SlideShare a Scribd company logo
1 of 110
Download to read offline
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
ĐỖ NGỌC DUY
PHÁP LUẬT VỀ BIỂU TÌNH
TRÊN THẾ GIỚI VÀ Ở VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Hà Nội - 2015
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
ĐỖ NGỌC DUY
PHÁP LUẬT VỀ BIỂU TÌNH
TRÊN THẾ GIỚI VÀ Ở VIỆT NAM
Chuyên ngành : Lý luận và lịch sử nhà nƣớc và pháp luật
Mã số : 60 38 01 01
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. Đặng Minh Tuấn
Hà Nội - 2015
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan, đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các nội dung
được trình bày trong luận văn là trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn
chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình khoa học nào khác.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
Đỗ Ngọc Duy
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ CÁI VIẾT TẮT
UDHR
ICCPR
UBND
Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền (1948)
Công ƣớc về các quyền dân sự, chính trị 1966
Ủy ban nhân dân
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ CÁI VIẾT TẮT
LỜI MỞ ĐẦU.................................................................................................. 1
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT BIỂU TÌNH............... 8
1.1.Biểu tình..................................................................................................... 8
1.1.1.Khái niệm................................................................................................. 8
1.1.2.Phân loại biểu tình................................................................................ 14
1.2.Quyền biểu tình ....................................................................................... 17
1.2.1.Khái niệm............................................................................................... 17
1.2.2.Giới hạn của quyền biểu tình............................................................... 19
1.2.3.Quyền biểu tình trong mối tương quan một số quyền ........................ 21
1.3.Vị trí, vai trò của biểu tình và quyền biểu tình.................................... 24
1.4.Pháp luật về biểu tình............................................................................. 26
CHƢƠNG 2: PHÁP LUẬT QUỐC TẾ VÀ MỘT SỐ QUỐC GIA TRÊN
THẾ GIỚI VỀ BIỂU TÌNH ......................................................................... 33
2.1. Pháp luật quốc tế về biểu tình............................................................... 33
2.1.1.Về quyền biểu tình ................................................................................ 33
2.1.2. Về người tổ chức và tham gia biểu tình.............................................. 38
2.1.3. Về quản lý biểu tình............................................................................. 39
2.2.Pháp luật biểu tình một số quốc gia trên thế giới ................................ 41
2.2.1. Các khái niệm có liên quan đến cuộc biểu tình ................................. 41
2.2.2. Sự cho phép trong biểu tình ................................................................ 43
2.2.3. Đơn yêu cầu – xin phép – thông báo................................................... 45
2.2.4. Các trường hợp cấm, hạn chế biểu tình ............................................. 51
2.2.5. Các trường hợp đình chỉ, tạm đình chỉ, giải tán cuộc biểu tình ....... 55
2.2.6. Trách nhiệm, thẩm quyền của các cơ quan đảm bảo an ninh, trật tự
cho cuộc biểu tình .......................................................................................... 58
2.2.7.Xử lý vi phạm......................................................................................... 60
CHƢƠNG 3: PHÁP LUẬT BIỂU TÌNH Ở VIỆT NAM:THỰC TRẠNG
VÀ HƢỚNG HOÀN THIỆN........................................................................66
3.1. Thực trạng quy định pháp luật Việt Nam về biểu tình...................... 66
3.1.1. Quyền biểu tình của công dân qua các bản Hiến pháp..................... 66
3.1.2. Pháp luật biểu tình qua các văn bản luật........................................... 69
3.2. Hoàn thiện pháp luật biểu tình ở Việt Nam ........................................ 85
3.2.1. Các nguyên tắc khi xây dựng pháp luật biểu tình.............................. 85
3.2.2. Những nội dung cơ bản trong việc xây dựng Luật biểu tình ............ 87
3.3. Hoàn thiện các văn bản pháp luật liên quan khi xây dựng Luật biểu
tình………………..........................................................................................94
3.3.1.Pháp luật hành chính ........................................................................... 94
3.3.2. Pháp luật hình sự................................................................................. 94
KẾT LUẬN.................................................................................................... 97
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................ 99
1
LỜI MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Phát huy dân chủ, tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của Đảng,
Nhà nước ta trong công cuộc xây dựng, đổi mới và phát triển đất nước.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hôi (bổ
sung, phát triển năm 2011) khẳng định: “Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất
của chế độ ta, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển đất nước.
Xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm
dân chủ được thực hiện trong thực tế cuộc sống ở mỗi cấp, trên tất cả các lĩnh
vực. Dân chủ gắn liền với kỷ luật, kỷ cương và phải được thể chế hoá bằng
pháp luật, được pháp luật bảo đảm.Nhà nước tôn trọng và bảo đảm các quyền
con người, quyền công dân; chăm lo hạnh phúc, sự phát triển tự do của mỗi
người. Quyền và nghĩa vụ công dân do Hiến pháp và pháp luật quy định.
Quyền của công dân không tách rời nghĩa vụ công dân.Nhân dân thực hiện
quyền làm chủ thông qua hoạt động của Nhà nước, của cả hệ thống chính trị
và các hình thức dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện”[10].
Biểu tình được xem là một sự thể hiện công khai ý chí của người dân
về những vấn đề của đời sống xã hội. Về tính chất, biểu tình có thể là sự ủng
hộ hoặc phản kháng đối với một chủ trương, chính sách, sự kiện hay một
quyết định nào đó. Chủ trương, chính sách, sự kiện, quyết định đó không chỉ
là của nội bộ quốc gia mà còn có thể là của quốc gia khác.Quyền biểu tình của
người công dân được quy định tại Điều 25 Hiến pháp năm 1959; Điều 67
Hiến pháp năm 1980; Điều 69 Hiến pháp năm 1992. Hiến pháp năm 2013 với
tư tưởng mới về quyền con người, quyền công dân thì quyền biểu tình của
công dân được quy định tại Điều 25: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự
do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình. Việc thực hiện các
2
quyền này do pháp luật quy định” [17]. Hiến pháp năm 1946 không quy định
trực tiếp quyền biểu tình của người dân nhưng nội hàm của quyền biểu tình
được quy định tại Điều 10 của Hiến pháp 1946 “Công dân Việt Nam có quyền
tự do ngôn luận, tự do xuất bản, tự do tổ chức và hội họp…” [13]. Tuy nhiên,
trong suốt hơn 70 năm qua, chúng ta vẫn chưa xây dựng được một bộ luật
trực tiếp để điều chỉnh các hoạt động liên quan đến biểu tình. Hiện nay, chỉ có
Nghị định 38/2005/NĐ-CP ngày 18/3/2005 của Chính phủ quy định về một số
biện pháp bảo đảm trật tự công cộng để giải tán các cuộc “tập trung đông
người ở nơi công cộng”. Sau đó Bộ Công an cũng ban hành Thông tư
09/2005/TT-BCA để hướng dẫn thi hành một số điều của Nghị định
38/2005/NĐ-CP. Tuy nhiên, các quy định này không điều chỉnh trực tiếp các
vấn đề liên quan của biểu tình, mà đặt ra nhiều hạn chế và quy trình khó khăn
để người dân thực hiện quyền biểu tình. Đứng trước tình hình đó, Quốc hội đã
có Nghị quyết về xây dựng Luật biểu tình, tuy nhiên Dự án Luật biểu tình đã
được lùi từ chương trình cho ý kiến tại kỳ họp thứ 9, khoá XIII sang chương
trình cho ý kiến tại kỳ họp thứ 11, khóa XIII.
Thực tiễn cho thấy, biểu tình đã xuất hiện ở nước ta từ rất lâu, ngay
trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ chúng ta đã tiến
hành nhiều cuộc biểu tình đòi những yêu sách cho dân tộc thuộc địa và diễn ra
ở nhiều nơi. Hiện nay, để phản đối các chính sách pháp luật, các sự kiện có
liên quan thì công dân cũng đã tiến hành nhiều cuộc biểu tình như: biểu tình
về chính sách đất đai của nông dân huyện Văn Giang (Hưng Yên), biểu tình
phản đối Trung Quốc có một số hành động phi phạm ở biển Đông (tuyên bố
chủ quyền với Hoàng Sa và Trường Sa, cắt đứt cáp tàu Bình Minh của Việt
Nam, hạ đặt giàn khoan HD 981 trên thềm lục địa của Việt Nam). Tuy nhiên,
do thiếu vắng một bộ luật quy định trực tiếp quy định về biểu tình và sự hạn
chế của Nghị định 38/2005/NĐ-CP và Thông tư 09/2005/TT-BCA nên việc
thực thi quyền biểu tình của người dân chưa được thực thi trên thực tế.
3
Trước tình hình đó, để tăng cường và phát huy dân chủ, góp phần hoàn
thiện pháp luật về biểu tình ở Việt Nam, nghiên cứu kinh nghiệm về xây dựng
luật biểu tình của một số nước trên thế giới việc nghiên cứu đề tài “Pháp luật
về biểu tình trên thế giới và ở Việt Nam” là hết sức cần thiết.
2.Tình hình nghiên cứu
Ngoài nƣớc : Biểu tình được coi là quyền con người cơ bản được cộng
động quốc tế và các quốc gia ghi nhận trong pháp luật nhằm mục đích bảo
đảm thực thi quyền biểu tình. Cũng chính vì lý do đó, biểu tình và quyền biểu
tình được các khoa học xã hội, đặc biệt là luật học rất quan tâm nghiên cứu.
Các nhà luật học đã nghiên cứu làm rõ nhiều vấn đề cơ bản về vấn đề này bao
gồm: khái niệm biểu tình; phân biệt biểu tình với một số hoạt động khác; ý nghĩa
của biểu tình; vị trí, vai trò của pháp luật trong việc bảo đảm quyền biểu tình; mối
quan hệ giữa quyền biểu tình với biểu tình và một số quyền khác (quyền tự do
ngôn luật; tự do hội họp); các xu hướng phát triển của biểu tình trên thế giới; các
quy định và thực thi pháp luật về biểu tình, quyền biểu tình….
Trong nƣớc: Ở Việt Nam, biểu tình, quyền biểu tình vẫn còn là vấn đề
ít được nghiên cứu trong giới học thuật. Gần đây mới bắt đầu có một số ít bài
viết bàn về biểu tình, quyền biểu tình khi vấn đề xây dựng về luật biểu tình
được đặt ra trong chính sách của Đảng và Nhà nước.
- Bài viết: “Quyền biểu tình ở Cộng hòa Liên bang Đức và hướng hoàn
thiện chế định này trong Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992” của TS. Nguyễn
Minh Tuấn đăng trên Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, Văn phòng Quốc hội, Số
12 (224)/ Tháng 6/2013, tr. 56-64 đã nghiên cứu quyền biểu tình ở Cộng hòa
Liên bang Đức và đưa ra những định hướng cơ bản để sửa đổi quyền biểu tình
trong việc sửa đổi Hiến pháp 1992 và một số nội dung cơ bản của luật biểu
tình nếu được xây dựng.
- Bài viết: “Về khái niệm biểu tình” của ThS. Nguyễn Thanh Minh
đăng trên tạp chí Nghiên cứu lập pháp, Văn phòng Quốc hội, số 20/2012,
4
trang 16 đã đưa ra một số vấn đề mang tính lý luận về khái niệm, đặc điểm có
liên quan đến quyền biểu tình.
- Bài viết:“ Nhu cầu luật hóa quyền biểu tình theo Hiến pháp 2013” của
ThS.Nguyễn Linh Giang đăng trên Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, Văn phòng
Quốc hội, Số 11/2015 đã nêu lên được nhu cầu phải thể chế hóa các quy định
của Hiến pháp 2013 về quyền biểu tình của công dân và đưa một số nội dung
cơ bản của Luật biểu tình.
- Bài dự thi nghiên cứu khoa học của sinh viên cấp trường Đại học Luật
Thành phố Hồ Chí Minh: “Quyền biểu tình – những vấn đề lý luận và thực
tiễn” của tác giả Võ Tuấn Lộc và Kim Tư Nga năm 2009 – 2010 đã đề cập
đến nhiều nội dung vấn đề lý luận liên quan đến quyền biểu tình, có sự nghiên
cứu đánh giá pháp luật biểu tình của một số nước trên thế giới.
Tuy nhiên, hầu như chưa có công trình nghiên cứu nghiêm túc và đầy
đủ nào về biểu tình cũng như pháp luật vể biểu tình ở nước ta. Trong quá trình
xây dựng luật biểu tình, Bộ Tư pháp, Văn phòng Chính phủ cũng tổ chức một
số tọa đàm tham vấn các chuyên gia, nhà khoa học về các vấn đề liên quan
đến luật biểu tình. Trong quá trình sửa đổi Hiến pháp 2013, vấn đề bảo đảm
quyền con người, trong đó có quyền biểu tình cũng được thảo luận nhằm tìm
ra những đề xuất đảm bảo hiệu quả hơn quyển biểu tình của công dân. Nhìn
chung, các bài viết, ý kiến thường chỉ chú trọng đề cập pháp luật biểu tình ở
khía cạch quản lý nhà nước (quy định về thông báo tổ chức biểu tình; cấm
hoặc hạn chế biểu tình; cấm, thời gian và phạm vi cấm biểu tình; thủ tục đăng
ký biểu tình…) mà chưa chú trọng đến khía cạnh biểu tình ở phương diện
quyền con người, có nhiều quy định về trách nhiệm của Nhà nước tạo mọi
điều kiện để công dân thực hiện được quyền biểu tình.
3.Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề mang tính lý luận
liên quan đến pháp luật biểu tình, nghiên cứu pháp luật biểu tình một số nước
5
trên thế giới, thực trạng pháp luật biểu tình ở Việt Nam, thực tiễn thực hiện
quyền biểu tình của người dân trong những năm qua và đưa ra những kiến
nghị về xây dựng Dự thảo Luật biểu tình trong thời gian tới.
Phạm vi nghiên cứu của luận văn là tập trung vào nghiên cứu pháp luật
và thực tiễn thi hành pháp luật về biểu tình ở Việt Nam trong khoảng hơn 10
năm trở lại đây, đặc biệt là sau khi Chính phủ ban hành Nghị Định
38/2005/NĐ-CP và Bộ Công an ban hành Thông tư 09/2005/TT-BCA, bao
gồm: Thế nào là tập trung đông người nơi công cộng, quy trình,thủ tục đế tiến
hành một cuộc tập trung đông người, trách nhiệm của các cơ quan có liên
quan, xử lý vi phạm… Bên cạnh đó, luận văn cũng đề cập khái quát pháp luật
biểu tình một số nước trên thế giới như: Cộng hòa Liên bang Đức, Hàn Quốc,
Trung Quốc, Campuchia để có thể làm bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
trong việc xây dựng Dự thảo Luật Biểu tình. Đây là những quốc gia có rất
nhiều điểm tương đồng với Việt Nam nên những bài học kinh nghiệm từ các
quốc gia này trong việc xây dựng Luật Biểu tình sẽ có ý nghĩa quan trọng đối
với việc xây dựng Luật Biểu tình ở Việt Nam – thể chế hóa quy định tại Điều
25, Hiến pháp 2013 - một bản Hiến pháp đề cao quyền con người.
4.Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu
Luận văn này nhằm mục đích làm rõ những vấn đề mang tính lý luận
về pháp luật biểu tình; nghiên cứu pháp luật một số quốc gia trên thế giới đặc
biệt là những quốc gia có nhiều điểm tương đồng với Việt Nam, phân tích
thực tiễn những quy định pháp luật Việt Nam có điều chỉnh một số vấn đề
liên quan đến biểu tình từ đó chỉ ra sự cần thiết phải xây dựng Luật biểu tình
trong thời gian tới để điều chỉnh, giúp cho người dân thực hiện được quyền
biểu tình như trong quy định của Hiến pháp 2003, từ đó đề xuất một số nội
dung trong việc xây dựng Dự thảo Luật biểu tình trong thời gian tới.
6
Nhiệm vụ nghiên cứu
Luận văn sẽ giải quyết một số nhiệm vụ cơ bản sau:
- Làm sáng tỏ khái niệm về biểu tình, phân biệt giữa quyền biểu tình và
pháp luật biểu tình, phân biệt giữa quyền biểu tình và một số quyền khác như
quyền tự do hội họp, quyền tự do ngôn luận.
- Phân tích và nghiên cứu pháp luật biểu tình một số quốc gia trên thế
giới có nhiều điểm tương đồng với Việt Nam để rút ra những kinh nghiệm
Việt Nam có thể tiếp thu trong quá trình xây dựng Dự thảo Luật Biểu tình.
- Hệ thống hóa các quy định của pháp luật hiện hành và tình hình thực
hiện quyền biểu tình của công dân trong thời gian qua, qua đó nêu nên những
khó khăn, vướng mắc, cũng như những tồn tại hạn chế của hệ thống pháp luật
quy định về quyền biểu tình của người dân và đưa ra những kiến nghị đề xuất
một số nội dung trong Dự thảo Luật biểu tình.
5.Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu của đề tài.
Việc nghiên cứu của luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác
- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm, chủ trương, đường lối của
Đảng Cộng sản Việt Nam về Nhà nước và pháp luật, đặc biệt là các quan
điểm của Đảng và Nhà nước ta về phát huy quyền làm chủ của nhân dân nói
chung và về vấn đề biểu tình nói riêng để làm sáng tỏ những nội dung cần
nghiên cứu.
Luận văn được thực hiện trên cơ sở áp dụng phương pháp luận duy vật
biện chứng của chủ nghĩa Mác - Lênin và các phương pháp nghiên cứu, như
phương pháp lịch sử cụ thể, phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp
luật học so sánh, khảo sát thực tế và có tham khảo kinh nghiệm của một số nước.
6.Ý nghĩa lý luận, thực tiễn của luận văn
Quyền biểu tình của công dân đã được đề cập trong các bản Hiến pháp
của Việt Nam, nhưng đến nay chưa có một văn bản quy phạm pháp luật nào
7
trực tiếp điều chỉnh các nội dung để công dân thực hiện một cuộc biểu tình.
Chính vì vậy, Đề tài học viên lựa chọn sẽ cố gắng hệ thống hóa, phân tích và
đưa ra những vấn đề mang tính lý luận về pháp luật biểu tình như: khái niệm,
hình thức, ý nghĩa, phân biệt biểu tình với một số quyền khác có liên quan
(quyền tự do hội hop, quyền tự do ngôn luận); nghiên cứu đánh giá thực trạng
pháp luật về biểu tình và thực tiễn thi hành pháp luật về biểu tình, chỉ ra
những khó khăn,vướng mắc trong khi thực hiện các quy định về biểu tình.
Trên cơ sở đó, đưa ra những kiến nghị hoàn thiện pháp luật nhằm đảm bảo
cho việc thực hiện pháp quyền biểu tình của công dân được thực hiện trên
thực tế, phát huy quyền dân chủ của công dân trong việc xây dựng đất
nước.Vì vậy, luận văn là một nguồn tài liệu tham khảo tốt cho các cơ quan
hữu quan trong việc xay dựng và hoàn thiện Luật biểu tình trong thời gian tới,
thể chế hóa quy định của Hiến pháp năm 2013. Ngoài ra, luận văn cũng là
nguồn tài liệu tham khảo tốt cho việc giảng dạy, nghiên cứu luật tại khoa Luật
ĐHQG Hà Nội và các cơ sở đào tạo luật khác của Việt Nam.
7.Kết cấu của luận văn
Ngoài các phần Lời nói đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, luận văn
được kết cấu làm 3 chương như sau:
Chương 1: Cơ sở lý luận về biểu tình
Chương 2: Pháp luật quốc tế và một số quốc gia trên thế giới về biểu tình
Chương 3: Pháp luật biểu tình ở Việt Nam: Thực trạng và hướng hoàn thiện
8
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT BIỂU TÌNH
1.1.Biểu tình
1.1.1.Khái niệm
Biểu tình là một vấn đề phức tạp. Hiện nay, trên thế giới chưa có một
định nghĩa về biểu tình thật sự thống nhất. Các nước khác nhau có những
quan điểm khác nhau về biểu tình. Luật pháp của nhiều quốc gia thừa nhận
quyền biểu tình nhưng hầu hết lại không định nghĩa thế nào là biểu tình.
Theo Từ điển Luật học, Nhà xuất bản Từ điển bách khoa, nhóm tác giả
định nghĩa về biểu tình “…biểu tình là hình thức đấu tranh bằng cách tụ họp
đông đảo để bày tỏ ý chí nguyện vọng và biểu dương lực lượng chung của
một tập thể”[43].
Theo Từ điển tiếng Việt, biểu tình là việc đấu tranh bằng cách tụ họp
đông người để bày tỏ ý chí, nguyện vọng và biểu dương lực lượng chung. Ví
dụ như biểu tình tuần hành, xuống đường biểu tình, biểu tình ngồi [41].
Theo bách khoa toàn thư Bắc Mỹ (Encyclopedia Americana) thì biểu
tình “là hành động bất bạo lực của một nhóm người, nhằm mục đích đưa đến
cộng đồng một quan điểm hay một cách nhìn về một vấn đề nào đó trong xã
hội”.[70]
Theo các tác giả Kim Từ Nga và Võ Tấn Lộc thì “Biểu tình là sự tập
hợp tự nguyện từ mười người trở lên, hành động mang tính phi bạo lực, để
bày tỏ thái độ phản đối hay ủng hộ công khai về một vấn đề nào đó trước Nhà
nước, tổ chức hoặc cá nhân nhằm đòi hỏi quyền lợi cho mình, cho chủ thể
khác hoặc cho xã hội”. [30]
Mỗi khái niệm được rút ra từ những nghiên cứu của các tác giả từ
những góc độ khác nhau. Nhưng nhìn chung các khái niệm trên đều đưa ra
các đánh giá về biểu tình dựa trên các đặc trưng cơ bản nhằm phân biệt biểu
tình với hoạt động tương tự khác.
9
Nhìn một cách tổng quan các khái niệm đã đưa ra những đặc điểm chung là
sự tập trung của một số người nhất định nhằm đưa ra quan điểm về một vấn đề
nào đó đối với xã hội. Chính vì vậy, biểu tình có những đặc điểm sau:
Thứ nhất, có nhiều người tham gia.
Bất kỳ một cuộc biểu tình nào nổ ra cũng phải tập hợp được một lực
