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, lạm dụng vị trí độc quyền và ba
là, tập trung kinh tế. Tuy nhiên, trong quan hệ nhượng quyền thương mại, có
thể khẳng định tập trung kinh tế là không xảy ra, bởi lẽ, khi nói đến tập trung
kinh tế, nghĩa là nói đến các hành vi như (i) Sáp nhập doanh nghiệp; (ii) Hợp
nhất doanh nghiệp; (iii) Mua lại doanh nghiệp; (iv) Liên doanh giữa các doanh
nghiệp. Tuy nhiên, trong quan hệ nhượng quyền thương mại, các bên là các
chủ thể độc lập nhau về mặt tư cách pháp lý và tài chính, chỉ chuyển giao cho
nhau quyền thương mại để cùng nhau kinh doanh theo phương thức nhượng
quyền, không xuất hiện việc chuyển tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp
pháp của doanh nghiệp nhượng quyền sang doanh nghiệp nhận quyền hoặc
ngược lại (sáp nhập), cũng không làm phát sinh hay chấm dứt sự tồn tại của
bất kỳ doanh nghiệp nào (hợp nhất), cũng không xuất hiện việc mua toàn bộ
hoặc một phần tài sản của doanh nghiệp khác đủ để kiểm soát, chi phối toàn
bộ hoặc một ngành
Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
nghề của doanh nghiệp bị mua lại (mua lại doanh nghiệp), không xuất hiện
việc cùng nhau góp một phần tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của
mình để hình thành một doanh nghiệp mới (liên doanh).
Chính vì vậy, đặt trong giới hạn phạm vi nghiên cứu của Luận án, hành
vi hạn chế cạnh tranh trong quan hệ nhượng quyền thương mại thường tồn
tại ở hai nhóm cơ bản: (i) thỏa thuận hạn chế cạnh tranh và (ii) lạm dụng vị trí
thống lĩnh, vị trí độc quyền trên thị trường. Quan điểm này cũng được nhiều
các nhà khoa học trực tiếp hoặc gián tiếp thừa nhận trong các công trình nghiên
cứu, thông qua việc chỉ ra các hành vi hạn chế cạnh tranh dưới dạng thỏa thuận
hạn chế cạnh tranh như: “thỏa thuận phân chia khu vực kinh doanh”, “thỏa
thuận phân phối và cung ứng độc quyền”, “thỏa thuận mua bán cả gói”, “thỏa
thuận giá bán lại”, “thỏa thuận kiểm soát số lượng đầu vào - đầu ra của sản
phẩm", “thỏa thuận liên quan đến duy trì tính thống nhất và đồng bộ của hệ
thống nhượng quyền”, “ràng buộc bán kèm” [2], [4], [6], [7], [39]. Dù các tác
giả gọi tên hành vi có khác nhau, nhưng tựu trung lại, những hành vi trên
đều thuộc một trong hai nhóm hành vi: Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh và lạm
dụng vị trí thống lĩnh, vị trí độc quyền trên thị trường.
(1) Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh: Là những thỏa thuận giữa ít nhất
hai bên trong hệ thống nhượng quyền nhằm làm sai lệch, cản trở cạnh tranh.
Hậu quả tác động đến cạnh tranh của hành vi này không chỉ giới hạn trong
phạm vi hệ thống nhượng quyền mà có thể gây cản trở cạnh tranh đối với các
chủ thể kinh doanh khác ngoài hệ thống. Cụ thể, hành vi này không chỉ gây
hạn chế cạnh tranh đối với đối thủ cạnh tranh của hệ thống nhượng quyền; đối
thủ cạnh tranh của từng thành viên trong hệ thống mà còn có khả năng gián
tiếp ảnh hưởng đến trật tự cạnh tranh của các thị trường khác. Sự tác động
cụ thể của hành vi này sẽ được phân tích cụ thể tại chương 3, khi nghiên cứu
thực trạng pháp luật về các hành vi thỏa thuận
Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
hạn chế cạnh tranh cụ thể.
Khác với các hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh, vị trí độc quyền trên
thị trường (thường là hành vi mang tính chất áp đặt đơn phương từ phía bên
nhượng quyền đối với bên nhận quyền, tất nhiên, không thể phủ nhận trong
một số trường hợp vẫn có sự kết hợp của các bên nhận quyền hoặc sự kết
hợp giữa bên nhượng quyền với bên nhận quyền để thực hiện hành vi lạm
dụng vị trí thống lĩnh, độc quyền thị trường), hành vi thỏa thuận hạn chế
cạnh tranh luôn có sự tham gia thỏa thuận của cả bên nhượng quyền và bên
nhận quyền hoặc giữa các bên nhận quyền với nhau. Mục đích các bên hướng
tới khi thực hiện hành vi này có thể gây hạn chế/loại bỏ cạnh tranh giữa các
bên trong hệ thống nhượng quyền hoặc của các đối thủ cạnh tranh khác ngoài
hệ thống. Thông thường, mức độ tác động của hành vi thỏa thuận hạn chế
cạnh tranh trong quan hệ nhượng quyền thương mại thường rộng lớn hơn
và khả năng hạn chế cạnh tranh thường nghiêm trọng hơn so với các hành vi
lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường của bên nhượng quyền.
Về hình thức thể hiện, các thoả thuận hạn chế cạnh tranh thường được
phân thành 2 loại: (i) thoả thuận ngang - giữa các chủ thể kinh doanh trong
cùng một giai đoạn của chu trình sản xuất; (ii) thoả thuận dọc
- giữa các chủ thể kinh doanh nằm ở các giai đoạn khác nhau trong chu
trình sản xuất.
Xét dưới khía cạnh mạng lưới phân phối sản phẩm, trong quan hệ
nhượng quyền, thông thường, bên nhượng quyền sẽ tồn tại hai tư cách vừa
là nhà sản xuất/cung ứng dịch vụ, vừa là nhà phân phối hàng hoá/dịch vụ.
Tương tự, bên nhận quyền cũng có thể tồn tại đồng thời cả hai tư cách như
trên giống như bên nhượng quyền (trừ hình thức nhượng quyền thương mại
phân phối). Với sự tham gia trong các tư cách khác nhau như trên, thỏa thuận
hạn chế cạnh tranh trong quan hệ nhượng quyền thương
Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
mại có thể phát sinh giữa các bên trong quan hệ nhượng quyền trong các
trường hợp sau:
 Trong hình thức nhượng quyền thương mại phân phối: Là trường hợp
bên nhận quyền được phép phân phối những hàng hoá, sản phẩm do bên
nhượng quyền sản xuất hoặc kinh doanh dưới bảng hiệu của bên nhượng
quyền. Trong trường hợp này, thỏa thuận hạn chế cạnh tranh giữa bên nhượng
quyền và bên nhận quyền sẽ bao gồm: (i) Thỏa thuận theo chiều dọc, giữa
bên nhượng quyền (với tư cách là nhà sản xuất) và bên nhận quyền (với tư
cách là nhà phân phối) và (ii) thỏa thuận hạn chế theo chiều ngang giữa các
nhà phân phối với nhau, bởi lẽ, cả bên nhượng quyền và bên nhận quyền đều
đồng thời cung ứng sản phẩm ra thị trường cho người tiêu dùng.
 Đối với hình thức nhượng quyền thương mại sản xuất hoặc nhượng
quyền thương mại dịch vụ: Là trường hợp bên nhượng quyền cho phép bên
nhận quyền được quyền sản xuất hàng hoá, sản phẩm/cung ứng dịch vụ theo
đúng những tiêu chuẩn và được gắn tên thương mại, nhãn hiệu hàng hoá cũng
như logo, biểu tượng do bên nhượng quyền làm chủ sở hữu. Trong trường
hợp này, thỏa thuận hạn chế cạnh tranh giữa bên nhượng quyền và bên nhận
quyền có thể là thỏa thuận hạn chế cạnh tranh theo chiều ngang giữa (i) các
nhà sản xuất với nhau hoặc (ii) giữa các nhà phân phối sản phẩm với nhau.
Tuy nhiên, cần phải khẳng định rằng, trên thực tế, không có hình thức
nhượng quyền nào tồn tại một cách độc lập, hầu hết các hình thức nhượng
quyền thương mại trong thương mại hiện đại ngày nay thường có sự kết hợp
giữa các hình thức với nhau, chẳng hạn như một hệ thống nhượng quyền
thương mại có thể kết hợp cả nhượng quyền sản xuất, nhượng quyền thương
mại dịch vụ với nhượng quyền thương mại phân phối, hoặc nhượng quyền
dịch vụ và nhượng quyền sản xuất với nhau.
Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
Chính vì vậy, trong quan hệ nhượng quyền thương mại, hành vi thỏa thuận
hạn chế cạnh tranh theo chiều ngang và chiều dọc tồn tại trong hầu hết các hệ
thống nhượng quyền.
Bên cạnh các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh giữa các bên nhượng quyền
và nhận quyền với nhau, thỏa thuận hạn chế cạnh tranh cũng có thể tồn tại
giữa các bên nhận quyền, trường hợp này, thông thường tồn tại với tính chất
là thỏa thuận theo chiều ngang giữa các chủ thể cùng cấp độ trong chuỗi phân
phối (cùng là nhà sản xuất hoặc cùng là nhà phân phối).
Thông thường, các thoả thuận hạn chế cạnh tranh theo chiều ngang sẽ
gây nhiều tác động xấu đến sự vận hành của thị trường hơn là các thoả thuận
dọc. Vì các thoả thuận dọc chỉ được thực hiện trong cùng một chu trình sản
xuất - phân phối sản phẩm, khả năng hạn chế cạnh tranh của thỏa thuận này
phụ thuộc rất nhiều vào sức mạnh cạnh tranh của các đối thủ cạnh tranh của
sản phẩm ở các hệ thống phân phối khác. Trong khi đó, trong trường hợp
thoả thuận ngang, là sự thỏa thuận giữa các đối thủ cạnh tranh cùng cấp độ
(các nhà phân phối với nhau hoặc các nhà sản xuất với nhau) thì mức độ ảnh
hưởng thường sẽ lớn hơn. Dựa trên cơ sở này mà pháp luật cạnh tranh ở một
số quốc gia chia thỏa thuận hạn chế cạnh tranh theo chiều ngang hoặc dọc
nhằm mục đích lựa chọn cách thức xử lý thích hợp đối với mức độ gây cản trở
cạnh tranh của mỗi nhóm hành vi. Tuy nhiên, pháp luật cạnh tranh Việt Nam
không tiếp cận theo hướng này mà xác định hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh
tranh trên cơ sở liệt kê các hành vi cụ thể. Trong phạm vi Luận án này, tác
giả lựa chọn tiếp cận theo cách phân loại của pháp luật cạnh tranh Việt Nam.
Xem xét mối quan hệ giữa pháp luật điều chỉnh nhượng quyền thương
mại và pháp luật cạnh tranh, các thoả thuận hạn chế cạnh tranh có thể xuất
hiện dưới các hành vi cụ thể sau đây:
Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
 Thoả thuận phân chia thị trường tiêu thụ, nguồn cung cấp hàng hoá,
cung ứng dịch vụ: Các thỏa thuận này có thể kết hợp với nhau hoặc tồn tại độc
lập trong hợp đồng nhượng quyền thương mại. Các thỏa thuận này thường tồn
tại dưới các ràng buộc như không cho phép bên nhận quyền bán hàng hóa cho
khách hàng ngoài phạm vi lãnh thổ được chỉ định, ngược lại, bên nhượng
quyền cũng cam kết không được tự mình có bất cứ sự hiện diện thương mại
nào hoặc nhượng quyền thương mại cho bất kỳ bên nhận quyền nào trong
phạm vi lãnh thổ xác định. Hậu quả của thỏa thuận hạn chế cạnh tranh loại
này thường dẫn đến sự phân chia thị trường giữa các bên trong hệ thống
nhượng quyền (giữa bên nhượng quyền với bên nhận quyền và giữa các bên
nhận quyền với nhau)
 Thoả thuận về giá bán hàng hóa, dịch vụ: là hành vi thống nhất
cùng hành động để áp dụng một mức giá cụ thể, tăng hoặc giảm giá ở một mức
giá cụ thể hoặc bất cứ hành vi nào dẫn đến sự thống nhất về giá bán giữa bên
nhượng quyền và bên nhận quyền. Hậu quả của hành vi này thường gây ra
hạn chế cạnh tranh trong chính hệ thống nhượng quyền hoặc hạn chế cạnh
tranh đối với đối thủ cạnh tranh của hệ thống nhượng quyền.
 Thỏa thuận ngăn cản, kìm hãm không cho doanh nghiệp khác gia nhập
thị trường hoặc phát triển kinh doanh: Với thỏa thuận này, các bên trong quan
hệ nhượng quyền thống nhất từ chối mua hàng hoặc bán hàng cho các bên thứ
ba nếu như nhận thấy việc mua, bán hàng hoá với bên thứ ba có khả năng gây
ra những thiệt hại đối với các bên trong quan hệ nhượng quyền.
Tuy nhiên, cần thừa nhận rằng một danh sách không giới hạn các thỏa
thuận có tính chất hạn chế cạnh tranh khác ngoài các thỏa thuận được đề cập
trên đây vẫn có thể được sáng tạo nằm ngoài phạm vi bao phủ của pháp luật
cạnh tranh. Cách thức các thỏa thuận này được áp đặt như thế nào phụ thuộc
vào mục đích của bên nhượng quyền, từ việc cần bảo vệ các
Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
quyền liên quan đến sở hữu trí tuệ thuộc bên giao cho đến việc cần duy trì bản
sắc và uy tín của hệ thống nhượng quyền hoặc thậm chí là yêu cầu tối đa hóa
lợi nhuận của hệ thống. Bởi lẽ các dạng thức khác nhau của thỏa thuận loại
này luôn biến đổi theo thời gian và khả năng sáng tạo của các bên, cho nên,
bất kỳ nguyên tắc cứng nhắc nào của pháp luật cạnh tranh đều không tránh
khỏi khả năng bị vô hiệu hóa.
(2) Lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, vị trí độc quyền trên thị trường:
Việc nhận diện hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh trong quan hệ nhượng
quyền thương mại sẽ phụ thuộc trước hết vào năng lực thị trường của chủ
thể thực hiện hành vi. Theo quy định của pháp luật cạnh tranh Việt Nam
cũng như pháp luật cạnh tranh của nhiều quốc gia trên thế giới, lạm dụng vị
trí thống lĩnh có thể là hành vi của một hoặc một nhóm doanh nghiệp có
năng lực thị trường đủ mạnh để gây ảnh hưởng đến cạnh tranh trên thị
trường. Theo đó, doanh nghiệp hoặc nhóm doanh nghiệp có năng lực thị
trường từ 30% thị phần trên thị trường liên quan trở lên (trường hợp là một
doanh nghiệp), từ 50% thị phần trên thị trường liên quan (đối với hai
doanh nghiệp), từ 65% thị phần trên thị trường liên quan (đối với ba
doanh nghiệp), từ 75% thị phần trên thị trường liên quan (đối với bốn
doanh nghiệp) sẽ được coi là có vị trí thống lĩnh thị trường. Trong quan hệ
nhượng quyền thương mại, hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường
thường là hành vi của bên nhượng quyền và thường tồn tại dưới các hình
thức như: (i) Ấn định giá bán lại tối thiểu gây thiệt hại cho bên nhận quyền;
(ii) Áp đặt giá bán bất hợp lý đối với bên nhận quyền; (ii) Buộc bên nhận
quyền chấp nhận các nghĩa vụ không liên quan trực tiếp đến đối tượng của
hợp đồng nhượng quyền thương mại.
 Hành vi áp đặt giá bán hàng hóa/dịch vụ bất hợp lý đối với bên
nhận quyền: là hành vi của bên nhượng quyền khi đưa ra một mức giá quá
Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
cao đối với bên nhận quyền mà mức giá đó được cho là không phù hợp với
quy luật chung của thị trường.
 Hành vi ấn định giá bán lại tối thiểu gây thiệt hại cho khách hàng: Là
hành vi có thể được áp đặt dưới hình thức ấn định một mức giá trần hoặc
mức giá sàn hoặc một mức giá đề nghị không mang tính chất ràng buộc hoặc
bất kỳ mức giá đề nghị nào được quảng cáo bởi bên nhượng quyền. Theo đó,
bên nhận quyền có nghĩa vụ không bán hàng hóa dưới mức giá sàn hoặc cao
hơn mức giá trần hoặc chỉ bán hàng hóa theo mức giá đã ấn định. Các hành vi
hạn chế cạnh tranh loại này thường làm giảm cạnh tranh đối với cùng một
nhãn hiệu sản phẩm được cung ứng bởi các bên trong phạm vi hệ thống
nhượng quyền, thậm chí có thể dẫn đến giảm/sai lệch cạnh tranh giữa các nhãn
hiệu sản phẩm khác nhau ngoài phạm vi hệ thống nhượng quyền và làm gia
tăng khả năng thông đồng về giá trên thị trường. Chẳng hạn: Trên thị trường
liên quan của sản phẩm A có hai nhóm đối thủ cạnh tranh cùng cung ứng: Hệ
thống nhượng quyền X và các doanh nghiệp khác không thuộc hệ thống
nhượng quyền X (gọi chung là doanh nghiệp Y). Việc bên nhượng quyền ấn
định giá bán 20,000VNĐ đối với sản phẩm A trong hệ thống nhượng quyền
sẽ dẫn đến các hệ quả sau: (i) tất cả các bên trong hệ thống nhượng quyền X
khi cung ứng sản phẩm A trên thị trường đều không được tự do xác định giá
nhằm cạnh tranh, thu hút khách hàng sử dụng sản phẩm của mình. Trường hợp
này đã gây hạn chế cạnh tranh giữa các bên trong hệ thống nhượng quyền đó
khi cung cấp sản phẩm A trên thị trường, người tiêu dùng không có cơ hội
được lựa chọn sản phẩm với giá cạnh tranh; (ii) Trường hợp mức giá
20.000VNĐ mà bên nhượng quyền ấn định áp dụng chung trong toàn bộ hệ
thống nhượng quyền được xác định là thấp hơn một cách bất hợp lý (dưới giá
thành toàn bộ mà không có bất kỳ lý do hợp lý), có khả năng loại bỏ khỏi thị
trường các đối thủ cạnh tranh khác ngoài hệ thống (cùng thị trường liên quan
với sản phẩm A)
Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
thì sẽ dẫn đến hạn chế/loại bỏ khả năng cạnh tranh của các đối thủ thuộc nhóm
doanh nghiệp Y; (iii) Việc bên nhượng quyền ấn định chung một mức giá
cũng có thể là cơ sở tạo ra sự thống nhất về giá trên thị trường sản phẩm A
giữa X và Y nếu các bên cùng thỏa thuận hoặc thống nhất hành động áp dụng
chung một mức giá, dẫn tới người tiêu dùng không còn cơ hội lựa chọn sản
phẩm với giá cạnh tranh như trường hợp (i) đã nêu trên.
 Hành vi buộc bên nhận quyền phải mua hàng hóa/dịch vụ từ bên
nhượng quyền hoặc bên thứ ba được chỉ định: là hành vi thường được bên
nhượng quyền sử dụng để kiểm soát chất lượng hàng hóa,dịch vụ được cung
ứng bởi bên nhận quyền, qua đó bảo vệ tính đồng bộ, vị thế, danh tiếng, hình
ảnh của hệ thống nhượng quyền. Bản chất của hành vi này thể hiện ở chỗ, bên
nhượng quyền buộc bên nhận quyền ngoài việc việc mua, bán hàng hoá, dịch
vụ là đối tượng của hợp đồng, bên nhận quyền còn phải mua hàng hóa, dịch
vụ khác từ bên nhượng quyền hoặc nhà cung cấp khác được bên nhượng quyền
chỉ định trước hoặc thực hiện thêm một hoặc một số nghĩa vụ nằm ngoài phạm
vi cần thiết để thực hiện hợp đồng.
Hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường thông thường gây ra
hậu quả hạn chế cạnh tranh đối với bên nhận quyền trong mối quan hệ với các
bên trong hệ thống nhượng quyền và với các đối thủ cạnh tranh khác ngoài hệ
thống.
Đối với hành vi lạm dụng vị trí độc quyền trên thị trường chỉ là sự phát
triển hơn một chút về mức độ ảnh hưởng của hành vi, năng lực thị trường của
chủ thể thực hiện hành vi so với hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường.
Bên lạm dụng vị trí độc quyền là chủ thể độc tôn cung cấp sản phẩm trên thị
trường, mà không có đối thủ cạnh tranh. Với bản chất như vậy, có thể thấy
trong quan hệ nhượng quyền thương mại, chủ thể cung ứng sản phẩm của hệ
thống nhượng quyền không tồn tại một chủ thể duy nhất, có rất nhiều bên cùng
cung cấp sản phẩm như nhau trong hệ thống
Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
nhượng quyền. Do đó, vị trí độc quyền trong quan hệ nhượng quyền là hiếm
khi xảy ra và kể cả nếu có xảy ra, thì cũng chỉ trong một số các trường hợp
tương đối đặc biệt, xuất phát từ bản chất của quan hệ nhượng quyền. Chính vì
vậy, hành vi lạm dụng vị trí độc quyền không được thể hiện đậm nét trong
quan hệ nhượng quyền thương mại.
Tuy nhiên, cần phải khẳng định rằng việc nhận diện hành vi hạn chế
cạnh tranh trong quan hệ nhượng quyền như trên chỉ mang tính chất tương
đối. Bởi lẽ, quan hệ cạnh tranh là quan hệ phức tạp, các tiêu chí xác định
thường mang tính định tính hơn là định lượng và thường dẫn đến các ảnh
hưởng chéo trong các thị trường liên quan khác nhau. Do vậy, việc lựa chọn
cách tiếp cận hành vi hạn chế cạnh tranh trong quan hệ nhượng quyền trong
Luận án này chỉ mang tính chất tương đối và việc phân chia này chỉ có ý
nghĩa nhằm nhận diện để phân tích và nghiên cứu các hành vi hạn chế cạnh
tranh trong quan hệ nhượng quyền thương mại.
2.3. Khái niệm và nội dung pháp luật hạn chế cạnh tranh trong hoạt
động nhƣợng quyền thƣơng mại
2.3.1. Khái niệm pháp luật hạn chế cạnh tranh trong hoạt động
nhượng quyền thương mại
Bởi vì xu hướng thực hiện hành vi hạn chế cạnh tranh là bản chất của
hoạt động thương mại nên có thể nói, hành vi cạnh tranh nói chung và hạn chế
cạnh tranh nói riêng có xu hướng tồn tại trong tất cả các hoạt động thương
mại. Điều này thể hiện ở chính bản chất của hoạt động thương mại là hoạt
động nhằm mục đích sinh lời, các bên thực hiện hành vi luôn hướng tới việc
tối đa hóa lợi nhuận và giảm thiểu mọi rủi ro. Thực tiễn cho thấy, có nhiều
con đường khác nhau để đạt được mục tiêu này, trong đó có việc thực hiện
những hành vi nhằm hạn chế và cao hơn là nhằm loại bỏ cạnh tranh. Dưới khía
cạnh này, nhượng quyền thương mại cũng không phải là ngoại lệ. Thậm chí,
xét về mặt bản chất, hoạt động nhượng quyền thương
Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
mại thường dẫn đến những hành vi phản cạnh tranh với tần suất cao hơn so
với các hoạt động thương mại khác. Trong điều kiện như vậy, việc thiết lập
và sử dụng pháp luật như một công cụ hiệu quả nhất để định hướng các hoạt
động thương mại được phát triển trong môi trường cạnh tranh lành mạnh, tích
cực chính là một trong những yếu tố thúc đẩy sự phát triển bền vững của nền
kinh tế.
Pháp luật hạn chế cạnh tranh trong hoạt động nhượng quyền thương mại
được tiếp cận trên cơ sở nghiên cứu các hành vi hạn chế cạnh tranh trong quan
hệ nhượng quyền và sự tác động của pháp luật đến các hành vi hạn chế cạnh
tranh này. Để nghiên cứu một cách toàn diện, chúng ta phải xem xét đồng thời
các quy định có liên quan của hai hệ thống văn bản luật điều chỉnh hành vi
hạn chế cạnh tranh trong quan hệ nhượng quyền thương mại: (i) Luật Thương
mại với tư cách là luật “mở đường”, ghi nhận quyền tự do kinh doanh của
các thương nhân trong quan hệ nhượng quyền và (ii) Luật Cạnh tranh với tư
cách là luật “cản trở”, kiểm soát quyền tự do của các bên trong quan hệ
nhượng quyền. Theo đó, chỉ ra ranh giới mà tại đó các chủ thể tham gia quan
hệ nhượng quyền thương mại được làm hay bị ngăn cấm nhằm đảm bảo môi
trường cạnh tranh lành mạnh, công bằng thông qua đó đảm bảo sự phát triển
bền vững của nền kinh tế. Vì vậy, về cơ bản (tất nhiên là về hình thức), hai
luật này sẽ có những sự bất đồng về cách tiếp cận để điều chỉnh. Tuy nhiên,
cho dù là “mở đường” hay “cản trở”, các luật này vẫn phải đạt được sự tương
thích, thể hiện ở chỗ, việc “mở đường” của luật này không vượt quá phạm vi
“cản trở” của luật kia hoặc ngược lại là việc “cản trở” của luật kia không triệt
tiêu tư tưởng “mở đường” của luật này, có như vậy, hoạt động nhượng quyền
thương mại mới phát triển một cách bền vững.
Xuất phát từ tính chất tương đối phức tạp và đặc trưng của hoạt động
nhượng quyền thương mại, pháp luật mỗi quốc gia đều đưa ra khung pháp
Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
lý nhất định để ràng buộc các chủ thể tham gia hoạt động nhượng quyền. Mục
đích của hệ thống các quy tắc xử sự này trước hết, nhằm bảo vệ hoạt động
nhượng quyền thương mại phát triển, đáp ứng được yêu cầu của thương nhân
và sự phát triển của kinh tế xã hội; thứ hai là bảo vệ các lợi ích bắt nguồn từ
nền kinh tế mở và tự do hóa thương mại, hướng tới xây dựng một môi trường
cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng giữa bên nhượng quyền và bên nhận quyền,
giữa các thành viên trong hệ thống nhượng quyền/hệ thống nhượng quyền và
đối thủ cạnh tranh. Trong môi trường này, các chủ thể được cạnh tranh công
bằng dựa trên năng lực thực sự của mình, thông qua đó, người tiêu dùng được
sử dụng hàng hóa, dịch vụ với chất lượng tốt và giá cả phải chăng.
Do hành vi hạn chế cạnh tranh trong hoạt động nhượng quyền thương
mại chỉ phát sinh giữa các bên nhượng quyền và nhận quyền trong một hệ
thống nhượng quyền thương mại xác định, tồn tại dưới các hình thức như
thỏa thuận hạn chế cạnh tranh và lạm dụng vị trí thống lĩnh, độc quyền trên
thị trường nên pháp luật điều chỉnh hành vi cạnh tranh trong quan hệ nhượng
quyền cũng xoay quanh việc điều chỉnh các hành vi này.
Với những quan điểm trên, trong công trình nghiên cứu này, pháp luật
về hạn chế cạnh tranh trong hoạt động nhượng quyền thương mại được hiểu
là hệ thống các quy phạm pháp luật được ban hành nhằm bảo vệ trật tự cạnh
tranh, kiểm soát các hành vi gây hậu quả hoặc có khả năng gây hậu quả hạn
chế cạnh tranh nghiêm trọng trên thị trường, bao gồm các quy phạm pháp luật
điều chỉnh hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, lạm dụng vị trí thống lĩnh,
vị trí độc quyền có khả năng làm giảm, sai lệch, cản trở cạnh tranh trên thị
trường của các bên trong quan hệ nhượng quyền thương mại.
Đặc điểm của pháp luật về hạn chế cạnh tranh trong hoạt động
nhượng quyền thương mại:
Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
- Về tính chất, pháp luật hạn chế cạnh tranh thuộc lĩnh vực luật công,
và vì vậy, pháp luật hạn chế cạnh tranh trong hoạt động nhượng quyền thương
mại cũng phải đáp ứng các tiêu chí: (i) đảm bảo mục tiêu của pháp luật hạn
chế cạnh tranh là bảo vệ cạnh tranh, bảo vệ tính minh bạch của thị trường; (ii)
các chủ thể kinh doanh thực hiện hành vi hạn chế cạnh tranh trong hoạt động
nhượng quyền thương mại phải chịu trách nhiệm trước nhà nước, chịu sự kiểm
soát của nhà nước; Bên cạnh đó, do hành vi hạn chế cạnh tranh lại được
nghiên cứu trong một hoạt động thương mại cụ thể nên pháp luật hạn chế cạnh
tranh trong hoạt động nhượng quyền thương mại cũng phải đảm bảo bản chất
thương mại của hoạt động nhượng quyền.
Pháp luật cạnh tranh được hiểu là tổng hợp các quy phạm pháp luật điều
chỉnh hành vi cạnh tranh, vì vậy, pháp luật hạn chế cạnh tranh trong hoạt động
nhượng quyền thương mại cũng mang tính chất của pháp luật cạnh tranh, đó
chính là tính chất cản trở, kiểm soát các hành vi hạn chế cạnh tranh phát sinh
trong hoạt động nhượng quyền thương mại xâm phạm đến trật tự cạnh tranh
trên thị trường.
- Về phương pháp điều chỉnh: pháp luật hạn chế cạnh tranh trong hoạt
động nhượng quyền thương mại sử dụng phương pháp mệnh lệnh, hành
chính, mà không thể thỏa thuận, đàm phán về việc thực hiện hành vi hạn chế
cạnh tranh gây ảnh hưởng tới lợi ích công, lợi ích nhà nước.
- Về nguồn luật của pháp luật hạn chế cạnh tranh trong hoạt động
nhượng quyền thương mại: Nguồn luật điều chỉnh pháp luật hạn chế cạnh
tranh trong hoạt động nhượng quyền bao gồm các quy định điều chỉnh hành
vi hạn chế cạnh tranh nói chung được quy định trong Luật Cạnh tranh 2004 và
các văn bản hướng dẫn thi hành cùng với sự bổ trợ của các văn bản luật chuyên
ngành đặc thù khác liên quan trực tiếp đến hoạt động nhượng quyền thương
mại.
Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
- Về xử lý vi phạm, vấn đề xử lý vi phạm pháp luật hạn chế cạnh tranh
trong hoạt động nhượng quyền thương mại hiện nay thuộc phạm vi điều chỉnh
của pháp luật hành chính. Tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà các hình
thức xử phạt chính có thể được áp dụng độc lập hoặc kết hợp với các biện pháp
xử phạt bổ sung và khắc phục hậu quả khác. Cụ thể, các hình thức chế tài được
áp dụng để xử lý hành vi bao gồm: các hình thức xử phạt chính (Cảnh cáo,
phạt tiền) ; các hình thức xử phạt bổ sung (Thu hồi giấy chứng nhận đăng ký
kinh doanh, tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề ; Tịch thu
tang vật, phương tiện được sử dụng để vi phạm pháp luật về cạnh tranh) và
các biện pháp khắc phục hậu quả (Cơ cấu lại doanh nghiệp lạm dụng vị trí
thống lĩnh thị trường; Chia, tách doanh nghiệp đã sáp nhập, hợp nhất; buộc
bán lại phần doanh nghiệp đã mua; Cải chính công khai; Loại bỏ những điều
khoản vi phạm pháp luật ra khỏi hợp đồng hoặc giao dịch kinh doanh; Các
biện pháp cần thiết khác để khắc phục tác động hạn chế cạnh tranh của hành
vi vi phạm). Ngoài ra, tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm pháp luật về cạnh
tranh gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ
chức, cá nhân khác thì phải bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật.
2.3.2. Nội dung của pháp luật hạn chế cạnh tranh trong hoạt động
nhượng quyền thương mại
Xuất phát từ những yêu cầu mang tính khách quan, nhượng quyền
thương mại thường dẫn tới một cơ chế không cạnh tranh trong nội bộ, nghĩa
là, thông qua các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh của các bên, yếu tố cạnh tranh
dường như không còn tồn tại hoặc có khả năng bị triệt tiêu trong quan hệ
nhượng quyền. Các hành vi này về nguyên tắc, đã tạo ra một cơ chế hạn chế
cạnh tranh, đi ngược lại với quy luật chung của nền kinh tế. Dưới bình diện
của Luật Cạnh tranh, những hành vi gây hậu quả “triệt tiêu”
Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
cạnh tranh nói trên cần bị kiểm soát để đảm bảo thị trường vận hành đúng quy
luật.
Nội dung pháp luật hạn chế cạnh tranh trong quan hệ nhượng quyền
thương mại được thể hiện ở hệ thống các quy định nhằm kiểm soát hành vi
hạn chế cạnh tranh tồn tại dưới các hình thức thỏa thuận hạn chế cạnh tranh
hoặc lạm dụng vị trí thống lĩnh, vị trí độc quyền trên thị trường của các bên
trong hoạt động nhượng quyền thương mại. Xuất phát từ bản chất, phạm vi
khởi phát của hành vi trong phạm vi hệ thống nhượng quyền, cũng như giới
hạn nghiên cứu của Luận án, pháp luật hạn chế cạnh tranh trong quan hệ
nhượng quyền thương mại bao gồm hệ thống các quy phạm điều chỉnh hành
vi hạn chế cạnh tranh trong quan hệ nhượng quyền thương mại và thường tập
trung điều chỉnh các nhóm hành vi chủ yếu sau đây:
2.3.2.1. Các quy định điều chỉnh hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh
Thoả thuận hạn chế cạnh tranh (Cartel) là hành vi thống nhất hành động
của một số chủ thể kinh doanh mà nội dung của những thoả thuận này nhằm
giảm bớt hoặc loại bỏ sức ép của cạnh tranh hoặc hạn chế khả năng hành động
một cách độc lập giữa các đối thủ cạnh tranh, qua đó, xác lập, duy trì hoặc
tiếp tục nâng cao hơn nữa vị thế của các thành viên của thoả thuận, đồng thời
hạn chế cạnh tranh của các đối thủ cạnh tranh khác. Thỏa thuận hạn chế cạnh
tranh có thể là một thỏa thuận chính thức hoặc không chính thức để đạt được
kết quả có lợi cho các hãng có liên quan, nhưng có thể có hại cho các bên khác
[9, tr.47]. Thoả thuận hạn chế cạnh tranh có thể là thoả thuận theo chiều ngang
giữa các chủ thể nằm ở cùng một cấp độ trong chu trình sản xuất hoặc phân
phối (các nhà sản xuất với nhau hoặc các nhà phân phối với nhau) hoặc là
thoả thuận theo chiều dọc giữa các chủ thể nằm ở vị trí khác nhau trong một
chu trình sản xuất hoặc lưu thông (thoả thuận giữa nhà sản xuất và người
phân phối). Dưới góc độ kinh tế, thoả thuận hạn chế cạnh tranh được hình
thành tự nhiên giữa các chủ thể
Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
kinh doanh trong một môi trường kinh doanh có cạnh tranh. Nền kinh tế thị
trường với đầy đủ những điều kiện để các thoả thuận hạn chế cạnh tranh ra đời
và phát triển. Ở một chừng mực nhất định, thỏa thuận hạn chế cạnh tranh sẽ
giúp các thương nhân nâng cao sức mạnh cạnh tranh trên thị trường. Theo đó,
các thương nhân nhỏ trước sức ép cạnh tranh từ các thương nhân khác thường
quy hợp lại với nhau thông qua các thỏa thuận nhằm giảm bớt cạnh tranh giữa
các bên để “đối mặt” với cạnh tranh từ các thương nhân có vị thế lớn trên thị
trường. Ở góc độ của các thương nhân vốn dĩ đã có thế mạnh trên thị trường,
họ lại có nhu cầu duy trì quyền lực thị trường bằng cách hạn chế cơ hội cạnh
tranh của các chủ thể khác, họ cũng có nhu cầu kết hợp với nhau thông qua
các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh để loại trừ cạnh tranh trên thị trường, từ đó
giá cả sẽ tăng cao, chất lượng sản phẩm sẽ không còn động lực để phát triển,
trong khi các chủ thể trong thỏa thuận vẫn thu được lợi nhuận không phải từ
nỗ lực cạnh tranh của mình. Ở trường hợp này, lợi ích do thỏa thuận hạn chế
cạnh tranh sẽ không còn tồn tại nữa.
Dưới góc độ pháp luật, thoả thuận hạn chế cạnh tranh được hiểu là một
dạng quan hệ pháp lý đặc biệt cần được điều chỉnh. Theo đó, pháp luật sẽ quy
định cách thức nhận diện các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, xác định ranh
giới mà tại đó, các thoả thuận hạn chế cạnh tranh bị ngăn cấm. Điều đó có
nghĩa là, không phải mọi thoả thuận hạn chế cạnh tranh đều bị coi là bất hợp
pháp, ở một chừng mực nhất định vẫn có những thoả thuận hạn chế cạnh tranh
được cho phép, nếu thỏa thuận đó có tác động tích cực đến cạnh tranh hoặc
thực hiện một chính sách trong một giai đoạn nhất định của nhà nước.
Luật mẫu về cạnh tranh của Tổ chức Thương mại và Phát triển Liên hợp
quốc (UNCTAD) đưa ra những thoả thuận bị coi là thoả thuận hạn chế cạnh
tranh sau đây: thoả thuận định giá hay các điều kiện bán hàng khác,
Cơ sở lý luận về pháp luật hạn chế cạnh tranh trong hoạt động nhượng quyền thương mại.docx
Cơ sở lý luận về pháp luật hạn chế cạnh tranh trong hoạt động nhượng quyền thương mại.docx
Cơ sở lý luận về pháp luật hạn chế cạnh tranh trong hoạt động nhượng quyền thương mại.docx
Cơ sở lý luận về pháp luật hạn chế cạnh tranh trong hoạt động nhượng quyền thương mại.docx
Cơ sở lý luận về pháp luật hạn chế cạnh tranh trong hoạt động nhượng quyền thương mại.docx
Cơ sở lý luận về pháp luật hạn chế cạnh tranh trong hoạt động nhượng quyền thương mại.docx
Cơ sở lý luận về pháp luật hạn chế cạnh tranh trong hoạt động nhượng quyền thương mại.docx
Cơ sở lý luận về pháp luật hạn chế cạnh tranh trong hoạt động nhượng quyền thương mại.docx
Cơ sở lý luận về pháp luật hạn chế cạnh tranh trong hoạt động nhượng quyền thương mại.docx
Cơ sở lý luận về pháp luật hạn chế cạnh tranh trong hoạt động nhượng quyền thương mại.docx
Cơ sở lý luận về pháp luật hạn chế cạnh tranh trong hoạt động nhượng quyền thương mại.docx
Cơ sở lý luận về pháp luật hạn chế cạnh tranh trong hoạt động nhượng quyền thương mại.docx
Cơ sở lý luận về pháp luật hạn chế cạnh tranh trong hoạt động nhượng quyền thương mại.docx
Cơ sở lý luận về pháp luật hạn chế cạnh tranh trong hoạt động nhượng quyền thương mại.docx
Cơ sở lý luận về pháp luật hạn chế cạnh tranh trong hoạt động nhượng quyền thương mại.docx

