SlideShare a Scribd company logo
1 of 36
Download to read offline
1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP.HCM
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - LUẬT
----------
BÀI TIỂU LUẬN GIỮA KỲ
MÔN: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
Đề tài: Phân tích làm rõ nội dung đƣờng lối kháng
chiến chống thực dân Pháp trong giai đoạn 1945 -
1954 và ý nghĩa thắng lợi của cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp.
Giảng viên: Đinh Thị Điều
Nhóm sinh viên thực hiện: Nhóm 04
Năm học: 2021 - 2022
2
Bảng 1. Danh sách thành viên nhóm 04
STT Họ và tên MSSV
1 Nguyễn Lê Hồng Loan K204020041
2 Bùi Thị Ái Vy K204020068
3 Trương Thị Ái K204020958
4 Trần Thị Hoài Thương K204020990
5 Nguyễn Thị Ngọc Trân K204020993
6 Nguyễn Thị Diễm K204041132
7 Nguyễn Thị Điệp K204041154
8 Phạm Thị Kiều My K204041169
9 Trần Thị Thanh Ngân K204041175
10 Huỳnh Thị Diễm Quỳnh K204041186
11 Phạm Thị Thanh Tâm K204041191
3
LỜI NÓI ĐẦU.....................................................................................................................6
I. HOÀN CẢNH LỊCH SỬ:................................................................................................7
1. Tình hình cách mạng Việt Nam sau Cách mạng tháng Tám: .....................................7
1.1. Thuận lợi:...............................................................................................................7
1.2. Khó khăn:...............................................................................................................7
2. Những chủ trương và biện pháp lớn của Đảng:..........................................................8
2.1. Chủ trương của Đảng: ............................................................................................8
2.2. Biện pháp xây dựng và bảo vệ chính quyền:...........................................................9
II. ĐƢỜNG LỐI KHÁNG CHIẾN CHỐNG PHÁP (1945 - 1954):................................12
1. Cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn:................................................................................12
1.1. Cơ sở lý luận:.......................................................................................................12
1.2. Cơ sở thực tiễn: ....................................................................................................12
2. Đường lối kháng chiến toàn quốc và quá trình tổ chức thực hiện từ năm 1946 đến
năm 1950:.......................................................................................................................13
2.1. Cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ: ..................................................................13
2.2. Tổ chức, chỉ đạo cuộc kháng chiến từ năm 1947 - 1950:.......................................15
3. Bước phát triển mới của cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp (1951-
1953): .............................................................................................................................17
3.1. Bối cảnh lịch sử và chủ trương của Đảng:.............................................................17
3.2. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II và Chính cương của Đảng (2-1951):............18
3.3. Đẩy mạnh phát triển cuộc kháng chiến về mọi mặt:..............................................22
4. Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp kết thúc (1953-1954):................................25
4.1 Âm mưu mới của đế quốc Pháp - Mĩ ở Đông Dương:............................................25
4.2. Cuộc tiến công chiến lược Đông - Xuân 1953 – 1954 và chiến dịch Điện Biên Phủ
....................................................................................................................................26
4.3. Hiệp định Gionevo - Chiến thắng trên mặt trận ngoại giao. Chấm dứt chiến tranh:
....................................................................................................................................28
4
III. NGUYÊN NHÂN THẮNG LỢI, Ý NGHĨA LỊCH SỬ VÀ BÀI HỌC KINH
NGHIỆM:..........................................................................................................................30
1. Nguyên nhân thắng lợi: .............................................................................................30
1.1 Nguyên nhân chủ quan:.........................................................................................30
1.2 Nguyên nhân khách quan: .....................................................................................31
2. Ý nghĩa lịch sử: ..........................................................................................................31
2.1. Đối với Việt Nam:................................................................................................32
2.2. Đối với thế giới: ...................................................................................................33
3. Bài học kinh nghiệm:.................................................................................................33
KẾT LUẬN .......................................................................................................................35
LỜI CẢM ƠN ...................................................................................................................35
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................................36
6
LỜI NÓI ĐẦU
Để có được một đất nước Việt Nam phát triển, con người được tự do, sống một cuộc
sống yên bình, hạnh phúc như hôm nay là biết bao nhiêu sự hy sinh, xương máu ông cha ta
đã đổ xuống. Ngược dòng lịch sự về những năm kháng chiến hào hùng của dân tộc, biết bao
trận chiến nổ ra, bao nhiêu lớp người đã nằm xuống để rồi thấy trân quý hơn và tự hào về đất
nước, con người Việt Nam “thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định
không chịu làm nô lệ”. Một trong những thắng lợi vẻ vang, làm nên những trang sử hào
hùng của dân tộc không thể không nhắc đến đó là cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp
(1945 - 1954). Đó là thắng lợi của cuộc kháng chiến chín năm ròng rã chống thực dân Pháp
và can thiệp Mỹ kết thúc bằng chiến dịch Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa
cầu” của đất nước Việt Nam anh hùng.
Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp giành được thắng lợi đã chấm dứt chiến tranh
xâm lược và ách thống trị của bọn thực dân Pháp. Mở ra một kỷ nguyên mới trong lịch sử
nước ta, đồng thời cũng bắt đầu thời kỳ xây dựng một nền y dược học Việt nam mang tính
“dân tộc, khoa học và đại chúng”. Chúng ta chiến thắng là vì đã chọn đúng con đường giải
phóng dân tộc - con đường cách mạng vô sản, phát huy được sức mạnh dân tộc và thời đại.
Một trong những nhân tố thời đại ấy là sự tác động, chỉ đạo, nhờ vào đường lối kháng chiến
đúng đắn, sáng tạo của Đảng. Để hiểu sâu hơn về vấn đề này, chúng ta hãy cùng tìm hiểu về:
Đường lối chỉ đạo kháng chiến chống thực dân Pháp của Đảng trong giai đoạn 1945 - 1954.
7
I. HOÀN CẢNH LỊCH SỬ:
1. Tình hình cách mạng Việt Nam sau Cách mạng tháng Tám:
Sau ngày tuyên bố độc lập, lịch sử nước Việt Nam bước sang một chặng đường mới với
nhiều thuận lợi căn bản và khó khăn chồng chất.
1.1. Thuận lợi:
Trên thế giới, chiến tranh thế giới II kết thúc với phần thắng thuộc về Liên Xô và các
lực lượng đã tạo điều kiện cho sự ra đời của hàng loạt các nước Dân chủ nhân dân và Xã hội
Chủ nghĩa ở châu Âu và châu Á, cùng với Liên Xô trở thành một hệ thống trên thế giới.
Phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc có điều kiện phát triển, trở thành một dòng thác
cách mạng. Cuộc đấu tranh đòi quyền sống và các quyền tự do, dân chủ của nhân dân các
nước tư bản chủ nghĩa diễn ra mạnh mẽ.
Tất cả đã tạo thành ba mũi nhọn tấn công vào hệ thống tư bản chủ nghĩa, tạo điều kiện
cho cách mạng Việt Nam phát triển.
Ở trong nước, nhân dân Việt Nam từ thân phận nô lệ bây giờ đã chính thức đứng lên
làm chủ vận mệnh của mình, làm chủ vận mệnh đất nước; toàn dân tin tưởng và ủng hộ Việt
Minh, ủng hộ chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch. Ta đã
hình thành hệ thống chính quyền cách mạng ra sức phục vụ lợi ích của Tổ quốc, nhân dân.
Cách mạng lúc này có sự lãnh đạo sáng suốt, dày dạn kinh nghiệm của Đảng Cộng sản và
lãnh tụ Hồ Chí Minh.
1.2. Khó khăn:
Ngay sau khi giành được độc lập, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa phải đối mặt với
muôn vàn khó khăn.
Trên thế giới, các nước đế quốc tìm mọi cách để liên kết với nhau, tập hợp lực lượng
để tiêu diệt Liên Xô, các nước xã hội chủ nghĩa và đàn áp phong trào cách mạng thế giới,
trong đó có cách mạng Việt Nam. Các nước lớn, không có nước nào ủng hộ lập trường độc
lập và công nhận địa vị pháp lý của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Tình hình trong nước, về kinh tế, nông nghiệp nước ta bị chiến tranh tàn phá nặng nề;
hậu quả của nạn đói cuối năm 1944 – đầu năm 1945 chưa được khắc phục. Tiếp đến là nạn
lũ lụt lớn, làm vỡ đê ở chín tỉnh Bắc Bộ, rồi hạn hán kéo dài, khiến cho nửa tổng số ruộng
đất không canh tác được. Công thương nghiệp đình đốn, nạn thất nghiệp lan rộng, hàng hóa
khan hiếm, giá cả sinh hoạt đắt đỏ. Trên lĩnh vực văn hóa - xã hội, tàn dư văn hóa lạc hậu
8
của chế độ thực dân, phong kiến để lại hết sức nặng nề, hơn 90% dân số không biết chữ, tệ
nạn xã hội như mê tín dị đoan, rượu chè, cờ bạc,…tràn lan. Ngân sách Nhà nước trống
rỗng. Ngân hàng Đông Dương vẫn còn nằm trong tay Pháp, bọn Tưởng lại tung ra thị trường
các loại tiền Trung Quốc đã mất giá, làm cho nền tài chính nước ta thêm rối loạn. Chính
quyền cách mạng vừa mới thành lập, còn non trẻ, chưa được củng cố, lực lượng vũ trang
còn non yếu, chưa có kinh nghiệm quản lý Nhà nước. Giặc ngoại xâm và nội phản: Từ vĩ
tuyến 16 trở ra Bắc, 20 vạn quân Trung Hoa Dân quốc kéo theo bọn tay sai thuộc các tổ
chức phản động (Việt Quốc và Việt Cách), hòng cướp chính quyền mà nhân dân ta đã giành
được sau Cách mạng tháng Tám thành công. Từ vĩ tuyến 16 vào Nam, hơn 1 vạn quân Anh
kéo vào, dọn đường cho thực dân Pháp trở lại xâm lược nước ta. Bọn phản động trong nước
ngóc đầu dậy, làm tay sai cho Pháp, chống phá cách mạng.
“Giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm” là những hiểm họa đối với chế độ mới, Việt
Nam lúc này như đang trong tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”.
2. Những chủ trƣơng và biện pháp lớn của Đảng:
2.1. Chủ trƣơng của Đảng:
Trước tình hình mới, Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sáng suốt phân
tích tình thế, dự đoán chiều hướng phát triển của các trào lưu cách mạng trên thế giới và sức
mạnh mới của dân tộc để vạch ra chủ trương và giải pháp đấu tranh nhằm giữ vững chính
quyền, bảo vệ nền độc lập tự do vừa giành được.
Ngày 25/11/1945, Ban Chấp hành Trung ương Đảng ra chỉ thị Kháng chiến kiến quốc,
vạch con đường đi lên cho cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới. Nội dung chỉ thị về
“Kháng chiến kiến quốc”:
Về chỉ đạo chiến lược: Đảng ta xác định tính chất của cách mạng Việt Nam lúc này “là
cuộc cách mạng dân tộc giải phóng", khẩu hiệu lúc này là "Dân tộc trên hết, Tổ quốc trên
hết", nhưng không phải là giành độc lập mà là giữ vững độc lập.
Về xác định kẻ thù: Đảng phân tích âm mưu của các nước đế quốc đối với Đông
Dương và chỉ rõ "Kẻ thù chính của ta lúc này là thực dân Pháp xâm lược, phải tập trung
ngọn lửa đấu tranh vào chúng".
Về mục tiêu: Nêu rõ mục tiêu của cuộc cách mạng Đông Dương lúc này vẫn là “dân
tộc giải phóng” và đề ra khẩu hiệu “Dân tộc trên hết, Tổ quốc trên hết”;
9
Về phương hướng: Phương hướng của Đảng lúc này là chủ trương kiên trì theo
nguyên tắc “bình đẳng, tương trợ”, “thêm bạn, bớt thù”, thực hiện khẩu hiệu “Hoa - Việt
thân thiện” đối với quân Tưởng Giới Thạch, “Độc lập về chính trị, nhân nhượng về kinh tế”
đối với Pháp.
Về nhiệm vụ: Chỉ thị chỉ rõ bốn nhiệm vụ chủ yếu của cách mạng trong nước là phải
củng cố chính quyền, bài trừ nội phản, cải thiện đời sống của nhân dân và đánh đuổi thực
dân Pháp xâm lược. Xác định “củng cố về chính quyền là nhiệm vụ quan trọng nhất”.
Đường lối “kháng chiến kiến quốc” phản ánh đúng tình thế và yêu cầu của cách mạng
nước ta sau Cách mạng tháng Tám. Đó là nhân tố quyết định nhất để cách mạng nước ta
vượt qua thử thách hiểm nghèo, vững bước đi lên.
2.2. Biện pháp xây dựng và bảo vệ chính quyền:
Cuộc đấu tranh thực hiện chủ trương “Kháng chiến kiến quốc” của Đảng giai đoạn
1945 - 1946 đã diễn ra rất gay go, quyết liệt trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn
hóa, ngoại giao với những biện pháp thiết thực, phù hợp tình hình.
Về chính trị:
Xác định một trong những nhiệm vụ cấp thiết, quan trọng hàng đầu của Nhà nước Dân
chủ Cộng hòa ngay sau ngày thành lập là tiến hành cuộc tổng tuyển cử bầu Quốc hội để quy
định Hiến pháp, bầu Chính phủ chính thức, đồng thời bảo vệ, phát triển những thành quả của
cuộc Cách mạng tháng Tám vừa mới giành được.
Ngày 6-1-1946 nhân dân tự mình chọn lựa bầu những đại biểu chân chính của mình
vào Quốc hội, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Cuộc tổng tuyển cử đã củng cố và tăng cường chính quyền vững mạnh, thực hiện
quyền dân chủ cho nhân dân, làm cho thế giới nhận thấy tính hợp pháp, hợp hiến của một
chính quyền do nhân dân bầu ra.
Bên cạnh đó, Đảng đã chỉ đạo tích cực phát triển các đoàn thể yêu nước, xây dựng khối
đại đoàn kết dân tộc. Các tổ chức quần chúng được củng cố, mở rộng thêm: Tổng Liên đoàn
Lao động Việt Nam, Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Đảng Xã hội Việt Nam và Mặt trận
Liên Việt lần lượt ra đời.
Về kinh tế, Đảng và Chính phủ phát động thi đua sản xuất, động viên nhân dân tiết
kiệm giúp nhau chống giặc đói. Tiến hành tịch thu ruộng đất của đế quốc, Việt gian chia cho
nông dân nghèo. Thực hiện bãi bỏ thuế thân và các thứ thuế vô lý khác của chế độ thực dân;
10
giảm tô 25%, giảm thuế, miễn thuế cho nông dân cùng bị thiên tai. Chủ trương cho mở lại
các nhà máy do Nhật để lại, tiến hành khai thác mỏ, khuyến khích kinh doanh, phát hành
giấy bạc Việt Nam, thành lập ngân hàng nhà nước. Đảng đã động viên nhân dân tự nguyện
đóng góp cho công quỹ hàng chục triệu đồng và hàng trăm kilogam vàng, nền tài chính từng
bước được xây dựng.
Về văn hóa, Đảng đã vận động xây dựng nền văn hóa mới, xóa bỏ mọi tệ nạn văn hóa
nô dịch của thực dân, xóa bỏ các thủ tục lạc hậu; phong trào diệt “giặc dốt”, bình dân học vụ
được thực hiện sôi nổi. Ta mở lại các trường lớp và tổ chức khai giảng năm học mới. Cuối
năm 1946 cả nước đã có thêm 2,5 triệu người biết đọc, biết viết.
Về quân sự, lực lượng vũ trang tập trung được phát triển về mọi mặt: Xây dựng quân
đội thường trực; thành lập trường đào tạo cán bộ quân sự; xây dựng công an nhân dân. Từ
khi thực dân Pháp nổ súng đánh chiếm Sài Gòn và mở rộng phạm vi chiếm đóng ra các tỉnh
Nam bộ, Đảng đã kịp thời lãnh đạo nhân dân Nam bộ đứng lên kháng chiến và phát động
phong trào Nam tiến chi viện Nam bộ.
Về ngoại giao, thực hiện chính sách ngoại giao thêm bạn bớt thù, tận dụng thời gian
xây dựng lực lượng chuẩn bị cho cuộc kháng chiến toàn quốc.
Sách lược “Hoa - Việt thân thiện”, hòa hoãn với quân Tưởng
Để đối phó với quân Tưởng, Đảng ta và Hồ Chủ tịch đã thực hiện sách lược vừa kiên
quyết, vừa mềm dẻo, tránh được trường hợp phải chống nhiều kẻ thù cùng một lúc để tập
trung mũi nhọn chống thực dân Pháp, kẻ thù chính của dân tộc ta lúc này. Đảng ta chủ
trương “Hoa - Việt thân thiện” để trung lập hóa bọn Tưởng; tạm thời nhân nhượng chúng để
giảm bớt khó khăn mà chúng gây nên. Chúng ta chủ trương tránh xung đột với quân Tưởng,
nhưng sẵn sàng đối phó bằng cách huy động toàn bộ lực lượng quần chúng đấu tranh, nếu
chúng xâm phạm đến chủ quyền của chúng ta.
Cụ thể, chúng ta nhân nhượng một số chính sách về kinh tế, chính trị của quân Trung
Hoa Dân quốc: tiêu tiền “Quan kim”, “Quốc tệ”, cung cấp một phần lương thực cho chúng,
nhường cho các Đảng Việt Quốc, Việt Cách 70 ghế trong Quốc hội không qua bầu cử và
một số ghế trong Chính phủ; tuyên bố tự giải tán Đảng nhưng thực chất là đưa Đảng vào
hoạt động bí mật.
Hòa với Tưởng, ta phá được âm mưu của chúng định dùng vũ lực lật đổ chính quyền
cách mạng, lập chính quyền của bọn tay sai. Việc cho bọn tay sai Tưởng tham gia chính
quyền nhà nước vừa phá được luận điệu tuyên truyền “Việt Minh, cộng sản độc quyền”, phá
11
được sức ép đòi Chính phủ ta phải từ chức, chúng cũng không thực hiện được ý đồ phá hoại,
tiến tới giành chính quyền bằng biện pháp chính trị, ngoại giao. Trái lại, bọn phản động hoàn
toàn bất lực, tự lột mặt nạ trước nhân dân và trốn chạy theo đế quốc.
Việc Hòa với Tưởng ta có điều kiện để tập trung lực lượng chống Pháp ở miền Nam,
cuộc hòa hoãn này đối với Pháp là một bất lợi.
Sách lược “Hòa để tiến”, hòa hoãn với Pháp
Từ đầu năm 1946, tình hình quốc tế có những biến chuyển mới tác động đến tình hình
chính trị Việt Nam. Ngày 28-2-1946, Hiệp ước Hoa - Pháp được ký kết, Tưởng Giới Thạch
thuận cho quân Pháp vào thay quân Tưởng ở phía bắc vĩ tuyến 16. Nước ta lại đứng trước
một tình thế mới: quân Pháp sớm muộn sẽ ra miền Bắc, trong khi quân Tưởng còn muốn kéo
dài thời gian ở Việt Nam. Tình hình đó đặt Đảng ta trước một sự lựa chọn giải pháp đánh
hay hoà. Phân tích tình thế, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã
quyết định chọn giải pháp hoà hoãn, dàn xếp với Pháp, vì “vấn đề lúc này, không phải là
muốn hay không muốn đánh. Vấn đề là biết mình biết người, nhận một cách khách quan
những điều kiện lời lãi trong nước và ngoài nước mà chủ trương cho đúng”. Trong hoàn
cảnh đó hòa hoãn, nhân nhượng tuy là vấn đề sách lược, nhưng lại là một chủ trương lớn, có
ý nghĩa chiến lược.
Hòa với Pháp ta phá tan được dã tâm của Tưởng và tay sai định nhân cơ hội ta đánh
Pháp để lật đổ chính quyền cách mạng lập chính quyền bù nhìn, chẳng những thế, ta còn loại
bỏ được kẻ thù nguy hiểm này. Đối với Pháp, thực hiện hòa hoãn là ta cố tranh thủ khả năng
giải quyết quan hệ hai nước bằng hòa bình. Nếu cuộc chiến tranh nổ ra thì ta cũng dành được
thời gian chuẩn bị thêm lực lượng. Đảng ta chủ trương hòa với Pháp là “hòa để tiến”.
Nguyên tắc căn bản của việc đàm phán giữa ta với Pháp là độc lập và hợp tác với Pháp trên
cơ sở bình đẳng.
Hiệp định sơ bộ Pháp - Việt ký kết vào 6-3-1946 ghi nhận kết quả của sự hòa hoãn
nhân nhượng của hai bên. Hiệp định sơ bộ với các điều khoản chủ yếu: Pháp phải công nhận
Việt Nam là một quốc gia tự do, có chính phủ, có nghị viện, quân đội và tài chính riêng nằm
trong liên bang Đông Dương thuộc khối Liên hiệp Pháp. Chính phủ Việt Nam đồng ý để
Pháp đưa 15.000 quân vào miền Bắc thay thế quân Tưởng, sẽ rút dần trong thời hạn 05 năm.
Hai bên thực hiện ngừng bắn ở Nam Bộ, tạo không khí thuận lợi cho việc mở cuộc đàm
phán chính thức tiếp theo tại Pa-ri. Hội nghị trù bị Đà Lạt, Hội nghị chính thức Phôngtenblô
thất bại là do lập trường thực dân ngoan cố của Pháp. Tạm ước 14 tháng 9 là sự nỗ lực cuối
12
cùng của Chủ tịch Hồ Chí Minh để cứu vãn tình thế, là kế hoãn binh để chuẩn bị thêm lực
lượng cho cuộc chiến tranh do thực dân Pháp cố tình gây ra. Đến cuối năm 1946, thực dân
Pháp ngang nhiên khiêu chiến, khả năng hòa hoãn đã hết, Đảng ta quyết định cuộc Kháng
chiến toàn quốc vào đêm ngày 19 tháng 12 năm 1946.
Chúng ta thấy rõ sự lãnh đạo vô cùng sáng suốt và tài tình của Đảng ta và Hồ Chủ
tịch, thấy rõ sách lược “hòa để tiến” mà Hồ Chủ tịch khởi xướng, nhằm thêm bạn bớt thù,
tập trung mũi nhọn vào kẻ thù chủ yếu (thực dân Pháp), là vô cùng đúng đắn. Sách lược đó
đã tạo cho chúng ta có thêm thời gian, tạo được sức mạnh tinh thần, vật chất cho cả dân tộc
và lực lượng vũ trang nhân dân bước vào chiến tranh với tư thế của người làm chủ đất
nước.
II. ĐƢỜNG LỐI KHÁNG CHIẾN CHỐNG PHÁP (1945 - 1954):
1. Cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn:
1.1. Cơ sở lý luận:
Theo lý luận Mác- Lênin: Lênin phân loại chiến tranh dựa trên các mâu thuẫn cơ bản
của thời đại mới và đã phân chiến tranh thành chiến tranh cách mạng và chiến tranh phản
cách mạng hay còn gọi là: chiến tranh chính nghĩa và chiến tranh phi nghĩa. Người xác định
thái độ là: giai cấp vô sản cần lên án các cuộc chiến tranh phản cách mạnh, phi nghĩa, ủng hộ
các cuộc chiến tranh cách mạng, tự vệ chính nghĩa.
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh: Chiến tranh Việt Nam là cuộc chiến tranh nhân dân toàn
dân, toàn diện, lấy lực lượng vũ trang ba thứ quân làm nòng cốt, dưới sự lãnh đạo của Đảng
cộng sản Việt Nam; là cuộc chiến tranh chính nghĩa, tự vệ cách mạng, nhằm bảo vệ độc lập
tự do của dân tộc, bảo vệ độc lập chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ của đất nước, bảo
vệ Đảng, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ nhân dân và mọi thành quả của cách mạng.
1.2. Cơ sở thực tiễn:
Tình hình thế giới, sau chiến tranh thế giới thứ II, chiến thắng thuộc về Liên xô và
quân Đồng minh, làm thay đổi căn bản cục diện của thế giới, mở ra thời kỳ lịch sử mới của
nhân loại, xuất hiện trật tự thế giới mới; hệ thống chủ nghĩa do Liên Xô đứng đầu hình
thành. Phong trào cách mạng giải phóng dân tộc trên thế giới có điều kiện phát triển.
Tình hình trong nước, sau cách mạng Tháng Tám, nước ta là một nước độc lập; cuộc
chiến tranh của ta là chiến tranh chính nghĩa bảo vệ độc lập tự do của dân tộc; cuộc kháng
chiến diễn ra trong không khí phong trào giải phóng dân tộc đang lên cao trên toàn thế giới;
13
trong khi đó, Pháp cũng đang có nhiều khó khăn về kinh tế chính trị, quân sự trong nước
cũng như tại Đông Dương không dễ khắc phục ngay được.
2. Đƣờng lối kháng chiến toàn quốc và quá trình tổ chức thực hiện từ năm 1946 đến
năm 1950:
2.1. Cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ:
Hành động của thực dân Pháp:
Mặc dù đã ký Hiệp định Sơ bộ ngày 6/3 và Tạm ước ngày 14/9/1946, thực dân Pháp
vẫn đẩy mạnh việc chuẩn bị chiến tranh xâm lược. Cuối năm 1946, sau khi có thêm viện
binh, thực dân Pháp liên tục tiến hành các hành động khiêu khích. Tháng 11/1946, chúng
chiếm đóng Hải Phòng, Lạng Sơn, chính thức gây ra cuộc chiến tranh xâm lược miền Bắc.
Tại Hà Nội, từ đầu tháng 12/1946, quân Pháp liên tục dùng đại bác, súng cối bắn phá vào
nhiều khu phố tàn sát dân thường... đưa quân chiếm một số trụ sở cách mạng. Đặc biệt, ngày
18 và 19/12/1946, thực dân Pháp đã liên tiếp gửi tối hậu thư buộc Chính phủ Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa phải phá bỏ công sự trong thành phố, giải tán lực lượng tự vệ, giao quyền
kiểm soát Thủ đô cho chúng.
Đảng phát động chiến tranh đúng lúc:
Khả năng hòa hoãn đã không còn, nếu hoà hoãn nữa sẽ dẫn đến họa mất nước. Đứng
trước tình hình vô cùng cấp bách cùng với âm mưu, hành động xâm lược của kẻ thù, nhân
dân Việt Nam không có con đường nào khác là cầm súng chiến đấu để bảo vệ lập, tự do.
Ngày 18 và 19/12/1946, Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã họp hội nghị tại Vạn
Phúc (Hà Đông), quyết định phát động toàn quốc kháng chiến. Khoảng 20 giờ ngày
19/12/1946, quân dân Thủ đô Hà Nội nổ súng mở đầu kháng chiến toàn quốc. Ngay đêm
19/12/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Trung ương Đảng và Chính phủ ra lời kêu gọi
đồng bào, trong đó Người khẳng định rõ: “Chúng ta muốn hòa bình, chúng ta phải nhân
nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới vì chúng quyết tâm
cướp nước ta lần nữa. Không! Chúng ta thà hi sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất
nước, nhất định không chịu làm nô lệ!”
Đứng trước tình thế vô cùng cấp bách: Mọi khả năng hòa bình không còn nữa, mọi âm
mưu xâm lược của thực dân Pháp đã bộc lộ hoàn toàn. Tranh thủ được sự ủng hộ của nhân
dân thế giới cùng với sự quyết tâm đánh giặc của nhân dân ta và sự chuẩn bị đầy đủ lực
lượng đảm bảo kháng chiến thắng lợi, Đảng đã phát động cuộc kháng chiến toàn dân vô
cùng đúng lúc, kịp thời và phù hợp với hoàn cảnh lúc bấy giờ. Từ đó, tạo được thế chủ động
14
chuyển cả nước sang tình trạng chiến tranh; chủ động được về thời gian, thời điểm nổ súng;
chủ động về cách đánh và phối hợp giữa các địa phương; chủ động di chuyển kho tàng, vũ
khí đến nơi an toàn; chủ động rút lực lượng ra khỏi thành phố an toàn.
Khi đất nước ta mới giành được chính quyền chưa được bao lâu thì lại rơi vào tình thế
“ngàn cân treo sợi tóc”, nhưng nhờ Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận định đúng tình
hình, đưa ra đường lối đúng đắn, phát động toàn quốc kháng chiến chống thực dân Pháp
xâm lược, giành được thắng lợi vẻ vang.
Đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp của Đảng ta được hình thành, bổ sung,
phát triển qua thực tiễn cách mạng Việt Nam trong những năm 1945 đến 1947.
Nội dung cơ bản của đường lối là: Dựa trên sức mạnh toàn dân, tiến hành kháng
chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài và dựa vào sức mình là chính. Đường lối đó được thể hiện
trong nhiều văn kiện quan trọng của Đảng, lời kêu gọi, bài viết, bài nói của Chủ tịch Hồ Chí
Minh và đồng chí Tổng Bí thư Trường Chinh, trong đó tập trung ở các văn bản: Chỉ thị
Kháng chiến kiến quốc (25-11-1945), Chỉ thị Toàn dân kháng chiến (12-12-1946), Lời kêu
gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh (19-12-1946),….
Mục tiêu của cuộc kháng chiến là đánh đổ thực dân Pháp xâm lược, giành nền độc
lập, tự do, thống nhất hoàn toàn; vì nền tự do dân chủ và góp phần bảo vệ hòa bình thế giới...
Nhiệm vụ kháng chiến: chống thực dân Pháp xâm lược và bè lũ phong kiến tay sai.
Tính chất kháng chiến: “Cuộc kháng chiến của dân tộc ta là một cuộc chiến tranh
cách mạng của nhân dân, chiến tranh chính nghĩa. Nó có tính chất toàn dân, toàn diện và lâu
dài”. “Là một cuộc chiến tranh tiến bộ vì tự do, độc lập, dân chủ và hòa bình”. Đó là cuộc
kháng chiến có tính chất dân tộc giải phóng, dân chủ mới.
Phương châm tiến hành kháng chiến: Tiến hành cuộc chiến tranh nhân dân, thực
hiện kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là chính.