lượng đông đảo. Họ bày tỏ những quan điểm của mình và có thể phản đối
chính sách của Nhà nước, tổ chức hay cá nhân nào đó. Đấu tranh bằng
phương pháp hòa bình là chủ đạo nên phải nhiều người mới tạo được sức
mạnh cần thiết để tác động đến những chủ thể mà họ không bằng lòng. Ví dụ,
cuộc biểu tình đòi thả nhà chí sĩ Phan Bội Châu đã có hàng vạn người đủ các
tầng lớp nhân dân tham gia. Và lịch sử hình thành quyền biểu tình cũng được
thực hiện bởi hoạt động biểu tình có nhiều người tham gia. Họ có thể có
những cách thức đấu tranh khác nhau, nhưng không đối lập. Họ có điểm
chung là hướng đến đối tượng mà họ ủng hộ hay phản đối để bày tỏ thái độ
hay đòi hỏi những gì mà mình mong muốn. Vì thế, người biểu tình có nhu cầu
liên kết lại. Một người lẻ loi đứng ra bày tỏ quan điểm ủng hộ hay phản đối về
bất cứ một vấn đề nào thì không phải là hành động biểu tình.
Biểu tình với đặc điểm có nhiều người tham gia thường được thể hiện
dưới nhiều hình thức như: diễu hành, chiếm đóng, thậm chí là nude tập thể...
Diễu hành hay còn gọi là mít-tinh được hiểu là việc xuống đường của
nhiều người di chuyển trong trật tự từ địa điểm này đến địa điểm khác. Ở Việt
Nam cũng hay tổ chức những cuộc mít-tinh diễu hành mừng ngày giải phóng
hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước (ngày 30 tháng 4) hay ngày Quốc
tế Lao động (ngày 1 tháng 5)... Đoàn người vừa đi vừa hô khẩu hiệu theo sự
chỉ dẫn của những người tổ chức. Đây cũng là một hình thức biểu tình nhưng
được thể hiện dưới dạng ủng hộ. Thông thường, Nhà nước đứng ra tổ chức
các cuộc biểu tình này và người dân luôn hưởng ứng, tham gia.
10
Chiếm đóng được hiểu là sự bao vây của nhiều người quanh một địa
điểm nhất định nào đó trong một khoảng thời gian. Ví dụ, cuộc biểu tình của
hàng chục ngàn người mặc áo đỏ tại Thái Lan ngày 3/4/2010, “các tòa nhà
văn phòng và hàng chục trung tâm thương mại sầm uất tại thủ đô Bangkok đã
phải đóng cửa vì lý do an ninh. Giao thông trên nhiều tuyến phố bị tê liệt.
Người biểu tình áo đỏ cho biết, họ sẽ tiếp tục chiếm đóng các trung tâm
thương mại cho tới khi nào yêu cầu của họ được đáp ứng. Rất nhiều người
biểu tình áo đỏ đã ngủ lại qua đêm trên hè phố”. Nude là hình thức người biểu
tình cởi bỏ quần áo để gây sự chú ý. Ví dụ, ngày 7/6/2012 vừa qua, tại
Montreal, bang Québec (Canada) đã diễn ra một buổi "diễu hành biểu tình"
hết sức đặc biệt [49]. Hàng trăm sinh viên đã xuất hiện trên đường phố trong
trạng thái bán khỏa thân; một số nữ sinh thả rông ngực và chỉ mặc quần chip,
một số khác lại mặc bikini hoặc nội y màu đỏ bắt mắt. Trên tay họ là những
biểu ngữ, khẩu hiệu phản đối việc tiền học phí không ngừng tăng cao. Trong
tình trạng kinh tế suy thoái toàn cầu, khó khăn về vấn đề tài chính đã ảnh
hưởng rất lớn đến nhiều lĩnh vực xã hội. Với ngành giáo dục, đây cũng là thử
thách muôn vàn khó khăn khi muốn duy trì mục tiêu phát triển mà lãnh đạo
đất nước đặt ra.
Thứ hai, phải thể hiện sự ủng hộ hay phản đối công khai.
Dù biểu tình được thực hiện dưới hình thức nào cũng phải thể hiện sự
phản đối hoặc ủng hộ công khai. Những chính sách hay quyết định của bất kỳ
nhà nước hay tổ chức, cá nhân nào gây phương hại đến những người khác đều
có thể trở thành đề tài phản đối của người biểu tình. Ví dụ, phe Áo đỏ ở Thái
Lan phát động một cuộc biểu tình trên quy mô lớn phản đối các nhà lãnh đạo
và sự điều hành của Chính phủ. Người đứng đầu và đoàn biểu tình “gây sức
ép đòi Thủ tướng từ chức, giải tán Hạ viện và tiến hành bầu cử sớm”[49].
Trong trường hợp này, người biểu tình rõ ràng thể hiện thái độ không đồng
11
tình với những chủ trương mà những người đứng đầu Chính phủ đưa ra. Tuy
nhiên, biểu tình không chỉ thể hiện sự phản đối mà trong nhiều trường hợp nó
còn bày tỏ sự ủng hộ. Nhiều vấn đề người dân bày tỏ thái độ ủng hộ, đơn
thuần chỉ vì họ thấy nó phù hợp, đem lại lợi ích cho mình và xã hội. Nếu
Chính phủ hoặc tổ chức, cá nhân đang có những lựa chọn cách giải quyết cho
một vấn đề nào đó thì sự ủng hộ của người biểu tình sẽ góp phần củng cố
quyết tâm của những chủ thể đưa ra quyết định. Ví dụ, cuộc biểu tình ngày
19/4/2010 của người dân New York, “cuộc biểu tình do Chiến dịch Hỗ trợ và
trách nhiệm với các nạn nhân chất độc da cam dioxin Việt Nam phát động đã
diễn ra tại công viên Prospect, nơi diễn ra sự kiện Chạy vì nước sạch do công
ty Dow tổ chức. Những người tổ chức biểu tình cho rằng, công ty Dow đang
lợi dụng các hoạt động Chạy vì nước sạch để che giấu hành vi gây ô nhiễm
nguồn nước và phá hủy hệ sinh thái ở Việt Nam và nhiều nơi khác”[49].
Sự phân biệt giữa ủng hộ hay phản đối cũng chỉ ở mức tương đối, vì
nhiều cuộc biểu tình có sự đan xen giữa hai yếu tố này. Thông thường, một
cuộc biểu tình ủng hộ ai đó thì đồng thời cũng là một biểu hiện cho sự phản
đối với bên đối lập. Điển hình là các cuộc biểu tình trong cuộc chiến tranh
giữa Mỹ và Việt Nam. Người dân yêu chuộng hòa bình trên toàn thế giới tổ
chức nhiều cuộc biểu tình phản đối cuộc chiến của Mỹ tại Việt Nam. Nhưng
không chỉ có sự phản đối, mà thông qua sự không đồng tình với nhà cầm
quyền Mỹ, người biểu tình đã trực tiếp hoặc gián tiếp ủng hộ sự nghiệp cách
mạng của nhân dân Việt Nam.
Nếu chỉ có sự tụ họp đông người nhưng không thể hiện sự phản đối
hoặc ủng hộ công khai thì cũng không là biểu tình. Vì đó có thể chỉ là sự tụ
họp, bàn bạc, thảo luận để đưa ra ý kiến mang tính chất đóng góp hay bổ
sung. Còn biểu tình, dù được thể hiện dưới bất kỳ hình thức nào thì cũng phải
công khai. Bản chất của biểu tình nằm ở chỗ bằng sức mạnh của số đông,
12
người biểu tình truyền tải thông điệp công khai tới đối tượng mà họ hướng
đến ngay lập tức và nhanh chóng. Cho nên, sự công khai là đặc điểm bắt
buộc. Như “cuộc biểu tình đòi thả Phan Bội Châu năm 1925 thu hút đông đảo
thanh niên, sinh viên, học sinh. Họ giương cao biểu ngữ, phân phát truyền
đơn, phản đối sự bắt bớ đối với Phan Bội Châu. Có những tờ đơn kháng cáo
còn được gửi tới tận Hội Quốc Liên, Tòa án quốc tế Lahay (Hà Lan), Nghị
viện Pháp đòi hủy bản án cho Phan Bội Châu”.
Thứ ba, mục đích của biểu tình nhằm đòi hỏi quyền lợi cho mình, cho
chủ thể khác hoặc cho xã hội.
Điều cốt yếu nhất của hiện tượng biểu tình là sự xung đột lợi ích giữa
các giai cấp, tầng lớp, hay các nhóm xã hội. Người ta đi biểu tình vì chính
Nhà nước, tổ chức, cá nhân nào đó làm ảnh hưởng đến quyền lợi của họ, của
chủ thể khác hoặc của xã hội. Người biểu tình nhận thấy rằng, nếu cứ để tình
trạng đó diễn ra thì thật sự không tốt, nên họ tập hợp nhau lại biểu tình đấu
tranh đòi quyền lợi. Thời gian gần đây, người dân trên khắp thế giới biểu tình
chống chiến tranh, đòi bảo vệ môi trường sinh thái, bảo vệ động vật hoang dã.
Những hành động ấy là sự thể hiện cho ý thức bảo vệ lợi ích của xã hội loài
người một cách lâu dài.
Trong một cuộc biểu tình, vấn đề bạo lực hay bất bạo lực luôn là vấn đề
gây tranh cãi. Qua nghiên cứu các cuộc biểu tình trong lịch sử cũng như các
năm gần đây, đặc biệt là các cuộc biểu tình về các vấn đề chống chiến tranh,
phản đối các quyết sách của nhà nước hay các cuộc biểu tình của các phe phái
tôn giáo chống lại nhau thì tình trạng bạo lực thường xuyên xảy ra. Ví dụ,
ngày 03/04/2011, hàng nghìn người Afghanistan tiếp tục xuống đường tại
nhiều thành phố để phản đối vụ mục sư Mỹ đốt kinh Koran [49]. Trước đó,
những người quá khích đã tràn vào tấn công một văn phòng của Liên Hợp
Quốc tại Mazar e-Sharif, sát hại 7 nhân viên LHQ. Đó là ngày thứ ba liên tiếp
của làn sóng biểu tình ở Afghanistan phản đối vụ đốt kinh Koran. Tại
13
Jalalabad, hàng trăm người đã phong tỏa tuyến đường chính trong suốt ba giờ.
Trước đó, cuộc biểu tình bạo lực tại Khadahar đã làm 10 người thiệt mạng,
trong đó có 1 cảnh sát. Vì vậy, vấn đề đặt ra là bạo lực có phải là một đặc
điểm của biểu tình không? Có nên coi bạo lực là một đặc điểm của biểu tình
theo quan điểm hiện đại hay không. Đánh giá một số cuộc biểu tình có bạo
lực có thể thấy rằng hầu hết các cuộc biểu tình đều bắt đầu diễn ra trong tình
trạng ôn hòa, về sau vì nhiều nguyên nhân, có trường hợp xuất phát từ chính
những người biểu tình khi họ quá phấn khích, có trường hợp xuất phát từ
hành vi của nhà cầm quyền trong việc đàn áp, hạn chế hay cố gắng giải tán
cuộc biểu tình bằng những cách thức không đúng luật nhưng không thích hợp,
hoặc trong trường hợp nguyện vọng của người biểu tình liên quan đến các lợi
ích thích hợp, hoặc trong trường hợp nguyện vọng của người biểu tình liên
quan đến các lợi ích thiết thân của họ mà không được đáp ứng thì dễ gây ra
tâm lý bất mãn, chống đối. Từ đó gây ra tình trạng xung đột giữ người biểu
tình với lực lượng đảm bảo an ninh hoặc giữa người biểu tình của đoàn biểu
tình này với người biểu tình của đoàn biểu tình khác, hoặc giữa người biểu
tình với người không tham gia biểu tình. Ví dục như ngày 16 và 17/02/2011,
chính phủ Bahrain đã buộc phải cử quân đội cùng với xe tăng hỗ trợ cảnh sát
lấy lại trật tự an ninh tại những thành phố lớn. Ngày 17/02, lực lượng Cảnh
sát Bahrain lần đầu tiên phải sử dụng đến hơi cay, vòi rồng để giải tán đám
đông quá khích tại quảng trường khi họ lớn tiếng đòi cải tổ chính trị, thay đổi
nội các. Ghi nhận của phóng viên nước ngoài cho hay, ít nhất 4 người đã thiệt
mạng trong vụ bạo động này, phản đối các quyết sách của nhà nước hay các
cuộc biểu tình của các phe phái tôn giáo chống lại nhau thì tình trạng bạo lực
thường xuyên xảy ra [49].
Diễn giải như vậy không bao gồm ý nghĩa bạo lực là một đặc điểm của
biểu tình mà chỉ chú ý một sự thật đang diễn ra là trong các cuộc biểu tình
luôn tiềm ẩn nguy cơ gây ra bạo lực.
Thông qua phân tích ở trên ta có thể thấy rằng bạo lực trong một cuộc
biểu tình không phải là một hành động xuất phát từ bản chất mà chỉ là do tác
động từ các yếu tố bên ngoài nên nảy sinh ra mà thôi.
14
Như vậy, trên thực tế, biểu tình là sự tập hợp của nhiều người để bày tỏ
thái độ phản đối hay ủng hộ công khai về một vấn đề nào đó trước Nhà nước,
tổ chức hoặc cá nhân nhằm đòi hỏi quyền lợi cho mình, cho chủ thể khác
hoặc cho xã hội.
1.1.2.Phân loại biểu tình
Biểu tình là một hoạt động hết sức phổ biến trên thế giới vì vậy để phân
loại biểu tình tùy vào từng loại tiêu chí có thể phân loại biểu tình thành nhiều
loại khác nhau. Việc phân loại không nhằm mục đích gì khác hơn là nhằm tạo
một hướng nhìn đầy đủ và hoàn thiện hơn về biểu tình. Cách phân loại biểu
tình ở đây dựa trên bản chất của biểu tình.
Dựa vào hình thức của biểu tình
Diễu hành, tuần hành, thị uy là việc những người biểu tình xuống
đường di chuyển trong trật tự từ một địa điểm này đến một địa điểm khác.
Đây là hình thức được sử dụng một cách thường xuyên và phổ biến nhất, việc
một cuộc biểu tình không nhất thiết chỉ được sử dụng một hình thức để biểu
tình nó có thể chuyển từ hình thức này sang hình thức khác nếu cần thiết để
đạt được mục đích. Ví dụ, VON đơn vị sở hữu cổng thông tin lớn nhất Việt
Nam đã tặng 400 mũ bảo hiểm cho toàn thể nhân viên công ty đồng thời tổ
chức diễu hành bằng xe máy qua các trục đường chính của trung tâm thành
phố như Điện Biên Phủ, Phạm Ngọc Thạch, Nguyễn Huệ, Lê Lợi, Lê
Duẩn…để cổ vũ cho phong trào đội mũ bảo hiểm [49].
Mít tinh là hình thức người biểu tình tập hợp tại một địa điểm cố định
để nghe diễu thuyết của một người, và đôi khi là diễn đàn để đưa ra các ý kiến
và quan điểm. Hình thức này mang nhiều đặc điểm của sự tụ họp nơi công
cộng. Ví dụ ngày 03/08/2006, hàng chục người Hồi giáo dòng Shiite, trùm
đầu bằng vải trắng, đã tập tủng tại thủ đô Baghdad, Iraq, nhằm thể hiện sự
ủng hộ đối với Hezbollah. Các đường phố thuộc khu ổ chuột của thành phố
Sard, do người Shiite cai quản tại Baghdad, đầy chật người. Ban tổ chức cho
15
biết có khoảng 250 nghìn người tham dự cuộc mít tinh do giáo sĩ Muqta al-
Sadr khởi xướng. Những người biểu tình trùm đầu bằng vải liệm màu trắng -
biểu tượng cho tinh thần sẵn sàng xả thân vì đạo. Bên cạnh đó, cuộc biểu tình
còn có ý nghĩa phô trương thanh thế của al-Sadr, người đang chỉ huy lực
lượng quân đội hùng hậu Mahdi [49].
Hàng rào ngăn cản là các cuộc biểu tình vây quanh một địa điểm nào
đó nhằm để phản đối trực tiếp. Hình thức này diễn ra nhằm vào một đối tượng
cụ thể, thông qua ngăn cản hoạt động bình thường của đối tượng để đáp ứng
nguyện vọng của người biểu tình.
Chiếm đóng là những người biểu tình trụ lại một địa điểm nhất định
trong một thời gian dài gây áp lực khó khăn cho chủ thể chịu phản đối.
Giả chết là hình thức biểu tình khổ hạnh, người biểu tình sắp đặt một
cảnh tượng chết chóc dùng để phản đối chiến tranh, hay phản đối một sản
phẩm thuốc men mà cho rằng có hại. Ngoài ra còn một số hình thức như biểu
tình khỏa thân.
Dựa vào lĩnh vực mà biểu tình tác động đến
Biểu tình chính trị là các cuộc biểu tình hướng đến việc giải quyết các
vấn đề chính trị như thay đổi chính phủ, đòi quan chức nhà nước từ chức, ủng
hộ các đảng cầm quyền. Biểu tình chính trị là hoạt động hết sức phổ biến và
có ý thức sâu sắc đối với nhà nước và xã hội, ví dụ như tại Tunisia hàng nghìn
người đã xuống đường ở thủ đô Tunis và ở các tỉnh để đòi tổng thống Ben Ali
từ chức, mặc dù một ngày trước đó, lãnh đạo Tunisia đã mọt lần nữa tìm cách
xoa dịu sự bất mãn của dân chúng. Các cuộc biểu tình cũng diễn ra ở nhiều
tỉnh của nước này.
Biểu tình về các vấn đề kinh tế
Ví dụ như các cuộc biểu tình tại Anh hàng trăm nghìn người đã xuống
đường biểu tình ở thủ đô London nhằm phản đối các biện pháp thắt lưng buộc
16
bụng của Chính phủ, theo đó sẽ cắt giảm 81 tỷ bảng chi tiêu ngân sách để đối
phó với mức thâm hụt ngân sách kỷ lục tại quốc gia này. Hoặc tại Italia
khoảng 300.000 người đã tụ tập biểu tình ở thủ đô Roma để phản đối việc tư
nhân hóa ngành nước và chương trình khôi phục điện hạt nhân của Chính phủ.
Những người biểu tình cho rằng nước là tài sản chung và cần phải có một
cuộc trưng cầu dân ý về việc tư nhân hóa ngành nước và khôi phục ngành
điện hạt nhân. Các cuộc biểu tình này hướng vào các vấn đề như lạm phát
kinh tế, sự xâm phạm của các công ty tới quyền lợi của người tiêu dùng, hoặc
của doanh nghiệp khi không trả lương cho người lao động [49].
Biểu tình về các vấn đề xã hội.
Các cuộc biểu tình diễn ra một cách tương đối phổ biến và thu hút sự
quan tâm của các tầng lớp nhân dân khi các vấn đề liên quan đến xã hội như
bạo hành gia đình, buôn bán trẻ em, an sinh xã hội không được đảm bảo v.v…
Ví dụ như trong cuộc biểu tình tại Mexico hàng nghìn người đã tuần hành
trong im lặng nganh qua trung tâm thành phố Mexico City để phản đối bạo
lực ma túy đã khiến hàng chục nghìn người chết và chiến lược quân sự đã thất
bại trong việc ngăn chặn tệ nạn.
Dựa vào tính chất của cuộc biểu tình
Đây được coi là cách phân loại biểu tình được nhiều nhà lập pháp thừa
nhận và sử dụng rộng rãi nhất hiện nay trong giới luật học vì nó là thước đo
của một biểu tình có thể nhận biết cuộc biểu tình đó có hợp pháp hay không?,
Theo tính chất của cuộc biểu tình thì biểu tình được chia thành:
Biểu tình ôn hòa là biểu tình diễn ra theo quy định của pháp luật về
trình tự mục đích, đối tượng và cuộc biểu tình này diễn ra hòa bình, không
xảy ra xung đột giữa những người tham gia biểu tình với những người khác
đặc biệt là từ phía cơ quan công an.
Biểu tình bạo lực là biểu tình trong đó có xảy ra các hành vi bạo lực,
bạo động làm mất trật tự an ninh, an toàn công cộng, gây ảnh hưởng tới tính
17
mạng, sức khỏe của người khác, xảy ra xung đột giữa những người tham gia
biểu tình và lực lượng công an.
1.2.Quyền biểu tình
1.2.1.Khái niệm
Quyền biểu tình là một quyền quan trọng của con người, được ghi nhận
trong Hiến pháp và pháp luật ở nhiều nước trên thế giới, trong đó có Việt
Nam. Quyền biểu tình được hiểu là quyền của cá nhân, công dân được tự do
bày tỏ quan điểm, ý kiến của mình về một vấn đề nào đó của xã hội, sự bày tỏ
đó thể hiện dưới dạng ủng hộ hoặc phản đối nhằm đỏi hỏi quyền lợi cho cá
nhân, cho cộng đồng hoặc cho xã hội.
Là nội hàm của quyền hội họp, quyền biểu tình có những điểm chung
với quyền tự do hội họp. Hội họp là việc nhiều người tập hợp lại, tại nơi công
cộng hoặc cơ sở tư nhân, trong nhà hoặc ngoài trời, nhằm thực hiện một mục
đích chung nhất định. Theo nghĩa phổ thông, “hội họp” là việc “họp nhau lại
để bàn công việc chung”. Có một số từ gần gũi với hội họp là “họp hành”,
“hội nghị” (cuộc họp được tổ chức với quy mô lớn, có nhiều người tham dự,
để bàn bạc hoặc giải quyết một công việc có tính chất chung nào đó), “hội
thảo” (họp rộng rãi để thảo luận, bày tỏ, trao đổi ý kiến về một vấn đề chung)
[42]… Hội họp có thể vì mục đích riêng tư, gia đình (như đám cưới, sinh
nhật, đám giỗ…), hoặc vì mục đích công (cầu nguyện, hội thảo, tập huấn, sự
kiện…). Quyền biểu tình cũng là một hình thức thể hiện của quyền hội họp-
một cuộc họp đông người để bảy tỏ quan điểm, ý kiến (ủng hộ hoặc phản đối)
của một bộ phận công chúng về một vấn đề nào đó.Trong khi mục đích của
hội họp rất đa dạng, những người biểu tình không tập hợp nhằm trao đổi, chia
sẻ giữa các thành viên với nhau (như hội nghị, hội thảo, lễ hội) mà nhằm bày
tỏ quan điểm của những người biểu tình (các thành viên) với những người
khác (đối tượng cụ thể được nhắm đến hoặc công chúng). Quyền biểu tình có
những đặc điểm sau:
18
- Quyền biểu tình là một quyền dân chủ của công chúng. Đó là quyền
mà công chúng được tự do bày tỏ quan điểm, ý kiến của mình về một vấn đề
nó của xã hội, đó có thể là một vấn đề của quốc gia (chủ trương, chính sách
của Nhà nước) hoặc một vấn đề của quốc tế (chiến tranh, biến đổi khí hậu…).
- Chủ thể của quyền biểu tình rất phong phú và đa dạng, đó có thể là
công dân của nước sở tại, cũng có thể là công dân nước ngoài, người không
quốc tịch… Chính vì vậy, Khoản I, Điều 20, UHDR 1948 quy định: “Mọi
người đều có quyền tự do hội họp và tham gia hội họp một cách hòa bình”.
Mọi người ở đây dùng để chỉ tất cả không phân biệt giới tính, quốc tịch, sức
khỏe… tất cả mọi người đều có thể trở thành chủ thể của quyền biểu tình.
- Mục đích của quyền biểu tình là nhằm đưa ra ý kiến đồng tình hoặc
phản đối về một vấn đề cụ thể mà những người biểu tình hướng tới – đây là
mối liên hệ tối thiểu giữa những người biểu tình. Nếu những chủ trương,
chính sách của Nhà nước đúng pháp luật, phản ánh được thực tiễn, đem lại lợi
ích cho đông đảo mọi người thì sẽ được công chúng ủng hộ và ngược lại sẽ bị phản
đối. Tuy nhiên, đa số các cuộc biểu tình diễn ra cho thấy, công chúng thường có
quan điểm phản đối nhiều hơn là biểu tình do lúc đó quyền lợi của công chúng
không được đảm bảo, công chúng tiến hành biểu tình nhằm đưa ra ý kiến của mình
để Nhà nước thay đổi các chủ trương, chính sách cho phù hợp.
- Quyền biểu tình phải được thực hiện một cách ôn hòa, không được
dùng để xúc phạm, gây chia rẽ, bất ổn hay kích động các hành vi bạo lực,
phân biệt đối xử. Đây được coi là điều kiện kiên quyết để quyền biểu tình
được coi là một quyền hợp pháp và được Nhà nước bảo đảm. Chính vì vậy,
quyền biểu tình luôn đi kèm với hình thức “phi vũ trang”. Mọi vũ khí như:
súng, đạn, gậy, gộc, giáo mác… đều bị cấm khi thực hiện trong biểu tình để
tránh gây ra tình trạng bạo động, xung đột với những người có trách nhiệm
bảo vệ cuộc biểu tình.
19
1.2.2.Giới hạn của quyền biểu tình
Cũng như các quyền con người khác, quyền biểu tình cũng có những
giới hạn của nó, cũng giống như các giới hạn của hội họp hòa bình và quyền
tự do ngôn luận. Giới hạn áp dụng là quy định cho phép quốc gia áp đặt một
số điều kiện để việc thực hiện, hưởng thụ một số quyền con người nhất định.
Theo như quy định tại Điều 21, ICCPR 1966: “Quyền hội họp hòa bình phải
được công nhận. Việc thực hiện quyền này không bị hạn chế,trừ những hạn
chế do pháp luật quy định và là cần thiết trong một xã hội dân chủ, vì lợi ích
quốc gia, an toàn và trật tự công cộng, và để bảo vệ sức khỏe và đạo đức xã
hội hoặc bảo vệ quyền và tự do của những người khác”. Như vậy, theo Điều
21, ICCPR, quyền biểu tình sẽ bị giới hạn vì lý do:
- Lợi ích quốc gia;
- An toàn và trật tự công cộng,
- Bảo vệ sức khỏe và đạo đức xã hội;
- Bảo vệ quyền tự do của những người khác.