More Related Content

Similar to Cơ sở lý luận về pháp luật hạn chế cạnh tranh trong hoạt động nhượng quyền thương mại.docx

Similar to Cơ sở lý luận về pháp luật hạn chế cạnh tranh trong hoạt động nhượng quyền thương mại.docx (20)

Luận án: Pháp luật hạn chế cạnh tranh trong hoạt động nhượng quyền thương mại...
Luận án: Pháp luật hạn chế cạnh tranh trong hoạt động nhượng quyền thương mại...Luận án: Pháp luật hạn chế cạnh tranh trong hoạt động nhượng quyền thương mại...
Luận án: Pháp luật hạn chế cạnh tranh trong hoạt động nhượng quyền thương mại...
 
Luận văn: Hạn chế cạnh tranh trong nhượng quyền thương mại
Luận văn: Hạn chế cạnh tranh trong nhượng quyền thương mạiLuận văn: Hạn chế cạnh tranh trong nhượng quyền thương mại
Luận văn: Hạn chế cạnh tranh trong nhượng quyền thương mại
 
Hạn chế cạnh tranh trong nhượng quyền thương mại Việt Nam, HAY
Hạn chế cạnh tranh trong nhượng quyền thương mại Việt Nam, HAYHạn chế cạnh tranh trong nhượng quyền thương mại Việt Nam, HAY
Hạn chế cạnh tranh trong nhượng quyền thương mại Việt Nam, HAY
 
Luận án: Pháp luật hạn chế cạnh tranh trong nhượng quyền thương mại ở Việt Nam
Luận án: Pháp luật hạn chế cạnh tranh trong nhượng quyền thương mại ở Việt NamLuận án: Pháp luật hạn chế cạnh tranh trong nhượng quyền thương mại ở Việt Nam
Luận án: Pháp luật hạn chế cạnh tranh trong nhượng quyền thương mại ở Việt Nam
 
Luận án: Pháp luật hạn chế cạnh tranh trong hoạt động nhượng quyền thương mại...
Luận án: Pháp luật hạn chế cạnh tranh trong hoạt động nhượng quyền thương mại...Luận án: Pháp luật hạn chế cạnh tranh trong hoạt động nhượng quyền thương mại...
Luận án: Pháp luật hạn chế cạnh tranh trong hoạt động nhượng quyền thương mại...
 
Hop dong nhuong quyen thuong mai franchising -_viac_guidebook
Hop dong nhuong quyen thuong mai  franchising -_viac_guidebookHop dong nhuong quyen thuong mai  franchising -_viac_guidebook
Hop dong nhuong quyen thuong mai franchising -_viac_guidebook
 
Báo cáo thực tập nhượng quyền thương mại tại Việt Nam
Báo cáo thực tập nhượng quyền thương mại tại Việt NamBáo cáo thực tập nhượng quyền thương mại tại Việt Nam
Báo cáo thực tập nhượng quyền thương mại tại Việt Nam
 
Pháp Luật Hạn Chế Cạnh Tranh Trong Hoạt Động Nhượng Quyền Thương Mại.
Pháp Luật Hạn Chế Cạnh Tranh Trong Hoạt Động Nhượng Quyền Thương Mại.Pháp Luật Hạn Chế Cạnh Tranh Trong Hoạt Động Nhượng Quyền Thương Mại.
Pháp Luật Hạn Chế Cạnh Tranh Trong Hoạt Động Nhượng Quyền Thương Mại.
 
Nhượng quyền thương mại
Nhượng quyền thương mạiNhượng quyền thương mại
Nhượng quyền thương mại
 
Cơ sở lý luận về pháp luật hạn chế cạnh tranh nhượng quyền thương mại
Cơ sở lý luận về pháp luật hạn chế cạnh tranh nhượng quyền thương mạiCơ sở lý luận về pháp luật hạn chế cạnh tranh nhượng quyền thương mại
Cơ sở lý luận về pháp luật hạn chế cạnh tranh nhượng quyền thương mại
 
Phân biệt nhượng quyền thương mại và chuyển giao quyền sở hữu trí tuệ
Phân biệt nhượng quyền thương mại và chuyển giao quyền sở hữu trí tuệPhân biệt nhượng quyền thương mại và chuyển giao quyền sở hữu trí tuệ
Phân biệt nhượng quyền thương mại và chuyển giao quyền sở hữu trí tuệ
 
Chuyên Đề Tìm Hiểu Hoạt Động Môi Giới Bất Động Sản Tại Công Ty
Chuyên Đề Tìm Hiểu Hoạt Động Môi Giới Bất Động Sản Tại Công TyChuyên Đề Tìm Hiểu Hoạt Động Môi Giới Bất Động Sản Tại Công Ty
Chuyên Đề Tìm Hiểu Hoạt Động Môi Giới Bất Động Sản Tại Công Ty
 
Quá trình tuyển dụng, đào tạo và phát triển nguồn nhân lực
Quá trình tuyển dụng, đào tạo và phát triển nguồn nhân lựcQuá trình tuyển dụng, đào tạo và phát triển nguồn nhân lực
Quá trình tuyển dụng, đào tạo và phát triển nguồn nhân lực
 
Pháp Luật Hiện Hành Về Mua Bán, Sáp Nhập Doanh Nghiệp Và Giải Pháp Hoàn Thiện...
Pháp Luật Hiện Hành Về Mua Bán, Sáp Nhập Doanh Nghiệp Và Giải Pháp Hoàn Thiện...Pháp Luật Hiện Hành Về Mua Bán, Sáp Nhập Doanh Nghiệp Và Giải Pháp Hoàn Thiện...
Pháp Luật Hiện Hành Về Mua Bán, Sáp Nhập Doanh Nghiệp Và Giải Pháp Hoàn Thiện...
 
TS. BÙI QUANG XUÂN MÔN LUAT THƯƠNG MAI BÀI 6
TS. BÙI QUANG XUÂN MÔN LUAT THƯƠNG MAI BÀI 6TS. BÙI QUANG XUÂN MÔN LUAT THƯƠNG MAI BÀI 6
TS. BÙI QUANG XUÂN MÔN LUAT THƯƠNG MAI BÀI 6
 
Tai sao viec chuyen nhuong nhan hieu tai Viet Nam cua ban bị tu choi.pdf
Tai sao viec chuyen nhuong nhan hieu tai Viet Nam cua ban bị tu choi.pdfTai sao viec chuyen nhuong nhan hieu tai Viet Nam cua ban bị tu choi.pdf
Tai sao viec chuyen nhuong nhan hieu tai Viet Nam cua ban bị tu choi.pdf
 
Cơ sở lý luận về bảo hộ bí mật kinh doanh.docx
Cơ sở lý luận về bảo hộ bí mật kinh doanh.docxCơ sở lý luận về bảo hộ bí mật kinh doanh.docx
Cơ sở lý luận về bảo hộ bí mật kinh doanh.docx
 
Báo Cáo Thực Tập Pháp Luật Hạn Chế Cạnh Tranh Trong Hoạt Động Nhượng Quyền Th...
Báo Cáo Thực Tập Pháp Luật Hạn Chế Cạnh Tranh Trong Hoạt Động Nhượng Quyền Th...Báo Cáo Thực Tập Pháp Luật Hạn Chế Cạnh Tranh Trong Hoạt Động Nhượng Quyền Th...
Báo Cáo Thực Tập Pháp Luật Hạn Chế Cạnh Tranh Trong Hoạt Động Nhượng Quyền Th...
 
Cơ sở lý luận cơ bản về sáp nhập công ty cổ phần.docx
Cơ sở lý luận cơ bản về sáp nhập công ty cổ phần.docxCơ sở lý luận cơ bản về sáp nhập công ty cổ phần.docx
Cơ sở lý luận cơ bản về sáp nhập công ty cổ phần.docx
 
Thực trạng và các qui định pháp luật Việt Nam về giá trị pháp lý trong sử dụn...
Thực trạng và các qui định pháp luật Việt Nam về giá trị pháp lý trong sử dụn...Thực trạng và các qui định pháp luật Việt Nam về giá trị pháp lý trong sử dụn...
Thực trạng và các qui định pháp luật Việt Nam về giá trị pháp lý trong sử dụn...
 

More from Dịch vụ viết thuê đề tài trọn gói 🥰🥰 Liên hệ ZALO/TELE: 0917.193.864 ❤❤

More from Dịch vụ viết thuê đề tài trọn gói 🥰🥰 Liên hệ ZALO/TELE: 0917.193.864 ❤❤ (20)

Kho 200 Đề Tài Luận Văn Giảm Nghèo Đa Chiều, Từ Sinh Viên Giỏi.docx
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Giảm Nghèo Đa Chiều, Từ Sinh Viên Giỏi.docxKho 200 Đề Tài Luận Văn Giảm Nghèo Đa Chiều, Từ Sinh Viên Giỏi.docx
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Giảm Nghèo Đa Chiều, Từ Sinh Viên Giỏi.docx
 
Top 200 Đề Tài Khóa Luận Tốt Nghiệp Sư Phạm Tiếng Anh, Mới Nhất.docx
Top 200 Đề Tài Khóa Luận Tốt Nghiệp Sư Phạm Tiếng Anh, Mới Nhất.docxTop 200 Đề Tài Khóa Luận Tốt Nghiệp Sư Phạm Tiếng Anh, Mới Nhất.docx
Top 200 Đề Tài Khóa Luận Tốt Nghiệp Sư Phạm Tiếng Anh, Mới Nhất.docx
 
Đừng bỏ qua 220 Đề Tài Luận Văn Du Học, 9 Điểm.docx
Đừng bỏ qua 220 Đề Tài Luận Văn Du Học, 9 Điểm.docxĐừng bỏ qua 220 Đề Tài Luận Văn Du Học, 9 Điểm.docx
Đừng bỏ qua 220 Đề Tài Luận Văn Du Học, 9 Điểm.docx
 
200 Đề Tài Luận Văn Du Lịch Cộng Đồng, Từ Trường Đại Học.docx
200 Đề Tài Luận Văn Du Lịch Cộng Đồng, Từ Trường Đại Học.docx200 Đề Tài Luận Văn Du Lịch Cộng Đồng, Từ Trường Đại Học.docx
200 Đề Tài Luận Văn Du Lịch Cộng Đồng, Từ Trường Đại Học.docx
 
List 200 Đề Tài Khóa Luận Tốt Nghiệp Công Nghệ Thông Tin, 9 Điểm.docx
List 200 Đề Tài Khóa Luận Tốt Nghiệp Công Nghệ Thông Tin, 9 Điểm.docxList 200 Đề Tài Khóa Luận Tốt Nghiệp Công Nghệ Thông Tin, 9 Điểm.docx
List 200 Đề Tài Khóa Luận Tốt Nghiệp Công Nghệ Thông Tin, 9 Điểm.docx
 
Xem Ngay 170 Đề Tài Khóa Luận Tốt Nghiệp Hcmue, Mới Nhất.docx
Xem Ngay 170 Đề Tài Khóa Luận Tốt Nghiệp Hcmue, Mới Nhất.docxXem Ngay 170 Đề Tài Khóa Luận Tốt Nghiệp Hcmue, Mới Nhất.docx
Xem Ngay 170 Đề Tài Khóa Luận Tốt Nghiệp Hcmue, Mới Nhất.docx
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Quản Lý Giáo Dục,Từ Sinh Viên Giỏi.docx
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Quản Lý Giáo Dục,Từ Sinh Viên Giỏi.docxKho 200 Đề Tài Luận Văn Quản Lý Giáo Dục,Từ Sinh Viên Giỏi.docx
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Quản Lý Giáo Dục,Từ Sinh Viên Giỏi.docx
 
Top 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Về Oxford, Điểm Cao.docx
Top 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Về Oxford, Điểm Cao.docxTop 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Về Oxford, Điểm Cao.docx
Top 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Về Oxford, Điểm Cao.docx
 
Hơn 200 đề tài luận văn thạc sĩ sư phạm kỹ thuật, 9 điểm.docx
Hơn 200 đề tài luận văn thạc sĩ sư phạm kỹ thuật, 9 điểm.docxHơn 200 đề tài luận văn thạc sĩ sư phạm kỹ thuật, 9 điểm.docx
Hơn 200 đề tài luận văn thạc sĩ sư phạm kỹ thuật, 9 điểm.docx
 
Top 200 Đề Tài Khóa Luận Tốt Nghiệp Báo Chí, Từ Sinh Viên Giỏi.docx
Top 200 Đề Tài Khóa Luận Tốt Nghiệp Báo Chí, Từ Sinh Viên Giỏi.docxTop 200 Đề Tài Khóa Luận Tốt Nghiệp Báo Chí, Từ Sinh Viên Giỏi.docx
Top 200 Đề Tài Khóa Luận Tốt Nghiệp Báo Chí, Từ Sinh Viên Giỏi.docx
 
Top 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Về Chứng Thực, 9 Điểm.docx
Top 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Về Chứng Thực, 9 Điểm.docxTop 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Về Chứng Thực, 9 Điểm.docx
Top 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Về Chứng Thực, 9 Điểm.docx
 
201 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Về Quản Lý Đất Đai, Mới Nhất.docx
201 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Về Quản Lý Đất Đai, Mới Nhất.docx201 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Về Quản Lý Đất Đai, Mới Nhất.docx
201 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Về Quản Lý Đất Đai, Mới Nhất.docx
 
200 đề tài luận văn thạc sĩ giảm nghèo bền vững, để làm bài tốt nhất.docx
200 đề tài luận văn thạc sĩ giảm nghèo bền vững, để làm bài tốt nhất.docx200 đề tài luận văn thạc sĩ giảm nghèo bền vững, để làm bài tốt nhất.docx
200 đề tài luận văn thạc sĩ giảm nghèo bền vững, để làm bài tốt nhất.docx
 
Top 200 đề tài luận văn thạc sĩ về công chứng, mới nhất.docx
Top 200 đề tài luận văn thạc sĩ về công chứng, mới nhất.docxTop 200 đề tài luận văn thạc sĩ về công chứng, mới nhất.docx
Top 200 đề tài luận văn thạc sĩ về công chứng, mới nhất.docx
 
Kho 200 đề tài luận văn thạc sĩ về giáo dục, mới nhất.docx
Kho 200 đề tài luận văn thạc sĩ về giáo dục, mới nhất.docxKho 200 đề tài luận văn thạc sĩ về giáo dục, mới nhất.docx
Kho 200 đề tài luận văn thạc sĩ về giáo dục, mới nhất.docx
 
201 đề tài luận văn thạc sĩ về công tác dân vận, điểm cao.docx
201 đề tài luận văn thạc sĩ về công tác dân vận, điểm cao.docx201 đề tài luận văn thạc sĩ về công tác dân vận, điểm cao.docx
201 đề tài luận văn thạc sĩ về công tác dân vận, điểm cao.docx
 
Nghiên cứu thành phần loài nấm lớn ở huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế.doc
Nghiên cứu thành phần loài nấm lớn ở huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế.docNghiên cứu thành phần loài nấm lớn ở huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế.doc
Nghiên cứu thành phần loài nấm lớn ở huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế.doc
 
Nghiên cứu biến động tài nguyên rừng ở lưu vực sông Hương, tỉnh Thừa Thiên Hu...
Nghiên cứu biến động tài nguyên rừng ở lưu vực sông Hương, tỉnh Thừa Thiên Hu...Nghiên cứu biến động tài nguyên rừng ở lưu vực sông Hương, tỉnh Thừa Thiên Hu...
Nghiên cứu biến động tài nguyên rừng ở lưu vực sông Hương, tỉnh Thừa Thiên Hu...
 
Nghiên cứu đặc điểm sinh học, năng suất và phẩm chất một số giống lúa chịu hạ...
Nghiên cứu đặc điểm sinh học, năng suất và phẩm chất một số giống lúa chịu hạ...Nghiên cứu đặc điểm sinh học, năng suất và phẩm chất một số giống lúa chịu hạ...
Nghiên cứu đặc điểm sinh học, năng suất và phẩm chất một số giống lúa chịu hạ...
 
Luận văn thạc sĩ hóa học - Nghiên cứu tổng hợp vật liệu Ag-Fe3O4-Graphene oxi...
Luận văn thạc sĩ hóa học - Nghiên cứu tổng hợp vật liệu Ag-Fe3O4-Graphene oxi...Luận văn thạc sĩ hóa học - Nghiên cứu tổng hợp vật liệu Ag-Fe3O4-Graphene oxi...
Luận văn thạc sĩ hóa học - Nghiên cứu tổng hợp vật liệu Ag-Fe3O4-Graphene oxi...
 

Recently uploaded

Everybody Up 1 - Unit 5 - worksheet grade 1
Everybody Up 1 - Unit 5 - worksheet grade 1Everybody Up 1 - Unit 5 - worksheet grade 1
Everybody Up 1 - Unit 5 - worksheet grade 1
mskellyworkmail
 
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
ltbdieu
 

Recently uploaded (20)

CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN...
CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN...CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN...
CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN...
 
TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT HÓA HỌC 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, TRƯ...
TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT HÓA HỌC 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, TRƯ...TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT HÓA HỌC 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, TRƯ...
TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT HÓA HỌC 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, TRƯ...
 
22 ĐỀ THI THỬ TUYỂN SINH TIẾNG ANH VÀO 10 SỞ GD – ĐT THÁI BÌNH NĂM HỌC 2023-2...
22 ĐỀ THI THỬ TUYỂN SINH TIẾNG ANH VÀO 10 SỞ GD – ĐT THÁI BÌNH NĂM HỌC 2023-2...22 ĐỀ THI THỬ TUYỂN SINH TIẾNG ANH VÀO 10 SỞ GD – ĐT THÁI BÌNH NĂM HỌC 2023-2...
22 ĐỀ THI THỬ TUYỂN SINH TIẾNG ANH VÀO 10 SỞ GD – ĐT THÁI BÌNH NĂM HỌC 2023-2...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
MỘT SỐ GIẢI PHÁP GÓP PHẦN BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY CA TRÙ (CỔ ĐẠM – NGHI XUÂN, HÀ ...
MỘT SỐ GIẢI PHÁP GÓP PHẦN BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY CA TRÙ (CỔ ĐẠM – NGHI XUÂN, HÀ ...MỘT SỐ GIẢI PHÁP GÓP PHẦN BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY CA TRÙ (CỔ ĐẠM – NGHI XUÂN, HÀ ...
MỘT SỐ GIẢI PHÁP GÓP PHẦN BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY CA TRÙ (CỔ ĐẠM – NGHI XUÂN, HÀ ...
 
