SlideShare a Scribd company logo
1 of 109
BỘ QUỐC PHÒNG
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ
PHẠM THỊ NHUNG
ĐẢNG BỘ TỈNH THANH HOÁ
LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG HẬU PHƯƠNG CHI VIỆN
CHO TIỀN TUYẾN TRONG KHÁNG CHIẾN
CHỐNG THỰC DÂN PHÁP (1945 - 1954)
LUẬN VĂN THẠC SĨ
LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
HÀ NỘI - 2014
3
BỘ QUỐC PHÒNG
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ
PHẠM THỊ NHUNG
ĐẢNG BỘ TỈNH THANH HOÁ
LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG HẬU PHƯƠNG CHI VIỆN
CHO TIỀN TUYẾN TRONG KHÁNG CHIẾN
CHỐNG THỰC DÂN PHÁP (1945 - 1954)
CHUYÊN NGÀNH: LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
MÃ SỐ: 60 22 03 15
HÀ NỘI - 2014
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 3
Chương 1 ĐẢNG BỘ TỈNH THANH HOÁ LÃNH ĐẠO XÂY
DỰNG HẬU PHƯƠNG, CHI VIỆN CHO TIỀN
TUYẾN TRONG NHỮNG NĂM ĐẦU KHÁNG
CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP (1945 - 1950) 11
1.1. Yêu cầu khách quan xây dựng hậu phương Thanh Hoá
trong kháng chiến chống thực dân Pháp 11
1.2. Chủ trương của Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá xây dựng hậu
phương, chi viện cho tiền tuyến trong những năm đầu
kháng chiến chống thực dân Pháp (1945 - 1950) 19
1.3. Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá chỉ đạo xây dựng hậu phương,
chi viện cho tiền tuyến trong những năm đầu kháng
chiến chống thực dân Pháp (1945 - 1950) 24
Chương 2 ĐẢNG BỘ TỈNH THANH HOÁ LÃNH ĐẠO ĐẨY
MẠNH XÂY DỰNG HẬU PHƯƠNG, TĂNG CƯỜNG
CHI VIỆN CHO TIỀN TUYẾN (1951 - 1954) 35
2.1. Yêu cầu nhiệm vụ cách mạng và chủ trương của Đảng bộ
tỉnh Thanh Hoá đẩy mạnh xây dựng hậu phương, tăng
cường chi viện cho tiền tuyến (1951 - 1954) 35
2.2. Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá chỉ đạo đẩy mạnh xây dựng hậu
phương, tăng cường chi viện cho tiền tuyến (1951 - 1954) 42
Chương 3 NHẬN XÉT VÀ KINH NGHIỆM TỪ QUÁ TRÌNH
ĐẢNG BỘ TỈNH THANH HOÁ LÃNH ĐẠO XÂY
DỰNG HẬU PHƯƠNG CHI VIỆN CHO TIỀN
TUYẾN (1945 - 1954) 59
3.1. Nhận xét 59
3.2. Kinh nghiệm 70
KẾT LUẬN 82
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 84
PHỤ LỤC 91
4
MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài
Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp lâu dài, gian khổ và vô cùng
oanh liệt của dân tộc Việt Nam đã giành thắng lợi hoàn toàn bằng chiến dịch
lịch sử Điện Biên Phủ. Góp một phần không nhỏ vào thắng lợi ấy phải kể đến
vị trí, vai trò quyết định của hậu phương.
Nghiên cứu về tầm quan trọng của hậu phương trong chiến tranh, các
nhà kinh điển chủ nghĩa Mác - Lênin đã chỉ ra quy luật: hậu phương luôn là
nhân tố thường xuyên quyết định thành bại của chiến tranh. Lênin đã khẳng
định: “Muốn tiến hành chiến tranh một cách thực sự, phải có một hậu phương
có tổ chức vững chắc, một đội quân giỏi nhất, những người trung thành nhất
với sự nghiệp cách mạng cũng đều lập tức bị kẻ thù tiêu diệt, nếu họ không
được vũ trang, tiếp tế lương thực và huấn luyện một cách đầy đủ” [57, tr.479].
Vận dụng sáng tạo quy luật trên vào thực tiễn các cuộc chiến tranh giải
phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc, Đảng Cộng sản Việt Nam hết sức coi trọng,
đặt lên hàng đầu vai trò của hậu phương, căn cứ địa cách mạng. Trong kháng
chiến chống thực dân Pháp (1945 - 1954), đánh giá đúng vị thế chiến lược,
tiềm năng, thế mạnh của Thanh Hoá - vùng đất “thiên thời, địa lợi, nhân hoà”
thuộc vùng tự do Liên khu IV, Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã chọn Thanh Hoá làm hậu phương, căn cứ địa chi viện sức người, sức
của cho cuộc kháng chiến mà đỉnh cao là chiến dịch Điện Biên Phủ.
Nhận thức rõ vị trí, vai trò của tỉnh trước vận mệnh dân tộc, Đảng bộ
tỉnh Thanh Hoá đã phát huy thế mạnh của vùng đất và con người nơi đây như
thế nào? Cụ thể hoá đường lối, chủ trương của Đảng, Chỉ thị của Chủ tịch Hồ
Chí Minh qua các kỳ Đại hội Đảng bộ tỉnh ra sao để xây dựng Thanh Hoá trở
hậu phương, căn cứ địa? Nghiên cứu quá trình trên có ý nghĩa hết sức quan
trọng, đánh giá một cách khách quan đường lối lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng bộ
tỉnh xây dựng Thanh Hóa trở thành kiểu mẫu, góp phần vào thắng lợi của dân
5
tộc ta trong kháng chiến chống thực dân Pháp. Một số nhận xét và kinh
nghiệm được đúc kết có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc - cơ sở để tỉnh
Thanh Hoá phát huy truyền thống lịch sử văn hoá lên tầm cao mới, tiếp tục
xây dựng quê hương giàu mạnh.
Vì lý do nêu trên, tác giả chọn đề tài: “Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá lãnh
đạo xây dựng hậu phương chi viện cho tiền tuyến trong kháng chiến chống
thực dân Pháp (1945 - 1954)” làm luận văn thạc sỹ, chuyên ngành Lịch sử
Đảng Cộng sản Việt Nam.
Đề tài đi sâu phân tích đường lối, chủ trương của Đảng bộ tỉnh Thanh
Hóa lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng xây dựng, bảo vệ hậu phương, chi viện cho
tiền tuyến; tri ân, tôn vinh những cống hiến, sự hy sinh của quân dân Thanh
Hoá trong kháng chiến chống thực dân Pháp. Qua đó, rút ra một số nhận xét
và kinh nghiệm làm luận cứ khoa học, tài liệu tham khảo, vận dụng vào sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trên địa bàn tỉnh trong giai đoạn hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trong nhiều năm qua, đề tài hậu phương trong kháng chiến chống thực
dân Pháp đã được các lãnh tụ Đảng, Nhà nước, quân đội và nhiều nhà khoa
học quan tâm, đi sâu nghiên cứu. Tập hợp và nghiên cứu các công trình đó,
chúng tôi chia thành các nhóm sau đây:
Nhóm các công trình nghiên cứu lịch sử kháng chiến, hậu phương
chiến tranh nhân dân, tổng kết cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Sức mạnh dân tộc và tầm vóc thời đại
(1994), Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội; Viện Lịch sử quân sự (1997), Hậu
phương chiến tranh nhân dân Việt Nam (1945 - 1975), Nxb Quân đội nhân
dân, Hà Nội; Viện Lịch sử quân sự (1999), Mấy vấn đề chỉ đạo chiến lược
trong 30 năm chiến tranh giải phóng (1945 - 1975), Nxb Quân đội nhân dân,
Hà Nội; Ban Chỉ đạo Tổng kết chiến tranh trực thuộc Bộ Chính trị (2000),
6
Chiến tranh cách mạng Việt Nam (1945 - 1975) - Thắng lợi và bài học, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội; Chiến thắng Điện Biên Phủ - Cột mốc vàng lịch
sử (2004), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội; Viện Lịch sử quân sự (2005),
Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp, tập 2, Nxb Quân đội nhân dân, Hà
Nội; Ngô Đăng Tri (2009), Vai trò của hậu phương trong chiến dịch Điện
Biên Phủ, Kỷ yếu Hội thảo khoa học 55 chiến thắng Điện Biên Phủ, Học viện
Chính trị hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, đã khẳng định ý nghĩa
lịch sử, tầm vóc vĩ đại của chiến thắng Điện Biên Phủ, khẳng định sự lãnh đạo
đúng đắn, sáng suốt của Đảng Cộng sản Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ
đại và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc là nhân tố quyết định thắng lợi của
cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, trong đó, vị trí, vai trò của hậu
phương được phát huy cao độ, góp phần không nhỏ làm nên thắng lợi vĩ đại
đó. Các công trình cũng đã đưa ra những vấn đề chung về xây dựng, bảo vệ
và phát huy sức mạnh hậu phương trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân
Pháp và đế quốc Mỹ trên tất cả các lĩnh vực: chính trị, kinh tế, quân sự, văn
hoá - xã hội. Từ đó, rút ra một số nhận xét và kinh nghiệm xây dựng hậu
phương trong chiến tranh cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Qua những công trình nêu trên, hậu phương phần nào được đề cập ở
mức độ và phạm vi khác nhau về tổ chức, tiến hành xây dựng, bảo vệ, phát
huy, thể hiện nhân tố quyết định nhất của cuộc kháng chiến. Đây là nguồn tài
liệu tham khảo quan trọng, giúp tác giả nghiên cứu một số vấn đề lý luận và
thực tiễn xây dựng hậu phương trong kháng chiến.
Nhóm các công trình đề cập đến xây dựng hậu phương trong cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp ở Quân khu IV, Liên khu IV
Viện Lịch sử Đảng (2000), Một số vấn đề lịch sử kháng chiến chống
thực dân Pháp ở Liên khu IV (1945 - 1954), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội;
Ngô Đăng Tri (2001), Vùng tự do Thanh - Nghệ - Tĩnh trong kháng chiến
7
chống Pháp (1946 - 1954), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội; Viện Lịch sử
Đảng (2003), Lịch sử kháng chiến chống Pháp của quân và dân Liên khu IV
(1945 - 1954), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội; Trình Mưu (2003), Lịch sử
kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân Liên khu IV (1945 -
1954), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội; Bộ Quốc phòng - Quân khu IV
(2005), Tổng kết chiến thuật trong kháng chiến chống Pháp và đế quốc Mỹ
của Lực lượng vũ trang Quân khu IV (1945 - 1975), Nxb Quân đội nhân dân,
Hà Nội; Ngô Đăng Tri, Vùng tự do Thanh - Nghệ - Tĩnh trong kháng chiến
chống thực dân Pháp, Tạp chí Lịch sử quân sự, số 16 - 1987; Ngô Đăng Tri,
Mối quan hệ giữa Thanh - Nghệ - Tĩnh với Lào trong kháng chiến chống thực
dân Pháp (1945 - 1954), Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á, số 2 - 1994;
Nguyễn Văn Quang, Vai trò hậu phương Thanh - Nghệ - Tĩnh trong chiến
dịch Thượng Lào (tháng 4 - 5 năm 1953), Tạp chí Cộng sản, số 5 - 2013.
Các công trình nghiên cứu trên không chỉ đề cập đến sự lãnh đạo, chỉ
đạo chiến tranh nhân dân Việt Nam chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ của
Đảng bộ và chính quyền Quân khu IV, Liên khu IV, Thanh - Nghệ - Tĩnh nói
chung mà còn chỉ rõ vai trò, vị trí của hậu phương Thanh Hoá nói riêng. Thanh
Hoá được đề cập đến là hậu phương trực tiếp của chiến trường Bắc - Trung bộ,
Thượng Lào, Điện Biên Phủ. Hậu phương Thanh Hoá đã góp một phần xứng
đáng sức người sức của, chi viện kịp thời cho các chiến trường. Tài liệu này có
giá trị rất lớn đối với tác giả trong quá trình nghiên cứu, tái hiện vai trò, vị trí
quan trọng của hậu phương Thanh Hoá trong kháng chiến chống Pháp.
Nhóm các công trình đề cập đến hậu phương Thanh Hoá
Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh Thanh Hóa (1990), Lịch sử cuộc kháng chiến
chống Pháp xâm lược (1945 - 1954), Nxb Thanh Hoá; Bộ Chỉ huy quân sự
tỉnh Thanh Hoá (1990), Thanh Hoá - Lịch sử kháng chiến chống thực dân
Pháp xâm lược (1945 - 1954) (Sơ thảo), Thanh Hoá; Tỉnh uỷ Thanh Hoá
8
(2000), Lịch sử Đảng bộ Thanh Hoá, tập I (1930 - 1954); Ban Tuyên giáo
Tỉnh uỷ Thanh Hoá (2000), Đảng bộ Thanh Hoá 70 năm chặng đường vẻ
vang (1930 - 2000); Chủ tịch Hồ Chí Minh với Thanh Hoá - Thanh Hoá làm
theo lời dạy của Người (2007), Nxb Thanh Hoá; Đảng uỷ Quân sự tỉnh Thanh
Hoá (2010), Lịch sử Đảng bộ quân sự tỉnh Thanh Hoá (1945 - 2005), Nxb
Quân đội nhân dân, Hà Nội, là những công trình đã khái quát quá trình Đảng
bộ tỉnh Thanh Hoá lãnh đạo nhân dân tỉnh đấu tranh cách mạng qua các chặng
đường lịch sử. Qua đó, đề cập đến việc xây dựng và động viên sức mạnh toàn
dân đoàn kết đứng lên kháng chiến kiến quốc, xây dựng và bảo vệ hậu
phương, phục vụ tiền tuyến. Tuy nhiên, các công trình trên chỉ đề cấp đến vai
trò của hậu phương trong tiến trình lịch sử cuộc kháng chiến chống Pháp,
chưa tập trung đi sâu nghiên cứu, phân tích làm nổi bật tầm quan trọng của
hậu phương đối với cuộc kháng chiến.
Lê Thị Thanh Huyền (2004), Giao thông vận tải Thanh Hoá trong
kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1945 - 1954), Luận văn thạc sỹ,
Trường Đại học Vinh; Uỷ Ban nhân dân tỉnh Thanh Hoá (2008), Kỷ yếu Hội
thảo Thanh Hoá trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp (1945 - 1954);
Nguyễn Tuyết Nhung (2010), Hậu phương Thanh Hoá trong cuộc kháng
chiến chống thực dân Pháp (1945 - 1954), Luận văn thạc sỹ, Trường Đại học
Khoa học xã hội và nhân văn - Đại học Quốc gia Hà Nội; Lê Thị Quỳnh Nga
(2010), Quá trình thực hiện chủ trương cách mạng ruộng đất của Đảng ở
tỉnh Thanh Hoá (1945 - 1957), Luận án Tiến sỹ, Trường Đại học Khoa học xã
hội và nhân văn - Đại học Quốc gia Hà Nội; Khánh Trình, Những đóng góp
to lớn của quân - dân Thanh Hóa trong chiến dịch Điện Biên Phủ, Báo Thanh
Hoá, số 6 - 2013; Ngô Đăng Tri, Thanh Hoá với Chiến dịch Điện Biên
Phủ, Tạp chí Lịch sử quân sự, số 1 - 1994.
9
Các công trình nêu trên đã nghiên cứu, tiếp cận hậu phương Thanh Hoá
ở nhiều góc độ khác nhau, phản ánh tương đối cụ thể từng mặt hoạt động tổ
chức, luận giải một cách khoa học về cơ sở lý luận và thực tiễn quá trình củng
cố, xây dựng, bảo vệ hậu phương, phục vụ tiền tuyến của Đảng bộ và nhân
dân Thanh Hoá, bước đầu rút ra một số nhận xét và kinh nghiệm trong quá
trình xây dựng hậu phương, phục vụ tiền tuyến của tỉnh Thanh Hoá. Qua đó,
phần nào đã phác hoạ vị trí, vai trò quyết định nhất của hậu phương Thanh
Hoá đối với cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Đây là những tài liệu quý
liên quan trực tiếp đến quá trình nghiên cứu, hoàn thiện luận văn của tác giả.
Tuy vậy, qua các công trình trên, hậu phương Thanh Hoá phần nào
được nghiên cứu, tổng kết ở góc độ từng mặt, từng khía cạnh, chưa đề cập
một cách toàn diện, đầy đủ, có hệ thống thành một công trình khoa học nhằm
tập hợp và luận giải đầy đủ về vị trí, vai trò trực tiếp của hậu phương Thanh
Hoá đối với tiền tuyến - nhân tố quyết định nhất đối với cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp. Vì vậy, nghiên cứu quá trình Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá
lãnh đạo xây dựng hậu phương, chi viện cho tiền tuyến (1945 - 1954) vẫn là
đề tài chưa có một công trình nào đề cập đầy đủ, toàn diện dưới góc độ khoa
học Lịch sử Đảng. Trên cơ sở kế thừa những công trình đã công bố, tác giả hệ
thống và mô tả, tái hiện lại quá trình xây dựng hậu phương, chi viện kịp thời
của hậu phương Thanh Hoá trong kháng chiến chống thực dân Pháp. Qua đó,
rút ra một số nhận xét và kinh nghiệm - cơ sở lý luận và thực tiễn để tỉnh
Thanh Hóa tiếp tục xây dựng và củng cố quốc phòng, an ninh, xây dựng khu
vực phòng thủ vững mạnh hiện nay.
3. Mục đích, nhiệm vụ
* Mục đích
Nghiên cứu tái hiện lại một cách đầy đủ, toàn diện và hệ thống quá
trình Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá lãnh đạo xây dựng hậu phương, chi viện cho
10
tiền tuyến (1945 - 1954), rút ra nhận xét và kinh nghiệm xây dựng hậu
phương Thanh Hoá trong kháng chiến chống Pháp nhằm phục vụ công tác
nghiên cứu, giáo dục truyền thống và góp phần xây dựng khu vực phòng thủ
vững chắc trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá hiện nay.
* Nhiệm vụ
- Nghiên cứu những yếu tố vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên, xã hội và
truyền thống lịch sử văn hoá liên quan trực tiếp đến quá trình xây dựng hậu
phương Thanh Hóa trong cuộc kháng chiến chống Pháp.
- Phân tích, làm rõ chủ trương, sự chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá
về xây dựng hậu phương, chi viện cho tiền tuyến (1945 - 1954).
- Rút ra một số nhận xét và kinh nghiệm về công cuộc xây dựng, bảo vệ
hậu phương cũng như vai trò của hậu phương Thanh Hóa trong cuộc kháng
chiến chống Pháp; vận dụng vào thực tiễn lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh trong sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng
Nghiên cứu sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá về xây dựng hậu
phương, chi viện cho tiền tuyến trong cuộc kháng chiến chống Pháp.
* Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung: Nghiên cứu chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh
Thanh Hoá về xây dựng hậu phương, chi viện cho tiền tuyến.
Về thời gian: Đề tài tập trung phản ánh trong phạm vi thời gian cuộc
kháng chiến chống Pháp (1945 - 1954).
Về không gian: tỉnh Thanh Hóa.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
* Phương pháp luận
Luận văn được thực hiện dựa trên phương pháp luận chủ nghĩa duy vật
biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin.
11
* Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng chủ yếu phương pháp lịch sử, phương pháp lôgic,
đồng thời kết hợp với các phương pháp khác như: thống kê, khảo sát, so sánh,
phân tích, tổng hợp, lịch đại, đồng đại, điền dã, phương pháp chuyên gia.
6. Ý nghĩa của luận văn
Luận văn hệ thống hoá, khôi phục lại bức tranh toàn cảnh về công cuộc
xây dựng hậu phương, chi viện cho tiền tuyến của tỉnh Thanh Hóa trong
kháng chiến chống thực dân Pháp. Đây là nguồn tham khảo, phục vụ cho việc
nghiên cứu, giảng dạy lịch sử địa phương Thanh Hóa nói riêng, lịch sử dân
tộc nói chung thời chiến tranh cách mạng, góp phần giáo dục thêm truyền
thồng yêu nước, niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng, lòng tự hào của nhân dân
Thanh Hóa, ý chí tự cường cho thế hệ trẻ.
7. Kết cấu của luận văn gồm
Mở đầu, 3 chương (7 tiết), kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và
phụ lục.
12
Chương 1
ĐẢNG BỘ TỈNH THANH HOÁ LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG HẬU PHƯƠNG
CHI VIỆN CHO TIỀN TUYẾN TRONG NHỮNG NĂM ĐẦU
CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP (1945 - 1950)
1.1. Yêu cầu khách quan xây dựng hậu phương Thanh Hoá trong
kháng chiến chống thực dân Pháp
1.1.1. Vị trí chiến lược và điều kiện tự nhiên - xã hội của tỉnh Thanh
Hoá trong kháng chiến chống thực dân Pháp
Nằm ở địa đầu miền Trung, Thanh Hoá là cầu nối giữa đồng bằng Bắc
Bộ rộng lớn với dải đồng bằng nhỏ hẹp miền Trung và được bao bọc bởi núi
rừng trùng điệp: phía Bắc giáp các tỉnh Sơn La, Hoà Bình, Ninh Bình; phía
Tây giáp tỉnh Hủa Phăn (Lào) với đường biên giới dài 195 km; phía Nam giáp
tỉnh Nghệ An và phía Đông giáp vịnh Bắc Bộ với đường biển dài 102 km.
Phần đất liền của tỉnh Thanh Hoá chạy dài theo chiều từ Tây Bắc xuống
Đông Nam: điểm cực Bắc nằm ở vĩ tuyến 200
40’B thuộc xã Trung Sơn, huyện
Quan Hoá (giáp tỉnh Hoà Bình); điểm cực Nam nằm ở vĩ tuyến 190
18’B thuộc
xã Hải Hà huyện Tĩnh Gia (giáp tỉnh Nghệ An); điểm cực Tây nằm ở Kinh
tuyến 1040
22’Đ thuộc xã Quang Chiểu huyện Mường Lát (giáp nước Công hoà
dân chủ nhân dân Lào); điểm cực Đông nằm ở Kinh tuyến 1060
05’Đ thuộc xã
Nga Điền, huyện Nga Sơn (giáp tỉnh Ninh Bình). Với vị trí này, Thanh Hoá có
đầy đủ điều kiện trở thành hậu phương, cầu nối giữa hậu phương Liên khu IV
với các tỉnh phía Bắc trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.
Thanh Hoá có diện tích tự nhiên 11.13800km2
, với ba vùng: miền núi
-trung du, đồng bằng và miền biển tạo nên thế mạnh phát triển nền kinh tế
tổng hợp: nông - lâm - ngư nghiệp tự cấp, tự túc - yếu tố cơ bản trong xây
dựng căn cứ địa, hậu phương chống giặc ngoại xâm suốt chiều dài lịch sử.
Vùng núi Thanh Hoá chiếm ¾ đất tự nhiên: phía Đông là biển Đông, còn
ba mặt: Bắc - Tây - Nam núi rừng trùng điệp, hiểm trở. Núi non ở Thanh Hoá
11
mang nét đặc trưng của Tây Bắc bởi những dải núi đá vôi xen kẽ đá phiến. Phía
Nam sông Mã và phía Tây dọc biên giới Việt - Lào hiểm trở hơn với nhiều đỉnh
núi cao sừng sững như ngọn Phù Chó (Thường Xuân) cao 1.563m, ngọn Pù Rinh
(thuộc hai huyện Lang Chánh, Thường Xuân, cao 1.291m). Nơi đây thế kỷ XV là
căn cứ địa của nghĩa quân Lam Sơn trong những ngày đầu chống giặc Minh.
Cũng từ nơi đây, Lê Lợi đã lãnh đạo nghĩa quân tiến xuống đồng bằng, tiến vào
Nghệ An, tấn công ra Bắc, quét sạch giặc Minh ra khỏi bờ cõi. Trong cuộc kháng
chiến chống thực dân Pháp, vùng núi Thanh Hoá trở thành vị trí chiến lược, con
đường giao thông huyết mạch đưa nhân tài và vật lực ra tiền tuyến.
Đồng bằng Thanh Hoá so với các tỉnh miền Trung, màu mỡ, rộng lớn
hơn (chiếm gần một nửa đồng bằng Thanh - Nghệ - Tĩnh)1
, thuận lợi cho phát
triển nông nghiệp, thâm canh cây lúa nước và các loại hoa màu, phát triển
công nghiệp, thủ công nghiệp. Vùng biển với nhiều cửa lạch lớn: Lạch Sung,
Lạch Trường, Lạch Ghép, Lạch Bạng cùng các đảo: đảo Nẹ, đảo Mê và các
bán đảo Hà Sơn, Trường Lệ, Nghi Sơn… tạo nên vị trí tiền tiêu, phòng tuyến
quân sự. Thế kỷ XVIII, quân đội Tây Sơn đã dựa vào núi rừng, biển cả xứ
Thanh lập nên phòng tuyến Tam Điệp - Biện Sơn, phòng thủ và tiến công ra
Bắc tiêu diệt 29 vạn quân Thanh xâm lược.
Thanh Hoá có hệ thống sông lớn, bao gồm 5 hệ thống sông chính là:
sông Mã - sông Chu, sông Yên, sông Bạng, sông Hoạt, sông Chàng. Ngoài ra
còn có nhiều con sông nhỏ khác như: sông Cổ Tế, sông Lèn, sông Tống, sông
Kênh Than. Hệ thống sông ngòi này từ xa xưa đã có vai trò to lớn trong giao
thông vận tải, thuỷ lợi và ngăn bước quân thù. Giao thông đường thuỷ trở
thành nét đặc trưng trong quá trình vận chuyển lương thực, thực phẩm của
nhân dân Thanh Hoá trong kháng chiến chống thực dân Pháp.
Dân cư đông đúc, bên cạnh người Kinh còn có các dân tộc anh em: Mường,
Thái, H’Mông, Dao, Khơ Mú, Thổ, Tày, Hoa... Trải qua quá trình đấu tranh với
1
Đồng bằng Thanh - Nghệ - Tĩnh (Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh) có diện tích 62.000 ha.
12
thiên tai, địch hoạ, nhân dân Thanh Hoá sớm hình thành truyền thống yêu nước,
đoàn kết, cần cù, thông minh, sáng tạo trong lao động sản xuất, kiên cường dũng
cảm trong đấu tranh chống kẻ thù xâm lược, giữ gìn nền độc lập, tự chủ.
Ở vào vị trí chiến lược, điều kiện tự nhiên - xã hội như trên, Thanh Hoá
có đầy đủ 3 vùng: biển, đồng bằng, trung du - miền núi. Hai tuyến đường giáp
Ninh Bình và Hoà Bình ở phía Bắc và Nghệ An ở phía Nam đều có các dãy
núi, đồi kéo dài từ phía Tây ra tận biển tạo thành thế “tay ngai” ôm lấy đồng
bằng, thuận lợi cho việc cơ động lực lượng “tiến có thế đánh, lui có thế giữ”.
Đặc biệt, sau Cách mạng Tháng Tám, Thanh Hoá vẫn là vùng tự do nên
vùng đất này có đầy đủ điều kiện thuận lợi trở thành hậu phương lớn. Vì
vậy, cùng với Nghệ An và Hà Tĩnh, Thanh Hoá được Đảng và Chủ tịch Hồ
Chí Minh chọn làm căn cứ địa, hậu phương lớn trong kháng chiến chống thực
dân Pháp, giành độc lập dân tộc (1945 - 1954).
1.1.2. Truyền thống lịch sử văn hoá tỉnh Thanh Hoá
Lịch sử đã chứng minh, Thanh Hoá - vùng đất địa linh nhân kiệt, không
chỉ đã sản sinh ra các bậc hiền tài, đế vương mà còn giữ vị trí, vai trò chiến
lược trong các cuộc chiến tranh ái quốc vĩ đại.
Vào thế kỷ III, người con gái 19 tuổi Triệu Thị Trinh với lòng căm thù
giặc sâu sắc đã cùng anh trai chiêu mộ binh sĩ, phất cờ chống giặc Ngô. Câu nói
nổi tiếng của bà Triệu: “Tôi muốn cưỡi cơn gió mạnh, đạp luồng sóng dữ, chém
cá kình ở biển khơi, đánh đuổi quân Ngô, giành lại giang sơn, cởi ách nô lệ
chứ không chịu khom lưng làm người tì thiếp” không chỉ làm lay động vị trí
thống trị của quân xâm lược phương Bắc mà còn sống mãi với non sông Việt
Nam.
Năm 931, được sự ủng hộ của nhân dân và hào kiệt trong vùng, Dương
Đình Nghệ từ quê hương Thanh Hoá kéo quân ra Bắc, bao vây và công phá thành
13
Đại La - dinh luỹ của quân xâm lược Nam Hán. Năm 980 - 981, Lê Hoàn - người
con Thanh Hoá đã cầm quân đánh tan quân Tống xâm lược trên sông Bạch Đằng.
Thế kỷ XV, giặc Minh xâm lược nước ta, Lê Lợi - người con Lương
Giang đã dựng cờ quy tụ hiền tài, đãi ngộ tướng sĩ, phất cờ khởi nghĩa. Được
nhân dân cả nước đồng lòng hưởng ứng, từ cuộc khởi nghĩa Lam Sơn ở địa
phương đã phát triển thành cuộc chiến tranh giải phóng trong cả nước, làm
nên sự nghiệp Bình ngô năm 1428.
Ngoài những cuộc khởi nghĩa nổ ra tại địa phương do người Thanh Hoá
trực tiếp lãnh đạo, Thanh Hoá còn là hậu phương, căn cứ địa của nhiều cuộc
kháng chiến chống giặc ngoại xâm phương Bắc hết sức oanh liệt; đó là, trước sức
mạnh của Mông - Nguyên, triều Trần đã lui quân về Thanh Hoá, dựa vào địa thế
hiểm trở, vào kho người, kho của tại đây để cầm cự, chờ thời cơ phản công quét
sạch 50 vạn quân Nguyên. Năm 1789, Nguyễn Huệ chọn địa bàn Thanh Hoá
triển khai lực lượng, thần tốc tiến quân ra Bắc quét sạch 29 vạn quân Thanh.
Thực dân Pháp xâm lược nước ta, hưởng ứng chiếu Cần Vương, nhân dân
Thanh Hoá cùng cả nước đứng lên chống Pháp. Các cuộc khởi nghĩa do Đinh Công
Tráng, Tống Duy Tân, Hà Văn Mao, Cầm Bá Thước lãnh đạo đã thể hiện tinh thần
yêu nước, ý chí kiên cường bất khuất chống ngoại xâm của nhân dân Thanh Hoá.
Bên cạnh các cuộc khởi nghĩa trên, một số thanh niên yêu nước thức thời
của Thanh Hoá: Lê Hữu Lập, Lê Doãn Chấp đã sớm giác ngộ chủ nghĩa Mác -
Lênin, đi theo con đường cách mạng mà Nguyễn Ái Quốc đã lựa chọn. Vì vậy,
ngày 29 - 7 - 1930, Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam tỉnh Thanh Hoá ra đời đã
lãnh đạo nhân dân Thanh Hoá xây dựng lực lượng chính trị, vũ trang, xây dựng
chiến khu kháng chiến Ngọc Trạo, chiến khu Hoà - Ninh - Thanh (sau đó đổi
tên thành chiến khu Quang Trung), cùng cả nước chuẩn bị Tổng khởi nghĩa,
giành chính quyền. Ngày 23 - 8 - 1945, Tổng khởi nghĩa thắng lợi, chính quyền
cách mạng về tay nhân dân, nhân dân các dân tộc Thanh Hoá đã đoàn kết cùng
nhau bước vào thời kỳ mới, xây dựng và bảo vệ độc lập, tự do vừa giành được.
14
Kế thừa và phát huy truyền thống lịch sử lên tầm cao mới trong cuộc kháng
chiến chống thực dân Pháp, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh,
Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá đã nêu cao vai trò, vị trí của mình, lãnh đạo quân dân tỉnh
vừa bảo vệ chính quyền cách mạng, xây dựng hậu phương vững chắc, vừa huy
động và cung cấp nhân tài vật lực cho cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.
1.1.3. Yêu cầu của cuộc kháng chiến và chủ trương xây dựng hậu
phương của Đảng Cộng sản Việt Nam
Sau Cách mạng Tháng Tám, bên cạnh những thuận lợi cơ bản để kiến
thiết đất nước, nước ta đứng trước muôn vàn khó khăn, thách thức, tình thế cách
mạng như “ngàn cân treo sợi tóc”. Chính quyền cách mạng còn non trẻ; lực
lượng vũ trang ít về số lượng, hạn chế về trang bị kỹ thuật; nạn đói, nạn dốt, đặc
biệt, thù trong giặc ngoài bao vây nước ta bốn hướng, hòng cướp chính quyền
cách mạng còn non trẻ. Trong số kẻ thù Anh, Tưởng, Mỹ, Pháp, Việt quốc, Việt
cách… nguy hiểm nhất là thực dân Pháp. Chúng có đầy đủ cơ sở và điều kiện
để trở lại xâm lược nước ta lần 2. Vì vậy, Đảng ta nhận định “nhất định không
sớm thì muộn Pháp sẽ đánh mình và mình cũng nhất định phải đánh Pháp”.
Tình hình trên đặt ra: để thắng thực dân Pháp có tiềm lực kinh tế và
quốc phòng hùng mạnh, ngoài các nhiệm vụ cấp bách cần làm ngay: Bảo vệ
và giữ vững chính quyền cách mạng. Chống thực dân Pháp xâm lược. Bài trừ
nội phản. Cải thiện đời sống nhân dân, Đảng và Chính phủ còn đặt ra yêu cầu
xây dựng hậu phương, căn cứ địa cách mạng vững chắc cho cuộc kháng chiến.
Yêu cầu này ngày càng trở thành đòi hỏi bức thiết. Bởi vì, hậu phương không
chỉ bảo đảm đầy đủ, kịp thời về vật chất mà còn là điểm tựa tinh thần vững
chắc, nguồn động viên tinh thần to lớn cho tiền tuyến đánh giặc. Nghiên cứu
sức mạnh tổng hợp của chiến tranh cách mạng, chủ nghĩa Mác - Lênin luôn
đánh giá cao vai trò to lớn của hậu phương đối với tiến trình và kết cục thắng
lợi của chiến tranh cách mạng. V.I.Lênin chỉ rõ: “Trong chiến tranh, ai có
15
nhiều lực lượng hậu bị hơn, ai có nhiều nguồn lực, ai kiên trì đi sâu vào quần
chúng nhân dân hơn, thì người đó thu được thắng lợi” [58, tr. 271].
Vận dụng sáng tạo tư tưởng của Lênin về xây dựng hậu phương chiến
tranh vào tình hình cụ thể đất nước, Đảng ta đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã đồng thời tiến hành hai nhiệm vụ: vừa cứu đói, nâng cao đời sống
nhân dân, chống lại thù trong, giặc ngoài vừa tranh thủ thời gian “vàng”
chuẩn bị thực lực đánh Pháp. Vì vậy, cùng với Chỉ thị “Kháng chiến kiến
quốc” của Trung ương Đảng ngày 25 - 11 - 1945: “Kháng chiến phải đi đôi
với kiến quốc, kháng chiến có thắng lợi thì kiến quốc mới thành công, kiến
quốc có thành công thì kháng chiến mới thắng lợi”, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
giao nhiệm vụ cho đồng chí Trần Đăng Ninh, Nguyễn Lương Bằng trở lại Việt
Bắc, vạch tuyến, lựa chọn địa điểm xây dựng An toàn khu (ATK) cho Trung