Theo hướng dẫn tại các nguyên tắc SIRACUSA về giới hạn và đình chỉ
các điều khoản trong công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị, 1984
có giải thích [27]:
Khái niệm “trật tự công cộng” (hay “trật tự công”) được sửa dụng trong
công ước có thể định nghĩa là tổng thể các quy tắc đảm bảo chức năng hoạt
động của xã hội hoặc các bộ nguyên tắc cơ bản mà xã hội được thành lập dựa
vào đó. Tôn trọng quyền con người cũng là một phần của trật tự công cộng.
Sức khỏe của công chúng có thể được coi là là căn cứ cho việc giới hạn
một số quyền để cho phép một nhà nước có biện pháp đối phó với một
mối đe dọa nghiêm trọng đến sức khỏe của người dân hoặc các thành
viên của cộng đồng. Những biện pháp này phải được nhằm cụ thể đến
việc ngăn ngừa bệnh tật hoặc chấn thương hoặc cung cấp sự chăm sóc
cho bệnh nhân và người bị thương.
20
Vì đạo đức cộng đồng khác nhau theo thời gian và giữa các nền văn
hóa, một nhà nước, trong khi hưởng một mức thẩm quyền chủ động nhất định
khi viện dẫn đạo đức cộng đồng như là căn cứ để hạn chế các quyền con
người, phải chứng tỏ các giới hạn liên quan là cần thiết để duy trì sự tôn trọng
giá trị cơ bản của cộng đồng.
An ninh quốc gia có thể được viện dẫn để biện minh cho các biện pháp
giới hạn một số quyền chỉ khi chúng được thực hiện để bảo vệ sự tồn tại của
quốc gia hay toàn vẹn lãnh thổ của nó hoặc độc lập chính trị chống lại việc sử
dụng vũ lực hoặc đe dọa vũ lực.
An toàn công cộng có nghĩa là bảo vệ chống lại sự nguy hiểm đối với
sự an toàn của con người, đối với cuộc sống của họ hoặc toàn vẹn về thể chất,
hoặc thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản của họ.
Nguyên tắc SIRACUSA cũng chỉ rõ phạm vi quyền và tự do của người
khác mà có thể trở thành giới hạn đối với các quyền trong Công ước vượt quá
các quyền và tự do được công nhận trong công ước. Điều này có nghĩa là nếu
quốc gia viện dẫn giới hạn của quyền biểu tình là ảnh hưởng đến quyền và tự
do của người thì viện dẫn này không được vượt quá các quyền và tự do được
công nhận trong Công ước vì Công ước bảo vệ các quyền và tự do cơ bản
nhất của con người.
Ngoài nhưng giới hạn nêu trên đối với quyền biểu tình, quyền biểu tình
có thể bị tạm đình chỉ trong bối cảnh đe dọa sự sống còn của đất nước (Điều
4, ICCPR, 1966). Việc quốc gia áp dụng tạm đình chỉ quyền biểu tình được
thực hiện thông qua một số biện pháp sau: thiết quân luật, cấm biểu tình hội
họp đông người, cấm đi lại, ra vào một số khu vực nhất định. Tuy nhiên, việc
áp dụng các biện pháp để đình chỉ quyền biểu tình cũng phải tuân thủ một số
nguyên tắc nhất định, tránh việc áp dụng không có căn cứ từ các quốc gia để
hạn chế quyền biểu tình của công chúng.
21
1.2.3.Quyền biểu tình trong mối tương quan một số quyền
Một trong những nội dung hết sức quan trọng trong việc xây dựng nền
tảng lý luận cho biểu tình và quyền biểu tình của công dân là đặt quyền biểu
tình trong mối quan hệ với các quyền khác có mối tương quan chặt chẽ.
Trước hết ta thấy rằng xét một cách khái quát biểu tình là một trong các
quyền cơ bản của công dân. Và nguồn gốc xa hơn là từ các quyền tự do cơ
bản của con người. Điều này có nghĩa rằng quyền biểu tình sẽ có mối quan hệ
dù ít dù nhiều với các quyền còn lại, ví dụ như quyền mưu cầu hạnh phúc của
con người, quyền tự do thân thể trong quyền công dân… Nhưng tác giả sẽ đi
sâu hơn vào các quyền của công dân có mối quan hệ mật thiết như quyền tự
do ngôn luận, quyền hội họp, quyền được thông tin, từ đó có thể làm tốt hơn
trong định hướng xây dựng pháp luật về biểu tình sau này phải dựa trên sự
thống nhất và đồng đều của pháp luật.
Quyền tự do ngôn luận
Là một trong những quyền cơ bản của công dân và cùng nằm trong
nhóm quyền tự do dân chủ, quyền tự do ngôn luận về cơ bản là một trong
những quyền có mối tương quan gần gũi nhất với quyền biểu tình. Quyền tự
do ngôn luận được ghi nhận trong nhiều văn bản pháp luật quốc tế như điều
19 Tuyên ngôn quốc tế về quyền con người năm 1948, tuyên ngôn quốc tế về
các quyền dân sự và chính trị…
Nội dung cơ bản của quyền tự do ngôn luận của công dân được ghi
nhận tại điều 10 Công ước Châu Âu về quyền con người (European
convention on human rights): (1) Mọi người có quyền biểu đạt, quyền này
bao gồm quyền giữ quan điểm, quyền nhận và truyền bá thông tin và ý kiến
mà không có sự can thiệt của bất cứ quyền lực công cộng nào và không giới
hạn về biên giới. (2) Tuy nhiên quyền này sẽ phải chịu những thủ tục, điều
kiện, hạn chế hay những hình phạt do luật định vì cần thiết cho xã hội dân
22
chủ, an ninh quốc gia, tính toàn vẹn lãnh thổ, an toàn cho cộng đồng, ngăn
ngừa mất trật tự hay tội ác; bảo vệ thanh danh sức khỏe hay đạo đức và việc
thực hiện những quyền khác, ngăn chặn sự tiết lộ những thông tin bí mật, duy
trìn thẩm quyền và công bằng của bộ máy tư pháp. Hay nói tóm lại, quyền tự
do ngôn luận là quyền đa diện bao gồm quyền tìm kiếm, tiếp nhận, biểu đạt,
truyền bá thông tin,quan điểm, tư tưởng.
Có thể khẳng định rằng nếu quyền tự do ngôn luận không được đảm
bảo thì quyền biểu tình cũng không thể thực hiện được bởi vì khi quyền tự do
ý chí, tự do biểu đạt ý kiến của mỗi chủ thể được tôn trọng thì mới có sự tự do
biểu đạt của một số đông người. Chỉ khi con người được tự do ngôn luận về
các vấn đề xung quanh thì mới tạo ra dư luận, mới tạo ra xu hướng để con
người có những phản ứng ít nhiều về vấn đề được đặt ra, nếu vấn đề đó cấp
bách cần thiết được nêu lên, gây sự chú ý thì lúc đó người dân sử dụng đến
quyền biểu tình.
Mối tương quan là mối quan hệ qua lại có tác động qua lại. Nếu quyền
tự do ngôn luận là tiền đề cho quyền biểu tình thì thông qua biểu tình và cách
thức thực hiện quyền biểu tình lại là biểu hiện nâng cao của quyền tự do ngôn
luận, đưa quyền tự do ngôn luận lên một tầm cao mới, đó là yêu cầu thực hiện
nguyện vọng một cách mạnh mẽ và quyết liệt mà không chỉ dừng ở mức độ
biểu đạt thông tin thông thường.
Quyền được thông tin
Quyền được thông tin hay còn gọi là quyền tiếp cận thông tin có nguồn
gốc từ quyền tự do thông tin, khái niệm ban đầu được sử dụng là “quyền của
công chúng được tiếp cận các tài liệu của chính quyền, là quyền tự do cơ bản
và được thừa nhận rộng rãi”. Quyền được thông tin là quyền của công chúng
được biết thông tin của nhà nước theo các cách thức trực tiếp và gián tiếp, để
thỏa mãn nhu cầu cuộc sống của mình cũng như để bảo vệ và thực hiện các
23
quyền năng khác đã được pháp luật ghi nhận. Quyền được thông tin thể hiện
mối quan hệ giữa nhân dân và nhà nước. Cụ thể là quyền (được yêu cầu nhà
nước cung cấp thông tin) và nghĩa vụ cung cấp thông tin của nhà nước, trừ
trường hợp thông tin thuộc bí mật nhà nước hoặc bắt buộc phải công khai
theo quy định của pháp luật.
Hiến pháp Việt Nam cũng ghi nhận quyền tự do thông tin. Thông tin do
nhà nước nắm giữ là những thông tin quan trọng ảnh hưởng trực tiếp đế đời
sống của người dân do đó cần phải công khai. Muốn người dân tham gia vào
hoạt động của nhà nước góp phần tăng cường tính dân chủ thì các hoạt động
cần công khai minh bạch hơn. Quyền tự do thông tin có vai trò quan trọng
trong hầu hết các hoạt động của xã hội hiện đại vì nhu cầu ngày càng lớn của
nền kinh tế, phát triển xã hội và phát triển con người, đặc biệt với biểu tình và
quyền biểu tình được thông tin có vai trò vô cùng quan trọng. Vai trò đó
không chỉ có ý nghĩa trực tiếp trong việc để nhân dân tìm hiểu các vấn đề mà
người biểu tình quan tâm mà thông qua quyền này thì các quyền khác cũng có
điều kiện. Để phát huy tốt hơn trước hết quyền được thông tin đến cho người
dân thông tin về các sự kiện đang diễn ra tại địa phương, trong nước và trên
thế giới để nhân dân có thể bày tỏ quan điểm, khác biệt công khai các thông
tin của nhà nước cũng giúp cho nhân dân có cơ sở để hiểu biết những vấn đề
của quốc gia hay cũng như pháp luật.
Quyền tự do hội họp
Quyền tự do hội họp là quyền của công dân; hội họp với nhau để đảm
bảo các quyền học tập trao đổi thông tin, quyền trao đổi thông tin nhằm nâng
cao dân trí, giúp nhau trong hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ… với
mục đích ích nước lợi nhà. Quyền tự do lập hội được ghi nhận trong công ước
quốc tế về quyền dân sự và chính trị năm 1966 tại điều 21 “quyền hội họp có
24
tính cách hòa bình phải được thừa nhận”, điều 22 “ai cũng có quyền tự do lập
hội, kể cả quyền thành lập các nghiệp đoàn để bảo vệ quyền lợi của mình”.
Quyền tự do hội họp cũng là quyền tiền đề cơ bản cho quyền biểu tình
được thực hiện. Nếu không có quyền tự do hội họp được thể hiện ở một mức
độ khác trong việc kết hợp với các quyền khác.
1.3.Vị trí, vai trò của biểu tình và quyền biểu tình
Biểu tình là một hình thức để công dân có thể thực hiện quyền của
mình thông qua biểu tình công dân gửi đến chủ thể một thông điệp mạnh mẽ.
Thông qua biểu dương lực lượng đông đảo buộc chủ thể hướng tới phải thực
hiện nguyện vọng của mình. Vì vậy, công dân thực hiện quyền biểu tình
thông qua việc tổ chức, tham gia cuộc biểu tình có vị trí, vai trò hết sức to lớn.
Là thước đo trình độ dân trí của một xã hội dân chủ, dân quyền
Một xã hội dân chủ là xã hội đảm bảo được quyền cơ bản của công dân,
đảm bảo quyền lợi của mỗi công dân trong sự hài hòa với quyền lợi của tập
thể, của xã hội. Đảm bảo sự ổn định và phát triển của xã hội trong sự quản lý
của nhà nước. Như vậy có nghĩa là phải đảm bảo cho sự hài hòa. Không có sự
tự do nào là tuyệt đối nhưng cũng không nên vì quá coi trọng lợi ích tập thể
mà xem nhẹ đi quyền lợi của cá nhân vì mục đích cao nhất của tất cả các hoạt
động kinh tế, chính trị xã hội đã, đang và sẽ diễn ra là để mỗi người có được
cuộc sống tự do và thoải mái nhất.
Nhà báo Quang Minh nhận xét “Không có người bình thường nào
muốn cuộc sống xáo trộn bởi các cuộc biểu tình, nhưng không có biểu tình thì
chưa chắc lòng người đã thật bình yên”[49]. Biểu tình là hoạt động để biểu lộ
ý chí của một tập thể, số đông, đương nhiên điều đó là những vấn đề nổi cộm
hơn, nóng bỏng và cấp thiết hơn khi có nhiều người cùng quan điểm như vậy,
cũng không phải là vấn đề có thể giải quyết từ từ mà là một vấn đề cấp bách,
phải được giải quyết ngay, như các vấn đề chấm dứt sự can thiệp vào vấn đề
nội bộ quốc gia, hoặc các quyết sách quan trọng của nhà cầm quyền. Ví dụ
25
Thượng viện Pháp đã thông qua dự luật cải cách chế độ hưu trí, người dân đổ
xuống đường phản đối dự luật của chính phủ nhằm tăng tuổi về hưu từ 60 lên
62. Biểu tình phản ánh được khả năng nhận thức đánh giá vấn đề của công
dân, vấn đề nào là cần lên tiếng đồng tình hay phản đối. Thông qua biểu tình
đảm bảo cho xã hội cởi mở, và công bằng hơn, nhân dân có quyền lên tiếng
và nhà cầm quyền lắng nghe. Hơn nữa nhà nước ta là nhà nước của dân do
dân và vì dân, khi nhà nước là của dân thì quyền biểu tình là một cách thức để
thực hiện quyền dân chủ của nhân dân một cách thực sự.
Biểu tình góp phần trong xây dựng nhà nước pháp quyền.
Nhân dân không bao giờ đòi hỏi quá đáng những gì đáng được hưởng,
đảm bảo quyền biểu tình cho công dân bằng pháp luật, tức là đã thiết lập một
cơ chế quản lý nhà nước, giám sát xã hội bằng pháp luật. Mặt khác biểu tình
khi đã được thể chế hóa một cách rõ ràng, căn cứ mạch lạc thì nhân dân sẽ dễ
dàng hơn trong việc thực hiện quyền biểu tình mà nhà nước cũng sẽ dễ dàng
hơn trong việc quản lý, vì tất cả đã được quy định trong luật.
Thêm một cách thức để quản lý nhà nước.
Nhà nước nắm trong tay quyền lực của nhân dân vì nhân dân không thể
trực tiếp sử dụng quyền của mình, nắm trong tay quyền lực của nhân dân lẽ dĩ
nhiên phải phục vụ nhân dân. Nhưng khi có quyền lực mà không có hoặc cơ
chế kiểm soát yếu thì hiện tượng lạm quyền dễ xảy ra. Thiết lập các cơ chế
giám sát việc quản lý nhà nước là các cơ quan này thực hiện tốt hơn nhiệm vụ
của mình. Qua biểu tình, nhà nước có thể nhìn thấy những sai phạm của
những người cầm quyền, những vấn đề mà nhà nước chưa giải quyết thấu
đáo, những chính sách của Nhà nước chưa hợp lý để kịp thời có những sự giải
thích, điều chỉnh để tạo được sự đồng thuận xã hội cao.
Một hình thức phản biện xã hội, phản ảnh thực trạng của xã hội để nhà
nước có thể quản lý xã hội hiệu quả hơn
Phân tích xã hội là các hoạt động của các chủ thể khác nhau trong xã
hội sử dụng các lập luận phân tích, hoặc các công cụ tư duy logic để khẳng
26
định, bổ sung hoặc bác bỏ khuynh hướng, phương án kinh tế, chính trị, văn
hóa xã hội (gọi chung là đối tượng của phản biện xã hội). Đây là một hoạt
động nằm trong khuôn khổ pháp luật, mang tính tích cực xây dựng, nhằm
hướng tới các mục tiêu chung của xã hội (công bằng, dân chủ, pháp chế, phát
triển đất nước. Thông qua biểu tình, nhân dân có thể phản ảnh ý chí của mình
đến với xã hội, đến với Nhà nước về những chủ trương, chính sách của Nhà
nước chưa đúng, chưa hợp lý để kịp thời có những điều chỉnh thích hợp.
1.4.Pháp luật về biểu tình
Pháp luật về biểu tình được quy định theo cách đảm bảo cho người dân
được thực hiện quyền của mình một cách tối đa nhưng cũng để ngăn chặn các
hành vi phá rối, lợi dụng quyền biểu tình để gây rối trật tự công cộng. Vì thế
tại nhiều nước, thông thường Pháp luật về biểu tình sẽ có các quy định liên
quan đến năm nhóm vấn đề chính, đó là: (1) Những định nghĩa, quy định
chung; (2) Quyền và nghĩa vụ của người tổ chức và người tham gia biểu tình;
(3) Quyền và nghĩa vụ của cơ quan công quyền; (4) Các trường hợp hạn chế
biểu tình và (5) Xử lý các vi phạm.
Thứ nhất, về các định nghĩa và quy định chung: Trong phần này, pháp
luật các quốc gia thường nêu ra các định nghĩa và quy định rõ ràng cho các
khái niệm như: biểu tình, quyền biểu tình, trưởng đoàn biểu tình, người tham
gia biểu tình, nơi công cộng, tụ tập đông người, biểu tình hòa bình, không vũ
khí … Trong phần này, Pháp luật về biểu tình cũng cần phân biệt rõ các hình
thức và mục đích của biểu tình để từ đó có các quy định thủ tục phù hợp với
từng loại biểu tình.
Từ thực tiễn của nhiều quốc gia trên thế giới, trong quá trình xây dựng
Pháp luật Biểu tình ở Việt Nam, cần lưu ý đến tình huống biểu tình vì lý do,
mục đích tôn giáo, hay đoàn biểu tình của những người cùng tham gia một tôn
giáo. Các đoàn biểu tình này đôi khi sẽ kèm theo cả các nghi lễ tôn giáo được
thực hành trong quá trình biểu tình. Những đoàn biểu tình này không thuộc
27
phạm vi bị giới hạn nếu nó là biểu tình hòa bình, bất bạo động. Tuy nhiên,
nhà chức trách cần lưu ý những người tổ chức biểu tình về việc thực hành các
hành vi tôn giáo tại nơi công cộng, phải đảm bảo mang tính “hòa bình” và
“phù hợp”.
Thứ hai, về quyền và nghĩa vụ của người tổ chức và người tham gia
biểu tình: Trong phần này, Pháp luật về biểu tình phải làm rõ trách nhiệm của
Trưởng đoàn tổ chức biểu tình, trong đó bao gồm các trách nhiệm liên quan
đến nghĩa vụ thông báo với các cơ quan chức năng các thông tin cần thiết về
cuộc biểu tình như thời gian, địa điểm, mục đích, cách thức biểu tình. Đối với
người tham gia biểu tình, Pháp luật cũng cần quy định rõ các nghĩa vụ của đối
tượng này như là không được sử dụng vũ khí; không được có hành vi, lời nói
gây xúc phạm, hoặc mang tính phân biệt đối xử, kích động bạo lực; không
được làm thiệt hại đến tài sản của người khác hay tài sản công; phải tuân thủ
các hướng dẫn của Trưởng đoàn biểu tình hoặc của các cơ quan chức năng
khi cần thiết.
Thứ ba, về quyền và nghĩa vụ của cơ quan công quyền: Đây là một
phần quan trọng của Pháp luật Biểu tình. Để cho Pháp luật Biểu tình thực sự
là một luật tạo điều kiện cho người dân thực hiện quyền hiến định của mình
chứ không phải là luật cấm biểu tình thì phần này cần phải được quy định rất
chi tiết, cụ thể về quyền và nghĩa vụ của cơ quan công quyền trong việc đảm
bảo cho hoạt động biểu tình được diễn ra an toàn và đúng luật. Trong phần
này, cần có các quy định liên quan đến trách nhiệm của các cơ quan công
quyền có liên quan trong việc tổ chức giao thông, tổ chức lực lượng cảnh sát
đảm bảo an toàn cho những người tham gia biểu tình cũng như người và tài
sản trong khu vực đoàn biểu tình đi qua. Đồng thời, Pháp luật cũng cần quy
định rõ những trường hợp cảnh sát có thể can thiệp khi xảy ra các hành vi gây
rối, bạo lực của người tham gia biểu tình.
28
Theo pháp luật ở một số nước, cơ quan công quyền có thể ra lệnh cấm
tổ chức một đoàn biểu tình vì một số lý do: chiến tranh, bạo động, thảm họa
thiên tai…. Tuy nhiên, lệnh cấm này không mặc nhiên có hiệu lực ngay lập
tức mà lệnh cấm này là cơ sở để kéo theo một cuộc đàm phán “tay ba” giữa
cơ quan quản lý hành chính nhà nước (thị trưởng, đại diện tòa thị chính, Uỷ
ban nhân dân …), cảnh sát với những người tổ chức biểu tình. Trong cuộc
đàm phán này, các lý do làm căn cứ cho quyết định cấm biểu tình sẽ được nêu
ra, phân tích, mổ xẻ để xem xét xem việc tổ chức biểu tình liệu có phải là sẽ
đe dọa đến trật tự công cộng, an toàn xã hội hay không? Những phân tích này
sẽ làm cơ sở để các bên cân nhắc và đi đến một phương án thỏa thuận chung
phù hợp cho cả ba bên. Quy định này, có thể nói, là khá mềm dẻo và được
xây dựng trên cơ sở của sự tôn trọng lẫn nhau giữa cơ quan nhà nước và nhân
dân. Đây là một quy định rất cần tham khảo trong quá trình xây dựng Pháp
luật Biểu tình ở Việt Nam.
Thứ tư, các trường hợp hạn chế biểu tình cũng là các quy định quan
trọng cần có trong một luật về biểu tình. Các trường hợp hạn chế biểu tình có
thể liên quan đến địa điểm biểu tình hay thời điểm diễn ra biểu tình. Thông
thường, các khu vực liên quan đến quốc phòng, an ninh quốc gia, các công
trình xây dựng trọng điểm là những nơi bị cấm hoặc hạn chế biểu tình. Hoặc
các thời điểm đang diễn ra dịch bệnh hoặc thiên tai nghiêm trọng cũng thường
là các thời điểm hạn chế biểu tình. Nhìn chung, các hạn chế biểu tình một mặt
là để đảm bảo khoảng cách an toàn cho các địa điểm quan trọng của quốc gia,
mặt khác cũng là để đảm bảo cho sự an toàn của chính những người tổ chức
và tham gia biểu tình, hoặc là để đảm bảo an toàn cho những người không
tham gia biểu tình.
Các quy định về hạn chế biểu tình là những quy định nhạy cảm trong
Pháp luật Biểu tình. Vì thế, các quy định này cần được xây dựng trên một cơ
29
sở vững chắc về các lập luận, sự rõ ràng của các định nghĩa và cần tính đến
các kinh nghiệm của nhiều quốc gia khác trong quá trình thực thi Pháp luật
Biểu tình.
Các quy định hạn chế biểu tình luôn được các tòa án xem xét trong quá
trình xét xử và chủ yếu dựa trên các nhận định về tính “cần thiết” và “phù
hợp”. Lấy ví dụ về án lệ của Tòa án Nhân quyền châu Âu ngày 21/10/2010
trong vụ Aleksey chống lại nước Nga. Tòa án đã nhận định quyết định của
Thị trưởng Matxcơva cấm trong vòng ba năm liên tiếp việc tổ chức các hoạt
động “Tự hào là Gay” (Gay Pride) trong thành phố này là vi phạm đến quy
định tại Điều 11 của Công ước châu Âu về Nhân quyền liên quan đến tự do
biểu tình. Theo Tòa án Nhân quyền châu Âu, việc cấm đoán này là không cần
thiết vì những hoạt động này không ảnh hưởng gì tới trật tự công cộng.[59]
Một ví dụ khác liên quan đến hạn chế quyền tự do biểu tình đã xảy ra
thường xuyên trên thế giới trong thời gian qua, đó là hạn chế quyền tự do biểu
tình khi có các hội nghị quốc tế lớn. Đây là một tính huống khó xử với nhiều
quốc gia nhưng nó lại thường xuyên diễn ra. Thông thường, khi có các hội
nghị quốc tế lớn, tập trung nhiều nguyên thủ quốc gia bàn về các vấn đề quan
trọng thì thường xuất hiện các cuộc biểu tình lớn như biểu tình chống toàn cầu
hóa hay biểu tình chống biến đổi khí hậu vẫn đang diễn ra trong thời gian qua.
Đây là một tình huống khá nhạy cảm trong xử lý các vấn đề về biểu tình. Một
mặt, nước chủ nhà của sự kiện vừa phải đảm bảo an ninh cho các khách mời,
đảm bảo an toàn cho sự lưu thông của các xe chuyên chở khách mời, nhưng
mặt khác, vẫn phải đảm bảo quyền tự do biểu tình của nhân dân. Theo Tòa án
Nhân quyền châu Âu, trong tình huống này, biểu tình vẫn phải được tổ chức
nhưng có thể bị hạn chế tại một số khu vực gần tòa nhà nơi diễn ra sự kiện.
Đồng thời, việc tổ chức cho đoàn biểu tình đứng ở giữa vòng vây bao quanh
của cảnh sát là một việc được chấp nhận nếu biểu tình diễn ra ở khu vực lân