Everybody Up 1 - Unit 5 - worksheet grade 1
Everybody Up 1 - Unit 5 - worksheet grade 1Everybody Up 1 - Unit 5 - worksheet grade 1
Everybody Up 1 - Unit 5 - worksheet grade 1
 
TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT TOÁN 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, TRƯỜNG...
TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT TOÁN 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, TRƯỜNG...TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT TOÁN 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, TRƯỜNG...
TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT TOÁN 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, TRƯỜNG...
 
PHIẾU KHẢO SÁT MỨC ĐỘ HÀI LÒNG VỀ CHẤT LƯỢNG DỊCH VỤ VẬN CHUYỂN HÀNG KHÁCH BẰ...
PHIẾU KHẢO SÁT MỨC ĐỘ HÀI LÒNG VỀ CHẤT LƯỢNG DỊCH VỤ VẬN CHUYỂN HÀNG KHÁCH BẰ...PHIẾU KHẢO SÁT MỨC ĐỘ HÀI LÒNG VỀ CHẤT LƯỢNG DỊCH VỤ VẬN CHUYỂN HÀNG KHÁCH BẰ...
PHIẾU KHẢO SÁT MỨC ĐỘ HÀI LÒNG VỀ CHẤT LƯỢNG DỊCH VỤ VẬN CHUYỂN HÀNG KHÁCH BẰ...
 
ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 BIÊN SOẠN THEO ĐỊNH HƯỚNG ĐỀ BGD 2025 MÔN TOÁN 10 - CÁN...
ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 BIÊN SOẠN THEO ĐỊNH HƯỚNG ĐỀ BGD 2025 MÔN TOÁN 10 - CÁN...ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 BIÊN SOẠN THEO ĐỊNH HƯỚNG ĐỀ BGD 2025 MÔN TOÁN 10 - CÁN...
ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 BIÊN SOẠN THEO ĐỊNH HƯỚNG ĐỀ BGD 2025 MÔN TOÁN 10 - CÁN...
 
Luận văn 2024 Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả công tác quản lý hành...
Luận văn 2024 Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả công tác quản lý hành...Luận văn 2024 Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả công tác quản lý hành...
Luận văn 2024 Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả công tác quản lý hành...
 
NHẬN XÉT LUẬN VĂN THẠC SĨ: Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của n...
NHẬN XÉT LUẬN VĂN THẠC SĨ: Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của n...NHẬN XÉT LUẬN VĂN THẠC SĨ: Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của n...
NHẬN XÉT LUẬN VĂN THẠC SĨ: Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của n...
 
TIỂU LUẬN MÔN PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
TIỂU LUẬN MÔN PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌCTIỂU LUẬN MÔN PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
TIỂU LUẬN MÔN PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
 
NHững vấn đề chung về Thuế Tiêu thụ đặc biệt.ppt
NHững vấn đề chung về Thuế Tiêu thụ đặc biệt.pptNHững vấn đề chung về Thuế Tiêu thụ đặc biệt.ppt
NHững vấn đề chung về Thuế Tiêu thụ đặc biệt.ppt
 
Chương 6: Dân tộc - Chủ nghĩa xã hội khoa học
Chương 6: Dân tộc - Chủ nghĩa xã hội khoa họcChương 6: Dân tộc - Chủ nghĩa xã hội khoa học
Chương 6: Dân tộc - Chủ nghĩa xã hội khoa học
 
TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...
TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...
TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
[123doc] - ao-dai-truyen-thong-viet-nam-va-xuong-xam-trung-quoc-trong-nen-van...
[123doc] - ao-dai-truyen-thong-viet-nam-va-xuong-xam-trung-quoc-trong-nen-van...[123doc] - ao-dai-truyen-thong-viet-nam-va-xuong-xam-trung-quoc-trong-nen-van...
[123doc] - ao-dai-truyen-thong-viet-nam-va-xuong-xam-trung-quoc-trong-nen-van...
 
TUYỂN TẬP ĐỀ THI GIỮA KÌ, CUỐI KÌ 2 MÔN VẬT LÍ LỚP 11 THEO HÌNH THỨC THI MỚI ...
TUYỂN TẬP ĐỀ THI GIỮA KÌ, CUỐI KÌ 2 MÔN VẬT LÍ LỚP 11 THEO HÌNH THỨC THI MỚI ...TUYỂN TẬP ĐỀ THI GIỮA KÌ, CUỐI KÌ 2 MÔN VẬT LÍ LỚP 11 THEO HÌNH THỨC THI MỚI ...
TUYỂN TẬP ĐỀ THI GIỮA KÌ, CUỐI KÌ 2 MÔN VẬT LÍ LỚP 11 THEO HÌNH THỨC THI MỚI ...
 
Đề thi tin học HK2 lớp 3 Chân Trời Sáng Tạo
Đề thi tin học HK2 lớp 3 Chân Trời Sáng TạoĐề thi tin học HK2 lớp 3 Chân Trời Sáng Tạo
Đề thi tin học HK2 lớp 3 Chân Trời Sáng Tạo
 
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
 

Cơ sở lý luận về pháp luật hạn chế cạnh tranh trong hoạt động nhượng quyền thương mại.docx