- Kháng chiến toàn dân là đem toàn bộ sức dân, tài dân, lực dân; động viên toàn dân
tích cực tham gia kháng chiến. Xây dựng sự đồng thuận, nhất trí của cả nước, đánh địch ở
mọi nơi, mọi lúc, “mỗi người dân là một chiến sĩ, mỗi làng xã là một pháo đài, mỗi đường
phố là một mặt trận”. Trong đó Quân đội nhân dân làm nòng cốt cho toàn dân đánh giặc.
- Kháng chiến toàn diện là đánh địch trên mọi lĩnh vực, mọi mặt trận không chỉ bằng
quân sự mà cả về chính trị, kinh tế, văn hóa, tư tưởng, ngoại giao, trong đó mặt trận quân sự,
đấu tranh vũ trang giữ vai trò mũi nhọn, mang tính quyết định. Động viên và phát huy cho
15
được mọi tiềm năng, sức mạnh của dân tộc, mọi nguồn lực vật chất, tinh thần trong nhân dân
phục vụ kháng chiến thắng lợi.
- Kháng chiến lâu dài là tư tưởng chỉ đạo chiến lược của Đảng. Trường kỳ kháng
chiến là một quá trình vừa đánh tiêu hao lực lượng địch vừa xây dựng, phát triển lực lượng
ta, từng bước làm chuyển biến so sánh lực lượng trên chiến trường có lợi cho ta; lấy thời
gian là lực lượng vật chất để chuyển hóa yếu thành mạnh. Kháng chiến lâu dài nhưng không
có nghĩa là kéo dài vô thời hạn mà phải luôn tranh thủ, chớp thời cơ thúc đẩy cuộc kháng
chiến có bước nhảy vọt về chất, thắng từng bước để đi đến thắng lợi cuối cùng.
- Kháng chiến dựa vào sức mình là chính, là sự kế thừa tư tưởng chiến lược trong chỉ
đạo sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc, giành chính quyền của lãnh tụ Hồ Chí Minh.
Phải lấy nguồn nội lực của dân tộc, phát huy nguồn sức mạnh vật chất, tinh thần vốn của
trong nhân dân ta làm chỗ dựa chủ yếu, nguồn lực chủ yếu của cuộc chiến tranh nhân dân.
Trên cơ sở đó, để tìm kiếm, phát huy cao độ và có hiệu quả sự ủng hộ, giúp đỡ tinh thần và
vật chất của quốc tế khi có điều kiện. Lấy độc lập, tự chủ về đường lối là yếu tố quan trọng
hàng đầu.
Triển vọng kháng chiến: mặc dù lâu dài, khó khăn, gian khổ nhưng nhất định thắng
lợi.
Đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược do Đảng và Chính phủ vạch ra
là sự vận dụng tài tình và sáng tạo những nguyên lí của chủ nghĩa Mác - Lênin vào thực tiễn
cách mạng Việt Nam. Đó cũng là sự thừa kế và phát huy ở trình độ cao những kinh nghiệm
đấu tranh giữ nước của dân tộc ta.
Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến và đường lối kháng chiến của Đảng là hoàn toàn
đúng đắn, trở thành ngọn cờ dẫn đường, chỉ lối, động viên toàn Đảng, toàn quân, toàn dân
ta tiến lên. Đường lối đó được nhân dân ủng hộ, hưởng ứng trong suốt quá trình kháng
chiến và trở thành một nhân tố quan trọng hàng đầu quyết định thắng lợi của cuộc kháng
chiến chống Pháp.
2.2. Tổ chức, chỉ đạo cuộc kháng chiến từ năm 1947 - 1950:
Âm mưu của thực dân Pháp sau thất bại tại chiến trường Việt Bắc 1947:
Sau thất bại trong cuộc tấn công Việt Bắc, thực dân Pháp buộc phải chuyển sang đánh
lâu dài với ta: thay đổi lại việc bố trí lực lượng, thay đổi cách đóng quân, thực hiện âm mưu
"Dùng người Việt đánh người Việt", "Lấy chiến tranh nuôi chiến tranh". Trong vùng chiếm
16
đóng, chúng ra sức xây dựng chính quyền bù nhìn và thành lập một đội quân người bản xứ
để làm công cụ phục vụ cho cuộc chiến tranh xâm lược.
Cùng với việc thành lập chính phủ bù nhìn trung ương, thực dân Pháp tăng cường bộ
máy chính quyền tay sai cấp cơ sở. Chúng mở rộng việc đánh chiếm, đánh chiếm tới đâu,
chúng tiến hành lập chính quyền bù nhìn tới đó.
Nhằm chia rẽ khối đoàn kết dân tộc, thực dân Pháp ráo riết thực hiện chính sách chia
để trị; thành lập nhiều tổ chức chính trị, tôn giáo, đảng phái phản động để phá hoại kháng
chiến.
Như vậy, sau thất bại ở Việt Bắc Thu - đông 1947, thấy rõ cuộc chiến tranh sẽ kéo dài,
không thể sớm kết thúc, thực dân Pháp quyết định tập trung lực lượng để bình định, củng cố
những vùng đã chiếm đóng, tiếp tục đánh sâu vào vùng nông thôn của ta, mở rộng phạm vi,
khống chế phần lớn vùng đồng bằng Bắc Bộ, tuyến ven biển và Nam Trung Bộ.
Chủ trương và hoạt động đẩy mạnh của ta ở mọi phương diện:
Trước âm mưu và hành động mới của thực dân Pháp, Đảng chủ trương tiếp tục đẩy
mạnh cuộc kháng chiến toàn diện để làm thất bại âm mưu kéo dài, mở rộng chiến tranh “lấy
chiến tranh nuôi chiến tranh, dùng người Việt đánh người Việt” của thực dân Pháp.
Về chính trị, Đảng và Nhà nước chủ trương tăng cường đoàn kết toàn dân, thực hiện
quân, dân nhất trí; chống âm mưu chia rẽ của thực dân Pháp, phá tan chính quyền bù nhìn và
tay sai; củng cố bộ máy Nhà nước theo hướng tập trung, thống nhất để điều hành công cuộc
kháng chiến, kiến quốc. Các Ủy ban kháng chiến hành chính được thành lập; các tổ chức
chính trị, xã hội được củng cố nhằm tăng cường đoàn kết, tập hợp đông đảo nhất mọi tầng
lớp nhân dân tham gia kháng chiến.
Về quân sự, với đường lối chiến tranh nhân dân, Đảng ta chủ trương xây dựng lực
lượng vũ trang ba thứ quân: Dân quân, du kích là lực lượng đông đảo nhất, tiếp đó là bộ đội
địa phương và trên cùng là bộ đội chủ lực. Dân quân, du kích là lực lượng chủ yếu quyết
định sự phát triển mạnh mẽ của phong trào chiến tranh du kích trong cả nước. Lực lượng vũ
trang các cấp không ngừng tăng lên về số lượng và trang bị. Lực lượng quân giới đã khắc
phục khó khăn, với tinh thần dũng cảm, tự lực, tự cường và sự sáng tạo đã chế tạo nhiều vũ
khí để tiêu diệt địch.
Về kinh tế, nhiệm vụ của nhân dân ta là phải nỗ lực xây dựng nền kinh tế kháng chiến
có tính chất dân chủ nhân dân, có khả năng tự cấp, tự túc, vừa đáp ứng được những nhu cầu
17
của kháng chiến, vừa từng bước cải thiện đời sống của cán bộ, bộ đội và nhân dân; đồng thời
phải đấu tranh chống lại sự phá hoại của địch.
Về văn hoá, phong trào bình dân học vụ tiếp tục duy trì và phát triển. Trường phổ
thông các cấp được xây dựng. Hủ tục lạc hậu, mê tín dị đoan dần được xóa bỏ, nếp sống văn
hóa mới được hình thành, trật tự an ninh trong vùng tự do khá ổn định.
Về ngoại giao, cùng với việc xây dựng thực lực trong nước, Đảng và Chính phủ nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hoà chủ trương đẩy mạnh hoạt động ngoại giao, tranh thủ sự đồng
tình, ủng hộ của quốc tế đối với cuộc kháng chiến chính nghĩa của nhân dân ta. Đảng và
Chính phủ chủ trương tích cực tranh thủ mở rộng quan hệ ngoại giao với các nước trong phe
xã hội chủ nghĩa.
Đầu năm 1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh đi thăm Trung Quốc, Liên Xô và sau đó lần lượt
Chính phủ Trung Quốc (18-1-1950), Liên Xô (30-1-1950) và các nhà nước dân chủ nhân
dân Đông Âu, Triều Tiên (2-1950) công nhận và đặt quan hệ ngoại giao với Nhà nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa; ủng hộ, giúp đỡ, cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam.
Với Lào và Campuchia, Đảng chủ trương “mở rộng mặt trận Lào-Miên”, thắt chặt tình
đoàn kết chiến đấu Việt-Miên-Lào để giúp bạn và cùng bạn chiến đấu.
Tháng 6-1950, Ban Thường vụ Trung ương Đảng quyết định mở một chiến dịch Biên
giới Thu Đông, nhằm tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực địch, mở rộng căn cứ địa
Việt Bắc, tạo hành lang rộng mở quan hệ thông thương với Trung Quốc và các nước xã hội
chủ nghĩa, tạo điều kiện thúc đẩy cuộc kháng chiến phát triển lên giai đoạn mới. Chiến thắng
này đã “đạt được mục tiêu diệt địch, kết thúc thời kỳ chiến đấu trong vòng vây”, mở ra cục
diện mới.
3. Bƣớc phát triển mới của cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp (1951-
1953):
3.1. Bối cảnh lịch sử và chủ trƣơng của Đảng:
a) Bối cảnh lịch sử:
Đến đầu năm 1951, Liên Xô lớn mạnh vượt bậc về mọi mặt, các nước xã hội chủ nghĩa
ở châu Âu bước vào công cuộc xây dựng cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội. Nước Cộng
hoà Nhân dân Trung Hoa ra đời làm thay đổi so sánh lực lượng có lợi cho hoà bình và phong
trào cách mạng. Cuộc kháng chiến của nhân dân ba nước Đông Dương đã giành được những
thắng lợi quan trọng. Mỹ trở thành tên sen đầm quốc tế, tăng cường giúp đỡ Pháp và can
18
thiệp trực tiếp vào cuộc chiến tranh Đông Dương. Trong nước, từ năm 1948 đến mùa thu
năm 1950, nhân dân ta đã giành được nhiều thắng lợi trong cuộc kháng chiến. Phong trào
chiến tranh du kích ngày càng lan rộng.
Điều kiện lịch sử đã đặt ra cho Đảng ta các yêu cầu bổ sung và hoàn chỉnh đường lối
cách mạng Việt Nam, đưa cuộc kháng chiến đến thắng lợi; đặc biệt là yêu cầu Đảng phải ra
công khai lãnh đạo cách mạng.
b) Chủ trương, kế hoạch của Đảng:
Hội nghị toàn quốc lần thứ III của Đảng (1950) ra nghị quyết nêu rõ: Cần phải nhân đà
tiến bộ của bản thân ta, dựa vào sự giúp đỡ của các lực lượng bạn, lợi dụng sự lúng túng của
thực dân Pháp, gấp rút hoàn thành nhiệm vụ chuẩn bị, giành thắng lợi lớn, làm thay đổi cục
diện chiến trường có lợi cho ta.
Tháng 6-1950, Ban Thường vụ Trung ương Đảng quyết định mở chiến dịch Biên giới ở
hướng Cao Bằng - Lạng Sơn, nhằm thực hiện 3 mục đích:
- Tiêu diệt một bộ phận quan trọng lực lượng địch;
- Giải phóng một phần biên giới, mở đường liên lạc với quốc tế;
- Mở rộng và củng cố căn cứ địa Việt Bắc.
3.2. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II và Chính cƣơng của Đảng (2-1951):
a) Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng (2 - 1951):
Đại hội họp từ ngày 11 đến ngày 19-2-1951 tại xã Vinh Quang, huyện Chiêm Hoá, tỉnh
Tuyên Quang. Tham dự Đại hội có 158 đại biểu chính thức và 53 đại biểu dự khuyết, thay
mặt cho hơn 73 vạn Đảng viên.
Đại hội quyết định đưa Đảng hoạt động công khai với tên mới là Đảng Lao động Việt
Nam. Đảng có nhiệm vụ lãnh đạo cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam, giúp đỡ và phối
hợp với các Đảng cách mạng Lào và Campuchia, đưa sự nghiệp kháng chiến của ba dân tộc
anh em trên bán đảo Đông Dương giành thắng lợi hoàn toàn.
15 chính sách lớn của Đảng để đẩy mạnh kháng chiến đến thắng lợi và đặt cơ sở kiến
thiết quốc gia.
Đại hội đã thông qua Điều lệ mới của Đảng. Điều lệ xác định rõ mục đích, tôn chỉ
của Đảng và nhấn mạnh Đảng Lao động Việt Nam là đảng của giai cấp công nhân và của
nhân dân lao động Việt Nam. Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng tư tưởng và kim
19
chỉ nam và xây dựng Đảng theo nguyên tắc một đảng vô sản kiểu mới... Đây là một bước
tiến mới trong công tác xây dựng Đảng.
Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Trung ương gồm 19 uỷ viên chính thức và 10 uỷ viên
dự khuyết, Ban Chấp hành Trung ương đã bầu Bộ Chính trị gồm 7 uỷ viên chính thức, 1 uỷ
viên dự khuyết và Ban Bí thư. Hồ Chí Minh được bầu làm Chủ tịch Đảng, Trường Chinh
được bầu lại làm Tổng Bí thư.
Sau diễn văn khai mạc của Tôn Đức Thắng, Đại hội đã nghiên cứu và thảo luận Báo
cáo chính trị của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Báo cáo Hoàn thành giải phóng dân tộc, phát triển
dân chủ nhân dân, tiến tới chủ nghĩa xã hội của Trường Chinh; Báo cáo về tổ chức và Điều
lệ Đảng của Lê Văn Lương...
Báo cáo chính trị tổng kết phong trào cách mạng thế giới và cách mạng Việt Nam
trong nửa đầu thế kỷ XX, dự báo những triển vọng tốt đẹp của nửa thế kỷ sau; rút ra bài học
trong 21 năm hoạt động của Đảng. Báo cáo vạch rõ nhiệm vụ chủ yếu trước mắt là tiêu diệt
thực dân Pháp và đánh bại bọn can thiệp Mỹ, giành thống nhất độc lập hoàn toàn, bảo vệ hòa
bình thế giới. Đảng phải đề ra những chính sách và biện pháp tích cực: tăng cường lực
lượng vũ trang, củng cố các đoàn thể quần chúng, đẩy mạnh thi đua ái quốc, mở rộng khối
đại đoàn kết dân tộc, tăng cường đoàn kết quốc tế; đẩy mạnh công tác xây dựng Đảng Lao
động Việt Nam thành "một Đảng to lớn, mạnh mẽ, chắc chắn, trong sạch, cách mạng triệt
để" để lãnh đạo đưa kháng chiến đến thắng lợi hoàn toàn.
Báo cáo bàn về cách mạng Việt Nam của đồng chí Trường Chinh trình bày toàn bộ
đường lối cách mạng Việt Nam. Đó là đường lối cách mạng dân tộc - dân chủ nhân dân tiến
lên chủ nghĩa xã hội. Nội dung cơ bản của bản báo cáo được phản ánh trong Chính cương
của Đảng Lao động Việt Nam được Đại hội thông qua như sau:
"Xã hội Việt Nam hiện nay gồm có ba tính chất: dân chủ nhân dân, một phần thuộc
địa và nửa phong kiến". Các tính chất đó đang đấu tranh lẫn nhau. "Nhưng mâu thuẫn chủ
yếu lúc này là mâu thuẫn giữa tính chất dân chủ nhân dân và tính chất thuộc địa".
Tính chất cuộc kháng chiến: “Giải quyết những nhiệm vụ cơ bản nói trên do nhân dân
làm động lực, công nông và lao động trí thức làm nền tảng và giai cấp công nhân lãnh đạo,
cách mạng Việt Nam hiện nay là một cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Cách mạng
đó không phải là cách mạng dân chủ tư sản lối cũ mà cũng không phải là cách mạng xã hội
chủ nghĩa mà là một thứ cách mạng dân chủ tư sản đổi mới tiến triển thành cách mạng xã
hội chủ nghĩa”
20
Cách mạng Việt Nam có hai đối tượng. Đối tượng chính là chủ nghĩa đế quốc xâm
lược, cụ thể là đế quốc Pháp và bọn can thiệp Mỹ. Đối tượng phụ là phong kiến, cụ thể là
phong kiến phản động.
Nhiệm vụ cơ bản hiện nay của cách mạng Việt Nam là “đánh đuổi bọn đế quốc xâm
lược, giành độc lập và thống nhất thật sự cho dân tộc, xóa bỏ những di tích phong kiến và
nửa phong kiến, làm cho người cày có ruộng, phát triển chế độ dân chủ nhân dân, gây cơ sở
cho chủ nghĩa xã hội"... Ba nhiệm vụ đó khăng khít với nhau. Nhiệm vụ chính lúc này là
hoàn thành giải phóng dân tộc. Lúc này phải tập trung lực lượng vào cuộc kháng chiến để
quyết thắng quân xâm lược...
Lực lượng của cách mạng Việt Nam gồm có giai cấp công nhân, giai cấp nông dân,
giai cấp tiểu tư sản và tư sản dân tộc. Ngoài ra, còn có những thân sĩ (địa chủ) yêu nước và
tiến bộ. Những giai cấp, tầng lớp và phần tử đó họp lại thành nhân dân mà nền tảng là công,
nông và lao động trí thức.
Lãnh đạo cách mạng: “Người lãnh đạo cách mạng là giai cấp công nhân”. Đảng Lao
động Việt Nam là Đảng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động Việt Nam.
Triển vọng phát triển của cách mạng Việt Nam nhất định sẽ tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Đây là một quá trình lâu dài, và đại thể trải qua ba giai đoạn không tách rời nhau mà mật
thiết liên hệ xen lẫn với nhau và mỗi giai đoạn có nhiệm vụ trung tâm:
- Giai đoạn thứ nhất, nhiệm vụ chủ yếu là hoàn thành giải phóng dân tộc;
- Giai đoạn thứ hai, nhiệm vụ chủ yếu là xóa bỏ những di tích phong kiến và nửa
phong kiến, thực hiện triệt để người cày có ruộng, phát triển kỹ nghệ, hoàn chỉnh chế độ dân
chủ nhân dân;
- Giai đoạn thứ ba, nhiệm vụ chủ yếu là xây dựng cơ sở cho chủ nghĩa xã hội, tiến lên
thực hiện chủ nghĩa xã hội.
Ba giai đoạn ấy không tách rời nhau, mà mật thiết liên hệ, xen kẽ với nhau.
Đại hội đại biểu lần thứ II của Đảng là một sự kiện lịch sử trọng đại, đánh dấu bước
trưởng thành mới về tư tưởng, đường lối chính trị của Đảng. Đảng từ bí mật trở lại hoạt
động công khai với tên gọi Đảng Lao động Việt Nam, đáp ứng yêu cầu phát triển cách
mạng. Có ý nghĩa quyết định đối với thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Pháp. Đại hội
còn được coi là “Đại hội kháng chiến thắng lợi”.
21
b) Đường lối, chính sách của Đảng ta đã được bổ sung, phát triển qua các hội nghị
trung ương tiếp theo.
Tại Hội nghị trung ương lần thứ nhất (3 - 1951), Đảng ta đã nhấn mạnh chủ trương
phải tăng cường hơn nữa công tác chỉ đạo chiến tranh, củng cố và gia cường quân đội chủ
lực, củng cố bộ đội địa phương và dân quân du kích; gia cường việc lãnh đạo kinh tế tài
chính, thực hiện việc khuyến khích, giúp đỡ tư sản dân tộc kinh doanh và gọi vốn của tư
nhân để phát triển công thương nghiệp, tích cực tham gia phong trào bảo vệ hoà bình thế
giới, củng cố Đảng về tư tưởng, chính trị, tổ chức.
Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ hai (họp từ 27/9/1951 đến ngày 5/10/1951),
đã nêu lên chủ trương đẩy mạnh cuộc kháng chiến trên cơ sở thực hiện tốt ba nhiệm vụ lớn
là: Ra sức tiêu diệt sinh lực địch, tiến tới giành ưu thế quân sự; ra sức phá âm mưu thâm độc
của địch là lấy chiến tranh nuôi chiến tranh, dùng người Việt đánh người Việt; đẩy mạnh
kháng chiến ở vùng tạm bị chiếm, củng cố và phát triển sức kháng chiến đoàn kết.
Tại Hội nghị Trung ương lần thứ tư (tháng 1 - 1953) vấn đề cách mạng ruộng đất
được Đảng tập trung nghiên cứu, kiểm điểm và đề ra chủ trương thực hiện triệt để giảm tô,
chuẩn bị tiến tới cải cách ruộng đất. Hội nghị cho rằng, muốn kháng chiến hoàn toàn thắng
lợi, dân chủ nhân dân thật thà thực hiện, thì phải thiết thực nâng cao quyền lợi kinh tế và
chính trị của nông dân, phải chia ruộng đất cho nông dân.
Tại Hội nghị Trung ương lần thứ năm (11 - 1953), Đảng quyết định phát động quần
chúng triệt để giảm tô và tiến hành cải cách ruộng đất trong kháng chiến. Từ đó, tạo ra
những chuyển biến lớn về kinh tế, thúc đẩy sự phát triển và nâng cao đời sống vật chất tinh
thần. “Cải cách ruộng đất để đảm bảo cho kháng chiến thắng lợi”. “Cải cách ruộng đất là
chính sách chung của cả nước, nhưng phải làm từng bước tùy điều kiện mà nơi thì làm trước
nơi thì làm sau”. Hội nghị cũng khẳng định: “Cải cách ruộng đất là một cuộc cách mạng
nông dân, một cuộc giai cấp đấu tranh ở nông thôn, rất rộng lớn, gay go và phức tạp. Cho
nên chuẩn bị phải thật đầy đủ, kế hoạch phải thật rõ ràng, lãnh đạo phải thật chặt chẽ”.
Đường lối hoàn thành giải phóng dân tộc, phát triển chế độ dân chủ nhân dân, tiến lên
chủ nghĩa xã hội của Đảng được thực hiện trên thực tế trong giai đoạn 1951-1954. Nhờ có
những đường lối lãnh đạo hoàn toàn đúng đắn của Đảng ta cùng với sự tin tưởng đoàn kết
của toàn dân dành cho Đảng đã mang lại những chiến thắng vẻ vang cho đất nước, góp
phần đưa đất nước đi lên xây dựng một đất nước độc lập, tự do, hạnh phúc.
22
3.3. Đẩy mạnh phát triển cuộc kháng chiến về mọi mặt:
a) Chuyển sang thế tiến công chiến lược, giữ vững và phát triển quyền chủ động đánh
địch trên chiến trường:
Sau chiến dịch Biên giới Thu đông 1950, quân ta tiếp tục giữ vững quyền chủ động về
chiến lược trên chiến trường chính, liên tục mở các chiến dịch tiến công và phản công lớn.
Nhận định nếu đánh vào trung du, ta sẽ thu hẹp được phạm vi chiếm đóng của địch và
làm thất bại âm mưu "lấy chiến tranh nuôi chiến tranh, dùng người Việt đánh người Việt"
của chúng. Từ đầu năm 1951, Đảng chủ trương mở các chiến dịch tiến công quân sự có
quy mô tương đối lớn đánh vào địa bàn Trung du và đồng bằng Bắc bộ: Chiến dịch Trung
du (cuối năm 1950), chiến dịch Đường 18 (3 - 1951), tiến công khu vực Hà - Nam - Ninh (4
- 1951)
Mục tiêu của những chiến dịch này là nhằm tiêu diệt, tiêu hao sinh lực địch, tạo điều
kiện phát triển cuộc chiến tranh du kích vùng sau lưng địch. Tuy nhiên, vì địa bàn ba chiến
dịch trên không lợi cho ta nên kết quả chiến đấu bị hạn chế. Cả ba chiến dịch đã gây trở ngại
cho địch trong việc thực hiện kế hoạch Đờ Lát đờ Tátxinhi, nhưng sức chiến đấu của bộ đội
ta cũng bị giảm sút.
Sau Hội nghị lần thứ hai của Ban Chấp hàng Trung ương Đảng, ta đẩy mạnh mọi mặt
hoạt động, chuyển hướng mạnh mẽ công tác trong vùng sau lưng địch, thực hiện tiến
công chiến lược, phối hợp chặt chẽ chiến tranh du kích và chiến tranh chính quy, giành
thắng lợi mới. Ta lần lượt giành chiến thắng ở chiến dịch Hòa Bình (1951) và chiến dịch
Tây Bắc (4 - 1952). Với những thắng lợi trên ta đã phá tan âm mưu lập “Xứ Thái tự trị” của
thực dân Pháp, đẩy địch vào thế lúng túng, bị động; ta giữ vững và từng bước mở rộng
quyền chủ động về chiến lược. Vùng căn cứ du kích, khu du kích liên hoàn, rộng lớn được
hình thành, gồm các tỉnh đồng bằng và trung du Bắc Bộ. Chính sách dùng người Việt đánh
người Việt, lấy chiến tranh nuôi chiến tranh của địch bị giáng một đòn mạnh.
Năm 1953 ta phối hợp với quân và dân Lào mở chiến dịch Thượng Lào giúp Chính phủ
kháng chiến Lào giải phóng thêm đất đai và mở rộng khu căn cứ địa, phá thế bố trí chiến
lược của thực dân Pháp ở Bắc Đông Dương, buộc chúng phải phân tán lực lượng đối phó,
ngăn chặn âm mưu củng cố Tây Bắc và bình định đồng bằng của địch.
Quán triệt tư tưởng chiến lược tiến công, nêu cao ý chí quyết chiến quyết thắng, quân
và dân ta từng bước phát triển thế tiến công với quy mô ngày càng lớn bằng cả chiến tranh
23
du kích và chiến tranh chính quy để giành ưu thế quân sự, giữ vững và phát huy quyền chủ
động chiến lược.
b) Xây dựng và củng cố hậu phương kháng chiến về mọi mặt:
Hậu phương có vai trò đặc biệt quan trọng, là một trong những nhân tố thường xuyên
có tính chất quyết định thắng lợi của chiến tranh. Nhận thức rõ tầm quan trọng của hậu
phương, Đảng ta sớm đề ra đường lối, chủ trương, chính sách về xây dựng hậu phương vững
mạnh toàn diện.
Về chính trị:
Đảng và Chính phủ ra sức chăm lo xây dựng, củng cố và mở rộng Mặt trận dân tộc
thống nhất (thông qua hai mặt trận Việt Minh và Liên Việt) nhằm tăng cường khối đại đoàn
kết toàn dân.
Ngày 11-3-1951, Hội nghị đoàn kết nhân dân ba nước Việt Nam, Lào và Campuchia
quyết định thành lập khối Liên minh Việt - Miên - Lào, tăng cường khối đoàn kết ba nước
đấu tranh chống Pháp và can thiệp Mỹ, tạo nên sức mạnh của khối đoàn kết quốc tế.
Tháng 4-1952, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ ba của Đảng xác định
công tác “chỉnh Đảng, chỉnh quân” là nhiệm vụ trọng tâm của công tác xây dựng Đảng, xây
dựng quân đội giai đoạn này. Ngày 11-5-1952, Trung ương mở lớp chỉnh Đảng đầu tiên. Sau
chỉnh huấn chính trị mùa hè năm 1952, quân đội ta tiến hành chấn chỉnh tổ chức, biên chế và
trang bị. Thông qua chỉnh huấn, trình độ chiến thuật, kĩ thuật của bộ đội được nâng cao theo
yêu cầu nhiệm vụ chiến đấu sắp tới.
Để động viên các tầng lớp nhân dân phát huy chủ nghĩa anh hùng cách mạng, Chủ tịch
Hồ Chí Minh quyết định mở Hội nghị thi đua toàn quốc, toàn quân. Ngày 01/05/1952, Đại
hội Chiến sĩ thi đua và Cán bộ gương mẫu toàn quốc lần thứ nhất long trọng tuyên dương 7
anh hùng: Cù Chính Lan, Nguyễn Quốc Trị, Nguyễn Thị Chiên, La Văn Cầu, Ngô Gia
Khảm, Trần Đại Nghĩa, Hoàng Hanh.
Về kinh tế:
Trên lĩnh vực nông nghiệp, những cuộc vận động tăng gia sản xuất, thực hành tiết
kiệm, khắc phục khó khăn, đặc biệt là chính sách cải cách ruộng đất đã giúp nước ta tự túc
một phần lương thực, thực phẩm.
Năm 1950, Chính phủ ra sắc lệnh giảm tức, xóa nợ, hoãn nợ cho nông dân vay địa chủ,
ban hành quy chế lĩnh canh để bảo vệ quyền lợi cho tá điền. Tháng 4-1951, mở cuộc vận
24
động Thi đua sản xuất, lập công nhằm phục vụ nhu cầu kháng chiến. Kết quả là diện tích cây
trồng lương thực và hoa màu tăng lên nhiều so với các năm trước. Từ năm 1952, cuộc “Đại
vận động sản xuất và tiết kiệm” được phát động trong toàn Đảng, toàn dân và toàn quân.
Đảng và Chính phủ tiếp tục thực hiện cuộc cách mạng ruộng đất từng bước theo đường
lối riêng biệt, phù hợp với tình hình xã hội Việt Nam.Từ năm 1953, Đảng và Chính phủ chủ
trương phát động quần chúng triệt để giảm tô, giảm tức và cải cách ruộng đất nhằm góp
phần thúc đẩy kháng chiến mau thắng lợi, thực hiện mục tiêu người cày có ruộng. Tháng 11-
1953, Đảng thông qua Cương lĩnh ruộng đất của Đảng Lao động Việt Nam với 23 điều và
nêu chủ trương: “phát động quần chúng triệt để giảm tô, thực hiện giảm tức và tiến hành cải
cách ruộng đất”, thực hiện người cày có ruộng, nâng cao quyền lợi kinh tế và chính trị của
người nông dân. Ngày 19-12-1953, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký ban hành sắc lệnh Luật cải
cách ruộng đất. Thực hiện chủ trương của Đảng và Chính phủ hàng ngàn hécta ruộng đất và
các loại nông cụ, trâu bò, tư liệu sản xuất nông nghiệp đã được chia cho nông dân nghèo,
nhất là bần, cố nông.
Việc thực hiện chính sách ruộng đất trong kháng chiến đã từng bước xoá bỏ chế độ
chiếm hữu ruộng đất phong kiến, giải phóng lực lượng sản xuất khỏi sự trói buộc của quan
hệ sản xuất đã quá lạc hậu, đem lại niềm phấn khởi trong nông dân. Thông qua đó, nông
dân càng tích cực đẩy mạnh sản xuất, hăng hái tham gia đóng góp sức người, sức của vào
sự nghiệp kháng chiến.
Tuy trong quá trình thực hiện cải cách ruộng đất, chúng ta đã phạm phải một số sai
lầm nhưng Đảng và Chính phủ phát hiện và có biện pháp sửa sai ngay khi kết thúc cải cách,
nhờ đó mà hậu quả được hạn chế và ý nghĩa của cải cách ruộng đất vẫn hết sức to lớn.
Về công nghiệp, tài chính và thương nghiệp:
Công nghiệp quốc phòng đã sản xuất được các loại vũ khí mới (súng SKZ, súng
Badôka, súng cối...). Phát triển tiểu thủ công nghiệp, sản xuất hàng vạn nông cụ phục vụ
nông nghiệp, tự túc được một phần thuốc men, vải mặc; bảo đảm đạn dược, thuốc men, quân
trang, quân dụng cung cấp đủ cho bộ đội.
Đi đôi với đẩy mạnh sản xuất, Chính phủ thực hiện chủ trương tăng thu giảm chi,
thống nhất quản lí tài chính để tránh lạm phát, giữ giá hàng; chấn chỉnh công tác tài chính,
ngân hàng và phát hành giấy bạc mới.
25
Mậu dịch bán hàng nội hoá với giá rẻ hơn cho nhân dân và đã cung cấp 35% nhu yếu
phẩm cho bộ đội. Sau chiến thắng Biên giới, con đường thông thương giữa nước ta với quốc
tế được mở rộng. Giá trị hàng xuất khẩu năm 1951 tăng 7 lần so với năm 1950.
Về văn hóa, giáo dục, y tế
Đảng và Chính phủ tổ chức và hướng dẫn văn nghệ sĩ đi vào thực tế sản xuất và chiến
đấu, phục vụ kháng chiến, thực hiện “Kháng chiến hóa văn hóa, văn hóa hóa kháng chiến”.
Từ năm 1950, ta tiến hành cải cách giáo dục nhằm hướng tới xây dựng nền giáo dục
mới xã hội chủ nghĩa. Tính đến năm 1952, chỉ riêng các liên khu Việt Bắc, Khu IV, Khu V
đã có trên 1 triệu học sinh phổ thông, phong trào bình dân học vụ, bổ túc văn hóa tiếp tục
phát triển.
Công tác chăm lo, bảo vệ sức khoẻ cho nhân dân được chú ý. Hệ thống bệnh viện, bệnh
xá, phòng y tế, trạm cứu thương được xây dựng rộng khắp. Nạn đói và bệnh dịch cơ bản
được đẩy lùi.
4. Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp kết thúc (1953-1954):
4.1 Âm mƣu mới của đế quốc Pháp - Mĩ ở Đông Dƣơng:
Về phía thực dân Pháp, kế hoạch Nava Sau gần tám năm tiến hành cuộc chiến tranh
xâm lược Việt Nam (1945 -1953), thực dân Pháp đã phải chịu những tổn thất nặng nề. Vùng
kiểm soát của chúng ngày càng bị thu hẹp. Trên chiến trường Việt Nam, quân Pháp ngày
càng bị lún sâu vào thế bị động phòng ngự và thiếu hẳn một lực lượng cơ động chiến lược
mạnh để có thể đối phó với các cuộc tấn cồng mới của bộ đội ta.
Về phía đế quốc Mĩ, trước tình thế bị sa lầy và thất bại của Pháp, Mĩ can thiệp sâu vào