ương Đảng và Chính phủ - cơ quan đầu não của cuộc kháng chiến.
Cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ, Liên khu IV nói chung, Thanh
Hoá nói riêng trở thành vùng tự do. Vì vậy, với cách nhìn bao quát, toàn diện
sâu sắc và trên cơ sở phân tích vị trí xung yếu, tiềm năng và thế mạnh của
tỉnh, Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chọn Thanh Hoá làm hậu
phương, căn cứ địa cách mạng. Ngày 20 - 2 - 1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh vào
Thanh Hoá trực tiếp giao nhiệm vụ cho nhân dân tỉnh xây dựng Thanh Hoá
thành tỉnh kiểu mẫu - căn cứ, hậu phương chiến lược trong kháng chiến chống
thực dân Pháp. Người chỉ thị: “Thanh Hoá phải trở nên một tỉnh kiểu mẫu, thì
phải làm sao cho mọi mặt: chính trị, kinh tế, quân sự, phải là kiểu mẫu. Làm
một người kiểu mẫu, một nhà kiểu mẫu, một làng kiểu mẫu, một huyện kiểu
mẫu, một tỉnh kiểu mẫu. Quyết tâm làm thì sẽ thành kiểu mẫu” [62, tr.62].
Về chính trị: toàn dân đoàn kết, yêu nước, chống Pháp. Chính quyền là
đầy tớ của nhân dân, phải thanh khiết từ to đến nhỏ.
16
Về quân sự: phá hoại triệt để, đào hầm trú ẩn để tránh nạn tàu bay.
Đường sá, đường cái, đường xe lửa phải phá hết, cản bước tiến quân thù, tổ
chức chiến tranh du kích đánh địch bằng súng chim, súng kíp, gậy, cày, cuốc…
Về kinh tế: phải sản xuất tự cấp, tự túc, dù thực dân Pháp phong toả 10
năm, 15 năm cũng không sợ. Phải làm cho người nghèo đủ ăn, người giàu thì
giàu thêm. Phải lấy sức dân, của dân, tài dân làm lợi cho dân, chống ỷ lại
Chính phủ, phát huy ý thức tự lực tự cường…
Về văn hoá: phải tiêu diệt giặc dốt, làm cho mọi người biết đọc, biết viết,
phải phát triển phong trào bình dân học vụ, xây dựng phát triển hệ thống giáo
dục phổ thông, nâng cao dân trí, chăm lo sức khoẻ cho nhân dân lao động…
Để xây dựng Thanh Hoá thành tỉnh kiểu mẫu, Chủ tịch Hồ Chí Minh
chỉ ra những điều kiện cơ bản:
Một là, phải xây dựng được đội ngũ cán bộ có đức, có tài: “Cán bộ là
cái dây chuyền của bộ máy. Nếu dây chuyền không tốt, không chạy thì động
cơ dù tốt dù chạy toàn bộ máy cũng tê liệt. Cán bộ là người đem chính sách
của Chính phủ, của đoàn thể thi hành trong nhân dân, nếu cán bộ dở thì chính
sách hay cũng không thực hiện được” [62, tr.54].
Hai là, phải động viên được mọi tầng lớp nhân dân trong tỉnh tham gia.
Người viết: “Tôi mong rằng, trong công việc đó, tất cả những người có tài, có
đức, có sức, có của, có công đều hăng hái ra giúp, toàn thể đồng bào trong tỉnh
đều hăng hái tham gia. Như thế thì nhất định sẽ thành công” [62, tr.55].
Ngày 21 - 2 - 1947, Bác Hồ gửi thư cho đồng bào Thượng du, Người
khích lệ lòng ái quốc của đồng bào các dân tộc và các vị lang đạo, đồng thời kêu
gọi đồng bào Thượng du đoàn kết, ủng hộ kháng chiến và giết giặc cứu nước.
Xây dựng Thanh Hoá thành tỉnh kiểu mẫu tức là xây dựng chế độ dân
chủ nhân dân phát triển toàn diện ở hậu phương, tạo ra tiềm lực hùng hậu đảm
bảo đời sống của nhân dân trong tỉnh và chi viện cho kháng chiến. Vì, theo
Người “Chiến sĩ hy sinh xương máu để giữ đất nước. Bụng có no, thân có ấm
17
thì mới đánh được giặc. Làm ra gạo thóc cho chiến sĩ ăn, làm ra vải vóc cho
chiến sĩ mặc. Đều nhờ nơi đồng bào ở hậu phương… Hậu phương thắng lợi,
chắc tiền phương thắng lợi” [61, tr.486]. Sự chỉ đạo này không chỉ có ý nghĩa
đối với riêng tỉnh Thanh Hoá mà còn là mô hình “kháng chiến, kiến quốc” cho
các tỉnh noi theo, đồng thời tạo ra sức mạnh tổng hợp của hậu phương không
chỉ cung cấp sức người, sức của cho các chiến trường mà còn đánh bại mọi âm
mưu càn quét, phá hoại hậu phương của kẻ thù.
Bên cạnh quan điểm chỉ đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh về xây dựng tỉnh
Thanh Hoá kiểu mẫu, Nghị quyết Hội nghị Cán bộ Trung ương tháng 4 - 1947
chỉ rõ: một trong những nhiệm vụ cần kíp mà Đảng phải đặc biệt quan tâm là
xây dựng căn cứ địa kháng chiến và “Muốn cho căn cứ địa được vững chắc
phải gia tăng việc vận động quần chúng; đào tạo cán bộ địa phương, tổ chức
việc tiễu phỉ trừ gian, ở các căn cứ địa sát mặt trận, phải tổ chức ngay những
“công tác đội võ trang” các “đội danh dự trừ gian” và chuẩn bị các “tiểu tổ
bí mật” như trước hồi Tổng khởi nghĩa Tháng Tám” [41, tr.184]. Vì vậy, cùng
với căn cứ địa Việt Bắc, Đảng và nhân dân ta đã phát huy vai trò của vùng hậu
phương rộng lớn, bao gồm các khu du kích, các vùng tự do ở khu III, khu IV,
khu V, Nam Bộ... tạo thành thế liên hoàn, vừa bao vây kẻ thù, vừa cung cấp
sức người, sức của cho tuyền tuyến, động viên ý chí niềm tin cho những người
lính trên chiến trường. Đây chính là một trong những nhân tố thường xuyên
quyết định thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Pháp.
Quán triệt chủ trương của Đảng, khắc sâu lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí
Minh, Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá đã đề ra chủ trương, lãnh đạo nhân dân tỉnh
xây dựng hậu phương, căn cứ địa vững chắc, chuẩn bị mọi mặt cho cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp.
1.2. Chủ trương của Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá xây dựng hậu phương,
chi viện cho tiền tuyến trong những năm đầu kháng chiến chống thực dân
Pháp (1945 - 1950)
18
Nhận thức sâu sắc trách nhiệm và vinh dự lớn của căn cứ địa, hậu
phương của cuộc kháng chiến, Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá đã vượt qua mọi khó
khăn trong những ngày đầu toàn quốc kháng chiến, cụ thể hoá đường lối của
Đảng và Chỉ thị Chủ tịch Hồ Chí Minh thành mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp cụ
thể trên tất cả các lĩnh vực: chính trị, kinh tế, quân sự, văn hoá - xã hội, từng
bước xây dựng Thanh Hoá trở thành tỉnh kiểu mẫu - hậu phương vững mạnh,
kịp thời cung cấp đầy đủ sức người, sức của tới các chiến trường, đồng thời tổ
chức chiến đấu tốt, bảo vệ hậu phương trong mọi tình huống.
Xây dựng hậu phương về mặt chính trị là một nhiệm vụ quan trọng, giữ vị
trí hàng đầu, then chốt của công cuộc xây dựng và bảo vệ hậu phương trong chiến
tranh cách mạng. Chủ trương của Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá là khẩn trương phát
triển số lượng đảng viên và tổ chức cơ sở đảng, đáp ứng yêu cầu ngày càng
cao về cán bộ và sự lãnh đạo của Đảng đối với cuộc kháng chiến.
Đầu tháng 9 - 1945, Tỉnh uỷ Thanh Hoá triệu tập Hội nghị mở rộng tại
thị xã Thanh Hoá bàn biện pháp củng cố và xây dựng các tổ chức cơ sở đảng ở
các địa phương, phát triển đảng viên mới. Ngày 18 - 11 - 1945, Tỉnh uỷ mở
hội nghị bàn và quyết định những biện pháp củng cố và phát triển Mặt trận
Việt Minh. Sự lãnh đạo sáng suốt và biện pháp kịp thời của Đảng bộ tỉnh đã
tăng cường sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân, bổ sung những cán bộ
cốt cán cho các cấp chính quyền cơ sở, tập hợp đông đảo các tầng lớp nhân
dân tham gia bảo vệ và xây dựng chính quyền cách mạng.
Nhận thức rõ tầm quan trọng về xây dựng Đảng, Đại hội Đảng bộ tỉnh
lần thứ nhất chỉ rõ: Công tác xây dựng, củng cố phát triển đảng viên phải được
tiến hành thường xuyên, liên tục. Vì vậy, đi đôi với nâng cao chất lượng đảng
viên, Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá còn có những biện pháp tăng cường chất lượng
tổ chức cơ sở đảng. Tháng 4 - 1948, Hội nghị cán bộ Đảng bộ tỉnh họp tại xã
Thuần Lộc (Thọ Xuân), quyết định xây dựng chi bộ theo phương châm đạt 3
tiêu chuẩn, 3 danh hiệu do Liên khu uỷ đề ra: tự động, tiến bộ, gương mẫu
19
[28, tr.112]. Phương châm này đã có tác dụng củng cố chất lượng cơ sở đảng,
tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng trong quần chúng, nâng cao chất lượng
đảng viên. Các đảng bộ trong tỉnh đều lấy mục tiêu đoàn kết nội bộ, đoàn kết
toàn dân, sinh hoạt đều, nâng cao năng lực lãnh đạo để phấn đấu. Đại hội đại
biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ nhất tháng 2 - 1948 đã kiểm điểm việc thực hiện Chỉ
thị kháng chiến của Trung ương và lời dạy của Bác Hồ “xây dựng Thanh Hoá
thành một tỉnh kiểu mẫu”. Đại hội xác định nhiệm vụ đẩy mạnh mọi mặt công
tác ở vùng Thượng du với khẩu hiệu “Thượng du thắng là Thanh Hoá thắng”
và đề ra nhiệm vụ “xây dựng Thanh Hoá thành hậu phương vững mạnh để kịp
thời cung cấp đầy đủ sức người, sức của cho chiến trường, đồng thời tổ chức
chiến đấu tốt để bảo vệ hậu phương trong mọi tình huống” [15, tr.55].
Giữa năm 1948, Hội nghị Đảng bộ Liên khu IV lần thứ nhất xác định:
Thanh - Nghệ - Tĩnh là vùng hậu phương của Liên khu, thống nhất quan điểm
lãnh đạo kháng chiến, tăng cường công tác cán bộ. Hội nghị còn nhấn mạnh
việc xây dựng và bảo vệ nơi đây thành hậu phương của cả nước, uốn nắn một
số lệch lạc trong phát triển Đảng, đoàn kết kháng chiến và thực thi các chính
sách của Đảng.
Trong công tác xây dựng Đảng, mục tiêu của Đảng bộ tỉnh đề ra trong
năm 1947 - 1950: tích cực phát triển đảng viên mới, nhanh chóng xây dựng cơ
sở đảng ở các ngành, các cấp, tổ chức chi bộ Đảng ở các xã, thành lập Đảng bộ
huyện để đảm bảo tuyệt đối sự lãnh đạo của Đảng.
Bên cạnh công tác xây dựng Đảng, thực hiện Sắc lệnh số 01/SL của
Chính phủ, tháng 3 - 1947, Uỷ ban kháng chiến tỉnh Thanh Hoá được thành lập,
đồng chí Đặng Việt Châu - phái viên của Chính phủ được bổ nhiệm làm Chủ
tịch. Song song với Uỷ ban kháng chiến, Uỷ ban Hành chính do đồng chí Đặng
Thai Mai làm Chủ tịch; Uỷ ban kháng chiến đặc biệt miền Thượng du Thanh
Hoá cũng được thành lập. Nhiệm vụ của Uỷ ban kháng chiến là giúp cấp uỷ
thực hiện và đôn đốc công tác kháng chiến, giúp đỡ đồng bào tản cư, động viên
20
nhân dân góp sức người, sức của cho công cuộc kháng chiến. Xét thấy Uỷ ban
kháng chiến và Uỷ ban hành chính đều có nhiệm vụ như nhau, tháng 4 - 1947,
hai uỷ ban này được hợp nhất thành Uỷ ban hành chính kháng chiến do đồng
chí Đặng Việt Châu được chỉ định làm Chủ tịch, đồng chí Đặng Thai Mai được
Trung ương điều ra Việt Bắc làm nhiệm vụ mới.
Cuộc kháng chiến của dân tộc ta bước sang giai đoạn mới, yêu cầu
lương thực, thực phẩm cho chiến trường ngày càng tăng. Đầu năm 1949,
nhiệm vụ xây dựng hậu phương chi viện cho tiền tuyến được Đại hội tỉnh lần
thứ III chỉ rõ: “Về chính trị: thống nhất Mặt trận Việt Minh và Liên Việt, đẩy
mạnh công tác giáo vận, tích cực tuyên truyền vận động cách mạng trong đồng
bào các dân tộc thiểu số, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, củng cố chính
quyền” [24, tr.58].
Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh, tinh thần tận tuỵ, gương mẫu của
tuyệt đại đa số cán bộ đảng viên, hệ thống tổ chức chính quyền và đoàn thể
không ngừng được củng cố và ngày càng vững mạnh, sự ủng hộ và tín nhiệm
tuyệt đối của nhân dân, Thanh Hoá từng bước xây dựng hậu phương vững chắc
về chính trị. Sự vững mạnh này có ý nghĩa quyết định đối với xây dựng hậu
phương về kinh tế, quân sự, văn hoá - xã hội.
Xây dựng hậu phương về kinh tế là một lĩnh vực quan trọng, có ý nghĩa
quyết định vai trò của hậu phương đối với cuộc kháng chiến.
Quán triệt chủ trương của Đảng, khắc sâu lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí
Minh “Thanh Hoá phải ra sức tăng gia sản xuất để đi tới tự cấp tự túc gắn với
thực hành tiết kiệm. Trong thu, chi phải ngăn nắp, rõ ràng. Chương trình, kế
hoạch phải thiết thực, đúng với lực lượng, sát với hoàn cảnh” [71, tr.13], Đại
hội Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá lần thứ hai chỉ rõ: “Tiếp tục đẩy mạnh sản xuất,
xây dựng tổ đổi công hợp tác xã (bậc thấp), triệt để thực hiện giảm tô 25%,
phát triển tiểu thủ công để có nhiều hàng tiêu dùng cung ứng cho yêu cầu của
địa phương, tăng cường tiếp tế cho vùng Thượng du, bao vây kinh tế của địch”
21
[25, tr.58]. Cùng với chủ trương đẩy mạnh sản xuất lương thực. Năm 1947,
Tỉnh uỷ chủ trương thành lập công xưởng sản xuất lựu đạn, súng, mìn và các loại vũ khí
thô sơ cung cấp cho lực lượng vũ trang địa phương.
Xây dựng hậu phương về kinh tế không chỉ đáp ứng nhu cầu đời sống
nhân dân mà còn tạo ra nguồn của cải vật chất, chi viện kịp thời cho tiền tuyến
“ăn no đánh thắng”.
Xây dựng hậu phương về quân sự. Sức mạnh của hậu phương không chỉ
về chính trị, kinh tế mà còn bao gồm cả lĩnh vực quân sự. Mục tiêu đánh phá chủ
yếu của địch vào hậu phương của ta là chống phá nơi nguồn cung cấp sức người,
sức của cho tiền tuyến. Vì vậy, xây dựng quân sự ở hậu phương và chiến đấu bảo
vệ hậu phương diễn ra thường xuyên và ngày càng gay go quyết liệt.
Ngay từ những ngày đầu kháng chiến, Thanh Hoá nhanh chóng phát triển
lực lượng dân quân du kích tự vệ tập trung. Hầu hết các huyện đều thành lập
một trung đội tập trung với số lượng từ 25 - 30 người. Thị xã Thanh Hoá tổ
chức hai đội tự vệ. Chi đội Đinh Công Tráng phát triển thành trung đoàn Đinh
Công Tráng - trung đoàn chủ lực, lực lượng quân sự nòng cốt của tỉnh gồm 2
tiểu đoàn bộ binh cơ động, 3 đại đội trinh sát, công binh, lựu pháo, tích cực
chuẩn bị cơ sở từng trọng điểm, chuẩn bị chiến trường, sẵn sàng đánh địch.
Thấy rõ vị trí, vai trò quan trọng của hậu phương Thanh Hoá, thực dân
Pháp đem quân đánh vào vùng biển và vùng núi Thanh Hoá thăm dò sự đề
phòng, uy hiếp tinh thần của nhân dân nơi đây, đồng thời cũng là lựa chọn
hướng chiến lược cho ý đồ mở rộng chiến tranh trong thu đông 1947: tiến
công Việt Bắc - căn cứ địa kháng chiến hoặc vùng tự do Thanh - Nghệ - Tĩnh.
Miền Tây Thanh Hoá giữ vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng, là cửa
ngõ tiếp giáp với nước bạn Lào, cầu nối giữa Liên khu IV với Tây Bắc và Việt
Bắc, thực dân Pháp đã sử dụng chiến thuật “vết dầu loang”, đánh vào các
huyện miền Tây: Hồi Xuân, La Hán, Cổ Lũng, Yên Khương… từ đây đánh
chiếm toàn bộ miền Tây, uy hiếp vùng đồng bằng, trung châu Thanh Hoá, tây
22
nam Hoà Bình, làm cơ sở thuận tiện đánh ra Liên khu III và Việt Bắc, cắt đứt
đường liên lạc Vạn Mai - Suối Rút (Hoà Bình), đồng thời chia cắt mối quan hệ
đoàn kết chiến đấu giữa Thượng Lào và Thanh Hoá.
Tình hình mới đặt ra, Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ hai tháng 4 - 1949
nêu ra nhiệm vụ xây dựng hậu phương về quân sự: “xây dựng bộ đội vững
mạnh, phát triển dân quân, du kích. Những nơi giặc Pháp chiếm đóng, quân
dân tổ chức chiến đấu tiêu diệt sinh lực địch và làm tốt công tác địch vận và
kiện toàn bộ đội địa phương; tăng cường và phát triển dân quân; tích cực xây
dựng lực lượng chủ lực về quân số, lương thực, vũ khí; tăng cường xây dựng
bố phòng…” [87, tr.38]. Đại hội đặc biệt chỉ ra: chú trọng vùng xung yếu
miền Tây, Nga Sơn, Hà Trung, Hoằng Hoá, Quảng Xương, đường số 1A, các
bến sông lớn và đường rút lui của địch như Quan Hoá, Bá Thước, Cẩm Thuỷ,
Thạch Thành… và đề ra khẩu hiệu “Thượng du thắng là Thanh Hoá thắng”,
xây dựng miền Tây - địa bàn chiến lược quan trọng của cách mạng Thanh Hoá
và nước bạn Lào anh em.
Cuộc kháng chiến ngày càng ác liệt, vùng chiếm đóng của Pháp theo
“vết dầu loang” lan rộng, không chỉ ở đồng bằng Bắc Bộ, Việt Bắc mà còn huy
động lực lượng trở lại đánh chiếm một số điểm ở miền Tây Thanh Hoá. Trước
tình hình đó, tháng 7 - 1950, Hội nghị Tỉnh uỷ mở rộng tại xã Hợp Thành -
Triệu Sơn đề ra nhiệm vụ giai đoạn mới: “1. Quyết chiến, quyết thắng để bảo vệ
Thanh Hoá - một hậu phương quan trọng của cả ba chiến trường: Bắc Bộ, Lào,
Bình Trị Thiên. 2. Dốc nhân, tài, vật lực cung cấp cho chiến trường Bắc Bộ và
chiến trường Thượng Lào” [21, tr.90]. Đại hội cũng chỉ rõ nhiệm vụ quân sự
của tỉnh: tích cực chi viện cho chiến trường Bình - Trị - Thiên, cung cấp kịp
thời sức người sức của cho chiến trường Bắc Bộ, xây dựng kinh tế, cải thiện đời
sống nhân dân, xây dựng chính quyền, củng cố khối đoàn kết toàn dân.
Xây dựng hậu phương về văn hoá - xã hội. Cùng với xây dựng hậu
phương Thanh Hoá về chính trị, kinh tế, quân sự, Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá rất
chú trọng đến lĩnh vực văn hoá - xã hội. Từng bước đưa chủ trương của Đảng
23
vào thực tiễn Thanh Hoá và thực hiện lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh:
“Thanh Hoá có tiếng là văn vật, nhưng nay xét số người biết chữ còn ít hơn
người chưa biết chữ… Tôi có ý kiến ra kỳ hạn trong một năm phải thanh toán
cho xong nạn mù chữ” [62, tr.59], Đảng bộ tỉnh đã đưa ra mục tiêu: Gấp rút
thanh toán nạn mù chữ, tiến lên học bổ túc văn hoá, kêu gọi nhân dân chống
nạn thất học “người biết chữ dạy người chưa biết chữ, người biết chữ nhiều
dạy cho người biết chứ ít, phụ nữ lại càng phải học”.
Cùng với đẩy mạnh phong trào bình dân học vụ, phong trào xây dựng “đời
sống văn hoá - nếp sống kháng chiến” và đẩy mạnh hoạt động y tế từng bước
vừa nâng cao dân trí, vừa bảo đảm sức khoẻ, đời sống tinh thần của nhân dân.
Nhận thức rõ vị trí, vai trò chiến lược của tỉnh sau Cách mạng Tháng
Tám, Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá đã kịp thời khắc phục khó khăn, củng cố, bảo
vệ chính quyền cách mạng, sớm đưa ra chủ trương xây dựng hậu phương trên
tất cả các lĩnh vực. Điều này thể hiện đường lối đúng đắn của Đảng ta, đứng
đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, đồng thời phản ánh sự nhạy bén, kịp thời của
Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá trước hoạ xâm lăng của thực dân Pháp.
1.3. Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá chỉ đạo xây dựng hậu phương, chi viện
cho tiền tuyến trong những năm đầu kháng chiến chống thực dân Pháp
(1945 - 1950)
1.3.1. Đảng bộ tỉnh Thanh hoá chỉ đạo xây dựng hậu phương
Xây dựng hậu phương về chính trị là một trong những nhiệm vụ quan
trọng của công cuộc xây dựng và bảo vệ hậu phương, trong đó đặt lên hàng
đầu nhiệm vụ xây dựng Đảng. Vì vậy, trong các năm 1947 - 1950, thực hiện
lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá xem công tác xây
dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt để đẩy mạnh phong trào cách mạng. Năm
1947, toàn tỉnh có 2.800 đảng viên, đến năm 1950 đã có 37.442 đảng viên.
Các huyện Thượng du đã thành lập được Đảng bộ. Hầu hết các xã đều xây
dựng chi bộ Đảng. Số đảng viên là nữ có trên 4000 người, số đảng viên là
24
người dân tộc là hơn 500 người [15, tr.223]. Ở vùng đồng bào theo đạo Thiên
chúa đã xây dựng được một số chi bộ Đảng.
Tuy vậy, do công tác phát triển Đảng gấp rút nên chất lượng một số đảng
viên yếu. Một bộ phận cán bộ đảng viên trình độ văn hoá chưa cao và chưa kinh
qua hoạt động thực tiễn nên nhận thức về Đảng, kinh nghiệm cách mạng còn
hạn chế. Ngoài ra, còn bộ phận đảng viên xuất thân từ thành phần bóc lột nên
giác ngộ chính trị còn hạn chế, ít được quần chúng nhân dân tin yêu.
Để nâng cao chất lượng cán bộ, đảng viên, Tỉnh uỷ đã đề ra giải pháp:
“mở các lớp bình dân học vụ bồi dưỡng văn hoá cho bộ phận cán bộ đảng viên
có trình độ văn hoá thấp; tổ chức các lớp bồi dưỡng lý luận và kinh nghiệm
công tác cho cán bộ, đảng viên mới, tiến hành công tác kiểm tra, loại bỏ những
phần tử phẩm chất chính trị kém, chỉ đạo phấn đấu và xếp loại cơ sở đảng theo
các mục tiêu: “chi bộ gương mẫu”, “chi bộ tự động”, “chi bộ tiến bộ”; xây
dựng nề nếp sinh hoạt Đảng dựa trên nguyên tắc tập trung dân chủ, phát huy
phê bình và tự phê bình trong Đảng bộ…” [15, tr.223 - 224].
Tỉnh uỷ còn mở các lớp bồi dưỡng chủ nghĩa Mác - Lênin, đường lối chủ
trương của Đảng tới các huyện uỷ viên, chi uỷ viên thời gian từ 1 đến 3 tháng và
giao cho từng Huyện uỷ mở lớp bồi dưỡng lý luận cho đảng viên từ 10 đến 15
ngày. Các huyện như: Vĩnh Lộc, Hoằng Hoá, Thiệu Hoá, Thọ Xuân, Yên Định…
Huyện uỷ chỉ đạo mở các lớp bình dân học vụ cho cán bộ, đảng viên học hết
chương trình cấp I, từng bước nâng cao chất lượng và sức chiến đấu của đảng viên.
Dưới sự chỉ đạo của Tỉnh uỷ, trình độ cán bộ, đảng viên, chất lượng lãnh
đạo của các Đảng bộ dần dần được nâng cao, từng bước đáp ứng yêu cầu kháng
chiến, kiến quốc. Năm 1949, Đảng bộ huyện Tĩnh Gia, Quảng Xương, Hoằng
Hoá, Vĩnh Lộc, Nông Công, Nga Sơn đã xây dựng được nhiều “chi bộ tự
động”, “chi bộ tiến bộ” và “chi bộ gương mẫu”. Năm 1950, Đảng bộ tỉnh
Thanh Hoá đã có 53% tổng số chi bộ đạt danh hiệu “chi bộ tự động”. Chi bộ
25
Tượng Lĩnh (Tĩnh Gia) được công nhận là “chi bộ gương mẫu” đầu tiên của
tỉnh Thanh Hoá.
Bên cạnh đó, Tỉnh uỷ chỉ đạo củng cố Mặt trận Việt Minh, phát triển
Hội Liên Việt, củng cố, phát triển các tổ chức cứu quốc và các đoàn thể quần
chúng như: Công hội, Nông hội, Thanh niên, Phụ nữ… vững mạnh. Để nâng
cao tính tiên phong gương mẫu, các cấp uỷ đảng đã chỉ đạo đấu tranh chống
quan liêu, mệnh lệnh, đấu tranh và đưa ra khỏi các cấp lãnh đạo những người
thoái hoá, biến chất, tăng cường những cán bộ, đảng viên đủ phẩm chất, năng
lực lãnh đạo chính quyền, mặt trận và các đoàn thể quần chúng. Vì vậy, năm
1948, tổ chức Liên Việt có 183.801 hội viên, đến năm 1949 đã tăng lên
249.700 hội viên [86, tr.25]. Tổ chức này đã đứng ra lãnh đạo các cuộc vận
động, huy động nhân dân mua công trái ủng hộ kháng chiến, quyên góp “ủng
hộ Bình - Trị - Thiên”, “Mùa đông binh sĩ”, “dân quân tự túc”…
Đối với đồng bào các dân tộc, tôn giáo, Tỉnh uỷ chỉ đạo chính quyền, mặt
trận các cấp vận động họ tham gia kháng chiến, kiến quốc, xây dựng bản, làng
theo đời sống mới, đấu tranh tư tưởng với bọn lang đạo phản động, củng cố
khối đoàn kết toàn dân, xây dựng hậu phương, phục vụ kháng chiến.
Như vậy, cùng với xây dựng Đảng, các tổ chức quần chúng khác cũng
được Tỉnh uỷ rất chú trọng phát triển và tổ chức chặt chẽ, tạo thành sức mạnh
của khối đại đoàn kết toàn dân trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.
Nhận thức rõ xây dựng hậu phương về kinh tế là một lĩnh vực quan
trọng, có ý nghĩa quyết định trong vai trò của hậu phương đối với cuộc kháng
chiến, Tỉnh ủy đã chỉ đạo huy động sự đóng góp về vật chất phục vụ kháng chiến:
Đẩy mạnh phong trào thi đua sản xuất lương thực để cung cấp cho kháng chiến. Lập
kho lương dự trữ phản công ở mỗi xã, mỗi thôn. Tỉnh uỷ chỉ đạo phát động phong
trào thi đua lập kho lương phản công trong toàn tỉnh. Cổ động nhân dân bán gạo cho
Nhà nước theo phương châm “Giàu phải đong nhiều, nghèo đong ít”. “Nhà giàu xuất
của, nhà nghèo xuất công”. Đẩy nhanh tốc độ sản xuất các ngành công nghiệp quốc
26
phòng, nâng cao trình độ kỹ thuật để có dự trữ quân dụng, vũ khí, cung cấp kịp thời cho
mặt trận. Mỗi địa phương đều phải có một tiểu đoàn vận tải. Cấp tốc mở lớp đào tạo vận
tải ở các huyện, khẩn trương sửa chữa cầu, đường và lập các trạm, các bến cất hàng, trữ
hàng, đảm bảo cung cấp kịp thời cho chiến trường.
Thực hiện lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Tỉnh uỷ chỉ đạo các cấp vận
động nhân dân thực hiện khẩu hiệu “tấc đất tấc vàng”, khuyến khích khai hoang phục
hoá. Uỷ ban hành chính kháng chiến tỉnh đã chỉ đạo các cấp thực hiện việc chia ruộng đất cho
phụ nữ từ 18 tuổi trở lên, vận động các chủ ruộng nhường bớt ruộng cho người nghèo cày cấy,
nhiều hình thức tổ chức sản xuất tập thể trong nông nghiệp như tổ đổi công, hợp tác xã phát
triển nhanh, những nơi có nhiều đồi núi, lập trại sản xuất dân quân. Trong canh tác, nhân dân
đã áp dụng tốt các biện pháp khoa học kỹ thuật, diện tích canh tác được mở rộng, năng suất,
sản lượng lương thực tăng.
Để đảm bảo người nông dân có ruộng cày cấy, Tỉnh uỷ đã kịp thời chỉ
đạo việc chia lại công điền, công thổ và ruộng đất của bọn Việt gian phản
quốc cho nông dân, vận động các gia đình có nhiều ruộng đất hiến điền. “Năm
1948 có 2.497 điền chủ thực hiện giảm tô trên diện tích 13.770 mẫu ruộng,
năm 1949 tăng lên 23.777 mẫu ruộng được giảm tô. Năm 1950 hầu hết các
chủ đất phải thực hiện triệt để giảm tô 25%” [14, tr.53]. Thông qua phong trào
hiến điền, chính quyền cách mạng đã nhận được 1.799 mẫu. Năm 1949, nông
dân tỉnh đã bán 7.963 tấn lúa khao quân và đóng góp hàng ngàn tấn cung cấp
cho bộ đội địa phương. Biểu dương tinh thần đóng góp nuôi quân của nhân
dân Thanh Hoá, ngày 15 - 6 - 1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi thư khen
ngợi các xã xuất sắc nhất: “Tân Tiến đã ủng hộ 1.300.000 đồng, xã Hoằng Lộc
ủng hộ 2.200.000 đồng, xã Đông Anh đã ủng hộ 3.800.000 đồng” [63, tr.63].
Cùng với việc chia ruộng đất cho dân cày, Tỉnh uỷ chỉ đạo thành lập
công xưởng Đức Huấn, Cao Thắng, Phạm Hồng Thái sản xuất lựu đạn, súng,
mìn và các loại vũ khí thô sơ cung cấp cho lực lượng vũ trang nhân dân địa
phương. Năm 1949, Thanh Hoá có 3 điểm sản xuất vũ khí cung cấp cho chiến
trường “Tại núi Đa Nê, huyện Yên Định có hai xưởng đúc vỏ đạn moóc-chi-
27
ne, mìn, lựu đạn; xưởng Phan Huy Thuần sản xuất súng kíp; Thọ Xuân sản
xuất đao, kiếm, lựu đạn” [38, tr.141]; “xưởng quân giới Chu Lễ là nơi đầu
tiên chế tạo được axít sunphuaríc bằng phương pháp thủ công” [23, tr.289].
Các ngành nghề thủ công truyền thống địa phương như: dệt vải, dệt lụa,
đan lưới, đúc đồng, sản xuất giấy, làm muối phát triển. Năm 1949, tỉnh có 30 cơ
sở sản xuất giấy đạt sản lượng 172 tấn/năm. Ở các huyện Tĩnh Gia, Quảng
Xương, Hoằng Hoá, Hậu Lộc, nghề đi biển và diện tích làm muối được mở rộng,
tăng sản lượng phục vụ cho nhân dân, cung cấp cho các tỉnh và nước bạn Lào.
Hưởng ứng chủ trương phát hành công trái của Chính phủ, các tầng lớp
nhân dân Thanh Hoá đã tích cực tham gia mua “công trái kháng chiến”. Hầu
hết các huyện thị đều nhiệt tình hưởng ứng, điển hình là Hà Trung mua 2,1
triệu đồng, huyện Nông Cống mua 2,2 triệu đồng.
Dưới sự chỉ đạo của Tỉnh uỷ, kinh tế Thanh Hoá phát triển: diện tích đất
nông nghiệp tăng, người nông dân có ruộng cày cấy, sức kéo và hệ thống tưới
tiêu đảm bảo; công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp phát triển, tài chính được
kiểm soát… giải quyết được nhu cầu vật chất tại chỗ, nâng cao đời sống nhân
dân, động viên các dân tộc hăng hái thi đua lao động sản xuất, quyết tâm xây
dựng Thanh Hoá thành tỉnh kiểu mẫu.
Khắc sâu lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh “phá hoại triệt để, đào
hầm trú ẩn để tránh nạn tàu bay. Đường sá, đường cái, đường xe lửa phải
phá hoại hết…” và thực hiện Chỉ thị “Tiêu thổ kháng chiến” của Uỷ ban
kháng chiến tỉnh, công cuộc xây dựng hậu phương về quân sự được Tỉnh uỷ
chỉ đạo “vừa thực hiện “Tiêu thổ kháng chiến”, vừa chỉ đạo các ngành, các
cấp và nhân dân trong tỉnh tích cực xây dựng thế trận chiến tranh nhân dân,
sẵn sàng chiến đấu đập tan các cuộc tiến công của địch, bảo vệ hậu phương
trong mọi tình huống” [15, tr.218]. Ở vùng ven biển và các khu vực trọng yếu
bị địch đánh phá (Nga Sơn, Hà Trung, Quảng Xương, Tĩnh Gia, miền Tây…)
28
nhân dân đã kết hợp với lực lượng vũ trang rào làng chiến đấu, xây dựng hệ
thống phòng thủ chiến đấu và tiến công địch, xây dựng hầm hào bí mật cất dấu
lương thực, thực phẩm, của cải và ẩn nấp. Tỉnh uỷ chỉ đạo: “khi địch tấn công,
triệt để làm nhà không, vườn trống, tổ chức sơ tán, phân tán bảo vệ an toàn
tính mạng, tài sản của nhân dân. Các cơ quan quân sự, công an xây dựng
phương án sẵn sàng chiến đấu” [15, tr.217].
Để đối phó với âm mưu phá hoại hậu phương Thanh Hoá của thực dân
Pháp, Ban Chấp hành Tỉnh uỷ đã họp và đề ra kế hoạch bảo vệ tính mạng, tài
sản của nhân dân, bảo vệ vững chắc hậu phương Thanh Hoá. Theo kế hoạch
đề ra, Thanh Hoá được chia thành 5 khu vực tác chiến và thành lập ở mỗi khu
vực một ban tác chiến, kịp thời tổ chức lực lượng và chỉ huy đánh địch trong
mọi tình huống:
“Khu vực 1 gồm Nga Sơn, Hà Trung, Hậu Lộc do đồng chí Sác - tiểu
đoàn trưởng tiểu đoàn 375 làm chỉ huy.
Khu vực 2 gồm Hoằng Hoá, Đông Sơn, Quảng Xương và Tĩnh Gia do
đồng chí Dản chỉ huy.
Khu vực 3 gồm Thạch Thành, Cẩm Thuỷ và Vĩnh Lộc do tiểu đoàn 391
của trung đoàn 9, đại đoàn 304 phụ trách.
Khu vực 4 là Thọ Xuân và khu vực 5 gồm Thiệu Hoá, Yên Định. Cả 2 khu
vực này đặt dưới quyền chỉ huy trực tiếp của Tỉnh đội Thanh Hoá” [30, tr.126]. Năm
khu vực tác chiến này đặt dưới sự lãnh đạo chỉ huy của Ban chỉ huy Mặt trận Thanh
Hoá, luôn sẵn sàng chiến đấu và tổ chức phối hợp chiến đấu với các đơn vị Liên khu