  • 1. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149 Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HẠN CHẾ CẠNH TRANH TRONG HOẠT ĐỘNG NHƢỢNG QUYỀN THƢƠNG MẠI VÀ PHÁP LUẬT HẠN CHẾ CẠNH TRANH TRONG HOẠT ĐỘNG NHƢỢNG QUYỀN THƢƠNG MẠI 2.1. Những vấn đề lý luận chung về hoạt động nhƣợng quyền thƣơng mại 2.1.1. Khái niệm hoạt động nhượng quyền thương mại Dưới góc độ kinh tế, nhượng quyền thương mại là phương thức kinh doanh, theo đó bên nhượng quyền cấp cho bên nhận quyền quyền kinh doanh sản phẩm, dịch vụ của mình trong một thời gian, dưới nhãn hiệu, bí quyết kinh doanh, kế hoạch kinh doanh của bên nhượng quyền. Bên nhận quyền là bên sử dụng toàn bộ các yếu tố được bên nhượng quyền chuyển giao để tiến hành kinh doanh sản phẩm, dịch vụ theo phương thức của bên nhượng quyền. Trong hoạt động này, bên nhượng quyền và bên nhận quyền vẫn duy trì mối quan hệ hợp tác chặt chẽ trong suốt quá trình có hiệu lực của hợp đồng. Việc hợp tác trong hệ thống được thiết lập nhằm mục đích hướng người tiêu dùng nhận biết sản phẩm, dịch vụ của bên nhượng quyền và bên nhận quyền như là một phần của hệ thống mà không giống như người bán lẻ độc lập. Bằng cách này, bên nhượng quyền có thể mở rộng hệ thống phân phối sản phẩm, sự phát triển thương hiệu của mình thông qua chủ thể đầu tư khác. Về phía bên nhận quyền, thông qua việc kinh doanh dưới hình thức nhượng quyền thương mại sẽ hạn chế được rủi ro bởi có sự trợ giúp kỹ thuật và trợ giúp về cách thức quản lý của bên nhượng quyền. Ở Việt Nam, những nền tảng ban đầu của hoạt động nhượng quyền thương mại được ghi nhận lần đầu tiên năm 1999 tại Thông tư 1254/1999/TT- BKHCN của Bộ Khoa học và Công nghệ hướng dẫn Nghị
  • 2. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149 Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149 định 45/1998/NĐ-CP về chuyển giao công nghệ. Tại Mục 4.1.1(a) đoạn 5 của Thông tư này đã đề cập đến cụm từ “hợp đồng cấp phép đặc quyền kinh doanh” với giải thích tiếng Anh là “franchise”. Hàm ý của cụm từ này theo Thông tư này là việc chuyển giao độc quyền khai thác quyền sở hữu trí tuệ, theo đó, loại hợp đồng này được hiểu là hợp đồng với nội dung cấp li xăng sử dụng nhãn hiệu hàng hoá kèm theo các bí quyết sản xuất, kinh doanh được chuyển giao từ nước ngoài vào Việt nam có giá trị thanh toán cho một hợp đồng trên 30.000 USD (Mục 4.1.1(a), đoạn 5 Thông tư 1254/1999/TT- BKHCN do Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ ban hành về việc hướng dẫn Nghị định số 45/1998/NĐ-CP về chuyển giao công nghệ). Thông tư này không coi “nhượng quyền thương mại” là một hoạt động kinh doanh và cũng không đưa ra một khái niệm rõ ràng cụ thể về hoạt động nhượng quyền thương mại. Tiếp đó, năm 2005, Chính phủ đã thay thế Nghị định số 45/1998/NĐ-CP bằng việc ban hành Nghị định 11/2005/NĐ-CP quy định chi tiết về chuyển giao công nghệ và Thông tư số 30/2005/TT-BKHCN hướng dẫn một số điều của Nghị định 11/2005/NĐ- CP quy định chi tiết về chuyển giao công nghệ đã quy định về hoạt động chuyển giao công nghệ, theo đó, hoạt động cấp phép đặc quyền kinh doanh chỉ được coi là một hoạt động chuyển giao công nghệ. Điều này cho thấy hoạt động nhượng quyền thương mại đã có ở Việt Nam trên thực tế, nhưng hoạt động này được tiếp cận dưới góc độ của chuyển giao công nghệ, chưa phản ánh được bản chất thực sự của hoạt động thương mại đặc thù này. Cho đến năm 2005, hoạt động nhượng quyền thương mại mới được pháp luật Việt Nam ghi nhận như là một hoạt động thương mại độc lập trong Luật Thương mại năm 2005 có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm 2006 từ Điều 284 đến Điều 291. Điều 284, Luật Thương mại 2005 đã quy định: Nhượng quyền thương mại là hoạt động thương mại, theo đó bên nhượng quyền cho phép và yêu cầu bên nhận quyền tự mình tiến hành việc mua bán
  • 3. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149 Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149 hàng hoá, cung ứng dịch vụ. Một hoạt động thương mại được coi là nhượng quyền thương mại nếu đáp ứng các điều kiện sau đây: (1) Việc mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ được tiến hành theo cách thức tổ chức kinh doanh do bên nhượng quyền quy định và được gắn với nhãn hiệu hàng hoá, tên thương mại, bí quyết kinh doanh, khẩu hiệu kinh doanh, biểu tượng kinh doanh, quảng cáo của bên nhượng quyền; (2) Bên nhượng quyền có quyền kiểm soát và trợ giúp cho bên nhận quyền trong việc điều hành công việc kinh doanh. Như vậy, với cách định nghĩa này, nhượng quyền thương mại không phải là hoạt động chuyển giao công nghệ đơn thuần như trước đây. Đây là phương thức nhân rộng mô hình kinh doanh của một chủ thể kinh doanh đã thành công trước đó, bằng việc chuyển giao quyền được kinh doanh theo chính mô hình, cách thức, các dấu hiệu nhận biết thương nhân (nhãn hiệu hàng hoá, tên thương mại, bí quyết kinh doanh, khẩu hiệu kinh doanh, biểu tượng kinh doanh, quảng cáo) cho một thương nhân khác. Hoạt động này có một số điểm tương đồng với một số hoạt động thương mại khác như đại lý thương mại, li xăng, chuyển giao công nghệ. Tuy vậy, chúng ta có thể phân biệt được hoạt động nhượng quyền thương mại dưới các đặc trưng sau đây: Một là, trong mối quan hệ với đại lý thương mại, mặc dù có một số nét tương đồng (như cả hai đều là phương thức phân phối hàng hóa/dịch vụ, các bên trong quan hệ hợp đồng đều là các chủ thể độc lập nhau; bên giao/nhượng (bên giao đại lý/bên nhượng quyền) thường yêu cầu bên nhận (bên đại lý/bên nhận quyền) không được bày bán hoặc thực hiện những hành vi cạnh tranh với sản phẩm được phân phối theo hợp đồng. Tuy nhiên, giữa hai phương thức có sự khác biệt đáng kể về mặt bản chất, thể hiện ở các khía cạnh sau đây: (i) trong quan hệ đại lý, không có sự kiểm soát chặt chẽ cũng như sự trợ giúp đáng kể của bên giao đại lý đối
  • 4. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149 Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149 với bên đại lý, trong khi trong quan hệ nhượng quyền thương mại, bên nhận quyền được bên nhượng quyền trợ giúp đáng kể về mặt kỹ thuật trong suốt quá trình có hiệu lực của hợp đồng, cũng như chịu sự kiểm tra giám sát rất chặt chẽ từ phía bên nhượng quyền; (ii) trong quan hệ đại lý, bên đại lý không phải trả phí đại lý mà ngược lại, được hưởng tiền hoa hồng từ bên giao đại lý. Trong khi đó, trong quan hệ nhượng quyền thương mại bên nhận quyền phải trả phí nhượng quyền cho bên nhượng quyền; (iii) về trách nhiệm đối với các rủi ro trong kinh doanh, trong quan hệ đại lý, bên giao đại lý chỉ thực hiện việc giao hàng cho bên đại lý mà không chuyển giao cho bên đại lý quyền sở hữu đối với hàng hoá đó, vì vậy, khi không bán được hàng hoá hoặc có rủi ro xảy ra với hàng hoá mà không do lỗi của bên đại lý, người phải gánh vác nghĩa vụ đối với rủi ro đó một cách đầu tiên và trực tiếp chính là bên giao đại lý - chủ sở hữu hàng hoá. Trong khi đó, trong quan hệ nhượng quyền thương mại, việc bên nhận quyền hoặc bên nhượng quyền kinh doanh thua lỗ, không có khách hàng hoặc có rủi ro xảy ra với hàng hoá của mỗi bên không liên quan trực tiếp tới bên kia nếu những sự kiện đó không bắt nguồn từ một sự vi phạm nghĩa vụ hợp đồng nhượng quyền. Sở dĩ như vậy là do bên nhận quyền và bên nhượng quyền không những có sự độc lập về mặt chủ thể pháp lý mà còn có sự độc lập về tài chính trong hoạt động kinh doanh của các bên còn sự độc lập giữa các bên trong quan hệ đại lý chỉ là sự độc lập về tư cách chủ thể. Có thể khẳng định, bên đại lý chỉ là bên “bán hộ” cho bên giao đại lý. Còn đối với nhượng quyền thương mại, mỗi bên đều thực hiện hoạt động kinh doanh độc lập, không bên nào “bán hộ” hàng hoá, dịch vụ cho nhau. Về bản chất, trong hoạt động nhượng quyền thương mại, hai bên nhượng quyền và nhận quyền chỉ cùng nhau kinh doanh dưới một tên thương mại mà thôi.
  • 5. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149 Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149 Hai là, trong quan hệ với li xăng, hoạt động nhượng quyền thương mại cũng có một số điểm tương đồng như: đối tượng được chuyển giao quyền sử dụng là các yếu tố thuộc quyền sở hữu trí tuệ; chủ thể chuyển giao là bên có quyền sở hữu hoặc có quyền chuyển giao hợp pháp đối tượng được chuyển giao. Tuy nhiên, điểm khác biệt lớn nhất giữa li xăng và nhượng quyền thương mại là, (i) phạm vi sử dụng đối tượng chuyển giao: trong quan hệ nhượng quyền, bên nhận chuyển giao (bên nhận quyền) chỉ được sử dụng đối tượng chuyển giao gắn với hàng hóa, dịch vụ xác định, được cung ứng trong hệ thống nhượng quyền thì trong quan hệ li xăng, bên nhận chuyển giao có thể sử dụng đối tượng được li xăng gắn vào bất kỳ hàng hóa, dịch vụ nào mà các bên thỏa thuận, hoặc dùng kiểu dáng được thiết kế của đối tượng được li xăng để gắn vào sản phẩm do mình sản xuất; (ii) đối tượng được chuyển giao trong quan hệ li xăng được giới hạn trong phạm vi một số yếu tố mà pháp luật sở hữu trí tuệ cho phép, nhưng trong nhượng quyền, đối tượng được phép chuyển giao không giới hạn trong phạm vi các yếu tố mà pháp luật sở hữu trí tuệ ghi nhận mà bao gồm cả những yếu tố khác tuy không được quy định trong pháp luật sở hữu trí tuệ, nhưng lại là bộ phận của quyền thương mại được xác định trong luật thương mại; (iii) việc xác định hành vi vi phạm: trong quan hệ li xăng, trong trường hợp cùng lúc li xăng nhiều yếu tố thì việc vi phạm mỗi yếu tố mang tính chất là các vi phạm độc lập, còn trong nhượng quyền thương mại các yếu tố được chuyển giao không tồn tại độc lập mà kết hợp lại thành một “gói” quyền thương mại, do vậy, việc vi phạm bất cứ một yếu tố nào thuộc quyền thương mại cũng là vi phạm cả gói quyền – đối tượng chuyển giao của hợp đồng nhượng quyền thương mại. Ba là, trong quan hệ với chuyển giao công nghệ, hoạt động nhượng quyền cũng có những điểm tương đồng như cùng chuyển giao công nghệ cho bên nhận chuyển giao. Bên cạnh đó cũng có những điểm khác biệt cơ
  • 6. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149 Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149 bản, như: (i) phạm vi sử dụng công nghệ: trong nhượng quyền thương mại, việc sử dụng công nghệ phải theo cách thức thống nhất, áp dụng cho những hàng hóa, dịch vụ đồng nhất trong hệ thống, bên nhận chuyển giao không được tự ý phát triển công nghệ thì chuyển giao công nghệ lại cho phép bên nhận chuyển giao có thể sử dụng công nghệ được chuyển giao để sản xuất ra sản phẩm của mình, tuy nhiên, việc hàng hoá đó gắn nhãn hiệu sản phẩm nào, được bán ra với tên thương mại nào còn phụ thuộc vào việc giữa hai bên có thỏa thuận li xăng đính kèm hay không. Sau khi nhận chuyển giao công nghệ, bên nhận chuyển giao có thể lựa chọn giữ nguyên công nghệ để áp dụng hoặc phát triển công nghệ đó; (ii) về nội dung chính của hợp đồng, trong khi các bên trong quan hệ chuyển giao công nghệ chủ yếu thỏa thuận về mặt chất lượng, công nghệ, kỹ thuật sản xuất ra sản phẩm thì các bên trong quan hệ nhượng quyền thương mại ngoài việc quan tâm đến chất lượng, công nghệ, kỹ thuật còn quan tâm đến hình thức, cách thức, phương thức của sản phẩm trong quá trình thực hiện các các hoạt động thương mại liên quan đến sản phẩm. Tóm lại, một hoạt động được coi là nhượng quyền thương mại khi có đầy đủ các yếu tố sau: (i) Là hành vi của các chủ thể kinh doanh chuyên nghiệp, (ii) Là hoạt động nhằm hướng tới việc chuyển giao quyền thương mại (quyền kinh doanh theo một phương thức thống nhất của bên nhượng quyền), (iii) Hoạt động kinh doanh theo phương thức nhượng quyền luôn phải đảm bảo tính đồng bộ trong toàn bộ hệ thống. Việc ghi nhận nhượng quyền thương mại là một hoạt động thương mại độc lập trong Luật Thương mại 2005 đã tạo ra cơ sở pháp lý cho việc phát triển hoạt động nhượng quyền thương mại vốn đã tồn tại trước đó ở Việt Nam. Đồng thời, người tiêu dùng cũng có nhiều điều kiện tiếp cận các
  • 7. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149 Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149 sản phẩm khác nhau từ khắp nơi trên thế giới thông qua hệ thống nhượng quyền thương mại. 2.1.2. Đặc điểm của hoạt động nhượng quyền thương mại Nhượng quyền thương mại là hoạt động thương mại độc lập với các đặc điểm sau đây: Một là, hoạt động nhượng quyền thương mại là hoạt động thương mại được thiết lập giữa các chủ thể kinh doanh chuyên nghiệp (thương nhân) Theo quy định của pháp luật Việt Nam, một trong những điều kiện tối thiểu để các bên có thể tham gia quan hệ nhượng quyền đó là phải có tư cách thương nhân. Trong đó: Bên nhƣợng quyền là bên đã xây dựng được một thương hiệu mạnh, đã được kiểm nghiệm trên thị trường. Pháp luật các nước thường yêu cầu bên nhượng quyền phải là thương nhân, đã có thời gian hoạt động trong lĩnh vực dự định kinh doanh nhượng quyền trong một thời gian nhất định, thời gian cụ thể bao nhiêu tùy theo điều kiện, mục tiêu cũng như chính sách của mỗi nước. Quy định này được đặt ra nhằm đảm bảo hoạt động nhượng quyền thương mại có khả năng thành công cao, giảm thiểu rủi ro kinh doanh cho bên nhận quyền sau khi đã đầu tư một số tiền khá lớn (phí nhượng quyền) để được bên nhượng quyền cấp quyền thương mại. Ở Việt Nam, theo quy định tại Điều 5, Nghị định 35/2006/NĐ-CP quy định chi tiết Luật Thương mại về hoạt động nhượng quyền thương mại, bên nhượng quyền chỉ được phép cấp quyền thương mại khi đáp ứng đủ các điều kiện sau đây: Thứ nhất, hệ thống kinh doanh dự định dùng để nhượng quyền đã hoạt động được ít nhất 01 năm. Nếu thương nhân Việt Nam là Bên nhận quyền sơ cấp từ Bên nhượng quyền nước ngoài, thương nhân Việt Nam đó phải kinh doanh theo phương thức nhượng quyền thương mại ít nhất 01 năm ở Việt Nam trước khi tiến hành cấp lại quyền thương mại; Thứ hai, đã đăng ký hoạt động nhượng quyền thương mại với cơ quan có thẩm quyền.
  • 8. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149 Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149 Bên cạnh đó, hàng hoá, dịch vụ kinh doanh phải thuộc đối tượng được phép kinh doanh nhượng quyền thương mại. Bên nhận quyền là bên sử dụng quyền thương mại của bên nhượng quyền để kinh doanh và phải trả một khoản phí nhất định cho việc sử dụng quyền thương mại này. Điều kiện đặt ra đối với bên nhận quyền đơn giản hơn rất nhiều so với bên nhượng quyền. Hầu hết các nước trên thế giới đều quy định bên nhận quyền phải tồn tại dưới một tên thương mại riêng, có tư cách pháp lý độc lập. Theo quy định tại Điều 6 Nghị định 35/2006/NĐ-CP quy định chi tiết Luật Thương mại về hoạt động nhượng quyền thương mại, bên nhận quyền phải là thương nhân và chỉ được phép kinh doanh dưới hình thức nhượng quyền thương mại khi có đăng ký kinh doanh phù hợp với đối tượng của quyền thương mại được chuyển nhượng theo hợp đồng nhượng quyền thương mại. Như vậy, chủ thể tham gia hợp đồng phải là thương nhân là một trong những điều kiện tiên quyết để hợp đồng nhượng quyền thương mại có hiệu lực. Đây là khác biệt cơ bản giữa hợp đồng nhượng quyền thương mại và các hợp đồng thương mại thông thường khác. Đối với hợp đồng thương mại thông thường, chủ thể thực hiện hợp đồng có thể là những tổ chức, cá nhân không phải là thương nhân. Sự khác biệt này xuất phát từ bản chất đặc thù của hoạt động nhượng quyền thương mại, do đây là một hoạt động rất phức tạp, chứa đựng nhiều rủi ro, yêu cầu chủ thể thực hiện phải đáp ứng rất nhiều điều kiện cả về năng lực kinh doanh lẫn năng lực tài chính. Bên cạnh đó, khi đã thực hiện việc chuyển giao quyền thương mại, trước hết bên nhượng quyền phải là chủ thể đã và đang thực hiện hoạt động kinh doanh; đối với bên nhận quyền, khi tiếp nhận quyền thương mại cũng đồng nghĩa với việc thực hiện hoạt động kinh doanh nhằm tìm kiếm lợi nhuận thông qua phương thức mà bên nhượng quyền đã chuyển giao. Chính vì thế, hoạt động
  • 9. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149 Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149 nhượng quyền thương mại cần phải được thực hiện bởi các thương nhân - những chủ thể kinh doanh chuyên nghiệp trong nền kinh tế thị trường. Hai là, đối tượng mà các bên hướng tới trong quan hệ nhượng quyền chính là “quyền thương mại” Theo quy định của pháp luật Việt Nam tại Khoản 6 Điều 3 Nghị định 35/2006/NĐ-CP ngày 31/03/2006 quy định chi tiết Luật Thương mại về nhượng quyền thương mại, “quyền thương mại” được hiểu là một, một số hoặc toàn bộ các quyền sau đây: (i) Quyền được bên nhượng quyền cho phép và yêu cầu bên nhận quyền tự mình tiến hành công việc kinh doanh cung cấp hàng hóa hoặc dịch vụ theo một hệ thống do bên nhượng quyền quy định và được gắn với nhãn hiệu hàng hóa, tên thương mại, khẩu hiệu kinh doanh, biểu tượng kinh doanh, quảng cáo của bên nhượng quyền; (ii) Quyền được bên nhượng quyền cấp cho bên nhận quyền sơ cấp quyền thương mại chung; (iii) Quyền được bên nhượng quyền thứ cấp cấp lại cho bên nhận quyền thứ cấp theo hợp đồng nhượng quyền thương mại chung và (iv) Quyền được bên nhượng quyền cấp cho bên nhận quyền quyền thương mại theo hợp đồng phát triển quyền thương mại Như vậy, hiểu một cách cơ bản, ngoài các quyền phái sinh như quyền cấp lại quyền thương mại cho chủ thể khác, thì quyền thương mại về bản chất là quyền được “tiến hành công việc kinh doanh cung cấp hàng hóa hoặc dịch vụ theo một hệ thống do bên nhượng quyền quy định và được gắn với nhãn hiệu hàng hóa, tên thương mại, khẩu hiệu kinh doanh, biểu tượng kinh doanh, quảng cáo của bên nhượng quyền” Tuy nhiên, với bản chất là việc chuyển giao cách thức tổ chức kinh doanh do bên nhượng quyền quy định gắn với các yếu tố nhận biết thương nhân cho bên nhận quyền, quyền thương mại trong hợp đồng nhượng quyền phải được hiểu là một “gói quyền”, bao gồm các quyền đối với nhãn hiệu hàng hóa, tên thương mại, bí quyết kinh doanh, biểu tượng kinh
  • 10. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149 Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149 doanh, khẩu hiệu kinh doanh, logo và các đối tượng thuộc quyền sở hữu trí tuệ khác. Các quyền này có sự gắn kết, liên hệ chặt chẽ với nhau trong một chỉnh thể thống nhất chứ không chỉ đơn giản là một tập hợp các quyền liên quan đến hoạt động nhượng quyền thương mại. Bên nhận quyền có quyền sử dụng toàn bộ “gói quyền” này của bên nhượng quyền để tiến hành kinh doanh hàng hóa, dịch vụ dưới thương hiệu của bên nhượng quyền. Cách nhìn nhận này cũng phù hợp với quan điểm của Ủy ban Châu Âu về quyền thương mại được chuyển giao trong quan hệ nhượng quyền, ghi nhận tại Điều 1(3)(a) Nghị quyết 4087/88, đó là “một tổ hợp những quyền liên quan đến sở hữu trí tuệ thuộc bên giao gắn liền với nhãn hiệu, tên thương mại, biển hiệu, biểu tượng kinh doanh, bí quyết kinh doanh, quyền tác giả, quyền đối với sáng chế được bên nhận quyền khai thác nhằm mục đích bán/phân phối hàng hóa/dịch vụ cho người tiêu dùng” Cần phải lưu ý rằng, trong một số trường hợp, mà phổ biến là trong phương thức nhượng quyền phân phối sản phẩm, đối tượng các bên hướng tới trong quan hệ nhượng quyền thương mại bao gồm cả "hàng hóa" được cung ứng bởi bên nhượng quyền. Chẳng hạn, trong hệ thống nhượng quyền mỹ phẩm của hãng The Body Shop, để có thể kinh doanh sản phẩm trên, bên nhận quyền phải cam kết kinh doanh theo phương thức nhượng quyền (cách thức kinh doanh, cách bài trí, màu sắc, trang thiết bị...) và mua sản phẩm do bên nhượng quyền cung ứng. Thông thường, "hàng hóa" được nói đến ở đây là những sản phẩm tương đối đặc thù, do bên nhượng quyền độc quyền cung ứng. Chính vì vậy, để được kinh doanh hàng hóa đặc thù trên, bên nhận quyền buộc phải chấp nhận cách thức kinh doanh theo phương thức nhượng quyền như một điều kiện bắt buộc. Trong trường hợp này, sẽ tồn tại hai đối tượng mà các bên hướng tới trong quan hệ nhượng quyền thương mại, (i) quyền thương mại và (ii) hàng hóa được cung ứng bởi bên nhượng quyền.