cuộc chiến tranh Đông Dương, ép Pháp phải kéo dài và mở rộng chiến tranh, tích cực chuẩn
bị thay thế Pháp.
Được sự hậu thuẫn của Mĩ, ngày 7 - 5 - 1953, Pháp cử Nava làm Tổng chỉ huy quân
đội ở chiến trường Đông Dương, đề ra kế hoạch Nava trong 18 tháng sẽ giành thắng lợi
quyết định để “kết thúc chiến tranh trong danh dự”.
Để có đủ điều kiện cần thiết cho việc thực hiện kế hoạch đã vạch ra, Nava chủ trương
giải quyết theo ba biện pháp: Mở rộng ngụy quân, mở rộng các “quân đội quốc gia” trên quy
mô lớn; rút bớt một bộ phận lực lượng chiếm đóng để tập trung lại; xin tăng viện trợ từ Pháp
sang.
26
4.2. Cuộc tiến công chiến lƣợc Đông - Xuân 1953 - 1954 và chiến dịch Điện Biên
Phủ:
Chủ trương, kế hoạch quân sự Đông - Xuân 1953 - 1954 của ta
Đứng trước âm mưu và hành động mới của Pháp - Mĩ , Bộ Chính trị Trung ương Đảng
triệu tập Hội nghị tháng 9-1953, đề ra chủ trương mở cuộc tiến công chiến lược Đông -
Xuân 1953 - 1954 và Chiến dịch Điện Biên Phủ. Với quyết tâm giữ vững thế chủ động đánh
địch trên cả hai mặt trận chính diện và sau lưng địch, phối hợp hoạt động trên phạm vi cả
nước và toàn Đông Dương. Hội nghị xác định phương hướng chiến lược của ta trong Đông -
Xuân 1953 - 1954 là:
- Tập trung phần lớn bộ đội chủ lực mở những cuộc tiến công vào những hướng quan
trọng về chiến lược mà địch tương đối yếu, nhằm tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực
địch, giải phóng đất đai, đồng thời buộc chúng phải bị động phân tán lực lượng đối phó với
ta trên những địa bàn xung yếu mà chúng không thể bỏ.
- Đẩy mạnh chiến tranh du kích ở khắp các chiến trường sau lưng địch; đồng thời tích
cực tiến hành mọi sự chuẩn bị cần thiết trong nhân dân và bộ đội địa phương, dân quân du
kích ở các vùng tự do để cho bộ đội chủ lực chủ động đánh địch theo kế hoạch đã định. Do
hành động của địch chưa rõ rệt, Hội nghị Bộ Chính trị nêu lên phương châm tác chiến chung
là "Tích cực, chủ động, cơ động, linh hoạt", "Đánh ăn chắc" (chắc thắng thì đánh cho kì
thắng, không chắc thắng thì kiên quyết không đánh).
Bước vào Đông - Xuân 1953 - 1954, thực hiện chủ trương chiến lược của Bộ Chính trị
Trung ương Đảng, quân ta liên tiếp chủ động mở các cuộc tiến công chiến lược trên toàn
chiến trường Đông Đương; đồng thời đẩy mạnh chiến tranh du kích trong các vùng sau lưng
địch, tiêu diệt sinh lực địch, phá huỷ phương tiện chiến tranh, giải phóng nhiều vùng đất
rộng lớn. Các hoạt động bền bỉ, liên tục, rộng khắp với hiệu quả cao của quân và dân ta buộc
địch phải bị động phân tán lực lượng cơ đông đang tập trung ở đồng bằng Bắc Bộ đến các
chiến trường rừng núi; trong đó, bộ phận quân tinh nhuệ bậc nhất bị giam chân tại Điện Biên
Phủ. Số quân cơ động của địch ở đồng bằng Bắc Bộ từ chỗ có 44 tiểu đoàn, chỉ còn lại 20
tiểu đoàn. Kế hoạch Nava bước đầu bị phá sản.
Thắng lợi của ta trong các cuộc tiến công chiến lược Đông - Xuân 1953 - 1954 là sự
chuẩn bị những điều kiện vật chất và tinh thần cho quân và dân ta mở trận quyết chiến chiến
lược vào tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ.
Chiến dịch Điện Biên Phủ (1954)
27
Sau khi không đạt được âm mưu bảo vệ chiến trường Tây Bắc, Thượng Lào và cũng
không ngăn chặn được kế hoạch tiến công của ta trong Đông - Xuân 1953 - 1954, Bộ chỉ
huy quân đội Pháp ở Đông Dương quyết định chấp nhận cuộc chiến đấu với chủ lực ta tại
chiến trường rừng núi Tây Bắc Việt Nam. Từ đầu tháng 12-1953, Nava chủ trương xây dựng
Điện Biên Phủ thành một tập đoàn cứ điểm mạnh.
Điện Biên Phủ trở thành điểm quyết chiến chiến lược giữa ta và địch.
Trong Chỉ thị ngày 22-12-1953, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ “chiến dịch Điện Biên
Phủ là một chiến dịch rất quan trọng không những về quân sự mà cả về chính trị, không
những đối với trong nước mà cả đối với quốc tế. Vì vậy, toàn Đảng, toàn quân phải tập trung
hoàn thành cho kì được.”
Từ sau quyết định của Bộ Chính trị, mọi công tác chuẩn bị cho chiến dịch được xúc
tiến rất khẩn trương. Bộ chỉ huy và Đảng uỷ Mặt trận được thành lập do Đại tướng Võ
Nguyên Giáp trực tiếp làm Chỉ huy trưởng kiêm Bí thư Đảng uỷ Mặt trận. Chính phủ ra
quyết định thành lập Hội đồng cung cấp mặt trận do đồng chí Phạm Văn Đồng làm Chủ tịch.
Quyết tâm chiến lược của Bộ Chính trị Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
biến thành ý chí và hành động của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta. Với khẩu hiệu “Tất
cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng”, nhân dân cả nước hăng hái, tự nguyện đóng góp
sức lực, tiền của, sẵn sàng hi sinh hết thảy, kịp thời bảo đảm cung cấp cho chiến dịch. Mọi
nguồn nhân tài, vật lực, dân công tiếp tế, chi viện cho mặt trận Điện Biên Phủ được tăng
cường với hàng vạn ngày công, hàng vạn tấn lương thực, đạn dược, vũ khí, phương tiện
trang bị....
Với phương châm “đánh chắc, tiến chắc”, “đánh chắc thắng”, ngày 13-3-1954, quân ta
nổ súng tấn công địch ở phân khu phía Bắc trung tâm Mường Thanh, mở màn Chiến dịch
Điện Biên Phủ. Trải qua 56 ngày đêm, với 3 đợt tiến công lớn, vào hồi 17 giờ 30 phút chiều
7-5-1954, Quân đội Nhân dân Việt Nam đã đánh chiếm hầm chỉ huy, bắt sống tướng Đờ
Cátơri (De Castries) chỉ huy trưởng và Bộ chỉ huy tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Toàn bộ
lực lượng địch ở Điện Biên Phủ bị tiêu diệt và bị bắt sống. Chiến dịch Điện Biên Phủ kết
thúc đã đưa cuộc Tiến công chiến lược Đông Xuân 1953-1954 và cuộc kháng chiến của dân
tộc Việt Nam chống thực dân Pháp xâm lược đến thắng lợi vẻ vang.
Chiến thắng Điện Biên Phủ “đã được ghi vào lịch sử dân tộc như một Bạch Đằng, một
Chi Lăng hay một Đống Đa ở thế kỉ XX, và đi vào lịch sử thế giới như một chiến công chói
lọi đột phá thành trì của hệ thống nô dịch thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc”. Với quốc tế
28
chiến thắng Điện Biên Phủ được coi là “tiếng chuông báo tử của chủ nghĩa thực dân”, là
“tiếng nói vút ngang tai bọn đế quốc quốc tế”, một “niềm hi vọng to lớn và tươi sáng của
loài người”, “là lời kêu gọi các dân tộc bị trị tiến lên xung phong chiếm lĩnh các pháo đài
cuối cùng của chủ nghĩa thực dân và chủ nghĩa đế quốc trên thế giới...”
Chiến thắng Điện Biên Phủ là một đòn giáng quyết định, đập tan hoàn toàn Kế hoạch
quân sự Nava, đè bẹp ý chí xâm lược của thực dân Pháp, làm xoay chuyển cục diện chiến
tranh ở Đông Dương, tạo điều kiện thuận lợi cho cuộc đấu tranh ngoại giao của ta ở Hội
nghị Giơnevơ (Genève) giành thắng lợi.
4.3. Hiệp định Gionevo - Chiến thắng trên mặt trận ngoại giao. Chấm dứt chiến
tranh:
Bối cảnh Hội nghị Gionevo
Lập trường trước sau như một của Đảng, Chính phủ và nhân dân ta là luôn giương cao
ngọn cờ hoà bình. Bởi vậy, trước và trong quá trình tiến hành cuộc kháng chiến, Chính phủ
Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đã nhiều lần đề nghị Chính phủ Pháp cùng thương lượng để
giải quyết một cách hoà bình vấn đề Việt Nam, nhưng đều bị khước từ.
Bước vào Đông Xuân 1953 - 1954, cùng với cuộc tiến công trên mặt trận quân sự,
Đảng và Chính phủ ta chủ trướng mở cuộc tiến công trên mặt trận ngoại giao để kết thúc
cuộc kháng chiến.
Sau gần 9 năm tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược Đông Dương, thực dân Pháp càng
bị sa lầy và lệ thuộc vào Mĩ ; nội bộ giới cầm quyền Pháp bị phân hoá, hình thành phái chủ
chiến và phái chủ hoà. Nhân dân Pháp đấu tranh mạnh mẽ đòi Chính phủ Pháp phải chấm
dứt cuộc chiến tranh xâm lược Đông Dương.
Ngày 26/11/1953, trả lời báo Expressen (Thụy Điển), Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ:
“Cơ sở của việc đình chiến ở Việt Nam là Chính phủ Pháp thật thà tôn trọng nền độc lập
thực sự của nước Việt”. Lời tuyên bố của Chủ tịch Hồ Chí Minh tỏ rõ thiện chí hoà bình của
Việt Nam, đồng thời gây chấn động lớn trong dư luận nước Pháp, có tác dụng thúc đẩy
phong trào đấu tranh cho hoà bình của nhân dân Pháp và nhân dân thế giới, mở ra khả năng
giải quyết bằng con đường hoà bình cuộc chiến tranh ở Đông Dương.
Trước sức ép từ nhiều phía, ngày 19-11-1953, Thủ tướng Pháp Lanien phải tuyên bố:
“Nếu một giải pháp danh dự xuất hiện trong khung cảnh địa phương hoặc trong khung cảnh
quốc tế, nước Pháp sẽ vui lòng chấp nhận một giải pháp ngoại giao cho cuộc xung đột”.
Ngày 25-1-1954, Hội nghị Ngoại trưởng bốn nước lớn (Liên Xô, Mĩ , Anh, Pháp) tại Béclin
29
thoả thuận về việc triệu tập một cuộc hội nghị quốc tế có đại diện Cộng hoà Nhân dân Trung
Hoa tham dự tại Giơnevơ để bàn giải pháp hoà bình cho vấn đề Triều Tiên và lập lại hoà
bình ở Đông Dương.
Diễn biến Hội nghị và nội dung Hiệp định Gionevo
Ngày 8-5-1954, phái đoàn Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa do đồng chí Phạm
Văn Đồng dẫn đầu đến Hội nghị với tư thế một dân tộc chiến thắng. Trong 75 ngày đàm
phán căng thẳng, gay go, phức tạp, trải qua 8 phiên họp toàn thể, 23 phiên họp hẹp với nhiều
áp lực, tác động tiêu cực của diễn biến tình hình quốc tế phức tạp và sức ép của các nước
lớn. Phía Việt Nam luôn kiên trì đấu tranh, giữ vững nguyên tắc, nhân nhượng có điều kiện
và cũng tích cực đấu tranh để bảo vệ quyền lợi chính trị của lực lượng kháng chiến Lào và
Campuchia. Song so sánh lực lượng không thuận lợi cho cách mạng ba nước Đông Dương,
nên ta đồng ý chấp nhận ký kết với Pháp bản Hiệp định đình chỉ chiến sự ở Việt Nam vào
ngày 21-7-1954.
Ngày 21-7-1954, Hiệp định Giơnevơ về chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở Đông
Dương được kí kết, gồm các văn kiện sau đây: 1- Bản Hiệp định đình chỉ chiến sự ở Việt
Nam 2- Bản Hiệp định đình chỉ chiến sự ở Lào 3- Bản Hiệp định đình chỉ chiến sự ở
Campuchia 4- Bản Tuyên bố cuối cùng 5- Các phụ bản khác...
Bản Tuyên bố cuối cùng về việc lập lại hoà bình ở Đông Dương gồm 13 điều, trong đó
nêu rõ: Pháp và các nước tham dự Hội nghị long trọng cam kết tôn trọng các quyền dân tộc
cơ bản của Việt Nam, Lào, Campuchia là độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh
thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của các nước đó; cam kết chấm dứt cuộc chiến
tranh và lập lại hòa bình trên bán đảo Đông Dương...
Bản Tuyên bố cuối cùng được tám đoàn trong số chín đoàn tham gia Hội nghị kí kết;
riêng đoàn Mĩ không kí, mà chỉ ra tuyên bố riêng công nhận. Hành động này của Mĩ một
mặt biểu hiện sự phản ứng đối với kết quả Hội nghị, một mặt có ý đồ dọn đường sẵn cho
việc phá hoại Hiệp định, hất cẳng Pháp, biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ
quân sự của đế quốc Mĩ.
Hiệp định Giơnevơ không phản ánh đầy đủ những thắng lợi của nhân dân ta trên chiến
trường và cũng không phản ánh đúng khả năng cách mạng ba nước Đông Dương sau chiến
thắng lịch sử Điện Biên Phủ. Với giải pháp Giơnevơ, Việt Nam mới giải phóng được một
nửa đất nước; vùng giải phóng Lào chỉ còn lại hai tỉnh (Sầm Nưa và Phong Xa Lì);
Campuchia không còn vùng giải phóng, nên lực lượng vũ trang phải giải ngũ tại chỗ.
30
Mặc dù còn có những hạn chế, nhưng với việc kí kết Hiệp định Giơnevơ, “chúng ta đã
thu được một thắng lợi ngoại giao lớn”. Cùng với chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, Hiệp
định Giơnevơ đã kết thúc cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp có Mĩ giúp sức ở
Đông Dương kéo dài trong gần 9 năm.
Âm mưu của đế quốc Mĩ định kéo dài, mở rộng và quốc tế hoá cuộc chiến tranh Đông
Dương hoàn toàn bị đập tan.
Hiệp định Giơnevơ về Đông Dương là một văn bản pháp lí quốc tế ghi nhận các quyền
dân tộc cơ bản của nhân dân ba nước Đông Dương là độc lập, chủ quyền, thống nhất và
toàn vẹn lãnh thổ.
III. NGUYÊN NHÂN THẮNG LỢI, Ý NGHĨA LỊCH SỬ VÀ BÀI HỌC KINH
NGHIỆM:
1. Nguyên nhân thắng lợi:
1.1 Nguyên nhân chủ quan:
Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam, là nhân tố quyết định hàng đầu
bảo đảm thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Đảng ta nhận rõ sứ mạng, trọng trách lịch sử
của mình trước giai cấp, trước dân tộc và phong trào cách mạng thế giới, đã ra sức xây dựng
mình vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức, theo đúng nguyên lý xây dựng Đảng
macxít-lêninnít. Do vậy, đã đáp ứng ngày càng đầy đủ những yêu cầu rất khắt khe về sức
mạnh tiền phong chiến đấu của một đảng giữ vai trò quyết định thắng lợi của cuộc kháng
chiến vĩ đại nhất trong lịch sử dân tộc ta. Trên cơ sở vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta đã kịp thời đưa ra đường lối, phương pháp cách mạng đúng
đắn, sáng tạo, đồng thời kiên quyết chỉ đạo thực hiện bằng được mục tiêu, con đường nhiệm
vụ cách mạng đặt ra.
Xây dựng lực lượng vũ trang 3 thứ quân vững mạnh do Đảng ta trực tiếp lãnh đạo,
chiến đấu dũng cảm, mưu lược, tài trí, là lực lượng quyết định tiêu diệt địch trên chiến
trường, đè bẹp ý chí xâm lược của địch, giải phóng đất đai của Tổ quốc.
Xây dựng được hệ thống chính quyền dân chủ nhân dân, của dân, do dân và vì dân
được giữ vững, củng cố và lớn mạnh, làm công cụ sắc bén tổ chức toàn dân kháng chiến và
xây dựng chế độ mới, có mặt trận dân tộc thống nhất cũng ngày càng được củng cố, vững
mạnh. Xây dựng lực lượng hậu phương vững chắc, rộng lớn, hậu phương là nơi có thể triển
khai xây dựng và dữ trữ tiềm lực của chiến tranh cả về chính trị, quân sự, văn hóa…, hậu
phương là cơ sở lãnh đạo, tổ chức của tiền tuyến, là nơi chi viện sức người, sức của và động
31
viên chính trị - tinh thần cho tiền tuyến đánh giặc, và cũng là nơi rút lui củng cố và bàn đạp
tiến công của cách mạng, hậu phương đã góp phần vào thắng lợi to lớn.
Cả nước đoàn kết, thống nhất ý chí và hành động, trên dưới một lòng triệu người như
một, quyết tâm đánh thắng giặc Pháp xâm lược. Trong cuộc kháng chiến chống Pháp, cứu
nước, đứng trước những khó khăn thử thách, truyền thống quý báu đó càng được phát huy
cao độ. Trong Đảng, đoàn kết thống nhất từ Trung ương đến cơ sở. Sự đoàn kết thống nhất
trong Đảng đã tạo nên sức mạnh lãnh đạo cách mạng nâng cao lòng tin của toàn dân với
Đảng và trở thành động lực xây dựng khối đoàn kết toàn dân. Nhân dân ta đoàn kết trong
chiến đấu, lao động sản xuất, khắc phục khó khăn, thiếu thốn, thống nhất về chính trị, về
nhận thức và hành động, trên cơ sở tình cảm giai cấp, tình đồng chí, nghĩa đồng bào. Điểm
nổi bật về sự đoàn kết thống nhất là tình đoàn kết Bắc - Nam. Sự đoàn kết thống nhất trong
toàn Đảng, toàn dân, toàn quân đã trở thành nhân tố quan trọng, sức mạnh to lớn, góp phần
đánh thắng thực dân Pháp xâm lược.
1.2 Nguyên nhân khách quan:
Kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại, tạo thành sức mạnh tổng
hợp đánh Pháp và thắng Pháp. Trong suốt cuộc kháng chiến, Đảng ta ra sức tăng cường
đoàn kết quốc tế, coi đó là một bộ phận hợp thành của đường lối chống Pháp, cứu nước và
đặt hoạt động đối ngoại, đấu tranh ngoại giao thành một mặt trận có tầm quan trọng chiến
lược, góp phần tạo nên sự vượt trội về thế và lực của nhân dân ta; tạo nên một mặt trận rộng
lớn của nhân dân thế giới đoàn kết với Việt Nam và ủng hộ Việt Nam chống Pháp xâm lược.
Đoàn kết, liên minh chiến đấu với nhân dân Lào và nhân dân Campuchia. Phát huy
truyền thống láng giềng anh em gắn bó với nhau, Đảng và nhân dân ta đã chủ động đoàn kết,
liên minh chiến đấu với nhân dân Lào, nhân dân Campuchia. Sự đoàn kết liên minh đó được
thể hiện trên nguyên tắc tôn trọng độc lập chủ quyền, lợi ích của mỗi nước, cùng nhau đoàn
kết chống kẻ thù chung, bảo vệ độc lập chủ quyền quốc gia cho cả ba dân tộc.
2. Ý nghĩa lịch sử:
Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của nhân dân ta dưới dự lãnh đạo của Đảng đã
được tiến hành liên tục trong hơn 9 năm đầy gian khổ. Thắng lợi giành được tuy chưa trọn
vẹn, nhưng đánh dấu một bước phát triển vượt bậc có ý nghĩa lịch sử to lớn đối với sự
nghiệp đấu tranh giành độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam, đối với cách mạng Việt Nam,
có tính lan tỏa rộng lớn trong khu vực và mang tầm vóc thời đại sâu sắc. Đảng khẳng định:
32
“Sau 9 năm kháng chiến, những thắng lợi lớn của ta về mặt quân sự và cải cách ruộng đất,
cũng như về mặt tài chính, kinh tế, văn hoá, giáo dục, xây dựng mặt trận, xây dựng đảng…
đánh dấu một bước tiến rất lớn của quân và dân ta. Những thắng lợi lớn ấy đã làm cho lực
lượng so sánh giữa ta và địch chuyển biến có lợi cho ta, nhưng chưa phải chuyển biến căn
bản...’’
2.1. Đối với Việt Nam:
Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đã chấm dứt cuộc chiến
tranh xâm lược và ách thống trị của thực dân Pháp trong gần một thế kỉ trên đất nước ta.
Buộc Pháp phải thừa nhận Việt Nam là một đất nước có độc lập, tự do, chủ quyền, thống
nhất và toàn vẹn lãnh thổ. Pháp đã xâm chiếm bất hợp pháp lãnh thổ Việt Nam nên buộc
phải dừng lại và rút hết quân về nước.
Thắng lợi cuộc kháng chiến chống Pháp đã bảo vệ thành quả Cách mạng tháng
Tám. Miền Bắc được hoàn toàn giải phóng, có điều kiện thuận lợi để miền Bắc đi lên Chủ
nghĩa xã hội, xây dựng và bảo vệ vững chắc miền Bắc, đưa miền Bắc trở hành hậu phương
chi viện cho tiền tuyến miền Nam sau này, là cơ sở để nhân dân ta giải phóng miền Nam,
thống nhất Tổ quốc.
Kháng chiến chống Pháp thắng lợi một lần nữa khẳng định con đường cách mạng
vô sản và đường lối cứu nước mà Bác đã chọn là con đường đúng đắn, sự lãnh đạo sáng
suốt của Đảng đã đưa nhân dân ta giành được chính quyền và giữ vững chính quyền.
Qua cuộc chiến đấu và thành quả chiến thắng, Đảng ta, nhân dân ta, quân đội ta,
cả dân tộc ta và mỗi người Việt Nam được rèn luyện cả về phẩm chất và tài năng, càng
nhận thức sâu sắc hơn, đúng đắn hơn vị trí, khả năng và sức mạnh của mình trong thời đại
mới, nâng cao hơn tinh thần đoàn kết và nâng cao ý thức giữ vững chủ quyền lãnh thổ đất
nước, nối tiếp tinh thần truyền thống bất khuất, anh dũng của dân tộc ta
Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Pháp cứu nước đã nâng cao uy tín của Việt
Nam trong mắt bạn bè quốc tế, cũng như nâng cao vị thế chính trị của Việt Nam trên thế
giới lên một tầm cao mới, đánh dấu sự phát triển và trưởng thành mạnh mẽ của lực lượng vũ
trang nhân dân, thắng lợi vẻ vang của cuộc kháng chiến là niềm tự hào của mỗi người dân
trong thế kỷ XX và mai sau.
33
2.2. Đối với thế giới:
Thắng lợi của cuộc kháng chiến đã giáng một đòn nặng nề vào tham vọng xâm
lược, âm mưu nô dịch của chủ nghĩa đế quốc sau Chiến tranh thế giới thứ hai, góp phần
làm sụp đổ chủ nghĩa thực dân cũ mà trước hết là làm tan rã hệ thống thuộc địa của thực dân
Pháp.
Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Pháp, cứu nước của nhân dân ta là một
thắng lợi tiêu biểu của lực lượng cách mạng thế giới, góp phần thúc đẩy mạnh mẽ cuộc
đấu tranh của nhân dân thế giới vì độc lập, hòa bình, dân chủ và tiến bộ xã hội, và làm sáng
tỏ tính hiện thực, tính phổ biến của xu thế phát triển của loài người tiến bộ.
Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đã góp phần động viên cổ vũ
mạnh mẽ phong trào giải phóng dân tộc ở các nước châu Á, châu Phi và khu vực Mĩ
Latinh, các dân tộc dũng cảm, kiên cường giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa
xã hội, thực hiện công cuộc giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người.
Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, cứu nước đã nêu bật một
chân lý: Một dân tộc nước không rộng, người không đông, kinh tế kém phát triển, song dân
tộc ta đã đoàn kết chặt chẽ và đấu tranh kiên quyết dưới sự lãnh đạo của Đảng cùng với
đường lối và phương pháp cách mạng đúng đắn, nhân dân ta đã đứng lên nắm vững ngọn cờ
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, kết hợp chặt chẽ sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời
đại mang đến thắng lợi vẻ vang lẫy lừng.
3. Bài học kinh nghiệm:
Thắng lợi của cuộc kháng chiến đã ghi nhận sự phát triển và thành công trong lãnh đạo,
chỉ đạo chiến tranh giải phóng dân tộc của Đảng Lao động Việt Nam và để lại nhiều bài học,
kinh nghiệm quý báu.
Một là, đề ra đường lối đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với thực tiễn lịch sử của cuộc
kháng chiến ngay từ những ngày đầu. Đường lối cơ bản là “kháng chiến và kiến quốc”;
kháng chiến toàn dân, toàn diện, tự lực cánh sinh là chính. Kết hợp sức mạnh nội lực của
nhân dân Việt Nam với việc tranh thủ tối đa những điều kiện thuận lợi của quốc tế, phát huy
có hiệu quả cao nhất sự ủng hộ, giúp đỡ của các lực lượng dân chủ, tiến bộ đối với cuộc
kháng chiến.
Hai là, kết hợp chặt chẽ và giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ cơ
bản vừa kháng chiến vừa kiến quốc, chống đế quốc và chống phong kiến. Kháng chiến
34
toàn diện trên các mặt trận, các lĩnh vực cả kinh tế, văn hóa, xã hội, cải thiện đời sống nhân
dân, đồng thời ưu tiên đẩy mạnh hoạt động quân sự đưa cuộc kháng chiến đến thắng lợi
quyết định. Kết hợp nhuần nhuyễn hình thức đấu tranh trên các mặt trận, lấy quân sự làm
nòng cốt, lấy xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân làm chỗ dựa, nền tảng để củng cố phát
triển cơ sở hạ tầng chính trị-xã hội vững chắc, phát huy hiệu lực, hiệu quả sự lãnh đạo và tổ
chức cuộc kháng chiến của Đảng, Chính phủ trên thực tế
Ba là, ngày càng hoàn thiện phương thức lãnh đạo, tổ chức điều hành cuộc kháng
chiến phù hợp với đặc thù của từng giai đoạn. Phát triển các loại hình chiến tranh đúng
đắn, sáng tạo phù hợp với đặc điểm của cuộc kháng chiến và so sánh lực lượng ta địch, đó là
loại hình chiến tranh nhân dân, toàn dân, toàn diện. Kết hợp chiến tranh chính quy với chiến
tranh du kích ở cả mặt trận chính diện và vùng sau lưng địch, vùng tạm bị chiếm. Phát huy
sở trường của ta và cách đánh địch sáng tạo, linh hoạt kết hợp với chỉ đạo chiến thuật tác
chiến linh hoạt, cơ động, “đánh chắc, tiến chắc, chắc thắng”, thắng từng bước tiến lên giành
thắng lợi quyết định.
Bốn là, xây dựng và phát triển lực lượng vũ trang ba thứ quân: Bộ đội chủ lực, bộ
đội địa phương, dân quân du kích một cách thích hợp, đáp ứng kịp thời yêu cầu của nhiệm
vụ chính trị-quân sự của cuộc kháng chiến. Xây dựng mô hình tổ chức bộ máy, con người
lực lượng vũ trang, nhất là Quân đội Nhân dân, Công an Nhân dân một cách đúng đắn, thích
hợp. Xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân trước hết và quan trọng nhất là về tư tưởng-
chính trị, trở thành công cụ chuyên chính sắc bén, tin cậy, làm mũi nhọn, nòng cốt cho
kháng chiến, làm chỗ dựa cho toàn dân đánh giặc.
Năm là, coi trọng công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng; nâng cao vai trò lãnh đạo
toàn diện của Đảng đối với cuộc kháng chiến trên tất cả mọi lĩnh vực, mặt trận. Xây
dựng, bồi đắp hình ảnh, uy tín của Đảng và Chính phủ phải bằng hành động thực tế, bằng sự
nêu gương và vai trò tiên phong của các tổ chức đảng và đội ngũ cán bộ, đảng viên trong quá
trình tổ chức cuộc kháng chiến ở cả căn cứ vào địa-hậu phương và vùng bị địch tạm chiếm.
Hết sức chú trọng công tác tuyên truyền, giáo dục, động viên cao nhất, nhiều nhất mọi nguồn
lực vật chất trong nhân dân, phát huy cao độ tinh thần, nghị lực của nhân dân; củng cố lòng
tin vững chắc của nhân dân đối với thắng lợi cuối cùng của cuộc kháng chiến.
35
KẾT LUẬN
Có thể khẳng định rằng, Toàn quốc kháng chiến đã đi vào lịch sử dân tộc như một mốc
son chói lọi về tinh thần yêu nước, ý chí kiên cường của nhân dân Việt Nam.
Đường lối kháng chiến toàn dân là nguyên nhân cơ bản, quyết định thắng lợi của cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp. Đó là sự kết hợp nhuần nhuyễn những nguyên lý cơ bản
về chiến tranh cách mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin với truyền thống, tinh hoa và nghệ thuật
đánh giặc giữ nước của ông cha ta để đưa kháng chiến đến thắng lợi vẻ vang. Đỉnh cao là
chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ vang dội năm châu, giải phóng miền Bắc, tạo điều kiện cơ
bản để hoàn thành nhiệm vụ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Đảng lãnh đạo thắng lợi
cuộc kháng chiến chống Pháp có ý nghĩa không chỉ với nước ta mà còn đối với phong trào
giải phóng dân tộc trên thế giới.
Đánh giá về ý nghĩa lịch sử của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, Hồ
Chí Minh nói: “Lần đầu tiên trong lịch sử, một nước thuộc địa nhỏ yếu đã đánh thắng một
nước thực dân hùng mạnh. Đó cũng là một thắng lợi vẻ vang của nhân dân Việt Nam, đồng
thời cũng là một thắng lợi vẻ vang của các lực lượng hòa bình, dân chủ và chủ nghĩa xã hội
trên thế giới”.
LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên, nhóm em xin chân thành cảm ơn chân thành đến cô Đinh Thị Điều. Trong
quá trình học tập và tìm hiểu bộ môn Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, chúng em đã nhận
được sự quan tâm giúp đỡ, hướng dẫn rất tận tình, tâm huyết của cô. Cô đã giúp chúng em
tích lũy thêm nhiều kiến thức để có cái nhìn sâu sắc và hoàn thiện hơn về Đảng ta. Từ những
kiến thức cô đã truyền tải, chúng em đã rút ra nhiều bài học về lý luận và phong cách làm
việc từ Đảng áp dụng vào cuộc sống. Thông qua bài tiểu luận này, chúng em xin trình bày
lại những gì mình đã tìm hiểu về vấn đề cô giao cho.
Có lẽ kiến thức là vô hạn mà sự tiếp nhận kiến thức của mỗi bản thân mỗi người luôn
tồn tại những hạn chế nhất định. Do đó, trong quá trình hoàn thành bài tiểu luận, chắc chắn
không tránh khỏi những thiếu sót. Bản thân chúng em rất mong nhận được những góp ý đến
từ cô để bài tiểu luận của chúng em được hoàn thiện hơn.
Kính chúc cô sức khỏe và thành công trong công việc!
Nhóm 4
36
Lớp học phần: 211DL0601
Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình môn học Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam;
2. https://truongchinhtri.edu.vn/home/thong-tin-nghien-cuu-trao-doi/sach-luoc-hoa-hoan-
nhan-nhuong-voi-ke-thu-trong-giai-doan-1945-1946-mot-chu-truong-lon-co-y-nghia-chien-
luoc-quyet-dinh-cua-cach-mang-viet-nam-1330.html;
3. http://luanan.nlv.gov.vn/luanan?a=d&d=TTkGBCjDpnda1995.1.13
4. https://nguoikesu.com/dong-lich-su/viet-nam-dan-chu-cong-hoa/khang-chien-chong-
phap/nhung-nam-dau-toan-quoc-khang-chien-chong-thuc-dan-phap
5. https://nguoikesu.com/dong-lich-su/viet-nam-dan-chu-cong-hoa/khang-chien-chong-
phap/cuoc-khang-chien-chong-thuc-dan-phap-ket-thuc