30
cận với nơi tổ chức hội nghị.[59] Đây là một tình huống cho phép các quốc
gia có quyền tùy ý hành động tương đối lớn trong hạn chế một số tình huống
biểu tình. Tuy nhiên, cần phải nhấn mạnh rằng, kể cả trong trường hợp này,
việc tổ chức biểu tình cũng không bị cấm mà chỉ có thể bị hạn chế tại một số
địa điểm và có thể bị hạn chế theo sự bao vây của cảnh sát. Vì thế, Luật Biểu
tình cần phải dự liệu trước về tình huống này và đưa ra các định nghĩa cụ thể
cho “khu vực lân cận” của tòa nhà diễn ra sự kiện là nơi có khoảng cách bao
xa so với địa điểm tổ chức biểu tình. Việc sử dụng hàng rào cảnh sát trong
trường hợp này cũng cần phải được quy định trong luật.
Thứ năm, về xử lý vi phạm: Phần này cần đảm bảo có hai nhóm quan
trọng, đó là xử lý vi phạm đối với các cá nhân, các cơ quan nhà nước có thẩm
quyền liên quan đến việc tổ chức các hoạt động biểu tình mà gây cản trở cho
việc thực hiện quyền tự do biểu tình của người dân; và xử lý vi phạm đối với
các cá nhân, tổ chức và tham gia biểu tình không theo quy định của luật. Việc
xử lý vi phạm đối với cá nhân, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền thông
thường được thực hiện thông qua một vụ kiện tại tòa án hành chính.
Để có được các quy định về xử lý vi phạm một cách thỏa đáng, Luật
Biểu tình cần phải xây dựng được một cơ chế khiếu nại và khiếu kiện hợp lý.
Vì là một quyền hiến định quan trọng của nhân dân, quyền khiếu kiện liên
quan đến biểu tình phải là một quyền nhất thiết phải được quy định vì nó là cơ
sở cho nhân dân bảo vệ quyền của mình.
Lấy một ví dụ minh họa về xử lý vi phạm đối với quyền biểu tình. Bộ
luật Hình sự nước Cộng hòa Pháp quy định tại Điều 431-1 về hình phạt đối
với tội “cản trở tự do biểu tình” lên đến ba năm tù giam và phạt tiền lên đến
45.000 euro. Đồng thời, phán quyết ngày 18/1/1995 của Hội đồng Bảo hiến
nước Cộng hòa Pháp liên quan đến luật định hướng an ninh cũng cho phép
thẩm phán tòa hình sự được ra lệnh cấm tạm thời đối với một cá nhân nào đó
31
về việc không cho phép người đó được tổ chức hoặc tham gia biểu tình trong
một thời gian và tại một số địa điểm nhất định. Điều này, theo Hội đồng Bảo
hiến, không phải là một sự không công nhận quyền tự do cá nhân mà đó là
một sự kiểm soát cần thiết vì lý do “đòi hỏi của trật tự công cộng và bảo đảm
cho các tự do khác được Hiến pháp bảo vệ”.
Như vậy, các cuộc biểu tình chỉ có thể diễn ra nếu nó là biểu tình hợp
pháp. Tất cả các cuộc biểu tình trái phép, biểu tình tự phát, biểu tình kéo theo
bạo động đều bị cấm và khi có quy định của pháp luật về vấn đề này, chính
quyền hoàn toàn có thể trấn áp và giải tán các cuộc biểu tình này. Hiểu theo
nghĩa này thì Luật về biểu tình không chỉ là một văn bản ủng hộ quyền biểu
tình của người dân mà là một văn bản ủng hộ cho Nhà nước trong công tác
quản lý và cụ thể ở đây là quản lý hoạt động biểu tình.
32
Kết luận chƣơng 1
Hiện nay trên thế giới chưa có một định nghĩ thống nhất nào liên quan
đến biểu tình, quyền biểu tình. Ở một nghĩa chung nhất biểu tình, quyền biểu
tình là sự phản ánh quan điểm, ý nghĩ của công chúng theo hình thức đồng
tình hoặc phản đối một vấn đề nào đó của xã hội. Pháp luật quốc tế cũng chỉ
quy định những nguyên tắc nhất định tại Điều 20 UDHR, 1948 và Điều 21
ICCPR, 1966 để mọi người có thể thực hiện được quyền biểu tình trên thực
tế. Quyền biểu tình của công chúng không phải là một quyền tuyệt đối nó có
thể bị giới hạn trong một số trường hợp liên quan đến an ninh quốc gia, trật tự
công cộng, đạo đức xã hội, quyền và tự do của người khác. Ở Việt Nam,
quyền biểu tình của công dân tuy đã được quy định trong các bản Hiến pháp
nhưng đây là một vấn đề hết sức mới mẻ đối với các nhà nghiên cứu về pháp
luật biểu tình. Vì vậy, những vấn đề lý luận liên quan đến biểu tình, quyền
biểu tình, pháp luật biểu tình trong chương này sẽ có đóng góp nhất định vào
mặt lý luận về biều tình ở Việt Nam, đặc biệt Luật biểu tình sẽ được giao cho
Bộ Công an xây dựng để trình Quốc hội trong kỳ họp thứ 11, khóa XIII.
33
CHƢƠNG 2: PHÁP LUẬT QUỐC TẾ VÀ MỘT SỐ QUỐC GIA
TRÊN THẾ GIỚI VỀ BIỂU TÌNH
2.1. Pháp luật quốc tế về biểu tình
Để tạo nền tảng cho việc xây dựng cơ chế pháp lý đảm bảo quyền biểu
tình cho công dân tại Việt Nam ngoài việc phân tích lý luận về biểu tình,
nghiên cứu thực trạng về pháp lý và thực tiễn trong nước, hoạt động nghiên
cứu pháp luật quốc tế bảo đảm quyền biểu tình của công dân cũng là một
kênh tham khảo quan trọng. Thông qua việc nghiên cứu những bộ luật này
cho ta cái nhìn toàn diện hơn về hoạt động dảm bảo quyền trên thế giới, cách
thức xây dựng luật, nội dung pháp luật đề cập từ đó đúc kết ưu, nhược điểm,
đánh giá sự phù hợp để xây dựng dự luật hoàn thiện hơn.
2.1.1.Về quyền biểu tình
Quyền biển tình là một quyền con người, quyền công dân quan trọng.
Quyền biểu tình này được ghi nhận trong pháp luật quốc tế lần dầu dưới dạng
khái niệm tương đồng là quyền tự do hội họp. Tuyên ngôn thế giới về nhân
quyền năm 1948 khẳng định “Mọi người đều có quyền tự do hội họp và lập
hội một cách ôn hòa”. Tuyên ngôn thế giới về quyền con người là văn bản
pháp lý giá trị cao được thông qua bởi Đại hội đồng Liên hợp quốc, khẳng
định này đại diện cho ý chí của thành viên liên hợp quốc đại diện cho chính
phủ và nhân dân các nước thành viên về việc ghi nhận quyền tự do hội họp.
Một văn bản nữa cũng được thông qua bởi Đại hội đồng Liên hợp quốc ghi
nhận quyền biểu tình dưới dạng khái niệm quyền tự do hội họp và Việt Nam
cũng đã gia nhập công ước này ngày 24 tháng 9 năm 1982. Đó là Công ước
quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966, ghi nhận tại điều 21
“Quyền hội họp hòa bình phải được công nhận, việc thực hiện quyền này
không bị hạn chế, trừ trường hợp pháp luật có quy định và những hạn chế
này là cần thiết trong một xã hội dân chủ, vì lợi ích an ninh quốc gia, an toàn
và trật tự công cộng, để bảo vệ sức khỏe công chúng hoặc nhân cách hoặc
34
bảo vệ quyền và tự do của người khác”. Như vậy, Công ước đã ghi nhận một
cách rõ ràng hơn về nghĩa vụ của các quốc gia tham gia Công ước là phải đảm
bảo quyền tự do hội họp và thêm một bước cụ thể hơn tuyên ngôn về nhân
quyền là quy định về các trường hợp nhà nước được hạn chế quyền vì những
lý do hợp lý và cụ thể. Theo M.Nowak, quyền hội họp là quyền của các cá
nhân tập trung lại có chủ ý và trong thời gian nhất định nhằm một mục đích
cụ thể. Các loại tụ họp khác nhau được bảo vệ theo các điều khoản khác nhau.
Nowak cho rằng Điều 21 ICCPR đặc biệt hướng đến các cuộc hội họp có sự
thảo luận hoặc tuyên bố quan điểm [66].
Nhìn vào các quy định của Công ước nói trên, ta có thể thấy quyền biểu
tình của công chúng sẽ thấy rõ bản chất của quyền biểu tình được thể hiện ở
hai điểm: Thứ nhất, đó là sự bày tỏ ý chí, quan điểm của công chúng về một
vấn đề nào đó của xã hội, các quan điểm này có thể là đồng tình hoặc phản
đối. Thứ hai, sự bày tỏ này không phải là của một cá nhân riêng lẻ, cụ thể mà
là sự bày tỏ của một nhóm người thông qua sự tập hợp nhau lại, cùng chung
một mục đích đã được đặt ra từ trước. Như vậy, quyền biểu tình trong pháp
luật quốc tế sẽ có mối quan hệ mật thiết với quyền tự do biểu đạt (Điều 19
UDHR và được cụ thể hóa trong Điều 19 và Điều 20 ICCPR) và quyền tự do
hiệp hội (Điều 20UDHR và được cụ thể hóa trong Điều 22 ICCPR).
Điều 19 UDHR quy định : “Mọi người đều có quyền tự do ngôn luận
và bày tỏ ý kiến, kể cả tự do bảo lưu quan điểm mà không bị can thiệp; cũng
như tự do tìm kiếm, tiếp nhận và truyền bá các ý tưởng và thông tin bằng bất
kỳ phương tiện truyền thông nào và không có giới hạn về biên giới”. Nội
dung Điều 19 UDHR sau đó được tái khẳng định và cụ thể hóa trong các Điều
19 và Điều 20 ICCPR. Theo Điều 19 ICCPR: “Mọi người đều có quyền giữ
quan điểm của mình mà không bị can thiệp. Mọi người có quyền tự do ngôn
luận. Quyền này bao gồm tự do tìm kiếm, tiếp nhận và truyền đạt mọi thông
tin, ý kiến, không phân biệt lĩnh vực, hình thức tuyên truyền bằng miệng, bằng
35
bản viết, in, hoặc dưới hình thức nghệ thuật, thông qua bất kỳ phương tiện
thông tin đại chúng nào tùy theo sự lựa chọn của họ” (Khoản 1 và Khoản 2).
Trong đoạn 11 Bình luận chung số 34, HRC giải thích thêm về khoản 2 Điều
19 như sau: “Khoản 2 yêu cầu quốc gia thành viên phải đảm bảo quyền tự do
biểu đạt,bao gồm quyền tìm kiếm, tiếp nhận và truyền đạt mọi thông tin và ý
tưởng bất kể biên giới. Quyền này bao gồm việc biểu đạt và tiếp nhận những
thông điệp về ý tưởng và quan điểm dưới mọi hình thức có thể truyền đạt đến
người khác, theo quy định tại khoản 3 Điều 19 và Điều 20. Quyền này bao
gồm các tranh luận chính trị, bình luận về một người và về các vấn đề chung,
vận động thảo luận về nhân quyền, báo chí, các biểu đạt văn hóa nghệ thuật,
giáo dục và tranh luận tôn giá…”. Như vậy có thể thấy, trong việc thực hiện
quyền biểu tình thì công chúng phải bày tỏ quan điểm, ý chí phản đối hay
một đồng tình nào đó về một vấn đề của xã hội, nó chính là sự biểu đạt của
công chúng. Sự biểu đạt này được thể hiện trong các cuộc biểu tình thông qua
các truyền đơn, băng rôn, khẩu hiện để thể hiện quan điểm, ý chí của những
người biểu tình. Chính vì vậy, quyền biểu tình sẽ là tiền đề để thực hiện quyền
tự do biểu đạt, thông qua thực hiện quyền biểu tình, các quan điểm, ý chí của
công chúng sẽ được thể hiện một cách rõ ràng, cụ thể hơn. Do đó, khi thực
hiện quyền tự do biểu đạt thông qua quyền biểu tình thì quyền biểu tình cũng
phải chịu những hạn chế nhất định như quyền tự do biểu đạt. Những hạn chế
này được quy định cụ thể tại Điều 20 ICCPR: “ Mọi hình thức tuyên truyền
cho chiến tranh đều bị pháp luật nghiêm cấm. Mọi chủ trương gây hằn thù
dân tộc, chủng tộc hoặc tôn giáo để kích động sự phân biệt đối xử về chủng
tộc, sự thù địch, hoặc bạo lực đều bị pháp luật nghiêm cấm”. Nếu trong các
cuộc biểu tình, các truyền đôn, băng rôn, khẩu hiện có liên quan những vấn đề
bị cấm tại Điều 20 ICCPR thì đó là cuộc biểu tình trái pháp luật và không
được nhà nước bảo vệ.
36
Để thực hiện quyền biểu tình, các cá nhân có cùng quan điểm, ý chí sẽ
tập hợp nhau lại để thành sức mạnh tập thể, gây ra được tiếng vang lớn đối
với các vấn đề mà những người biểu tình quan tâm. Quá trình tập hợp nhau lại
có rất nhiềm điểm tương đường với quyền tự do lập hội được quy định tại
Điều 22 ICCPR : “ Mọi người có quyền tự do lập hội với những người khác,
kể cả quyền lập và gia nhập công đoàn để bảo vệ quyền lợi của mình”. Tự do
lập hội cho phép các cá nhân liên kết với nhau thành nhóm để theo đuổi lợi
ích, mục đích hay sự quan tâm chung. Các nhóm đó có thể là các câu lạc bộ
thể thao, hội nghề nghiệp, các tổ chức phi chính phủ, các quỹ, công đoàn, tổ
chức tôn giáo, chính đảng hoặc công ty. Khái niệm “hội” (association) trong
tiếng Anh có nội hàm rất rộng. Trong báo cáo của mình, Báo cáo viên về tự
hội họp và lập hội nhắc lại định nghĩa của Đại diện đặc biệt của Liên Hiệp
Quốc về những người bảo vệ nhân quyền (mã số A/95/401/đoạn 46): Khái
niệm “hội” nhắc đến bất kỳ nhóm cá nhân hoặc bất kỳ thực thể pháp lý nào
liên kết với nhau để cùng nhau hành động, bày tỏ, thúc đẩy, theo đuổi hoặc
bảo vệ một lĩnh vực quan tâm chung (a field of common interests) [63]. Như
vậy, những người biểu tình có cùng quan điểm, ý chí có xu hướng liên kết
nhau lại thành một nhóm để biểu đạt quan điểm, ý chí mang tính tập thể. Sự
thể hiện của những cá nhân này thường thông qua việc đăng ký biểu tình khi
muốn tổ chức các cuộc biểu tình. Những người tham gia biểu tình phải có tên
trong danh sách dự kiến với đầy đủ thông tin của họ.
Trong cuốn Hướng dẫn về tự do hội họp hòa bình (Guidelines on
Freedom of Peaceful Assembly, Prepared by the OSCE/ODIHR Panel Of
Experts on the Freedom of Assembly, 2007) có quy định tự do hội họp hòa
bình là một quyền cơ bản của con người có thể được hưởng và tiến hành bởi
cá nhân hoặc các nhóm, các tổ chức không chính thống, các thực thể pháp lý
hoặc các chủ thể kinh doanh. Các cuộc biểu tình có thể diễn ra với nhiều mục
37
đích, bao gồm những ý kiến trái ngược nhau, của một cộng đồng người hoặc
là ý kiến của một nhóm thiểu số. Cuốn sách này cũng hướng dẫn các cuộc
biểu tình hòa bình đều được bảo vệ và nhà nước có nghĩa vụ bảo đảm cho các
cuộc biểu tình đó được diễn ra. Một cuộc biểu tình được coi là hòa bình nếu
như việc tổ chức cuộc biểu tình đó diễn ra một cách hòa bình và không xảy ra
tình trạng bạo lực. Cụm từ “hòa bình” được diễn giải bao gồm hoạt động
không gây phiền hà hoặc xúc phạm, thậm chí cản trở hoạt động của bên thứ
ba [67].
Trong Báo cáo của Báo cáo viên đặc biệt về các quyền tự do hội họp ôn
hòa và hiệp hội (Report of the Special Rapporteur on the rights to freedom of
peaceful assembly and of association, Maina Kiai), 21/5/2012, A/HRC/20/27
có đưa ra định nghĩa về hội họp ôn hòa. Theo đó “hội họp” là việc tụ họp có
mục đích và tạm thời trong trong một không gian riêng hay không gian chung
(công) vì mục đích cụ thể [63].Vì thế, việc này bao gồm các cuộc biểu tình,
các cuộc họp trong nhà, đình công, diễu hành, tuần hành hoặc thậm chí cả
biểu tình ngồi. Theo luật nhân quyền quốc tế , Các cuộc hội họp ôn hòa sẽ
được bảo vệ, đó là những cuộc hội họp phi bạo lực.
Công ước Châu Âu về quyền con người tại Điều 11 “mỗi người đều có
quyền tự do hội họp hòa bình và tự do hội họp với những người khác”. Cũng
như các văn bản trên Công ước cũng đề cập đến các trường hợp nhà nước có
quyền áp dụng các biện pháp cần thiết để bảo vệ an ninh quốc gia hoặc an
toàn công cộng, để phòng ngừa rối loạn hoặc tội phạm, để bảo vệ sức khỏe
đạo lý, hay để bảo vệ các quyền và tự do của người khác mà hạn chế quyền
này [52].
Hiến chương châu Phi về quyền con người và dân tộc tại Điều 11 có
quy định : “Mọi cá nhân đều có quyền tự do hội họp với người khác. Việc
thực hiện quyền này chỉ chịu những hạn chế cần thiết theo quy định của pháp
38
luật, vì lợi ích an ninh quốc gia, an toàn, sức khỏe, đạo đức của cộng đồng
hoặc để bảo vệ các quyền và tự do của người khác”[54].
Hiến chương châu Mỹ về quyền con người ghi nhận quyền biểu tình
của công chúng tại Điều 15 : “Quyền hội họp hòa bình, không sử dụng vũ khí
được công nhận. Việc thực hiện quyền này không thể bị hạn chế, trừ những
hạn chế do pháp luật quy định và là cần thiết trong một xã hội dân chủ, vì lợi
ích an ninh quốc gia, an toàn và trật tự công cộng, và để bảo vệ sức khỏe
hoặc đạo đức của công chúng hay các quyền và tự do của người khác” [53].
Tất cả các ý kiến trên để khẳng định quyền biểu tình là một quyền cơ
bản, phổ biến và được thế giới công nhận. Quyền biểu tình được pháp luật
Việt Nam ghi nhận trong các bản Hiến pháp – văn bản pháp lý có giá trị cao
nhất nhưng cho đến nay vẫn chưa có một bộ luật trực tiếp nào quy định về
vấn đề biểu tình, trong đó thực tiễn đã diễn ra nhiều cuộc biểu tình của công
chức. Điều này đặt ra yêu cầu cấp thiết phải xây dựng dự luật để đảm bảo
quyền biểu tình của công dân ở nước ta và thực hiện các cam kết quốc tế mà
Việt Nam là thành viên.
2.1.2. Về người tổ chức và tham gia biểu tình
Người tổ chức là người lên kế hoạch, chương trình, lãnh đạo đoàn biểu
tình, đàm phán với các nhà chức trách để tổ chức một cuộc biểu tình đúng
theo quy định của pháp luật, là người liên kết những người biểu tình hướng
đến mục tiêu chung. Người tổ chức biểu tình có thể là cá nhân, một nhóm
người hoặc một tổ chức nào đó để lãnh đạo cuộc biểu tình. Những chủ thể này
phải có thông tin rõ ràng để có thể tiến hành đối thoại với các cơ quan chức
năng của nhà nước và để xác định trách nhiệm trong trường hợp cuộc biểu
tình xảy ra vi phạm. Người tổ chức có trách nhiệm lãnh đạo và hướng dẫn
những người tham gia biểu tình mộ cách hòa bình, theo đúng các thông tin đã
cung cấp trong việc đăng ký biểu tình với các cơ quan chức năng.
Luận văn: Pháp luật về biểu tình trên thế giới và Việt Nam, HAY
Luận văn: Pháp luật về biểu tình trên thế giới và Việt Nam, HAY
Luận văn: Pháp luật về biểu tình trên thế giới và Việt Nam, HAY
Luận văn: Pháp luật về biểu tình trên thế giới và Việt Nam, HAY
Luận văn: Pháp luật về biểu tình trên thế giới và Việt Nam, HAY
Luận văn: Pháp luật về biểu tình trên thế giới và Việt Nam, HAY
Luận văn: Pháp luật về biểu tình trên thế giới và Việt Nam, HAY
Luận văn: Pháp luật về biểu tình trên thế giới và Việt Nam, HAY
Luận văn: Pháp luật về biểu tình trên thế giới và Việt Nam, HAY
Luận văn: Pháp luật về biểu tình trên thế giới và Việt Nam, HAY
Luận văn: Pháp luật về biểu tình trên thế giới và Việt Nam, HAY
Luận văn: Pháp luật về biểu tình trên thế giới và Việt Nam, HAY
Luận văn: Pháp luật về biểu tình trên thế giới và Việt Nam, HAY
Luận văn: Pháp luật về biểu tình trên thế giới và Việt Nam, HAY
Luận văn: Pháp luật về biểu tình trên thế giới và Việt Nam, HAY
Luận văn: Pháp luật về biểu tình trên thế giới và Việt Nam, HAY
Luận văn: Pháp luật về biểu tình trên thế giới và Việt Nam, HAY
Luận văn: Pháp luật về biểu tình trên thế giới và Việt Nam, HAY
Luận văn: Pháp luật về biểu tình trên thế giới và Việt Nam, HAY
Luận văn: Pháp luật về biểu tình trên thế giới và Việt Nam, HAY
Luận văn: Pháp luật về biểu tình trên thế giới và Việt Nam, HAY
Luận văn: Pháp luật về biểu tình trên thế giới và Việt Nam, HAY
Luận văn: Pháp luật về biểu tình trên thế giới và Việt Nam, HAY
Luận văn: Pháp luật về biểu tình trên thế giới và Việt Nam, HAY
Luận văn: Pháp luật về biểu tình trên thế giới và Việt Nam, HAY
Luận văn: Pháp luật về biểu tình trên thế giới và Việt Nam, HAY
Luận văn: Pháp luật về biểu tình trên thế giới và Việt Nam, HAY
Luận văn: Pháp luật về biểu tình trên thế giới và Việt Nam, HAY
Luận văn: Pháp luật về biểu tình trên thế giới và Việt Nam, HAY
Luận văn: Pháp luật về biểu tình trên thế giới và Việt Nam, HAY
Luận văn: Pháp luật về biểu tình trên thế giới và Việt Nam, HAY
Luận văn: Pháp luật về biểu tình trên thế giới và Việt Nam, HAY
Luận văn: Pháp luật về biểu tình trên thế giới và Việt Nam, HAY
Luận văn: Pháp luật về biểu tình trên thế giới và Việt Nam, HAY
Luận văn: Pháp luật về biểu tình trên thế giới và Việt Nam, HAY
Luận văn: Pháp luật về biểu tình trên thế giới và Việt Nam, HAY
Luận văn: Pháp luật về biểu tình trên thế giới và Việt Nam, HAY
Luận văn: Pháp luật về biểu tình trên thế giới và Việt Nam, HAY
Luận văn: Pháp luật về biểu tình trên thế giới và Việt Nam, HAY
Luận văn: Pháp luật về biểu tình trên thế giới và Việt Nam, HAY
Luận văn: Pháp luật về biểu tình trên thế giới và Việt Nam, HAY
Luận văn: Pháp luật về biểu tình trên thế giới và Việt Nam, HAY
Luận văn: Pháp luật về biểu tình trên thế giới và Việt Nam, HAY
Luận văn: Pháp luật về biểu tình trên thế giới và Việt Nam, HAY
Luận văn: Pháp luật về biểu tình trên thế giới và Việt Nam, HAY
Luận văn: Pháp luật về biểu tình trên thế giới và Việt Nam, HAY
Luận văn: Pháp luật về biểu tình trên thế giới và Việt Nam, HAY
Luận văn: Pháp luật về biểu tình trên thế giới và Việt Nam, HAY
Luận văn: Pháp luật về biểu tình trên thế giới và Việt Nam, HAY
Luận văn: Pháp luật về biểu tình trên thế giới và Việt Nam, HAY
Luận văn: Pháp luật về biểu tình trên thế giới và Việt Nam, HAY
Luận văn: Pháp luật về biểu tình trên thế giới và Việt Nam, HAY
Luận văn: Pháp luật về biểu tình trên thế giới và Việt Nam, HAY
Luận văn: Pháp luật về biểu tình trên thế giới và Việt Nam, HAY
Luận văn: Pháp luật về biểu tình trên thế giới và Việt Nam, HAY
Luận văn: Pháp luật về biểu tình trên thế giới và Việt Nam, HAY
Luận văn: Pháp luật về biểu tình trên thế giới và Việt Nam, HAY
Luận văn: Pháp luật về biểu tình trên thế giới và Việt Nam, HAY
Luận văn: Pháp luật về biểu tình trên thế giới và Việt Nam, HAY
Luận văn: Pháp luật về biểu tình trên thế giới và Việt Nam, HAY
Luận văn: Pháp luật về biểu tình trên thế giới và Việt Nam, HAY
Luận văn: Pháp luật về biểu tình trên thế giới và Việt Nam, HAY
Luận văn: Pháp luật về biểu tình trên thế giới và Việt Nam, HAY
Luận văn: Pháp luật về biểu tình trên thế giới và Việt Nam, HAY
Luận văn: Pháp luật về biểu tình trên thế giới và Việt Nam, HAY
Luận văn: Pháp luật về biểu tình trên thế giới và Việt Nam, HAY