  • 11. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149 Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149 Ba là, quan hệ nhượng quyền hướng tới thiết lập và ổn định trạng thái đồng bộ của hệ thống nhượng quyền trong suốt quá trình kinh doanh Xuất phát từ việc chuyển giao cách thức kinh doanh và cùng sử dụng các dấu hiệu nhận biết thương nhân, nhượng quyền thương mại đã làm cho khách hàng nhận biết theo hướng toàn bộ các cơ sở trong hệ thống nhượng quyền như cùng một chủ sở hữu duy nhất, mặc dù về bản chất họ là các thương nhân độc lập nhau cả về mặt pháp lý và tài chính. Chẳng hạn, trong hệ thống nhượng quyền cà phê Trung Nguyên, khi khách hàng uống một ly cà phê Trung Nguyên ở Hà Nội hay sử dụng sản phẩm ở một cơ sở tại Thành phố Hồ Chí Minh thì đều được phục vụ với cùng một cách thức, cùng chất lượng sản phẩm như nhau, mặc dù hai cơ sở này hoàn toàn độc lập nhau về mặt tư cách pháp lý, tài chính. Mặc dù vậy, ở khía cạnh là người tiêu dùng, khách hàng thường nhận diện theo hướng tất cả các cơ sở trong hệ thống nhượng quyền đều cùng một chủ sở hữu. Với dấu hiệu nhận biết như trên, nếu một bên nhận quyền cung cấp sản phẩm không đảm bảo chất lượng, người tiêu dùng sẽ mất niềm tin vào toàn bộ hệ thống nhượng quyền. Mặc dù sự đồng bộ trong quan hệ nhượng quyền chỉ là sự đồng bộ tương đối, không phải là sự đồng bộ một cách tuyệt đối, mức độ đồng bộ sẽ phụ thuộc vào chính sách của mỗi hệ thống nhượng quyền. Tuy nhiên, dù mức độ đồng bộ như thế nào thì với sự nhận biết của khách hàng như trên, việc thiết lập và vận hành hệ thống nhượng quyền một cách đồng bộ là một trong những yếu tố đảm bảo sự tồn tại và phát triển bền vững của hệ thống nhượng quyền. Để đảm bảo tính đồng bộ của hệ thống nhượng quyền, bên nhượng quyền thường có những hoạt động nhằm thường xuyên trợ giúp, hỗ trợ cho bên nhận quyền trong suốt quá trình kinh doanh như trợ giúp về mặt kỹ thuật, đào tạo, huấn luyện kỹ năng kinh doanh cho bên nhận quyền. Bốn là, nhượng quyền thương mại là hoạt động thường chứa đựng các yếu tố dẫn đến hành vi hạn chế cạnh tranh
  • 12. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149 Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149 Không thể phủ nhận được thực tế là các chủ thể kinh doanh trong nền kinh tế thị trường luôn hướng tới lợi nhuận thông qua hoạt động cạnh tranh. Chính vì vậy, trong bất kỳ hoạt động thương mại nào cũng luôn tiềm ẩn xu thế này và hoạt động nhượng quyền thương mại cũng không phải là ngoại lệ. Điều này được thể hiện ở chỗ, các bên trong hệ thống nhượng quyền là các chủ thể độc lập nhau về mặt tư cách pháp lý và tài chính, trong khi họ lại cùng kinh doanh một loại sản phẩm theo một phương thức như nhau, dẫn tới họ cùng tiếp cận chung một đối tượng khách hàng. Như một quy luật, để thu hút khách hàng về phía mình, các bên trong hệ thống nhượng quyền sẽ tìm mọi cách cạnh tranh với nhau trên mọi phương diện (như: giá cả, chất lượng, phương thức cung ứng dịch vụ, chế độ chăm sóc khách hàng…), khi đó tính đồng bộ trong hệ thống nhượng quyền thương mại có khả năng bị phá vỡ. Chính vì vậy, nếu giữa các bên không có ràng buộc nhằm cấm hoặc hạn chế cạnh tranh trong hệ thống thì đương nhiên hành vi cạnh tranh giữa các bên trong hệ thống nhượng quyền sẽ tất yếu phát sinh và tính đồng bộ của hệ thống nhượng quyền theo đó cũng không giữ vững được. Do nhận thức được khả năng và nhu cầu cạnh tranh giữa các bên trong hệ thống nhượng quyền là tất yếu, khách quan nên khi thiết lập quan hệ nhượng quyền, các bên thường có những hành vi nhằm hạn chế cạnh tranh giữa các bên trong hệ thống. Để viện dẫn cho tính hợp lý của các hành vi hạn chế cạnh tranh này, các bên thường vin vào lý do nhằm đảm bảo tính đồng bộ trong toàn bộ hệ thống nhượng quyền để lẩn tránh sự kiểm soát của pháp luật cạnh tranh. Với sự tồn tại của cạnh tranh và hành vi hạn chế cạnh tranh giữa các bên trong hệ thống nhượng quyền diễn ra một cách phổ biến và khách quan như trên, đặt ra nhu cầu điều tiết hành vi cạnh tranh của pháp luật nhằm đảm bảo môi trường cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng trong quan hệ nhượng quyền thương mại.
  • 13. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149 Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149 2.2. Hành vi hạn chế cạnh tranh và yếu tố làm phát sinh hành vi hạn chế cạnh tranh trong hoạt động nhƣợng quyền thƣơng mại Theo nghĩa rộng, hành vi hạn chế cạnh tranh trong hoạt động nhượng quyền thương mại bao gồm hai nhóm hành vi: (i) Hành vi hạn chế cạnh tranh được thiết lập giữa các bên trong hệ thống nhượng quyền với các đối thủ cạnh tranh khác ngoài hệ thống và (ii) Hành vi hạn chế cạnh tranh được thiết lập từ hoặc giữa các bên trong hệ thống nhượng quyền. Ở nhóm hành vi hạn chế cạnh tranh thứ nhất, thông thường không xuất phát từ bản chất của hoạt động nhượng quyền, không hướng tới bảo vệ tính đồng bộ của hệ thống nhượng quyền, vì vậy sẽ được điều chỉnh theo những quy định của pháp luật cạnh tranh nói chung. Ở nhóm hành vi hạn chế cạnh tranh thứ hai, là hành vi gây hạn chế cạnh tranh giữa các bên trong hệ thống nhượng quyền hoặc làm mất khả năng lựa chọn đối tác của các bên nhận quyền, thường xuất phát từ bản chất của hoạt động nhượng quyền thì cần phải nghiên cứu một cách thấu đáo để điều chỉnh theo quy định chung của pháp luật cạnh tranh hay cần phải có những quy định riêng biệt để điều chỉnh. Trong phạm vi luận án này, tác giả tiếp cận hành vi hạn chế cạnh tranh trong hoạt động nhượng quyền thương mại thuộc nhóm thứ hai, dưới khía cạnh là hành vi hạn chế cạnh tranh giữa các bên trong một hệ thống nhượng quyền xác định, bao gồm hành vi hạn chế cạnh tranh giữa bên nhượng quyền với bên nhận quyền và hành vi hạn chế cạnh tranh giữa các bên nhận quyền với nhau trong cùng hệ thống nhượng quyền. 2.2.1. Khái niệm hành vi hạn chế cạnh tranh Khái niệm cạnh tranh được cuốn Black Law Dictionary miêu tả là “sự nỗ lực hoặc hành vi của hai hay nhiều thương nhân nhằm cạnh tranh giành những lợi ích giống nhau từ chủ thể thứ ba [12, tr.278]. Ở khía cạnh kinh tế, cạnh tranh giúp cho nền kinh tế vận động và phát triển, chất lượng sản phẩm sẽ ngày được nâng cao với giá thành hợp lý dưới sự điều phối của
  • 14. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149 Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149 các quy luật cung - cầu. Tuy nhiên, một hành vi cạnh tranh thái quá, có thể dẫn đến triệt tiêu, giảm bớt cạnh tranh lại ảnh hưởng tiêu cực cho nền kinh tế, nhóm hành vi này được gọi là hành vi hạn chế cạnh tranh, là hành vi luôn hướng tới việc hình thành một sức mạnh thị trường hoặc tận dụng sức mạnh thị trường để làm cho tình trạng cạnh tranh trên thị trường bị biến dạng [8, tr.25]. Chính vì vậy, cạnh tranh là hiện tượng tất yếu và cần thiết trong nền kinh tế, thiếu vắng cạnh tranh, nền kinh tế sẽ khó vận hành, phát triển. Với bản chất như trên, pháp luật của hầu hết các quốc gia trên thế giới đều có những quy định nhằm bảo vệ cạnh tranh, đảm bảo để hành vi cạnh tranh tồn tại theo đúng quy luật thị trường. Theo pháp luật cạnh tranh của Việt Nam tại Khoản 3, Điều 3, Luật Cạnh tranh 2004, hành vi hạn chế cạnh tranh là "hành vi của doanh nghiệp làm giảm, sai lệch, cản trở cạnh tranh trên thị trường, bao gồm hành vi thoả thuận hạn chế cạnh tranh, lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, lạm dụng vị trí độc quyền và tập trung kinh tế”. Dưới góc độ kinh tế, cạnh tranh là yếu tố tất yếu trong nền kinh tế thị trường, thúc đẩy các thương nhân phải tìm mọi cách giành giật thị trường thông qua việc nỗ lực cung cấp các sản phẩm tốt với giá cả phải chăng, với các nỗ lực không ngừng như vậy, nhiều sản phẩm mới ra đời với chi phí thấp và giá cả có lợi cho người tiêu dùng, phúc lợi xã hội vì vậy cũng tăng cao và nền kinh tế nhờ vậy sẽ có động lực để phát triển. Có thể nói, ý nghĩa ngắn gọn của cạnh tranh là “động lực phát triển cho nền kinh tế”. Chính vì vậy, về lý thuyết, một nền kinh tế không có cạnh tranh sẽ là nền kinh tế “chết”, không phát triển. Tuy nhiên, trên thực tế, sự tồn tại của cạnh tranh là khách quan, chỉ có điều ở các giai đoạn khác nhau thì mức độ cạnh tranh và mức độ ảnh hưởng của cạnh tranh tới nền kinh tế là khác nhau. Nhận thức rõ vai trò của cạnh tranh như vậy, Luật Cạnh tranh các nước đều tăng cường bảo vệ cạnh tranh thông qua việc kiểm soát các hành vi có khả năng làm giảm, sai lệch hoặc triệt tiêu năng
  • 15. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149 Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149 lực cạnh tranh của các thương nhân (hành vi hạn chế cạnh tranh). Các hành vi này được chia thành hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, lạm dụng vị trí thống lĩnh/vị trí độc quyền và tập trung kinh tế. Bên cạnh đó, những hành vi cạnh tranh trái với các chuẩn mực thông thường về đạo đức kinh doanh, gây thiệt hại hoặc có thể gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp khác hoặc người tiêu dùng (hành vi cạnh tranh không lành mạnh) cũng được pháp luật cạnh tranh Việt Nam ghi nhận như là những yếu tố xâm phạm đến môi trường cạnh tranh cần kiểm soát. Hiện nay có rất nhiều tiêu chí để phân loại hành vi hạn chế cạnh tranh, tuy nhiên, cách phân loại phổ biến hiện nay là dựa vào thái độ của nhà nước đối với hành vi hạn chế cạnh tranh mà chia hành vi hạn chế cạnh tranh thành hai loại sau đây: (1) Hành vi hạn chế cạnh tranh hợp pháp: Đây là hành vi cạnh tranh của các chủ thể kinh doanh nhằm mở rộng thị trường mà không xâm hại hoặc ít xâm hại đến khả năng cạnh tranh, khả năng gia nhập thị trường của các chủ thể kinh doanh khác. Với bản chất như vậy, hành vi cạnh tranh loại này luôn được pháp luật khuyến khích và bảo vệ, cho phép. (2) Hành vi hạn chế cạnh tranh không hợp pháp: Là hành vi cạnh tranh của các chủ thể kinh doanh nhằm mở rộng thị trường mà hậu quả của hành vi là xâm hại nghiêm trọng hoặc có khả năng xâm hại nghiêm trọng đến năng lực cạnh tranh, khả năng gia nhập thị trường của các chủ thể kinh doanh khác, thông qua đó sẽ ảnh hưởng đến sự phát triển của nền kinh tế. Về cơ bản, tất cả hành vi cạnh tranh đều bị pháp luật kiểm soát thông qua việc vạch ra ranh giới để xác định một hành vi cạnh tranh là hợp pháp hay bất bợp pháp. Vượt ra khỏi ranh giới đó, pháp luật sẽ ngăn cấm và có biện pháp xử lý thích hợp.
  • 16. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149 Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149 2.2.2. Các yếu tố làm phát sinh hành vi hạn chế cạnh tranh trong hoạt động nhượng quyền thương mại 2.2.2.1. Nhu cầu tối đa hóa lợi nhuận và mở rộng thị trường của các thương nhân trong hệ thống nhượng quyền Dưới khía cạnh cạnh tranh, có thể nói, bất kỳ một thương nhân nào khi gia nhập thị trường đều mong muốn tạo lập và nâng cao năng lực thị thường, từ đó “lôi kéo” được khách hàng về phía mình. Mong muốn này về bản chất là chính đáng, bởi lẽ khi thực hiện bất cứ hoạt động kinh doanh nào, các thương nhân đều muốn thu về thật nhiều lợi nhuận, vì vậy, một khi “miếng bánh thị phần” rộng lớn thì lợi nhuận của họ mới được tăng cao. Để mở rộng thị trường, hai yếu tố cơ bản sẽ được sử dụng chủ yếu để chi phối sự lựa chọn của khách hàng, đó là yếu tố về giá và chất lượng sản phẩm. Theo đó, nếu một sản phẩm có chất lượng tốt với giá cả phải chăng sẽ dễ dàng được khách hàng chấp nhận. Ở cấp độ đơn giản, việc tạo dựng năng lực thị trường có thể xuất phát từ việc tác động vào từng yếu tố (chất lượng tăng hoặc giá giảm), ở cấp độ cao hơn, các thương nhân có thể vừa tăng chất lượng (bằng cách tạo ra sự khác biệt, tạo ra nhiều tính năng, công dụng của sản phẩm…) vừa giảm giá thành sản phẩm để tăng tính hấp dẫn đối với khách hàng. Trong hoạt động nhượng quyền thương mại, các bên nhượng quyền và nhận quyền đều là những thương nhân độc lập, lại cùng kinh doanh một loại sản phẩm theo cùng một phương thức như nhau, chính vì vậy khi mà sản phẩm là giống nhau, nhu cầu chiếm lĩnh thị trường về phía mình lớn thì khả năng thực hiện các hành vi cạnh tranh để giành lợi thế cạnh tranh, thu hút khách hàng về phía mình là điều luôn luôn tồn tại trong ý thức của các bên trong hệ thống nhượng quyền. Tuy nhiên, do kinh doanh cùng một sản phẩm theo một phương thức như nhau, việc sáng tạo trong quá trình kinh doanh theo phương thức nhượng quyền là điều không thể tồn tại trong hoạt động nhượng quyền, chính vì vậy, các hành vi hạn chế cạnh tranh dưới
  • 17. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149 Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149 dạng phân chia thị trường tiêu thụ thường xuất hiện như một nhu cầu tất yếu trong hoạt động nhượng quyền. Chính vì vậy, có thể khẳng định, hành vi cạnh tranh là hành vi tồn tại tất yếu, khách quan trong bất kỳ một quan hệ thương mại nào, trong đó, nhượng quyền thương mại không phải là một ngoại lệ. 2.2.2.2. Yêu cầu đảm bảo tính đồng bộ trong hệ thống nhượng quyền Nhượng quyền thương mại là một hoạt động thương mại tương đối đặc thù so với các hoạt động thương mại thông thường khác. Tính đặc thù thể hiện ở chỗ mặc dù các bên là các thương nhân độc lập với nhau về mặt tư cách pháp lý và tài chính, sở hữu các cơ sở kinh doanh khác nhau nhưng lại kinh doanh cùng một sản phẩm như nhau, với việc cùng sử dụng tất cả các dấu hiệu nhận biết thương nhân (tên thương mại, nhãn hiệu, bí quyết kỹ thuật, khẩu hiệu kinh doanh…). Vì lẽ này mà trong con mắt khách hàng, tất cả các cơ sở nhượng quyền đều có cùng chung một chủ sở hữu với chất lượng, chính sách bán hàng như nhau. Do vậy, nếu một bên trong hệ thống nhượng quyền cung cấp sản phẩm kém chất lượng (so với yêu cầu của bên nhượng quyền) sẽ làm cho khách hàng đánh giá sản phẩm của toàn bộ hệ thống nhượng quyền đó không tốt, làm ảnh hưởng đến quyết định tiếp tục sử dụng sản phẩm trong tương lai của khách hàng. Để hạn chế rủi ro trên cũng như nhằm tăng mức độ thành công của phương thức kinh doanh nhượng quyền, trong quan hệ nhượng quyền bên nhượng quyền thường có những hành vi nhằm kiểm soát chất lượng và giá cả của các bên nhận quyền trong hệ thống, bởi đây là hai yếu tố chủ yếu có khả năng làm chệch hướng tính đồng bộ của hệ thống nhượng quyền. Theo đó, bên nhượng quyền thường buộc bên nhận quyền phải chấp nhận những điều khoản nhất định khi giao kết hợp đồng, như: giới hạn về địa điểm kinh doanh, hạn chế về giá, buộc bên nhận quyền phải mua các nguyên vật liệu đầu vào từ bên nhượng quyền hay bên thứ ba được chỉ định… Xét trên bình
  • 18. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149 Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149 diện pháp luật hạn chế cạnh tranh thì những điều khoản này chính là những điều khoản hạn chế cạnh tranh. Về nguyên lý chung, hành vi hạn chế cạnh tranh ở một mức độ nhất định sẽ có khả năng triệt tiêu cạnh tranh, đi ngược lại với quy luật chung của thị trường. Tuy nhiên, trong quan hệ nhượng quyền thương mại, nếu không thừa nhận hành vi hạn chế cạnh tranh ở một số trường hợp nhất định sẽ làm cho các bên không dám “dấn thân” vào một quan hệ mà sự sụp đổ của toàn bộ hệ thống luôn luôn “rình rập” bởi hành vi tự do cạnh tranh của các bên có khả năng làm lệch chuẩn tính “đồng bộ” của hệ thống nhượng quyền. Chính vì vậy, sự tồn tại của hành vi hạn chế cạnh tranh trong một số trường hợp nhất định sẽ giúp cho các bên trong quan hệ nhượng quyền yên tâm kinh doanh, kể cả các bên đang dự định kinh doanh theo phương thức nhượng quyền cũng sẽ tự tin lựa chọn một phương thức kinh doanh đầy tiềm năng này. 2.2.2.3. Bản chất kinh tế của mối quan hệ Mối quan hệ ở đây được hiểu là mối quan hệ giữa các bên trong hệ thống nhượng quyền. Trong hoạt động nhượng quyền thương mại, sự xuất hiện của cạnh tranh giữa các bên trong hệ thống (giữa bên nhượng quyền với bên nhận quyền, giữa các bên nhận quyền với nhau) là tất yếu, khách quan. Mặc dù, nhìn bề ngoài ở cấp độ hệ thống nhượng quyền, khi mà các bên trong quan hệ nhượng quyền thương mại cùng kinh doanh theo một phương thức duy nhất, sản phẩm, chất lượng đồng bộ nhau, thậm chí giá cả tương đồng nhau thì họ không phải là đối thủ cạnh tranh. Tuy nhiên, ở khía cạnh bản chất, trong nội bộ hệ thống, họ là các thương nhân độc lập về mặt tài chính và pháp lý, các bên trong hệ thống nhượng quyền đều mong muốn tăng cường lợi nhuận, đặc biệt khi kinh doanh cùng một sản phẩm, họ lại càng có cùng đối tượng khách hàng như nhau, nếu khách hàng sử dụng sản phẩm của một bên thì các bên còn lại trong hệ thống sẽ không còn cơ hội
  • 19. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149 Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149 cung ứng được sản phẩm cho khách hàng đó nữa. Chính vì vậy, ở khía cạnh nhất định, họ đều là đối thủ cạnh tranh của nhau. Bên cạnh đó, khi mà tính đồng bộ xuyên suốt trong toàn bộ hệ thống nhượng quyền, thì nhu cầu tất yếu xuất hiện trong ý chí của các bên là, không một hành vi cạnh tranh nào được cho phép trong quan hệ nhượng quyền. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là, cạnh tranh về bản chất tồn tại trong nội tại giữa các bên. Chính vì vậy, để đạt được tính đồng bộ của hệ thống, các bên trong quan hệ nhượng quyền phải cùng nhau cam kết không cạnh tranh trong hệ thống dưới dạng những thỏa thuận liên quan đến giá bán sản phẩm mà hệ thống nhượng quyền cung ứng, thỏa thuận về nguồn cung cấp nguyên vật liệu cho bên nhận quyền, thỏa thuận độc quyền lãnh thổ…. Như vậy, trước khi đạt đến tính đồng bộ, các bên đã phải có những thỏa thuận, ràng buộc mang tính chất hạn chế cạnh tranh. Như vậy, có thể khẳng định, xu hướng hạn chế cạnh tranh là hiện tượng tồn tại trong tất cả các hoạt động thương mại, kể cả quan hệ nhượng quyền và cần phải được điều chỉnh bởi pháp luật cạnh tranh. Tuy nhiên, với bản chất của quan hệ nhượng quyền thương mại như đã phân tích trên, việc điều tiết của nhà nước cần phải có những đặc thù nhất định. 2.2.3. Nhận diện hành vi hạn chế cạnh tranh trong hoạt động nhượng quyền thương mại Dưới khía cạnh kinh tế, cạnh tranh là hành vi của các đối thủ cùng kinh doanh các sản phẩm có khả năng thay thế được cho nhau và có cùng chung một nhóm đối tượng khách hàng trong một khu vực địa lý nhất định. Trong một thị trường với số lượng khách hàng ổn định (cầu) các nhà sản xuất, cung ứng (cung) luôn tìm cách thực hiện những hành vi nhằm thu hút khách hàng về phía mình, thông qua đó, nâng cao thị phần và khả năng ảnh hưởng tới thị trường. Để có thể thu được nhiều lợi nhuận, các đối thủ cạnh tranh thường lựa chọn một trong hai cách: (i) Cạnh tranh lành mạnh theo