More Related Content

What's hot

Đường lối Cách mạng đảng CSVN 1939-1945
Đường lối Cách mạng đảng CSVN 1939-1945Đường lối Cách mạng đảng CSVN 1939-1945
Đường lối Cách mạng đảng CSVN 1939-1945mikado3f
 
Ngân hàng câu hỏi trắc nghiệm tư tưởng hcm
Ngân hàng câu hỏi trắc nghiệm tư tưởng hcmNgân hàng câu hỏi trắc nghiệm tư tưởng hcm
Ngân hàng câu hỏi trắc nghiệm tư tưởng hcmNguyen_Anh_Nguyet
 
so sánh cương lĩnh tháng 2 và cương lĩnh tháng 10
so sánh cương lĩnh tháng 2 và cương lĩnh tháng 10so sánh cương lĩnh tháng 2 và cương lĩnh tháng 10
so sánh cương lĩnh tháng 2 và cương lĩnh tháng 10nuna_l0v3_rain
 
tư tưởng hồ chí minh về đại đoàn kết dân tộc và đoàn kết quốc tế
tư tưởng hồ chí minh về đại đoàn kết dân tộc và đoàn kết quốc tếtư tưởng hồ chí minh về đại đoàn kết dân tộc và đoàn kết quốc tế
tư tưởng hồ chí minh về đại đoàn kết dân tộc và đoàn kết quốc tếthapxu
 
Chương VII tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa
Chương VII  tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóaChương VII  tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa
Chương VII tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóale hue
 
Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và cách mạng giải phóng dân tộc - TẢI ...
Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và cách mạng giải phóng dân tộc - TẢI ...Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và cách mạng giải phóng dân tộc - TẢI ...
Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và cách mạng giải phóng dân tộc - TẢI ...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
so sánh cương lĩnh chính trị tháng 2 với luận cương chính trị tháng 10
so sánh cương lĩnh chính trị tháng 2 với luận cương chính trị tháng 10so sánh cương lĩnh chính trị tháng 2 với luận cương chính trị tháng 10
so sánh cương lĩnh chính trị tháng 2 với luận cương chính trị tháng 10thapxu
 
Đường lối kháng chiến chống mỹ cứu nước, thống nhất tổ quốc (1954 1975)
Đường lối kháng chiến chống mỹ cứu nước, thống nhất tổ quốc (1954 1975)Đường lối kháng chiến chống mỹ cứu nước, thống nhất tổ quốc (1954 1975)
Đường lối kháng chiến chống mỹ cứu nước, thống nhất tổ quốc (1954 1975)akirahitachi
 
Slide thuyết trình - Tư tưởng Hồ Chí Minh
Slide thuyết trình - Tư tưởng Hồ Chí MinhSlide thuyết trình - Tư tưởng Hồ Chí Minh
Slide thuyết trình - Tư tưởng Hồ Chí MinhNgọc Hưng
 
Luận cương chính trị 10/1930 - Giải quyết hạn chế & Phát triển
Luận cương chính trị 10/1930 - Giải quyết hạn chế & Phát triểnLuận cương chính trị 10/1930 - Giải quyết hạn chế & Phát triển
Luận cương chính trị 10/1930 - Giải quyết hạn chế & Phát triểnHo Quang Thanh
 
De cuong bai giang mon duong loi cach mang cua dang cong san viet nam 2
De cuong bai giang mon duong loi cach mang cua dang cong san viet nam 2De cuong bai giang mon duong loi cach mang cua dang cong san viet nam 2
De cuong bai giang mon duong loi cach mang cua dang cong san viet nam 2Vinh Xuân
 
56 câu hỏi tự luận và đáp án môn Tư tưởng Hồ Chí Minh
56 câu hỏi tự luận và đáp án môn Tư tưởng Hồ Chí Minh 56 câu hỏi tự luận và đáp án môn Tư tưởng Hồ Chí Minh
56 câu hỏi tự luận và đáp án môn Tư tưởng Hồ Chí Minh Phước Nguyễn
 
đườNg lối kháng chiến chống thực dân pháp
đườNg lối kháng chiến chống thực dân phápđườNg lối kháng chiến chống thực dân pháp
đườNg lối kháng chiến chống thực dân phápLớp kế toán trưởng
 
Tiểu luận ý nghĩa lịch sử ra đời đảng cộng sản việt nam
Tiểu luận ý nghĩa lịch sử ra đời đảng cộng sản việt namTiểu luận ý nghĩa lịch sử ra đời đảng cộng sản việt nam
Tiểu luận ý nghĩa lịch sử ra đời đảng cộng sản việt namHeli Sama
 
C2.tthcm về vấn đề dân tộc và cmgpdt
C2.tthcm về vấn đề dân tộc và cmgpdtC2.tthcm về vấn đề dân tộc và cmgpdt
C2.tthcm về vấn đề dân tộc và cmgpdtSusutryoh
 
So sánh nội dung của bản Luận cương tháng 10/1930 với bản Cương lĩnh chính tr...
So sánh nội dung của bản Luận cương tháng 10/1930 với bản Cương lĩnh chính tr...So sánh nội dung của bản Luận cương tháng 10/1930 với bản Cương lĩnh chính tr...
So sánh nội dung của bản Luận cương tháng 10/1930 với bản Cương lĩnh chính tr...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Chương 3,ttuong
Chương 3,ttuongChương 3,ttuong
Chương 3,ttuongmai_mai_yb
 
20 câu hỏi ôn tập môn đường lối cách mạng của đảng cộng sản việt nam
20 câu hỏi ôn tập môn đường lối cách mạng của đảng cộng sản việt nam20 câu hỏi ôn tập môn đường lối cách mạng của đảng cộng sản việt nam
20 câu hỏi ôn tập môn đường lối cách mạng của đảng cộng sản việt namhanghpu
 
Tthcm chương 5
Tthcm chương 5Tthcm chương 5
Tthcm chương 5thuyettrinh
 

What's hot (20)

Đường lối Cách mạng đảng CSVN 1939-1945
Đường lối Cách mạng đảng CSVN 1939-1945Đường lối Cách mạng đảng CSVN 1939-1945
Đường lối Cách mạng đảng CSVN 1939-1945
 
Ngân hàng câu hỏi trắc nghiệm tư tưởng hcm
Ngân hàng câu hỏi trắc nghiệm tư tưởng hcmNgân hàng câu hỏi trắc nghiệm tư tưởng hcm
Ngân hàng câu hỏi trắc nghiệm tư tưởng hcm
 
so sánh cương lĩnh tháng 2 và cương lĩnh tháng 10
so sánh cương lĩnh tháng 2 và cương lĩnh tháng 10so sánh cương lĩnh tháng 2 và cương lĩnh tháng 10
so sánh cương lĩnh tháng 2 và cương lĩnh tháng 10
 
tư tưởng hồ chí minh về đại đoàn kết dân tộc và đoàn kết quốc tế
tư tưởng hồ chí minh về đại đoàn kết dân tộc và đoàn kết quốc tếtư tưởng hồ chí minh về đại đoàn kết dân tộc và đoàn kết quốc tế
tư tưởng hồ chí minh về đại đoàn kết dân tộc và đoàn kết quốc tế
 
Chương VII tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa
Chương VII  tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóaChương VII  tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa
Chương VII tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa
 
Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và cách mạng giải phóng dân tộc - TẢI ...
Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và cách mạng giải phóng dân tộc - TẢI ...Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và cách mạng giải phóng dân tộc - TẢI ...
Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và cách mạng giải phóng dân tộc - TẢI ...
 
so sánh cương lĩnh chính trị tháng 2 với luận cương chính trị tháng 10
so sánh cương lĩnh chính trị tháng 2 với luận cương chính trị tháng 10so sánh cương lĩnh chính trị tháng 2 với luận cương chính trị tháng 10
so sánh cương lĩnh chính trị tháng 2 với luận cương chính trị tháng 10
 
Đề cương đường lối
Đề cương đường lối Đề cương đường lối
Đề cương đường lối
 
Đường lối kháng chiến chống mỹ cứu nước, thống nhất tổ quốc (1954 1975)
Đường lối kháng chiến chống mỹ cứu nước, thống nhất tổ quốc (1954 1975)Đường lối kháng chiến chống mỹ cứu nước, thống nhất tổ quốc (1954 1975)
Đường lối kháng chiến chống mỹ cứu nước, thống nhất tổ quốc (1954 1975)
 
Slide thuyết trình - Tư tưởng Hồ Chí Minh
Slide thuyết trình - Tư tưởng Hồ Chí MinhSlide thuyết trình - Tư tưởng Hồ Chí Minh
Slide thuyết trình - Tư tưởng Hồ Chí Minh
 
Luận cương chính trị 10/1930 - Giải quyết hạn chế & Phát triển
Luận cương chính trị 10/1930 - Giải quyết hạn chế & Phát triểnLuận cương chính trị 10/1930 - Giải quyết hạn chế & Phát triển
Luận cương chính trị 10/1930 - Giải quyết hạn chế & Phát triển
 
De cuong bai giang mon duong loi cach mang cua dang cong san viet nam 2
De cuong bai giang mon duong loi cach mang cua dang cong san viet nam 2De cuong bai giang mon duong loi cach mang cua dang cong san viet nam 2
De cuong bai giang mon duong loi cach mang cua dang cong san viet nam 2
 
56 câu hỏi tự luận và đáp án môn Tư tưởng Hồ Chí Minh
56 câu hỏi tự luận và đáp án môn Tư tưởng Hồ Chí Minh 56 câu hỏi tự luận và đáp án môn Tư tưởng Hồ Chí Minh
56 câu hỏi tự luận và đáp án môn Tư tưởng Hồ Chí Minh
 
đườNg lối kháng chiến chống thực dân pháp
đườNg lối kháng chiến chống thực dân phápđườNg lối kháng chiến chống thực dân pháp
đườNg lối kháng chiến chống thực dân pháp
 
Tiểu luận ý nghĩa lịch sử ra đời đảng cộng sản việt nam
Tiểu luận ý nghĩa lịch sử ra đời đảng cộng sản việt namTiểu luận ý nghĩa lịch sử ra đời đảng cộng sản việt nam
Tiểu luận ý nghĩa lịch sử ra đời đảng cộng sản việt nam
 
C2.tthcm về vấn đề dân tộc và cmgpdt
C2.tthcm về vấn đề dân tộc và cmgpdtC2.tthcm về vấn đề dân tộc và cmgpdt
C2.tthcm về vấn đề dân tộc và cmgpdt
 
So sánh nội dung của bản Luận cương tháng 10/1930 với bản Cương lĩnh chính tr...
So sánh nội dung của bản Luận cương tháng 10/1930 với bản Cương lĩnh chính tr...So sánh nội dung của bản Luận cương tháng 10/1930 với bản Cương lĩnh chính tr...
So sánh nội dung của bản Luận cương tháng 10/1930 với bản Cương lĩnh chính tr...
 