III, đánh địch xâm nhập từ phía Bắc và từ biển vào, từ phía Tây sang, góp phần phá
vỡ phòng tuyến sông Mã của địch, tiêu diệt, bức rút, bức hàng nhiều đồn bốt, giải
phóng hoàn toàn miền Tây Thanh Hoá, khai thông các con đường chiến lược nối hậu
phương Thanh Hoá với căn cứ địa Việt Bắc và tuyến biên giới Việt - Lào.
29
Cùng với việc củng cố tổ chức, chỉ huy, Tỉnh uỷ rất coi trọng công tác
huấn luyện nâng cao sức chiến đấu toàn diện của lực lượng vũ trang. Năm
1948, thực hiện Chỉ thị của Trung ương Đảng và Sắc lệnh của Chủ tịch Hồ
Chí Minh về xây dựng bộ đội địa phương và phát triển dân quân, du kích,
Tỉnh uỷ chỉ đạo các cấp bộ Đảng, chính quyền, các cơ quan quân sự tăng
cường quân số, vũ khí cho các đơn vị vũ trang nhân dân và phát động phong
trào “Luyện quân lập công”, “Rèn cán, chỉnh quân”, nâng cao chất lượng
chiến đấu. Bên cạnh đó, Đảng bộ và chính quyền tỉnh còn phát động toàn dân
thực hiện ba cuộc vận động: “1.Tất cả nhân dân tham gia dân quân. 2. Tăng
gia sản xuất tự túc. 3. Tiến tới thành lập các làng chiến đấu” [29, tr.88].
Thực hiện nhiệm vụ trên, năm 1950, 14 huyện trung châu, mỗi huyện đều
có 1 đại đội bộ đội địa phương. Cũng thời gian này, Thanh Hoá thành lập thêm đại
đội 57 - bộ đội địa phương tỉnh. Đến đây, “lực lượng vũ trang Thanh Hoá có tiểu
đoàn bộ đội địa phương 275, đại đội 109 và 57 bộ đội địa phương tỉnh và 3 đại đội
ở miền núi, 14 đại đội của các huyện trung châu. Lực lượng vũ trang và bán vũ
trang toàn tỉnh có 227.248 cán bộ chiến sĩ” [29, tr.92]. Các đại đội Hà Văn Mao,
Cầm Bá Thước, Tống Duy Tân hành quân về Cẩm Thuỷ để rèn cán, chỉnh quân,
sau đó tiếp tục trở lại mặt trận miền Tây tham gia chiến đấu bảo vệ hậu phương.
Đây là thành quả của phong trào thi đua củng cố và phát triển lực lượng
của Đảng bộ và quân dân Thanh Hoá, đánh dấu sự trưởng thành của lực lượng
vũ trang Thanh Hoá với đầy đủ sức chiến trong công cuộc xây dựng, bảo vệ
vững chắc hậu phương và sẵn sàng chi viện cho tiền tuyến.
Xây dựng hậu phương về văn hoá - xã hội được thể hiện qua phong trào
bình dân học vụ, thi đua xoá nạn mù chữ và học bổ túc văn hoá phát triển sâu
rộng toàn tỉnh. Tỉnh uỷ chỉ đạo mở nhiều lớp học ở các làng xã, dưới nhiều
hình thức, tổ chức: “học ban ngày, học ban đêm, học tập trung, học phân tán.
Thiếu giấy, bút, đồng bào dùng lá chuối, que nhọn để viết, không có đèn dầu,
nhân dân thắp đuốc để học tập… tất cả già trẻ, gái trai đều tham gia dạy và
30
học” [15, tr.227]. Vì vậy, cuối năm 1949, số người biết đọc, biết viết chữ quốc
ngữ ở Thanh Hoá tăng, chỉ còn 29% dân số mù chữ, trong đó lực lượng vũ
trang 95% đều biết đọc, viết thông thạo. Thanh Hoá là nơi một số trường Liên
khu III tản cư như: trường Nguyễn Thượng Hiền, Lê Quý Đôn và một phân
hiệu dự bị đại học ở Thiệu Hoá, trường Y sĩ Việt Nam ở Nông Cống.
Phong trào xây dựng đời sống văn hoá - nếp sống kháng chiến được
nhân dân tích cực hưởng ứng, nạn mê tín dị đoan, tục lệ lạc hậu dân được xoá
bỏ, khuyến khích nhân dân xây dựng nếp sống văn minh, thực hiện tiết kiệm
trong hiếu, hỉ, tương trợ giúp đỡ đồng bào tản cư.
Để đáp ứng số lượng y, bác sĩ của tỉnh đặt ra, Tỉnh uỷ chỉ đạo ngành y tế
Thanh Hoá chú trọng mở các lớp đào tạo y, bác sĩ ngắn và dài hạn. Kết quả đến
năm 1950 đã đạt “33 nữ hộ sinh sơ cấp, 337 cán bộ cứu thương xã, 238 cán bộ
cứu thương học đường, 17 cán bộ tải thương. Xây dựng được 25 trạm cấp cứu,
26 trạm cứu thương, 2 trạm giải phẫu miền Tây và Vĩnh Lộc [83, tr.4].
Sự chỉ đạo kịp thời của Đảng bộ tỉnh, hậu phương Thanh Hoá đã đạt được
những thành tựu trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, quân sự, văn hoá - xã
hội, tạo cơ sở và nguồn lực chi viện cho tiền tuyến những năm đầu kháng chiến,
góp phần quan trọng đánh bại âm mưu xâm lược của thực dân Pháp.
1.3.2. Đảng bộ tỉnh Thanh hoá chỉ đạo chi viện cho tiền tuyến trong
những năm đầu kháng chiến chống thực dân Pháp
Sau Cách mạng Tháng Tám, cùng với nhân dân cả nước chống thực dân
Pháp, từ ngày 23 - 9 - 1945 đến ngày 6 - 1 - 1946, Thanh Hoá đã tiễn 3 đại đội lên
đường Nam tiến. Con em tỉnh Thanh Hoá đã chiến đấu ngoan cường góp phần
không nhỏ chặn đứng âm mưu “đánh nhanh, thắng nhanh” của Pháp ở Nam Bộ.
Ở vào vị trí địa đầu của vùng tự do Thanh - Nghệ - Tĩnh, Thanh Hoá có
vị trí quan trọng đối với diễn biến chiến sự của đồng bằng Bắc Bộ và Bình -
Trị - Thiên. Những năm 1947 - 1948, chiến sự Bình - Trị - Thiên diễn ra khốc
liệt, gây ra nhiều tổn thương cho nhân dân ba tỉnh. Nhân dân Thanh Hoá
31
không chỉ tiếp nhận nuôi dưỡng, chăm sóc sức khoẻ cho thương binh, bộ đội,
nhiều nữ thanh niên xung phong làm hộ lý, phục vụ các trạm thương binh ở
Tây Hồ, Xuân Minh (huyện Thọ Xuân) mà còn hưởng ứng tuần lễ “Ủng hộ
Bình - Trị - Thiên” và “Tuần lễ binh sĩ” của Liên khu IV phát động. Các đoàn
thể và nhân dân Thanh Hoá đã cùng với Nghệ Tĩnh đóng góp được 1.875.000
đồng, công nhân “làm giờ cứu nước”, Thanh Hoá góp được 1.037.185 đồng.
Liên đoàn lao động tỉnh đã động viên gần 100 cán bộ, đoàn viên bổ sung cho
các ngành dân chính Đảng và xây dựng cơ sở kháng chiến Bình - Trị - Thiên,
vận động quyên góp ủng hộ 73.500 đồng, chuyển vào ba tỉnh trên 100 tấn gạo,
320 tấn muối, 21.000 mét vải, 10.000 viên thuốc sốt rét, 300 súng trường,
35.000 quả lựu đạn, 200 đạn Bazoka…
Thực hiện khẩu hiệu “tất cả để đánh thắng” của Trung ương Đảng và
Nghị quyết của Đại hội Đảng bộ tỉnh, Thanh Hoá đã phát động toàn dân
hướng ra tiền tuyến, tất cả để chiến thắng. Các phong trào sửa cầu, sửa đường
đảm bảo giao thông được nhân dân hưởng ứng và tham gia sôi nổi. Tháng 4 -
1949, các đội chi viện tiếp tế vận tải được thành lập đã vận chuyển và cung
cấp tới Liên khu III, Liên khu X gần 500 tấn gạo, 200 tấn muối và Bình - Trị -
Thiên 55 tấn lúa. Cung cấp cho bộ đội và nhân dân Thượng du 99 tấn gạo, 160
tấn muối và 1 tấn cá khô.
Thấy rõ vị trí chiến lược của hậu phương Thanh Hoá, thực dân Pháp sử
dụng lực lượng với trang bị vũ khí hiện đại tấn công vào hậu phương Thanh
Hoá ở 2 địa bàn trọng yếu: miền biển và miền núi, hòng cắt đứt cửa ngõ tiếp
giáp, chi viện giữa hậu phương Thanh Hoá với Tây Bắc, Việt Bắc và Thượng
Lào. Để đối phó với âm mưu xâm lược của Pháp, Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá chỉ
đạo quân dân tỉnh vừa đánh địch tại chỗ, bảo vệ hậu phương (trọng điểm là
miền Tây Thanh Hoá) vừa đẩy mạnh sản xuất, chi viện cho các chiến trường
trong nước và nước bạn Lào. Với khẩu hiệu “Thượng du thắng là Thanh Hoá
32
thắng”, quân và dân miền Tây Thanh Hoá liên tục tiến công tiêu diệt địch, gây
cho địch nhiều khó khăn, tạo điều kiện cho quân và dân ta giành thắng lợi
trong chiến dịch Lê Lợi tháng 11 - 1949. Trong chiến dịch này, Bộ Chỉ huy
chiến dịch đã phân công đồng chí Hoàng Sâm - Tư lệnh chiến dịch chỉ huy tác
chiến từ Hồi Xuân (Thanh Hoá) tiến quân đến Mai Hạ (Hoà Bình), đồng chí
Lê Trọng Tấn xuất phát từ Chợ Bờ tiến quân lên Suối Rút (Hoà Bình). Nhận
thức rõ vị trí của mình, các đại đội bộ đội địa phương Hà Văn Mao, Cầm Bá
Thước, dân quân du kích huyện Quan Hoá, Bá Thước đã phối hợp với các đại
đội 72, 78, 138 kiềm chế địch trong các đồn, hạn chế sự đánh phá của chúng
và ngăn chặn mọi hành động phản động của bọn lang đạo địa phương, đồng
thời hỗ trợ đắc lực cho các trung đoàn 209 thuộc Bộ, trung đoàn 66 của Liên
khu III và trung đoàn 9 của Liên khu IV tiến công địch ở đường 6 - Hòa Bình,
nhằm tiêu diệt sinh lực địch, phá âm mưu chia cắt chiến trường của chúng,
khai thông liên lạc giữa Việt Bắc với đồng bằng Liên khu III, đẩy mạnh chiến
tranh du kích. Kết thúc chiến dịch, ta loại khỏi vòng chiến đấu khoảng 800 tên
địch, con đường nối miền Tây Thanh Hoá với Chợ Bờ - Suối Rút (Hoà Bình)
được khai thông. Con đường này là tuyến giao thông huyết mạch nối hậu
phương Thanh Hoá với các chiến trường chi viện cho tiền tuyến, đỉnh cao là
chiến dịch Điện Biên Phủ sau này.
Năm 1950, quân và dân Thanh Hoá tiêu diệt vị trí Mường Xía (Quan
Sơn), giải phóng hoàn toàn miền Tây - vùng đất có vị trí, ý nghĩa chiến lược đặc
biệt quan trọng, không chỉ khai thông con đường giao thông huyết mạch nối
hậu phương Thanh Hoá với chiến trường trong nước mà còn đối với nước bạn
Lào. Vì vậy, cũng thời gian này, Chính phủ kháng chiến Lào từ Tuyên Quang
chuyển về Thanh Hoá, các đoàn chuyên gia và các đơn vị bộ đội tình nguyện
giúp bạn Lào cũng về Thanh Hoá. Đảng bộ và nhân dân Thanh Hoá không chỉ
cung cấp, vận chuyển lương thực, thực phẩm cho căn cứ của bạn ở tỉnh Hủa
33
Phăn mà còn giúp đỡ Chính phủ kháng chiến Lào và các đơn vị tình nguyện xây
dựng nơi ăn chốn ở. Thanh Hoá trở thành căn cứ trực tiếp của cách mạng Lào.
*
* *
Cùng cả nước bước vào cuộc kháng chiến, Đảng bộ Thanh Hoá đã quán
triệt sâu sắc chủ trương của Đảng và khắc sâu lời dạy của Bác Hồ, phát huy
những nhân tố “thiên thời, địa lợi, nhân hoà” của vùng địa linh nhân kiệt, kịp
thời đưa ra chủ trương sát hợp với thực tế, lãnh đạo, chỉ đạo quân và dân tỉnh
xây dựng, bảo vệ Thanh Hoá trở thành tỉnh kiểu mẫu - căn cứ hậu phương
kháng chiến trên tất cả các lĩnh vực: chính trị, kinh tế, quân sự, văn hoá - xã
hội, tạo ra tiềm lực vật chất và tinh thần không chỉ đảm bảo yêu cầu đời sống
nhân dân tại chỗ, bước đầu chi viện cho tiền tuyến mà còn tạo ra tiền đề, cơ sở
vững chắc, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của cuộc kháng chiến chuyển sang
giai đoạn mới.
34
Chương 2
ĐẢNG BỘ TỈNH THANH HOÁ LÃNH ĐẠO ĐẨY MẠNH XÂY DỰNG
HẬU PHƯƠNG, TĂNG CƯỜNG CHI VIỆN CHO TIỀN TUYẾN
(1951 - 1954)
2.1. Yêu cầu nhiệm vụ cách mạng và chủ trương của Đảng bộ tỉnh
Thanh Hoá đẩy mạnh xây dựng hậu phương, tăng cường chi viện cho tiền
tuyến (1951 - 1954)
2.1.1. Yêu cầu nhiệm vụ cách mạng và chủ trương của Đảng Cộng
sản Việt Nam giai đoạn mới
Gần 5 năm kháng chiến, kiến quốc, nhân dân ta đã giành được những
thắng lợi to lớn trên tất cả các mặt: chính trị, kinh tế, quân sự, văn hoá - xã hội.
Đặc biệt, sau thắng lợi của chiến dịch Biên giới năm 1950, quân ta đã tiêu diệt
một bộ phận sinh lực địch, giải phóng biên giới phía Bắc, gắn cuộc kháng chiến
của ta với “hậu phương” rộng lớn các nước dân chủ nhân dân và các nước xã hội
chủ nghĩa, mở rộng khu Việt Bắc, giành thế chủ động trên chiến trường Bắc Bộ,
tạo ra tình thế mới, đưa cuộc kháng chiến sang giai đoạn phản công chiến lược.
Trên đà thắng lợi, Trung ương Đảng khẳng định: “Tổng phản công của ta
sẽ là một giai đoạn lâu dài. Rồi đây, có sự chi viện của Liên xô và Trung Quốc về
vật chất, vũ khí, trang bị, ta sẽ đỡ khó khăn nhưng giành được thắng lợi phải do
sự nỗ lực của bản thân ta” [44, tr.414]. Điều này chỉ rõ, cuộc kháng chiến của
nhân dân ta vẫn là cuộc kháng chiến “trường kỳ, gian khổ và dựa vào sức mình
là chính” tiếp tục thực hiện thắng lợi đồng thời hai nhiệm nhiệm vụ: đánh bại
thực dân Pháp và can thiệp Mỹ, giành độc lập dân tộc và người cày có ruộng. Để
thực hiện thắng lợi mục tiêu, nhiệm vụ của cuộc kháng chiến giai đoạn mới,
Đảng ta chỉ đạo, tăng cường tổng động viên nhân lực, vật lực, tài lực và tinh thần
của toàn dân theo khẩu hiệu: “Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng”.
35
Trước yêu cầu và nhiệm vụ cách mạng giai đoạn mới đặt ra, Đại hội lần
thứ II của Đảng diễn ra từ ngày 11 đến ngày 19 - 2 - 1951, tại Chiêm Hoá,
Tuyên Quang đã đề ra nhiệm vụ cơ bản của cách mạng Việt Nam “a. đánh
đuổi bọn đế quốc xâm lược, làm cho Việt Nam hoàn toàn thống nhất và độc
lập (phản đế); b. Xoá bỏ những di tích phong kiến và nửa phong kiến, làm cho
người cày có ruộng, phát triển chế độ dân chủ nhân dân (phản phong kiến); c.
Gây cơ sở cho chủ nghĩa xã hội” [44, tr.75]. Về mối quan hệ giữa các nhiệm
vụ chiến lược, Đại hội chỉ rõ: “Nhiệm vụ dân tộc và dân chủ khăng khiết với
nhau. Song lúc này, phải tập trung mọi lực lượng để kháng chiến, đặng hoàn
thành nhiệm vụ giải phóng dân tộc. Đó là trọng tâm của cách mạng trong giai
đoạn hiện tại. Nhiệm vụ dân chủ cũng phải làm, nhưng chỉ có thể làm trong
phạm vi không có hại mà có lợi cho việc tập trung lực lượng, hoàn thành
nhiệm vụ giải phóng dân tộc” [44, tr.76]. Đại hội lần thứ II của Đảng chính là
mốc son đánh dấu sự trưởng thành trong quá trình lãnh đạo cách mạng, thể
hiện sự sáng suốt của Đảng trong việc nắm bắt quy luật phát triển của cuộc
kháng chiến, phù hợp với xu thế của thời đại.
Giữa lúc cuộc kháng chiến của nhân dân ta liên tiếp giành nhiều thắng lợi
quan trọng trên chiến trường, ngày 25 - 1 - 1953, Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp
hành Trung ương (khoá II) đã nhấn mạnh hai vấn đề chính: “1. Lãnh đạo kháng
chiến và chính sách quân sự. 2. Phát động quần chúng năm nay triệt để giảm tô,
thực hiện giảm tức để tiến đến cải cách ruộng đất" [47, tr.20 - 23]. Ba nhiệm vụ
lớn: Tiêu diệt sinh lực địch; phá âm mưu của địch dùng người Việt đánh người
Việt, lấy chiến tranh nuôi chiến tranh; bồi dưỡng lực lượng nhân dân, lực lượng
kháng chiến và bốn công tác chính là: Thi đua tăng gia sản xuất và tiết kiệm; đẩy
mạnh công tác trong vùng sau lưng địch; chỉnh quân; chỉnh Đảng [47, tr.27].
Ba nhiệm vụ và bốn công tác có mối quan hệ mật thiết với hai vấn đề to
nói trên. Vì, chỉ có thực hiện chính sách ruộng đất một cách đúng đắn và triệt để
thì mới có thể phát động được đông đảo quần chúng, mới có thể dựa vào lực
36
lượng nông dân để duy trì kháng chiến trường kỳ, phát triển và củng cố bộ đội,
tranh lấy thắng lợi hoàn toàn.
Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ tư (khóa II) đã đề ra chủ trương
tiến hành cải cách ruộng đất, thực hiện khẩu hiệu “Người cày có ruộng”
ngay trong những năm kháng chiến, đáp ứng nguyện vọng ngàn đời của
người nông dân, mang lại quyền lợi chính đáng cho gia đình, hậu phương
bộ đội, dân công... cổ vũ tinh thần, niềm tin của nhân dân đối với kháng
chiến, tạo nên sức mạnh tổng hợp của cả hậu phương và tiền tuyến. Vì vậy,
Chỉ thị: “Toàn dân, toàn Đảng tập trung chi viện cho tiền tuyến” với khẩu
hiệu “Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng” được nhân dân hưởng
ứng nhiệt tình ở cả vùng tự do cũng như ở vùng còn bị địch tạm chiếm.
Nhân dân vừa tích cực đóng thuế nông nghiệp, bán thực phẩm, vừa cho vay,
ủng hộ kháng chiến cả bằng hiện vật, cả bằng tiền để cung cấp, tiếp tế cho
bộ đội ở mặt trận Điện Biên Phủ. Khẩu hiệu “người cày có ruộng” đã ảnh
hưởng mạnh mẽ đến “Tinh thần và lực lượng kháng chiến của hàng triệu
nông dân được động viên mạnh mẽ, khối liên minh công nông được tăng
cường, chính quyền nhân dân và Mặt trận dân tộc thống nhất được củng cố,
sức chiến đấu của quân đội nhân dân được tăng lên chưa từng thấy, mọi mặt
hoạt động kháng chiến được đẩy mạnh. Cuộc vận động này đã góp phần
quyết định vào chiến thắng Điện Biên Phủ” [40, tr.18].
Trước yêu cầu mới của cuộc kháng chiến đặt ra, đòi hỏi Đảng bộ, quân
dân Thanh Hoá vừa xây dựng, củng cố, bảo vệ hậu phương vững mạnh toàn
diện, vừa chi viện kịp thời, to lớn cho cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp
mà đỉnh cao là chiến dịch Điện Biên Phủ.
2.1.2. Chủ trương của Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá đẩy mạnh xây dựng
hậu phương, tăng cường chi viện cho tiền tuyến (1951 - 1954)
37
Hoà chung với phong trào cách mạng của cả nước chuẩn bị cho tổng
phản công, làm tròn sứ mệnh lịch sử của căn cứ, hậu phương kháng chiến,
Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá tiến hành Đại hội đại biểu lần thứ III từ ngày 20 - 6
đến ngày 5 - 7 - 1950 tại Sơn Trung, xã Hợp Thành, huyện Nông Cống. Đại hội
đánh giá: trong thời gian qua, Đảng bộ và nhân dân tỉnh đã tích cực thi đua lập
nhiều thành tích to lớn trên các mặt: chính trị, kinh tế, quân sự, văn hoá - xã
hội… Tuy vậy, vẫn chưa đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của cuộc kháng chiến,
kiến quốc. Trước yêu cầu đòi hỏi sức người sức của ngày càng cao của cuộc
kháng chiến, Đại hội khẳng định: Thanh Hoá không thể không xây dựng thành
căn cứ địa vững chắc, lâu dài của chiến trường chính, của Liên khu. Thanh Hoá
phải: “Phát triển khả năng mọi mặt, xây dựng vững chắc, phục vụ lâu dài. Cụ thể
là không ỷ lại, chờ đợi, phải tự mình ra sức, bền bỉ và kiên quyết vượt qua mọi
khó khăn gian khổ và đồng thời phải tin vào dân, dựa vào dân để phát huy mọi
sức lực, sáng kiến của nhân dân để phát triển và xây dựng những khả năng sẵn có
thành lực lượng hùng hậu, vững chắc phục vụ lâu dài” [15, tr.234].
Với quyết tâm xây dựng Thanh Hoá thành căn cứ địa, hậu phương vững
chắc, tăng cường chi viện sức người, sức của cho tiền tuyến, Đại hội đề ra nhiệm vụ:
“Tăng cường sức mạnh của chế độ dân chủ nhân dân, khuyến khích mọi
lực lượng nhân dân tham gia xây dựng, bảo vệ hậu phương ngày càng vững
mạnh, củng cố chính quyền và mặt trận.
Đẩy mạnh sản xuất, thực hành tiết kiệm, thực hiện chính sách ruộng đất,
đảm bảo quyền lợi của nông dân để bồi dưỡng sức dân, đáp ứng nhu cầu ngày
càng cao của chiến trường.
Xây dựng lực lượng quân sự mạnh, tăng cường công tác bố phòng, đẩy
mạnh chiến tranh nhân dân trong vùng địch tạm chiếm; đề cao chiến tranh
cảnh giác trước những âm mưu và thủ đoạn nham hiểm của địch, đập tan các
tổ chức phản động, gián điệp, giữ vững hậu phương.
Xây dựng Đảng theo đúng tinh thần của chủ nghĩa Mác - Lênin, kiện
toàn tổ chức, đẩy mạnh công tác tư tưởng, coi “đấu tranh tư tưởng là con
38
đường phát triển của Đảng”, nâng cao ý thức giai cấp và tinh thần quốc tế vô
sản” [15, tr.234 - 235].
Đại hội đồng thời phát động phong trào thi đua yêu nước trong toàn tỉnh
với khẩu hiệu “Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng” nhằm động viên
sức người, sức của của căn cứ địa Thanh Hoá cho tiền tuyến.
Dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo sáng suốt của Đảng bộ tỉnh, tinh thần đấu tranh
kiên cường của quân và dân Thanh Hoá đã góp phần không nhỏ cùng cả nước
liên tiếp đánh bại chiến lược “Dùng người Việt đánh người Việt, lấy chiến
tranh nuôi chiến tranh”.
Giành thế chủ động trên chiến trường, Trung ương Đảng, đứng đầu là
Chủ tịch Hồ Chí Minh quyết định mở nhiều chiến dịch lớn, tiêu diệt bộ phận
sinh lực địch, thu hẹp vùng chiếm đóng của chúng, giải phóng đất đai, mở rộng
vùng giải phòng. Cuộc kháng chiến ngày càng đòi hỏi cao về vật chất và tinh
thần từ hậu phương. Đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của cuộc kháng chiến,
Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá từng bước nghiên cứu tình hình thực tiễn của tỉnh, đề
ra chủ trương tăng cường tiềm lực hậu phương, chi viện cao nhất, nhiều nhất
sức người sức của cho cuộc kháng chiến giành thắng lợi.
Từ thực tiễn cuộc kháng chiến, từ ngày 1 đến ngày 5 - 5 - 1952, Đảng
bộ tỉnh Thanh Hoá tiến hành Đại hội lần thứ IV, đánh giá một nhiệm kỳ tổ
chức lãnh đạo sự nghiệp cách mạng, đề ra phương hướng nhiệm vụ mới, bầu
Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh. Đại hội chỉ rõ: “từ Đại hội lần thứ III đến nay,
trải qua những biến chuyển lớn của tình hình toàn quốc và những chủ trương
công tác mới do tình hình đề ra, phong trào chung toàn tỉnh đã có sự thay đổi,
lúc lên, lúc xuống, khi nặng nề, khi quật khởi” [87, tr.296].
Về mặt phục vụ tiền tuyến, Đảng bộ và nhân dân tỉnh đã đạt được thành
tích lớn trong 3 chiến dịch, cung cấp trên 40 vạn dân công (đây là số lượng
dân công dài hạn, chưa kể số lượng dân công ngắn hạn), tải trên 6.000 tấn
gạo, không chỉ góp phần vào thắng lợi trên chiến mà nhân dân tỉnh Thanh Hoá
còn tham gia nuôi dưỡng bộ đội, chăm sóc thương binh.
39
Từ đánh giá trên, Đại hội đã nhìn thẳng vào sự thật, phân tích cụ thể điểm
mạnh, yếu của hậu phương Thanh Hoá, từ đó đề ra 4 nhiệm vụ sau đây:
“1. Phát triển sản xuất cải thiện dân sinh, thực hiện dân chủ, “trước mắt là
thực hiện cho có kết quả công tác trung tâm đại vận động sản xuất và tiết kiệm để
đẩy mạnh kháng chiến. 2. Tích cực phục vụ tiền tuyến và bảo vệ hậu phương
“lấy việc xây dựng cơ sở nhân dân làm căn bản”. 3. Củng cố và phát triển khối
đại đoàn kết toàn dân, đập tan âm mưu chia rẽ của quân thù “dùng người Việt
đánh người Việt, lấy chiến tranh nuôi chiến tranh”. 4. Xây dựng căn cứ địa miền
núi là nhiệm vụ chung của toàn Đảng bộ từ trung châu đến miền núi… nhiệm vụ
của tất cả các ngành với tinh thần “Thượng du xây dựng vững chắc là Thanh Hoá
xây dựng vững chắc” [87, tr.250].
Từ 4 nhiệm vụ cơ bản trên, Đại hội đề ra những mục tiêu cụ thể:
Về quân sự: cần tăng cường sự lãnh đạo của Đảng bộ trong quân đội,
theo dõi tình hình địch sát sao; học tập chỉ đạo du kích chiến, xây dựng dân
quân du kích; củng cố và phát huy kết quả chỉnh huấn đợt 2; đẩy mạnh công
tác bảo mật phòng gian; tích cực chống giặc càn quét, đột nhập vào vùng ven
biển, đề cao cảnh giác, chống gián điệp, biệt kích; đẩy mạnh chiến tranh nhân
dân và du kích chiến ở vùng tạm chiến Nga Sơn và miền núi.
Về chính trị: ra sức củng cố khối đại đoàn kết toàn dân trong mặt trận Liên
Việt, đặc biệt chú trọng việc đoàn kết nông dân, lấy công nông liên minh làm nền
tảng. Đối với đồng bào công giáo phải nắm vững chính sách tự do tín ngưỡng,
vạch rõ âm mưu lợi dụng giáo dân của kẻ thù để giáo dục vận động giáo dân
đoàn kết tham gia kháng chiến. Đối với đồng bào các dân tộc thiểu số miền núi,
Đảng và chính quyền luôn tôn trọng phong tục tập quán của địa phương, theo
đúng chính sách dân tộc: đoàn kết để kháng chiến. Đối với trí thức, phải nhận rõ
vai trò và khả năng cách mạng của lao động trí óc, cần giúp đỡ, giáo dục lập
trường kiên định kháng chiến. Phải xây dựng các tổ chức quần chúng đặc biệt là
công đoàn và nông hội làm nền tảng cho mặt trận, trên cơ sở khối liên minh công
40
nông. Phải xây dựng chính quyền nhân dân, gắn chặt nhân dân với chính quyền.
Phải làm cho cán bộ, chính quyền được nhân dân yêu mến, tin phục.
Về kinh tế: lấy phát triển sản xuất làm đầu. Không phát triển được sản
xuất thì không thể có kinh tế, tài chính. Phải thi hành chính sách ruộng đất để
“đoàn quân chủ lực” nông dân có điều kiện tăng gia sản xuất và phát triển
nghề thủ công. Cần nhanh chóng thống nhất quản lý tài chính, thực hiện tiết
kiệm bài trừ tham ô lãng phí, giáo dục ý thức bảo vệ của công. Xúc tiến việc
thu thuế nông nghiệp và công thương nghiệp. Ra sức bảo vệ đồng tiền hạt thóc
của công vì đó là mồ hôi và xương máu của đồng bào, chiến sĩ ở hậu phương
và cả tiền phương. Cần xúc tiến việc đấu tranh kinh tế với địch, nhất là các xã
gần vùng địch, bài trừ xa xỉ phẩm, không dùng hàng hoá của địch. Đảm bảo tự
cung tự cấp, nhân dân có thêm tiềm lực kinh tế đóng góp cho kháng chiến
ngày càng đòi hỏi nhiều hơn trên các chiến trường.
Về văn hoá - xã hội: Đảng bộ chủ trương phát triển nền giáo dục nhân dân,
phát triển phong trào bình dân học vụ và các trường cấp I, xây dựng các trường cấp II
và tư thục. Tăng cường giáo dục tư tưởng cho giáo sư2
và học sinh. Đưa chi bộ vào
nhà trường để lãnh đạo giáo dục nâng cao chất lượng giảng dạy và học tập của nhà
trường. Phụ huynh và nhân dân cũng được giáo dục để góp phần xây dựng nhà
trường.
Đối với văn hoá, văn nghệ, phải hướng dẫn và phát triển văn nghệ nhân
dân rộng rãi nhằm phục vụ sản xuất, phục vụ kháng chiến. Văn nghệ sĩ chuyên
nghiệp được giáo dục để đảm bảo hướng dẫn phong trào văn nghệ nhân dân ngày
càng phát triển rộng rãi và mạnh mẽ.
Về xây dựng Đảng: đề cao công tác tư tưởng, “coi đấu tranh tư tưởng là
con đường phát triển của Đảng”, “vì sự tiến bộ về tư tưởng đã đưa Đảng bộ và
toàn bộ phong trào ngày càng phát triển”. Tăng cường ý thức giai cấp công nhân
2
Lúc này, thầy, cô giáo dạy từ cấp 2 trở lên được gọi là giáo sư
41
Xây dựng hậu phương chi viện trong kháng chiến chống Pháp, HAY
Xây dựng hậu phương chi viện trong kháng chiến chống Pháp, HAY
Xây dựng hậu phương chi viện trong kháng chiến chống Pháp, HAY
Xây dựng hậu phương chi viện trong kháng chiến chống Pháp, HAY
Xây dựng hậu phương chi viện trong kháng chiến chống Pháp, HAY
Xây dựng hậu phương chi viện trong kháng chiến chống Pháp, HAY
Xây dựng hậu phương chi viện trong kháng chiến chống Pháp, HAY
Xây dựng hậu phương chi viện trong kháng chiến chống Pháp, HAY
Xây dựng hậu phương chi viện trong kháng chiến chống Pháp, HAY
Xây dựng hậu phương chi viện trong kháng chiến chống Pháp, HAY
Xây dựng hậu phương chi viện trong kháng chiến chống Pháp, HAY
Xây dựng hậu phương chi viện trong kháng chiến chống Pháp, HAY
Xây dựng hậu phương chi viện trong kháng chiến chống Pháp, HAY
Xây dựng hậu phương chi viện trong kháng chiến chống Pháp, HAY
Xây dựng hậu phương chi viện trong kháng chiến chống Pháp, HAY
Xây dựng hậu phương chi viện trong kháng chiến chống Pháp, HAY
Xây dựng hậu phương chi viện trong kháng chiến chống Pháp, HAY
Xây dựng hậu phương chi viện trong kháng chiến chống Pháp, HAY
Xây dựng hậu phương chi viện trong kháng chiến chống Pháp, HAY
Xây dựng hậu phương chi viện trong kháng chiến chống Pháp, HAY
Xây dựng hậu phương chi viện trong kháng chiến chống Pháp, HAY
Xây dựng hậu phương chi viện trong kháng chiến chống Pháp, HAY
Xây dựng hậu phương chi viện trong kháng chiến chống Pháp, HAY
Xây dựng hậu phương chi viện trong kháng chiến chống Pháp, HAY
Xây dựng hậu phương chi viện trong kháng chiến chống Pháp, HAY
Xây dựng hậu phương chi viện trong kháng chiến chống Pháp, HAY
Xây dựng hậu phương chi viện trong kháng chiến chống Pháp, HAY
Xây dựng hậu phương chi viện trong kháng chiến chống Pháp, HAY
Xây dựng hậu phương chi viện trong kháng chiến chống Pháp, HAY
Xây dựng hậu phương chi viện trong kháng chiến chống Pháp, HAY
Xây dựng hậu phương chi viện trong kháng chiến chống Pháp, HAY
Xây dựng hậu phương chi viện trong kháng chiến chống Pháp, HAY
Xây dựng hậu phương chi viện trong kháng chiến chống Pháp, HAY
Xây dựng hậu phương chi viện trong kháng chiến chống Pháp, HAY
Xây dựng hậu phương chi viện trong kháng chiến chống Pháp, HAY
Xây dựng hậu phương chi viện trong kháng chiến chống Pháp, HAY
Xây dựng hậu phương chi viện trong kháng chiến chống Pháp, HAY
Xây dựng hậu phương chi viện trong kháng chiến chống Pháp, HAY
Xây dựng hậu phương chi viện trong kháng chiến chống Pháp, HAY
Xây dựng hậu phương chi viện trong kháng chiến chống Pháp, HAY
Xây dựng hậu phương chi viện trong kháng chiến chống Pháp, HAY
Xây dựng hậu phương chi viện trong kháng chiến chống Pháp, HAY
Xây dựng hậu phương chi viện trong kháng chiến chống Pháp, HAY
Xây dựng hậu phương chi viện trong kháng chiến chống Pháp, HAY
Xây dựng hậu phương chi viện trong kháng chiến chống Pháp, HAY
Xây dựng hậu phương chi viện trong kháng chiến chống Pháp, HAY
Xây dựng hậu phương chi viện trong kháng chiến chống Pháp, HAY
Xây dựng hậu phương chi viện trong kháng chiến chống Pháp, HAY
Xây dựng hậu phương chi viện trong kháng chiến chống Pháp, HAY
Xây dựng hậu phương chi viện trong kháng chiến chống Pháp, HAY
Xây dựng hậu phương chi viện trong kháng chiến chống Pháp, HAY
Xây dựng hậu phương chi viện trong kháng chiến chống Pháp, HAY
Xây dựng hậu phương chi viện trong kháng chiến chống Pháp, HAY
Xây dựng hậu phương chi viện trong kháng chiến chống Pháp, HAY
Xây dựng hậu phương chi viện trong kháng chiến chống Pháp, HAY
Xây dựng hậu phương chi viện trong kháng chiến chống Pháp, HAY
Xây dựng hậu phương chi viện trong kháng chiến chống Pháp, HAY
Xây dựng hậu phương chi viện trong kháng chiến chống Pháp, HAY
Xây dựng hậu phương chi viện trong kháng chiến chống Pháp, HAY
Xây dựng hậu phương chi viện trong kháng chiến chống Pháp, HAY
Xây dựng hậu phương chi viện trong kháng chiến chống Pháp, HAY
Xây dựng hậu phương chi viện trong kháng chiến chống Pháp, HAY
Xây dựng hậu phương chi viện trong kháng chiến chống Pháp, HAY
Xây dựng hậu phương chi viện trong kháng chiến chống Pháp, HAY
Xây dựng hậu phương chi viện trong kháng chiến chống Pháp, HAY
Xây dựng hậu phương chi viện trong kháng chiến chống Pháp, HAY
Xây dựng hậu phương chi viện trong kháng chiến chống Pháp, HAY