  • 20. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149 Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149 kiểu truyền thống (nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm giá thành…) và (ii) thực hiện những hành vi phản cạnh tranh (làm cho cạnh tranh không còn tồn tại hoặc giảm bớt cạnh tranh), đẩy bất lợi về phía xã hội, người tiêu dùng và tối đa hóa lợi nhuận về phía các nhà cung cấp bằng cách thỏa thuận không cạnh tranh giữa các đối thủ cạnh tranh nhằm làm cho người tiêu dùng không có cơ hội lựa chọn, so sánh về giá, chất lượng hoặc ngăn cản, kìm hãm các đối thủ cạnh tranh khác, ép buộc các chủ thể khác phải tham gia giao dịch… Nhóm hành vi thứ nhất được pháp luật khuyến khích và bảo hộ. Nhóm hành vi thứ hai (hành vi phản cạnh tranh) pháp luật của các quốc gia trên thế giới cũng như Việt Nam thường có sự kiểm soát chặt chẽ, theo đó, những hành vi có dấu hiệu triệt tiêu, hạn chế, bóp méo cạnh tranh nếu gây hoặc có khả năng gây ra ảnh hưởng tiêu cực nghiêm trọng đến thị trường đều bị pháp luật ngăn cấm, trường hợp hành vi cạnh tranh đó nếu có những lợi ích khác bù lại thì có thể được xem xét cho hưởng miễn trừ. Để xác định khả năng ảnh hưởng nghiêm trọng của nhóm hành vi thứ hai, pháp luật Việt Nam và các quốc gia khác trên thế giới thường dựa vào một trong hai yếu tố (thị phần/thị phần kết hợp trên thị trường liên quan của chủ thể thực hiện hành vi hoặc khả năng ảnh hưởng nghiêm trọng của hành vi đến thị trường) để quyết định cho phép hay ngăn cấm các hành vi phản cạnh tranh nêu trên. Ở một chừng mực nhất định, nhóm hành vi thứ hai (mà cụ thể là hành vi hạn chế cạnh tranh) cũng có những lợi ích nhất định cho nền kinh tế như giúp các chủ thể kinh doanh có quy mô và thị phần nhỏ có thể phối hợp với nhau để nâng cao năng lực cạnh tranh trên thị trường trước những đối thủ cạnh tranh lớn, thông qua đó thúc đẩy cạnh tranh trên thị trường tốt hơn. Ở khía cạnh kinh tế, sự kết hợp cùng hành động giữa các doanh nghiệp góp phần tạo ra sức mạnh kinh doanh và sức cạnh tranh tập thể cho các thành viên của thỏa thuận. Sức mạnh đó đặc biệt có ý nghĩa đối
  • 21. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149 Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149 với các doanh nghiệp nhỏ trong môi trường cạnh tranh khốc liệt mà ở đó các doanh nghiệp nhỏ luôn ở vào vị trí bất lợi, làm ăn khó khăn, thậm chí bị phá sản, là nguyên nhân hình thành các thế lực độc quyền của thị trường [5, tr.65]. Chẳng hạn, trong bức tranh tổng thể của thị trường nếu có nhiều đối thủ cạnh tranh, trong đó có một đối thủ cạnh tranh đạt tới ngưỡng trên 70% thị phần thì khả năng cạnh tranh của các đối thủ cạnh tranh nhỏ trước doanh nghiệp có thị phần lớn là rất khó. Trong trường hợp này, việc các doanh nghiệp nhỏ liên kết lại với nhau bằng cách hạn chế cạnh tranh giữa các doanh nghiệp nhỏ để cùng nâng cao sức cạnh tranh trước doanh nghiệp lớn lại có tác động thúc đẩy cạnh tranh mạnh mẽ hơn trên thị trường. Trong trường hợp này, mặc dù có hiện tượng hạn chế cạnh tranh giữa các doanh nghiệp nhỏ những lại tạo ra động lực cạnh tranh lớn hơn trong tổng thể thị trường thì pháp luật cạnh tranh của hầu hết các quốc gia đều không ngăn cấm. Trong quan hệ nhượng quyền thương mại, có hai nguyên nhân khiến cho hành vi hạn chế cạnh tranh giữa các bên trong hệ thống nhượng quyền thương mại xuất hiện: Một là, với bản chất của thương nhân luôn hướng tới mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận, các bên trong hoạt động nhượng quyền giống như các chủ thể kinh doanh thông thường khác thường thực hiện những hành vi hạn chế cạnh tranh. Theo đó, thay vì thực hiện những hành vi cạnh tranh nhằm nâng cao chất lượng, hạ giá thành sản phẩm, các đối thủ cạnh tranh lại phối hợp với nhau để đẩy thị trường vào trạng thái không cạnh tranh với nhau nhằm bóc lột khách hàng và triệt tiêu động lực phát triển cho nền kinh tế bằng cách thỏa thuận về giá sản phẩm, phân chia thị trường tiêu thụ, hạn chế sản xuất kinh doanh…. Trong trường hợp này, hành vi hạn chế cạnh tranh của các bên trong hệ thống nhượng quyền chỉ có một mục tiêu duy
  • 22. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149 Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149 nhất là nhằm tối đa hóa lợi nhuận mà không có lý do chính đáng, đẩy bất lợi về phía người tiêu dùng. Hai là, với bản chất của phương thức kinh doanh luôn hướng tới và đảm bảo tính đồng bộ trong hệ thống nhượng quyền. Nếu các chủ thể kinh doanh trong hệ thống thực hiện hành vi cạnh tranh riêng lẻ theo cách truyền thống (như thực hiện các hành vi nhằm tác động vào giá và chất lượng sản phẩm để thu hút người tiêu dùng) thì tính đồng bộ trong kinh doanh theo phương thức nhượng quyền trong toàn bộ hệ thống có khả năng không được đảm bảo. Chẳng hạn, để thu hút khách hàng, các bên trong hệ thống nhượng quyền có thể thay đổi một số chính sách về sản phẩm cũng như chính sách đối với khách hàng, lúc này bản chất của hoạt động nhượng quyền thương mại (là kinh doanh theo cách thức của bên nhượng quyền không được đảm bảo) hoặc vì lý do chạy theo lợi nhuận, các bên trong hệ thống có thể giảm bớt một số yếu tố trong đầu tư, tìm nguồn hàng giá rẻ với chất lượng không tốt, tăng/giảm giá thành sản phẩm không theo chính sách giá của bên nhượng quyền…. Tất cả những hành vi này đều dẫn đến sự khác biệt trong kinh doanh giữa các bên trong hệ thống nhượng quyền, lúc này, hoạt động kinh doanh này không còn bản chất của phương thức kinh doanh nhượng quyền nữa (không còn là phương thức nhân rộng mô hình kinh doanh). Chính vì vậy, để đảm bảo tính đồng bộ trong toàn bộ hệ thống nhượng quyền, các bên trong hệ thống không còn cách nào khác hữu hiệu hơn là kiểm soát lẫn nhau hoặc không cho tồn tại những hành vi cạnh tranh có khả năng làm mất đi đến tính đồng bộ của hệ thống nhượng quyền như chỉ định nguồn cung cấp hàng hóa/nguyên liệu cho bên nhận quyền, thỏa thuận phân chia lãnh thổ, áp đặt giá bán… Ở khía cạnh này, có thể thấy, những hành vi hạn chế cạnh tranh như trên lại được coi như là “cứu cánh” cho các bên trong hệ thống nhượng quyền trong xu thế cạnh tranh tất yếu giữa các thương nhân
  • 23. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149 Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149 trong hệ thống. Nói cách khác, nếu thiếu những hành vi hạn chế cạnh tranh này, nhượng quyền thương mại sẽ khó mà tồn tại và phát triển. Như vậy, trong quan hệ nhượng quyền thương mại, quan điểm về kiểm soát hành vi hạn chế cạnh tranh đứng trước mâu thuẫn lớn: Nếu kiểm soát theo đúng nguyên tắc chung của cạnh tranh đối với những hành vi hạn chế cạnh tranh nhằm mục đích đảm bảo tính đồng bộ trong toàn bộ hệ thống, hoạt động nhượng quyền thương mại sẽ khó có thể tồn tại và phát triển do không thể duy trì được bản chất kinh doanh theo một cách thức duy nhất của hoạt động nhượng quyền. Chính vì vậy, hệ thống pháp luật cũng cần phải tính đến những ngoại lệ hợp lý nhằm ghi nhận những hành vi hạn chế cạnh tranh đặc thù trong phương thức kinh doanh nhượng quyền thương mại. Về mặt hình thức của hành vi hạn chế cạnh tranh, có thể chỉ ra ba nhóm hành vi hạn chế cạnh tranh sau: một là, hành vi thoả thuận hạn chế cạnh tranh; hai là, lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, lạm dụng vị trí độc quyền và ba là, tập trung kinh tế. Tuy nhiên, trong quan hệ nhượng quyền thương mại, có thể khẳng định tập trung kinh tế là không xảy ra, bởi lẽ, khi nói đến tập trung kinh tế, nghĩa là nói đến các hành vi như (i) Sáp nhập doanh nghiệp; (ii) Hợp nhất doanh nghiệp; (iii) Mua lại doanh nghiệp; (iv) Liên doanh giữa các doanh nghiệp. Tuy nhiên, trong quan hệ nhượng quyền thương mại, các bên là các chủ thể độc lập nhau về mặt tư cách pháp lý và tài chính, chỉ chuyển giao cho nhau quyền thương mại để cùng nhau kinh doanh theo phương thức nhượng quyền, không xuất hiện việc chuyển tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp nhượng quyền sang doanh nghiệp nhận quyền hoặc ngược lại (sáp nhập), cũng không làm phát sinh hay chấm dứt sự tồn tại của bất kỳ doanh nghiệp nào (hợp nhất), cũng không xuất hiện việc mua toàn bộ hoặc một phần tài sản của doanh nghiệp khác đủ để kiểm soát, chi phối toàn bộ hoặc một ngành
  • 24. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149 Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149 nghề của doanh nghiệp bị mua lại (mua lại doanh nghiệp), không xuất hiện việc cùng nhau góp một phần tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của mình để hình thành một doanh nghiệp mới (liên doanh). Chính vì vậy, đặt trong giới hạn phạm vi nghiên cứu của Luận án, hành vi hạn chế cạnh tranh trong quan hệ nhượng quyền thương mại thường tồn tại ở hai nhóm cơ bản: (i) thỏa thuận hạn chế cạnh tranh và (ii) lạm dụng vị trí thống lĩnh, vị trí độc quyền trên thị trường. Quan điểm này cũng được nhiều các nhà khoa học trực tiếp hoặc gián tiếp thừa nhận trong các công trình nghiên cứu, thông qua việc chỉ ra các hành vi hạn chế cạnh tranh dưới dạng thỏa thuận hạn chế cạnh tranh như: “thỏa thuận phân chia khu vực kinh doanh”, “thỏa thuận phân phối và cung ứng độc quyền”, “thỏa thuận mua bán cả gói”, “thỏa thuận giá bán lại”, “thỏa thuận kiểm soát số lượng đầu vào - đầu ra của sản phẩm", “thỏa thuận liên quan đến duy trì tính thống nhất và đồng bộ của hệ thống nhượng quyền”, “ràng buộc bán kèm” [2], [4], [6], [7], [39]. Dù các tác giả gọi tên hành vi có khác nhau, nhưng tựu trung lại, những hành vi trên đều thuộc một trong hai nhóm hành vi: Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh và lạm dụng vị trí thống lĩnh, vị trí độc quyền trên thị trường. (1) Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh: Là những thỏa thuận giữa ít nhất hai bên trong hệ thống nhượng quyền nhằm làm sai lệch, cản trở cạnh tranh. Hậu quả tác động đến cạnh tranh của hành vi này không chỉ giới hạn trong phạm vi hệ thống nhượng quyền mà có thể gây cản trở cạnh tranh đối với các chủ thể kinh doanh khác ngoài hệ thống. Cụ thể, hành vi này không chỉ gây hạn chế cạnh tranh đối với đối thủ cạnh tranh của hệ thống nhượng quyền; đối thủ cạnh tranh của từng thành viên trong hệ thống mà còn có khả năng gián tiếp ảnh hưởng đến trật tự cạnh tranh của các thị trường khác. Sự tác động cụ thể của hành vi này sẽ được phân tích cụ thể tại chương 3, khi nghiên cứu thực trạng pháp luật về các hành vi thỏa thuận
  • 25. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149 Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149 hạn chế cạnh tranh cụ thể. Khác với các hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh, vị trí độc quyền trên thị trường (thường là hành vi mang tính chất áp đặt đơn phương từ phía bên nhượng quyền đối với bên nhận quyền, tất nhiên, không thể phủ nhận trong một số trường hợp vẫn có sự kết hợp của các bên nhận quyền hoặc sự kết hợp giữa bên nhượng quyền với bên nhận quyền để thực hiện hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh, độc quyền thị trường), hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh luôn có sự tham gia thỏa thuận của cả bên nhượng quyền và bên nhận quyền hoặc giữa các bên nhận quyền với nhau. Mục đích các bên hướng tới khi thực hiện hành vi này có thể gây hạn chế/loại bỏ cạnh tranh giữa các bên trong hệ thống nhượng quyền hoặc của các đối thủ cạnh tranh khác ngoài hệ thống. Thông thường, mức độ tác động của hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh trong quan hệ nhượng quyền thương mại thường rộng lớn hơn và khả năng hạn chế cạnh tranh thường nghiêm trọng hơn so với các hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường của bên nhượng quyền. Về hình thức thể hiện, các thoả thuận hạn chế cạnh tranh thường được phân thành 2 loại: (i) thoả thuận ngang - giữa các chủ thể kinh doanh trong cùng một giai đoạn của chu trình sản xuất; (ii) thoả thuận dọc - giữa các chủ thể kinh doanh nằm ở các giai đoạn khác nhau trong chu trình sản xuất. Xét dưới khía cạnh mạng lưới phân phối sản phẩm, trong quan hệ nhượng quyền, thông thường, bên nhượng quyền sẽ tồn tại hai tư cách vừa là nhà sản xuất/cung ứng dịch vụ, vừa là nhà phân phối hàng hoá/dịch vụ. Tương tự, bên nhận quyền cũng có thể tồn tại đồng thời cả hai tư cách như trên giống như bên nhượng quyền (trừ hình thức nhượng quyền thương mại phân phối). Với sự tham gia trong các tư cách khác nhau như trên, thỏa thuận hạn chế cạnh tranh trong quan hệ nhượng quyền thương
  • 26. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149 Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149 mại có thể phát sinh giữa các bên trong quan hệ nhượng quyền trong các trường hợp sau:  Trong hình thức nhượng quyền thương mại phân phối: Là trường hợp bên nhận quyền được phép phân phối những hàng hoá, sản phẩm do bên nhượng quyền sản xuất hoặc kinh doanh dưới bảng hiệu của bên nhượng quyền. Trong trường hợp này, thỏa thuận hạn chế cạnh tranh giữa bên nhượng quyền và bên nhận quyền sẽ bao gồm: (i) Thỏa thuận theo chiều dọc, giữa bên nhượng quyền (với tư cách là nhà sản xuất) và bên nhận quyền (với tư cách là nhà phân phối) và (ii) thỏa thuận hạn chế theo chiều ngang giữa các nhà phân phối với nhau, bởi lẽ, cả bên nhượng quyền và bên nhận quyền đều đồng thời cung ứng sản phẩm ra thị trường cho người tiêu dùng.  Đối với hình thức nhượng quyền thương mại sản xuất hoặc nhượng quyền thương mại dịch vụ: Là trường hợp bên nhượng quyền cho phép bên nhận quyền được quyền sản xuất hàng hoá, sản phẩm/cung ứng dịch vụ theo đúng những tiêu chuẩn và được gắn tên thương mại, nhãn hiệu hàng hoá cũng như logo, biểu tượng do bên nhượng quyền làm chủ sở hữu. Trong trường hợp này, thỏa thuận hạn chế cạnh tranh giữa bên nhượng quyền và bên nhận quyền có thể là thỏa thuận hạn chế cạnh tranh theo chiều ngang giữa (i) các nhà sản xuất với nhau hoặc (ii) giữa các nhà phân phối sản phẩm với nhau. Tuy nhiên, cần phải khẳng định rằng, trên thực tế, không có hình thức nhượng quyền nào tồn tại một cách độc lập, hầu hết các hình thức nhượng quyền thương mại trong thương mại hiện đại ngày nay thường có sự kết hợp giữa các hình thức với nhau, chẳng hạn như một hệ thống nhượng quyền thương mại có thể kết hợp cả nhượng quyền sản xuất, nhượng quyền thương mại dịch vụ với nhượng quyền thương mại phân phối, hoặc nhượng quyền dịch vụ và nhượng quyền sản xuất với nhau.
  • 27. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149 Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149 Chính vì vậy, trong quan hệ nhượng quyền thương mại, hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh theo chiều ngang và chiều dọc tồn tại trong hầu hết các hệ thống nhượng quyền. Bên cạnh các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh giữa các bên nhượng quyền và nhận quyền với nhau, thỏa thuận hạn chế cạnh tranh cũng có thể tồn tại giữa các bên nhận quyền, trường hợp này, thông thường tồn tại với tính chất là thỏa thuận theo chiều ngang giữa các chủ thể cùng cấp độ trong chuỗi phân phối (cùng là nhà sản xuất hoặc cùng là nhà phân phối). Thông thường, các thoả thuận hạn chế cạnh tranh theo chiều ngang sẽ gây nhiều tác động xấu đến sự vận hành của thị trường hơn là các thoả thuận dọc. Vì các thoả thuận dọc chỉ được thực hiện trong cùng một chu trình sản xuất - phân phối sản phẩm, khả năng hạn chế cạnh tranh của thỏa thuận này phụ thuộc rất nhiều vào sức mạnh cạnh tranh của các đối thủ cạnh tranh của sản phẩm ở các hệ thống phân phối khác. Trong khi đó, trong trường hợp thoả thuận ngang, là sự thỏa thuận giữa các đối thủ cạnh tranh cùng cấp độ (các nhà phân phối với nhau hoặc các nhà sản xuất với nhau) thì mức độ ảnh hưởng thường sẽ lớn hơn. Dựa trên cơ sở này mà pháp luật cạnh tranh ở một số quốc gia chia thỏa thuận hạn chế cạnh tranh theo chiều ngang hoặc dọc nhằm mục đích lựa chọn cách thức xử lý thích hợp đối với mức độ gây cản trở cạnh tranh của mỗi nhóm hành vi. Tuy nhiên, pháp luật cạnh tranh Việt Nam không tiếp cận theo hướng này mà xác định hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh trên cơ sở liệt kê các hành vi cụ thể. Trong phạm vi Luận án này, tác giả lựa chọn tiếp cận theo cách phân loại của pháp luật cạnh tranh Việt Nam. Xem xét mối quan hệ giữa pháp luật điều chỉnh nhượng quyền thương mại và pháp luật cạnh tranh, các thoả thuận hạn chế cạnh tranh có thể xuất hiện dưới các hành vi cụ thể sau đây:
  • 28. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149 Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149  Thoả thuận phân chia thị trường tiêu thụ, nguồn cung cấp hàng hoá, cung ứng dịch vụ: Các thỏa thuận này có thể kết hợp với nhau hoặc tồn tại độc lập trong hợp đồng nhượng quyền thương mại. Các thỏa thuận này thường tồn tại dưới các ràng buộc như không cho phép bên nhận quyền bán hàng hóa cho khách hàng ngoài phạm vi lãnh thổ được chỉ định, ngược lại, bên nhượng quyền cũng cam kết không được tự mình có bất cứ sự hiện diện thương mại nào hoặc nhượng quyền thương mại cho bất kỳ bên nhận quyền nào trong phạm vi lãnh thổ xác định. Hậu quả của thỏa thuận hạn chế cạnh tranh loại này thường dẫn đến sự phân chia thị trường giữa các bên trong hệ thống nhượng quyền (giữa bên nhượng quyền với bên nhận quyền và giữa các bên nhận quyền với nhau)  Thoả thuận về giá bán hàng hóa, dịch vụ: là hành vi thống nhất cùng hành động để áp dụng một mức giá cụ thể, tăng hoặc giảm giá ở một mức giá cụ thể hoặc bất cứ hành vi nào dẫn đến sự thống nhất về giá bán giữa bên nhượng quyền và bên nhận quyền. Hậu quả của hành vi này thường gây ra hạn chế cạnh tranh trong chính hệ thống nhượng quyền hoặc hạn chế cạnh tranh đối với đối thủ cạnh tranh của hệ thống nhượng quyền.  Thỏa thuận ngăn cản, kìm hãm không cho doanh nghiệp khác gia nhập thị trường hoặc phát triển kinh doanh: Với thỏa thuận này, các bên trong quan hệ nhượng quyền thống nhất từ chối mua hàng hoặc bán hàng cho các bên thứ ba nếu như nhận thấy việc mua, bán hàng hoá với bên thứ ba có khả năng gây ra những thiệt hại đối với các bên trong quan hệ nhượng quyền. Tuy nhiên, cần thừa nhận rằng một danh sách không giới hạn các thỏa thuận có tính chất hạn chế cạnh tranh khác ngoài các thỏa thuận được đề cập trên đây vẫn có thể được sáng tạo nằm ngoài phạm vi bao phủ của pháp luật cạnh tranh. Cách thức các thỏa thuận này được áp đặt như thế nào phụ thuộc vào mục đích của bên nhượng quyền, từ việc cần bảo vệ các
  • 29. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149 Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149 quyền liên quan đến sở hữu trí tuệ thuộc bên giao cho đến việc cần duy trì bản sắc và uy tín của hệ thống nhượng quyền hoặc thậm chí là yêu cầu tối đa hóa lợi nhuận của hệ thống. Bởi lẽ các dạng thức khác nhau của thỏa thuận loại này luôn biến đổi theo thời gian và khả năng sáng tạo của các bên, cho nên, bất kỳ nguyên tắc cứng nhắc nào của pháp luật cạnh tranh đều không tránh khỏi khả năng bị vô hiệu hóa. (2) Lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, vị trí độc quyền trên thị trường: Việc nhận diện hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh trong quan hệ nhượng quyền thương mại sẽ phụ thuộc trước hết vào năng lực thị trường của chủ thể thực hiện hành vi. Theo quy định của pháp luật cạnh tranh Việt Nam cũng như pháp luật cạnh tranh của nhiều quốc gia trên thế giới, lạm dụng vị trí thống lĩnh có thể là hành vi của một hoặc một nhóm doanh nghiệp có năng lực thị trường đủ mạnh để gây ảnh hưởng đến cạnh tranh trên thị trường. Theo đó, doanh nghiệp hoặc nhóm doanh nghiệp có năng lực thị trường từ 30% thị phần trên thị trường liên quan trở lên (trường hợp là một doanh nghiệp), từ 50% thị phần trên thị trường liên quan (đối với hai doanh nghiệp), từ 65% thị phần trên thị trường liên quan (đối với ba doanh nghiệp), từ 75% thị phần trên thị trường liên quan (đối với bốn doanh nghiệp) sẽ được coi là có vị trí thống lĩnh thị trường. Trong quan hệ nhượng quyền thương mại, hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường thường là hành vi của bên nhượng quyền và thường tồn tại dưới các hình thức như: (i) Ấn định giá bán lại tối thiểu gây thiệt hại cho bên nhận quyền; (ii) Áp đặt giá bán bất hợp lý đối với bên nhận quyền; (ii) Buộc bên nhận quyền chấp nhận các nghĩa vụ không liên quan trực tiếp đến đối tượng của hợp đồng nhượng quyền thương mại.  Hành vi áp đặt giá bán hàng hóa/dịch vụ bất hợp lý đối với bên nhận quyền: là hành vi của bên nhượng quyền khi đưa ra một mức giá quá