Chương 3,ttuong
Chương 3,ttuongChương 3,ttuong
Chương 3,ttuong
 
20 câu hỏi ôn tập môn đường lối cách mạng của đảng cộng sản việt nam
20 câu hỏi ôn tập môn đường lối cách mạng của đảng cộng sản việt nam20 câu hỏi ôn tập môn đường lối cách mạng của đảng cộng sản việt nam
20 câu hỏi ôn tập môn đường lối cách mạng của đảng cộng sản việt nam
 
Tthcm chương 5
Tthcm chương 5Tthcm chương 5
Tthcm chương 5
 

Similar to Lịch sử Đảng

Chuong trinh GTLSD (khong chuyen) Chương 2.pdf
Chuong trinh GTLSD (khong chuyen) Chương 2.pdfChuong trinh GTLSD (khong chuyen) Chương 2.pdf
Chuong trinh GTLSD (khong chuyen) Chương 2.pdfTranLy59
 
15-cau-hoi-on-tap-mon-lich-su-dang191.pdf
15-cau-hoi-on-tap-mon-lich-su-dang191.pdf15-cau-hoi-on-tap-mon-lich-su-dang191.pdf
15-cau-hoi-on-tap-mon-lich-su-dang191.pdfHoaNguynTh48
 
Hoàn cảnh lịch sử, chủ trương và biện pháp để bảo vệ chính quyền cách mạng no...
Hoàn cảnh lịch sử, chủ trương và biện pháp để bảo vệ chính quyền cách mạng no...Hoàn cảnh lịch sử, chủ trương và biện pháp để bảo vệ chính quyền cách mạng no...
Hoàn cảnh lịch sử, chủ trương và biện pháp để bảo vệ chính quyền cách mạng no...nataliej4
 
Tiểu luận Lịch Sử Đảng Cộng Sản Việt Nam về vấn đề giải phóng dân tộc
Tiểu luận Lịch Sử Đảng Cộng Sản Việt Nam về vấn đề giải phóng dân tộcTiểu luận Lịch Sử Đảng Cộng Sản Việt Nam về vấn đề giải phóng dân tộc
Tiểu luận Lịch Sử Đảng Cộng Sản Việt Nam về vấn đề giải phóng dân tộcDịch vụ Làm Luận Văn 0936885877
 
Duong loi khang chien chong thuc dan Phap xam luoc (1946 - 1954)
Duong loi khang chien chong thuc dan Phap xam luoc (1946 - 1954)Duong loi khang chien chong thuc dan Phap xam luoc (1946 - 1954)
Duong loi khang chien chong thuc dan Phap xam luoc (1946 - 1954)jangvi
 
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM RA ĐỜI QUÁ TRÌNH SÀNG LỌC NGHIÊM KHẮC CỦA LỊCH SỬ & DÂ...
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM RA ĐỜI QUÁ TRÌNH SÀNG LỌC NGHIÊM KHẮC CỦA LỊCH SỬ & DÂ...ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM RA ĐỜI QUÁ TRÌNH SÀNG LỌC NGHIÊM KHẮC CỦA LỊCH SỬ & DÂ...
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM RA ĐỜI QUÁ TRÌNH SÀNG LỌC NGHIÊM KHẮC CỦA LỊCH SỬ & DÂ...Ho Quang Thanh
 
Nguồn gốc tu tuong ho chi minh
Nguồn gốc tu tuong ho chi minhNguồn gốc tu tuong ho chi minh
Nguồn gốc tu tuong ho chi minhVũ Thanh
 
Tiểu luận Chủ trương “kháng chiến – kiến quốc” của trung ương đảng ngày 25111...
Tiểu luận Chủ trương “kháng chiến – kiến quốc” của trung ương đảng ngày 25111...Tiểu luận Chủ trương “kháng chiến – kiến quốc” của trung ương đảng ngày 25111...
Tiểu luận Chủ trương “kháng chiến – kiến quốc” của trung ương đảng ngày 25111...nataliej4
 
Lich su viet_nam[1]
Lich su viet_nam[1]Lich su viet_nam[1]
Lich su viet_nam[1]Wild Wolf
 
ĐỀ CƯƠNG ÔN TẬP LỊCH SỬ ĐẢNG.docx
ĐỀ CƯƠNG ÔN TẬP LỊCH SỬ ĐẢNG.docxĐỀ CƯƠNG ÔN TẬP LỊCH SỬ ĐẢNG.docx
ĐỀ CƯƠNG ÔN TẬP LỊCH SỬ ĐẢNG.docxThyTrn607023
 
Tu tuonghcm tu tuong hcm 1921 1930
Tu tuonghcm tu tuong hcm 1921 1930Tu tuonghcm tu tuong hcm 1921 1930
Tu tuonghcm tu tuong hcm 1921 1930wormblack
 
20cuhintpmnnglicchmngcangcngsnvitnam 120807193754-phpapp02
20cuhintpmnnglicchmngcangcngsnvitnam 120807193754-phpapp0220cuhintpmnnglicchmngcangcngsnvitnam 120807193754-phpapp02
20cuhintpmnnglicchmngcangcngsnvitnam 120807193754-phpapp02Đôn Vũ
 
20cuhintpmnnglicchmngcangcngsnvitnam 120807193754-phpapp02
20cuhintpmnnglicchmngcangcngsnvitnam 120807193754-phpapp0220cuhintpmnnglicchmngcangcngsnvitnam 120807193754-phpapp02
20cuhintpmnnglicchmngcangcngsnvitnam 120807193754-phpapp02Đôn Vũ
 
Đường lối chống thực dân pháp xâm lược
Đường lối chống thực dân pháp xâm lượcĐường lối chống thực dân pháp xâm lược
Đường lối chống thực dân pháp xâm lượcĐào Trần
 

Similar to Lịch sử Đảng (20)

Chuong trinh GTLSD (khong chuyen) Chương 2.pdf
Chuong trinh GTLSD (khong chuyen) Chương 2.pdfChuong trinh GTLSD (khong chuyen) Chương 2.pdf
Chuong trinh GTLSD (khong chuyen) Chương 2.pdf
 
15-cau-hoi-on-tap-mon-lich-su-dang191.pdf
15-cau-hoi-on-tap-mon-lich-su-dang191.pdf15-cau-hoi-on-tap-mon-lich-su-dang191.pdf
15-cau-hoi-on-tap-mon-lich-su-dang191.pdf
 
Hoàn cảnh lịch sử, chủ trương và biện pháp để bảo vệ chính quyền cách mạng no...
Hoàn cảnh lịch sử, chủ trương và biện pháp để bảo vệ chính quyền cách mạng no...Hoàn cảnh lịch sử, chủ trương và biện pháp để bảo vệ chính quyền cách mạng no...
Hoàn cảnh lịch sử, chủ trương và biện pháp để bảo vệ chính quyền cách mạng no...
 
Ý nghĩa sự ra đời của Đảng Cộng Sản Việt Nam
Ý nghĩa sự ra đời của Đảng Cộng Sản Việt Nam Ý nghĩa sự ra đời của Đảng Cộng Sản Việt Nam
Ý nghĩa sự ra đời của Đảng Cộng Sản Việt Nam
 
Tu tuong
Tu tuongTu tuong
Tu tuong
 
Bài 1
Bài 1Bài 1
Bài 1
 
Tiểu luận Lịch Sử Đảng Cộng Sản Việt Nam về vấn đề giải phóng dân tộc
Tiểu luận Lịch Sử Đảng Cộng Sản Việt Nam về vấn đề giải phóng dân tộcTiểu luận Lịch Sử Đảng Cộng Sản Việt Nam về vấn đề giải phóng dân tộc
Tiểu luận Lịch Sử Đảng Cộng Sản Việt Nam về vấn đề giải phóng dân tộc
 
Duong loi khang chien chong thuc dan Phap xam luoc (1946 - 1954)
Duong loi khang chien chong thuc dan Phap xam luoc (1946 - 1954)Duong loi khang chien chong thuc dan Phap xam luoc (1946 - 1954)
Duong loi khang chien chong thuc dan Phap xam luoc (1946 - 1954)
 
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM RA ĐỜI QUÁ TRÌNH SÀNG LỌC NGHIÊM KHẮC CỦA LỊCH SỬ & DÂ...
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM RA ĐỜI QUÁ TRÌNH SÀNG LỌC NGHIÊM KHẮC CỦA LỊCH SỬ & DÂ...ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM RA ĐỜI QUÁ TRÌNH SÀNG LỌC NGHIÊM KHẮC CỦA LỊCH SỬ & DÂ...
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM RA ĐỜI QUÁ TRÌNH SÀNG LỌC NGHIÊM KHẮC CỦA LỊCH SỬ & DÂ...
 
DCSVN
DCSVNDCSVN
DCSVN
 
Nguồn gốc tu tuong ho chi minh
Nguồn gốc tu tuong ho chi minhNguồn gốc tu tuong ho chi minh
Nguồn gốc tu tuong ho chi minh
 
Tiểu luận Chủ trương “kháng chiến – kiến quốc” của trung ương đảng ngày 25111...
Tiểu luận Chủ trương “kháng chiến – kiến quốc” của trung ương đảng ngày 25111...Tiểu luận Chủ trương “kháng chiến – kiến quốc” của trung ương đảng ngày 25111...
Tiểu luận Chủ trương “kháng chiến – kiến quốc” của trung ương đảng ngày 25111...
 
Lich su viet_nam[1]
Lich su viet_nam[1]Lich su viet_nam[1]
Lich su viet_nam[1]
 
ĐỀ CƯƠNG ÔN TẬP LỊCH SỬ ĐẢNG.docx
ĐỀ CƯƠNG ÔN TẬP LỊCH SỬ ĐẢNG.docxĐỀ CƯƠNG ÔN TẬP LỊCH SỬ ĐẢNG.docx
ĐỀ CƯƠNG ÔN TẬP LỊCH SỬ ĐẢNG.docx
 
Thi
ThiThi
Thi
 
Duong loi dang csvn
Duong loi dang csvnDuong loi dang csvn
Duong loi dang csvn
 
Tu tuonghcm tu tuong hcm 1921 1930
Tu tuonghcm tu tuong hcm 1921 1930Tu tuonghcm tu tuong hcm 1921 1930
Tu tuonghcm tu tuong hcm 1921 1930
 
20cuhintpmnnglicchmngcangcngsnvitnam 120807193754-phpapp02
20cuhintpmnnglicchmngcangcngsnvitnam 120807193754-phpapp0220cuhintpmnnglicchmngcangcngsnvitnam 120807193754-phpapp02
20cuhintpmnnglicchmngcangcngsnvitnam 120807193754-phpapp02
 
20cuhintpmnnglicchmngcangcngsnvitnam 120807193754-phpapp02
20cuhintpmnnglicchmngcangcngsnvitnam 120807193754-phpapp0220cuhintpmnnglicchmngcangcngsnvitnam 120807193754-phpapp02
20cuhintpmnnglicchmngcangcngsnvitnam 120807193754-phpapp02
 
Đường lối chống thực dân pháp xâm lược
Đường lối chống thực dân pháp xâm lượcĐường lối chống thực dân pháp xâm lược
Đường lối chống thực dân pháp xâm lược
 