More Related Content

What's hot

(PPT) Tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế.
(PPT) Tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế.(PPT) Tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế.
(PPT) Tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế.Mark Pham
 
LV: Biện pháp quản lý cơ sở vật chất kỹ thuật dạy học đáp ứng đào tạo theo tí...
LV: Biện pháp quản lý cơ sở vật chất kỹ thuật dạy học đáp ứng đào tạo theo tí...LV: Biện pháp quản lý cơ sở vật chất kỹ thuật dạy học đáp ứng đào tạo theo tí...
LV: Biện pháp quản lý cơ sở vật chất kỹ thuật dạy học đáp ứng đào tạo theo tí...Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562
 
ĐƯỜNG LỐI KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP VÀ ĐẾ QUỐC MỸ XÂM LƯỢC (1945-1975)
ĐƯỜNG LỐI KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁPVÀ ĐẾ QUỐC MỸ XÂM LƯỢC (1945-1975)ĐƯỜNG LỐI KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁPVÀ ĐẾ QUỐC MỸ XÂM LƯỢC (1945-1975)
ĐƯỜNG LỐI KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP VÀ ĐẾ QUỐC MỸ XÂM LƯỢC (1945-1975)CongDoanVan1
 
Tư tưởng hồ chí minh về đại đoàn kết dân tộc
Tư tưởng hồ chí minh về đại đoàn kết dân tộcTư tưởng hồ chí minh về đại đoàn kết dân tộc
Tư tưởng hồ chí minh về đại đoàn kết dân tộcPhú Quốc Nguyễn
 
Chương 2.pdf
Chương 2.pdfChương 2.pdf
Chương 2.pdfPhamBaNam
 
tư tưởng hồ chí minh về Đảng Cộng Sản
tư tưởng hồ chí minh về Đảng Cộng Sảntư tưởng hồ chí minh về Đảng Cộng Sản
tư tưởng hồ chí minh về Đảng Cộng SảnPhuong Nha Nguyen
 
TIỂU LUẬN ĐƯỜNG LỐI Đề tài: ĐƯỜNG LỐI KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP CỦA ĐẢN...
TIỂU LUẬN ĐƯỜNG LỐI Đề tài: ĐƯỜNG LỐI KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP CỦA ĐẢN...TIỂU LUẬN ĐƯỜNG LỐI Đề tài: ĐƯỜNG LỐI KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP CỦA ĐẢN...
TIỂU LUẬN ĐƯỜNG LỐI Đề tài: ĐƯỜNG LỐI KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP CỦA ĐẢN...nataliej4
 
Thực hiện và viết báo cáo kết quả nghiên cứu khoa học
Thực hiện và viết báo cáo kết quả nghiên cứu khoa họcThực hiện và viết báo cáo kết quả nghiên cứu khoa học
Thực hiện và viết báo cáo kết quả nghiên cứu khoa họcHo Chi Minh University of Pedagogy
 
Đường lối cách mạng _ phát động cao trào kháng Nhật cứu nước, và CMT8 thắng lợi
Đường lối cách mạng _ phát động cao trào kháng Nhật cứu nước, và CMT8 thắng lợiĐường lối cách mạng _ phát động cao trào kháng Nhật cứu nước, và CMT8 thắng lợi
Đường lối cách mạng _ phát động cao trào kháng Nhật cứu nước, và CMT8 thắng lợiThảo Nguyễn
 
Tổ 3 - 12A11 - THPT Chu Văn An
Tổ 3 - 12A11 - THPT Chu Văn AnTổ 3 - 12A11 - THPT Chu Văn An
Tổ 3 - 12A11 - THPT Chu Văn AnQuỳnh Như
 
chuong-3-lsd.pptx
chuong-3-lsd.pptxchuong-3-lsd.pptx
chuong-3-lsd.pptxLmTrn286060
 
Tư tưởng Hồ Chí Minh - www.tailieubachkhoa.vn
Tư tưởng Hồ Chí Minh - www.tailieubachkhoa.vnTư tưởng Hồ Chí Minh - www.tailieubachkhoa.vn
Tư tưởng Hồ Chí Minh - www.tailieubachkhoa.vnNam Xuyen
 
Văn hóa Việt Nam trong thời kỳ mới (vanhien.vn)
Văn hóa Việt Nam trong thời kỳ mới (vanhien.vn)Văn hóa Việt Nam trong thời kỳ mới (vanhien.vn)
Văn hóa Việt Nam trong thời kỳ mới (vanhien.vn)longvanhien
 
Tiểu luận Tư tưởng Hồ Chó Minh
Tiểu luận Tư tưởng Hồ Chó MinhTiểu luận Tư tưởng Hồ Chó Minh
Tiểu luận Tư tưởng Hồ Chó Minhking2vein
 

What's hot (20)

(PPT) Tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế.
(PPT) Tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế.(PPT) Tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế.
(PPT) Tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế.
 
LV: Biện pháp quản lý cơ sở vật chất kỹ thuật dạy học đáp ứng đào tạo theo tí...
LV: Biện pháp quản lý cơ sở vật chất kỹ thuật dạy học đáp ứng đào tạo theo tí...LV: Biện pháp quản lý cơ sở vật chất kỹ thuật dạy học đáp ứng đào tạo theo tí...
LV: Biện pháp quản lý cơ sở vật chất kỹ thuật dạy học đáp ứng đào tạo theo tí...
 
Luận văn: Giảng dạy môn triết học Mác-Lênin tại Trường Chính trị
Luận văn: Giảng dạy môn triết học Mác-Lênin tại Trường Chính trịLuận văn: Giảng dạy môn triết học Mác-Lênin tại Trường Chính trị
Luận văn: Giảng dạy môn triết học Mác-Lênin tại Trường Chính trị
 
ĐƯỜNG LỐI KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP VÀ ĐẾ QUỐC MỸ XÂM LƯỢC (1945-1975)
ĐƯỜNG LỐI KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁPVÀ ĐẾ QUỐC MỸ XÂM LƯỢC (1945-1975)ĐƯỜNG LỐI KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁPVÀ ĐẾ QUỐC MỸ XÂM LƯỢC (1945-1975)
ĐƯỜNG LỐI KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP VÀ ĐẾ QUỐC MỸ XÂM LƯỢC (1945-1975)
 
Tư tưởng hồ chí minh về đại đoàn kết dân tộc
Tư tưởng hồ chí minh về đại đoàn kết dân tộcTư tưởng hồ chí minh về đại đoàn kết dân tộc
Tư tưởng hồ chí minh về đại đoàn kết dân tộc
 
Chương 2.pdf
Chương 2.pdfChương 2.pdf
Chương 2.pdf
 
Luận án: Phát triển kỹ năng tự học cho học sinh tại ĐH Dân tộc
Luận án: Phát triển kỹ năng tự học cho học sinh tại ĐH Dân tộcLuận án: Phát triển kỹ năng tự học cho học sinh tại ĐH Dân tộc
Luận án: Phát triển kỹ năng tự học cho học sinh tại ĐH Dân tộc
 
tư tưởng hồ chí minh về Đảng Cộng Sản
tư tưởng hồ chí minh về Đảng Cộng Sảntư tưởng hồ chí minh về Đảng Cộng Sản
tư tưởng hồ chí minh về Đảng Cộng Sản
 
TIỂU LUẬN ĐƯỜNG LỐI Đề tài: ĐƯỜNG LỐI KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP CỦA ĐẢN...
TIỂU LUẬN ĐƯỜNG LỐI Đề tài: ĐƯỜNG LỐI KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP CỦA ĐẢN...TIỂU LUẬN ĐƯỜNG LỐI Đề tài: ĐƯỜNG LỐI KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP CỦA ĐẢN...
TIỂU LUẬN ĐƯỜNG LỐI Đề tài: ĐƯỜNG LỐI KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP CỦA ĐẢN...
 