  • 30. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149 Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149 cao đối với bên nhận quyền mà mức giá đó được cho là không phù hợp với quy luật chung của thị trường.  Hành vi ấn định giá bán lại tối thiểu gây thiệt hại cho khách hàng: Là hành vi có thể được áp đặt dưới hình thức ấn định một mức giá trần hoặc mức giá sàn hoặc một mức giá đề nghị không mang tính chất ràng buộc hoặc bất kỳ mức giá đề nghị nào được quảng cáo bởi bên nhượng quyền. Theo đó, bên nhận quyền có nghĩa vụ không bán hàng hóa dưới mức giá sàn hoặc cao hơn mức giá trần hoặc chỉ bán hàng hóa theo mức giá đã ấn định. Các hành vi hạn chế cạnh tranh loại này thường làm giảm cạnh tranh đối với cùng một nhãn hiệu sản phẩm được cung ứng bởi các bên trong phạm vi hệ thống nhượng quyền, thậm chí có thể dẫn đến giảm/sai lệch cạnh tranh giữa các nhãn hiệu sản phẩm khác nhau ngoài phạm vi hệ thống nhượng quyền và làm gia tăng khả năng thông đồng về giá trên thị trường. Chẳng hạn: Trên thị trường liên quan của sản phẩm A có hai nhóm đối thủ cạnh tranh cùng cung ứng: Hệ thống nhượng quyền X và các doanh nghiệp khác không thuộc hệ thống nhượng quyền X (gọi chung là doanh nghiệp Y). Việc bên nhượng quyền ấn định giá bán 20,000VNĐ đối với sản phẩm A trong hệ thống nhượng quyền sẽ dẫn đến các hệ quả sau: (i) tất cả các bên trong hệ thống nhượng quyền X khi cung ứng sản phẩm A trên thị trường đều không được tự do xác định giá nhằm cạnh tranh, thu hút khách hàng sử dụng sản phẩm của mình. Trường hợp này đã gây hạn chế cạnh tranh giữa các bên trong hệ thống nhượng quyền đó khi cung cấp sản phẩm A trên thị trường, người tiêu dùng không có cơ hội được lựa chọn sản phẩm với giá cạnh tranh; (ii) Trường hợp mức giá 20.000VNĐ mà bên nhượng quyền ấn định áp dụng chung trong toàn bộ hệ thống nhượng quyền được xác định là thấp hơn một cách bất hợp lý (dưới giá thành toàn bộ mà không có bất kỳ lý do hợp lý), có khả năng loại bỏ khỏi thị trường các đối thủ cạnh tranh khác ngoài hệ thống (cùng thị trường liên quan với sản phẩm A)
  • 31. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149 Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149 thì sẽ dẫn đến hạn chế/loại bỏ khả năng cạnh tranh của các đối thủ thuộc nhóm doanh nghiệp Y; (iii) Việc bên nhượng quyền ấn định chung một mức giá cũng có thể là cơ sở tạo ra sự thống nhất về giá trên thị trường sản phẩm A giữa X và Y nếu các bên cùng thỏa thuận hoặc thống nhất hành động áp dụng chung một mức giá, dẫn tới người tiêu dùng không còn cơ hội lựa chọn sản phẩm với giá cạnh tranh như trường hợp (i) đã nêu trên.  Hành vi buộc bên nhận quyền phải mua hàng hóa/dịch vụ từ bên nhượng quyền hoặc bên thứ ba được chỉ định: là hành vi thường được bên nhượng quyền sử dụng để kiểm soát chất lượng hàng hóa,dịch vụ được cung ứng bởi bên nhận quyền, qua đó bảo vệ tính đồng bộ, vị thế, danh tiếng, hình ảnh của hệ thống nhượng quyền. Bản chất của hành vi này thể hiện ở chỗ, bên nhượng quyền buộc bên nhận quyền ngoài việc việc mua, bán hàng hoá, dịch vụ là đối tượng của hợp đồng, bên nhận quyền còn phải mua hàng hóa, dịch vụ khác từ bên nhượng quyền hoặc nhà cung cấp khác được bên nhượng quyền chỉ định trước hoặc thực hiện thêm một hoặc một số nghĩa vụ nằm ngoài phạm vi cần thiết để thực hiện hợp đồng. Hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường thông thường gây ra hậu quả hạn chế cạnh tranh đối với bên nhận quyền trong mối quan hệ với các bên trong hệ thống nhượng quyền và với các đối thủ cạnh tranh khác ngoài hệ thống. Đối với hành vi lạm dụng vị trí độc quyền trên thị trường chỉ là sự phát triển hơn một chút về mức độ ảnh hưởng của hành vi, năng lực thị trường của chủ thể thực hiện hành vi so với hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường. Bên lạm dụng vị trí độc quyền là chủ thể độc tôn cung cấp sản phẩm trên thị trường, mà không có đối thủ cạnh tranh. Với bản chất như vậy, có thể thấy trong quan hệ nhượng quyền thương mại, chủ thể cung ứng sản phẩm của hệ thống nhượng quyền không tồn tại một chủ thể duy nhất, có rất nhiều bên cùng cung cấp sản phẩm như nhau trong hệ thống
  • 32. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149 Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149 nhượng quyền. Do đó, vị trí độc quyền trong quan hệ nhượng quyền là hiếm khi xảy ra và kể cả nếu có xảy ra, thì cũng chỉ trong một số các trường hợp tương đối đặc biệt, xuất phát từ bản chất của quan hệ nhượng quyền. Chính vì vậy, hành vi lạm dụng vị trí độc quyền không được thể hiện đậm nét trong quan hệ nhượng quyền thương mại. Tuy nhiên, cần phải khẳng định rằng việc nhận diện hành vi hạn chế cạnh tranh trong quan hệ nhượng quyền như trên chỉ mang tính chất tương đối. Bởi lẽ, quan hệ cạnh tranh là quan hệ phức tạp, các tiêu chí xác định thường mang tính định tính hơn là định lượng và thường dẫn đến các ảnh hưởng chéo trong các thị trường liên quan khác nhau. Do vậy, việc lựa chọn cách tiếp cận hành vi hạn chế cạnh tranh trong quan hệ nhượng quyền trong Luận án này chỉ mang tính chất tương đối và việc phân chia này chỉ có ý nghĩa nhằm nhận diện để phân tích và nghiên cứu các hành vi hạn chế cạnh tranh trong quan hệ nhượng quyền thương mại. 2.3. Khái niệm và nội dung pháp luật hạn chế cạnh tranh trong hoạt động nhƣợng quyền thƣơng mại 2.3.1. Khái niệm pháp luật hạn chế cạnh tranh trong hoạt động nhượng quyền thương mại Bởi vì xu hướng thực hiện hành vi hạn chế cạnh tranh là bản chất của hoạt động thương mại nên có thể nói, hành vi cạnh tranh nói chung và hạn chế cạnh tranh nói riêng có xu hướng tồn tại trong tất cả các hoạt động thương mại. Điều này thể hiện ở chính bản chất của hoạt động thương mại là hoạt động nhằm mục đích sinh lời, các bên thực hiện hành vi luôn hướng tới việc tối đa hóa lợi nhuận và giảm thiểu mọi rủi ro. Thực tiễn cho thấy, có nhiều con đường khác nhau để đạt được mục tiêu này, trong đó có việc thực hiện những hành vi nhằm hạn chế và cao hơn là nhằm loại bỏ cạnh tranh. Dưới khía cạnh này, nhượng quyền thương mại cũng không phải là ngoại lệ. Thậm chí, xét về mặt bản chất, hoạt động nhượng quyền thương
  • 33. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149 Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149 mại thường dẫn đến những hành vi phản cạnh tranh với tần suất cao hơn so với các hoạt động thương mại khác. Trong điều kiện như vậy, việc thiết lập và sử dụng pháp luật như một công cụ hiệu quả nhất để định hướng các hoạt động thương mại được phát triển trong môi trường cạnh tranh lành mạnh, tích cực chính là một trong những yếu tố thúc đẩy sự phát triển bền vững của nền kinh tế. Pháp luật hạn chế cạnh tranh trong hoạt động nhượng quyền thương mại được tiếp cận trên cơ sở nghiên cứu các hành vi hạn chế cạnh tranh trong quan hệ nhượng quyền và sự tác động của pháp luật đến các hành vi hạn chế cạnh tranh này. Để nghiên cứu một cách toàn diện, chúng ta phải xem xét đồng thời các quy định có liên quan của hai hệ thống văn bản luật điều chỉnh hành vi hạn chế cạnh tranh trong quan hệ nhượng quyền thương mại: (i) Luật Thương mại với tư cách là luật “mở đường”, ghi nhận quyền tự do kinh doanh của các thương nhân trong quan hệ nhượng quyền và (ii) Luật Cạnh tranh với tư cách là luật “cản trở”, kiểm soát quyền tự do của các bên trong quan hệ nhượng quyền. Theo đó, chỉ ra ranh giới mà tại đó các chủ thể tham gia quan hệ nhượng quyền thương mại được làm hay bị ngăn cấm nhằm đảm bảo môi trường cạnh tranh lành mạnh, công bằng thông qua đó đảm bảo sự phát triển bền vững của nền kinh tế. Vì vậy, về cơ bản (tất nhiên là về hình thức), hai luật này sẽ có những sự bất đồng về cách tiếp cận để điều chỉnh. Tuy nhiên, cho dù là “mở đường” hay “cản trở”, các luật này vẫn phải đạt được sự tương thích, thể hiện ở chỗ, việc “mở đường” của luật này không vượt quá phạm vi “cản trở” của luật kia hoặc ngược lại là việc “cản trở” của luật kia không triệt tiêu tư tưởng “mở đường” của luật này, có như vậy, hoạt động nhượng quyền thương mại mới phát triển một cách bền vững. Xuất phát từ tính chất tương đối phức tạp và đặc trưng của hoạt động nhượng quyền thương mại, pháp luật mỗi quốc gia đều đưa ra khung pháp
  • 34. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149 Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149 lý nhất định để ràng buộc các chủ thể tham gia hoạt động nhượng quyền. Mục đích của hệ thống các quy tắc xử sự này trước hết, nhằm bảo vệ hoạt động nhượng quyền thương mại phát triển, đáp ứng được yêu cầu của thương nhân và sự phát triển của kinh tế xã hội; thứ hai là bảo vệ các lợi ích bắt nguồn từ nền kinh tế mở và tự do hóa thương mại, hướng tới xây dựng một môi trường cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng giữa bên nhượng quyền và bên nhận quyền, giữa các thành viên trong hệ thống nhượng quyền/hệ thống nhượng quyền và đối thủ cạnh tranh. Trong môi trường này, các chủ thể được cạnh tranh công bằng dựa trên năng lực thực sự của mình, thông qua đó, người tiêu dùng được sử dụng hàng hóa, dịch vụ với chất lượng tốt và giá cả phải chăng. Do hành vi hạn chế cạnh tranh trong hoạt động nhượng quyền thương mại chỉ phát sinh giữa các bên nhượng quyền và nhận quyền trong một hệ thống nhượng quyền thương mại xác định, tồn tại dưới các hình thức như thỏa thuận hạn chế cạnh tranh và lạm dụng vị trí thống lĩnh, độc quyền trên thị trường nên pháp luật điều chỉnh hành vi cạnh tranh trong quan hệ nhượng quyền cũng xoay quanh việc điều chỉnh các hành vi này. Với những quan điểm trên, trong công trình nghiên cứu này, pháp luật về hạn chế cạnh tranh trong hoạt động nhượng quyền thương mại được hiểu là hệ thống các quy phạm pháp luật được ban hành nhằm bảo vệ trật tự cạnh tranh, kiểm soát các hành vi gây hậu quả hoặc có khả năng gây hậu quả hạn chế cạnh tranh nghiêm trọng trên thị trường, bao gồm các quy phạm pháp luật điều chỉnh hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, lạm dụng vị trí thống lĩnh, vị trí độc quyền có khả năng làm giảm, sai lệch, cản trở cạnh tranh trên thị trường của các bên trong quan hệ nhượng quyền thương mại. Đặc điểm của pháp luật về hạn chế cạnh tranh trong hoạt động nhượng quyền thương mại:
  • 35. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149 Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149 - Về tính chất, pháp luật hạn chế cạnh tranh thuộc lĩnh vực luật công, và vì vậy, pháp luật hạn chế cạnh tranh trong hoạt động nhượng quyền thương mại cũng phải đáp ứng các tiêu chí: (i) đảm bảo mục tiêu của pháp luật hạn chế cạnh tranh là bảo vệ cạnh tranh, bảo vệ tính minh bạch của thị trường; (ii) các chủ thể kinh doanh thực hiện hành vi hạn chế cạnh tranh trong hoạt động nhượng quyền thương mại phải chịu trách nhiệm trước nhà nước, chịu sự kiểm soát của nhà nước; Bên cạnh đó, do hành vi hạn chế cạnh tranh lại được nghiên cứu trong một hoạt động thương mại cụ thể nên pháp luật hạn chế cạnh tranh trong hoạt động nhượng quyền thương mại cũng phải đảm bảo bản chất thương mại của hoạt động nhượng quyền. Pháp luật cạnh tranh được hiểu là tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh hành vi cạnh tranh, vì vậy, pháp luật hạn chế cạnh tranh trong hoạt động nhượng quyền thương mại cũng mang tính chất của pháp luật cạnh tranh, đó chính là tính chất cản trở, kiểm soát các hành vi hạn chế cạnh tranh phát sinh trong hoạt động nhượng quyền thương mại xâm phạm đến trật tự cạnh tranh trên thị trường. - Về phương pháp điều chỉnh: pháp luật hạn chế cạnh tranh trong hoạt động nhượng quyền thương mại sử dụng phương pháp mệnh lệnh, hành chính, mà không thể thỏa thuận, đàm phán về việc thực hiện hành vi hạn chế cạnh tranh gây ảnh hưởng tới lợi ích công, lợi ích nhà nước. - Về nguồn luật của pháp luật hạn chế cạnh tranh trong hoạt động nhượng quyền thương mại: Nguồn luật điều chỉnh pháp luật hạn chế cạnh tranh trong hoạt động nhượng quyền bao gồm các quy định điều chỉnh hành vi hạn chế cạnh tranh nói chung được quy định trong Luật Cạnh tranh 2004 và các văn bản hướng dẫn thi hành cùng với sự bổ trợ của các văn bản luật chuyên ngành đặc thù khác liên quan trực tiếp đến hoạt động nhượng quyền thương mại.
  • 36. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149 Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149 - Về xử lý vi phạm, vấn đề xử lý vi phạm pháp luật hạn chế cạnh tranh trong hoạt động nhượng quyền thương mại hiện nay thuộc phạm vi điều chỉnh của pháp luật hành chính. Tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà các hình thức xử phạt chính có thể được áp dụng độc lập hoặc kết hợp với các biện pháp xử phạt bổ sung và khắc phục hậu quả khác. Cụ thể, các hình thức chế tài được áp dụng để xử lý hành vi bao gồm: các hình thức xử phạt chính (Cảnh cáo, phạt tiền) ; các hình thức xử phạt bổ sung (Thu hồi giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề ; Tịch thu tang vật, phương tiện được sử dụng để vi phạm pháp luật về cạnh tranh) và các biện pháp khắc phục hậu quả (Cơ cấu lại doanh nghiệp lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường; Chia, tách doanh nghiệp đã sáp nhập, hợp nhất; buộc bán lại phần doanh nghiệp đã mua; Cải chính công khai; Loại bỏ những điều khoản vi phạm pháp luật ra khỏi hợp đồng hoặc giao dịch kinh doanh; Các biện pháp cần thiết khác để khắc phục tác động hạn chế cạnh tranh của hành vi vi phạm). Ngoài ra, tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm pháp luật về cạnh tranh gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân khác thì phải bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật. 2.3.2. Nội dung của pháp luật hạn chế cạnh tranh trong hoạt động nhượng quyền thương mại Xuất phát từ những yêu cầu mang tính khách quan, nhượng quyền thương mại thường dẫn tới một cơ chế không cạnh tranh trong nội bộ, nghĩa là, thông qua các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh của các bên, yếu tố cạnh tranh dường như không còn tồn tại hoặc có khả năng bị triệt tiêu trong quan hệ nhượng quyền. Các hành vi này về nguyên tắc, đã tạo ra một cơ chế hạn chế cạnh tranh, đi ngược lại với quy luật chung của nền kinh tế. Dưới bình diện của Luật Cạnh tranh, những hành vi gây hậu quả “triệt tiêu”
  • 37. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149 Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149 cạnh tranh nói trên cần bị kiểm soát để đảm bảo thị trường vận hành đúng quy luật. Nội dung pháp luật hạn chế cạnh tranh trong quan hệ nhượng quyền thương mại được thể hiện ở hệ thống các quy định nhằm kiểm soát hành vi hạn chế cạnh tranh tồn tại dưới các hình thức thỏa thuận hạn chế cạnh tranh hoặc lạm dụng vị trí thống lĩnh, vị trí độc quyền trên thị trường của các bên trong hoạt động nhượng quyền thương mại. Xuất phát từ bản chất, phạm vi khởi phát của hành vi trong phạm vi hệ thống nhượng quyền, cũng như giới hạn nghiên cứu của Luận án, pháp luật hạn chế cạnh tranh trong quan hệ nhượng quyền thương mại bao gồm hệ thống các quy phạm điều chỉnh hành vi hạn chế cạnh tranh trong quan hệ nhượng quyền thương mại và thường tập trung điều chỉnh các nhóm hành vi chủ yếu sau đây: 2.3.2.1. Các quy định điều chỉnh hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh Thoả thuận hạn chế cạnh tranh (Cartel) là hành vi thống nhất hành động của một số chủ thể kinh doanh mà nội dung của những thoả thuận này nhằm giảm bớt hoặc loại bỏ sức ép của cạnh tranh hoặc hạn chế khả năng hành động một cách độc lập giữa các đối thủ cạnh tranh, qua đó, xác lập, duy trì hoặc tiếp tục nâng cao hơn nữa vị thế của các thành viên của thoả thuận, đồng thời hạn chế cạnh tranh của các đối thủ cạnh tranh khác. Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh có thể là một thỏa thuận chính thức hoặc không chính thức để đạt được kết quả có lợi cho các hãng có liên quan, nhưng có thể có hại cho các bên khác [9, tr.47]. Thoả thuận hạn chế cạnh tranh có thể là thoả thuận theo chiều ngang giữa các chủ thể nằm ở cùng một cấp độ trong chu trình sản xuất hoặc phân phối (các nhà sản xuất với nhau hoặc các nhà phân phối với nhau) hoặc là thoả thuận theo chiều dọc giữa các chủ thể nằm ở vị trí khác nhau trong một chu trình sản xuất hoặc lưu thông (thoả thuận giữa nhà sản xuất và người phân phối). Dưới góc độ kinh tế, thoả thuận hạn chế cạnh tranh được hình thành tự nhiên giữa các chủ thể
  • 38. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149 Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149 kinh doanh trong một môi trường kinh doanh có cạnh tranh. Nền kinh tế thị trường với đầy đủ những điều kiện để các thoả thuận hạn chế cạnh tranh ra đời và phát triển. Ở một chừng mực nhất định, thỏa thuận hạn chế cạnh tranh sẽ giúp các thương nhân nâng cao sức mạnh cạnh tranh trên thị trường. Theo đó, các thương nhân nhỏ trước sức ép cạnh tranh từ các thương nhân khác thường quy hợp lại với nhau thông qua các thỏa thuận nhằm giảm bớt cạnh tranh giữa các bên để “đối mặt” với cạnh tranh từ các thương nhân có vị thế lớn trên thị trường. Ở góc độ của các thương nhân vốn dĩ đã có thế mạnh trên thị trường, họ lại có nhu cầu duy trì quyền lực thị trường bằng cách hạn chế cơ hội cạnh tranh của các chủ thể khác, họ cũng có nhu cầu kết hợp với nhau thông qua các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh để loại trừ cạnh tranh trên thị trường, từ đó giá cả sẽ tăng cao, chất lượng sản phẩm sẽ không còn động lực để phát triển, trong khi các chủ thể trong thỏa thuận vẫn thu được lợi nhuận không phải từ nỗ lực cạnh tranh của mình. Ở trường hợp này, lợi ích do thỏa thuận hạn chế cạnh tranh sẽ không còn tồn tại nữa. Dưới góc độ pháp luật, thoả thuận hạn chế cạnh tranh được hiểu là một dạng quan hệ pháp lý đặc biệt cần được điều chỉnh. Theo đó, pháp luật sẽ quy định cách thức nhận diện các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, xác định ranh giới mà tại đó, các thoả thuận hạn chế cạnh tranh bị ngăn cấm. Điều đó có nghĩa là, không phải mọi thoả thuận hạn chế cạnh tranh đều bị coi là bất hợp pháp, ở một chừng mực nhất định vẫn có những thoả thuận hạn chế cạnh tranh được cho phép, nếu thỏa thuận đó có tác động tích cực đến cạnh tranh hoặc thực hiện một chính sách trong một giai đoạn nhất định của nhà nước. Luật mẫu về cạnh tranh của Tổ chức Thương mại và Phát triển Liên hợp quốc (UNCTAD) đưa ra những thoả thuận bị coi là thoả thuận hạn chế cạnh tranh sau đây: thoả thuận định giá hay các điều kiện bán hàng khác,