Lịch sử Đảng

  • 1. 1 ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP.HCM TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - LUẬT ---------- BÀI TIỂU LUẬN GIỮA KỲ MÔN: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam Đề tài: Phân tích làm rõ nội dung đƣờng lối kháng chiến chống thực dân Pháp trong giai đoạn 1945 - 1954 và ý nghĩa thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Giảng viên: Đinh Thị Điều Nhóm sinh viên thực hiện: Nhóm 04 Năm học: 2021 - 2022
  • 2. 2 Bảng 1. Danh sách thành viên nhóm 04 STT Họ và tên MSSV 1 Nguyễn Lê Hồng Loan K204020041 2 Bùi Thị Ái Vy K204020068 3 Trương Thị Ái K204020958 4 Trần Thị Hoài Thương K204020990 5 Nguyễn Thị Ngọc Trân K204020993 6 Nguyễn Thị Diễm K204041132 7 Nguyễn Thị Điệp K204041154 8 Phạm Thị Kiều My K204041169 9 Trần Thị Thanh Ngân K204041175 10 Huỳnh Thị Diễm Quỳnh K204041186 11 Phạm Thị Thanh Tâm K204041191
  • 3. 3 LỜI NÓI ĐẦU.....................................................................................................................6 I. HOÀN CẢNH LỊCH SỬ:................................................................................................7 1. Tình hình cách mạng Việt Nam sau Cách mạng tháng Tám: .....................................7 1.1. Thuận lợi:...............................................................................................................7 1.2. Khó khăn:...............................................................................................................7 2. Những chủ trương và biện pháp lớn của Đảng:..........................................................8 2.1. Chủ trương của Đảng: ............................................................................................8 2.2. Biện pháp xây dựng và bảo vệ chính quyền:...........................................................9 II. ĐƢỜNG LỐI KHÁNG CHIẾN CHỐNG PHÁP (1945 - 1954):................................12 1. Cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn:................................................................................12 1.1. Cơ sở lý luận:.......................................................................................................12 1.2. Cơ sở thực tiễn: ....................................................................................................12 2. Đường lối kháng chiến toàn quốc và quá trình tổ chức thực hiện từ năm 1946 đến năm 1950:.......................................................................................................................13 2.1. Cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ: ..................................................................13 2.2. Tổ chức, chỉ đạo cuộc kháng chiến từ năm 1947 - 1950:.......................................15 3. Bước phát triển mới của cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp (1951- 1953): .............................................................................................................................17 3.1. Bối cảnh lịch sử và chủ trương của Đảng:.............................................................17 3.2. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II và Chính cương của Đảng (2-1951):............18 3.3. Đẩy mạnh phát triển cuộc kháng chiến về mọi mặt:..............................................22 4. Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp kết thúc (1953-1954):................................25 4.1 Âm mưu mới của đế quốc Pháp - Mĩ ở Đông Dương:............................................25 4.2. Cuộc tiến công chiến lược Đông - Xuân 1953 – 1954 và chiến dịch Điện Biên Phủ ....................................................................................................................................26 4.3. Hiệp định Gionevo - Chiến thắng trên mặt trận ngoại giao. Chấm dứt chiến tranh: ....................................................................................................................................28
  • 4. 4 III. NGUYÊN NHÂN THẮNG LỢI, Ý NGHĨA LỊCH SỬ VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM:..........................................................................................................................30 1. Nguyên nhân thắng lợi: .............................................................................................30 1.1 Nguyên nhân chủ quan:.........................................................................................30 1.2 Nguyên nhân khách quan: .....................................................................................31 2. Ý nghĩa lịch sử: ..........................................................................................................31 2.1. Đối với Việt Nam:................................................................................................32 2.2. Đối với thế giới: ...................................................................................................33 3. Bài học kinh nghiệm:.................................................................................................33 KẾT LUẬN .......................................................................................................................35 LỜI CẢM ƠN ...................................................................................................................35 TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................................36
  • 5.
  • 6. 6 LỜI NÓI ĐẦU Để có được một đất nước Việt Nam phát triển, con người được tự do, sống một cuộc sống yên bình, hạnh phúc như hôm nay là biết bao nhiêu sự hy sinh, xương máu ông cha ta đã đổ xuống. Ngược dòng lịch sự về những năm kháng chiến hào hùng của dân tộc, biết bao trận chiến nổ ra, bao nhiêu lớp người đã nằm xuống để rồi thấy trân quý hơn và tự hào về đất nước, con người Việt Nam “thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”. Một trong những thắng lợi vẻ vang, làm nên những trang sử hào hùng của dân tộc không thể không nhắc đến đó là cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1945 - 1954). Đó là thắng lợi của cuộc kháng chiến chín năm ròng rã chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ kết thúc bằng chiến dịch Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu” của đất nước Việt Nam anh hùng. Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp giành được thắng lợi đã chấm dứt chiến tranh xâm lược và ách thống trị của bọn thực dân Pháp. Mở ra một kỷ nguyên mới trong lịch sử nước ta, đồng thời cũng bắt đầu thời kỳ xây dựng một nền y dược học Việt nam mang tính “dân tộc, khoa học và đại chúng”. Chúng ta chiến thắng là vì đã chọn đúng con đường giải phóng dân tộc - con đường cách mạng vô sản, phát huy được sức mạnh dân tộc và thời đại. Một trong những nhân tố thời đại ấy là sự tác động, chỉ đạo, nhờ vào đường lối kháng chiến đúng đắn, sáng tạo của Đảng. Để hiểu sâu hơn về vấn đề này, chúng ta hãy cùng tìm hiểu về: Đường lối chỉ đạo kháng chiến chống thực dân Pháp của Đảng trong giai đoạn 1945 - 1954.
  • 7. 7 I. HOÀN CẢNH LỊCH SỬ: 1. Tình hình cách mạng Việt Nam sau Cách mạng tháng Tám: Sau ngày tuyên bố độc lập, lịch sử nước Việt Nam bước sang một chặng đường mới với nhiều thuận lợi căn bản và khó khăn chồng chất. 1.1. Thuận lợi: Trên thế giới, chiến tranh thế giới II kết thúc với phần thắng thuộc về Liên Xô và các lực lượng đã tạo điều kiện cho sự ra đời của hàng loạt các nước Dân chủ nhân dân và Xã hội Chủ nghĩa ở châu Âu và châu Á, cùng với Liên Xô trở thành một hệ thống trên thế giới. Phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc có điều kiện phát triển, trở thành một dòng thác cách mạng. Cuộc đấu tranh đòi quyền sống và các quyền tự do, dân chủ của nhân dân các nước tư bản chủ nghĩa diễn ra mạnh mẽ. Tất cả đã tạo thành ba mũi nhọn tấn công vào hệ thống tư bản chủ nghĩa, tạo điều kiện cho cách mạng Việt Nam phát triển. Ở trong nước, nhân dân Việt Nam từ thân phận nô lệ bây giờ đã chính thức đứng lên làm chủ vận mệnh của mình, làm chủ vận mệnh đất nước; toàn dân tin tưởng và ủng hộ Việt Minh, ủng hộ chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch. Ta đã hình thành hệ thống chính quyền cách mạng ra sức phục vụ lợi ích của Tổ quốc, nhân dân. Cách mạng lúc này có sự lãnh đạo sáng suốt, dày dạn kinh nghiệm của Đảng Cộng sản và lãnh tụ Hồ Chí Minh. 1.2. Khó khăn: Ngay sau khi giành được độc lập, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa phải đối mặt với muôn vàn khó khăn. Trên thế giới, các nước đế quốc tìm mọi cách để liên kết với nhau, tập hợp lực lượng để tiêu diệt Liên Xô, các nước xã hội chủ nghĩa và đàn áp phong trào cách mạng thế giới, trong đó có cách mạng Việt Nam. Các nước lớn, không có nước nào ủng hộ lập trường độc lập và công nhận địa vị pháp lý của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Tình hình trong nước, về kinh tế, nông nghiệp nước ta bị chiến tranh tàn phá nặng nề; hậu quả của nạn đói cuối năm 1944 – đầu năm 1945 chưa được khắc phục. Tiếp đến là nạn lũ lụt lớn, làm vỡ đê ở chín tỉnh Bắc Bộ, rồi hạn hán kéo dài, khiến cho nửa tổng số ruộng đất không canh tác được. Công thương nghiệp đình đốn, nạn thất nghiệp lan rộng, hàng hóa khan hiếm, giá cả sinh hoạt đắt đỏ. Trên lĩnh vực văn hóa - xã hội, tàn dư văn hóa lạc hậu
  • 8. 8 của chế độ thực dân, phong kiến để lại hết sức nặng nề, hơn 90% dân số không biết chữ, tệ nạn xã hội như mê tín dị đoan, rượu chè, cờ bạc,…tràn lan. Ngân sách Nhà nước trống rỗng. Ngân hàng Đông Dương vẫn còn nằm trong tay Pháp, bọn Tưởng lại tung ra thị trường các loại tiền Trung Quốc đã mất giá, làm cho nền tài chính nước ta thêm rối loạn. Chính quyền cách mạng vừa mới thành lập, còn non trẻ, chưa được củng cố, lực lượng vũ trang còn non yếu, chưa có kinh nghiệm quản lý Nhà nước. Giặc ngoại xâm và nội phản: Từ vĩ tuyến 16 trở ra Bắc, 20 vạn quân Trung Hoa Dân quốc kéo theo bọn tay sai thuộc các tổ chức phản động (Việt Quốc và Việt Cách), hòng cướp chính quyền mà nhân dân ta đã giành được sau Cách mạng tháng Tám thành công. Từ vĩ tuyến 16 vào Nam, hơn 1 vạn quân Anh kéo vào, dọn đường cho thực dân Pháp trở lại xâm lược nước ta. Bọn phản động trong nước ngóc đầu dậy, làm tay sai cho Pháp, chống phá cách mạng. “Giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm” là những hiểm họa đối với chế độ mới, Việt Nam lúc này như đang trong tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”. 2. Những chủ trƣơng và biện pháp lớn của Đảng: 2.1. Chủ trƣơng của Đảng: Trước tình hình mới, Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sáng suốt phân tích tình thế, dự đoán chiều hướng phát triển của các trào lưu cách mạng trên thế giới và sức mạnh mới của dân tộc để vạch ra chủ trương và giải pháp đấu tranh nhằm giữ vững chính quyền, bảo vệ nền độc lập tự do vừa giành được. Ngày 25/11/1945, Ban Chấp hành Trung ương Đảng ra chỉ thị Kháng chiến kiến quốc, vạch con đường đi lên cho cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới. Nội dung chỉ thị về “Kháng chiến kiến quốc”: Về chỉ đạo chiến lược: Đảng ta xác định tính chất của cách mạng Việt Nam lúc này “là cuộc cách mạng dân tộc giải phóng", khẩu hiệu lúc này là "Dân tộc trên hết, Tổ quốc trên hết", nhưng không phải là giành độc lập mà là giữ vững độc lập. Về xác định kẻ thù: Đảng phân tích âm mưu của các nước đế quốc đối với Đông Dương và chỉ rõ "Kẻ thù chính của ta lúc này là thực dân Pháp xâm lược, phải tập trung ngọn lửa đấu tranh vào chúng". Về mục tiêu: Nêu rõ mục tiêu của cuộc cách mạng Đông Dương lúc này vẫn là “dân tộc giải phóng” và đề ra khẩu hiệu “Dân tộc trên hết, Tổ quốc trên hết”;
  • 9. 9 Về phương hướng: Phương hướng của Đảng lúc này là chủ trương kiên trì theo nguyên tắc “bình đẳng, tương trợ”, “thêm bạn, bớt thù”, thực hiện khẩu hiệu “Hoa - Việt thân thiện” đối với quân Tưởng Giới Thạch, “Độc lập về chính trị, nhân nhượng về kinh tế” đối với Pháp. Về nhiệm vụ: Chỉ thị chỉ rõ bốn nhiệm vụ chủ yếu của cách mạng trong nước là phải củng cố chính quyền, bài trừ nội phản, cải thiện đời sống của nhân dân và đánh đuổi thực dân Pháp xâm lược. Xác định “củng cố về chính quyền là nhiệm vụ quan trọng nhất”. Đường lối “kháng chiến kiến quốc” phản ánh đúng tình thế và yêu cầu của cách mạng nước ta sau Cách mạng tháng Tám. Đó là nhân tố quyết định nhất để cách mạng nước ta vượt qua thử thách hiểm nghèo, vững bước đi lên. 2.2. Biện pháp xây dựng và bảo vệ chính quyền: Cuộc đấu tranh thực hiện chủ trương “Kháng chiến kiến quốc” của Đảng giai đoạn 1945 - 1946 đã diễn ra rất gay go, quyết liệt trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, ngoại giao với những biện pháp thiết thực, phù hợp tình hình. Về chính trị: Xác định một trong những nhiệm vụ cấp thiết, quan trọng hàng đầu của Nhà nước Dân chủ Cộng hòa ngay sau ngày thành lập là tiến hành cuộc tổng tuyển cử bầu Quốc hội để quy định Hiến pháp, bầu Chính phủ chính thức, đồng thời bảo vệ, phát triển những thành quả của cuộc Cách mạng tháng Tám vừa mới giành được. Ngày 6-1-1946 nhân dân tự mình chọn lựa bầu những đại biểu chân chính của mình vào Quốc hội, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Cuộc tổng tuyển cử đã củng cố và tăng cường chính quyền vững mạnh, thực hiện quyền dân chủ cho nhân dân, làm cho thế giới nhận thấy tính hợp pháp, hợp hiến của một chính quyền do nhân dân bầu ra. Bên cạnh đó, Đảng đã chỉ đạo tích cực phát triển các đoàn thể yêu nước, xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc. Các tổ chức quần chúng được củng cố, mở rộng thêm: Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Đảng Xã hội Việt Nam và Mặt trận Liên Việt lần lượt ra đời. Về kinh tế, Đảng và Chính phủ phát động thi đua sản xuất, động viên nhân dân tiết kiệm giúp nhau chống giặc đói. Tiến hành tịch thu ruộng đất của đế quốc, Việt gian chia cho nông dân nghèo. Thực hiện bãi bỏ thuế thân và các thứ thuế vô lý khác của chế độ thực dân;
  • 10. 10 giảm tô 25%, giảm thuế, miễn thuế cho nông dân cùng bị thiên tai. Chủ trương cho mở lại các nhà máy do Nhật để lại, tiến hành khai thác mỏ, khuyến khích kinh doanh, phát hành giấy bạc Việt Nam, thành lập ngân hàng nhà nước. Đảng đã động viên nhân dân tự nguyện đóng góp cho công quỹ hàng chục triệu đồng và hàng trăm kilogam vàng, nền tài chính từng bước được xây dựng. Về văn hóa, Đảng đã vận động xây dựng nền văn hóa mới, xóa bỏ mọi tệ nạn văn hóa nô dịch của thực dân, xóa bỏ các thủ tục lạc hậu; phong trào diệt “giặc dốt”, bình dân học vụ được thực hiện sôi nổi. Ta mở lại các trường lớp và tổ chức khai giảng năm học mới. Cuối năm 1946 cả nước đã có thêm 2,5 triệu người biết đọc, biết viết. Về quân sự, lực lượng vũ trang tập trung được phát triển về mọi mặt: Xây dựng quân đội thường trực; thành lập trường đào tạo cán bộ quân sự; xây dựng công an nhân dân. Từ khi thực dân Pháp nổ súng đánh chiếm Sài Gòn và mở rộng phạm vi chiếm đóng ra các tỉnh Nam bộ, Đảng đã kịp thời lãnh đạo nhân dân Nam bộ đứng lên kháng chiến và phát động phong trào Nam tiến chi viện Nam bộ. Về ngoại giao, thực hiện chính sách ngoại giao thêm bạn bớt thù, tận dụng thời gian xây dựng lực lượng chuẩn bị cho cuộc kháng chiến toàn quốc. Sách lược “Hoa - Việt thân thiện”, hòa hoãn với quân Tưởng Để đối phó với quân Tưởng, Đảng ta và Hồ Chủ tịch đã thực hiện sách lược vừa kiên quyết, vừa mềm dẻo, tránh được trường hợp phải chống nhiều kẻ thù cùng một lúc để tập trung mũi nhọn chống thực dân Pháp, kẻ thù chính của dân tộc ta lúc này. Đảng ta chủ trương “Hoa - Việt thân thiện” để trung lập hóa bọn Tưởng; tạm thời nhân nhượng chúng để giảm bớt khó khăn mà chúng gây nên. Chúng ta chủ trương tránh xung đột với quân Tưởng, nhưng sẵn sàng đối phó bằng cách huy động toàn bộ lực lượng quần chúng đấu tranh, nếu chúng xâm phạm đến chủ quyền của chúng ta. Cụ thể, chúng ta nhân nhượng một số chính sách về kinh tế, chính trị của quân Trung Hoa Dân quốc: tiêu tiền “Quan kim”, “Quốc tệ”, cung cấp một phần lương thực cho chúng, nhường cho các Đảng Việt Quốc, Việt Cách 70 ghế trong Quốc hội không qua bầu cử và một số ghế trong Chính phủ; tuyên bố tự giải tán Đảng nhưng thực chất là đưa Đảng vào hoạt động bí mật. Hòa với Tưởng, ta phá được âm mưu của chúng định dùng vũ lực lật đổ chính quyền cách mạng, lập chính quyền của bọn tay sai. Việc cho bọn tay sai Tưởng tham gia chính quyền nhà nước vừa phá được luận điệu tuyên truyền “Việt Minh, cộng sản độc quyền”, phá
  • 11. 11 được sức ép đòi Chính phủ ta phải từ chức, chúng cũng không thực hiện được ý đồ phá hoại, tiến tới giành chính quyền bằng biện pháp chính trị, ngoại giao. Trái lại, bọn phản động hoàn toàn bất lực, tự lột mặt nạ trước nhân dân và trốn chạy theo đế quốc. Việc Hòa với Tưởng ta có điều kiện để tập trung lực lượng chống Pháp ở miền Nam, cuộc hòa hoãn này đối với Pháp là một bất lợi. Sách lược “Hòa để tiến”, hòa hoãn với Pháp Từ đầu năm 1946, tình hình quốc tế có những biến chuyển mới tác động đến tình hình chính trị Việt Nam. Ngày 28-2-1946, Hiệp ước Hoa - Pháp được ký kết, Tưởng Giới Thạch thuận cho quân Pháp vào thay quân Tưởng ở phía bắc vĩ tuyến 16. Nước ta lại đứng trước một tình thế mới: quân Pháp sớm muộn sẽ ra miền Bắc, trong khi quân Tưởng còn muốn kéo dài thời gian ở Việt Nam. Tình hình đó đặt Đảng ta trước một sự lựa chọn giải pháp đánh hay hoà. Phân tích tình thế, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã quyết định chọn giải pháp hoà hoãn, dàn xếp với Pháp, vì “vấn đề lúc này, không phải là muốn hay không muốn đánh. Vấn đề là biết mình biết người, nhận một cách khách quan những điều kiện lời lãi trong nước và ngoài nước mà chủ trương cho đúng”. Trong hoàn cảnh đó hòa hoãn, nhân nhượng tuy là vấn đề sách lược, nhưng lại là một chủ trương lớn, có ý nghĩa chiến lược. Hòa với Pháp ta phá tan được dã tâm của Tưởng và tay sai định nhân cơ hội ta đánh Pháp để lật đổ chính quyền cách mạng lập chính quyền bù nhìn, chẳng những thế, ta còn loại bỏ được kẻ thù nguy hiểm này. Đối với Pháp, thực hiện hòa hoãn là ta cố tranh thủ khả năng giải quyết quan hệ hai nước bằng hòa bình. Nếu cuộc chiến tranh nổ ra thì ta cũng dành được thời gian chuẩn bị thêm lực lượng. Đảng ta chủ trương hòa với Pháp là “hòa để tiến”. Nguyên tắc căn bản của việc đàm phán giữa ta với Pháp là độc lập và hợp tác với Pháp trên cơ sở bình đẳng. Hiệp định sơ bộ Pháp - Việt ký kết vào 6-3-1946 ghi nhận kết quả của sự hòa hoãn nhân nhượng của hai bên. Hiệp định sơ bộ với các điều khoản chủ yếu: Pháp phải công nhận Việt Nam là một quốc gia tự do, có chính phủ, có nghị viện, quân đội và tài chính riêng nằm trong liên bang Đông Dương thuộc khối Liên hiệp Pháp. Chính phủ Việt Nam đồng ý để Pháp đưa 15.000 quân vào miền Bắc thay thế quân Tưởng, sẽ rút dần trong thời hạn 05 năm. Hai bên thực hiện ngừng bắn ở Nam Bộ, tạo không khí thuận lợi cho việc mở cuộc đàm phán chính thức tiếp theo tại Pa-ri. Hội nghị trù bị Đà Lạt, Hội nghị chính thức Phôngtenblô thất bại là do lập trường thực dân ngoan cố của Pháp. Tạm ước 14 tháng 9 là sự nỗ lực cuối
  • 12. 12 cùng của Chủ tịch Hồ Chí Minh để cứu vãn tình thế, là kế hoãn binh để chuẩn bị thêm lực lượng cho cuộc chiến tranh do thực dân Pháp cố tình gây ra. Đến cuối năm 1946, thực dân Pháp ngang nhiên khiêu chiến, khả năng hòa hoãn đã hết, Đảng ta quyết định cuộc Kháng chiến toàn quốc vào đêm ngày 19 tháng 12 năm 1946. Chúng ta thấy rõ sự lãnh đạo vô cùng sáng suốt và tài tình của Đảng ta và Hồ Chủ tịch, thấy rõ sách lược “hòa để tiến” mà Hồ Chủ tịch khởi xướng, nhằm thêm bạn bớt thù, tập trung mũi nhọn vào kẻ thù chủ yếu (thực dân Pháp), là vô cùng đúng đắn. Sách lược đó đã tạo cho chúng ta có thêm thời gian, tạo được sức mạnh tinh thần, vật chất cho cả dân tộc và lực lượng vũ trang nhân dân bước vào chiến tranh với tư thế của người làm chủ đất nước. II. ĐƢỜNG LỐI KHÁNG CHIẾN CHỐNG PHÁP (1945 - 1954): 1. Cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn: 1.1. Cơ sở lý luận: Theo lý luận Mác- Lênin: Lênin phân loại chiến tranh dựa trên các mâu thuẫn cơ bản của thời đại mới và đã phân chiến tranh thành chiến tranh cách mạng và chiến tranh phản cách mạng hay còn gọi là: chiến tranh chính nghĩa và chiến tranh phi nghĩa. Người xác định thái độ là: giai cấp vô sản cần lên án các cuộc chiến tranh phản cách mạnh, phi nghĩa, ủng hộ các cuộc chiến tranh cách mạng, tự vệ chính nghĩa. Theo tư tưởng Hồ Chí Minh: Chiến tranh Việt Nam là cuộc chiến tranh nhân dân toàn dân, toàn diện, lấy lực lượng vũ trang ba thứ quân làm nòng cốt, dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam; là cuộc chiến tranh chính nghĩa, tự vệ cách mạng, nhằm bảo vệ độc lập tự do của dân tộc, bảo vệ độc lập chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ của đất nước, bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ nhân dân và mọi thành quả của cách mạng. 1.2. Cơ sở thực tiễn: Tình hình thế giới, sau chiến tranh thế giới thứ II, chiến thắng thuộc về Liên xô và quân Đồng minh, làm thay đổi căn bản cục diện của thế giới, mở ra thời kỳ lịch sử mới của nhân loại, xuất hiện trật tự thế giới mới; hệ thống chủ nghĩa do Liên Xô đứng đầu hình thành. Phong trào cách mạng giải phóng dân tộc trên thế giới có điều kiện phát triển. Tình hình trong nước, sau cách mạng Tháng Tám, nước ta là một nước độc lập; cuộc chiến tranh của ta là chiến tranh chính nghĩa bảo vệ độc lập tự do của dân tộc; cuộc kháng chiến diễn ra trong không khí phong trào giải phóng dân tộc đang lên cao trên toàn thế giới;
  • 13. 13 trong khi đó, Pháp cũng đang có nhiều khó khăn về kinh tế chính trị, quân sự trong nước cũng như tại Đông Dương không dễ khắc phục ngay được. 2. Đƣờng lối kháng chiến toàn quốc và quá trình tổ chức thực hiện từ năm 1946 đến năm 1950: 2.1. Cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ: Hành động của thực dân Pháp: Mặc dù đã ký Hiệp định Sơ bộ ngày 6/3 và Tạm ước ngày 14/9/1946, thực dân Pháp vẫn đẩy mạnh việc chuẩn bị chiến tranh xâm lược. Cuối năm 1946, sau khi có thêm viện binh, thực dân Pháp liên tục tiến hành các hành động khiêu khích. Tháng 11/1946, chúng chiếm đóng Hải Phòng, Lạng Sơn, chính thức gây ra cuộc chiến tranh xâm lược miền Bắc. Tại Hà Nội, từ đầu tháng 12/1946, quân Pháp liên tục dùng đại bác, súng cối bắn phá vào nhiều khu phố tàn sát dân thường... đưa quân chiếm một số trụ sở cách mạng. Đặc biệt, ngày 18 và 19/12/1946, thực dân Pháp đã liên tiếp gửi tối hậu thư buộc Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa phải phá bỏ công sự trong thành phố, giải tán lực lượng tự vệ, giao quyền kiểm soát Thủ đô cho chúng. Đảng phát động chiến tranh đúng lúc: Khả năng hòa hoãn đã không còn, nếu hoà hoãn nữa sẽ dẫn đến họa mất nước. Đứng trước tình hình vô cùng cấp bách cùng với âm mưu, hành động xâm lược của kẻ thù, nhân dân Việt Nam không có con đường nào khác là cầm súng chiến đấu để bảo vệ lập, tự do. Ngày 18 và 19/12/1946, Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã họp hội nghị tại Vạn Phúc (Hà Đông), quyết định phát động toàn quốc kháng chiến. Khoảng 20 giờ ngày 19/12/1946, quân dân Thủ đô Hà Nội nổ súng mở đầu kháng chiến toàn quốc. Ngay đêm 19/12/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Trung ương Đảng và Chính phủ ra lời kêu gọi đồng bào, trong đó Người khẳng định rõ: “Chúng ta muốn hòa bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới vì chúng quyết tâm cướp nước ta lần nữa. Không! Chúng ta thà hi sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ!” Đứng trước tình thế vô cùng cấp bách: Mọi khả năng hòa bình không còn nữa, mọi âm mưu xâm lược của thực dân Pháp đã bộc lộ hoàn toàn. Tranh thủ được sự ủng hộ của nhân dân thế giới cùng với sự quyết tâm đánh giặc của nhân dân ta và sự chuẩn bị đầy đủ lực lượng đảm bảo kháng chiến thắng lợi, Đảng đã phát động cuộc kháng chiến toàn dân vô cùng đúng lúc, kịp thời và phù hợp với hoàn cảnh lúc bấy giờ. Từ đó, tạo được thế chủ động
  • 14. 14 chuyển cả nước sang tình trạng chiến tranh; chủ động được về thời gian, thời điểm nổ súng; chủ động về cách đánh và phối hợp giữa các địa phương; chủ động di chuyển kho tàng, vũ khí đến nơi an toàn; chủ động rút lực lượng ra khỏi thành phố an toàn. Khi đất nước ta mới giành được chính quyền chưa được bao lâu thì lại rơi vào tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”, nhưng nhờ Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận định đúng tình hình, đưa ra đường lối đúng đắn, phát động toàn quốc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, giành được thắng lợi vẻ vang. Đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp của Đảng ta được hình thành, bổ sung, phát triển qua thực tiễn cách mạng Việt Nam trong những năm 1945 đến 1947. Nội dung cơ bản của đường lối là: Dựa trên sức mạnh toàn dân, tiến hành kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài và dựa vào sức mình là chính. Đường lối đó được thể hiện trong nhiều văn kiện quan trọng của Đảng, lời kêu gọi, bài viết, bài nói của Chủ tịch Hồ Chí Minh và đồng chí Tổng Bí thư Trường Chinh, trong đó tập trung ở các văn bản: Chỉ thị Kháng chiến kiến quốc (25-11-1945), Chỉ thị Toàn dân kháng chiến (12-12-1946), Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh (19-12-1946),…. Mục tiêu của cuộc kháng chiến là đánh đổ thực dân Pháp xâm lược, giành nền độc lập, tự do, thống nhất hoàn toàn; vì nền tự do dân chủ và góp phần bảo vệ hòa bình thế giới... Nhiệm vụ kháng chiến: chống thực dân Pháp xâm lược và bè lũ phong kiến tay sai. Tính chất kháng chiến: “Cuộc kháng chiến của dân tộc ta là một cuộc chiến tranh cách mạng của nhân dân, chiến tranh chính nghĩa. Nó có tính chất toàn dân, toàn diện và lâu dài”. “Là một cuộc chiến tranh tiến bộ vì tự do, độc lập, dân chủ và hòa bình”. Đó là cuộc kháng chiến có tính chất dân tộc giải phóng, dân chủ mới. Phương châm tiến hành kháng chiến: Tiến hành cuộc chiến tranh nhân dân, thực hiện kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là chính. - Kháng chiến toàn dân là đem toàn bộ sức dân, tài dân, lực dân; động viên toàn dân tích cực tham gia kháng chiến. Xây dựng sự đồng thuận, nhất trí của cả nước, đánh địch ở mọi nơi, mọi lúc, “mỗi người dân là một chiến sĩ, mỗi làng xã là một pháo đài, mỗi đường phố là một mặt trận”. Trong đó Quân đội nhân dân làm nòng cốt cho toàn dân đánh giặc. - Kháng chiến toàn diện là đánh địch trên mọi lĩnh vực, mọi mặt trận không chỉ bằng quân sự mà cả về chính trị, kinh tế, văn hóa, tư tưởng, ngoại giao, trong đó mặt trận quân sự, đấu tranh vũ trang giữ vai trò mũi nhọn, mang tính quyết định. Động viên và phát huy cho