Luận án: Cách mạng tháng Tám năm 1945 ở Bắc Trung Bộ, HAY
Luận án: Cách mạng tháng Tám năm 1945 ở Bắc Trung Bộ, HAYLuận án: Cách mạng tháng Tám năm 1945 ở Bắc Trung Bộ, HAY
Luận án: Cách mạng tháng Tám năm 1945 ở Bắc Trung Bộ, HAY
 
Thực hiện và viết báo cáo kết quả nghiên cứu khoa học
Thực hiện và viết báo cáo kết quả nghiên cứu khoa họcThực hiện và viết báo cáo kết quả nghiên cứu khoa học
Thực hiện và viết báo cáo kết quả nghiên cứu khoa học
 
Đường lối cách mạng _ phát động cao trào kháng Nhật cứu nước, và CMT8 thắng lợi
Đường lối cách mạng _ phát động cao trào kháng Nhật cứu nước, và CMT8 thắng lợiĐường lối cách mạng _ phát động cao trào kháng Nhật cứu nước, và CMT8 thắng lợi
Đường lối cách mạng _ phát động cao trào kháng Nhật cứu nước, và CMT8 thắng lợi
 
Tổ 3 - 12A11 - THPT Chu Văn An
Tổ 3 - 12A11 - THPT Chu Văn AnTổ 3 - 12A11 - THPT Chu Văn An
Tổ 3 - 12A11 - THPT Chu Văn An
 
chuong-3-lsd.pptx
chuong-3-lsd.pptxchuong-3-lsd.pptx
chuong-3-lsd.pptx
 
Bai 1.pplnckh
Bai 1.pplnckhBai 1.pplnckh
Bai 1.pplnckh
 
Tư tưởng Hồ Chí Minh - www.tailieubachkhoa.vn
Tư tưởng Hồ Chí Minh - www.tailieubachkhoa.vnTư tưởng Hồ Chí Minh - www.tailieubachkhoa.vn
Tư tưởng Hồ Chí Minh - www.tailieubachkhoa.vn
 
Luận văn Xây dựng và thực hiện chính sách thu hút, trọng dụng nhân tài
Luận văn Xây dựng và thực hiện chính sách thu hút, trọng dụng nhân tàiLuận văn Xây dựng và thực hiện chính sách thu hút, trọng dụng nhân tài
Luận văn Xây dựng và thực hiện chính sách thu hút, trọng dụng nhân tài
 
Văn hóa Việt Nam trong thời kỳ mới (vanhien.vn)
Văn hóa Việt Nam trong thời kỳ mới (vanhien.vn)Văn hóa Việt Nam trong thời kỳ mới (vanhien.vn)
Văn hóa Việt Nam trong thời kỳ mới (vanhien.vn)
 
Tiểu luận Tư tưởng Hồ Chó Minh
Tiểu luận Tư tưởng Hồ Chó MinhTiểu luận Tư tưởng Hồ Chó Minh
Tiểu luận Tư tưởng Hồ Chó Minh
 
Luận văn: Chủ quyền quốc gia trong xu thế toàn cầu hoá, HAY
Luận văn: Chủ quyền quốc gia trong xu thế toàn cầu hoá, HAYLuận văn: Chủ quyền quốc gia trong xu thế toàn cầu hoá, HAY
Luận văn: Chủ quyền quốc gia trong xu thế toàn cầu hoá, HAY
 

Similar to Xây dựng hậu phương chi viện trong kháng chiến chống Pháp, HAY

Luận văn : Tổ chức và hoạt động của Ủy Ban Kháng Chiến hành chính
Luận văn : Tổ chức và hoạt động của Ủy Ban Kháng Chiến hành chínhLuận văn : Tổ chức và hoạt động của Ủy Ban Kháng Chiến hành chính
Luận văn : Tổ chức và hoạt động của Ủy Ban Kháng Chiến hành chínhDịch vụ Làm Luận Văn 0936885877
 
Hồ Chí Minh với cuộc vận động sự ủng hộ quốc tế trong cuộc kháng chiến chống ...
Hồ Chí Minh với cuộc vận động sự ủng hộ quốc tế trong cuộc kháng chiến chống ...Hồ Chí Minh với cuộc vận động sự ủng hộ quốc tế trong cuộc kháng chiến chống ...
Hồ Chí Minh với cuộc vận động sự ủng hộ quốc tế trong cuộc kháng chiến chống ...NuioKila
 
Tổ Chức Và Hoạt Động Của Ủy Ban Kháng Chiến Hành Chính Tỉnh Khánh Hòa Từ Thán...
Tổ Chức Và Hoạt Động Của Ủy Ban Kháng Chiến Hành Chính Tỉnh Khánh Hòa Từ Thán...Tổ Chức Và Hoạt Động Của Ủy Ban Kháng Chiến Hành Chính Tỉnh Khánh Hòa Từ Thán...
Tổ Chức Và Hoạt Động Của Ủy Ban Kháng Chiến Hành Chính Tỉnh Khánh Hòa Từ Thán...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0936 885 877
 
Luận văn: Đấu tranh quân sự trong kháng chiến chống Mỹ ở huyện A Lưới (Thừa T...
Luận văn: Đấu tranh quân sự trong kháng chiến chống Mỹ ở huyện A Lưới (Thừa T...Luận văn: Đấu tranh quân sự trong kháng chiến chống Mỹ ở huyện A Lưới (Thừa T...
Luận văn: Đấu tranh quân sự trong kháng chiến chống Mỹ ở huyện A Lưới (Thừa T...Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562
 
GIÁO ÁN Bài Đảng lãnh đạo hai cuộc kháng chiến chống xâm lược và xây dựng chủ...
GIÁO ÁN Bài Đảng lãnh đạo hai cuộc kháng chiến chống xâm lược và xây dựng chủ...GIÁO ÁN Bài Đảng lãnh đạo hai cuộc kháng chiến chống xâm lược và xây dựng chủ...
GIÁO ÁN Bài Đảng lãnh đạo hai cuộc kháng chiến chống xâm lược và xây dựng chủ...nataliej4
 
Duong loi khang chien chong thuc dan Phap xam luoc (1946 - 1954)
Duong loi khang chien chong thuc dan Phap xam luoc (1946 - 1954)Duong loi khang chien chong thuc dan Phap xam luoc (1946 - 1954)
Duong loi khang chien chong thuc dan Phap xam luoc (1946 - 1954)jangvi
 
Chương 2 - LSĐ.pptx
Chương 2 - LSĐ.pptxChương 2 - LSĐ.pptx
Chương 2 - LSĐ.pptxDiuLinh903245
 
Tailieu.vncty.com giao thong-van_tai_duong_bo_mien_bac_viet_nam_trong_khang...
Tailieu.vncty.com   giao thong-van_tai_duong_bo_mien_bac_viet_nam_trong_khang...Tailieu.vncty.com   giao thong-van_tai_duong_bo_mien_bac_viet_nam_trong_khang...
Tailieu.vncty.com giao thong-van_tai_duong_bo_mien_bac_viet_nam_trong_khang...Trần Đức Anh
 
De thi thu mon su khoi c 2013
De thi thu mon su khoi c 2013De thi thu mon su khoi c 2013
De thi thu mon su khoi c 2013adminseo
 

Similar to Xây dựng hậu phương chi viện trong kháng chiến chống Pháp, HAY (20)

Xây dựng hậu phương chi viện kháng chiến chống Pháp (1945 - 1954)
Xây dựng hậu phương chi viện kháng chiến chống Pháp (1945 - 1954)Xây dựng hậu phương chi viện kháng chiến chống Pháp (1945 - 1954)
Xây dựng hậu phương chi viện kháng chiến chống Pháp (1945 - 1954)
 
Tổ chức và hoạt động của Ủy ban kháng chiến hành chính Khánh Hòa
Tổ chức và hoạt động của Ủy ban kháng chiến hành chính Khánh HòaTổ chức và hoạt động của Ủy ban kháng chiến hành chính Khánh Hòa
Tổ chức và hoạt động của Ủy ban kháng chiến hành chính Khánh Hòa
 
Luận văn : Tổ chức và hoạt động của Ủy Ban Kháng Chiến hành chính
Luận văn : Tổ chức và hoạt động của Ủy Ban Kháng Chiến hành chínhLuận văn : Tổ chức và hoạt động của Ủy Ban Kháng Chiến hành chính
Luận văn : Tổ chức và hoạt động của Ủy Ban Kháng Chiến hành chính
 
Hồ Chí Minh với cuộc vận động sự ủng hộ quốc tế trong cuộc kháng chiến chống ...
Hồ Chí Minh với cuộc vận động sự ủng hộ quốc tế trong cuộc kháng chiến chống ...Hồ Chí Minh với cuộc vận động sự ủng hộ quốc tế trong cuộc kháng chiến chống ...
Hồ Chí Minh với cuộc vận động sự ủng hộ quốc tế trong cuộc kháng chiến chống ...
 
Tổ Chức Và Hoạt Động Của Ủy Ban Kháng Chiến Hành Chính Tỉnh Khánh Hòa Từ Thán...
Tổ Chức Và Hoạt Động Của Ủy Ban Kháng Chiến Hành Chính Tỉnh Khánh Hòa Từ Thán...Tổ Chức Và Hoạt Động Của Ủy Ban Kháng Chiến Hành Chính Tỉnh Khánh Hòa Từ Thán...
Tổ Chức Và Hoạt Động Của Ủy Ban Kháng Chiến Hành Chính Tỉnh Khánh Hòa Từ Thán...
 
Luận án: Đảng lãnh đạo tranh thủ sự ủng hộ, giúp đỡ quốc tế, HAY
Luận án: Đảng lãnh đạo tranh thủ sự ủng hộ, giúp đỡ quốc tế, HAYLuận án: Đảng lãnh đạo tranh thủ sự ủng hộ, giúp đỡ quốc tế, HAY
Luận án: Đảng lãnh đạo tranh thủ sự ủng hộ, giúp đỡ quốc tế, HAY
 
Luận văn: Đấu tranh quân sự trong kháng chiến chống Mỹ ở huyện A Lưới (Thừa T...
Luận văn: Đấu tranh quân sự trong kháng chiến chống Mỹ ở huyện A Lưới (Thừa T...Luận văn: Đấu tranh quân sự trong kháng chiến chống Mỹ ở huyện A Lưới (Thừa T...
Luận văn: Đấu tranh quân sự trong kháng chiến chống Mỹ ở huyện A Lưới (Thừa T...
 
Luận văn: Đấu tranh quân sự trong kháng chiến chống Mỹ ở huyện A Lưới
Luận văn: Đấu tranh quân sự trong kháng chiến chống Mỹ ở huyện A LướiLuận văn: Đấu tranh quân sự trong kháng chiến chống Mỹ ở huyện A Lưới
Luận văn: Đấu tranh quân sự trong kháng chiến chống Mỹ ở huyện A Lưới
 
Luận án: Cách mạng tháng Tám 1945 ở các tỉnh Bắc Trung Bộ
Luận án: Cách mạng tháng Tám 1945 ở các tỉnh Bắc Trung BộLuận án: Cách mạng tháng Tám 1945 ở các tỉnh Bắc Trung Bộ
Luận án: Cách mạng tháng Tám 1945 ở các tỉnh Bắc Trung Bộ
 
chuong-2-lsd.pptx
chuong-2-lsd.pptxchuong-2-lsd.pptx
chuong-2-lsd.pptx
 
GIÁO ÁN Bài Đảng lãnh đạo hai cuộc kháng chiến chống xâm lược và xây dựng chủ...
GIÁO ÁN Bài Đảng lãnh đạo hai cuộc kháng chiến chống xâm lược và xây dựng chủ...GIÁO ÁN Bài Đảng lãnh đạo hai cuộc kháng chiến chống xâm lược và xây dựng chủ...
GIÁO ÁN Bài Đảng lãnh đạo hai cuộc kháng chiến chống xâm lược và xây dựng chủ...
 
Duong loi khang chien chong thuc dan Phap xam luoc (1946 - 1954)
Duong loi khang chien chong thuc dan Phap xam luoc (1946 - 1954)Duong loi khang chien chong thuc dan Phap xam luoc (1946 - 1954)
Duong loi khang chien chong thuc dan Phap xam luoc (1946 - 1954)
 
Phong trào công nhân ở miền nam trong kháng chiến chống Mỹ
Phong trào công nhân ở miền nam trong kháng chiến chống MỹPhong trào công nhân ở miền nam trong kháng chiến chống Mỹ
Phong trào công nhân ở miền nam trong kháng chiến chống Mỹ
 
Đảng lãnh đạo thực hiện hòa bình trong kháng chiến chống pháp
Đảng lãnh đạo thực hiện hòa bình trong kháng chiến chống phápĐảng lãnh đạo thực hiện hòa bình trong kháng chiến chống pháp
Đảng lãnh đạo thực hiện hòa bình trong kháng chiến chống pháp
 
Chương 2 - LSĐ.pptx
Chương 2 - LSĐ.pptxChương 2 - LSĐ.pptx
Chương 2 - LSĐ.pptx
 
Tailieu.vncty.com giao thong-van_tai_duong_bo_mien_bac_viet_nam_trong_khang...
Tailieu.vncty.com   giao thong-van_tai_duong_bo_mien_bac_viet_nam_trong_khang...Tailieu.vncty.com   giao thong-van_tai_duong_bo_mien_bac_viet_nam_trong_khang...
Tailieu.vncty.com giao thong-van_tai_duong_bo_mien_bac_viet_nam_trong_khang...
 
Đấu tranh quân sự ở Khánh Hòa trong kháng chiến chống pháp (1945 - 1954)
Đấu tranh quân sự ở Khánh Hòa trong kháng chiến chống pháp (1945 - 1954)Đấu tranh quân sự ở Khánh Hòa trong kháng chiến chống pháp (1945 - 1954)
Đấu tranh quân sự ở Khánh Hòa trong kháng chiến chống pháp (1945 - 1954)
 
Lịch sử Đảng
Lịch sử ĐảngLịch sử Đảng
Lịch sử Đảng
 
Luận án: Công tác dân vận của Đảng bộ Liên khu Việt Bắc, HAY
Luận án: Công tác dân vận của Đảng bộ Liên khu Việt Bắc, HAYLuận án: Công tác dân vận của Đảng bộ Liên khu Việt Bắc, HAY
Luận án: Công tác dân vận của Đảng bộ Liên khu Việt Bắc, HAY
 
De thi thu mon su khoi c 2013
De thi thu mon su khoi c 2013De thi thu mon su khoi c 2013
De thi thu mon su khoi c 2013
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864

Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864 (20)

200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
 
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
 
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhuadanh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
 
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay NhấtKinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
 
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểmKho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại họcKho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
 
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tửKho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểmKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu HọcKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhấtKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểmKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin HọcKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập KhẩuKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
 

Recently uploaded

Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxChàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxendkay31
 
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhvanhathvc
 
ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA CUỐI HỌC KÌ 2 NĂM HỌC 2023-202...
ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA CUỐI HỌC KÌ 2 NĂM HỌC 2023-202...ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA CUỐI HỌC KÌ 2 NĂM HỌC 2023-202...
ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA CUỐI HỌC KÌ 2 NĂM HỌC 2023-202...Nguyen Thanh Tu Collection
 
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...ThunTrn734461
 
Bai 1 cong bo mot cong trinh nghien cuu khoa hoc
Bai 1 cong bo mot cong trinh nghien cuu khoa hocBai 1 cong bo mot cong trinh nghien cuu khoa hoc
Bai 1 cong bo mot cong trinh nghien cuu khoa hocVnPhan58
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoabài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa2353020138
 
Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và CNXH
Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và CNXHTư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và CNXH
Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và CNXHThaoPhuong154017
 
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líKiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líDr K-OGN
 
Hệ phương trình tuyến tính và các ứng dụng trong kinh tế
Hệ phương trình tuyến tính và các ứng dụng trong kinh tếHệ phương trình tuyến tính và các ứng dụng trong kinh tế
Hệ phương trình tuyến tính và các ứng dụng trong kinh tếngTonH1
 
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...hoangtuansinh1
 
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxTrích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxnhungdt08102004
 
Ma trận - định thức và các ứng dụng trong kinh tế
Ma trận - định thức và các ứng dụng trong kinh tếMa trận - định thức và các ứng dụng trong kinh tế
Ma trận - định thức và các ứng dụng trong kinh tếngTonH1
 
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...Nguyen Thanh Tu Collection
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...Nguyen Thanh Tu Collection
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...Nguyen Thanh Tu Collection
 

Recently uploaded (20)

Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxChàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
 
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
 
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
 
ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA CUỐI HỌC KÌ 2 NĂM HỌC 2023-202...
ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA CUỐI HỌC KÌ 2 NĂM HỌC 2023-202...ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA CUỐI HỌC KÌ 2 NĂM HỌC 2023-202...
ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA CUỐI HỌC KÌ 2 NĂM HỌC 2023-202...
 
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
 
Bai 1 cong bo mot cong trinh nghien cuu khoa hoc
Bai 1 cong bo mot cong trinh nghien cuu khoa hocBai 1 cong bo mot cong trinh nghien cuu khoa hoc
Bai 1 cong bo mot cong trinh nghien cuu khoa hoc
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoabài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
 
Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và CNXH
Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và CNXHTư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và CNXH
Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và CNXH
 
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líKiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
 
Hệ phương trình tuyến tính và các ứng dụng trong kinh tế
Hệ phương trình tuyến tính và các ứng dụng trong kinh tếHệ phương trình tuyến tính và các ứng dụng trong kinh tế
Hệ phương trình tuyến tính và các ứng dụng trong kinh tế
 
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
 
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxTrích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
 
Ma trận - định thức và các ứng dụng trong kinh tế
Ma trận - định thức và các ứng dụng trong kinh tếMa trận - định thức và các ứng dụng trong kinh tế
Ma trận - định thức và các ứng dụng trong kinh tế
 