More Related Content

What's hot

What's hot (20)

Luận văn: Quyền vui chơi, giải trí của trẻ em tại TP Hà Nội, HAY - Gửi miễn p...
Luận văn: Quyền vui chơi, giải trí của trẻ em tại TP Hà Nội, HAY - Gửi miễn p...Luận văn: Quyền vui chơi, giải trí của trẻ em tại TP Hà Nội, HAY - Gửi miễn p...
Luận văn: Quyền vui chơi, giải trí của trẻ em tại TP Hà Nội, HAY - Gửi miễn p...
 
Luận văn: Kết hôn đồng giới theo pháp luật một số quốc gia, HOT
Luận văn: Kết hôn đồng giới theo pháp luật một số quốc gia, HOTLuận văn: Kết hôn đồng giới theo pháp luật một số quốc gia, HOT
Luận văn: Kết hôn đồng giới theo pháp luật một số quốc gia, HOT
 
Luận văn: Biện pháp bảo lĩnh trong tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp bảo lĩnh trong tố tụng hình sự, HAYLuận văn: Biện pháp bảo lĩnh trong tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp bảo lĩnh trong tố tụng hình sự, HAY
 
Luận văn: Thực hiện pháp luật về bảo vệ quyền trẻ em, HOT
Luận văn: Thực hiện pháp luật về bảo vệ quyền trẻ em, HOTLuận văn: Thực hiện pháp luật về bảo vệ quyền trẻ em, HOT
Luận văn: Thực hiện pháp luật về bảo vệ quyền trẻ em, HOT
 
Luận văn: Cơ chế bảo vệ Hiến pháp bằng pháp luật ở Việt Nam
Luận văn: Cơ chế bảo vệ Hiến pháp bằng pháp luật ở Việt NamLuận văn: Cơ chế bảo vệ Hiến pháp bằng pháp luật ở Việt Nam
Luận văn: Cơ chế bảo vệ Hiến pháp bằng pháp luật ở Việt Nam
 
Luận án: Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại, HAY
Luận án: Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại, HAYLuận án: Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại, HAY
Luận án: Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại, HAY
 
Luận văn: Quyền tự do ngôn luận thông qua mạng xã hội hiện nay
Luận văn: Quyền tự do ngôn luận thông qua mạng xã hội hiện nayLuận văn: Quyền tự do ngôn luận thông qua mạng xã hội hiện nay
Luận văn: Quyền tự do ngôn luận thông qua mạng xã hội hiện nay
 
Luận văn: Pháp luật kiểm soát tập trung kinh tế ở Việt Nam
Luận văn: Pháp luật kiểm soát tập trung kinh tế ở Việt NamLuận văn: Pháp luật kiểm soát tập trung kinh tế ở Việt Nam
Luận văn: Pháp luật kiểm soát tập trung kinh tế ở Việt Nam
 
Luận văn: Bảo vệ quyền con người bằng chế định hình phạt, HOT
Luận văn: Bảo vệ quyền con người bằng chế định hình phạt, HOTLuận văn: Bảo vệ quyền con người bằng chế định hình phạt, HOT
Luận văn: Bảo vệ quyền con người bằng chế định hình phạt, HOT
 
Đề tài: Pháp luật về quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài, HOT
Đề tài: Pháp luật về quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài, HOTĐề tài: Pháp luật về quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài, HOT
Đề tài: Pháp luật về quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài, HOT
 
Luận văn: Pháp luật về hoạt động mua bán doanh nghiệp, HOT
Luận văn: Pháp luật về hoạt động mua bán doanh nghiệp, HOTLuận văn: Pháp luật về hoạt động mua bán doanh nghiệp, HOT
Luận văn: Pháp luật về hoạt động mua bán doanh nghiệp, HOT
 
Luận văn: Các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội
Luận văn: Các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tộiLuận văn: Các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội
Luận văn: Các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội
 
Luận văn: Giao đất, cho thuê đất theo luật đất đai năm 2013, HAY
Luận văn: Giao đất, cho thuê đất theo luật đất đai năm 2013, HAYLuận văn: Giao đất, cho thuê đất theo luật đất đai năm 2013, HAY
Luận văn: Giao đất, cho thuê đất theo luật đất đai năm 2013, HAY
 
Luận văn: Giải quyết hòa bình tranh chấp quốc tế hiện nay, HAY
Luận văn: Giải quyết hòa bình tranh chấp quốc tế hiện nay, HAYLuận văn: Giải quyết hòa bình tranh chấp quốc tế hiện nay, HAY
Luận văn: Giải quyết hòa bình tranh chấp quốc tế hiện nay, HAY
 
Luận văn: Biện pháp bảo vệ quyền sở hữu trong pháp luật, HAY
Luận văn: Biện pháp bảo vệ quyền sở hữu trong pháp luật, HAYLuận văn: Biện pháp bảo vệ quyền sở hữu trong pháp luật, HAY
Luận văn: Biện pháp bảo vệ quyền sở hữu trong pháp luật, HAY
 
Luận văn: Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Luận văn: Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đấtLuận văn: Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Luận văn: Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
 
Luận văn: Tội buôn lậu trong Luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội buôn lậu trong Luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Tội buôn lậu trong Luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội buôn lậu trong Luật hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Tư tưởng về quyền con người, HOT, HAY
Luận văn: Tư tưởng về quyền con người, HOT, HAYLuận văn: Tư tưởng về quyền con người, HOT, HAY
Luận văn: Tư tưởng về quyền con người, HOT, HAY
 
Luận văn: Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu
Luận văn: Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệuLuận văn: Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu
Luận văn: Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu
 
Đề tài: Địa vị pháp lý của người chưa thành niên theo luật, HOT
Đề tài: Địa vị pháp lý của người chưa thành niên theo luật, HOTĐề tài: Địa vị pháp lý của người chưa thành niên theo luật, HOT
Đề tài: Địa vị pháp lý của người chưa thành niên theo luật, HOT
 

Similar to Luận văn: Pháp luật về biểu tình trên thế giới và Việt Nam, HAY

Similar to Luận văn: Pháp luật về biểu tình trên thế giới và Việt Nam, HAY (20)

Đề tài: Pháp luật về trưng cầu dân ý Kinh nghiệm thế giới, HAY
Đề tài: Pháp luật về trưng cầu dân ý Kinh nghiệm thế giới, HAYĐề tài: Pháp luật về trưng cầu dân ý Kinh nghiệm thế giới, HAY
Đề tài: Pháp luật về trưng cầu dân ý Kinh nghiệm thế giới, HAY
 
Đề tài: Sự phát triển của quyền dân sự, chính trị qua Hiến pháp
Đề tài: Sự phát triển của quyền dân sự, chính trị qua Hiến phápĐề tài: Sự phát triển của quyền dân sự, chính trị qua Hiến pháp
Đề tài: Sự phát triển của quyền dân sự, chính trị qua Hiến pháp
 
Luận văn: quyền dân sự, chính trị qua các bản Hiến pháp Việt Nam
Luận văn: quyền dân sự, chính trị qua các bản Hiến pháp Việt NamLuận văn: quyền dân sự, chính trị qua các bản Hiến pháp Việt Nam
Luận văn: quyền dân sự, chính trị qua các bản Hiến pháp Việt Nam
 
Luận văn: Quyền kinh tế, văn hóa, xã hội qua bản Hiến pháp, HOT
Luận văn: Quyền kinh tế, văn hóa, xã hội qua bản Hiến pháp, HOTLuận văn: Quyền kinh tế, văn hóa, xã hội qua bản Hiến pháp, HOT
Luận văn: Quyền kinh tế, văn hóa, xã hội qua bản Hiến pháp, HOT
 
Luận án: Pháp luật về dân chủ trực tiếp ở Việt Nam, HAY
Luận án: Pháp luật về dân chủ trực tiếp ở Việt Nam, HAYLuận án: Pháp luật về dân chủ trực tiếp ở Việt Nam, HAY
Luận án: Pháp luật về dân chủ trực tiếp ở Việt Nam, HAY
 
Luận văn: Pháp luật về dân chủ trực tiếp ở Việt Nam, HOT
Luận văn: Pháp luật về dân chủ trực tiếp ở Việt Nam, HOTLuận văn: Pháp luật về dân chủ trực tiếp ở Việt Nam, HOT
Luận văn: Pháp luật về dân chủ trực tiếp ở Việt Nam, HOT
 
BÀI MẪU tiểu luận Chủ nghĩa hiến pháp và vấn đề bảo vệ quyền con người
BÀI MẪU tiểu luận Chủ nghĩa hiến pháp và vấn đề bảo vệ quyền con ngườiBÀI MẪU tiểu luận Chủ nghĩa hiến pháp và vấn đề bảo vệ quyền con người
BÀI MẪU tiểu luận Chủ nghĩa hiến pháp và vấn đề bảo vệ quyền con người
 
Quyền tiếp cận thông tin về thủ tục hành chính tỉnh Quảng Bình, HAY - Gửi miễ...
Quyền tiếp cận thông tin về thủ tục hành chính tỉnh Quảng Bình, HAY - Gửi miễ...Quyền tiếp cận thông tin về thủ tục hành chính tỉnh Quảng Bình, HAY - Gửi miễ...
Quyền tiếp cận thông tin về thủ tục hành chính tỉnh Quảng Bình, HAY - Gửi miễ...
 
Luận văn: Quyền tiếp cận công lý ở Việt Nam hiện nay, HAY
Luận văn: Quyền tiếp cận công lý ở Việt Nam hiện nay, HAYLuận văn: Quyền tiếp cận công lý ở Việt Nam hiện nay, HAY
Luận văn: Quyền tiếp cận công lý ở Việt Nam hiện nay, HAY
 
Sự tham gia của nhân dân vào Quy trình Lập hiến
Sự tham gia của nhân dân vào Quy trình Lập hiếnSự tham gia của nhân dân vào Quy trình Lập hiến
Sự tham gia của nhân dân vào Quy trình Lập hiến
 
Luận văn: Bảo đảm quyền con người trong Hiến pháp Việt Nam, 9đ
Luận văn: Bảo đảm quyền con người trong Hiến pháp Việt Nam, 9đLuận văn: Bảo đảm quyền con người trong Hiến pháp Việt Nam, 9đ
Luận văn: Bảo đảm quyền con người trong Hiến pháp Việt Nam, 9đ
 
Tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật từ thực tiễn Thị xã Sơn Tây, Thành p...
Tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật từ thực tiễn Thị xã Sơn Tây, Thành p...Tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật từ thực tiễn Thị xã Sơn Tây, Thành p...
Tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật từ thực tiễn Thị xã Sơn Tây, Thành p...
 
Tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật tại Thị xã Sơn Tây
Tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật tại Thị xã Sơn TâyTuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật tại Thị xã Sơn Tây
Tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật tại Thị xã Sơn Tây
 
Đề tài: Chế định quyền con người, quyền công dân trong Hiến pháp
Đề tài: Chế định quyền con người, quyền công dân trong Hiến phápĐề tài: Chế định quyền con người, quyền công dân trong Hiến pháp
Đề tài: Chế định quyền con người, quyền công dân trong Hiến pháp
 
Luận văn: Độc lập tư pháp và bảo đảm quyền con người, HAY
Luận văn: Độc lập tư pháp và bảo đảm quyền con người, HAYLuận văn: Độc lập tư pháp và bảo đảm quyền con người, HAY
Luận văn: Độc lập tư pháp và bảo đảm quyền con người, HAY
 
Luận văn: Hoàn thiện các quy định về quyền dân sự, HOT
Luận văn: Hoàn thiện các quy định về quyền dân sự, HOTLuận văn: Hoàn thiện các quy định về quyền dân sự, HOT
Luận văn: Hoàn thiện các quy định về quyền dân sự, HOT
 
Quyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án, HOT
Quyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án, HOTQuyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án, HOT
Quyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án, HOT
 
Luận văn: Quyền tiếp cận thông tin và việc đảm bảo thực hiện - Gửi miễn phí q...
Luận văn: Quyền tiếp cận thông tin và việc đảm bảo thực hiện - Gửi miễn phí q...Luận văn: Quyền tiếp cận thông tin và việc đảm bảo thực hiện - Gửi miễn phí q...
Luận văn: Quyền tiếp cận thông tin và việc đảm bảo thực hiện - Gửi miễn phí q...
 
Luận văn: Quyền tiếp cận thông tin và đảm bảo thực hiện, HOT
Luận văn: Quyền tiếp cận thông tin và đảm bảo thực hiện, HOTLuận văn: Quyền tiếp cận thông tin và đảm bảo thực hiện, HOT
Luận văn: Quyền tiếp cận thông tin và đảm bảo thực hiện, HOT
 
Luận văn: Quyền tiếp cận thông tin và đảm bảo thực hiện ở Việt Nam
Luận văn: Quyền tiếp cận thông tin và đảm bảo thực hiện ở Việt NamLuận văn: Quyền tiếp cận thông tin và đảm bảo thực hiện ở Việt Nam
Luận văn: Quyền tiếp cận thông tin và đảm bảo thực hiện ở Việt Nam
 

More from Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864

More from Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864 (20)

Yếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.doc
Yếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.docYếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.doc
Yếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.doc
 
Từ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.doc
Từ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.docTừ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.doc
Từ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.doc
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
 
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
 
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
 
Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...
Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...
Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
 
Tác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.doc
Tác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.docTác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.doc
Tác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.doc
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
 
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
 
Song Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.doc
Song Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.docSong Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.doc
Song Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.doc
 
Ứng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.doc
Ứng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.docỨng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.doc
Ứng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.doc
 
Vai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.doc
Vai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.docVai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.doc
Vai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.doc
 
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
 
Thu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.doc
Thu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.docThu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.doc
Thu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.doc
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
 
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.docTạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
 

Recently uploaded

SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
ChuThNgnFEFPLHN
 
C6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoi
C6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoiC6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoi
C6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoi
dnghia2002
 
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hànhbài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
dangdinhkien2k4
 
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdfxemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
Xem Số Mệnh
 

Recently uploaded (20)

Bài học phòng cháy chữa cháy - PCCC tại tòa nhà
Bài học phòng cháy chữa cháy - PCCC tại tòa nhàBài học phòng cháy chữa cháy - PCCC tại tòa nhà
Bài học phòng cháy chữa cháy - PCCC tại tòa nhà
 
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
 
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
 
bài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docx
bài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docxbài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docx
bài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docx
 
C6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoi
C6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoiC6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoi
C6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoi
 
TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...
TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...
TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
 
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hànhbài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
 
xemsomenh.com-Vòng Lộc Tồn - Vòng Bác Sĩ và Cách An Trong Vòng Lộc Tồn.pdf
xemsomenh.com-Vòng Lộc Tồn - Vòng Bác Sĩ và Cách An Trong Vòng Lộc Tồn.pdfxemsomenh.com-Vòng Lộc Tồn - Vòng Bác Sĩ và Cách An Trong Vòng Lộc Tồn.pdf
xemsomenh.com-Vòng Lộc Tồn - Vòng Bác Sĩ và Cách An Trong Vòng Lộc Tồn.pdf
 
20 ĐỀ DỰ ĐOÁN - PHÁT TRIỂN ĐỀ MINH HỌA BGD KỲ THI TỐT NGHIỆP THPT NĂM 2024 MÔ...
20 ĐỀ DỰ ĐOÁN - PHÁT TRIỂN ĐỀ MINH HỌA BGD KỲ THI TỐT NGHIỆP THPT NĂM 2024 MÔ...20 ĐỀ DỰ ĐOÁN - PHÁT TRIỂN ĐỀ MINH HỌA BGD KỲ THI TỐT NGHIỆP THPT NĂM 2024 MÔ...
20 ĐỀ DỰ ĐOÁN - PHÁT TRIỂN ĐỀ MINH HỌA BGD KỲ THI TỐT NGHIỆP THPT NĂM 2024 MÔ...
 
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdfxemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
 
Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hội
Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hộiTrắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hội
Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hội
 
Giáo trình xây dựng thực đơn. Ths Hoang Ngoc Hien.pdf
Giáo trình xây dựng thực đơn. Ths Hoang Ngoc Hien.pdfGiáo trình xây dựng thực đơn. Ths Hoang Ngoc Hien.pdf
Giáo trình xây dựng thực đơn. Ths Hoang Ngoc Hien.pdf
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Bài giảng môn Truyền thông đa phương tiện
Bài giảng môn Truyền thông đa phương tiệnBài giảng môn Truyền thông đa phương tiện
Bài giảng môn Truyền thông đa phương tiện
 
xemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdf
xemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdfxemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdf
xemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdf
 
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdfBỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
 
TUYỂN TẬP ĐỀ THI GIỮA KÌ, CUỐI KÌ 2 MÔN VẬT LÍ LỚP 11 THEO HÌNH THỨC THI MỚI ...
TUYỂN TẬP ĐỀ THI GIỮA KÌ, CUỐI KÌ 2 MÔN VẬT LÍ LỚP 11 THEO HÌNH THỨC THI MỚI ...TUYỂN TẬP ĐỀ THI GIỮA KÌ, CUỐI KÌ 2 MÔN VẬT LÍ LỚP 11 THEO HÌNH THỨC THI MỚI ...
TUYỂN TẬP ĐỀ THI GIỮA KÌ, CUỐI KÌ 2 MÔN VẬT LÍ LỚP 11 THEO HÌNH THỨC THI MỚI ...
 