  • 15. 15 được mọi tiềm năng, sức mạnh của dân tộc, mọi nguồn lực vật chất, tinh thần trong nhân dân phục vụ kháng chiến thắng lợi. - Kháng chiến lâu dài là tư tưởng chỉ đạo chiến lược của Đảng. Trường kỳ kháng chiến là một quá trình vừa đánh tiêu hao lực lượng địch vừa xây dựng, phát triển lực lượng ta, từng bước làm chuyển biến so sánh lực lượng trên chiến trường có lợi cho ta; lấy thời gian là lực lượng vật chất để chuyển hóa yếu thành mạnh. Kháng chiến lâu dài nhưng không có nghĩa là kéo dài vô thời hạn mà phải luôn tranh thủ, chớp thời cơ thúc đẩy cuộc kháng chiến có bước nhảy vọt về chất, thắng từng bước để đi đến thắng lợi cuối cùng. - Kháng chiến dựa vào sức mình là chính, là sự kế thừa tư tưởng chiến lược trong chỉ đạo sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc, giành chính quyền của lãnh tụ Hồ Chí Minh. Phải lấy nguồn nội lực của dân tộc, phát huy nguồn sức mạnh vật chất, tinh thần vốn của trong nhân dân ta làm chỗ dựa chủ yếu, nguồn lực chủ yếu của cuộc chiến tranh nhân dân. Trên cơ sở đó, để tìm kiếm, phát huy cao độ và có hiệu quả sự ủng hộ, giúp đỡ tinh thần và vật chất của quốc tế khi có điều kiện. Lấy độc lập, tự chủ về đường lối là yếu tố quan trọng hàng đầu. Triển vọng kháng chiến: mặc dù lâu dài, khó khăn, gian khổ nhưng nhất định thắng lợi. Đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược do Đảng và Chính phủ vạch ra là sự vận dụng tài tình và sáng tạo những nguyên lí của chủ nghĩa Mác - Lênin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam. Đó cũng là sự thừa kế và phát huy ở trình độ cao những kinh nghiệm đấu tranh giữ nước của dân tộc ta. Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến và đường lối kháng chiến của Đảng là hoàn toàn đúng đắn, trở thành ngọn cờ dẫn đường, chỉ lối, động viên toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta tiến lên. Đường lối đó được nhân dân ủng hộ, hưởng ứng trong suốt quá trình kháng chiến và trở thành một nhân tố quan trọng hàng đầu quyết định thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Pháp. 2.2. Tổ chức, chỉ đạo cuộc kháng chiến từ năm 1947 - 1950: Âm mưu của thực dân Pháp sau thất bại tại chiến trường Việt Bắc 1947: Sau thất bại trong cuộc tấn công Việt Bắc, thực dân Pháp buộc phải chuyển sang đánh lâu dài với ta: thay đổi lại việc bố trí lực lượng, thay đổi cách đóng quân, thực hiện âm mưu "Dùng người Việt đánh người Việt", "Lấy chiến tranh nuôi chiến tranh". Trong vùng chiếm
  • 16. 16 đóng, chúng ra sức xây dựng chính quyền bù nhìn và thành lập một đội quân người bản xứ để làm công cụ phục vụ cho cuộc chiến tranh xâm lược. Cùng với việc thành lập chính phủ bù nhìn trung ương, thực dân Pháp tăng cường bộ máy chính quyền tay sai cấp cơ sở. Chúng mở rộng việc đánh chiếm, đánh chiếm tới đâu, chúng tiến hành lập chính quyền bù nhìn tới đó. Nhằm chia rẽ khối đoàn kết dân tộc, thực dân Pháp ráo riết thực hiện chính sách chia để trị; thành lập nhiều tổ chức chính trị, tôn giáo, đảng phái phản động để phá hoại kháng chiến. Như vậy, sau thất bại ở Việt Bắc Thu - đông 1947, thấy rõ cuộc chiến tranh sẽ kéo dài, không thể sớm kết thúc, thực dân Pháp quyết định tập trung lực lượng để bình định, củng cố những vùng đã chiếm đóng, tiếp tục đánh sâu vào vùng nông thôn của ta, mở rộng phạm vi, khống chế phần lớn vùng đồng bằng Bắc Bộ, tuyến ven biển và Nam Trung Bộ. Chủ trương và hoạt động đẩy mạnh của ta ở mọi phương diện: Trước âm mưu và hành động mới của thực dân Pháp, Đảng chủ trương tiếp tục đẩy mạnh cuộc kháng chiến toàn diện để làm thất bại âm mưu kéo dài, mở rộng chiến tranh “lấy chiến tranh nuôi chiến tranh, dùng người Việt đánh người Việt” của thực dân Pháp. Về chính trị, Đảng và Nhà nước chủ trương tăng cường đoàn kết toàn dân, thực hiện quân, dân nhất trí; chống âm mưu chia rẽ của thực dân Pháp, phá tan chính quyền bù nhìn và tay sai; củng cố bộ máy Nhà nước theo hướng tập trung, thống nhất để điều hành công cuộc kháng chiến, kiến quốc. Các Ủy ban kháng chiến hành chính được thành lập; các tổ chức chính trị, xã hội được củng cố nhằm tăng cường đoàn kết, tập hợp đông đảo nhất mọi tầng lớp nhân dân tham gia kháng chiến. Về quân sự, với đường lối chiến tranh nhân dân, Đảng ta chủ trương xây dựng lực lượng vũ trang ba thứ quân: Dân quân, du kích là lực lượng đông đảo nhất, tiếp đó là bộ đội địa phương và trên cùng là bộ đội chủ lực. Dân quân, du kích là lực lượng chủ yếu quyết định sự phát triển mạnh mẽ của phong trào chiến tranh du kích trong cả nước. Lực lượng vũ trang các cấp không ngừng tăng lên về số lượng và trang bị. Lực lượng quân giới đã khắc phục khó khăn, với tinh thần dũng cảm, tự lực, tự cường và sự sáng tạo đã chế tạo nhiều vũ khí để tiêu diệt địch. Về kinh tế, nhiệm vụ của nhân dân ta là phải nỗ lực xây dựng nền kinh tế kháng chiến có tính chất dân chủ nhân dân, có khả năng tự cấp, tự túc, vừa đáp ứng được những nhu cầu
  • 17. 17 của kháng chiến, vừa từng bước cải thiện đời sống của cán bộ, bộ đội và nhân dân; đồng thời phải đấu tranh chống lại sự phá hoại của địch. Về văn hoá, phong trào bình dân học vụ tiếp tục duy trì và phát triển. Trường phổ thông các cấp được xây dựng. Hủ tục lạc hậu, mê tín dị đoan dần được xóa bỏ, nếp sống văn hóa mới được hình thành, trật tự an ninh trong vùng tự do khá ổn định. Về ngoại giao, cùng với việc xây dựng thực lực trong nước, Đảng và Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà chủ trương đẩy mạnh hoạt động ngoại giao, tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của quốc tế đối với cuộc kháng chiến chính nghĩa của nhân dân ta. Đảng và Chính phủ chủ trương tích cực tranh thủ mở rộng quan hệ ngoại giao với các nước trong phe xã hội chủ nghĩa. Đầu năm 1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh đi thăm Trung Quốc, Liên Xô và sau đó lần lượt Chính phủ Trung Quốc (18-1-1950), Liên Xô (30-1-1950) và các nhà nước dân chủ nhân dân Đông Âu, Triều Tiên (2-1950) công nhận và đặt quan hệ ngoại giao với Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa; ủng hộ, giúp đỡ, cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam. Với Lào và Campuchia, Đảng chủ trương “mở rộng mặt trận Lào-Miên”, thắt chặt tình đoàn kết chiến đấu Việt-Miên-Lào để giúp bạn và cùng bạn chiến đấu. Tháng 6-1950, Ban Thường vụ Trung ương Đảng quyết định mở một chiến dịch Biên giới Thu Đông, nhằm tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực địch, mở rộng căn cứ địa Việt Bắc, tạo hành lang rộng mở quan hệ thông thương với Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa, tạo điều kiện thúc đẩy cuộc kháng chiến phát triển lên giai đoạn mới. Chiến thắng này đã “đạt được mục tiêu diệt địch, kết thúc thời kỳ chiến đấu trong vòng vây”, mở ra cục diện mới. 3. Bƣớc phát triển mới của cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp (1951- 1953): 3.1. Bối cảnh lịch sử và chủ trƣơng của Đảng: a) Bối cảnh lịch sử: Đến đầu năm 1951, Liên Xô lớn mạnh vượt bậc về mọi mặt, các nước xã hội chủ nghĩa ở châu Âu bước vào công cuộc xây dựng cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội. Nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa ra đời làm thay đổi so sánh lực lượng có lợi cho hoà bình và phong trào cách mạng. Cuộc kháng chiến của nhân dân ba nước Đông Dương đã giành được những thắng lợi quan trọng. Mỹ trở thành tên sen đầm quốc tế, tăng cường giúp đỡ Pháp và can
  • 18. 18 thiệp trực tiếp vào cuộc chiến tranh Đông Dương. Trong nước, từ năm 1948 đến mùa thu năm 1950, nhân dân ta đã giành được nhiều thắng lợi trong cuộc kháng chiến. Phong trào chiến tranh du kích ngày càng lan rộng. Điều kiện lịch sử đã đặt ra cho Đảng ta các yêu cầu bổ sung và hoàn chỉnh đường lối cách mạng Việt Nam, đưa cuộc kháng chiến đến thắng lợi; đặc biệt là yêu cầu Đảng phải ra công khai lãnh đạo cách mạng. b) Chủ trương, kế hoạch của Đảng: Hội nghị toàn quốc lần thứ III của Đảng (1950) ra nghị quyết nêu rõ: Cần phải nhân đà tiến bộ của bản thân ta, dựa vào sự giúp đỡ của các lực lượng bạn, lợi dụng sự lúng túng của thực dân Pháp, gấp rút hoàn thành nhiệm vụ chuẩn bị, giành thắng lợi lớn, làm thay đổi cục diện chiến trường có lợi cho ta. Tháng 6-1950, Ban Thường vụ Trung ương Đảng quyết định mở chiến dịch Biên giới ở hướng Cao Bằng - Lạng Sơn, nhằm thực hiện 3 mục đích: - Tiêu diệt một bộ phận quan trọng lực lượng địch; - Giải phóng một phần biên giới, mở đường liên lạc với quốc tế; - Mở rộng và củng cố căn cứ địa Việt Bắc. 3.2. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II và Chính cƣơng của Đảng (2-1951): a) Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng (2 - 1951): Đại hội họp từ ngày 11 đến ngày 19-2-1951 tại xã Vinh Quang, huyện Chiêm Hoá, tỉnh Tuyên Quang. Tham dự Đại hội có 158 đại biểu chính thức và 53 đại biểu dự khuyết, thay mặt cho hơn 73 vạn Đảng viên. Đại hội quyết định đưa Đảng hoạt động công khai với tên mới là Đảng Lao động Việt Nam. Đảng có nhiệm vụ lãnh đạo cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam, giúp đỡ và phối hợp với các Đảng cách mạng Lào và Campuchia, đưa sự nghiệp kháng chiến của ba dân tộc anh em trên bán đảo Đông Dương giành thắng lợi hoàn toàn. 15 chính sách lớn của Đảng để đẩy mạnh kháng chiến đến thắng lợi và đặt cơ sở kiến thiết quốc gia. Đại hội đã thông qua Điều lệ mới của Đảng. Điều lệ xác định rõ mục đích, tôn chỉ của Đảng và nhấn mạnh Đảng Lao động Việt Nam là đảng của giai cấp công nhân và của nhân dân lao động Việt Nam. Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng tư tưởng và kim
  • 19. 19 chỉ nam và xây dựng Đảng theo nguyên tắc một đảng vô sản kiểu mới... Đây là một bước tiến mới trong công tác xây dựng Đảng. Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Trung ương gồm 19 uỷ viên chính thức và 10 uỷ viên dự khuyết, Ban Chấp hành Trung ương đã bầu Bộ Chính trị gồm 7 uỷ viên chính thức, 1 uỷ viên dự khuyết và Ban Bí thư. Hồ Chí Minh được bầu làm Chủ tịch Đảng, Trường Chinh được bầu lại làm Tổng Bí thư. Sau diễn văn khai mạc của Tôn Đức Thắng, Đại hội đã nghiên cứu và thảo luận Báo cáo chính trị của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Báo cáo Hoàn thành giải phóng dân tộc, phát triển dân chủ nhân dân, tiến tới chủ nghĩa xã hội của Trường Chinh; Báo cáo về tổ chức và Điều lệ Đảng của Lê Văn Lương... Báo cáo chính trị tổng kết phong trào cách mạng thế giới và cách mạng Việt Nam trong nửa đầu thế kỷ XX, dự báo những triển vọng tốt đẹp của nửa thế kỷ sau; rút ra bài học trong 21 năm hoạt động của Đảng. Báo cáo vạch rõ nhiệm vụ chủ yếu trước mắt là tiêu diệt thực dân Pháp và đánh bại bọn can thiệp Mỹ, giành thống nhất độc lập hoàn toàn, bảo vệ hòa bình thế giới. Đảng phải đề ra những chính sách và biện pháp tích cực: tăng cường lực lượng vũ trang, củng cố các đoàn thể quần chúng, đẩy mạnh thi đua ái quốc, mở rộng khối đại đoàn kết dân tộc, tăng cường đoàn kết quốc tế; đẩy mạnh công tác xây dựng Đảng Lao động Việt Nam thành "một Đảng to lớn, mạnh mẽ, chắc chắn, trong sạch, cách mạng triệt để" để lãnh đạo đưa kháng chiến đến thắng lợi hoàn toàn. Báo cáo bàn về cách mạng Việt Nam của đồng chí Trường Chinh trình bày toàn bộ đường lối cách mạng Việt Nam. Đó là đường lối cách mạng dân tộc - dân chủ nhân dân tiến lên chủ nghĩa xã hội. Nội dung cơ bản của bản báo cáo được phản ánh trong Chính cương của Đảng Lao động Việt Nam được Đại hội thông qua như sau: "Xã hội Việt Nam hiện nay gồm có ba tính chất: dân chủ nhân dân, một phần thuộc địa và nửa phong kiến". Các tính chất đó đang đấu tranh lẫn nhau. "Nhưng mâu thuẫn chủ yếu lúc này là mâu thuẫn giữa tính chất dân chủ nhân dân và tính chất thuộc địa". Tính chất cuộc kháng chiến: “Giải quyết những nhiệm vụ cơ bản nói trên do nhân dân làm động lực, công nông và lao động trí thức làm nền tảng và giai cấp công nhân lãnh đạo, cách mạng Việt Nam hiện nay là một cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Cách mạng đó không phải là cách mạng dân chủ tư sản lối cũ mà cũng không phải là cách mạng xã hội chủ nghĩa mà là một thứ cách mạng dân chủ tư sản đổi mới tiến triển thành cách mạng xã hội chủ nghĩa”
  • 20. 20 Cách mạng Việt Nam có hai đối tượng. Đối tượng chính là chủ nghĩa đế quốc xâm lược, cụ thể là đế quốc Pháp và bọn can thiệp Mỹ. Đối tượng phụ là phong kiến, cụ thể là phong kiến phản động. Nhiệm vụ cơ bản hiện nay của cách mạng Việt Nam là “đánh đuổi bọn đế quốc xâm lược, giành độc lập và thống nhất thật sự cho dân tộc, xóa bỏ những di tích phong kiến và nửa phong kiến, làm cho người cày có ruộng, phát triển chế độ dân chủ nhân dân, gây cơ sở cho chủ nghĩa xã hội"... Ba nhiệm vụ đó khăng khít với nhau. Nhiệm vụ chính lúc này là hoàn thành giải phóng dân tộc. Lúc này phải tập trung lực lượng vào cuộc kháng chiến để quyết thắng quân xâm lược... Lực lượng của cách mạng Việt Nam gồm có giai cấp công nhân, giai cấp nông dân, giai cấp tiểu tư sản và tư sản dân tộc. Ngoài ra, còn có những thân sĩ (địa chủ) yêu nước và tiến bộ. Những giai cấp, tầng lớp và phần tử đó họp lại thành nhân dân mà nền tảng là công, nông và lao động trí thức. Lãnh đạo cách mạng: “Người lãnh đạo cách mạng là giai cấp công nhân”. Đảng Lao động Việt Nam là Đảng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động Việt Nam. Triển vọng phát triển của cách mạng Việt Nam nhất định sẽ tiến lên chủ nghĩa xã hội. Đây là một quá trình lâu dài, và đại thể trải qua ba giai đoạn không tách rời nhau mà mật thiết liên hệ xen lẫn với nhau và mỗi giai đoạn có nhiệm vụ trung tâm: - Giai đoạn thứ nhất, nhiệm vụ chủ yếu là hoàn thành giải phóng dân tộc; - Giai đoạn thứ hai, nhiệm vụ chủ yếu là xóa bỏ những di tích phong kiến và nửa phong kiến, thực hiện triệt để người cày có ruộng, phát triển kỹ nghệ, hoàn chỉnh chế độ dân chủ nhân dân; - Giai đoạn thứ ba, nhiệm vụ chủ yếu là xây dựng cơ sở cho chủ nghĩa xã hội, tiến lên thực hiện chủ nghĩa xã hội. Ba giai đoạn ấy không tách rời nhau, mà mật thiết liên hệ, xen kẽ với nhau. Đại hội đại biểu lần thứ II của Đảng là một sự kiện lịch sử trọng đại, đánh dấu bước trưởng thành mới về tư tưởng, đường lối chính trị của Đảng. Đảng từ bí mật trở lại hoạt động công khai với tên gọi Đảng Lao động Việt Nam, đáp ứng yêu cầu phát triển cách mạng. Có ý nghĩa quyết định đối với thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Pháp. Đại hội còn được coi là “Đại hội kháng chiến thắng lợi”.
  • 21. 21 b) Đường lối, chính sách của Đảng ta đã được bổ sung, phát triển qua các hội nghị trung ương tiếp theo. Tại Hội nghị trung ương lần thứ nhất (3 - 1951), Đảng ta đã nhấn mạnh chủ trương phải tăng cường hơn nữa công tác chỉ đạo chiến tranh, củng cố và gia cường quân đội chủ lực, củng cố bộ đội địa phương và dân quân du kích; gia cường việc lãnh đạo kinh tế tài chính, thực hiện việc khuyến khích, giúp đỡ tư sản dân tộc kinh doanh và gọi vốn của tư nhân để phát triển công thương nghiệp, tích cực tham gia phong trào bảo vệ hoà bình thế giới, củng cố Đảng về tư tưởng, chính trị, tổ chức. Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ hai (họp từ 27/9/1951 đến ngày 5/10/1951), đã nêu lên chủ trương đẩy mạnh cuộc kháng chiến trên cơ sở thực hiện tốt ba nhiệm vụ lớn là: Ra sức tiêu diệt sinh lực địch, tiến tới giành ưu thế quân sự; ra sức phá âm mưu thâm độc của địch là lấy chiến tranh nuôi chiến tranh, dùng người Việt đánh người Việt; đẩy mạnh kháng chiến ở vùng tạm bị chiếm, củng cố và phát triển sức kháng chiến đoàn kết. Tại Hội nghị Trung ương lần thứ tư (tháng 1 - 1953) vấn đề cách mạng ruộng đất được Đảng tập trung nghiên cứu, kiểm điểm và đề ra chủ trương thực hiện triệt để giảm tô, chuẩn bị tiến tới cải cách ruộng đất. Hội nghị cho rằng, muốn kháng chiến hoàn toàn thắng lợi, dân chủ nhân dân thật thà thực hiện, thì phải thiết thực nâng cao quyền lợi kinh tế và chính trị của nông dân, phải chia ruộng đất cho nông dân. Tại Hội nghị Trung ương lần thứ năm (11 - 1953), Đảng quyết định phát động quần chúng triệt để giảm tô và tiến hành cải cách ruộng đất trong kháng chiến. Từ đó, tạo ra những chuyển biến lớn về kinh tế, thúc đẩy sự phát triển và nâng cao đời sống vật chất tinh thần. “Cải cách ruộng đất để đảm bảo cho kháng chiến thắng lợi”. “Cải cách ruộng đất là chính sách chung của cả nước, nhưng phải làm từng bước tùy điều kiện mà nơi thì làm trước nơi thì làm sau”. Hội nghị cũng khẳng định: “Cải cách ruộng đất là một cuộc cách mạng nông dân, một cuộc giai cấp đấu tranh ở nông thôn, rất rộng lớn, gay go và phức tạp. Cho nên chuẩn bị phải thật đầy đủ, kế hoạch phải thật rõ ràng, lãnh đạo phải thật chặt chẽ”. Đường lối hoàn thành giải phóng dân tộc, phát triển chế độ dân chủ nhân dân, tiến lên chủ nghĩa xã hội của Đảng được thực hiện trên thực tế trong giai đoạn 1951-1954. Nhờ có những đường lối lãnh đạo hoàn toàn đúng đắn của Đảng ta cùng với sự tin tưởng đoàn kết của toàn dân dành cho Đảng đã mang lại những chiến thắng vẻ vang cho đất nước, góp phần đưa đất nước đi lên xây dựng một đất nước độc lập, tự do, hạnh phúc.
  • 22. 22 3.3. Đẩy mạnh phát triển cuộc kháng chiến về mọi mặt: a) Chuyển sang thế tiến công chiến lược, giữ vững và phát triển quyền chủ động đánh địch trên chiến trường: Sau chiến dịch Biên giới Thu đông 1950, quân ta tiếp tục giữ vững quyền chủ động về chiến lược trên chiến trường chính, liên tục mở các chiến dịch tiến công và phản công lớn. Nhận định nếu đánh vào trung du, ta sẽ thu hẹp được phạm vi chiếm đóng của địch và làm thất bại âm mưu "lấy chiến tranh nuôi chiến tranh, dùng người Việt đánh người Việt" của chúng. Từ đầu năm 1951, Đảng chủ trương mở các chiến dịch tiến công quân sự có quy mô tương đối lớn đánh vào địa bàn Trung du và đồng bằng Bắc bộ: Chiến dịch Trung du (cuối năm 1950), chiến dịch Đường 18 (3 - 1951), tiến công khu vực Hà - Nam - Ninh (4 - 1951) Mục tiêu của những chiến dịch này là nhằm tiêu diệt, tiêu hao sinh lực địch, tạo điều kiện phát triển cuộc chiến tranh du kích vùng sau lưng địch. Tuy nhiên, vì địa bàn ba chiến dịch trên không lợi cho ta nên kết quả chiến đấu bị hạn chế. Cả ba chiến dịch đã gây trở ngại cho địch trong việc thực hiện kế hoạch Đờ Lát đờ Tátxinhi, nhưng sức chiến đấu của bộ đội ta cũng bị giảm sút. Sau Hội nghị lần thứ hai của Ban Chấp hàng Trung ương Đảng, ta đẩy mạnh mọi mặt hoạt động, chuyển hướng mạnh mẽ công tác trong vùng sau lưng địch, thực hiện tiến công chiến lược, phối hợp chặt chẽ chiến tranh du kích và chiến tranh chính quy, giành thắng lợi mới. Ta lần lượt giành chiến thắng ở chiến dịch Hòa Bình (1951) và chiến dịch Tây Bắc (4 - 1952). Với những thắng lợi trên ta đã phá tan âm mưu lập “Xứ Thái tự trị” của thực dân Pháp, đẩy địch vào thế lúng túng, bị động; ta giữ vững và từng bước mở rộng quyền chủ động về chiến lược. Vùng căn cứ du kích, khu du kích liên hoàn, rộng lớn được hình thành, gồm các tỉnh đồng bằng và trung du Bắc Bộ. Chính sách dùng người Việt đánh người Việt, lấy chiến tranh nuôi chiến tranh của địch bị giáng một đòn mạnh. Năm 1953 ta phối hợp với quân và dân Lào mở chiến dịch Thượng Lào giúp Chính phủ kháng chiến Lào giải phóng thêm đất đai và mở rộng khu căn cứ địa, phá thế bố trí chiến lược của thực dân Pháp ở Bắc Đông Dương, buộc chúng phải phân tán lực lượng đối phó, ngăn chặn âm mưu củng cố Tây Bắc và bình định đồng bằng của địch. Quán triệt tư tưởng chiến lược tiến công, nêu cao ý chí quyết chiến quyết thắng, quân và dân ta từng bước phát triển thế tiến công với quy mô ngày càng lớn bằng cả chiến tranh
  • 23. 23 du kích và chiến tranh chính quy để giành ưu thế quân sự, giữ vững và phát huy quyền chủ động chiến lược. b) Xây dựng và củng cố hậu phương kháng chiến về mọi mặt: Hậu phương có vai trò đặc biệt quan trọng, là một trong những nhân tố thường xuyên có tính chất quyết định thắng lợi của chiến tranh. Nhận thức rõ tầm quan trọng của hậu phương, Đảng ta sớm đề ra đường lối, chủ trương, chính sách về xây dựng hậu phương vững mạnh toàn diện. Về chính trị: Đảng và Chính phủ ra sức chăm lo xây dựng, củng cố và mở rộng Mặt trận dân tộc thống nhất (thông qua hai mặt trận Việt Minh và Liên Việt) nhằm tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân. Ngày 11-3-1951, Hội nghị đoàn kết nhân dân ba nước Việt Nam, Lào và Campuchia quyết định thành lập khối Liên minh Việt - Miên - Lào, tăng cường khối đoàn kết ba nước đấu tranh chống Pháp và can thiệp Mỹ, tạo nên sức mạnh của khối đoàn kết quốc tế. Tháng 4-1952, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ ba của Đảng xác định công tác “chỉnh Đảng, chỉnh quân” là nhiệm vụ trọng tâm của công tác xây dựng Đảng, xây dựng quân đội giai đoạn này. Ngày 11-5-1952, Trung ương mở lớp chỉnh Đảng đầu tiên. Sau chỉnh huấn chính trị mùa hè năm 1952, quân đội ta tiến hành chấn chỉnh tổ chức, biên chế và trang bị. Thông qua chỉnh huấn, trình độ chiến thuật, kĩ thuật của bộ đội được nâng cao theo yêu cầu nhiệm vụ chiến đấu sắp tới. Để động viên các tầng lớp nhân dân phát huy chủ nghĩa anh hùng cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh quyết định mở Hội nghị thi đua toàn quốc, toàn quân. Ngày 01/05/1952, Đại hội Chiến sĩ thi đua và Cán bộ gương mẫu toàn quốc lần thứ nhất long trọng tuyên dương 7 anh hùng: Cù Chính Lan, Nguyễn Quốc Trị, Nguyễn Thị Chiên, La Văn Cầu, Ngô Gia Khảm, Trần Đại Nghĩa, Hoàng Hanh. Về kinh tế: Trên lĩnh vực nông nghiệp, những cuộc vận động tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm, khắc phục khó khăn, đặc biệt là chính sách cải cách ruộng đất đã giúp nước ta tự túc một phần lương thực, thực phẩm. Năm 1950, Chính phủ ra sắc lệnh giảm tức, xóa nợ, hoãn nợ cho nông dân vay địa chủ, ban hành quy chế lĩnh canh để bảo vệ quyền lợi cho tá điền. Tháng 4-1951, mở cuộc vận
  • 24. 24 động Thi đua sản xuất, lập công nhằm phục vụ nhu cầu kháng chiến. Kết quả là diện tích cây trồng lương thực và hoa màu tăng lên nhiều so với các năm trước. Từ năm 1952, cuộc “Đại vận động sản xuất và tiết kiệm” được phát động trong toàn Đảng, toàn dân và toàn quân. Đảng và Chính phủ tiếp tục thực hiện cuộc cách mạng ruộng đất từng bước theo đường lối riêng biệt, phù hợp với tình hình xã hội Việt Nam.Từ năm 1953, Đảng và Chính phủ chủ trương phát động quần chúng triệt để giảm tô, giảm tức và cải cách ruộng đất nhằm góp phần thúc đẩy kháng chiến mau thắng lợi, thực hiện mục tiêu người cày có ruộng. Tháng 11- 1953, Đảng thông qua Cương lĩnh ruộng đất của Đảng Lao động Việt Nam với 23 điều và nêu chủ trương: “phát động quần chúng triệt để giảm tô, thực hiện giảm tức và tiến hành cải cách ruộng đất”, thực hiện người cày có ruộng, nâng cao quyền lợi kinh tế và chính trị của người nông dân. Ngày 19-12-1953, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký ban hành sắc lệnh Luật cải cách ruộng đất. Thực hiện chủ trương của Đảng và Chính phủ hàng ngàn hécta ruộng đất và các loại nông cụ, trâu bò, tư liệu sản xuất nông nghiệp đã được chia cho nông dân nghèo, nhất là bần, cố nông. Việc thực hiện chính sách ruộng đất trong kháng chiến đã từng bước xoá bỏ chế độ chiếm hữu ruộng đất phong kiến, giải phóng lực lượng sản xuất khỏi sự trói buộc của quan hệ sản xuất đã quá lạc hậu, đem lại niềm phấn khởi trong nông dân. Thông qua đó, nông dân càng tích cực đẩy mạnh sản xuất, hăng hái tham gia đóng góp sức người, sức của vào sự nghiệp kháng chiến. Tuy trong quá trình thực hiện cải cách ruộng đất, chúng ta đã phạm phải một số sai lầm nhưng Đảng và Chính phủ phát hiện và có biện pháp sửa sai ngay khi kết thúc cải cách, nhờ đó mà hậu quả được hạn chế và ý nghĩa của cải cách ruộng đất vẫn hết sức to lớn. Về công nghiệp, tài chính và thương nghiệp: Công nghiệp quốc phòng đã sản xuất được các loại vũ khí mới (súng SKZ, súng Badôka, súng cối...). Phát triển tiểu thủ công nghiệp, sản xuất hàng vạn nông cụ phục vụ nông nghiệp, tự túc được một phần thuốc men, vải mặc; bảo đảm đạn dược, thuốc men, quân trang, quân dụng cung cấp đủ cho bộ đội. Đi đôi với đẩy mạnh sản xuất, Chính phủ thực hiện chủ trương tăng thu giảm chi, thống nhất quản lí tài chính để tránh lạm phát, giữ giá hàng; chấn chỉnh công tác tài chính, ngân hàng và phát hành giấy bạc mới.
  • 25. 25 Mậu dịch bán hàng nội hoá với giá rẻ hơn cho nhân dân và đã cung cấp 35% nhu yếu phẩm cho bộ đội. Sau chiến thắng Biên giới, con đường thông thương giữa nước ta với quốc tế được mở rộng. Giá trị hàng xuất khẩu năm 1951 tăng 7 lần so với năm 1950. Về văn hóa, giáo dục, y tế Đảng và Chính phủ tổ chức và hướng dẫn văn nghệ sĩ đi vào thực tế sản xuất và chiến đấu, phục vụ kháng chiến, thực hiện “Kháng chiến hóa văn hóa, văn hóa hóa kháng chiến”. Từ năm 1950, ta tiến hành cải cách giáo dục nhằm hướng tới xây dựng nền giáo dục mới xã hội chủ nghĩa. Tính đến năm 1952, chỉ riêng các liên khu Việt Bắc, Khu IV, Khu V đã có trên 1 triệu học sinh phổ thông, phong trào bình dân học vụ, bổ túc văn hóa tiếp tục phát triển. Công tác chăm lo, bảo vệ sức khoẻ cho nhân dân được chú ý. Hệ thống bệnh viện, bệnh xá, phòng y tế, trạm cứu thương được xây dựng rộng khắp. Nạn đói và bệnh dịch cơ bản được đẩy lùi. 4. Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp kết thúc (1953-1954): 4.1 Âm mƣu mới của đế quốc Pháp - Mĩ ở Đông Dƣơng: Về phía thực dân Pháp, kế hoạch Nava Sau gần tám năm tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam (1945 -1953), thực dân Pháp đã phải chịu những tổn thất nặng nề. Vùng kiểm soát của chúng ngày càng bị thu hẹp. Trên chiến trường Việt Nam, quân Pháp ngày càng bị lún sâu vào thế bị động phòng ngự và thiếu hẳn một lực lượng cơ động chiến lược mạnh để có thể đối phó với các cuộc tấn cồng mới của bộ đội ta. Về phía đế quốc Mĩ, trước tình thế bị sa lầy và thất bại của Pháp, Mĩ can thiệp sâu vào cuộc chiến tranh Đông Dương, ép Pháp phải kéo dài và mở rộng chiến tranh, tích cực chuẩn bị thay thế Pháp. Được sự hậu thuẫn của Mĩ, ngày 7 - 5 - 1953, Pháp cử Nava làm Tổng chỉ huy quân đội ở chiến trường Đông Dương, đề ra kế hoạch Nava trong 18 tháng sẽ giành thắng lợi quyết định để “kết thúc chiến tranh trong danh dự”. Để có đủ điều kiện cần thiết cho việc thực hiện kế hoạch đã vạch ra, Nava chủ trương giải quyết theo ba biện pháp: Mở rộng ngụy quân, mở rộng các “quân đội quốc gia” trên quy mô lớn; rút bớt một bộ phận lực lượng chiếm đóng để tập trung lại; xin tăng viện trợ từ Pháp sang.