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
 
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
 

Xây dựng hậu phương chi viện trong kháng chiến chống Pháp, HAY

  • 1. BỘ QUỐC PHÒNG HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ PHẠM THỊ NHUNG ĐẢNG BỘ TỈNH THANH HOÁ LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG HẬU PHƯƠNG CHI VIỆN CHO TIỀN TUYẾN TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP (1945 - 1954) LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM HÀ NỘI - 2014
  • 2. 3 BỘ QUỐC PHÒNG HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ PHẠM THỊ NHUNG ĐẢNG BỘ TỈNH THANH HOÁ LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG HẬU PHƯƠNG CHI VIỆN CHO TIỀN TUYẾN TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP (1945 - 1954) CHUYÊN NGÀNH: LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM MÃ SỐ: 60 22 03 15 HÀ NỘI - 2014
  • 3. MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU 3 Chương 1 ĐẢNG BỘ TỈNH THANH HOÁ LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG HẬU PHƯƠNG, CHI VIỆN CHO TIỀN TUYẾN TRONG NHỮNG NĂM ĐẦU KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP (1945 - 1950) 11 1.1. Yêu cầu khách quan xây dựng hậu phương Thanh Hoá trong kháng chiến chống thực dân Pháp 11 1.2. Chủ trương của Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá xây dựng hậu phương, chi viện cho tiền tuyến trong những năm đầu kháng chiến chống thực dân Pháp (1945 - 1950) 19 1.3. Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá chỉ đạo xây dựng hậu phương, chi viện cho tiền tuyến trong những năm đầu kháng chiến chống thực dân Pháp (1945 - 1950) 24 Chương 2 ĐẢNG BỘ TỈNH THANH HOÁ LÃNH ĐẠO ĐẨY MẠNH XÂY DỰNG HẬU PHƯƠNG, TĂNG CƯỜNG CHI VIỆN CHO TIỀN TUYẾN (1951 - 1954) 35 2.1. Yêu cầu nhiệm vụ cách mạng và chủ trương của Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá đẩy mạnh xây dựng hậu phương, tăng cường chi viện cho tiền tuyến (1951 - 1954) 35 2.2. Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá chỉ đạo đẩy mạnh xây dựng hậu phương, tăng cường chi viện cho tiền tuyến (1951 - 1954) 42 Chương 3 NHẬN XÉT VÀ KINH NGHIỆM TỪ QUÁ TRÌNH ĐẢNG BỘ TỈNH THANH HOÁ LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG HẬU PHƯƠNG CHI VIỆN CHO TIỀN TUYẾN (1945 - 1954) 59 3.1. Nhận xét 59 3.2. Kinh nghiệm 70 KẾT LUẬN 82 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 84 PHỤ LỤC 91 4
  • 4. MỞ ĐẦU 1. Lý do lựa chọn đề tài Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp lâu dài, gian khổ và vô cùng oanh liệt của dân tộc Việt Nam đã giành thắng lợi hoàn toàn bằng chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ. Góp một phần không nhỏ vào thắng lợi ấy phải kể đến vị trí, vai trò quyết định của hậu phương. Nghiên cứu về tầm quan trọng của hậu phương trong chiến tranh, các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác - Lênin đã chỉ ra quy luật: hậu phương luôn là nhân tố thường xuyên quyết định thành bại của chiến tranh. Lênin đã khẳng định: “Muốn tiến hành chiến tranh một cách thực sự, phải có một hậu phương có tổ chức vững chắc, một đội quân giỏi nhất, những người trung thành nhất với sự nghiệp cách mạng cũng đều lập tức bị kẻ thù tiêu diệt, nếu họ không được vũ trang, tiếp tế lương thực và huấn luyện một cách đầy đủ” [57, tr.479]. Vận dụng sáng tạo quy luật trên vào thực tiễn các cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc, Đảng Cộng sản Việt Nam hết sức coi trọng, đặt lên hàng đầu vai trò của hậu phương, căn cứ địa cách mạng. Trong kháng chiến chống thực dân Pháp (1945 - 1954), đánh giá đúng vị thế chiến lược, tiềm năng, thế mạnh của Thanh Hoá - vùng đất “thiên thời, địa lợi, nhân hoà” thuộc vùng tự do Liên khu IV, Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chọn Thanh Hoá làm hậu phương, căn cứ địa chi viện sức người, sức của cho cuộc kháng chiến mà đỉnh cao là chiến dịch Điện Biên Phủ. Nhận thức rõ vị trí, vai trò của tỉnh trước vận mệnh dân tộc, Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá đã phát huy thế mạnh của vùng đất và con người nơi đây như thế nào? Cụ thể hoá đường lối, chủ trương của Đảng, Chỉ thị của Chủ tịch Hồ Chí Minh qua các kỳ Đại hội Đảng bộ tỉnh ra sao để xây dựng Thanh Hoá trở hậu phương, căn cứ địa? Nghiên cứu quá trình trên có ý nghĩa hết sức quan trọng, đánh giá một cách khách quan đường lối lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh xây dựng Thanh Hóa trở thành kiểu mẫu, góp phần vào thắng lợi của dân 5
  • 5. tộc ta trong kháng chiến chống thực dân Pháp. Một số nhận xét và kinh nghiệm được đúc kết có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc - cơ sở để tỉnh Thanh Hoá phát huy truyền thống lịch sử văn hoá lên tầm cao mới, tiếp tục xây dựng quê hương giàu mạnh. Vì lý do nêu trên, tác giả chọn đề tài: “Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá lãnh đạo xây dựng hậu phương chi viện cho tiền tuyến trong kháng chiến chống thực dân Pháp (1945 - 1954)” làm luận văn thạc sỹ, chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam. Đề tài đi sâu phân tích đường lối, chủ trương của Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng xây dựng, bảo vệ hậu phương, chi viện cho tiền tuyến; tri ân, tôn vinh những cống hiến, sự hy sinh của quân dân Thanh Hoá trong kháng chiến chống thực dân Pháp. Qua đó, rút ra một số nhận xét và kinh nghiệm làm luận cứ khoa học, tài liệu tham khảo, vận dụng vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trên địa bàn tỉnh trong giai đoạn hiện nay. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Trong nhiều năm qua, đề tài hậu phương trong kháng chiến chống thực dân Pháp đã được các lãnh tụ Đảng, Nhà nước, quân đội và nhiều nhà khoa học quan tâm, đi sâu nghiên cứu. Tập hợp và nghiên cứu các công trình đó, chúng tôi chia thành các nhóm sau đây: Nhóm các công trình nghiên cứu lịch sử kháng chiến, hậu phương chiến tranh nhân dân, tổng kết cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp Chiến thắng Điện Biên Phủ - Sức mạnh dân tộc và tầm vóc thời đại (1994), Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội; Viện Lịch sử quân sự (1997), Hậu phương chiến tranh nhân dân Việt Nam (1945 - 1975), Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội; Viện Lịch sử quân sự (1999), Mấy vấn đề chỉ đạo chiến lược trong 30 năm chiến tranh giải phóng (1945 - 1975), Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội; Ban Chỉ đạo Tổng kết chiến tranh trực thuộc Bộ Chính trị (2000), 6
  • 6. Chiến tranh cách mạng Việt Nam (1945 - 1975) - Thắng lợi và bài học, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội; Chiến thắng Điện Biên Phủ - Cột mốc vàng lịch sử (2004), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội; Viện Lịch sử quân sự (2005), Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp, tập 2, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội; Ngô Đăng Tri (2009), Vai trò của hậu phương trong chiến dịch Điện Biên Phủ, Kỷ yếu Hội thảo khoa học 55 chiến thắng Điện Biên Phủ, Học viện Chính trị hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, đã khẳng định ý nghĩa lịch sử, tầm vóc vĩ đại của chiến thắng Điện Biên Phủ, khẳng định sự lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt của Đảng Cộng sản Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc là nhân tố quyết định thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, trong đó, vị trí, vai trò của hậu phương được phát huy cao độ, góp phần không nhỏ làm nên thắng lợi vĩ đại đó. Các công trình cũng đã đưa ra những vấn đề chung về xây dựng, bảo vệ và phát huy sức mạnh hậu phương trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ trên tất cả các lĩnh vực: chính trị, kinh tế, quân sự, văn hoá - xã hội. Từ đó, rút ra một số nhận xét và kinh nghiệm xây dựng hậu phương trong chiến tranh cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam. Qua những công trình nêu trên, hậu phương phần nào được đề cập ở mức độ và phạm vi khác nhau về tổ chức, tiến hành xây dựng, bảo vệ, phát huy, thể hiện nhân tố quyết định nhất của cuộc kháng chiến. Đây là nguồn tài liệu tham khảo quan trọng, giúp tác giả nghiên cứu một số vấn đề lý luận và thực tiễn xây dựng hậu phương trong kháng chiến. Nhóm các công trình đề cập đến xây dựng hậu phương trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp ở Quân khu IV, Liên khu IV Viện Lịch sử Đảng (2000), Một số vấn đề lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp ở Liên khu IV (1945 - 1954), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội; Ngô Đăng Tri (2001), Vùng tự do Thanh - Nghệ - Tĩnh trong kháng chiến 7
  • 7. chống Pháp (1946 - 1954), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội; Viện Lịch sử Đảng (2003), Lịch sử kháng chiến chống Pháp của quân và dân Liên khu IV (1945 - 1954), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội; Trình Mưu (2003), Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân Liên khu IV (1945 - 1954), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội; Bộ Quốc phòng - Quân khu IV (2005), Tổng kết chiến thuật trong kháng chiến chống Pháp và đế quốc Mỹ của Lực lượng vũ trang Quân khu IV (1945 - 1975), Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội; Ngô Đăng Tri, Vùng tự do Thanh - Nghệ - Tĩnh trong kháng chiến chống thực dân Pháp, Tạp chí Lịch sử quân sự, số 16 - 1987; Ngô Đăng Tri, Mối quan hệ giữa Thanh - Nghệ - Tĩnh với Lào trong kháng chiến chống thực dân Pháp (1945 - 1954), Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á, số 2 - 1994; Nguyễn Văn Quang, Vai trò hậu phương Thanh - Nghệ - Tĩnh trong chiến dịch Thượng Lào (tháng 4 - 5 năm 1953), Tạp chí Cộng sản, số 5 - 2013. Các công trình nghiên cứu trên không chỉ đề cập đến sự lãnh đạo, chỉ đạo chiến tranh nhân dân Việt Nam chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ của Đảng bộ và chính quyền Quân khu IV, Liên khu IV, Thanh - Nghệ - Tĩnh nói chung mà còn chỉ rõ vai trò, vị trí của hậu phương Thanh Hoá nói riêng. Thanh Hoá được đề cập đến là hậu phương trực tiếp của chiến trường Bắc - Trung bộ, Thượng Lào, Điện Biên Phủ. Hậu phương Thanh Hoá đã góp một phần xứng đáng sức người sức của, chi viện kịp thời cho các chiến trường. Tài liệu này có giá trị rất lớn đối với tác giả trong quá trình nghiên cứu, tái hiện vai trò, vị trí quan trọng của hậu phương Thanh Hoá trong kháng chiến chống Pháp. Nhóm các công trình đề cập đến hậu phương Thanh Hoá Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh Thanh Hóa (1990), Lịch sử cuộc kháng chiến chống Pháp xâm lược (1945 - 1954), Nxb Thanh Hoá; Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh Thanh Hoá (1990), Thanh Hoá - Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1945 - 1954) (Sơ thảo), Thanh Hoá; Tỉnh uỷ Thanh Hoá 8
  • 8. (2000), Lịch sử Đảng bộ Thanh Hoá, tập I (1930 - 1954); Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ Thanh Hoá (2000), Đảng bộ Thanh Hoá 70 năm chặng đường vẻ vang (1930 - 2000); Chủ tịch Hồ Chí Minh với Thanh Hoá - Thanh Hoá làm theo lời dạy của Người (2007), Nxb Thanh Hoá; Đảng uỷ Quân sự tỉnh Thanh Hoá (2010), Lịch sử Đảng bộ quân sự tỉnh Thanh Hoá (1945 - 2005), Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, là những công trình đã khái quát quá trình Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá lãnh đạo nhân dân tỉnh đấu tranh cách mạng qua các chặng đường lịch sử. Qua đó, đề cập đến việc xây dựng và động viên sức mạnh toàn dân đoàn kết đứng lên kháng chiến kiến quốc, xây dựng và bảo vệ hậu phương, phục vụ tiền tuyến. Tuy nhiên, các công trình trên chỉ đề cấp đến vai trò của hậu phương trong tiến trình lịch sử cuộc kháng chiến chống Pháp, chưa tập trung đi sâu nghiên cứu, phân tích làm nổi bật tầm quan trọng của hậu phương đối với cuộc kháng chiến. Lê Thị Thanh Huyền (2004), Giao thông vận tải Thanh Hoá trong kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1945 - 1954), Luận văn thạc sỹ, Trường Đại học Vinh; Uỷ Ban nhân dân tỉnh Thanh Hoá (2008), Kỷ yếu Hội thảo Thanh Hoá trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp (1945 - 1954); Nguyễn Tuyết Nhung (2010), Hậu phương Thanh Hoá trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1945 - 1954), Luận văn thạc sỹ, Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn - Đại học Quốc gia Hà Nội; Lê Thị Quỳnh Nga (2010), Quá trình thực hiện chủ trương cách mạng ruộng đất của Đảng ở tỉnh Thanh Hoá (1945 - 1957), Luận án Tiến sỹ, Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn - Đại học Quốc gia Hà Nội; Khánh Trình, Những đóng góp to lớn của quân - dân Thanh Hóa trong chiến dịch Điện Biên Phủ, Báo Thanh Hoá, số 6 - 2013; Ngô Đăng Tri, Thanh Hoá với Chiến dịch Điện Biên Phủ, Tạp chí Lịch sử quân sự, số 1 - 1994. 9
  • 9. Các công trình nêu trên đã nghiên cứu, tiếp cận hậu phương Thanh Hoá ở nhiều góc độ khác nhau, phản ánh tương đối cụ thể từng mặt hoạt động tổ chức, luận giải một cách khoa học về cơ sở lý luận và thực tiễn quá trình củng cố, xây dựng, bảo vệ hậu phương, phục vụ tiền tuyến của Đảng bộ và nhân dân Thanh Hoá, bước đầu rút ra một số nhận xét và kinh nghiệm trong quá trình xây dựng hậu phương, phục vụ tiền tuyến của tỉnh Thanh Hoá. Qua đó, phần nào đã phác hoạ vị trí, vai trò quyết định nhất của hậu phương Thanh Hoá đối với cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Đây là những tài liệu quý liên quan trực tiếp đến quá trình nghiên cứu, hoàn thiện luận văn của tác giả. Tuy vậy, qua các công trình trên, hậu phương Thanh Hoá phần nào được nghiên cứu, tổng kết ở góc độ từng mặt, từng khía cạnh, chưa đề cập một cách toàn diện, đầy đủ, có hệ thống thành một công trình khoa học nhằm tập hợp và luận giải đầy đủ về vị trí, vai trò trực tiếp của hậu phương Thanh Hoá đối với tiền tuyến - nhân tố quyết định nhất đối với cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Vì vậy, nghiên cứu quá trình Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá lãnh đạo xây dựng hậu phương, chi viện cho tiền tuyến (1945 - 1954) vẫn là đề tài chưa có một công trình nào đề cập đầy đủ, toàn diện dưới góc độ khoa học Lịch sử Đảng. Trên cơ sở kế thừa những công trình đã công bố, tác giả hệ thống và mô tả, tái hiện lại quá trình xây dựng hậu phương, chi viện kịp thời của hậu phương Thanh Hoá trong kháng chiến chống thực dân Pháp. Qua đó, rút ra một số nhận xét và kinh nghiệm - cơ sở lý luận và thực tiễn để tỉnh Thanh Hóa tiếp tục xây dựng và củng cố quốc phòng, an ninh, xây dựng khu vực phòng thủ vững mạnh hiện nay. 3. Mục đích, nhiệm vụ * Mục đích Nghiên cứu tái hiện lại một cách đầy đủ, toàn diện và hệ thống quá trình Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá lãnh đạo xây dựng hậu phương, chi viện cho 10
  • 10. tiền tuyến (1945 - 1954), rút ra nhận xét và kinh nghiệm xây dựng hậu phương Thanh Hoá trong kháng chiến chống Pháp nhằm phục vụ công tác nghiên cứu, giáo dục truyền thống và góp phần xây dựng khu vực phòng thủ vững chắc trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá hiện nay. * Nhiệm vụ - Nghiên cứu những yếu tố vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên, xã hội và truyền thống lịch sử văn hoá liên quan trực tiếp đến quá trình xây dựng hậu phương Thanh Hóa trong cuộc kháng chiến chống Pháp. - Phân tích, làm rõ chủ trương, sự chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá về xây dựng hậu phương, chi viện cho tiền tuyến (1945 - 1954). - Rút ra một số nhận xét và kinh nghiệm về công cuộc xây dựng, bảo vệ hậu phương cũng như vai trò của hậu phương Thanh Hóa trong cuộc kháng chiến chống Pháp; vận dụng vào thực tiễn lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay. 4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu * Đối tượng Nghiên cứu sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá về xây dựng hậu phương, chi viện cho tiền tuyến trong cuộc kháng chiến chống Pháp. * Phạm vi nghiên cứu Về nội dung: Nghiên cứu chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá về xây dựng hậu phương, chi viện cho tiền tuyến. Về thời gian: Đề tài tập trung phản ánh trong phạm vi thời gian cuộc kháng chiến chống Pháp (1945 - 1954). Về không gian: tỉnh Thanh Hóa. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu * Phương pháp luận Luận văn được thực hiện dựa trên phương pháp luận chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin. 11
  • 11. * Phương pháp nghiên cứu Luận văn sử dụng chủ yếu phương pháp lịch sử, phương pháp lôgic, đồng thời kết hợp với các phương pháp khác như: thống kê, khảo sát, so sánh, phân tích, tổng hợp, lịch đại, đồng đại, điền dã, phương pháp chuyên gia. 6. Ý nghĩa của luận văn Luận văn hệ thống hoá, khôi phục lại bức tranh toàn cảnh về công cuộc xây dựng hậu phương, chi viện cho tiền tuyến của tỉnh Thanh Hóa trong kháng chiến chống thực dân Pháp. Đây là nguồn tham khảo, phục vụ cho việc nghiên cứu, giảng dạy lịch sử địa phương Thanh Hóa nói riêng, lịch sử dân tộc nói chung thời chiến tranh cách mạng, góp phần giáo dục thêm truyền thồng yêu nước, niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng, lòng tự hào của nhân dân Thanh Hóa, ý chí tự cường cho thế hệ trẻ. 7. Kết cấu của luận văn gồm Mở đầu, 3 chương (7 tiết), kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục. 12
  • 12. Chương 1 ĐẢNG BỘ TỈNH THANH HOÁ LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG HẬU PHƯƠNG CHI VIỆN CHO TIỀN TUYẾN TRONG NHỮNG NĂM ĐẦU CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP (1945 - 1950) 1.1. Yêu cầu khách quan xây dựng hậu phương Thanh Hoá trong kháng chiến chống thực dân Pháp 1.1.1. Vị trí chiến lược và điều kiện tự nhiên - xã hội của tỉnh Thanh Hoá trong kháng chiến chống thực dân Pháp Nằm ở địa đầu miền Trung, Thanh Hoá là cầu nối giữa đồng bằng Bắc Bộ rộng lớn với dải đồng bằng nhỏ hẹp miền Trung và được bao bọc bởi núi rừng trùng điệp: phía Bắc giáp các tỉnh Sơn La, Hoà Bình, Ninh Bình; phía Tây giáp tỉnh Hủa Phăn (Lào) với đường biên giới dài 195 km; phía Nam giáp tỉnh Nghệ An và phía Đông giáp vịnh Bắc Bộ với đường biển dài 102 km. Phần đất liền của tỉnh Thanh Hoá chạy dài theo chiều từ Tây Bắc xuống Đông Nam: điểm cực Bắc nằm ở vĩ tuyến 200 40’B thuộc xã Trung Sơn, huyện Quan Hoá (giáp tỉnh Hoà Bình); điểm cực Nam nằm ở vĩ tuyến 190 18’B thuộc xã Hải Hà huyện Tĩnh Gia (giáp tỉnh Nghệ An); điểm cực Tây nằm ở Kinh tuyến 1040 22’Đ thuộc xã Quang Chiểu huyện Mường Lát (giáp nước Công hoà dân chủ nhân dân Lào); điểm cực Đông nằm ở Kinh tuyến 1060 05’Đ thuộc xã Nga Điền, huyện Nga Sơn (giáp tỉnh Ninh Bình). Với vị trí này, Thanh Hoá có đầy đủ điều kiện trở thành hậu phương, cầu nối giữa hậu phương Liên khu IV với các tỉnh phía Bắc trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Thanh Hoá có diện tích tự nhiên 11.13800km2 , với ba vùng: miền núi -trung du, đồng bằng và miền biển tạo nên thế mạnh phát triển nền kinh tế tổng hợp: nông - lâm - ngư nghiệp tự cấp, tự túc - yếu tố cơ bản trong xây dựng căn cứ địa, hậu phương chống giặc ngoại xâm suốt chiều dài lịch sử. Vùng núi Thanh Hoá chiếm ¾ đất tự nhiên: phía Đông là biển Đông, còn ba mặt: Bắc - Tây - Nam núi rừng trùng điệp, hiểm trở. Núi non ở Thanh Hoá 11
  • 13. mang nét đặc trưng của Tây Bắc bởi những dải núi đá vôi xen kẽ đá phiến. Phía Nam sông Mã và phía Tây dọc biên giới Việt - Lào hiểm trở hơn với nhiều đỉnh núi cao sừng sững như ngọn Phù Chó (Thường Xuân) cao 1.563m, ngọn Pù Rinh (thuộc hai huyện Lang Chánh, Thường Xuân, cao 1.291m). Nơi đây thế kỷ XV là căn cứ địa của nghĩa quân Lam Sơn trong những ngày đầu chống giặc Minh. Cũng từ nơi đây, Lê Lợi đã lãnh đạo nghĩa quân tiến xuống đồng bằng, tiến vào Nghệ An, tấn công ra Bắc, quét sạch giặc Minh ra khỏi bờ cõi. Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, vùng núi Thanh Hoá trở thành vị trí chiến lược, con đường giao thông huyết mạch đưa nhân tài và vật lực ra tiền tuyến. Đồng bằng Thanh Hoá so với các tỉnh miền Trung, màu mỡ, rộng lớn hơn (chiếm gần một nửa đồng bằng Thanh - Nghệ - Tĩnh)1 , thuận lợi cho phát triển nông nghiệp, thâm canh cây lúa nước và các loại hoa màu, phát triển công nghiệp, thủ công nghiệp. Vùng biển với nhiều cửa lạch lớn: Lạch Sung, Lạch Trường, Lạch Ghép, Lạch Bạng cùng các đảo: đảo Nẹ, đảo Mê và các bán đảo Hà Sơn, Trường Lệ, Nghi Sơn… tạo nên vị trí tiền tiêu, phòng tuyến quân sự. Thế kỷ XVIII, quân đội Tây Sơn đã dựa vào núi rừng, biển cả xứ Thanh lập nên phòng tuyến Tam Điệp - Biện Sơn, phòng thủ và tiến công ra Bắc tiêu diệt 29 vạn quân Thanh xâm lược. Thanh Hoá có hệ thống sông lớn, bao gồm 5 hệ thống sông chính là: sông Mã - sông Chu, sông Yên, sông Bạng, sông Hoạt, sông Chàng. Ngoài ra còn có nhiều con sông nhỏ khác như: sông Cổ Tế, sông Lèn, sông Tống, sông Kênh Than. Hệ thống sông ngòi này từ xa xưa đã có vai trò to lớn trong giao thông vận tải, thuỷ lợi và ngăn bước quân thù. Giao thông đường thuỷ trở thành nét đặc trưng trong quá trình vận chuyển lương thực, thực phẩm của nhân dân Thanh Hoá trong kháng chiến chống thực dân Pháp. Dân cư đông đúc, bên cạnh người Kinh còn có các dân tộc anh em: Mường, Thái, H’Mông, Dao, Khơ Mú, Thổ, Tày, Hoa... Trải qua quá trình đấu tranh với 1 Đồng bằng Thanh - Nghệ - Tĩnh (Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh) có diện tích 62.000 ha. 12
  • 14. thiên tai, địch hoạ, nhân dân Thanh Hoá sớm hình thành truyền thống yêu nước, đoàn kết, cần cù, thông minh, sáng tạo trong lao động sản xuất, kiên cường dũng cảm trong đấu tranh chống kẻ thù xâm lược, giữ gìn nền độc lập, tự chủ. Ở vào vị trí chiến lược, điều kiện tự nhiên - xã hội như trên, Thanh Hoá có đầy đủ 3 vùng: biển, đồng bằng, trung du - miền núi. Hai tuyến đường giáp Ninh Bình và Hoà Bình ở phía Bắc và Nghệ An ở phía Nam đều có các dãy núi, đồi kéo dài từ phía Tây ra tận biển tạo thành thế “tay ngai” ôm lấy đồng bằng, thuận lợi cho việc cơ động lực lượng “tiến có thế đánh, lui có thế giữ”. Đặc biệt, sau Cách mạng Tháng Tám, Thanh Hoá vẫn là vùng tự do nên vùng đất này có đầy đủ điều kiện thuận lợi trở thành hậu phương lớn. Vì vậy, cùng với Nghệ An và Hà Tĩnh, Thanh Hoá được Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh chọn làm căn cứ địa, hậu phương lớn trong kháng chiến chống thực dân Pháp, giành độc lập dân tộc (1945 - 1954). 1.1.2. Truyền thống lịch sử văn hoá tỉnh Thanh Hoá Lịch sử đã chứng minh, Thanh Hoá - vùng đất địa linh nhân kiệt, không chỉ đã sản sinh ra các bậc hiền tài, đế vương mà còn giữ vị trí, vai trò chiến lược trong các cuộc chiến tranh ái quốc vĩ đại. Vào thế kỷ III, người con gái 19 tuổi Triệu Thị Trinh với lòng căm thù giặc sâu sắc đã cùng anh trai chiêu mộ binh sĩ, phất cờ chống giặc Ngô. Câu nói nổi tiếng của bà Triệu: “Tôi muốn cưỡi cơn gió mạnh, đạp luồng sóng dữ, chém cá kình ở biển khơi, đánh đuổi quân Ngô, giành lại giang sơn, cởi ách nô lệ chứ không chịu khom lưng làm người tì thiếp” không chỉ làm lay động vị trí thống trị của quân xâm lược phương Bắc mà còn sống mãi với non sông Việt Nam. Năm 931, được sự ủng hộ của nhân dân và hào kiệt trong vùng, Dương Đình Nghệ từ quê hương Thanh Hoá kéo quân ra Bắc, bao vây và công phá thành 13
  • 15. Đại La - dinh luỹ của quân xâm lược Nam Hán. Năm 980 - 981, Lê Hoàn - người con Thanh Hoá đã cầm quân đánh tan quân Tống xâm lược trên sông Bạch Đằng. Thế kỷ XV, giặc Minh xâm lược nước ta, Lê Lợi - người con Lương Giang đã dựng cờ quy tụ hiền tài, đãi ngộ tướng sĩ, phất cờ khởi nghĩa. Được nhân dân cả nước đồng lòng hưởng ứng, từ cuộc khởi nghĩa Lam Sơn ở địa phương đã phát triển thành cuộc chiến tranh giải phóng trong cả nước, làm nên sự nghiệp Bình ngô năm 1428. Ngoài những cuộc khởi nghĩa nổ ra tại địa phương do người Thanh Hoá trực tiếp lãnh đạo, Thanh Hoá còn là hậu phương, căn cứ địa của nhiều cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm phương Bắc hết sức oanh liệt; đó là, trước sức mạnh của Mông - Nguyên, triều Trần đã lui quân về Thanh Hoá, dựa vào địa thế hiểm trở, vào kho người, kho của tại đây để cầm cự, chờ thời cơ phản công quét sạch 50 vạn quân Nguyên. Năm 1789, Nguyễn Huệ chọn địa bàn Thanh Hoá triển khai lực lượng, thần tốc tiến quân ra Bắc quét sạch 29 vạn quân Thanh. Thực dân Pháp xâm lược nước ta, hưởng ứng chiếu Cần Vương, nhân dân Thanh Hoá cùng cả nước đứng lên chống Pháp. Các cuộc khởi nghĩa do Đinh Công Tráng, Tống Duy Tân, Hà Văn Mao, Cầm Bá Thước lãnh đạo đã thể hiện tinh thần yêu nước, ý chí kiên cường bất khuất chống ngoại xâm của nhân dân Thanh Hoá. Bên cạnh các cuộc khởi nghĩa trên, một số thanh niên yêu nước thức thời của Thanh Hoá: Lê Hữu Lập, Lê Doãn Chấp đã sớm giác ngộ chủ nghĩa Mác - Lênin, đi theo con đường cách mạng mà Nguyễn Ái Quốc đã lựa chọn. Vì vậy, ngày 29 - 7 - 1930, Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam tỉnh Thanh Hoá ra đời đã lãnh đạo nhân dân Thanh Hoá xây dựng lực lượng chính trị, vũ trang, xây dựng chiến khu kháng chiến Ngọc Trạo, chiến khu Hoà - Ninh - Thanh (sau đó đổi tên thành chiến khu Quang Trung), cùng cả nước chuẩn bị Tổng khởi nghĩa, giành chính quyền. Ngày 23 - 8 - 1945, Tổng khởi nghĩa thắng lợi, chính quyền cách mạng về tay nhân dân, nhân dân các dân tộc Thanh Hoá đã đoàn kết cùng nhau bước vào thời kỳ mới, xây dựng và bảo vệ độc lập, tự do vừa giành được. 14
  • 16. Kế thừa và phát huy truyền thống lịch sử lên tầm cao mới trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá đã nêu cao vai trò, vị trí của mình, lãnh đạo quân dân tỉnh vừa bảo vệ chính quyền cách mạng, xây dựng hậu phương vững chắc, vừa huy động và cung cấp nhân tài vật lực cho cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. 1.1.3. Yêu cầu của cuộc kháng chiến và chủ trương xây dựng hậu phương của Đảng Cộng sản Việt Nam Sau Cách mạng Tháng Tám, bên cạnh những thuận lợi cơ bản để kiến thiết đất nước, nước ta đứng trước muôn vàn khó khăn, thách thức, tình thế cách mạng như “ngàn cân treo sợi tóc”. Chính quyền cách mạng còn non trẻ; lực lượng vũ trang ít về số lượng, hạn chế về trang bị kỹ thuật; nạn đói, nạn dốt, đặc biệt, thù trong giặc ngoài bao vây nước ta bốn hướng, hòng cướp chính quyền cách mạng còn non trẻ. Trong số kẻ thù Anh, Tưởng, Mỹ, Pháp, Việt quốc, Việt cách… nguy hiểm nhất là thực dân Pháp. Chúng có đầy đủ cơ sở và điều kiện để trở lại xâm lược nước ta lần 2. Vì vậy, Đảng ta nhận định “nhất định không sớm thì muộn Pháp sẽ đánh mình và mình cũng nhất định phải đánh Pháp”. Tình hình trên đặt ra: để thắng thực dân Pháp có tiềm lực kinh tế và quốc phòng hùng mạnh, ngoài các nhiệm vụ cấp bách cần làm ngay: Bảo vệ và giữ vững chính quyền cách mạng. Chống thực dân Pháp xâm lược. Bài trừ nội phản. Cải thiện đời sống nhân dân, Đảng và Chính phủ còn đặt ra yêu cầu xây dựng hậu phương, căn cứ địa cách mạng vững chắc cho cuộc kháng chiến. Yêu cầu này ngày càng trở thành đòi hỏi bức thiết. Bởi vì, hậu phương không chỉ bảo đảm đầy đủ, kịp thời về vật chất mà còn là điểm tựa tinh thần vững chắc, nguồn động viên tinh thần to lớn cho tiền tuyến đánh giặc. Nghiên cứu sức mạnh tổng hợp của chiến tranh cách mạng, chủ nghĩa Mác - Lênin luôn đánh giá cao vai trò to lớn của hậu phương đối với tiến trình và kết cục thắng lợi của chiến tranh cách mạng. V.I.Lênin chỉ rõ: “Trong chiến tranh, ai có 15