Luận văn: Pháp luật về biểu tình trên thế giới và Việt Nam, HAY

  • 1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT ĐỖ NGỌC DUY PHÁP LUẬT VỀ BIỂU TÌNH TRÊN THẾ GIỚI VÀ Ở VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Hà Nội - 2015
  • 2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT ĐỖ NGỌC DUY PHÁP LUẬT VỀ BIỂU TÌNH TRÊN THẾ GIỚI VÀ Ở VIỆT NAM Chuyên ngành : Lý luận và lịch sử nhà nƣớc và pháp luật Mã số : 60 38 01 01 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. Đặng Minh Tuấn Hà Nội - 2015
  • 3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan, đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các nội dung được trình bày trong luận văn là trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình khoa học nào khác. TÁC GIẢ LUẬN VĂN Đỗ Ngọc Duy
  • 4. DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ CÁI VIẾT TẮT UDHR ICCPR UBND Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền (1948) Công ƣớc về các quyền dân sự, chính trị 1966 Ủy ban nhân dân
  • 5. MỤC LỤC LỜI CAM ĐOAN DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ CÁI VIẾT TẮT LỜI MỞ ĐẦU.................................................................................................. 1 CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT BIỂU TÌNH............... 8 1.1.Biểu tình..................................................................................................... 8 1.1.1.Khái niệm................................................................................................. 8 1.1.2.Phân loại biểu tình................................................................................ 14 1.2.Quyền biểu tình ....................................................................................... 17 1.2.1.Khái niệm............................................................................................... 17 1.2.2.Giới hạn của quyền biểu tình............................................................... 19 1.2.3.Quyền biểu tình trong mối tương quan một số quyền ........................ 21 1.3.Vị trí, vai trò của biểu tình và quyền biểu tình.................................... 24 1.4.Pháp luật về biểu tình............................................................................. 26 CHƢƠNG 2: PHÁP LUẬT QUỐC TẾ VÀ MỘT SỐ QUỐC GIA TRÊN THẾ GIỚI VỀ BIỂU TÌNH ......................................................................... 33 2.1. Pháp luật quốc tế về biểu tình............................................................... 33 2.1.1.Về quyền biểu tình ................................................................................ 33 2.1.2. Về người tổ chức và tham gia biểu tình.............................................. 38 2.1.3. Về quản lý biểu tình............................................................................. 39 2.2.Pháp luật biểu tình một số quốc gia trên thế giới ................................ 41 2.2.1. Các khái niệm có liên quan đến cuộc biểu tình ................................. 41 2.2.2. Sự cho phép trong biểu tình ................................................................ 43 2.2.3. Đơn yêu cầu – xin phép – thông báo................................................... 45 2.2.4. Các trường hợp cấm, hạn chế biểu tình ............................................. 51 2.2.5. Các trường hợp đình chỉ, tạm đình chỉ, giải tán cuộc biểu tình ....... 55
  • 6. 2.2.6. Trách nhiệm, thẩm quyền của các cơ quan đảm bảo an ninh, trật tự cho cuộc biểu tình .......................................................................................... 58 2.2.7.Xử lý vi phạm......................................................................................... 60 CHƢƠNG 3: PHÁP LUẬT BIỂU TÌNH Ở VIỆT NAM:THỰC TRẠNG VÀ HƢỚNG HOÀN THIỆN........................................................................66 3.1. Thực trạng quy định pháp luật Việt Nam về biểu tình...................... 66 3.1.1. Quyền biểu tình của công dân qua các bản Hiến pháp..................... 66 3.1.2. Pháp luật biểu tình qua các văn bản luật........................................... 69 3.2. Hoàn thiện pháp luật biểu tình ở Việt Nam ........................................ 85 3.2.1. Các nguyên tắc khi xây dựng pháp luật biểu tình.............................. 85 3.2.2. Những nội dung cơ bản trong việc xây dựng Luật biểu tình ............ 87 3.3. Hoàn thiện các văn bản pháp luật liên quan khi xây dựng Luật biểu tình………………..........................................................................................94 3.3.1.Pháp luật hành chính ........................................................................... 94 3.3.2. Pháp luật hình sự................................................................................. 94 KẾT LUẬN.................................................................................................... 97 TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................ 99
  • 7. 1 LỜI MỞ ĐẦU 1.Tính cấp thiết của đề tài Phát huy dân chủ, tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của Đảng, Nhà nước ta trong công cuộc xây dựng, đổi mới và phát triển đất nước. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hôi (bổ sung, phát triển năm 2011) khẳng định: “Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển đất nước. Xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm dân chủ được thực hiện trong thực tế cuộc sống ở mỗi cấp, trên tất cả các lĩnh vực. Dân chủ gắn liền với kỷ luật, kỷ cương và phải được thể chế hoá bằng pháp luật, được pháp luật bảo đảm.Nhà nước tôn trọng và bảo đảm các quyền con người, quyền công dân; chăm lo hạnh phúc, sự phát triển tự do của mỗi người. Quyền và nghĩa vụ công dân do Hiến pháp và pháp luật quy định. Quyền của công dân không tách rời nghĩa vụ công dân.Nhân dân thực hiện quyền làm chủ thông qua hoạt động của Nhà nước, của cả hệ thống chính trị và các hình thức dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện”[10]. Biểu tình được xem là một sự thể hiện công khai ý chí của người dân về những vấn đề của đời sống xã hội. Về tính chất, biểu tình có thể là sự ủng hộ hoặc phản kháng đối với một chủ trương, chính sách, sự kiện hay một quyết định nào đó. Chủ trương, chính sách, sự kiện, quyết định đó không chỉ là của nội bộ quốc gia mà còn có thể là của quốc gia khác.Quyền biểu tình của người công dân được quy định tại Điều 25 Hiến pháp năm 1959; Điều 67 Hiến pháp năm 1980; Điều 69 Hiến pháp năm 1992. Hiến pháp năm 2013 với tư tưởng mới về quyền con người, quyền công dân thì quyền biểu tình của công dân được quy định tại Điều 25: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình. Việc thực hiện các
  • 8. 2 quyền này do pháp luật quy định” [17]. Hiến pháp năm 1946 không quy định trực tiếp quyền biểu tình của người dân nhưng nội hàm của quyền biểu tình được quy định tại Điều 10 của Hiến pháp 1946 “Công dân Việt Nam có quyền tự do ngôn luận, tự do xuất bản, tự do tổ chức và hội họp…” [13]. Tuy nhiên, trong suốt hơn 70 năm qua, chúng ta vẫn chưa xây dựng được một bộ luật trực tiếp để điều chỉnh các hoạt động liên quan đến biểu tình. Hiện nay, chỉ có Nghị định 38/2005/NĐ-CP ngày 18/3/2005 của Chính phủ quy định về một số biện pháp bảo đảm trật tự công cộng để giải tán các cuộc “tập trung đông người ở nơi công cộng”. Sau đó Bộ Công an cũng ban hành Thông tư 09/2005/TT-BCA để hướng dẫn thi hành một số điều của Nghị định 38/2005/NĐ-CP. Tuy nhiên, các quy định này không điều chỉnh trực tiếp các vấn đề liên quan của biểu tình, mà đặt ra nhiều hạn chế và quy trình khó khăn để người dân thực hiện quyền biểu tình. Đứng trước tình hình đó, Quốc hội đã có Nghị quyết về xây dựng Luật biểu tình, tuy nhiên Dự án Luật biểu tình đã được lùi từ chương trình cho ý kiến tại kỳ họp thứ 9, khoá XIII sang chương trình cho ý kiến tại kỳ họp thứ 11, khóa XIII. Thực tiễn cho thấy, biểu tình đã xuất hiện ở nước ta từ rất lâu, ngay trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ chúng ta đã tiến hành nhiều cuộc biểu tình đòi những yêu sách cho dân tộc thuộc địa và diễn ra ở nhiều nơi. Hiện nay, để phản đối các chính sách pháp luật, các sự kiện có liên quan thì công dân cũng đã tiến hành nhiều cuộc biểu tình như: biểu tình về chính sách đất đai của nông dân huyện Văn Giang (Hưng Yên), biểu tình phản đối Trung Quốc có một số hành động phi phạm ở biển Đông (tuyên bố chủ quyền với Hoàng Sa và Trường Sa, cắt đứt cáp tàu Bình Minh của Việt Nam, hạ đặt giàn khoan HD 981 trên thềm lục địa của Việt Nam). Tuy nhiên, do thiếu vắng một bộ luật quy định trực tiếp quy định về biểu tình và sự hạn chế của Nghị định 38/2005/NĐ-CP và Thông tư 09/2005/TT-BCA nên việc thực thi quyền biểu tình của người dân chưa được thực thi trên thực tế.
  • 9. 3 Trước tình hình đó, để tăng cường và phát huy dân chủ, góp phần hoàn thiện pháp luật về biểu tình ở Việt Nam, nghiên cứu kinh nghiệm về xây dựng luật biểu tình của một số nước trên thế giới việc nghiên cứu đề tài “Pháp luật về biểu tình trên thế giới và ở Việt Nam” là hết sức cần thiết. 2.Tình hình nghiên cứu Ngoài nƣớc : Biểu tình được coi là quyền con người cơ bản được cộng động quốc tế và các quốc gia ghi nhận trong pháp luật nhằm mục đích bảo đảm thực thi quyền biểu tình. Cũng chính vì lý do đó, biểu tình và quyền biểu tình được các khoa học xã hội, đặc biệt là luật học rất quan tâm nghiên cứu. Các nhà luật học đã nghiên cứu làm rõ nhiều vấn đề cơ bản về vấn đề này bao gồm: khái niệm biểu tình; phân biệt biểu tình với một số hoạt động khác; ý nghĩa của biểu tình; vị trí, vai trò của pháp luật trong việc bảo đảm quyền biểu tình; mối quan hệ giữa quyền biểu tình với biểu tình và một số quyền khác (quyền tự do ngôn luật; tự do hội họp); các xu hướng phát triển của biểu tình trên thế giới; các quy định và thực thi pháp luật về biểu tình, quyền biểu tình…. Trong nƣớc: Ở Việt Nam, biểu tình, quyền biểu tình vẫn còn là vấn đề ít được nghiên cứu trong giới học thuật. Gần đây mới bắt đầu có một số ít bài viết bàn về biểu tình, quyền biểu tình khi vấn đề xây dựng về luật biểu tình được đặt ra trong chính sách của Đảng và Nhà nước. - Bài viết: “Quyền biểu tình ở Cộng hòa Liên bang Đức và hướng hoàn thiện chế định này trong Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992” của TS. Nguyễn Minh Tuấn đăng trên Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, Văn phòng Quốc hội, Số 12 (224)/ Tháng 6/2013, tr. 56-64 đã nghiên cứu quyền biểu tình ở Cộng hòa Liên bang Đức và đưa ra những định hướng cơ bản để sửa đổi quyền biểu tình trong việc sửa đổi Hiến pháp 1992 và một số nội dung cơ bản của luật biểu tình nếu được xây dựng. - Bài viết: “Về khái niệm biểu tình” của ThS. Nguyễn Thanh Minh đăng trên tạp chí Nghiên cứu lập pháp, Văn phòng Quốc hội, số 20/2012,
  • 10. 4 trang 16 đã đưa ra một số vấn đề mang tính lý luận về khái niệm, đặc điểm có liên quan đến quyền biểu tình. - Bài viết:“ Nhu cầu luật hóa quyền biểu tình theo Hiến pháp 2013” của ThS.Nguyễn Linh Giang đăng trên Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, Văn phòng Quốc hội, Số 11/2015 đã nêu lên được nhu cầu phải thể chế hóa các quy định của Hiến pháp 2013 về quyền biểu tình của công dân và đưa một số nội dung cơ bản của Luật biểu tình. - Bài dự thi nghiên cứu khoa học của sinh viên cấp trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh: “Quyền biểu tình – những vấn đề lý luận và thực tiễn” của tác giả Võ Tuấn Lộc và Kim Tư Nga năm 2009 – 2010 đã đề cập đến nhiều nội dung vấn đề lý luận liên quan đến quyền biểu tình, có sự nghiên cứu đánh giá pháp luật biểu tình của một số nước trên thế giới. Tuy nhiên, hầu như chưa có công trình nghiên cứu nghiêm túc và đầy đủ nào về biểu tình cũng như pháp luật vể biểu tình ở nước ta. Trong quá trình xây dựng luật biểu tình, Bộ Tư pháp, Văn phòng Chính phủ cũng tổ chức một số tọa đàm tham vấn các chuyên gia, nhà khoa học về các vấn đề liên quan đến luật biểu tình. Trong quá trình sửa đổi Hiến pháp 2013, vấn đề bảo đảm quyền con người, trong đó có quyền biểu tình cũng được thảo luận nhằm tìm ra những đề xuất đảm bảo hiệu quả hơn quyển biểu tình của công dân. Nhìn chung, các bài viết, ý kiến thường chỉ chú trọng đề cập pháp luật biểu tình ở khía cạch quản lý nhà nước (quy định về thông báo tổ chức biểu tình; cấm hoặc hạn chế biểu tình; cấm, thời gian và phạm vi cấm biểu tình; thủ tục đăng ký biểu tình…) mà chưa chú trọng đến khía cạnh biểu tình ở phương diện quyền con người, có nhiều quy định về trách nhiệm của Nhà nước tạo mọi điều kiện để công dân thực hiện được quyền biểu tình. 3.Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề mang tính lý luận liên quan đến pháp luật biểu tình, nghiên cứu pháp luật biểu tình một số nước
  • 11. 5 trên thế giới, thực trạng pháp luật biểu tình ở Việt Nam, thực tiễn thực hiện quyền biểu tình của người dân trong những năm qua và đưa ra những kiến nghị về xây dựng Dự thảo Luật biểu tình trong thời gian tới. Phạm vi nghiên cứu của luận văn là tập trung vào nghiên cứu pháp luật và thực tiễn thi hành pháp luật về biểu tình ở Việt Nam trong khoảng hơn 10 năm trở lại đây, đặc biệt là sau khi Chính phủ ban hành Nghị Định 38/2005/NĐ-CP và Bộ Công an ban hành Thông tư 09/2005/TT-BCA, bao gồm: Thế nào là tập trung đông người nơi công cộng, quy trình,thủ tục đế tiến hành một cuộc tập trung đông người, trách nhiệm của các cơ quan có liên quan, xử lý vi phạm… Bên cạnh đó, luận văn cũng đề cập khái quát pháp luật biểu tình một số nước trên thế giới như: Cộng hòa Liên bang Đức, Hàn Quốc, Trung Quốc, Campuchia để có thể làm bài học kinh nghiệm cho Việt Nam trong việc xây dựng Dự thảo Luật Biểu tình. Đây là những quốc gia có rất nhiều điểm tương đồng với Việt Nam nên những bài học kinh nghiệm từ các quốc gia này trong việc xây dựng Luật Biểu tình sẽ có ý nghĩa quan trọng đối với việc xây dựng Luật Biểu tình ở Việt Nam – thể chế hóa quy định tại Điều 25, Hiến pháp 2013 - một bản Hiến pháp đề cao quyền con người. 4.Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích nghiên cứu Luận văn này nhằm mục đích làm rõ những vấn đề mang tính lý luận về pháp luật biểu tình; nghiên cứu pháp luật một số quốc gia trên thế giới đặc biệt là những quốc gia có nhiều điểm tương đồng với Việt Nam, phân tích thực tiễn những quy định pháp luật Việt Nam có điều chỉnh một số vấn đề liên quan đến biểu tình từ đó chỉ ra sự cần thiết phải xây dựng Luật biểu tình trong thời gian tới để điều chỉnh, giúp cho người dân thực hiện được quyền biểu tình như trong quy định của Hiến pháp 2003, từ đó đề xuất một số nội dung trong việc xây dựng Dự thảo Luật biểu tình trong thời gian tới.
  • 12. 6 Nhiệm vụ nghiên cứu Luận văn sẽ giải quyết một số nhiệm vụ cơ bản sau: - Làm sáng tỏ khái niệm về biểu tình, phân biệt giữa quyền biểu tình và pháp luật biểu tình, phân biệt giữa quyền biểu tình và một số quyền khác như quyền tự do hội họp, quyền tự do ngôn luận. - Phân tích và nghiên cứu pháp luật biểu tình một số quốc gia trên thế giới có nhiều điểm tương đồng với Việt Nam để rút ra những kinh nghiệm Việt Nam có thể tiếp thu trong quá trình xây dựng Dự thảo Luật Biểu tình. - Hệ thống hóa các quy định của pháp luật hiện hành và tình hình thực hiện quyền biểu tình của công dân trong thời gian qua, qua đó nêu nên những khó khăn, vướng mắc, cũng như những tồn tại hạn chế của hệ thống pháp luật quy định về quyền biểu tình của người dân và đưa ra những kiến nghị đề xuất một số nội dung trong Dự thảo Luật biểu tình. 5.Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu của đề tài. Việc nghiên cứu của luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về Nhà nước và pháp luật, đặc biệt là các quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về phát huy quyền làm chủ của nhân dân nói chung và về vấn đề biểu tình nói riêng để làm sáng tỏ những nội dung cần nghiên cứu. Luận văn được thực hiện trên cơ sở áp dụng phương pháp luận duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác - Lênin và các phương pháp nghiên cứu, như phương pháp lịch sử cụ thể, phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp luật học so sánh, khảo sát thực tế và có tham khảo kinh nghiệm của một số nước. 6.Ý nghĩa lý luận, thực tiễn của luận văn Quyền biểu tình của công dân đã được đề cập trong các bản Hiến pháp của Việt Nam, nhưng đến nay chưa có một văn bản quy phạm pháp luật nào
  • 13. 7 trực tiếp điều chỉnh các nội dung để công dân thực hiện một cuộc biểu tình. Chính vì vậy, Đề tài học viên lựa chọn sẽ cố gắng hệ thống hóa, phân tích và đưa ra những vấn đề mang tính lý luận về pháp luật biểu tình như: khái niệm, hình thức, ý nghĩa, phân biệt biểu tình với một số quyền khác có liên quan (quyền tự do hội hop, quyền tự do ngôn luận); nghiên cứu đánh giá thực trạng pháp luật về biểu tình và thực tiễn thi hành pháp luật về biểu tình, chỉ ra những khó khăn,vướng mắc trong khi thực hiện các quy định về biểu tình. Trên cơ sở đó, đưa ra những kiến nghị hoàn thiện pháp luật nhằm đảm bảo cho việc thực hiện pháp quyền biểu tình của công dân được thực hiện trên thực tế, phát huy quyền dân chủ của công dân trong việc xây dựng đất nước.Vì vậy, luận văn là một nguồn tài liệu tham khảo tốt cho các cơ quan hữu quan trong việc xay dựng và hoàn thiện Luật biểu tình trong thời gian tới, thể chế hóa quy định của Hiến pháp năm 2013. Ngoài ra, luận văn cũng là nguồn tài liệu tham khảo tốt cho việc giảng dạy, nghiên cứu luật tại khoa Luật ĐHQG Hà Nội và các cơ sở đào tạo luật khác của Việt Nam. 7.Kết cấu của luận văn Ngoài các phần Lời nói đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, luận văn được kết cấu làm 3 chương như sau: Chương 1: Cơ sở lý luận về biểu tình Chương 2: Pháp luật quốc tế và một số quốc gia trên thế giới về biểu tình Chương 3: Pháp luật biểu tình ở Việt Nam: Thực trạng và hướng hoàn thiện
  • 14. 8 CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT BIỂU TÌNH 1.1.Biểu tình 1.1.1.Khái niệm Biểu tình là một vấn đề phức tạp. Hiện nay, trên thế giới chưa có một định nghĩa về biểu tình thật sự thống nhất. Các nước khác nhau có những quan điểm khác nhau về biểu tình. Luật pháp của nhiều quốc gia thừa nhận quyền biểu tình nhưng hầu hết lại không định nghĩa thế nào là biểu tình. Theo Từ điển Luật học, Nhà xuất bản Từ điển bách khoa, nhóm tác giả định nghĩa về biểu tình “…biểu tình là hình thức đấu tranh bằng cách tụ họp đông đảo để bày tỏ ý chí nguyện vọng và biểu dương lực lượng chung của một tập thể”[43]. Theo Từ điển tiếng Việt, biểu tình là việc đấu tranh bằng cách tụ họp đông người để bày tỏ ý chí, nguyện vọng và biểu dương lực lượng chung. Ví dụ như biểu tình tuần hành, xuống đường biểu tình, biểu tình ngồi [41]. Theo bách khoa toàn thư Bắc Mỹ (Encyclopedia Americana) thì biểu tình “là hành động bất bạo lực của một nhóm người, nhằm mục đích đưa đến cộng đồng một quan điểm hay một cách nhìn về một vấn đề nào đó trong xã hội”.[70] Theo các tác giả Kim Từ Nga và Võ Tấn Lộc thì “Biểu tình là sự tập hợp tự nguyện từ mười người trở lên, hành động mang tính phi bạo lực, để bày tỏ thái độ phản đối hay ủng hộ công khai về một vấn đề nào đó trước Nhà nước, tổ chức hoặc cá nhân nhằm đòi hỏi quyền lợi cho mình, cho chủ thể khác hoặc cho xã hội”. [30] Mỗi khái niệm được rút ra từ những nghiên cứu của các tác giả từ những góc độ khác nhau. Nhưng nhìn chung các khái niệm trên đều đưa ra các đánh giá về biểu tình dựa trên các đặc trưng cơ bản nhằm phân biệt biểu tình với hoạt động tương tự khác.
  • 15. 9 Nhìn một cách tổng quan các khái niệm đã đưa ra những đặc điểm chung là sự tập trung của một số người nhất định nhằm đưa ra quan điểm về một vấn đề nào đó đối với xã hội. Chính vì vậy, biểu tình có những đặc điểm sau: Thứ nhất, có nhiều người tham gia. Bất kỳ một cuộc biểu tình nào nổ ra cũng phải tập hợp được một lực lượng đông đảo. Họ bày tỏ những quan điểm của mình và có thể phản đối chính sách của Nhà nước, tổ chức hay cá nhân nào đó. Đấu tranh bằng phương pháp hòa bình là chủ đạo nên phải nhiều người mới tạo được sức mạnh cần thiết để tác động đến những chủ thể mà họ không bằng lòng. Ví dụ, cuộc biểu tình đòi thả nhà chí sĩ Phan Bội Châu đã có hàng vạn người đủ các tầng lớp nhân dân tham gia. Và lịch sử hình thành quyền biểu tình cũng được thực hiện bởi hoạt động biểu tình có nhiều người tham gia. Họ có thể có những cách thức đấu tranh khác nhau, nhưng không đối lập. Họ có điểm chung là hướng đến đối tượng mà họ ủng hộ hay phản đối để bày tỏ thái độ hay đòi hỏi những gì mà mình mong muốn. Vì thế, người biểu tình có nhu cầu liên kết lại. Một người lẻ loi đứng ra bày tỏ quan điểm ủng hộ hay phản đối về bất cứ một vấn đề nào thì không phải là hành động biểu tình. Biểu tình với đặc điểm có nhiều người tham gia thường được thể hiện dưới nhiều hình thức như: diễu hành, chiếm đóng, thậm chí là nude tập thể... Diễu hành hay còn gọi là mít-tinh được hiểu là việc xuống đường của nhiều người di chuyển trong trật tự từ địa điểm này đến địa điểm khác. Ở Việt Nam cũng hay tổ chức những cuộc mít-tinh diễu hành mừng ngày giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước (ngày 30 tháng 4) hay ngày Quốc tế Lao động (ngày 1 tháng 5)... Đoàn người vừa đi vừa hô khẩu hiệu theo sự chỉ dẫn của những người tổ chức. Đây cũng là một hình thức biểu tình nhưng được thể hiện dưới dạng ủng hộ. Thông thường, Nhà nước đứng ra tổ chức các cuộc biểu tình này và người dân luôn hưởng ứng, tham gia.
  • 16. 10 Chiếm đóng được hiểu là sự bao vây của nhiều người quanh một địa điểm nhất định nào đó trong một khoảng thời gian. Ví dụ, cuộc biểu tình của hàng chục ngàn người mặc áo đỏ tại Thái Lan ngày 3/4/2010, “các tòa nhà văn phòng và hàng chục trung tâm thương mại sầm uất tại thủ đô Bangkok đã phải đóng cửa vì lý do an ninh. Giao thông trên nhiều tuyến phố bị tê liệt. Người biểu tình áo đỏ cho biết, họ sẽ tiếp tục chiếm đóng các trung tâm thương mại cho tới khi nào yêu cầu của họ được đáp ứng. Rất nhiều người biểu tình áo đỏ đã ngủ lại qua đêm trên hè phố”. Nude là hình thức người biểu tình cởi bỏ quần áo để gây sự chú ý. Ví dụ, ngày 7/6/2012 vừa qua, tại Montreal, bang Québec (Canada) đã diễn ra một buổi "diễu hành biểu tình" hết sức đặc biệt [49]. Hàng trăm sinh viên đã xuất hiện trên đường phố trong trạng thái bán khỏa thân; một số nữ sinh thả rông ngực và chỉ mặc quần chip, một số khác lại mặc bikini hoặc nội y màu đỏ bắt mắt. Trên tay họ là những biểu ngữ, khẩu hiệu phản đối việc tiền học phí không ngừng tăng cao. Trong tình trạng kinh tế suy thoái toàn cầu, khó khăn về vấn đề tài chính đã ảnh hưởng rất lớn đến nhiều lĩnh vực xã hội. Với ngành giáo dục, đây cũng là thử thách muôn vàn khó khăn khi muốn duy trì mục tiêu phát triển mà lãnh đạo đất nước đặt ra. Thứ hai, phải thể hiện sự ủng hộ hay phản đối công khai. Dù biểu tình được thực hiện dưới hình thức nào cũng phải thể hiện sự phản đối hoặc ủng hộ công khai. Những chính sách hay quyết định của bất kỳ nhà nước hay tổ chức, cá nhân nào gây phương hại đến những người khác đều có thể trở thành đề tài phản đối của người biểu tình. Ví dụ, phe Áo đỏ ở Thái Lan phát động một cuộc biểu tình trên quy mô lớn phản đối các nhà lãnh đạo và sự điều hành của Chính phủ. Người đứng đầu và đoàn biểu tình “gây sức ép đòi Thủ tướng từ chức, giải tán Hạ viện và tiến hành bầu cử sớm”[49]. Trong trường hợp này, người biểu tình rõ ràng thể hiện thái độ không đồng