  • 26. 26 4.2. Cuộc tiến công chiến lƣợc Đông - Xuân 1953 - 1954 và chiến dịch Điện Biên Phủ: Chủ trương, kế hoạch quân sự Đông - Xuân 1953 - 1954 của ta Đứng trước âm mưu và hành động mới của Pháp - Mĩ , Bộ Chính trị Trung ương Đảng triệu tập Hội nghị tháng 9-1953, đề ra chủ trương mở cuộc tiến công chiến lược Đông - Xuân 1953 - 1954 và Chiến dịch Điện Biên Phủ. Với quyết tâm giữ vững thế chủ động đánh địch trên cả hai mặt trận chính diện và sau lưng địch, phối hợp hoạt động trên phạm vi cả nước và toàn Đông Dương. Hội nghị xác định phương hướng chiến lược của ta trong Đông - Xuân 1953 - 1954 là: - Tập trung phần lớn bộ đội chủ lực mở những cuộc tiến công vào những hướng quan trọng về chiến lược mà địch tương đối yếu, nhằm tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực địch, giải phóng đất đai, đồng thời buộc chúng phải bị động phân tán lực lượng đối phó với ta trên những địa bàn xung yếu mà chúng không thể bỏ. - Đẩy mạnh chiến tranh du kích ở khắp các chiến trường sau lưng địch; đồng thời tích cực tiến hành mọi sự chuẩn bị cần thiết trong nhân dân và bộ đội địa phương, dân quân du kích ở các vùng tự do để cho bộ đội chủ lực chủ động đánh địch theo kế hoạch đã định. Do hành động của địch chưa rõ rệt, Hội nghị Bộ Chính trị nêu lên phương châm tác chiến chung là "Tích cực, chủ động, cơ động, linh hoạt", "Đánh ăn chắc" (chắc thắng thì đánh cho kì thắng, không chắc thắng thì kiên quyết không đánh). Bước vào Đông - Xuân 1953 - 1954, thực hiện chủ trương chiến lược của Bộ Chính trị Trung ương Đảng, quân ta liên tiếp chủ động mở các cuộc tiến công chiến lược trên toàn chiến trường Đông Đương; đồng thời đẩy mạnh chiến tranh du kích trong các vùng sau lưng địch, tiêu diệt sinh lực địch, phá huỷ phương tiện chiến tranh, giải phóng nhiều vùng đất rộng lớn. Các hoạt động bền bỉ, liên tục, rộng khắp với hiệu quả cao của quân và dân ta buộc địch phải bị động phân tán lực lượng cơ đông đang tập trung ở đồng bằng Bắc Bộ đến các chiến trường rừng núi; trong đó, bộ phận quân tinh nhuệ bậc nhất bị giam chân tại Điện Biên Phủ. Số quân cơ động của địch ở đồng bằng Bắc Bộ từ chỗ có 44 tiểu đoàn, chỉ còn lại 20 tiểu đoàn. Kế hoạch Nava bước đầu bị phá sản. Thắng lợi của ta trong các cuộc tiến công chiến lược Đông - Xuân 1953 - 1954 là sự chuẩn bị những điều kiện vật chất và tinh thần cho quân và dân ta mở trận quyết chiến chiến lược vào tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Chiến dịch Điện Biên Phủ (1954)
  • 27. 27 Sau khi không đạt được âm mưu bảo vệ chiến trường Tây Bắc, Thượng Lào và cũng không ngăn chặn được kế hoạch tiến công của ta trong Đông - Xuân 1953 - 1954, Bộ chỉ huy quân đội Pháp ở Đông Dương quyết định chấp nhận cuộc chiến đấu với chủ lực ta tại chiến trường rừng núi Tây Bắc Việt Nam. Từ đầu tháng 12-1953, Nava chủ trương xây dựng Điện Biên Phủ thành một tập đoàn cứ điểm mạnh. Điện Biên Phủ trở thành điểm quyết chiến chiến lược giữa ta và địch. Trong Chỉ thị ngày 22-12-1953, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ “chiến dịch Điện Biên Phủ là một chiến dịch rất quan trọng không những về quân sự mà cả về chính trị, không những đối với trong nước mà cả đối với quốc tế. Vì vậy, toàn Đảng, toàn quân phải tập trung hoàn thành cho kì được.” Từ sau quyết định của Bộ Chính trị, mọi công tác chuẩn bị cho chiến dịch được xúc tiến rất khẩn trương. Bộ chỉ huy và Đảng uỷ Mặt trận được thành lập do Đại tướng Võ Nguyên Giáp trực tiếp làm Chỉ huy trưởng kiêm Bí thư Đảng uỷ Mặt trận. Chính phủ ra quyết định thành lập Hội đồng cung cấp mặt trận do đồng chí Phạm Văn Đồng làm Chủ tịch. Quyết tâm chiến lược của Bộ Chính trị Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã biến thành ý chí và hành động của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta. Với khẩu hiệu “Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng”, nhân dân cả nước hăng hái, tự nguyện đóng góp sức lực, tiền của, sẵn sàng hi sinh hết thảy, kịp thời bảo đảm cung cấp cho chiến dịch. Mọi nguồn nhân tài, vật lực, dân công tiếp tế, chi viện cho mặt trận Điện Biên Phủ được tăng cường với hàng vạn ngày công, hàng vạn tấn lương thực, đạn dược, vũ khí, phương tiện trang bị.... Với phương châm “đánh chắc, tiến chắc”, “đánh chắc thắng”, ngày 13-3-1954, quân ta nổ súng tấn công địch ở phân khu phía Bắc trung tâm Mường Thanh, mở màn Chiến dịch Điện Biên Phủ. Trải qua 56 ngày đêm, với 3 đợt tiến công lớn, vào hồi 17 giờ 30 phút chiều 7-5-1954, Quân đội Nhân dân Việt Nam đã đánh chiếm hầm chỉ huy, bắt sống tướng Đờ Cátơri (De Castries) chỉ huy trưởng và Bộ chỉ huy tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Toàn bộ lực lượng địch ở Điện Biên Phủ bị tiêu diệt và bị bắt sống. Chiến dịch Điện Biên Phủ kết thúc đã đưa cuộc Tiến công chiến lược Đông Xuân 1953-1954 và cuộc kháng chiến của dân tộc Việt Nam chống thực dân Pháp xâm lược đến thắng lợi vẻ vang. Chiến thắng Điện Biên Phủ “đã được ghi vào lịch sử dân tộc như một Bạch Đằng, một Chi Lăng hay một Đống Đa ở thế kỉ XX, và đi vào lịch sử thế giới như một chiến công chói lọi đột phá thành trì của hệ thống nô dịch thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc”. Với quốc tế
  • 28. 28 chiến thắng Điện Biên Phủ được coi là “tiếng chuông báo tử của chủ nghĩa thực dân”, là “tiếng nói vút ngang tai bọn đế quốc quốc tế”, một “niềm hi vọng to lớn và tươi sáng của loài người”, “là lời kêu gọi các dân tộc bị trị tiến lên xung phong chiếm lĩnh các pháo đài cuối cùng của chủ nghĩa thực dân và chủ nghĩa đế quốc trên thế giới...” Chiến thắng Điện Biên Phủ là một đòn giáng quyết định, đập tan hoàn toàn Kế hoạch quân sự Nava, đè bẹp ý chí xâm lược của thực dân Pháp, làm xoay chuyển cục diện chiến tranh ở Đông Dương, tạo điều kiện thuận lợi cho cuộc đấu tranh ngoại giao của ta ở Hội nghị Giơnevơ (Genève) giành thắng lợi. 4.3. Hiệp định Gionevo - Chiến thắng trên mặt trận ngoại giao. Chấm dứt chiến tranh: Bối cảnh Hội nghị Gionevo Lập trường trước sau như một của Đảng, Chính phủ và nhân dân ta là luôn giương cao ngọn cờ hoà bình. Bởi vậy, trước và trong quá trình tiến hành cuộc kháng chiến, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đã nhiều lần đề nghị Chính phủ Pháp cùng thương lượng để giải quyết một cách hoà bình vấn đề Việt Nam, nhưng đều bị khước từ. Bước vào Đông Xuân 1953 - 1954, cùng với cuộc tiến công trên mặt trận quân sự, Đảng và Chính phủ ta chủ trướng mở cuộc tiến công trên mặt trận ngoại giao để kết thúc cuộc kháng chiến. Sau gần 9 năm tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược Đông Dương, thực dân Pháp càng bị sa lầy và lệ thuộc vào Mĩ ; nội bộ giới cầm quyền Pháp bị phân hoá, hình thành phái chủ chiến và phái chủ hoà. Nhân dân Pháp đấu tranh mạnh mẽ đòi Chính phủ Pháp phải chấm dứt cuộc chiến tranh xâm lược Đông Dương. Ngày 26/11/1953, trả lời báo Expressen (Thụy Điển), Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ: “Cơ sở của việc đình chiến ở Việt Nam là Chính phủ Pháp thật thà tôn trọng nền độc lập thực sự của nước Việt”. Lời tuyên bố của Chủ tịch Hồ Chí Minh tỏ rõ thiện chí hoà bình của Việt Nam, đồng thời gây chấn động lớn trong dư luận nước Pháp, có tác dụng thúc đẩy phong trào đấu tranh cho hoà bình của nhân dân Pháp và nhân dân thế giới, mở ra khả năng giải quyết bằng con đường hoà bình cuộc chiến tranh ở Đông Dương. Trước sức ép từ nhiều phía, ngày 19-11-1953, Thủ tướng Pháp Lanien phải tuyên bố: “Nếu một giải pháp danh dự xuất hiện trong khung cảnh địa phương hoặc trong khung cảnh quốc tế, nước Pháp sẽ vui lòng chấp nhận một giải pháp ngoại giao cho cuộc xung đột”. Ngày 25-1-1954, Hội nghị Ngoại trưởng bốn nước lớn (Liên Xô, Mĩ , Anh, Pháp) tại Béclin
  • 29. 29 thoả thuận về việc triệu tập một cuộc hội nghị quốc tế có đại diện Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa tham dự tại Giơnevơ để bàn giải pháp hoà bình cho vấn đề Triều Tiên và lập lại hoà bình ở Đông Dương. Diễn biến Hội nghị và nội dung Hiệp định Gionevo Ngày 8-5-1954, phái đoàn Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa do đồng chí Phạm Văn Đồng dẫn đầu đến Hội nghị với tư thế một dân tộc chiến thắng. Trong 75 ngày đàm phán căng thẳng, gay go, phức tạp, trải qua 8 phiên họp toàn thể, 23 phiên họp hẹp với nhiều áp lực, tác động tiêu cực của diễn biến tình hình quốc tế phức tạp và sức ép của các nước lớn. Phía Việt Nam luôn kiên trì đấu tranh, giữ vững nguyên tắc, nhân nhượng có điều kiện và cũng tích cực đấu tranh để bảo vệ quyền lợi chính trị của lực lượng kháng chiến Lào và Campuchia. Song so sánh lực lượng không thuận lợi cho cách mạng ba nước Đông Dương, nên ta đồng ý chấp nhận ký kết với Pháp bản Hiệp định đình chỉ chiến sự ở Việt Nam vào ngày 21-7-1954. Ngày 21-7-1954, Hiệp định Giơnevơ về chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở Đông Dương được kí kết, gồm các văn kiện sau đây: 1- Bản Hiệp định đình chỉ chiến sự ở Việt Nam 2- Bản Hiệp định đình chỉ chiến sự ở Lào 3- Bản Hiệp định đình chỉ chiến sự ở Campuchia 4- Bản Tuyên bố cuối cùng 5- Các phụ bản khác... Bản Tuyên bố cuối cùng về việc lập lại hoà bình ở Đông Dương gồm 13 điều, trong đó nêu rõ: Pháp và các nước tham dự Hội nghị long trọng cam kết tôn trọng các quyền dân tộc cơ bản của Việt Nam, Lào, Campuchia là độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của các nước đó; cam kết chấm dứt cuộc chiến tranh và lập lại hòa bình trên bán đảo Đông Dương... Bản Tuyên bố cuối cùng được tám đoàn trong số chín đoàn tham gia Hội nghị kí kết; riêng đoàn Mĩ không kí, mà chỉ ra tuyên bố riêng công nhận. Hành động này của Mĩ một mặt biểu hiện sự phản ứng đối với kết quả Hội nghị, một mặt có ý đồ dọn đường sẵn cho việc phá hoại Hiệp định, hất cẳng Pháp, biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự của đế quốc Mĩ. Hiệp định Giơnevơ không phản ánh đầy đủ những thắng lợi của nhân dân ta trên chiến trường và cũng không phản ánh đúng khả năng cách mạng ba nước Đông Dương sau chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ. Với giải pháp Giơnevơ, Việt Nam mới giải phóng được một nửa đất nước; vùng giải phóng Lào chỉ còn lại hai tỉnh (Sầm Nưa và Phong Xa Lì); Campuchia không còn vùng giải phóng, nên lực lượng vũ trang phải giải ngũ tại chỗ.
  • 30. 30 Mặc dù còn có những hạn chế, nhưng với việc kí kết Hiệp định Giơnevơ, “chúng ta đã thu được một thắng lợi ngoại giao lớn”. Cùng với chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, Hiệp định Giơnevơ đã kết thúc cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp có Mĩ giúp sức ở Đông Dương kéo dài trong gần 9 năm. Âm mưu của đế quốc Mĩ định kéo dài, mở rộng và quốc tế hoá cuộc chiến tranh Đông Dương hoàn toàn bị đập tan. Hiệp định Giơnevơ về Đông Dương là một văn bản pháp lí quốc tế ghi nhận các quyền dân tộc cơ bản của nhân dân ba nước Đông Dương là độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ. III. NGUYÊN NHÂN THẮNG LỢI, Ý NGHĨA LỊCH SỬ VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM: 1. Nguyên nhân thắng lợi: 1.1 Nguyên nhân chủ quan: Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam, là nhân tố quyết định hàng đầu bảo đảm thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Đảng ta nhận rõ sứ mạng, trọng trách lịch sử của mình trước giai cấp, trước dân tộc và phong trào cách mạng thế giới, đã ra sức xây dựng mình vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức, theo đúng nguyên lý xây dựng Đảng macxít-lêninnít. Do vậy, đã đáp ứng ngày càng đầy đủ những yêu cầu rất khắt khe về sức mạnh tiền phong chiến đấu của một đảng giữ vai trò quyết định thắng lợi của cuộc kháng chiến vĩ đại nhất trong lịch sử dân tộc ta. Trên cơ sở vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta đã kịp thời đưa ra đường lối, phương pháp cách mạng đúng đắn, sáng tạo, đồng thời kiên quyết chỉ đạo thực hiện bằng được mục tiêu, con đường nhiệm vụ cách mạng đặt ra. Xây dựng lực lượng vũ trang 3 thứ quân vững mạnh do Đảng ta trực tiếp lãnh đạo, chiến đấu dũng cảm, mưu lược, tài trí, là lực lượng quyết định tiêu diệt địch trên chiến trường, đè bẹp ý chí xâm lược của địch, giải phóng đất đai của Tổ quốc. Xây dựng được hệ thống chính quyền dân chủ nhân dân, của dân, do dân và vì dân được giữ vững, củng cố và lớn mạnh, làm công cụ sắc bén tổ chức toàn dân kháng chiến và xây dựng chế độ mới, có mặt trận dân tộc thống nhất cũng ngày càng được củng cố, vững mạnh. Xây dựng lực lượng hậu phương vững chắc, rộng lớn, hậu phương là nơi có thể triển khai xây dựng và dữ trữ tiềm lực của chiến tranh cả về chính trị, quân sự, văn hóa…, hậu phương là cơ sở lãnh đạo, tổ chức của tiền tuyến, là nơi chi viện sức người, sức của và động
  • 31. 31 viên chính trị - tinh thần cho tiền tuyến đánh giặc, và cũng là nơi rút lui củng cố và bàn đạp tiến công của cách mạng, hậu phương đã góp phần vào thắng lợi to lớn. Cả nước đoàn kết, thống nhất ý chí và hành động, trên dưới một lòng triệu người như một, quyết tâm đánh thắng giặc Pháp xâm lược. Trong cuộc kháng chiến chống Pháp, cứu nước, đứng trước những khó khăn thử thách, truyền thống quý báu đó càng được phát huy cao độ. Trong Đảng, đoàn kết thống nhất từ Trung ương đến cơ sở. Sự đoàn kết thống nhất trong Đảng đã tạo nên sức mạnh lãnh đạo cách mạng nâng cao lòng tin của toàn dân với Đảng và trở thành động lực xây dựng khối đoàn kết toàn dân. Nhân dân ta đoàn kết trong chiến đấu, lao động sản xuất, khắc phục khó khăn, thiếu thốn, thống nhất về chính trị, về nhận thức và hành động, trên cơ sở tình cảm giai cấp, tình đồng chí, nghĩa đồng bào. Điểm nổi bật về sự đoàn kết thống nhất là tình đoàn kết Bắc - Nam. Sự đoàn kết thống nhất trong toàn Đảng, toàn dân, toàn quân đã trở thành nhân tố quan trọng, sức mạnh to lớn, góp phần đánh thắng thực dân Pháp xâm lược. 1.2 Nguyên nhân khách quan: Kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại, tạo thành sức mạnh tổng hợp đánh Pháp và thắng Pháp. Trong suốt cuộc kháng chiến, Đảng ta ra sức tăng cường đoàn kết quốc tế, coi đó là một bộ phận hợp thành của đường lối chống Pháp, cứu nước và đặt hoạt động đối ngoại, đấu tranh ngoại giao thành một mặt trận có tầm quan trọng chiến lược, góp phần tạo nên sự vượt trội về thế và lực của nhân dân ta; tạo nên một mặt trận rộng lớn của nhân dân thế giới đoàn kết với Việt Nam và ủng hộ Việt Nam chống Pháp xâm lược. Đoàn kết, liên minh chiến đấu với nhân dân Lào và nhân dân Campuchia. Phát huy truyền thống láng giềng anh em gắn bó với nhau, Đảng và nhân dân ta đã chủ động đoàn kết, liên minh chiến đấu với nhân dân Lào, nhân dân Campuchia. Sự đoàn kết liên minh đó được thể hiện trên nguyên tắc tôn trọng độc lập chủ quyền, lợi ích của mỗi nước, cùng nhau đoàn kết chống kẻ thù chung, bảo vệ độc lập chủ quyền quốc gia cho cả ba dân tộc. 2. Ý nghĩa lịch sử: Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của nhân dân ta dưới dự lãnh đạo của Đảng đã được tiến hành liên tục trong hơn 9 năm đầy gian khổ. Thắng lợi giành được tuy chưa trọn vẹn, nhưng đánh dấu một bước phát triển vượt bậc có ý nghĩa lịch sử to lớn đối với sự nghiệp đấu tranh giành độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam, đối với cách mạng Việt Nam, có tính lan tỏa rộng lớn trong khu vực và mang tầm vóc thời đại sâu sắc. Đảng khẳng định:
  • 32. 32 “Sau 9 năm kháng chiến, những thắng lợi lớn của ta về mặt quân sự và cải cách ruộng đất, cũng như về mặt tài chính, kinh tế, văn hoá, giáo dục, xây dựng mặt trận, xây dựng đảng… đánh dấu một bước tiến rất lớn của quân và dân ta. Những thắng lợi lớn ấy đã làm cho lực lượng so sánh giữa ta và địch chuyển biến có lợi cho ta, nhưng chưa phải chuyển biến căn bản...’’ 2.1. Đối với Việt Nam: Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đã chấm dứt cuộc chiến tranh xâm lược và ách thống trị của thực dân Pháp trong gần một thế kỉ trên đất nước ta. Buộc Pháp phải thừa nhận Việt Nam là một đất nước có độc lập, tự do, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ. Pháp đã xâm chiếm bất hợp pháp lãnh thổ Việt Nam nên buộc phải dừng lại và rút hết quân về nước. Thắng lợi cuộc kháng chiến chống Pháp đã bảo vệ thành quả Cách mạng tháng Tám. Miền Bắc được hoàn toàn giải phóng, có điều kiện thuận lợi để miền Bắc đi lên Chủ nghĩa xã hội, xây dựng và bảo vệ vững chắc miền Bắc, đưa miền Bắc trở hành hậu phương chi viện cho tiền tuyến miền Nam sau này, là cơ sở để nhân dân ta giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Kháng chiến chống Pháp thắng lợi một lần nữa khẳng định con đường cách mạng vô sản và đường lối cứu nước mà Bác đã chọn là con đường đúng đắn, sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng đã đưa nhân dân ta giành được chính quyền và giữ vững chính quyền. Qua cuộc chiến đấu và thành quả chiến thắng, Đảng ta, nhân dân ta, quân đội ta, cả dân tộc ta và mỗi người Việt Nam được rèn luyện cả về phẩm chất và tài năng, càng nhận thức sâu sắc hơn, đúng đắn hơn vị trí, khả năng và sức mạnh của mình trong thời đại mới, nâng cao hơn tinh thần đoàn kết và nâng cao ý thức giữ vững chủ quyền lãnh thổ đất nước, nối tiếp tinh thần truyền thống bất khuất, anh dũng của dân tộc ta Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Pháp cứu nước đã nâng cao uy tín của Việt Nam trong mắt bạn bè quốc tế, cũng như nâng cao vị thế chính trị của Việt Nam trên thế giới lên một tầm cao mới, đánh dấu sự phát triển và trưởng thành mạnh mẽ của lực lượng vũ trang nhân dân, thắng lợi vẻ vang của cuộc kháng chiến là niềm tự hào của mỗi người dân trong thế kỷ XX và mai sau.
  • 33. 33 2.2. Đối với thế giới: Thắng lợi của cuộc kháng chiến đã giáng một đòn nặng nề vào tham vọng xâm lược, âm mưu nô dịch của chủ nghĩa đế quốc sau Chiến tranh thế giới thứ hai, góp phần làm sụp đổ chủ nghĩa thực dân cũ mà trước hết là làm tan rã hệ thống thuộc địa của thực dân Pháp. Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Pháp, cứu nước của nhân dân ta là một thắng lợi tiêu biểu của lực lượng cách mạng thế giới, góp phần thúc đẩy mạnh mẽ cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì độc lập, hòa bình, dân chủ và tiến bộ xã hội, và làm sáng tỏ tính hiện thực, tính phổ biến của xu thế phát triển của loài người tiến bộ. Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đã góp phần động viên cổ vũ mạnh mẽ phong trào giải phóng dân tộc ở các nước châu Á, châu Phi và khu vực Mĩ Latinh, các dân tộc dũng cảm, kiên cường giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, thực hiện công cuộc giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người. Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, cứu nước đã nêu bật một chân lý: Một dân tộc nước không rộng, người không đông, kinh tế kém phát triển, song dân tộc ta đã đoàn kết chặt chẽ và đấu tranh kiên quyết dưới sự lãnh đạo của Đảng cùng với đường lối và phương pháp cách mạng đúng đắn, nhân dân ta đã đứng lên nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, kết hợp chặt chẽ sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại mang đến thắng lợi vẻ vang lẫy lừng. 3. Bài học kinh nghiệm: Thắng lợi của cuộc kháng chiến đã ghi nhận sự phát triển và thành công trong lãnh đạo, chỉ đạo chiến tranh giải phóng dân tộc của Đảng Lao động Việt Nam và để lại nhiều bài học, kinh nghiệm quý báu. Một là, đề ra đường lối đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với thực tiễn lịch sử của cuộc kháng chiến ngay từ những ngày đầu. Đường lối cơ bản là “kháng chiến và kiến quốc”; kháng chiến toàn dân, toàn diện, tự lực cánh sinh là chính. Kết hợp sức mạnh nội lực của nhân dân Việt Nam với việc tranh thủ tối đa những điều kiện thuận lợi của quốc tế, phát huy có hiệu quả cao nhất sự ủng hộ, giúp đỡ của các lực lượng dân chủ, tiến bộ đối với cuộc kháng chiến. Hai là, kết hợp chặt chẽ và giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ cơ bản vừa kháng chiến vừa kiến quốc, chống đế quốc và chống phong kiến. Kháng chiến
  • 34. 34 toàn diện trên các mặt trận, các lĩnh vực cả kinh tế, văn hóa, xã hội, cải thiện đời sống nhân dân, đồng thời ưu tiên đẩy mạnh hoạt động quân sự đưa cuộc kháng chiến đến thắng lợi quyết định. Kết hợp nhuần nhuyễn hình thức đấu tranh trên các mặt trận, lấy quân sự làm nòng cốt, lấy xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân làm chỗ dựa, nền tảng để củng cố phát triển cơ sở hạ tầng chính trị-xã hội vững chắc, phát huy hiệu lực, hiệu quả sự lãnh đạo và tổ chức cuộc kháng chiến của Đảng, Chính phủ trên thực tế Ba là, ngày càng hoàn thiện phương thức lãnh đạo, tổ chức điều hành cuộc kháng chiến phù hợp với đặc thù của từng giai đoạn. Phát triển các loại hình chiến tranh đúng đắn, sáng tạo phù hợp với đặc điểm của cuộc kháng chiến và so sánh lực lượng ta địch, đó là loại hình chiến tranh nhân dân, toàn dân, toàn diện. Kết hợp chiến tranh chính quy với chiến tranh du kích ở cả mặt trận chính diện và vùng sau lưng địch, vùng tạm bị chiếm. Phát huy sở trường của ta và cách đánh địch sáng tạo, linh hoạt kết hợp với chỉ đạo chiến thuật tác chiến linh hoạt, cơ động, “đánh chắc, tiến chắc, chắc thắng”, thắng từng bước tiến lên giành thắng lợi quyết định. Bốn là, xây dựng và phát triển lực lượng vũ trang ba thứ quân: Bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân du kích một cách thích hợp, đáp ứng kịp thời yêu cầu của nhiệm vụ chính trị-quân sự của cuộc kháng chiến. Xây dựng mô hình tổ chức bộ máy, con người lực lượng vũ trang, nhất là Quân đội Nhân dân, Công an Nhân dân một cách đúng đắn, thích hợp. Xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân trước hết và quan trọng nhất là về tư tưởng- chính trị, trở thành công cụ chuyên chính sắc bén, tin cậy, làm mũi nhọn, nòng cốt cho kháng chiến, làm chỗ dựa cho toàn dân đánh giặc. Năm là, coi trọng công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng; nâng cao vai trò lãnh đạo toàn diện của Đảng đối với cuộc kháng chiến trên tất cả mọi lĩnh vực, mặt trận. Xây dựng, bồi đắp hình ảnh, uy tín của Đảng và Chính phủ phải bằng hành động thực tế, bằng sự nêu gương và vai trò tiên phong của các tổ chức đảng và đội ngũ cán bộ, đảng viên trong quá trình tổ chức cuộc kháng chiến ở cả căn cứ vào địa-hậu phương và vùng bị địch tạm chiếm. Hết sức chú trọng công tác tuyên truyền, giáo dục, động viên cao nhất, nhiều nhất mọi nguồn lực vật chất trong nhân dân, phát huy cao độ tinh thần, nghị lực của nhân dân; củng cố lòng tin vững chắc của nhân dân đối với thắng lợi cuối cùng của cuộc kháng chiến.
  • 35. 35 KẾT LUẬN Có thể khẳng định rằng, Toàn quốc kháng chiến đã đi vào lịch sử dân tộc như một mốc son chói lọi về tinh thần yêu nước, ý chí kiên cường của nhân dân Việt Nam. Đường lối kháng chiến toàn dân là nguyên nhân cơ bản, quyết định thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Đó là sự kết hợp nhuần nhuyễn những nguyên lý cơ bản về chiến tranh cách mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin với truyền thống, tinh hoa và nghệ thuật đánh giặc giữ nước của ông cha ta để đưa kháng chiến đến thắng lợi vẻ vang. Đỉnh cao là chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ vang dội năm châu, giải phóng miền Bắc, tạo điều kiện cơ bản để hoàn thành nhiệm vụ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Đảng lãnh đạo thắng lợi cuộc kháng chiến chống Pháp có ý nghĩa không chỉ với nước ta mà còn đối với phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới. Đánh giá về ý nghĩa lịch sử của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, Hồ Chí Minh nói: “Lần đầu tiên trong lịch sử, một nước thuộc địa nhỏ yếu đã đánh thắng một nước thực dân hùng mạnh. Đó cũng là một thắng lợi vẻ vang của nhân dân Việt Nam, đồng thời cũng là một thắng lợi vẻ vang của các lực lượng hòa bình, dân chủ và chủ nghĩa xã hội trên thế giới”. LỜI CẢM ƠN Lời đầu tiên, nhóm em xin chân thành cảm ơn chân thành đến cô Đinh Thị Điều. Trong quá trình học tập và tìm hiểu bộ môn Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, chúng em đã nhận được sự quan tâm giúp đỡ, hướng dẫn rất tận tình, tâm huyết của cô. Cô đã giúp chúng em tích lũy thêm nhiều kiến thức để có cái nhìn sâu sắc và hoàn thiện hơn về Đảng ta. Từ những kiến thức cô đã truyền tải, chúng em đã rút ra nhiều bài học về lý luận và phong cách làm việc từ Đảng áp dụng vào cuộc sống. Thông qua bài tiểu luận này, chúng em xin trình bày lại những gì mình đã tìm hiểu về vấn đề cô giao cho. Có lẽ kiến thức là vô hạn mà sự tiếp nhận kiến thức của mỗi bản thân mỗi người luôn tồn tại những hạn chế nhất định. Do đó, trong quá trình hoàn thành bài tiểu luận, chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót. Bản thân chúng em rất mong nhận được những góp ý đến từ cô để bài tiểu luận của chúng em được hoàn thiện hơn. Kính chúc cô sức khỏe và thành công trong công việc! Nhóm 4
  • 36. 36 Lớp học phần: 211DL0601 Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Giáo trình môn học Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam; 2. https://truongchinhtri.edu.vn/home/thong-tin-nghien-cuu-trao-doi/sach-luoc-hoa-hoan- nhan-nhuong-voi-ke-thu-trong-giai-doan-1945-1946-mot-chu-truong-lon-co-y-nghia-chien- luoc-quyet-dinh-cua-cach-mang-viet-nam-1330.html; 3. http://luanan.nlv.gov.vn/luanan?a=d&d=TTkGBCjDpnda1995.1.13 4. https://nguoikesu.com/dong-lich-su/viet-nam-dan-chu-cong-hoa/khang-chien-chong- phap/nhung-nam-dau-toan-quoc-khang-chien-chong-thuc-dan-phap 5. https://nguoikesu.com/dong-lich-su/viet-nam-dan-chu-cong-hoa/khang-chien-chong- phap/cuoc-khang-chien-chong-thuc-dan-phap-ket-thuc