  • 17. nhiều lực lượng hậu bị hơn, ai có nhiều nguồn lực, ai kiên trì đi sâu vào quần chúng nhân dân hơn, thì người đó thu được thắng lợi” [58, tr. 271]. Vận dụng sáng tạo tư tưởng của Lênin về xây dựng hậu phương chiến tranh vào tình hình cụ thể đất nước, Đảng ta đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đồng thời tiến hành hai nhiệm vụ: vừa cứu đói, nâng cao đời sống nhân dân, chống lại thù trong, giặc ngoài vừa tranh thủ thời gian “vàng” chuẩn bị thực lực đánh Pháp. Vì vậy, cùng với Chỉ thị “Kháng chiến kiến quốc” của Trung ương Đảng ngày 25 - 11 - 1945: “Kháng chiến phải đi đôi với kiến quốc, kháng chiến có thắng lợi thì kiến quốc mới thành công, kiến quốc có thành công thì kháng chiến mới thắng lợi”, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã giao nhiệm vụ cho đồng chí Trần Đăng Ninh, Nguyễn Lương Bằng trở lại Việt Bắc, vạch tuyến, lựa chọn địa điểm xây dựng An toàn khu (ATK) cho Trung ương Đảng và Chính phủ - cơ quan đầu não của cuộc kháng chiến. Cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ, Liên khu IV nói chung, Thanh Hoá nói riêng trở thành vùng tự do. Vì vậy, với cách nhìn bao quát, toàn diện sâu sắc và trên cơ sở phân tích vị trí xung yếu, tiềm năng và thế mạnh của tỉnh, Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chọn Thanh Hoá làm hậu phương, căn cứ địa cách mạng. Ngày 20 - 2 - 1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh vào Thanh Hoá trực tiếp giao nhiệm vụ cho nhân dân tỉnh xây dựng Thanh Hoá thành tỉnh kiểu mẫu - căn cứ, hậu phương chiến lược trong kháng chiến chống thực dân Pháp. Người chỉ thị: “Thanh Hoá phải trở nên một tỉnh kiểu mẫu, thì phải làm sao cho mọi mặt: chính trị, kinh tế, quân sự, phải là kiểu mẫu. Làm một người kiểu mẫu, một nhà kiểu mẫu, một làng kiểu mẫu, một huyện kiểu mẫu, một tỉnh kiểu mẫu. Quyết tâm làm thì sẽ thành kiểu mẫu” [62, tr.62]. Về chính trị: toàn dân đoàn kết, yêu nước, chống Pháp. Chính quyền là đầy tớ của nhân dân, phải thanh khiết từ to đến nhỏ. 16
  • 18. Về quân sự: phá hoại triệt để, đào hầm trú ẩn để tránh nạn tàu bay. Đường sá, đường cái, đường xe lửa phải phá hết, cản bước tiến quân thù, tổ chức chiến tranh du kích đánh địch bằng súng chim, súng kíp, gậy, cày, cuốc… Về kinh tế: phải sản xuất tự cấp, tự túc, dù thực dân Pháp phong toả 10 năm, 15 năm cũng không sợ. Phải làm cho người nghèo đủ ăn, người giàu thì giàu thêm. Phải lấy sức dân, của dân, tài dân làm lợi cho dân, chống ỷ lại Chính phủ, phát huy ý thức tự lực tự cường… Về văn hoá: phải tiêu diệt giặc dốt, làm cho mọi người biết đọc, biết viết, phải phát triển phong trào bình dân học vụ, xây dựng phát triển hệ thống giáo dục phổ thông, nâng cao dân trí, chăm lo sức khoẻ cho nhân dân lao động… Để xây dựng Thanh Hoá thành tỉnh kiểu mẫu, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ ra những điều kiện cơ bản: Một là, phải xây dựng được đội ngũ cán bộ có đức, có tài: “Cán bộ là cái dây chuyền của bộ máy. Nếu dây chuyền không tốt, không chạy thì động cơ dù tốt dù chạy toàn bộ máy cũng tê liệt. Cán bộ là người đem chính sách của Chính phủ, của đoàn thể thi hành trong nhân dân, nếu cán bộ dở thì chính sách hay cũng không thực hiện được” [62, tr.54]. Hai là, phải động viên được mọi tầng lớp nhân dân trong tỉnh tham gia. Người viết: “Tôi mong rằng, trong công việc đó, tất cả những người có tài, có đức, có sức, có của, có công đều hăng hái ra giúp, toàn thể đồng bào trong tỉnh đều hăng hái tham gia. Như thế thì nhất định sẽ thành công” [62, tr.55]. Ngày 21 - 2 - 1947, Bác Hồ gửi thư cho đồng bào Thượng du, Người khích lệ lòng ái quốc của đồng bào các dân tộc và các vị lang đạo, đồng thời kêu gọi đồng bào Thượng du đoàn kết, ủng hộ kháng chiến và giết giặc cứu nước. Xây dựng Thanh Hoá thành tỉnh kiểu mẫu tức là xây dựng chế độ dân chủ nhân dân phát triển toàn diện ở hậu phương, tạo ra tiềm lực hùng hậu đảm bảo đời sống của nhân dân trong tỉnh và chi viện cho kháng chiến. Vì, theo Người “Chiến sĩ hy sinh xương máu để giữ đất nước. Bụng có no, thân có ấm 17
  • 19. thì mới đánh được giặc. Làm ra gạo thóc cho chiến sĩ ăn, làm ra vải vóc cho chiến sĩ mặc. Đều nhờ nơi đồng bào ở hậu phương… Hậu phương thắng lợi, chắc tiền phương thắng lợi” [61, tr.486]. Sự chỉ đạo này không chỉ có ý nghĩa đối với riêng tỉnh Thanh Hoá mà còn là mô hình “kháng chiến, kiến quốc” cho các tỉnh noi theo, đồng thời tạo ra sức mạnh tổng hợp của hậu phương không chỉ cung cấp sức người, sức của cho các chiến trường mà còn đánh bại mọi âm mưu càn quét, phá hoại hậu phương của kẻ thù. Bên cạnh quan điểm chỉ đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh về xây dựng tỉnh Thanh Hoá kiểu mẫu, Nghị quyết Hội nghị Cán bộ Trung ương tháng 4 - 1947 chỉ rõ: một trong những nhiệm vụ cần kíp mà Đảng phải đặc biệt quan tâm là xây dựng căn cứ địa kháng chiến và “Muốn cho căn cứ địa được vững chắc phải gia tăng việc vận động quần chúng; đào tạo cán bộ địa phương, tổ chức việc tiễu phỉ trừ gian, ở các căn cứ địa sát mặt trận, phải tổ chức ngay những “công tác đội võ trang” các “đội danh dự trừ gian” và chuẩn bị các “tiểu tổ bí mật” như trước hồi Tổng khởi nghĩa Tháng Tám” [41, tr.184]. Vì vậy, cùng với căn cứ địa Việt Bắc, Đảng và nhân dân ta đã phát huy vai trò của vùng hậu phương rộng lớn, bao gồm các khu du kích, các vùng tự do ở khu III, khu IV, khu V, Nam Bộ... tạo thành thế liên hoàn, vừa bao vây kẻ thù, vừa cung cấp sức người, sức của cho tuyền tuyến, động viên ý chí niềm tin cho những người lính trên chiến trường. Đây chính là một trong những nhân tố thường xuyên quyết định thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Pháp. Quán triệt chủ trương của Đảng, khắc sâu lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá đã đề ra chủ trương, lãnh đạo nhân dân tỉnh xây dựng hậu phương, căn cứ địa vững chắc, chuẩn bị mọi mặt cho cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. 1.2. Chủ trương của Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá xây dựng hậu phương, chi viện cho tiền tuyến trong những năm đầu kháng chiến chống thực dân Pháp (1945 - 1950) 18
  • 20. Nhận thức sâu sắc trách nhiệm và vinh dự lớn của căn cứ địa, hậu phương của cuộc kháng chiến, Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá đã vượt qua mọi khó khăn trong những ngày đầu toàn quốc kháng chiến, cụ thể hoá đường lối của Đảng và Chỉ thị Chủ tịch Hồ Chí Minh thành mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp cụ thể trên tất cả các lĩnh vực: chính trị, kinh tế, quân sự, văn hoá - xã hội, từng bước xây dựng Thanh Hoá trở thành tỉnh kiểu mẫu - hậu phương vững mạnh, kịp thời cung cấp đầy đủ sức người, sức của tới các chiến trường, đồng thời tổ chức chiến đấu tốt, bảo vệ hậu phương trong mọi tình huống. Xây dựng hậu phương về mặt chính trị là một nhiệm vụ quan trọng, giữ vị trí hàng đầu, then chốt của công cuộc xây dựng và bảo vệ hậu phương trong chiến tranh cách mạng. Chủ trương của Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá là khẩn trương phát triển số lượng đảng viên và tổ chức cơ sở đảng, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao về cán bộ và sự lãnh đạo của Đảng đối với cuộc kháng chiến. Đầu tháng 9 - 1945, Tỉnh uỷ Thanh Hoá triệu tập Hội nghị mở rộng tại thị xã Thanh Hoá bàn biện pháp củng cố và xây dựng các tổ chức cơ sở đảng ở các địa phương, phát triển đảng viên mới. Ngày 18 - 11 - 1945, Tỉnh uỷ mở hội nghị bàn và quyết định những biện pháp củng cố và phát triển Mặt trận Việt Minh. Sự lãnh đạo sáng suốt và biện pháp kịp thời của Đảng bộ tỉnh đã tăng cường sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân, bổ sung những cán bộ cốt cán cho các cấp chính quyền cơ sở, tập hợp đông đảo các tầng lớp nhân dân tham gia bảo vệ và xây dựng chính quyền cách mạng. Nhận thức rõ tầm quan trọng về xây dựng Đảng, Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ nhất chỉ rõ: Công tác xây dựng, củng cố phát triển đảng viên phải được tiến hành thường xuyên, liên tục. Vì vậy, đi đôi với nâng cao chất lượng đảng viên, Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá còn có những biện pháp tăng cường chất lượng tổ chức cơ sở đảng. Tháng 4 - 1948, Hội nghị cán bộ Đảng bộ tỉnh họp tại xã Thuần Lộc (Thọ Xuân), quyết định xây dựng chi bộ theo phương châm đạt 3 tiêu chuẩn, 3 danh hiệu do Liên khu uỷ đề ra: tự động, tiến bộ, gương mẫu 19
  • 21. [28, tr.112]. Phương châm này đã có tác dụng củng cố chất lượng cơ sở đảng, tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng trong quần chúng, nâng cao chất lượng đảng viên. Các đảng bộ trong tỉnh đều lấy mục tiêu đoàn kết nội bộ, đoàn kết toàn dân, sinh hoạt đều, nâng cao năng lực lãnh đạo để phấn đấu. Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ nhất tháng 2 - 1948 đã kiểm điểm việc thực hiện Chỉ thị kháng chiến của Trung ương và lời dạy của Bác Hồ “xây dựng Thanh Hoá thành một tỉnh kiểu mẫu”. Đại hội xác định nhiệm vụ đẩy mạnh mọi mặt công tác ở vùng Thượng du với khẩu hiệu “Thượng du thắng là Thanh Hoá thắng” và đề ra nhiệm vụ “xây dựng Thanh Hoá thành hậu phương vững mạnh để kịp thời cung cấp đầy đủ sức người, sức của cho chiến trường, đồng thời tổ chức chiến đấu tốt để bảo vệ hậu phương trong mọi tình huống” [15, tr.55]. Giữa năm 1948, Hội nghị Đảng bộ Liên khu IV lần thứ nhất xác định: Thanh - Nghệ - Tĩnh là vùng hậu phương của Liên khu, thống nhất quan điểm lãnh đạo kháng chiến, tăng cường công tác cán bộ. Hội nghị còn nhấn mạnh việc xây dựng và bảo vệ nơi đây thành hậu phương của cả nước, uốn nắn một số lệch lạc trong phát triển Đảng, đoàn kết kháng chiến và thực thi các chính sách của Đảng. Trong công tác xây dựng Đảng, mục tiêu của Đảng bộ tỉnh đề ra trong năm 1947 - 1950: tích cực phát triển đảng viên mới, nhanh chóng xây dựng cơ sở đảng ở các ngành, các cấp, tổ chức chi bộ Đảng ở các xã, thành lập Đảng bộ huyện để đảm bảo tuyệt đối sự lãnh đạo của Đảng. Bên cạnh công tác xây dựng Đảng, thực hiện Sắc lệnh số 01/SL của Chính phủ, tháng 3 - 1947, Uỷ ban kháng chiến tỉnh Thanh Hoá được thành lập, đồng chí Đặng Việt Châu - phái viên của Chính phủ được bổ nhiệm làm Chủ tịch. Song song với Uỷ ban kháng chiến, Uỷ ban Hành chính do đồng chí Đặng Thai Mai làm Chủ tịch; Uỷ ban kháng chiến đặc biệt miền Thượng du Thanh Hoá cũng được thành lập. Nhiệm vụ của Uỷ ban kháng chiến là giúp cấp uỷ thực hiện và đôn đốc công tác kháng chiến, giúp đỡ đồng bào tản cư, động viên 20
  • 22. nhân dân góp sức người, sức của cho công cuộc kháng chiến. Xét thấy Uỷ ban kháng chiến và Uỷ ban hành chính đều có nhiệm vụ như nhau, tháng 4 - 1947, hai uỷ ban này được hợp nhất thành Uỷ ban hành chính kháng chiến do đồng chí Đặng Việt Châu được chỉ định làm Chủ tịch, đồng chí Đặng Thai Mai được Trung ương điều ra Việt Bắc làm nhiệm vụ mới. Cuộc kháng chiến của dân tộc ta bước sang giai đoạn mới, yêu cầu lương thực, thực phẩm cho chiến trường ngày càng tăng. Đầu năm 1949, nhiệm vụ xây dựng hậu phương chi viện cho tiền tuyến được Đại hội tỉnh lần thứ III chỉ rõ: “Về chính trị: thống nhất Mặt trận Việt Minh và Liên Việt, đẩy mạnh công tác giáo vận, tích cực tuyên truyền vận động cách mạng trong đồng bào các dân tộc thiểu số, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, củng cố chính quyền” [24, tr.58]. Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh, tinh thần tận tuỵ, gương mẫu của tuyệt đại đa số cán bộ đảng viên, hệ thống tổ chức chính quyền và đoàn thể không ngừng được củng cố và ngày càng vững mạnh, sự ủng hộ và tín nhiệm tuyệt đối của nhân dân, Thanh Hoá từng bước xây dựng hậu phương vững chắc về chính trị. Sự vững mạnh này có ý nghĩa quyết định đối với xây dựng hậu phương về kinh tế, quân sự, văn hoá - xã hội. Xây dựng hậu phương về kinh tế là một lĩnh vực quan trọng, có ý nghĩa quyết định vai trò của hậu phương đối với cuộc kháng chiến. Quán triệt chủ trương của Đảng, khắc sâu lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh “Thanh Hoá phải ra sức tăng gia sản xuất để đi tới tự cấp tự túc gắn với thực hành tiết kiệm. Trong thu, chi phải ngăn nắp, rõ ràng. Chương trình, kế hoạch phải thiết thực, đúng với lực lượng, sát với hoàn cảnh” [71, tr.13], Đại hội Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá lần thứ hai chỉ rõ: “Tiếp tục đẩy mạnh sản xuất, xây dựng tổ đổi công hợp tác xã (bậc thấp), triệt để thực hiện giảm tô 25%, phát triển tiểu thủ công để có nhiều hàng tiêu dùng cung ứng cho yêu cầu của địa phương, tăng cường tiếp tế cho vùng Thượng du, bao vây kinh tế của địch” 21
  • 23. [25, tr.58]. Cùng với chủ trương đẩy mạnh sản xuất lương thực. Năm 1947, Tỉnh uỷ chủ trương thành lập công xưởng sản xuất lựu đạn, súng, mìn và các loại vũ khí thô sơ cung cấp cho lực lượng vũ trang địa phương. Xây dựng hậu phương về kinh tế không chỉ đáp ứng nhu cầu đời sống nhân dân mà còn tạo ra nguồn của cải vật chất, chi viện kịp thời cho tiền tuyến “ăn no đánh thắng”. Xây dựng hậu phương về quân sự. Sức mạnh của hậu phương không chỉ về chính trị, kinh tế mà còn bao gồm cả lĩnh vực quân sự. Mục tiêu đánh phá chủ yếu của địch vào hậu phương của ta là chống phá nơi nguồn cung cấp sức người, sức của cho tiền tuyến. Vì vậy, xây dựng quân sự ở hậu phương và chiến đấu bảo vệ hậu phương diễn ra thường xuyên và ngày càng gay go quyết liệt. Ngay từ những ngày đầu kháng chiến, Thanh Hoá nhanh chóng phát triển lực lượng dân quân du kích tự vệ tập trung. Hầu hết các huyện đều thành lập một trung đội tập trung với số lượng từ 25 - 30 người. Thị xã Thanh Hoá tổ chức hai đội tự vệ. Chi đội Đinh Công Tráng phát triển thành trung đoàn Đinh Công Tráng - trung đoàn chủ lực, lực lượng quân sự nòng cốt của tỉnh gồm 2 tiểu đoàn bộ binh cơ động, 3 đại đội trinh sát, công binh, lựu pháo, tích cực chuẩn bị cơ sở từng trọng điểm, chuẩn bị chiến trường, sẵn sàng đánh địch. Thấy rõ vị trí, vai trò quan trọng của hậu phương Thanh Hoá, thực dân Pháp đem quân đánh vào vùng biển và vùng núi Thanh Hoá thăm dò sự đề phòng, uy hiếp tinh thần của nhân dân nơi đây, đồng thời cũng là lựa chọn hướng chiến lược cho ý đồ mở rộng chiến tranh trong thu đông 1947: tiến công Việt Bắc - căn cứ địa kháng chiến hoặc vùng tự do Thanh - Nghệ - Tĩnh. Miền Tây Thanh Hoá giữ vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng, là cửa ngõ tiếp giáp với nước bạn Lào, cầu nối giữa Liên khu IV với Tây Bắc và Việt Bắc, thực dân Pháp đã sử dụng chiến thuật “vết dầu loang”, đánh vào các huyện miền Tây: Hồi Xuân, La Hán, Cổ Lũng, Yên Khương… từ đây đánh chiếm toàn bộ miền Tây, uy hiếp vùng đồng bằng, trung châu Thanh Hoá, tây 22
  • 24. nam Hoà Bình, làm cơ sở thuận tiện đánh ra Liên khu III và Việt Bắc, cắt đứt đường liên lạc Vạn Mai - Suối Rút (Hoà Bình), đồng thời chia cắt mối quan hệ đoàn kết chiến đấu giữa Thượng Lào và Thanh Hoá. Tình hình mới đặt ra, Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ hai tháng 4 - 1949 nêu ra nhiệm vụ xây dựng hậu phương về quân sự: “xây dựng bộ đội vững mạnh, phát triển dân quân, du kích. Những nơi giặc Pháp chiếm đóng, quân dân tổ chức chiến đấu tiêu diệt sinh lực địch và làm tốt công tác địch vận và kiện toàn bộ đội địa phương; tăng cường và phát triển dân quân; tích cực xây dựng lực lượng chủ lực về quân số, lương thực, vũ khí; tăng cường xây dựng bố phòng…” [87, tr.38]. Đại hội đặc biệt chỉ ra: chú trọng vùng xung yếu miền Tây, Nga Sơn, Hà Trung, Hoằng Hoá, Quảng Xương, đường số 1A, các bến sông lớn và đường rút lui của địch như Quan Hoá, Bá Thước, Cẩm Thuỷ, Thạch Thành… và đề ra khẩu hiệu “Thượng du thắng là Thanh Hoá thắng”, xây dựng miền Tây - địa bàn chiến lược quan trọng của cách mạng Thanh Hoá và nước bạn Lào anh em. Cuộc kháng chiến ngày càng ác liệt, vùng chiếm đóng của Pháp theo “vết dầu loang” lan rộng, không chỉ ở đồng bằng Bắc Bộ, Việt Bắc mà còn huy động lực lượng trở lại đánh chiếm một số điểm ở miền Tây Thanh Hoá. Trước tình hình đó, tháng 7 - 1950, Hội nghị Tỉnh uỷ mở rộng tại xã Hợp Thành - Triệu Sơn đề ra nhiệm vụ giai đoạn mới: “1. Quyết chiến, quyết thắng để bảo vệ Thanh Hoá - một hậu phương quan trọng của cả ba chiến trường: Bắc Bộ, Lào, Bình Trị Thiên. 2. Dốc nhân, tài, vật lực cung cấp cho chiến trường Bắc Bộ và chiến trường Thượng Lào” [21, tr.90]. Đại hội cũng chỉ rõ nhiệm vụ quân sự của tỉnh: tích cực chi viện cho chiến trường Bình - Trị - Thiên, cung cấp kịp thời sức người sức của cho chiến trường Bắc Bộ, xây dựng kinh tế, cải thiện đời sống nhân dân, xây dựng chính quyền, củng cố khối đoàn kết toàn dân. Xây dựng hậu phương về văn hoá - xã hội. Cùng với xây dựng hậu phương Thanh Hoá về chính trị, kinh tế, quân sự, Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá rất chú trọng đến lĩnh vực văn hoá - xã hội. Từng bước đưa chủ trương của Đảng 23
  • 25. vào thực tiễn Thanh Hoá và thực hiện lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Thanh Hoá có tiếng là văn vật, nhưng nay xét số người biết chữ còn ít hơn người chưa biết chữ… Tôi có ý kiến ra kỳ hạn trong một năm phải thanh toán cho xong nạn mù chữ” [62, tr.59], Đảng bộ tỉnh đã đưa ra mục tiêu: Gấp rút thanh toán nạn mù chữ, tiến lên học bổ túc văn hoá, kêu gọi nhân dân chống nạn thất học “người biết chữ dạy người chưa biết chữ, người biết chữ nhiều dạy cho người biết chứ ít, phụ nữ lại càng phải học”. Cùng với đẩy mạnh phong trào bình dân học vụ, phong trào xây dựng “đời sống văn hoá - nếp sống kháng chiến” và đẩy mạnh hoạt động y tế từng bước vừa nâng cao dân trí, vừa bảo đảm sức khoẻ, đời sống tinh thần của nhân dân. Nhận thức rõ vị trí, vai trò chiến lược của tỉnh sau Cách mạng Tháng Tám, Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá đã kịp thời khắc phục khó khăn, củng cố, bảo vệ chính quyền cách mạng, sớm đưa ra chủ trương xây dựng hậu phương trên tất cả các lĩnh vực. Điều này thể hiện đường lối đúng đắn của Đảng ta, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, đồng thời phản ánh sự nhạy bén, kịp thời của Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá trước hoạ xâm lăng của thực dân Pháp. 1.3. Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá chỉ đạo xây dựng hậu phương, chi viện cho tiền tuyến trong những năm đầu kháng chiến chống thực dân Pháp (1945 - 1950) 1.3.1. Đảng bộ tỉnh Thanh hoá chỉ đạo xây dựng hậu phương Xây dựng hậu phương về chính trị là một trong những nhiệm vụ quan trọng của công cuộc xây dựng và bảo vệ hậu phương, trong đó đặt lên hàng đầu nhiệm vụ xây dựng Đảng. Vì vậy, trong các năm 1947 - 1950, thực hiện lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá xem công tác xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt để đẩy mạnh phong trào cách mạng. Năm 1947, toàn tỉnh có 2.800 đảng viên, đến năm 1950 đã có 37.442 đảng viên. Các huyện Thượng du đã thành lập được Đảng bộ. Hầu hết các xã đều xây dựng chi bộ Đảng. Số đảng viên là nữ có trên 4000 người, số đảng viên là 24
  • 26. người dân tộc là hơn 500 người [15, tr.223]. Ở vùng đồng bào theo đạo Thiên chúa đã xây dựng được một số chi bộ Đảng. Tuy vậy, do công tác phát triển Đảng gấp rút nên chất lượng một số đảng viên yếu. Một bộ phận cán bộ đảng viên trình độ văn hoá chưa cao và chưa kinh qua hoạt động thực tiễn nên nhận thức về Đảng, kinh nghiệm cách mạng còn hạn chế. Ngoài ra, còn bộ phận đảng viên xuất thân từ thành phần bóc lột nên giác ngộ chính trị còn hạn chế, ít được quần chúng nhân dân tin yêu. Để nâng cao chất lượng cán bộ, đảng viên, Tỉnh uỷ đã đề ra giải pháp: “mở các lớp bình dân học vụ bồi dưỡng văn hoá cho bộ phận cán bộ đảng viên có trình độ văn hoá thấp; tổ chức các lớp bồi dưỡng lý luận và kinh nghiệm công tác cho cán bộ, đảng viên mới, tiến hành công tác kiểm tra, loại bỏ những phần tử phẩm chất chính trị kém, chỉ đạo phấn đấu và xếp loại cơ sở đảng theo các mục tiêu: “chi bộ gương mẫu”, “chi bộ tự động”, “chi bộ tiến bộ”; xây dựng nề nếp sinh hoạt Đảng dựa trên nguyên tắc tập trung dân chủ, phát huy phê bình và tự phê bình trong Đảng bộ…” [15, tr.223 - 224]. Tỉnh uỷ còn mở các lớp bồi dưỡng chủ nghĩa Mác - Lênin, đường lối chủ trương của Đảng tới các huyện uỷ viên, chi uỷ viên thời gian từ 1 đến 3 tháng và giao cho từng Huyện uỷ mở lớp bồi dưỡng lý luận cho đảng viên từ 10 đến 15 ngày. Các huyện như: Vĩnh Lộc, Hoằng Hoá, Thiệu Hoá, Thọ Xuân, Yên Định… Huyện uỷ chỉ đạo mở các lớp bình dân học vụ cho cán bộ, đảng viên học hết chương trình cấp I, từng bước nâng cao chất lượng và sức chiến đấu của đảng viên. Dưới sự chỉ đạo của Tỉnh uỷ, trình độ cán bộ, đảng viên, chất lượng lãnh đạo của các Đảng bộ dần dần được nâng cao, từng bước đáp ứng yêu cầu kháng chiến, kiến quốc. Năm 1949, Đảng bộ huyện Tĩnh Gia, Quảng Xương, Hoằng Hoá, Vĩnh Lộc, Nông Công, Nga Sơn đã xây dựng được nhiều “chi bộ tự động”, “chi bộ tiến bộ” và “chi bộ gương mẫu”. Năm 1950, Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá đã có 53% tổng số chi bộ đạt danh hiệu “chi bộ tự động”. Chi bộ 25
  • 27. Tượng Lĩnh (Tĩnh Gia) được công nhận là “chi bộ gương mẫu” đầu tiên của tỉnh Thanh Hoá. Bên cạnh đó, Tỉnh uỷ chỉ đạo củng cố Mặt trận Việt Minh, phát triển Hội Liên Việt, củng cố, phát triển các tổ chức cứu quốc và các đoàn thể quần chúng như: Công hội, Nông hội, Thanh niên, Phụ nữ… vững mạnh. Để nâng cao tính tiên phong gương mẫu, các cấp uỷ đảng đã chỉ đạo đấu tranh chống quan liêu, mệnh lệnh, đấu tranh và đưa ra khỏi các cấp lãnh đạo những người thoái hoá, biến chất, tăng cường những cán bộ, đảng viên đủ phẩm chất, năng lực lãnh đạo chính quyền, mặt trận và các đoàn thể quần chúng. Vì vậy, năm 1948, tổ chức Liên Việt có 183.801 hội viên, đến năm 1949 đã tăng lên 249.700 hội viên [86, tr.25]. Tổ chức này đã đứng ra lãnh đạo các cuộc vận động, huy động nhân dân mua công trái ủng hộ kháng chiến, quyên góp “ủng hộ Bình - Trị - Thiên”, “Mùa đông binh sĩ”, “dân quân tự túc”… Đối với đồng bào các dân tộc, tôn giáo, Tỉnh uỷ chỉ đạo chính quyền, mặt trận các cấp vận động họ tham gia kháng chiến, kiến quốc, xây dựng bản, làng theo đời sống mới, đấu tranh tư tưởng với bọn lang đạo phản động, củng cố khối đoàn kết toàn dân, xây dựng hậu phương, phục vụ kháng chiến. Như vậy, cùng với xây dựng Đảng, các tổ chức quần chúng khác cũng được Tỉnh uỷ rất chú trọng phát triển và tổ chức chặt chẽ, tạo thành sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Nhận thức rõ xây dựng hậu phương về kinh tế là một lĩnh vực quan trọng, có ý nghĩa quyết định trong vai trò của hậu phương đối với cuộc kháng chiến, Tỉnh ủy đã chỉ đạo huy động sự đóng góp về vật chất phục vụ kháng chiến: Đẩy mạnh phong trào thi đua sản xuất lương thực để cung cấp cho kháng chiến. Lập kho lương dự trữ phản công ở mỗi xã, mỗi thôn. Tỉnh uỷ chỉ đạo phát động phong trào thi đua lập kho lương phản công trong toàn tỉnh. Cổ động nhân dân bán gạo cho Nhà nước theo phương châm “Giàu phải đong nhiều, nghèo đong ít”. “Nhà giàu xuất của, nhà nghèo xuất công”. Đẩy nhanh tốc độ sản xuất các ngành công nghiệp quốc 26
  • 28. phòng, nâng cao trình độ kỹ thuật để có dự trữ quân dụng, vũ khí, cung cấp kịp thời cho mặt trận. Mỗi địa phương đều phải có một tiểu đoàn vận tải. Cấp tốc mở lớp đào tạo vận tải ở các huyện, khẩn trương sửa chữa cầu, đường và lập các trạm, các bến cất hàng, trữ hàng, đảm bảo cung cấp kịp thời cho chiến trường. Thực hiện lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Tỉnh uỷ chỉ đạo các cấp vận động nhân dân thực hiện khẩu hiệu “tấc đất tấc vàng”, khuyến khích khai hoang phục hoá. Uỷ ban hành chính kháng chiến tỉnh đã chỉ đạo các cấp thực hiện việc chia ruộng đất cho phụ nữ từ 18 tuổi trở lên, vận động các chủ ruộng nhường bớt ruộng cho người nghèo cày cấy, nhiều hình thức tổ chức sản xuất tập thể trong nông nghiệp như tổ đổi công, hợp tác xã phát triển nhanh, những nơi có nhiều đồi núi, lập trại sản xuất dân quân. Trong canh tác, nhân dân đã áp dụng tốt các biện pháp khoa học kỹ thuật, diện tích canh tác được mở rộng, năng suất, sản lượng lương thực tăng. Để đảm bảo người nông dân có ruộng cày cấy, Tỉnh uỷ đã kịp thời chỉ đạo việc chia lại công điền, công thổ và ruộng đất của bọn Việt gian phản quốc cho nông dân, vận động các gia đình có nhiều ruộng đất hiến điền. “Năm 1948 có 2.497 điền chủ thực hiện giảm tô trên diện tích 13.770 mẫu ruộng, năm 1949 tăng lên 23.777 mẫu ruộng được giảm tô. Năm 1950 hầu hết các chủ đất phải thực hiện triệt để giảm tô 25%” [14, tr.53]. Thông qua phong trào hiến điền, chính quyền cách mạng đã nhận được 1.799 mẫu. Năm 1949, nông dân tỉnh đã bán 7.963 tấn lúa khao quân và đóng góp hàng ngàn tấn cung cấp cho bộ đội địa phương. Biểu dương tinh thần đóng góp nuôi quân của nhân dân Thanh Hoá, ngày 15 - 6 - 1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi thư khen ngợi các xã xuất sắc nhất: “Tân Tiến đã ủng hộ 1.300.000 đồng, xã Hoằng Lộc ủng hộ 2.200.000 đồng, xã Đông Anh đã ủng hộ 3.800.000 đồng” [63, tr.63]. Cùng với việc chia ruộng đất cho dân cày, Tỉnh uỷ chỉ đạo thành lập công xưởng Đức Huấn, Cao Thắng, Phạm Hồng Thái sản xuất lựu đạn, súng, mìn và các loại vũ khí thô sơ cung cấp cho lực lượng vũ trang nhân dân địa phương. Năm 1949, Thanh Hoá có 3 điểm sản xuất vũ khí cung cấp cho chiến trường “Tại núi Đa Nê, huyện Yên Định có hai xưởng đúc vỏ đạn moóc-chi- 27