  • 17. 11 tình với những chủ trương mà những người đứng đầu Chính phủ đưa ra. Tuy nhiên, biểu tình không chỉ thể hiện sự phản đối mà trong nhiều trường hợp nó còn bày tỏ sự ủng hộ. Nhiều vấn đề người dân bày tỏ thái độ ủng hộ, đơn thuần chỉ vì họ thấy nó phù hợp, đem lại lợi ích cho mình và xã hội. Nếu Chính phủ hoặc tổ chức, cá nhân đang có những lựa chọn cách giải quyết cho một vấn đề nào đó thì sự ủng hộ của người biểu tình sẽ góp phần củng cố quyết tâm của những chủ thể đưa ra quyết định. Ví dụ, cuộc biểu tình ngày 19/4/2010 của người dân New York, “cuộc biểu tình do Chiến dịch Hỗ trợ và trách nhiệm với các nạn nhân chất độc da cam dioxin Việt Nam phát động đã diễn ra tại công viên Prospect, nơi diễn ra sự kiện Chạy vì nước sạch do công ty Dow tổ chức. Những người tổ chức biểu tình cho rằng, công ty Dow đang lợi dụng các hoạt động Chạy vì nước sạch để che giấu hành vi gây ô nhiễm nguồn nước và phá hủy hệ sinh thái ở Việt Nam và nhiều nơi khác”[49]. Sự phân biệt giữa ủng hộ hay phản đối cũng chỉ ở mức tương đối, vì nhiều cuộc biểu tình có sự đan xen giữa hai yếu tố này. Thông thường, một cuộc biểu tình ủng hộ ai đó thì đồng thời cũng là một biểu hiện cho sự phản đối với bên đối lập. Điển hình là các cuộc biểu tình trong cuộc chiến tranh giữa Mỹ và Việt Nam. Người dân yêu chuộng hòa bình trên toàn thế giới tổ chức nhiều cuộc biểu tình phản đối cuộc chiến của Mỹ tại Việt Nam. Nhưng không chỉ có sự phản đối, mà thông qua sự không đồng tình với nhà cầm quyền Mỹ, người biểu tình đã trực tiếp hoặc gián tiếp ủng hộ sự nghiệp cách mạng của nhân dân Việt Nam. Nếu chỉ có sự tụ họp đông người nhưng không thể hiện sự phản đối hoặc ủng hộ công khai thì cũng không là biểu tình. Vì đó có thể chỉ là sự tụ họp, bàn bạc, thảo luận để đưa ra ý kiến mang tính chất đóng góp hay bổ sung. Còn biểu tình, dù được thể hiện dưới bất kỳ hình thức nào thì cũng phải công khai. Bản chất của biểu tình nằm ở chỗ bằng sức mạnh của số đông,
  • 18. 12 người biểu tình truyền tải thông điệp công khai tới đối tượng mà họ hướng đến ngay lập tức và nhanh chóng. Cho nên, sự công khai là đặc điểm bắt buộc. Như “cuộc biểu tình đòi thả Phan Bội Châu năm 1925 thu hút đông đảo thanh niên, sinh viên, học sinh. Họ giương cao biểu ngữ, phân phát truyền đơn, phản đối sự bắt bớ đối với Phan Bội Châu. Có những tờ đơn kháng cáo còn được gửi tới tận Hội Quốc Liên, Tòa án quốc tế Lahay (Hà Lan), Nghị viện Pháp đòi hủy bản án cho Phan Bội Châu”. Thứ ba, mục đích của biểu tình nhằm đòi hỏi quyền lợi cho mình, cho chủ thể khác hoặc cho xã hội. Điều cốt yếu nhất của hiện tượng biểu tình là sự xung đột lợi ích giữa các giai cấp, tầng lớp, hay các nhóm xã hội. Người ta đi biểu tình vì chính Nhà nước, tổ chức, cá nhân nào đó làm ảnh hưởng đến quyền lợi của họ, của chủ thể khác hoặc của xã hội. Người biểu tình nhận thấy rằng, nếu cứ để tình trạng đó diễn ra thì thật sự không tốt, nên họ tập hợp nhau lại biểu tình đấu tranh đòi quyền lợi. Thời gian gần đây, người dân trên khắp thế giới biểu tình chống chiến tranh, đòi bảo vệ môi trường sinh thái, bảo vệ động vật hoang dã. Những hành động ấy là sự thể hiện cho ý thức bảo vệ lợi ích của xã hội loài người một cách lâu dài. Trong một cuộc biểu tình, vấn đề bạo lực hay bất bạo lực luôn là vấn đề gây tranh cãi. Qua nghiên cứu các cuộc biểu tình trong lịch sử cũng như các năm gần đây, đặc biệt là các cuộc biểu tình về các vấn đề chống chiến tranh, phản đối các quyết sách của nhà nước hay các cuộc biểu tình của các phe phái tôn giáo chống lại nhau thì tình trạng bạo lực thường xuyên xảy ra. Ví dụ, ngày 03/04/2011, hàng nghìn người Afghanistan tiếp tục xuống đường tại nhiều thành phố để phản đối vụ mục sư Mỹ đốt kinh Koran [49]. Trước đó, những người quá khích đã tràn vào tấn công một văn phòng của Liên Hợp Quốc tại Mazar e-Sharif, sát hại 7 nhân viên LHQ. Đó là ngày thứ ba liên tiếp của làn sóng biểu tình ở Afghanistan phản đối vụ đốt kinh Koran. Tại
  • 19. 13 Jalalabad, hàng trăm người đã phong tỏa tuyến đường chính trong suốt ba giờ. Trước đó, cuộc biểu tình bạo lực tại Khadahar đã làm 10 người thiệt mạng, trong đó có 1 cảnh sát. Vì vậy, vấn đề đặt ra là bạo lực có phải là một đặc điểm của biểu tình không? Có nên coi bạo lực là một đặc điểm của biểu tình theo quan điểm hiện đại hay không. Đánh giá một số cuộc biểu tình có bạo lực có thể thấy rằng hầu hết các cuộc biểu tình đều bắt đầu diễn ra trong tình trạng ôn hòa, về sau vì nhiều nguyên nhân, có trường hợp xuất phát từ chính những người biểu tình khi họ quá phấn khích, có trường hợp xuất phát từ hành vi của nhà cầm quyền trong việc đàn áp, hạn chế hay cố gắng giải tán cuộc biểu tình bằng những cách thức không đúng luật nhưng không thích hợp, hoặc trong trường hợp nguyện vọng của người biểu tình liên quan đến các lợi ích thích hợp, hoặc trong trường hợp nguyện vọng của người biểu tình liên quan đến các lợi ích thiết thân của họ mà không được đáp ứng thì dễ gây ra tâm lý bất mãn, chống đối. Từ đó gây ra tình trạng xung đột giữ người biểu tình với lực lượng đảm bảo an ninh hoặc giữa người biểu tình của đoàn biểu tình này với người biểu tình của đoàn biểu tình khác, hoặc giữa người biểu tình với người không tham gia biểu tình. Ví dục như ngày 16 và 17/02/2011, chính phủ Bahrain đã buộc phải cử quân đội cùng với xe tăng hỗ trợ cảnh sát lấy lại trật tự an ninh tại những thành phố lớn. Ngày 17/02, lực lượng Cảnh sát Bahrain lần đầu tiên phải sử dụng đến hơi cay, vòi rồng để giải tán đám đông quá khích tại quảng trường khi họ lớn tiếng đòi cải tổ chính trị, thay đổi nội các. Ghi nhận của phóng viên nước ngoài cho hay, ít nhất 4 người đã thiệt mạng trong vụ bạo động này, phản đối các quyết sách của nhà nước hay các cuộc biểu tình của các phe phái tôn giáo chống lại nhau thì tình trạng bạo lực thường xuyên xảy ra [49]. Diễn giải như vậy không bao gồm ý nghĩa bạo lực là một đặc điểm của biểu tình mà chỉ chú ý một sự thật đang diễn ra là trong các cuộc biểu tình luôn tiềm ẩn nguy cơ gây ra bạo lực. Thông qua phân tích ở trên ta có thể thấy rằng bạo lực trong một cuộc biểu tình không phải là một hành động xuất phát từ bản chất mà chỉ là do tác động từ các yếu tố bên ngoài nên nảy sinh ra mà thôi.
  • 20. 14 Như vậy, trên thực tế, biểu tình là sự tập hợp của nhiều người để bày tỏ thái độ phản đối hay ủng hộ công khai về một vấn đề nào đó trước Nhà nước, tổ chức hoặc cá nhân nhằm đòi hỏi quyền lợi cho mình, cho chủ thể khác hoặc cho xã hội. 1.1.2.Phân loại biểu tình Biểu tình là một hoạt động hết sức phổ biến trên thế giới vì vậy để phân loại biểu tình tùy vào từng loại tiêu chí có thể phân loại biểu tình thành nhiều loại khác nhau. Việc phân loại không nhằm mục đích gì khác hơn là nhằm tạo một hướng nhìn đầy đủ và hoàn thiện hơn về biểu tình. Cách phân loại biểu tình ở đây dựa trên bản chất của biểu tình. Dựa vào hình thức của biểu tình Diễu hành, tuần hành, thị uy là việc những người biểu tình xuống đường di chuyển trong trật tự từ một địa điểm này đến một địa điểm khác. Đây là hình thức được sử dụng một cách thường xuyên và phổ biến nhất, việc một cuộc biểu tình không nhất thiết chỉ được sử dụng một hình thức để biểu tình nó có thể chuyển từ hình thức này sang hình thức khác nếu cần thiết để đạt được mục đích. Ví dụ, VON đơn vị sở hữu cổng thông tin lớn nhất Việt Nam đã tặng 400 mũ bảo hiểm cho toàn thể nhân viên công ty đồng thời tổ chức diễu hành bằng xe máy qua các trục đường chính của trung tâm thành phố như Điện Biên Phủ, Phạm Ngọc Thạch, Nguyễn Huệ, Lê Lợi, Lê Duẩn…để cổ vũ cho phong trào đội mũ bảo hiểm [49]. Mít tinh là hình thức người biểu tình tập hợp tại một địa điểm cố định để nghe diễu thuyết của một người, và đôi khi là diễn đàn để đưa ra các ý kiến và quan điểm. Hình thức này mang nhiều đặc điểm của sự tụ họp nơi công cộng. Ví dụ ngày 03/08/2006, hàng chục người Hồi giáo dòng Shiite, trùm đầu bằng vải trắng, đã tập tủng tại thủ đô Baghdad, Iraq, nhằm thể hiện sự ủng hộ đối với Hezbollah. Các đường phố thuộc khu ổ chuột của thành phố Sard, do người Shiite cai quản tại Baghdad, đầy chật người. Ban tổ chức cho
  • 21. 15 biết có khoảng 250 nghìn người tham dự cuộc mít tinh do giáo sĩ Muqta al- Sadr khởi xướng. Những người biểu tình trùm đầu bằng vải liệm màu trắng - biểu tượng cho tinh thần sẵn sàng xả thân vì đạo. Bên cạnh đó, cuộc biểu tình còn có ý nghĩa phô trương thanh thế của al-Sadr, người đang chỉ huy lực lượng quân đội hùng hậu Mahdi [49]. Hàng rào ngăn cản là các cuộc biểu tình vây quanh một địa điểm nào đó nhằm để phản đối trực tiếp. Hình thức này diễn ra nhằm vào một đối tượng cụ thể, thông qua ngăn cản hoạt động bình thường của đối tượng để đáp ứng nguyện vọng của người biểu tình. Chiếm đóng là những người biểu tình trụ lại một địa điểm nhất định trong một thời gian dài gây áp lực khó khăn cho chủ thể chịu phản đối. Giả chết là hình thức biểu tình khổ hạnh, người biểu tình sắp đặt một cảnh tượng chết chóc dùng để phản đối chiến tranh, hay phản đối một sản phẩm thuốc men mà cho rằng có hại. Ngoài ra còn một số hình thức như biểu tình khỏa thân. Dựa vào lĩnh vực mà biểu tình tác động đến Biểu tình chính trị là các cuộc biểu tình hướng đến việc giải quyết các vấn đề chính trị như thay đổi chính phủ, đòi quan chức nhà nước từ chức, ủng hộ các đảng cầm quyền. Biểu tình chính trị là hoạt động hết sức phổ biến và có ý thức sâu sắc đối với nhà nước và xã hội, ví dụ như tại Tunisia hàng nghìn người đã xuống đường ở thủ đô Tunis và ở các tỉnh để đòi tổng thống Ben Ali từ chức, mặc dù một ngày trước đó, lãnh đạo Tunisia đã mọt lần nữa tìm cách xoa dịu sự bất mãn của dân chúng. Các cuộc biểu tình cũng diễn ra ở nhiều tỉnh của nước này. Biểu tình về các vấn đề kinh tế Ví dụ như các cuộc biểu tình tại Anh hàng trăm nghìn người đã xuống đường biểu tình ở thủ đô London nhằm phản đối các biện pháp thắt lưng buộc
  • 22. 16 bụng của Chính phủ, theo đó sẽ cắt giảm 81 tỷ bảng chi tiêu ngân sách để đối phó với mức thâm hụt ngân sách kỷ lục tại quốc gia này. Hoặc tại Italia khoảng 300.000 người đã tụ tập biểu tình ở thủ đô Roma để phản đối việc tư nhân hóa ngành nước và chương trình khôi phục điện hạt nhân của Chính phủ. Những người biểu tình cho rằng nước là tài sản chung và cần phải có một cuộc trưng cầu dân ý về việc tư nhân hóa ngành nước và khôi phục ngành điện hạt nhân. Các cuộc biểu tình này hướng vào các vấn đề như lạm phát kinh tế, sự xâm phạm của các công ty tới quyền lợi của người tiêu dùng, hoặc của doanh nghiệp khi không trả lương cho người lao động [49]. Biểu tình về các vấn đề xã hội. Các cuộc biểu tình diễn ra một cách tương đối phổ biến và thu hút sự quan tâm của các tầng lớp nhân dân khi các vấn đề liên quan đến xã hội như bạo hành gia đình, buôn bán trẻ em, an sinh xã hội không được đảm bảo v.v… Ví dụ như trong cuộc biểu tình tại Mexico hàng nghìn người đã tuần hành trong im lặng nganh qua trung tâm thành phố Mexico City để phản đối bạo lực ma túy đã khiến hàng chục nghìn người chết và chiến lược quân sự đã thất bại trong việc ngăn chặn tệ nạn. Dựa vào tính chất của cuộc biểu tình Đây được coi là cách phân loại biểu tình được nhiều nhà lập pháp thừa nhận và sử dụng rộng rãi nhất hiện nay trong giới luật học vì nó là thước đo của một biểu tình có thể nhận biết cuộc biểu tình đó có hợp pháp hay không?, Theo tính chất của cuộc biểu tình thì biểu tình được chia thành: Biểu tình ôn hòa là biểu tình diễn ra theo quy định của pháp luật về trình tự mục đích, đối tượng và cuộc biểu tình này diễn ra hòa bình, không xảy ra xung đột giữa những người tham gia biểu tình với những người khác đặc biệt là từ phía cơ quan công an. Biểu tình bạo lực là biểu tình trong đó có xảy ra các hành vi bạo lực, bạo động làm mất trật tự an ninh, an toàn công cộng, gây ảnh hưởng tới tính
  • 23. 17 mạng, sức khỏe của người khác, xảy ra xung đột giữa những người tham gia biểu tình và lực lượng công an. 1.2.Quyền biểu tình 1.2.1.Khái niệm Quyền biểu tình là một quyền quan trọng của con người, được ghi nhận trong Hiến pháp và pháp luật ở nhiều nước trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Quyền biểu tình được hiểu là quyền của cá nhân, công dân được tự do bày tỏ quan điểm, ý kiến của mình về một vấn đề nào đó của xã hội, sự bày tỏ đó thể hiện dưới dạng ủng hộ hoặc phản đối nhằm đỏi hỏi quyền lợi cho cá nhân, cho cộng đồng hoặc cho xã hội. Là nội hàm của quyền hội họp, quyền biểu tình có những điểm chung với quyền tự do hội họp. Hội họp là việc nhiều người tập hợp lại, tại nơi công cộng hoặc cơ sở tư nhân, trong nhà hoặc ngoài trời, nhằm thực hiện một mục đích chung nhất định. Theo nghĩa phổ thông, “hội họp” là việc “họp nhau lại để bàn công việc chung”. Có một số từ gần gũi với hội họp là “họp hành”, “hội nghị” (cuộc họp được tổ chức với quy mô lớn, có nhiều người tham dự, để bàn bạc hoặc giải quyết một công việc có tính chất chung nào đó), “hội thảo” (họp rộng rãi để thảo luận, bày tỏ, trao đổi ý kiến về một vấn đề chung) [42]… Hội họp có thể vì mục đích riêng tư, gia đình (như đám cưới, sinh nhật, đám giỗ…), hoặc vì mục đích công (cầu nguyện, hội thảo, tập huấn, sự kiện…). Quyền biểu tình cũng là một hình thức thể hiện của quyền hội họp- một cuộc họp đông người để bảy tỏ quan điểm, ý kiến (ủng hộ hoặc phản đối) của một bộ phận công chúng về một vấn đề nào đó.Trong khi mục đích của hội họp rất đa dạng, những người biểu tình không tập hợp nhằm trao đổi, chia sẻ giữa các thành viên với nhau (như hội nghị, hội thảo, lễ hội) mà nhằm bày tỏ quan điểm của những người biểu tình (các thành viên) với những người khác (đối tượng cụ thể được nhắm đến hoặc công chúng). Quyền biểu tình có những đặc điểm sau:
  • 24. 18 - Quyền biểu tình là một quyền dân chủ của công chúng. Đó là quyền mà công chúng được tự do bày tỏ quan điểm, ý kiến của mình về một vấn đề nó của xã hội, đó có thể là một vấn đề của quốc gia (chủ trương, chính sách của Nhà nước) hoặc một vấn đề của quốc tế (chiến tranh, biến đổi khí hậu…). - Chủ thể của quyền biểu tình rất phong phú và đa dạng, đó có thể là công dân của nước sở tại, cũng có thể là công dân nước ngoài, người không quốc tịch… Chính vì vậy, Khoản I, Điều 20, UHDR 1948 quy định: “Mọi người đều có quyền tự do hội họp và tham gia hội họp một cách hòa bình”. Mọi người ở đây dùng để chỉ tất cả không phân biệt giới tính, quốc tịch, sức khỏe… tất cả mọi người đều có thể trở thành chủ thể của quyền biểu tình. - Mục đích của quyền biểu tình là nhằm đưa ra ý kiến đồng tình hoặc phản đối về một vấn đề cụ thể mà những người biểu tình hướng tới – đây là mối liên hệ tối thiểu giữa những người biểu tình. Nếu những chủ trương, chính sách của Nhà nước đúng pháp luật, phản ánh được thực tiễn, đem lại lợi ích cho đông đảo mọi người thì sẽ được công chúng ủng hộ và ngược lại sẽ bị phản đối. Tuy nhiên, đa số các cuộc biểu tình diễn ra cho thấy, công chúng thường có quan điểm phản đối nhiều hơn là biểu tình do lúc đó quyền lợi của công chúng không được đảm bảo, công chúng tiến hành biểu tình nhằm đưa ra ý kiến của mình để Nhà nước thay đổi các chủ trương, chính sách cho phù hợp. - Quyền biểu tình phải được thực hiện một cách ôn hòa, không được dùng để xúc phạm, gây chia rẽ, bất ổn hay kích động các hành vi bạo lực, phân biệt đối xử. Đây được coi là điều kiện kiên quyết để quyền biểu tình được coi là một quyền hợp pháp và được Nhà nước bảo đảm. Chính vì vậy, quyền biểu tình luôn đi kèm với hình thức “phi vũ trang”. Mọi vũ khí như: súng, đạn, gậy, gộc, giáo mác… đều bị cấm khi thực hiện trong biểu tình để tránh gây ra tình trạng bạo động, xung đột với những người có trách nhiệm bảo vệ cuộc biểu tình.
  • 25. 19 1.2.2.Giới hạn của quyền biểu tình Cũng như các quyền con người khác, quyền biểu tình cũng có những giới hạn của nó, cũng giống như các giới hạn của hội họp hòa bình và quyền tự do ngôn luận. Giới hạn áp dụng là quy định cho phép quốc gia áp đặt một số điều kiện để việc thực hiện, hưởng thụ một số quyền con người nhất định. Theo như quy định tại Điều 21, ICCPR 1966: “Quyền hội họp hòa bình phải được công nhận. Việc thực hiện quyền này không bị hạn chế,trừ những hạn chế do pháp luật quy định và là cần thiết trong một xã hội dân chủ, vì lợi ích quốc gia, an toàn và trật tự công cộng, và để bảo vệ sức khỏe và đạo đức xã hội hoặc bảo vệ quyền và tự do của những người khác”. Như vậy, theo Điều 21, ICCPR, quyền biểu tình sẽ bị giới hạn vì lý do: - Lợi ích quốc gia; - An toàn và trật tự công cộng, - Bảo vệ sức khỏe và đạo đức xã hội; - Bảo vệ quyền tự do của những người khác. Theo hướng dẫn tại các nguyên tắc SIRACUSA về giới hạn và đình chỉ các điều khoản trong công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị, 1984 có giải thích [27]: Khái niệm “trật tự công cộng” (hay “trật tự công”) được sửa dụng trong công ước có thể định nghĩa là tổng thể các quy tắc đảm bảo chức năng hoạt động của xã hội hoặc các bộ nguyên tắc cơ bản mà xã hội được thành lập dựa vào đó. Tôn trọng quyền con người cũng là một phần của trật tự công cộng. Sức khỏe của công chúng có thể được coi là là căn cứ cho việc giới hạn một số quyền để cho phép một nhà nước có biện pháp đối phó với một mối đe dọa nghiêm trọng đến sức khỏe của người dân hoặc các thành viên của cộng đồng. Những biện pháp này phải được nhằm cụ thể đến việc ngăn ngừa bệnh tật hoặc chấn thương hoặc cung cấp sự chăm sóc cho bệnh nhân và người bị thương.
  • 26. 20 Vì đạo đức cộng đồng khác nhau theo thời gian và giữa các nền văn hóa, một nhà nước, trong khi hưởng một mức thẩm quyền chủ động nhất định khi viện dẫn đạo đức cộng đồng như là căn cứ để hạn chế các quyền con người, phải chứng tỏ các giới hạn liên quan là cần thiết để duy trì sự tôn trọng giá trị cơ bản của cộng đồng. An ninh quốc gia có thể được viện dẫn để biện minh cho các biện pháp giới hạn một số quyền chỉ khi chúng được thực hiện để bảo vệ sự tồn tại của quốc gia hay toàn vẹn lãnh thổ của nó hoặc độc lập chính trị chống lại việc sử dụng vũ lực hoặc đe dọa vũ lực. An toàn công cộng có nghĩa là bảo vệ chống lại sự nguy hiểm đối với sự an toàn của con người, đối với cuộc sống của họ hoặc toàn vẹn về thể chất, hoặc thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản của họ. Nguyên tắc SIRACUSA cũng chỉ rõ phạm vi quyền và tự do của người khác mà có thể trở thành giới hạn đối với các quyền trong Công ước vượt quá các quyền và tự do được công nhận trong công ước. Điều này có nghĩa là nếu quốc gia viện dẫn giới hạn của quyền biểu tình là ảnh hưởng đến quyền và tự do của người thì viện dẫn này không được vượt quá các quyền và tự do được công nhận trong Công ước vì Công ước bảo vệ các quyền và tự do cơ bản nhất của con người. Ngoài nhưng giới hạn nêu trên đối với quyền biểu tình, quyền biểu tình có thể bị tạm đình chỉ trong bối cảnh đe dọa sự sống còn của đất nước (Điều 4, ICCPR, 1966). Việc quốc gia áp dụng tạm đình chỉ quyền biểu tình được thực hiện thông qua một số biện pháp sau: thiết quân luật, cấm biểu tình hội họp đông người, cấm đi lại, ra vào một số khu vực nhất định. Tuy nhiên, việc áp dụng các biện pháp để đình chỉ quyền biểu tình cũng phải tuân thủ một số nguyên tắc nhất định, tránh việc áp dụng không có căn cứ từ các quốc gia để hạn chế quyền biểu tình của công chúng.
  • 27. 21 1.2.3.Quyền biểu tình trong mối tương quan một số quyền Một trong những nội dung hết sức quan trọng trong việc xây dựng nền tảng lý luận cho biểu tình và quyền biểu tình của công dân là đặt quyền biểu tình trong mối quan hệ với các quyền khác có mối tương quan chặt chẽ. Trước hết ta thấy rằng xét một cách khái quát biểu tình là một trong các quyền cơ bản của công dân. Và nguồn gốc xa hơn là từ các quyền tự do cơ bản của con người. Điều này có nghĩa rằng quyền biểu tình sẽ có mối quan hệ dù ít dù nhiều với các quyền còn lại, ví dụ như quyền mưu cầu hạnh phúc của con người, quyền tự do thân thể trong quyền công dân… Nhưng tác giả sẽ đi sâu hơn vào các quyền của công dân có mối quan hệ mật thiết như quyền tự do ngôn luận, quyền hội họp, quyền được thông tin, từ đó có thể làm tốt hơn trong định hướng xây dựng pháp luật về biểu tình sau này phải dựa trên sự thống nhất và đồng đều của pháp luật. Quyền tự do ngôn luận Là một trong những quyền cơ bản của công dân và cùng nằm trong nhóm quyền tự do dân chủ, quyền tự do ngôn luận về cơ bản là một trong những quyền có mối tương quan gần gũi nhất với quyền biểu tình. Quyền tự do ngôn luận được ghi nhận trong nhiều văn bản pháp luật quốc tế như điều 19 Tuyên ngôn quốc tế về quyền con người năm 1948, tuyên ngôn quốc tế về các quyền dân sự và chính trị… Nội dung cơ bản của quyền tự do ngôn luận của công dân được ghi nhận tại điều 10 Công ước Châu Âu về quyền con người (European convention on human rights): (1) Mọi người có quyền biểu đạt, quyền này bao gồm quyền giữ quan điểm, quyền nhận và truyền bá thông tin và ý kiến mà không có sự can thiệt của bất cứ quyền lực công cộng nào và không giới hạn về biên giới. (2) Tuy nhiên quyền này sẽ phải chịu những thủ tục, điều kiện, hạn chế hay những hình phạt do luật định vì cần thiết cho xã hội dân
  • 28. 22 chủ, an ninh quốc gia, tính toàn vẹn lãnh thổ, an toàn cho cộng đồng, ngăn ngừa mất trật tự hay tội ác; bảo vệ thanh danh sức khỏe hay đạo đức và việc thực hiện những quyền khác, ngăn chặn sự tiết lộ những thông tin bí mật, duy trìn thẩm quyền và công bằng của bộ máy tư pháp. Hay nói tóm lại, quyền tự do ngôn luận là quyền đa diện bao gồm quyền tìm kiếm, tiếp nhận, biểu đạt, truyền bá thông tin,quan điểm, tư tưởng. Có thể khẳng định rằng nếu quyền tự do ngôn luận không được đảm bảo thì quyền biểu tình cũng không thể thực hiện được bởi vì khi quyền tự do ý chí, tự do biểu đạt ý kiến của mỗi chủ thể được tôn trọng thì mới có sự tự do biểu đạt của một số đông người. Chỉ khi con người được tự do ngôn luận về các vấn đề xung quanh thì mới tạo ra dư luận, mới tạo ra xu hướng để con người có những phản ứng ít nhiều về vấn đề được đặt ra, nếu vấn đề đó cấp bách cần thiết được nêu lên, gây sự chú ý thì lúc đó người dân sử dụng đến quyền biểu tình. Mối tương quan là mối quan hệ qua lại có tác động qua lại. Nếu quyền tự do ngôn luận là tiền đề cho quyền biểu tình thì thông qua biểu tình và cách thức thực hiện quyền biểu tình lại là biểu hiện nâng cao của quyền tự do ngôn luận, đưa quyền tự do ngôn luận lên một tầm cao mới, đó là yêu cầu thực hiện nguyện vọng một cách mạnh mẽ và quyết liệt mà không chỉ dừng ở mức độ biểu đạt thông tin thông thường. Quyền được thông tin Quyền được thông tin hay còn gọi là quyền tiếp cận thông tin có nguồn gốc từ quyền tự do thông tin, khái niệm ban đầu được sử dụng là “quyền của công chúng được tiếp cận các tài liệu của chính quyền, là quyền tự do cơ bản và được thừa nhận rộng rãi”. Quyền được thông tin là quyền của công chúng được biết thông tin của nhà nước theo các cách thức trực tiếp và gián tiếp, để thỏa mãn nhu cầu cuộc sống của mình cũng như để bảo vệ và thực hiện các
  • 29. 23 quyền năng khác đã được pháp luật ghi nhận. Quyền được thông tin thể hiện mối quan hệ giữa nhân dân và nhà nước. Cụ thể là quyền (được yêu cầu nhà nước cung cấp thông tin) và nghĩa vụ cung cấp thông tin của nhà nước, trừ trường hợp thông tin thuộc bí mật nhà nước hoặc bắt buộc phải công khai theo quy định của pháp luật. Hiến pháp Việt Nam cũng ghi nhận quyền tự do thông tin. Thông tin do nhà nước nắm giữ là những thông tin quan trọng ảnh hưởng trực tiếp đế đời sống của người dân do đó cần phải công khai. Muốn người dân tham gia vào hoạt động của nhà nước góp phần tăng cường tính dân chủ thì các hoạt động cần công khai minh bạch hơn. Quyền tự do thông tin có vai trò quan trọng trong hầu hết các hoạt động của xã hội hiện đại vì nhu cầu ngày càng lớn của nền kinh tế, phát triển xã hội và phát triển con người, đặc biệt với biểu tình và quyền biểu tình được thông tin có vai trò vô cùng quan trọng. Vai trò đó không chỉ có ý nghĩa trực tiếp trong việc để nhân dân tìm hiểu các vấn đề mà người biểu tình quan tâm mà thông qua quyền này thì các quyền khác cũng có điều kiện. Để phát huy tốt hơn trước hết quyền được thông tin đến cho người dân thông tin về các sự kiện đang diễn ra tại địa phương, trong nước và trên thế giới để nhân dân có thể bày tỏ quan điểm, khác biệt công khai các thông tin của nhà nước cũng giúp cho nhân dân có cơ sở để hiểu biết những vấn đề của quốc gia hay cũng như pháp luật. Quyền tự do hội họp Quyền tự do hội họp là quyền của công dân; hội họp với nhau để đảm bảo các quyền học tập trao đổi thông tin, quyền trao đổi thông tin nhằm nâng cao dân trí, giúp nhau trong hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ… với mục đích ích nước lợi nhà. Quyền tự do lập hội được ghi nhận trong công ước quốc tế về quyền dân sự và chính trị năm 1966 tại điều 21 “quyền hội họp có