  • 29. ne, mìn, lựu đạn; xưởng Phan Huy Thuần sản xuất súng kíp; Thọ Xuân sản xuất đao, kiếm, lựu đạn” [38, tr.141]; “xưởng quân giới Chu Lễ là nơi đầu tiên chế tạo được axít sunphuaríc bằng phương pháp thủ công” [23, tr.289]. Các ngành nghề thủ công truyền thống địa phương như: dệt vải, dệt lụa, đan lưới, đúc đồng, sản xuất giấy, làm muối phát triển. Năm 1949, tỉnh có 30 cơ sở sản xuất giấy đạt sản lượng 172 tấn/năm. Ở các huyện Tĩnh Gia, Quảng Xương, Hoằng Hoá, Hậu Lộc, nghề đi biển và diện tích làm muối được mở rộng, tăng sản lượng phục vụ cho nhân dân, cung cấp cho các tỉnh và nước bạn Lào. Hưởng ứng chủ trương phát hành công trái của Chính phủ, các tầng lớp nhân dân Thanh Hoá đã tích cực tham gia mua “công trái kháng chiến”. Hầu hết các huyện thị đều nhiệt tình hưởng ứng, điển hình là Hà Trung mua 2,1 triệu đồng, huyện Nông Cống mua 2,2 triệu đồng. Dưới sự chỉ đạo của Tỉnh uỷ, kinh tế Thanh Hoá phát triển: diện tích đất nông nghiệp tăng, người nông dân có ruộng cày cấy, sức kéo và hệ thống tưới tiêu đảm bảo; công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp phát triển, tài chính được kiểm soát… giải quyết được nhu cầu vật chất tại chỗ, nâng cao đời sống nhân dân, động viên các dân tộc hăng hái thi đua lao động sản xuất, quyết tâm xây dựng Thanh Hoá thành tỉnh kiểu mẫu. Khắc sâu lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh “phá hoại triệt để, đào hầm trú ẩn để tránh nạn tàu bay. Đường sá, đường cái, đường xe lửa phải phá hoại hết…” và thực hiện Chỉ thị “Tiêu thổ kháng chiến” của Uỷ ban kháng chiến tỉnh, công cuộc xây dựng hậu phương về quân sự được Tỉnh uỷ chỉ đạo “vừa thực hiện “Tiêu thổ kháng chiến”, vừa chỉ đạo các ngành, các cấp và nhân dân trong tỉnh tích cực xây dựng thế trận chiến tranh nhân dân, sẵn sàng chiến đấu đập tan các cuộc tiến công của địch, bảo vệ hậu phương trong mọi tình huống” [15, tr.218]. Ở vùng ven biển và các khu vực trọng yếu bị địch đánh phá (Nga Sơn, Hà Trung, Quảng Xương, Tĩnh Gia, miền Tây…) 28
  • 30. nhân dân đã kết hợp với lực lượng vũ trang rào làng chiến đấu, xây dựng hệ thống phòng thủ chiến đấu và tiến công địch, xây dựng hầm hào bí mật cất dấu lương thực, thực phẩm, của cải và ẩn nấp. Tỉnh uỷ chỉ đạo: “khi địch tấn công, triệt để làm nhà không, vườn trống, tổ chức sơ tán, phân tán bảo vệ an toàn tính mạng, tài sản của nhân dân. Các cơ quan quân sự, công an xây dựng phương án sẵn sàng chiến đấu” [15, tr.217]. Để đối phó với âm mưu phá hoại hậu phương Thanh Hoá của thực dân Pháp, Ban Chấp hành Tỉnh uỷ đã họp và đề ra kế hoạch bảo vệ tính mạng, tài sản của nhân dân, bảo vệ vững chắc hậu phương Thanh Hoá. Theo kế hoạch đề ra, Thanh Hoá được chia thành 5 khu vực tác chiến và thành lập ở mỗi khu vực một ban tác chiến, kịp thời tổ chức lực lượng và chỉ huy đánh địch trong mọi tình huống: “Khu vực 1 gồm Nga Sơn, Hà Trung, Hậu Lộc do đồng chí Sác - tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 375 làm chỉ huy. Khu vực 2 gồm Hoằng Hoá, Đông Sơn, Quảng Xương và Tĩnh Gia do đồng chí Dản chỉ huy. Khu vực 3 gồm Thạch Thành, Cẩm Thuỷ và Vĩnh Lộc do tiểu đoàn 391 của trung đoàn 9, đại đoàn 304 phụ trách. Khu vực 4 là Thọ Xuân và khu vực 5 gồm Thiệu Hoá, Yên Định. Cả 2 khu vực này đặt dưới quyền chỉ huy trực tiếp của Tỉnh đội Thanh Hoá” [30, tr.126]. Năm khu vực tác chiến này đặt dưới sự lãnh đạo chỉ huy của Ban chỉ huy Mặt trận Thanh Hoá, luôn sẵn sàng chiến đấu và tổ chức phối hợp chiến đấu với các đơn vị Liên khu III, đánh địch xâm nhập từ phía Bắc và từ biển vào, từ phía Tây sang, góp phần phá vỡ phòng tuyến sông Mã của địch, tiêu diệt, bức rút, bức hàng nhiều đồn bốt, giải phóng hoàn toàn miền Tây Thanh Hoá, khai thông các con đường chiến lược nối hậu phương Thanh Hoá với căn cứ địa Việt Bắc và tuyến biên giới Việt - Lào. 29
  • 31. Cùng với việc củng cố tổ chức, chỉ huy, Tỉnh uỷ rất coi trọng công tác huấn luyện nâng cao sức chiến đấu toàn diện của lực lượng vũ trang. Năm 1948, thực hiện Chỉ thị của Trung ương Đảng và Sắc lệnh của Chủ tịch Hồ Chí Minh về xây dựng bộ đội địa phương và phát triển dân quân, du kích, Tỉnh uỷ chỉ đạo các cấp bộ Đảng, chính quyền, các cơ quan quân sự tăng cường quân số, vũ khí cho các đơn vị vũ trang nhân dân và phát động phong trào “Luyện quân lập công”, “Rèn cán, chỉnh quân”, nâng cao chất lượng chiến đấu. Bên cạnh đó, Đảng bộ và chính quyền tỉnh còn phát động toàn dân thực hiện ba cuộc vận động: “1.Tất cả nhân dân tham gia dân quân. 2. Tăng gia sản xuất tự túc. 3. Tiến tới thành lập các làng chiến đấu” [29, tr.88]. Thực hiện nhiệm vụ trên, năm 1950, 14 huyện trung châu, mỗi huyện đều có 1 đại đội bộ đội địa phương. Cũng thời gian này, Thanh Hoá thành lập thêm đại đội 57 - bộ đội địa phương tỉnh. Đến đây, “lực lượng vũ trang Thanh Hoá có tiểu đoàn bộ đội địa phương 275, đại đội 109 và 57 bộ đội địa phương tỉnh và 3 đại đội ở miền núi, 14 đại đội của các huyện trung châu. Lực lượng vũ trang và bán vũ trang toàn tỉnh có 227.248 cán bộ chiến sĩ” [29, tr.92]. Các đại đội Hà Văn Mao, Cầm Bá Thước, Tống Duy Tân hành quân về Cẩm Thuỷ để rèn cán, chỉnh quân, sau đó tiếp tục trở lại mặt trận miền Tây tham gia chiến đấu bảo vệ hậu phương. Đây là thành quả của phong trào thi đua củng cố và phát triển lực lượng của Đảng bộ và quân dân Thanh Hoá, đánh dấu sự trưởng thành của lực lượng vũ trang Thanh Hoá với đầy đủ sức chiến trong công cuộc xây dựng, bảo vệ vững chắc hậu phương và sẵn sàng chi viện cho tiền tuyến. Xây dựng hậu phương về văn hoá - xã hội được thể hiện qua phong trào bình dân học vụ, thi đua xoá nạn mù chữ và học bổ túc văn hoá phát triển sâu rộng toàn tỉnh. Tỉnh uỷ chỉ đạo mở nhiều lớp học ở các làng xã, dưới nhiều hình thức, tổ chức: “học ban ngày, học ban đêm, học tập trung, học phân tán. Thiếu giấy, bút, đồng bào dùng lá chuối, que nhọn để viết, không có đèn dầu, nhân dân thắp đuốc để học tập… tất cả già trẻ, gái trai đều tham gia dạy và 30
  • 32. học” [15, tr.227]. Vì vậy, cuối năm 1949, số người biết đọc, biết viết chữ quốc ngữ ở Thanh Hoá tăng, chỉ còn 29% dân số mù chữ, trong đó lực lượng vũ trang 95% đều biết đọc, viết thông thạo. Thanh Hoá là nơi một số trường Liên khu III tản cư như: trường Nguyễn Thượng Hiền, Lê Quý Đôn và một phân hiệu dự bị đại học ở Thiệu Hoá, trường Y sĩ Việt Nam ở Nông Cống. Phong trào xây dựng đời sống văn hoá - nếp sống kháng chiến được nhân dân tích cực hưởng ứng, nạn mê tín dị đoan, tục lệ lạc hậu dân được xoá bỏ, khuyến khích nhân dân xây dựng nếp sống văn minh, thực hiện tiết kiệm trong hiếu, hỉ, tương trợ giúp đỡ đồng bào tản cư. Để đáp ứng số lượng y, bác sĩ của tỉnh đặt ra, Tỉnh uỷ chỉ đạo ngành y tế Thanh Hoá chú trọng mở các lớp đào tạo y, bác sĩ ngắn và dài hạn. Kết quả đến năm 1950 đã đạt “33 nữ hộ sinh sơ cấp, 337 cán bộ cứu thương xã, 238 cán bộ cứu thương học đường, 17 cán bộ tải thương. Xây dựng được 25 trạm cấp cứu, 26 trạm cứu thương, 2 trạm giải phẫu miền Tây và Vĩnh Lộc [83, tr.4]. Sự chỉ đạo kịp thời của Đảng bộ tỉnh, hậu phương Thanh Hoá đã đạt được những thành tựu trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, quân sự, văn hoá - xã hội, tạo cơ sở và nguồn lực chi viện cho tiền tuyến những năm đầu kháng chiến, góp phần quan trọng đánh bại âm mưu xâm lược của thực dân Pháp. 1.3.2. Đảng bộ tỉnh Thanh hoá chỉ đạo chi viện cho tiền tuyến trong những năm đầu kháng chiến chống thực dân Pháp Sau Cách mạng Tháng Tám, cùng với nhân dân cả nước chống thực dân Pháp, từ ngày 23 - 9 - 1945 đến ngày 6 - 1 - 1946, Thanh Hoá đã tiễn 3 đại đội lên đường Nam tiến. Con em tỉnh Thanh Hoá đã chiến đấu ngoan cường góp phần không nhỏ chặn đứng âm mưu “đánh nhanh, thắng nhanh” của Pháp ở Nam Bộ. Ở vào vị trí địa đầu của vùng tự do Thanh - Nghệ - Tĩnh, Thanh Hoá có vị trí quan trọng đối với diễn biến chiến sự của đồng bằng Bắc Bộ và Bình - Trị - Thiên. Những năm 1947 - 1948, chiến sự Bình - Trị - Thiên diễn ra khốc liệt, gây ra nhiều tổn thương cho nhân dân ba tỉnh. Nhân dân Thanh Hoá 31
  • 33. không chỉ tiếp nhận nuôi dưỡng, chăm sóc sức khoẻ cho thương binh, bộ đội, nhiều nữ thanh niên xung phong làm hộ lý, phục vụ các trạm thương binh ở Tây Hồ, Xuân Minh (huyện Thọ Xuân) mà còn hưởng ứng tuần lễ “Ủng hộ Bình - Trị - Thiên” và “Tuần lễ binh sĩ” của Liên khu IV phát động. Các đoàn thể và nhân dân Thanh Hoá đã cùng với Nghệ Tĩnh đóng góp được 1.875.000 đồng, công nhân “làm giờ cứu nước”, Thanh Hoá góp được 1.037.185 đồng. Liên đoàn lao động tỉnh đã động viên gần 100 cán bộ, đoàn viên bổ sung cho các ngành dân chính Đảng và xây dựng cơ sở kháng chiến Bình - Trị - Thiên, vận động quyên góp ủng hộ 73.500 đồng, chuyển vào ba tỉnh trên 100 tấn gạo, 320 tấn muối, 21.000 mét vải, 10.000 viên thuốc sốt rét, 300 súng trường, 35.000 quả lựu đạn, 200 đạn Bazoka… Thực hiện khẩu hiệu “tất cả để đánh thắng” của Trung ương Đảng và Nghị quyết của Đại hội Đảng bộ tỉnh, Thanh Hoá đã phát động toàn dân hướng ra tiền tuyến, tất cả để chiến thắng. Các phong trào sửa cầu, sửa đường đảm bảo giao thông được nhân dân hưởng ứng và tham gia sôi nổi. Tháng 4 - 1949, các đội chi viện tiếp tế vận tải được thành lập đã vận chuyển và cung cấp tới Liên khu III, Liên khu X gần 500 tấn gạo, 200 tấn muối và Bình - Trị - Thiên 55 tấn lúa. Cung cấp cho bộ đội và nhân dân Thượng du 99 tấn gạo, 160 tấn muối và 1 tấn cá khô. Thấy rõ vị trí chiến lược của hậu phương Thanh Hoá, thực dân Pháp sử dụng lực lượng với trang bị vũ khí hiện đại tấn công vào hậu phương Thanh Hoá ở 2 địa bàn trọng yếu: miền biển và miền núi, hòng cắt đứt cửa ngõ tiếp giáp, chi viện giữa hậu phương Thanh Hoá với Tây Bắc, Việt Bắc và Thượng Lào. Để đối phó với âm mưu xâm lược của Pháp, Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá chỉ đạo quân dân tỉnh vừa đánh địch tại chỗ, bảo vệ hậu phương (trọng điểm là miền Tây Thanh Hoá) vừa đẩy mạnh sản xuất, chi viện cho các chiến trường trong nước và nước bạn Lào. Với khẩu hiệu “Thượng du thắng là Thanh Hoá 32
  • 34. thắng”, quân và dân miền Tây Thanh Hoá liên tục tiến công tiêu diệt địch, gây cho địch nhiều khó khăn, tạo điều kiện cho quân và dân ta giành thắng lợi trong chiến dịch Lê Lợi tháng 11 - 1949. Trong chiến dịch này, Bộ Chỉ huy chiến dịch đã phân công đồng chí Hoàng Sâm - Tư lệnh chiến dịch chỉ huy tác chiến từ Hồi Xuân (Thanh Hoá) tiến quân đến Mai Hạ (Hoà Bình), đồng chí Lê Trọng Tấn xuất phát từ Chợ Bờ tiến quân lên Suối Rút (Hoà Bình). Nhận thức rõ vị trí của mình, các đại đội bộ đội địa phương Hà Văn Mao, Cầm Bá Thước, dân quân du kích huyện Quan Hoá, Bá Thước đã phối hợp với các đại đội 72, 78, 138 kiềm chế địch trong các đồn, hạn chế sự đánh phá của chúng và ngăn chặn mọi hành động phản động của bọn lang đạo địa phương, đồng thời hỗ trợ đắc lực cho các trung đoàn 209 thuộc Bộ, trung đoàn 66 của Liên khu III và trung đoàn 9 của Liên khu IV tiến công địch ở đường 6 - Hòa Bình, nhằm tiêu diệt sinh lực địch, phá âm mưu chia cắt chiến trường của chúng, khai thông liên lạc giữa Việt Bắc với đồng bằng Liên khu III, đẩy mạnh chiến tranh du kích. Kết thúc chiến dịch, ta loại khỏi vòng chiến đấu khoảng 800 tên địch, con đường nối miền Tây Thanh Hoá với Chợ Bờ - Suối Rút (Hoà Bình) được khai thông. Con đường này là tuyến giao thông huyết mạch nối hậu phương Thanh Hoá với các chiến trường chi viện cho tiền tuyến, đỉnh cao là chiến dịch Điện Biên Phủ sau này. Năm 1950, quân và dân Thanh Hoá tiêu diệt vị trí Mường Xía (Quan Sơn), giải phóng hoàn toàn miền Tây - vùng đất có vị trí, ý nghĩa chiến lược đặc biệt quan trọng, không chỉ khai thông con đường giao thông huyết mạch nối hậu phương Thanh Hoá với chiến trường trong nước mà còn đối với nước bạn Lào. Vì vậy, cũng thời gian này, Chính phủ kháng chiến Lào từ Tuyên Quang chuyển về Thanh Hoá, các đoàn chuyên gia và các đơn vị bộ đội tình nguyện giúp bạn Lào cũng về Thanh Hoá. Đảng bộ và nhân dân Thanh Hoá không chỉ cung cấp, vận chuyển lương thực, thực phẩm cho căn cứ của bạn ở tỉnh Hủa 33
  • 35. Phăn mà còn giúp đỡ Chính phủ kháng chiến Lào và các đơn vị tình nguyện xây dựng nơi ăn chốn ở. Thanh Hoá trở thành căn cứ trực tiếp của cách mạng Lào. * * * Cùng cả nước bước vào cuộc kháng chiến, Đảng bộ Thanh Hoá đã quán triệt sâu sắc chủ trương của Đảng và khắc sâu lời dạy của Bác Hồ, phát huy những nhân tố “thiên thời, địa lợi, nhân hoà” của vùng địa linh nhân kiệt, kịp thời đưa ra chủ trương sát hợp với thực tế, lãnh đạo, chỉ đạo quân và dân tỉnh xây dựng, bảo vệ Thanh Hoá trở thành tỉnh kiểu mẫu - căn cứ hậu phương kháng chiến trên tất cả các lĩnh vực: chính trị, kinh tế, quân sự, văn hoá - xã hội, tạo ra tiềm lực vật chất và tinh thần không chỉ đảm bảo yêu cầu đời sống nhân dân tại chỗ, bước đầu chi viện cho tiền tuyến mà còn tạo ra tiền đề, cơ sở vững chắc, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của cuộc kháng chiến chuyển sang giai đoạn mới. 34
  • 36. Chương 2 ĐẢNG BỘ TỈNH THANH HOÁ LÃNH ĐẠO ĐẨY MẠNH XÂY DỰNG HẬU PHƯƠNG, TĂNG CƯỜNG CHI VIỆN CHO TIỀN TUYẾN (1951 - 1954) 2.1. Yêu cầu nhiệm vụ cách mạng và chủ trương của Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá đẩy mạnh xây dựng hậu phương, tăng cường chi viện cho tiền tuyến (1951 - 1954) 2.1.1. Yêu cầu nhiệm vụ cách mạng và chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam giai đoạn mới Gần 5 năm kháng chiến, kiến quốc, nhân dân ta đã giành được những thắng lợi to lớn trên tất cả các mặt: chính trị, kinh tế, quân sự, văn hoá - xã hội. Đặc biệt, sau thắng lợi của chiến dịch Biên giới năm 1950, quân ta đã tiêu diệt một bộ phận sinh lực địch, giải phóng biên giới phía Bắc, gắn cuộc kháng chiến của ta với “hậu phương” rộng lớn các nước dân chủ nhân dân và các nước xã hội chủ nghĩa, mở rộng khu Việt Bắc, giành thế chủ động trên chiến trường Bắc Bộ, tạo ra tình thế mới, đưa cuộc kháng chiến sang giai đoạn phản công chiến lược. Trên đà thắng lợi, Trung ương Đảng khẳng định: “Tổng phản công của ta sẽ là một giai đoạn lâu dài. Rồi đây, có sự chi viện của Liên xô và Trung Quốc về vật chất, vũ khí, trang bị, ta sẽ đỡ khó khăn nhưng giành được thắng lợi phải do sự nỗ lực của bản thân ta” [44, tr.414]. Điều này chỉ rõ, cuộc kháng chiến của nhân dân ta vẫn là cuộc kháng chiến “trường kỳ, gian khổ và dựa vào sức mình là chính” tiếp tục thực hiện thắng lợi đồng thời hai nhiệm nhiệm vụ: đánh bại thực dân Pháp và can thiệp Mỹ, giành độc lập dân tộc và người cày có ruộng. Để thực hiện thắng lợi mục tiêu, nhiệm vụ của cuộc kháng chiến giai đoạn mới, Đảng ta chỉ đạo, tăng cường tổng động viên nhân lực, vật lực, tài lực và tinh thần của toàn dân theo khẩu hiệu: “Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng”. 35
  • 37. Trước yêu cầu và nhiệm vụ cách mạng giai đoạn mới đặt ra, Đại hội lần thứ II của Đảng diễn ra từ ngày 11 đến ngày 19 - 2 - 1951, tại Chiêm Hoá, Tuyên Quang đã đề ra nhiệm vụ cơ bản của cách mạng Việt Nam “a. đánh đuổi bọn đế quốc xâm lược, làm cho Việt Nam hoàn toàn thống nhất và độc lập (phản đế); b. Xoá bỏ những di tích phong kiến và nửa phong kiến, làm cho người cày có ruộng, phát triển chế độ dân chủ nhân dân (phản phong kiến); c. Gây cơ sở cho chủ nghĩa xã hội” [44, tr.75]. Về mối quan hệ giữa các nhiệm vụ chiến lược, Đại hội chỉ rõ: “Nhiệm vụ dân tộc và dân chủ khăng khiết với nhau. Song lúc này, phải tập trung mọi lực lượng để kháng chiến, đặng hoàn thành nhiệm vụ giải phóng dân tộc. Đó là trọng tâm của cách mạng trong giai đoạn hiện tại. Nhiệm vụ dân chủ cũng phải làm, nhưng chỉ có thể làm trong phạm vi không có hại mà có lợi cho việc tập trung lực lượng, hoàn thành nhiệm vụ giải phóng dân tộc” [44, tr.76]. Đại hội lần thứ II của Đảng chính là mốc son đánh dấu sự trưởng thành trong quá trình lãnh đạo cách mạng, thể hiện sự sáng suốt của Đảng trong việc nắm bắt quy luật phát triển của cuộc kháng chiến, phù hợp với xu thế của thời đại. Giữa lúc cuộc kháng chiến của nhân dân ta liên tiếp giành nhiều thắng lợi quan trọng trên chiến trường, ngày 25 - 1 - 1953, Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương (khoá II) đã nhấn mạnh hai vấn đề chính: “1. Lãnh đạo kháng chiến và chính sách quân sự. 2. Phát động quần chúng năm nay triệt để giảm tô, thực hiện giảm tức để tiến đến cải cách ruộng đất" [47, tr.20 - 23]. Ba nhiệm vụ lớn: Tiêu diệt sinh lực địch; phá âm mưu của địch dùng người Việt đánh người Việt, lấy chiến tranh nuôi chiến tranh; bồi dưỡng lực lượng nhân dân, lực lượng kháng chiến và bốn công tác chính là: Thi đua tăng gia sản xuất và tiết kiệm; đẩy mạnh công tác trong vùng sau lưng địch; chỉnh quân; chỉnh Đảng [47, tr.27]. Ba nhiệm vụ và bốn công tác có mối quan hệ mật thiết với hai vấn đề to nói trên. Vì, chỉ có thực hiện chính sách ruộng đất một cách đúng đắn và triệt để thì mới có thể phát động được đông đảo quần chúng, mới có thể dựa vào lực 36
  • 38. lượng nông dân để duy trì kháng chiến trường kỳ, phát triển và củng cố bộ đội, tranh lấy thắng lợi hoàn toàn. Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ tư (khóa II) đã đề ra chủ trương tiến hành cải cách ruộng đất, thực hiện khẩu hiệu “Người cày có ruộng” ngay trong những năm kháng chiến, đáp ứng nguyện vọng ngàn đời của người nông dân, mang lại quyền lợi chính đáng cho gia đình, hậu phương bộ đội, dân công... cổ vũ tinh thần, niềm tin của nhân dân đối với kháng chiến, tạo nên sức mạnh tổng hợp của cả hậu phương và tiền tuyến. Vì vậy, Chỉ thị: “Toàn dân, toàn Đảng tập trung chi viện cho tiền tuyến” với khẩu hiệu “Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng” được nhân dân hưởng ứng nhiệt tình ở cả vùng tự do cũng như ở vùng còn bị địch tạm chiếm. Nhân dân vừa tích cực đóng thuế nông nghiệp, bán thực phẩm, vừa cho vay, ủng hộ kháng chiến cả bằng hiện vật, cả bằng tiền để cung cấp, tiếp tế cho bộ đội ở mặt trận Điện Biên Phủ. Khẩu hiệu “người cày có ruộng” đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến “Tinh thần và lực lượng kháng chiến của hàng triệu nông dân được động viên mạnh mẽ, khối liên minh công nông được tăng cường, chính quyền nhân dân và Mặt trận dân tộc thống nhất được củng cố, sức chiến đấu của quân đội nhân dân được tăng lên chưa từng thấy, mọi mặt hoạt động kháng chiến được đẩy mạnh. Cuộc vận động này đã góp phần quyết định vào chiến thắng Điện Biên Phủ” [40, tr.18]. Trước yêu cầu mới của cuộc kháng chiến đặt ra, đòi hỏi Đảng bộ, quân dân Thanh Hoá vừa xây dựng, củng cố, bảo vệ hậu phương vững mạnh toàn diện, vừa chi viện kịp thời, to lớn cho cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp mà đỉnh cao là chiến dịch Điện Biên Phủ. 2.1.2. Chủ trương của Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá đẩy mạnh xây dựng hậu phương, tăng cường chi viện cho tiền tuyến (1951 - 1954) 37
  • 39. Hoà chung với phong trào cách mạng của cả nước chuẩn bị cho tổng phản công, làm tròn sứ mệnh lịch sử của căn cứ, hậu phương kháng chiến, Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá tiến hành Đại hội đại biểu lần thứ III từ ngày 20 - 6 đến ngày 5 - 7 - 1950 tại Sơn Trung, xã Hợp Thành, huyện Nông Cống. Đại hội đánh giá: trong thời gian qua, Đảng bộ và nhân dân tỉnh đã tích cực thi đua lập nhiều thành tích to lớn trên các mặt: chính trị, kinh tế, quân sự, văn hoá - xã hội… Tuy vậy, vẫn chưa đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của cuộc kháng chiến, kiến quốc. Trước yêu cầu đòi hỏi sức người sức của ngày càng cao của cuộc kháng chiến, Đại hội khẳng định: Thanh Hoá không thể không xây dựng thành căn cứ địa vững chắc, lâu dài của chiến trường chính, của Liên khu. Thanh Hoá phải: “Phát triển khả năng mọi mặt, xây dựng vững chắc, phục vụ lâu dài. Cụ thể là không ỷ lại, chờ đợi, phải tự mình ra sức, bền bỉ và kiên quyết vượt qua mọi khó khăn gian khổ và đồng thời phải tin vào dân, dựa vào dân để phát huy mọi sức lực, sáng kiến của nhân dân để phát triển và xây dựng những khả năng sẵn có thành lực lượng hùng hậu, vững chắc phục vụ lâu dài” [15, tr.234]. Với quyết tâm xây dựng Thanh Hoá thành căn cứ địa, hậu phương vững chắc, tăng cường chi viện sức người, sức của cho tiền tuyến, Đại hội đề ra nhiệm vụ: “Tăng cường sức mạnh của chế độ dân chủ nhân dân, khuyến khích mọi lực lượng nhân dân tham gia xây dựng, bảo vệ hậu phương ngày càng vững mạnh, củng cố chính quyền và mặt trận. Đẩy mạnh sản xuất, thực hành tiết kiệm, thực hiện chính sách ruộng đất, đảm bảo quyền lợi của nông dân để bồi dưỡng sức dân, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của chiến trường. Xây dựng lực lượng quân sự mạnh, tăng cường công tác bố phòng, đẩy mạnh chiến tranh nhân dân trong vùng địch tạm chiếm; đề cao chiến tranh cảnh giác trước những âm mưu và thủ đoạn nham hiểm của địch, đập tan các tổ chức phản động, gián điệp, giữ vững hậu phương. Xây dựng Đảng theo đúng tinh thần của chủ nghĩa Mác - Lênin, kiện toàn tổ chức, đẩy mạnh công tác tư tưởng, coi “đấu tranh tư tưởng là con 38
  • 40. đường phát triển của Đảng”, nâng cao ý thức giai cấp và tinh thần quốc tế vô sản” [15, tr.234 - 235]. Đại hội đồng thời phát động phong trào thi đua yêu nước trong toàn tỉnh với khẩu hiệu “Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng” nhằm động viên sức người, sức của của căn cứ địa Thanh Hoá cho tiền tuyến. Dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo sáng suốt của Đảng bộ tỉnh, tinh thần đấu tranh kiên cường của quân và dân Thanh Hoá đã góp phần không nhỏ cùng cả nước liên tiếp đánh bại chiến lược “Dùng người Việt đánh người Việt, lấy chiến tranh nuôi chiến tranh”. Giành thế chủ động trên chiến trường, Trung ương Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh quyết định mở nhiều chiến dịch lớn, tiêu diệt bộ phận sinh lực địch, thu hẹp vùng chiếm đóng của chúng, giải phóng đất đai, mở rộng vùng giải phòng. Cuộc kháng chiến ngày càng đòi hỏi cao về vật chất và tinh thần từ hậu phương. Đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của cuộc kháng chiến, Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá từng bước nghiên cứu tình hình thực tiễn của tỉnh, đề ra chủ trương tăng cường tiềm lực hậu phương, chi viện cao nhất, nhiều nhất sức người sức của cho cuộc kháng chiến giành thắng lợi. Từ thực tiễn cuộc kháng chiến, từ ngày 1 đến ngày 5 - 5 - 1952, Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá tiến hành Đại hội lần thứ IV, đánh giá một nhiệm kỳ tổ chức lãnh đạo sự nghiệp cách mạng, đề ra phương hướng nhiệm vụ mới, bầu Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh. Đại hội chỉ rõ: “từ Đại hội lần thứ III đến nay, trải qua những biến chuyển lớn của tình hình toàn quốc và những chủ trương công tác mới do tình hình đề ra, phong trào chung toàn tỉnh đã có sự thay đổi, lúc lên, lúc xuống, khi nặng nề, khi quật khởi” [87, tr.296]. Về mặt phục vụ tiền tuyến, Đảng bộ và nhân dân tỉnh đã đạt được thành tích lớn trong 3 chiến dịch, cung cấp trên 40 vạn dân công (đây là số lượng dân công dài hạn, chưa kể số lượng dân công ngắn hạn), tải trên 6.000 tấn gạo, không chỉ góp phần vào thắng lợi trên chiến mà nhân dân tỉnh Thanh Hoá còn tham gia nuôi dưỡng bộ đội, chăm sóc thương binh. 39
  • 41. Từ đánh giá trên, Đại hội đã nhìn thẳng vào sự thật, phân tích cụ thể điểm mạnh, yếu của hậu phương Thanh Hoá, từ đó đề ra 4 nhiệm vụ sau đây: “1. Phát triển sản xuất cải thiện dân sinh, thực hiện dân chủ, “trước mắt là thực hiện cho có kết quả công tác trung tâm đại vận động sản xuất và tiết kiệm để đẩy mạnh kháng chiến. 2. Tích cực phục vụ tiền tuyến và bảo vệ hậu phương “lấy việc xây dựng cơ sở nhân dân làm căn bản”. 3. Củng cố và phát triển khối đại đoàn kết toàn dân, đập tan âm mưu chia rẽ của quân thù “dùng người Việt đánh người Việt, lấy chiến tranh nuôi chiến tranh”. 4. Xây dựng căn cứ địa miền núi là nhiệm vụ chung của toàn Đảng bộ từ trung châu đến miền núi… nhiệm vụ của tất cả các ngành với tinh thần “Thượng du xây dựng vững chắc là Thanh Hoá xây dựng vững chắc” [87, tr.250]. Từ 4 nhiệm vụ cơ bản trên, Đại hội đề ra những mục tiêu cụ thể: Về quân sự: cần tăng cường sự lãnh đạo của Đảng bộ trong quân đội, theo dõi tình hình địch sát sao; học tập chỉ đạo du kích chiến, xây dựng dân quân du kích; củng cố và phát huy kết quả chỉnh huấn đợt 2; đẩy mạnh công tác bảo mật phòng gian; tích cực chống giặc càn quét, đột nhập vào vùng ven biển, đề cao cảnh giác, chống gián điệp, biệt kích; đẩy mạnh chiến tranh nhân dân và du kích chiến ở vùng tạm chiến Nga Sơn và miền núi. Về chính trị: ra sức củng cố khối đại đoàn kết toàn dân trong mặt trận Liên Việt, đặc biệt chú trọng việc đoàn kết nông dân, lấy công nông liên minh làm nền tảng. Đối với đồng bào công giáo phải nắm vững chính sách tự do tín ngưỡng, vạch rõ âm mưu lợi dụng giáo dân của kẻ thù để giáo dục vận động giáo dân đoàn kết tham gia kháng chiến. Đối với đồng bào các dân tộc thiểu số miền núi, Đảng và chính quyền luôn tôn trọng phong tục tập quán của địa phương, theo đúng chính sách dân tộc: đoàn kết để kháng chiến. Đối với trí thức, phải nhận rõ vai trò và khả năng cách mạng của lao động trí óc, cần giúp đỡ, giáo dục lập trường kiên định kháng chiến. Phải xây dựng các tổ chức quần chúng đặc biệt là công đoàn và nông hội làm nền tảng cho mặt trận, trên cơ sở khối liên minh công 40
  • 42. nông. Phải xây dựng chính quyền nhân dân, gắn chặt nhân dân với chính quyền. Phải làm cho cán bộ, chính quyền được nhân dân yêu mến, tin phục. Về kinh tế: lấy phát triển sản xuất làm đầu. Không phát triển được sản xuất thì không thể có kinh tế, tài chính. Phải thi hành chính sách ruộng đất để “đoàn quân chủ lực” nông dân có điều kiện tăng gia sản xuất và phát triển nghề thủ công. Cần nhanh chóng thống nhất quản lý tài chính, thực hiện tiết kiệm bài trừ tham ô lãng phí, giáo dục ý thức bảo vệ của công. Xúc tiến việc thu thuế nông nghiệp và công thương nghiệp. Ra sức bảo vệ đồng tiền hạt thóc của công vì đó là mồ hôi và xương máu của đồng bào, chiến sĩ ở hậu phương và cả tiền phương. Cần xúc tiến việc đấu tranh kinh tế với địch, nhất là các xã gần vùng địch, bài trừ xa xỉ phẩm, không dùng hàng hoá của địch. Đảm bảo tự cung tự cấp, nhân dân có thêm tiềm lực kinh tế đóng góp cho kháng chiến ngày càng đòi hỏi nhiều hơn trên các chiến trường. Về văn hoá - xã hội: Đảng bộ chủ trương phát triển nền giáo dục nhân dân, phát triển phong trào bình dân học vụ và các trường cấp I, xây dựng các trường cấp II và tư thục. Tăng cường giáo dục tư tưởng cho giáo sư2 và học sinh. Đưa chi bộ vào nhà trường để lãnh đạo giáo dục nâng cao chất lượng giảng dạy và học tập của nhà trường. Phụ huynh và nhân dân cũng được giáo dục để góp phần xây dựng nhà trường. Đối với văn hoá, văn nghệ, phải hướng dẫn và phát triển văn nghệ nhân dân rộng rãi nhằm phục vụ sản xuất, phục vụ kháng chiến. Văn nghệ sĩ chuyên nghiệp được giáo dục để đảm bảo hướng dẫn phong trào văn nghệ nhân dân ngày càng phát triển rộng rãi và mạnh mẽ. Về xây dựng Đảng: đề cao công tác tư tưởng, “coi đấu tranh tư tưởng là con đường phát triển của Đảng”, “vì sự tiến bộ về tư tưởng đã đưa Đảng bộ và toàn bộ phong trào ngày càng phát triển”. Tăng cường ý thức giai cấp công nhân 2 Lúc này, thầy, cô giáo dạy từ cấp 2 trở lên được gọi là giáo sư 41