  • 30. 24 tính cách hòa bình phải được thừa nhận”, điều 22 “ai cũng có quyền tự do lập hội, kể cả quyền thành lập các nghiệp đoàn để bảo vệ quyền lợi của mình”. Quyền tự do hội họp cũng là quyền tiền đề cơ bản cho quyền biểu tình được thực hiện. Nếu không có quyền tự do hội họp được thể hiện ở một mức độ khác trong việc kết hợp với các quyền khác. 1.3.Vị trí, vai trò của biểu tình và quyền biểu tình Biểu tình là một hình thức để công dân có thể thực hiện quyền của mình thông qua biểu tình công dân gửi đến chủ thể một thông điệp mạnh mẽ. Thông qua biểu dương lực lượng đông đảo buộc chủ thể hướng tới phải thực hiện nguyện vọng của mình. Vì vậy, công dân thực hiện quyền biểu tình thông qua việc tổ chức, tham gia cuộc biểu tình có vị trí, vai trò hết sức to lớn. Là thước đo trình độ dân trí của một xã hội dân chủ, dân quyền Một xã hội dân chủ là xã hội đảm bảo được quyền cơ bản của công dân, đảm bảo quyền lợi của mỗi công dân trong sự hài hòa với quyền lợi của tập thể, của xã hội. Đảm bảo sự ổn định và phát triển của xã hội trong sự quản lý của nhà nước. Như vậy có nghĩa là phải đảm bảo cho sự hài hòa. Không có sự tự do nào là tuyệt đối nhưng cũng không nên vì quá coi trọng lợi ích tập thể mà xem nhẹ đi quyền lợi của cá nhân vì mục đích cao nhất của tất cả các hoạt động kinh tế, chính trị xã hội đã, đang và sẽ diễn ra là để mỗi người có được cuộc sống tự do và thoải mái nhất. Nhà báo Quang Minh nhận xét “Không có người bình thường nào muốn cuộc sống xáo trộn bởi các cuộc biểu tình, nhưng không có biểu tình thì chưa chắc lòng người đã thật bình yên”[49]. Biểu tình là hoạt động để biểu lộ ý chí của một tập thể, số đông, đương nhiên điều đó là những vấn đề nổi cộm hơn, nóng bỏng và cấp thiết hơn khi có nhiều người cùng quan điểm như vậy, cũng không phải là vấn đề có thể giải quyết từ từ mà là một vấn đề cấp bách, phải được giải quyết ngay, như các vấn đề chấm dứt sự can thiệp vào vấn đề nội bộ quốc gia, hoặc các quyết sách quan trọng của nhà cầm quyền. Ví dụ
  • 31. 25 Thượng viện Pháp đã thông qua dự luật cải cách chế độ hưu trí, người dân đổ xuống đường phản đối dự luật của chính phủ nhằm tăng tuổi về hưu từ 60 lên 62. Biểu tình phản ánh được khả năng nhận thức đánh giá vấn đề của công dân, vấn đề nào là cần lên tiếng đồng tình hay phản đối. Thông qua biểu tình đảm bảo cho xã hội cởi mở, và công bằng hơn, nhân dân có quyền lên tiếng và nhà cầm quyền lắng nghe. Hơn nữa nhà nước ta là nhà nước của dân do dân và vì dân, khi nhà nước là của dân thì quyền biểu tình là một cách thức để thực hiện quyền dân chủ của nhân dân một cách thực sự. Biểu tình góp phần trong xây dựng nhà nước pháp quyền. Nhân dân không bao giờ đòi hỏi quá đáng những gì đáng được hưởng, đảm bảo quyền biểu tình cho công dân bằng pháp luật, tức là đã thiết lập một cơ chế quản lý nhà nước, giám sát xã hội bằng pháp luật. Mặt khác biểu tình khi đã được thể chế hóa một cách rõ ràng, căn cứ mạch lạc thì nhân dân sẽ dễ dàng hơn trong việc thực hiện quyền biểu tình mà nhà nước cũng sẽ dễ dàng hơn trong việc quản lý, vì tất cả đã được quy định trong luật. Thêm một cách thức để quản lý nhà nước. Nhà nước nắm trong tay quyền lực của nhân dân vì nhân dân không thể trực tiếp sử dụng quyền của mình, nắm trong tay quyền lực của nhân dân lẽ dĩ nhiên phải phục vụ nhân dân. Nhưng khi có quyền lực mà không có hoặc cơ chế kiểm soát yếu thì hiện tượng lạm quyền dễ xảy ra. Thiết lập các cơ chế giám sát việc quản lý nhà nước là các cơ quan này thực hiện tốt hơn nhiệm vụ của mình. Qua biểu tình, nhà nước có thể nhìn thấy những sai phạm của những người cầm quyền, những vấn đề mà nhà nước chưa giải quyết thấu đáo, những chính sách của Nhà nước chưa hợp lý để kịp thời có những sự giải thích, điều chỉnh để tạo được sự đồng thuận xã hội cao. Một hình thức phản biện xã hội, phản ảnh thực trạng của xã hội để nhà nước có thể quản lý xã hội hiệu quả hơn Phân tích xã hội là các hoạt động của các chủ thể khác nhau trong xã hội sử dụng các lập luận phân tích, hoặc các công cụ tư duy logic để khẳng
  • 32. 26 định, bổ sung hoặc bác bỏ khuynh hướng, phương án kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội (gọi chung là đối tượng của phản biện xã hội). Đây là một hoạt động nằm trong khuôn khổ pháp luật, mang tính tích cực xây dựng, nhằm hướng tới các mục tiêu chung của xã hội (công bằng, dân chủ, pháp chế, phát triển đất nước. Thông qua biểu tình, nhân dân có thể phản ảnh ý chí của mình đến với xã hội, đến với Nhà nước về những chủ trương, chính sách của Nhà nước chưa đúng, chưa hợp lý để kịp thời có những điều chỉnh thích hợp. 1.4.Pháp luật về biểu tình Pháp luật về biểu tình được quy định theo cách đảm bảo cho người dân được thực hiện quyền của mình một cách tối đa nhưng cũng để ngăn chặn các hành vi phá rối, lợi dụng quyền biểu tình để gây rối trật tự công cộng. Vì thế tại nhiều nước, thông thường Pháp luật về biểu tình sẽ có các quy định liên quan đến năm nhóm vấn đề chính, đó là: (1) Những định nghĩa, quy định chung; (2) Quyền và nghĩa vụ của người tổ chức và người tham gia biểu tình; (3) Quyền và nghĩa vụ của cơ quan công quyền; (4) Các trường hợp hạn chế biểu tình và (5) Xử lý các vi phạm. Thứ nhất, về các định nghĩa và quy định chung: Trong phần này, pháp luật các quốc gia thường nêu ra các định nghĩa và quy định rõ ràng cho các khái niệm như: biểu tình, quyền biểu tình, trưởng đoàn biểu tình, người tham gia biểu tình, nơi công cộng, tụ tập đông người, biểu tình hòa bình, không vũ khí … Trong phần này, Pháp luật về biểu tình cũng cần phân biệt rõ các hình thức và mục đích của biểu tình để từ đó có các quy định thủ tục phù hợp với từng loại biểu tình. Từ thực tiễn của nhiều quốc gia trên thế giới, trong quá trình xây dựng Pháp luật Biểu tình ở Việt Nam, cần lưu ý đến tình huống biểu tình vì lý do, mục đích tôn giáo, hay đoàn biểu tình của những người cùng tham gia một tôn giáo. Các đoàn biểu tình này đôi khi sẽ kèm theo cả các nghi lễ tôn giáo được thực hành trong quá trình biểu tình. Những đoàn biểu tình này không thuộc
  • 33. 27 phạm vi bị giới hạn nếu nó là biểu tình hòa bình, bất bạo động. Tuy nhiên, nhà chức trách cần lưu ý những người tổ chức biểu tình về việc thực hành các hành vi tôn giáo tại nơi công cộng, phải đảm bảo mang tính “hòa bình” và “phù hợp”. Thứ hai, về quyền và nghĩa vụ của người tổ chức và người tham gia biểu tình: Trong phần này, Pháp luật về biểu tình phải làm rõ trách nhiệm của Trưởng đoàn tổ chức biểu tình, trong đó bao gồm các trách nhiệm liên quan đến nghĩa vụ thông báo với các cơ quan chức năng các thông tin cần thiết về cuộc biểu tình như thời gian, địa điểm, mục đích, cách thức biểu tình. Đối với người tham gia biểu tình, Pháp luật cũng cần quy định rõ các nghĩa vụ của đối tượng này như là không được sử dụng vũ khí; không được có hành vi, lời nói gây xúc phạm, hoặc mang tính phân biệt đối xử, kích động bạo lực; không được làm thiệt hại đến tài sản của người khác hay tài sản công; phải tuân thủ các hướng dẫn của Trưởng đoàn biểu tình hoặc của các cơ quan chức năng khi cần thiết. Thứ ba, về quyền và nghĩa vụ của cơ quan công quyền: Đây là một phần quan trọng của Pháp luật Biểu tình. Để cho Pháp luật Biểu tình thực sự là một luật tạo điều kiện cho người dân thực hiện quyền hiến định của mình chứ không phải là luật cấm biểu tình thì phần này cần phải được quy định rất chi tiết, cụ thể về quyền và nghĩa vụ của cơ quan công quyền trong việc đảm bảo cho hoạt động biểu tình được diễn ra an toàn và đúng luật. Trong phần này, cần có các quy định liên quan đến trách nhiệm của các cơ quan công quyền có liên quan trong việc tổ chức giao thông, tổ chức lực lượng cảnh sát đảm bảo an toàn cho những người tham gia biểu tình cũng như người và tài sản trong khu vực đoàn biểu tình đi qua. Đồng thời, Pháp luật cũng cần quy định rõ những trường hợp cảnh sát có thể can thiệp khi xảy ra các hành vi gây rối, bạo lực của người tham gia biểu tình.
  • 34. 28 Theo pháp luật ở một số nước, cơ quan công quyền có thể ra lệnh cấm tổ chức một đoàn biểu tình vì một số lý do: chiến tranh, bạo động, thảm họa thiên tai…. Tuy nhiên, lệnh cấm này không mặc nhiên có hiệu lực ngay lập tức mà lệnh cấm này là cơ sở để kéo theo một cuộc đàm phán “tay ba” giữa cơ quan quản lý hành chính nhà nước (thị trưởng, đại diện tòa thị chính, Uỷ ban nhân dân …), cảnh sát với những người tổ chức biểu tình. Trong cuộc đàm phán này, các lý do làm căn cứ cho quyết định cấm biểu tình sẽ được nêu ra, phân tích, mổ xẻ để xem xét xem việc tổ chức biểu tình liệu có phải là sẽ đe dọa đến trật tự công cộng, an toàn xã hội hay không? Những phân tích này sẽ làm cơ sở để các bên cân nhắc và đi đến một phương án thỏa thuận chung phù hợp cho cả ba bên. Quy định này, có thể nói, là khá mềm dẻo và được xây dựng trên cơ sở của sự tôn trọng lẫn nhau giữa cơ quan nhà nước và nhân dân. Đây là một quy định rất cần tham khảo trong quá trình xây dựng Pháp luật Biểu tình ở Việt Nam. Thứ tư, các trường hợp hạn chế biểu tình cũng là các quy định quan trọng cần có trong một luật về biểu tình. Các trường hợp hạn chế biểu tình có thể liên quan đến địa điểm biểu tình hay thời điểm diễn ra biểu tình. Thông thường, các khu vực liên quan đến quốc phòng, an ninh quốc gia, các công trình xây dựng trọng điểm là những nơi bị cấm hoặc hạn chế biểu tình. Hoặc các thời điểm đang diễn ra dịch bệnh hoặc thiên tai nghiêm trọng cũng thường là các thời điểm hạn chế biểu tình. Nhìn chung, các hạn chế biểu tình một mặt là để đảm bảo khoảng cách an toàn cho các địa điểm quan trọng của quốc gia, mặt khác cũng là để đảm bảo cho sự an toàn của chính những người tổ chức và tham gia biểu tình, hoặc là để đảm bảo an toàn cho những người không tham gia biểu tình. Các quy định về hạn chế biểu tình là những quy định nhạy cảm trong Pháp luật Biểu tình. Vì thế, các quy định này cần được xây dựng trên một cơ
  • 35. 29 sở vững chắc về các lập luận, sự rõ ràng của các định nghĩa và cần tính đến các kinh nghiệm của nhiều quốc gia khác trong quá trình thực thi Pháp luật Biểu tình. Các quy định hạn chế biểu tình luôn được các tòa án xem xét trong quá trình xét xử và chủ yếu dựa trên các nhận định về tính “cần thiết” và “phù hợp”. Lấy ví dụ về án lệ của Tòa án Nhân quyền châu Âu ngày 21/10/2010 trong vụ Aleksey chống lại nước Nga. Tòa án đã nhận định quyết định của Thị trưởng Matxcơva cấm trong vòng ba năm liên tiếp việc tổ chức các hoạt động “Tự hào là Gay” (Gay Pride) trong thành phố này là vi phạm đến quy định tại Điều 11 của Công ước châu Âu về Nhân quyền liên quan đến tự do biểu tình. Theo Tòa án Nhân quyền châu Âu, việc cấm đoán này là không cần thiết vì những hoạt động này không ảnh hưởng gì tới trật tự công cộng.[59] Một ví dụ khác liên quan đến hạn chế quyền tự do biểu tình đã xảy ra thường xuyên trên thế giới trong thời gian qua, đó là hạn chế quyền tự do biểu tình khi có các hội nghị quốc tế lớn. Đây là một tính huống khó xử với nhiều quốc gia nhưng nó lại thường xuyên diễn ra. Thông thường, khi có các hội nghị quốc tế lớn, tập trung nhiều nguyên thủ quốc gia bàn về các vấn đề quan trọng thì thường xuất hiện các cuộc biểu tình lớn như biểu tình chống toàn cầu hóa hay biểu tình chống biến đổi khí hậu vẫn đang diễn ra trong thời gian qua. Đây là một tình huống khá nhạy cảm trong xử lý các vấn đề về biểu tình. Một mặt, nước chủ nhà của sự kiện vừa phải đảm bảo an ninh cho các khách mời, đảm bảo an toàn cho sự lưu thông của các xe chuyên chở khách mời, nhưng mặt khác, vẫn phải đảm bảo quyền tự do biểu tình của nhân dân. Theo Tòa án Nhân quyền châu Âu, trong tình huống này, biểu tình vẫn phải được tổ chức nhưng có thể bị hạn chế tại một số khu vực gần tòa nhà nơi diễn ra sự kiện. Đồng thời, việc tổ chức cho đoàn biểu tình đứng ở giữa vòng vây bao quanh của cảnh sát là một việc được chấp nhận nếu biểu tình diễn ra ở khu vực lân
  • 36. 30 cận với nơi tổ chức hội nghị.[59] Đây là một tình huống cho phép các quốc gia có quyền tùy ý hành động tương đối lớn trong hạn chế một số tình huống biểu tình. Tuy nhiên, cần phải nhấn mạnh rằng, kể cả trong trường hợp này, việc tổ chức biểu tình cũng không bị cấm mà chỉ có thể bị hạn chế tại một số địa điểm và có thể bị hạn chế theo sự bao vây của cảnh sát. Vì thế, Luật Biểu tình cần phải dự liệu trước về tình huống này và đưa ra các định nghĩa cụ thể cho “khu vực lân cận” của tòa nhà diễn ra sự kiện là nơi có khoảng cách bao xa so với địa điểm tổ chức biểu tình. Việc sử dụng hàng rào cảnh sát trong trường hợp này cũng cần phải được quy định trong luật. Thứ năm, về xử lý vi phạm: Phần này cần đảm bảo có hai nhóm quan trọng, đó là xử lý vi phạm đối với các cá nhân, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền liên quan đến việc tổ chức các hoạt động biểu tình mà gây cản trở cho việc thực hiện quyền tự do biểu tình của người dân; và xử lý vi phạm đối với các cá nhân, tổ chức và tham gia biểu tình không theo quy định của luật. Việc xử lý vi phạm đối với cá nhân, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền thông thường được thực hiện thông qua một vụ kiện tại tòa án hành chính. Để có được các quy định về xử lý vi phạm một cách thỏa đáng, Luật Biểu tình cần phải xây dựng được một cơ chế khiếu nại và khiếu kiện hợp lý. Vì là một quyền hiến định quan trọng của nhân dân, quyền khiếu kiện liên quan đến biểu tình phải là một quyền nhất thiết phải được quy định vì nó là cơ sở cho nhân dân bảo vệ quyền của mình. Lấy một ví dụ minh họa về xử lý vi phạm đối với quyền biểu tình. Bộ luật Hình sự nước Cộng hòa Pháp quy định tại Điều 431-1 về hình phạt đối với tội “cản trở tự do biểu tình” lên đến ba năm tù giam và phạt tiền lên đến 45.000 euro. Đồng thời, phán quyết ngày 18/1/1995 của Hội đồng Bảo hiến nước Cộng hòa Pháp liên quan đến luật định hướng an ninh cũng cho phép thẩm phán tòa hình sự được ra lệnh cấm tạm thời đối với một cá nhân nào đó
  • 37. 31 về việc không cho phép người đó được tổ chức hoặc tham gia biểu tình trong một thời gian và tại một số địa điểm nhất định. Điều này, theo Hội đồng Bảo hiến, không phải là một sự không công nhận quyền tự do cá nhân mà đó là một sự kiểm soát cần thiết vì lý do “đòi hỏi của trật tự công cộng và bảo đảm cho các tự do khác được Hiến pháp bảo vệ”. Như vậy, các cuộc biểu tình chỉ có thể diễn ra nếu nó là biểu tình hợp pháp. Tất cả các cuộc biểu tình trái phép, biểu tình tự phát, biểu tình kéo theo bạo động đều bị cấm và khi có quy định của pháp luật về vấn đề này, chính quyền hoàn toàn có thể trấn áp và giải tán các cuộc biểu tình này. Hiểu theo nghĩa này thì Luật về biểu tình không chỉ là một văn bản ủng hộ quyền biểu tình của người dân mà là một văn bản ủng hộ cho Nhà nước trong công tác quản lý và cụ thể ở đây là quản lý hoạt động biểu tình.
  • 38. 32 Kết luận chƣơng 1 Hiện nay trên thế giới chưa có một định nghĩ thống nhất nào liên quan đến biểu tình, quyền biểu tình. Ở một nghĩa chung nhất biểu tình, quyền biểu tình là sự phản ánh quan điểm, ý nghĩ của công chúng theo hình thức đồng tình hoặc phản đối một vấn đề nào đó của xã hội. Pháp luật quốc tế cũng chỉ quy định những nguyên tắc nhất định tại Điều 20 UDHR, 1948 và Điều 21 ICCPR, 1966 để mọi người có thể thực hiện được quyền biểu tình trên thực tế. Quyền biểu tình của công chúng không phải là một quyền tuyệt đối nó có thể bị giới hạn trong một số trường hợp liên quan đến an ninh quốc gia, trật tự công cộng, đạo đức xã hội, quyền và tự do của người khác. Ở Việt Nam, quyền biểu tình của công dân tuy đã được quy định trong các bản Hiến pháp nhưng đây là một vấn đề hết sức mới mẻ đối với các nhà nghiên cứu về pháp luật biểu tình. Vì vậy, những vấn đề lý luận liên quan đến biểu tình, quyền biểu tình, pháp luật biểu tình trong chương này sẽ có đóng góp nhất định vào mặt lý luận về biều tình ở Việt Nam, đặc biệt Luật biểu tình sẽ được giao cho Bộ Công an xây dựng để trình Quốc hội trong kỳ họp thứ 11, khóa XIII.
  • 39. 33 CHƢƠNG 2: PHÁP LUẬT QUỐC TẾ VÀ MỘT SỐ QUỐC GIA TRÊN THẾ GIỚI VỀ BIỂU TÌNH 2.1. Pháp luật quốc tế về biểu tình Để tạo nền tảng cho việc xây dựng cơ chế pháp lý đảm bảo quyền biểu tình cho công dân tại Việt Nam ngoài việc phân tích lý luận về biểu tình, nghiên cứu thực trạng về pháp lý và thực tiễn trong nước, hoạt động nghiên cứu pháp luật quốc tế bảo đảm quyền biểu tình của công dân cũng là một kênh tham khảo quan trọng. Thông qua việc nghiên cứu những bộ luật này cho ta cái nhìn toàn diện hơn về hoạt động dảm bảo quyền trên thế giới, cách thức xây dựng luật, nội dung pháp luật đề cập từ đó đúc kết ưu, nhược điểm, đánh giá sự phù hợp để xây dựng dự luật hoàn thiện hơn. 2.1.1.Về quyền biểu tình Quyền biển tình là một quyền con người, quyền công dân quan trọng. Quyền biểu tình này được ghi nhận trong pháp luật quốc tế lần dầu dưới dạng khái niệm tương đồng là quyền tự do hội họp. Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền năm 1948 khẳng định “Mọi người đều có quyền tự do hội họp và lập hội một cách ôn hòa”. Tuyên ngôn thế giới về quyền con người là văn bản pháp lý giá trị cao được thông qua bởi Đại hội đồng Liên hợp quốc, khẳng định này đại diện cho ý chí của thành viên liên hợp quốc đại diện cho chính phủ và nhân dân các nước thành viên về việc ghi nhận quyền tự do hội họp. Một văn bản nữa cũng được thông qua bởi Đại hội đồng Liên hợp quốc ghi nhận quyền biểu tình dưới dạng khái niệm quyền tự do hội họp và Việt Nam cũng đã gia nhập công ước này ngày 24 tháng 9 năm 1982. Đó là Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966, ghi nhận tại điều 21 “Quyền hội họp hòa bình phải được công nhận, việc thực hiện quyền này không bị hạn chế, trừ trường hợp pháp luật có quy định và những hạn chế này là cần thiết trong một xã hội dân chủ, vì lợi ích an ninh quốc gia, an toàn và trật tự công cộng, để bảo vệ sức khỏe công chúng hoặc nhân cách hoặc
  • 40. 34 bảo vệ quyền và tự do của người khác”. Như vậy, Công ước đã ghi nhận một cách rõ ràng hơn về nghĩa vụ của các quốc gia tham gia Công ước là phải đảm bảo quyền tự do hội họp và thêm một bước cụ thể hơn tuyên ngôn về nhân quyền là quy định về các trường hợp nhà nước được hạn chế quyền vì những lý do hợp lý và cụ thể. Theo M.Nowak, quyền hội họp là quyền của các cá nhân tập trung lại có chủ ý và trong thời gian nhất định nhằm một mục đích cụ thể. Các loại tụ họp khác nhau được bảo vệ theo các điều khoản khác nhau. Nowak cho rằng Điều 21 ICCPR đặc biệt hướng đến các cuộc hội họp có sự thảo luận hoặc tuyên bố quan điểm [66]. Nhìn vào các quy định của Công ước nói trên, ta có thể thấy quyền biểu tình của công chúng sẽ thấy rõ bản chất của quyền biểu tình được thể hiện ở hai điểm: Thứ nhất, đó là sự bày tỏ ý chí, quan điểm của công chúng về một vấn đề nào đó của xã hội, các quan điểm này có thể là đồng tình hoặc phản đối. Thứ hai, sự bày tỏ này không phải là của một cá nhân riêng lẻ, cụ thể mà là sự bày tỏ của một nhóm người thông qua sự tập hợp nhau lại, cùng chung một mục đích đã được đặt ra từ trước. Như vậy, quyền biểu tình trong pháp luật quốc tế sẽ có mối quan hệ mật thiết với quyền tự do biểu đạt (Điều 19 UDHR và được cụ thể hóa trong Điều 19 và Điều 20 ICCPR) và quyền tự do hiệp hội (Điều 20UDHR và được cụ thể hóa trong Điều 22 ICCPR). Điều 19 UDHR quy định : “Mọi người đều có quyền tự do ngôn luận và bày tỏ ý kiến, kể cả tự do bảo lưu quan điểm mà không bị can thiệp; cũng như tự do tìm kiếm, tiếp nhận và truyền bá các ý tưởng và thông tin bằng bất kỳ phương tiện truyền thông nào và không có giới hạn về biên giới”. Nội dung Điều 19 UDHR sau đó được tái khẳng định và cụ thể hóa trong các Điều 19 và Điều 20 ICCPR. Theo Điều 19 ICCPR: “Mọi người đều có quyền giữ quan điểm của mình mà không bị can thiệp. Mọi người có quyền tự do ngôn luận. Quyền này bao gồm tự do tìm kiếm, tiếp nhận và truyền đạt mọi thông tin, ý kiến, không phân biệt lĩnh vực, hình thức tuyên truyền bằng miệng, bằng
  • 41. 35 bản viết, in, hoặc dưới hình thức nghệ thuật, thông qua bất kỳ phương tiện thông tin đại chúng nào tùy theo sự lựa chọn của họ” (Khoản 1 và Khoản 2). Trong đoạn 11 Bình luận chung số 34, HRC giải thích thêm về khoản 2 Điều 19 như sau: “Khoản 2 yêu cầu quốc gia thành viên phải đảm bảo quyền tự do biểu đạt,bao gồm quyền tìm kiếm, tiếp nhận và truyền đạt mọi thông tin và ý tưởng bất kể biên giới. Quyền này bao gồm việc biểu đạt và tiếp nhận những thông điệp về ý tưởng và quan điểm dưới mọi hình thức có thể truyền đạt đến người khác, theo quy định tại khoản 3 Điều 19 và Điều 20. Quyền này bao gồm các tranh luận chính trị, bình luận về một người và về các vấn đề chung, vận động thảo luận về nhân quyền, báo chí, các biểu đạt văn hóa nghệ thuật, giáo dục và tranh luận tôn giá…”. Như vậy có thể thấy, trong việc thực hiện quyền biểu tình thì công chúng phải bày tỏ quan điểm, ý chí phản đối hay một đồng tình nào đó về một vấn đề của xã hội, nó chính là sự biểu đạt của công chúng. Sự biểu đạt này được thể hiện trong các cuộc biểu tình thông qua các truyền đơn, băng rôn, khẩu hiện để thể hiện quan điểm, ý chí của những người biểu tình. Chính vì vậy, quyền biểu tình sẽ là tiền đề để thực hiện quyền tự do biểu đạt, thông qua thực hiện quyền biểu tình, các quan điểm, ý chí của công chúng sẽ được thể hiện một cách rõ ràng, cụ thể hơn. Do đó, khi thực hiện quyền tự do biểu đạt thông qua quyền biểu tình thì quyền biểu tình cũng phải chịu những hạn chế nhất định như quyền tự do biểu đạt. Những hạn chế này được quy định cụ thể tại Điều 20 ICCPR: “ Mọi hình thức tuyên truyền cho chiến tranh đều bị pháp luật nghiêm cấm. Mọi chủ trương gây hằn thù dân tộc, chủng tộc hoặc tôn giáo để kích động sự phân biệt đối xử về chủng tộc, sự thù địch, hoặc bạo lực đều bị pháp luật nghiêm cấm”. Nếu trong các cuộc biểu tình, các truyền đôn, băng rôn, khẩu hiện có liên quan những vấn đề bị cấm tại Điều 20 ICCPR thì đó là cuộc biểu tình trái pháp luật và không được nhà nước bảo vệ.
  • 42. 36 Để thực hiện quyền biểu tình, các cá nhân có cùng quan điểm, ý chí sẽ tập hợp nhau lại để thành sức mạnh tập thể, gây ra được tiếng vang lớn đối với các vấn đề mà những người biểu tình quan tâm. Quá trình tập hợp nhau lại có rất nhiềm điểm tương đường với quyền tự do lập hội được quy định tại Điều 22 ICCPR : “ Mọi người có quyền tự do lập hội với những người khác, kể cả quyền lập và gia nhập công đoàn để bảo vệ quyền lợi của mình”. Tự do lập hội cho phép các cá nhân liên kết với nhau thành nhóm để theo đuổi lợi ích, mục đích hay sự quan tâm chung. Các nhóm đó có thể là các câu lạc bộ thể thao, hội nghề nghiệp, các tổ chức phi chính phủ, các quỹ, công đoàn, tổ chức tôn giáo, chính đảng hoặc công ty. Khái niệm “hội” (association) trong tiếng Anh có nội hàm rất rộng. Trong báo cáo của mình, Báo cáo viên về tự hội họp và lập hội nhắc lại định nghĩa của Đại diện đặc biệt của Liên Hiệp Quốc về những người bảo vệ nhân quyền (mã số A/95/401/đoạn 46): Khái niệm “hội” nhắc đến bất kỳ nhóm cá nhân hoặc bất kỳ thực thể pháp lý nào liên kết với nhau để cùng nhau hành động, bày tỏ, thúc đẩy, theo đuổi hoặc bảo vệ một lĩnh vực quan tâm chung (a field of common interests) [63]. Như vậy, những người biểu tình có cùng quan điểm, ý chí có xu hướng liên kết nhau lại thành một nhóm để biểu đạt quan điểm, ý chí mang tính tập thể. Sự thể hiện của những cá nhân này thường thông qua việc đăng ký biểu tình khi muốn tổ chức các cuộc biểu tình. Những người tham gia biểu tình phải có tên trong danh sách dự kiến với đầy đủ thông tin của họ. Trong cuốn Hướng dẫn về tự do hội họp hòa bình (Guidelines on Freedom of Peaceful Assembly, Prepared by the OSCE/ODIHR Panel Of Experts on the Freedom of Assembly, 2007) có quy định tự do hội họp hòa bình là một quyền cơ bản của con người có thể được hưởng và tiến hành bởi cá nhân hoặc các nhóm, các tổ chức không chính thống, các thực thể pháp lý hoặc các chủ thể kinh doanh. Các cuộc biểu tình có thể diễn ra với nhiều mục
  • 43. 37 đích, bao gồm những ý kiến trái ngược nhau, của một cộng đồng người hoặc là ý kiến của một nhóm thiểu số. Cuốn sách này cũng hướng dẫn các cuộc biểu tình hòa bình đều được bảo vệ và nhà nước có nghĩa vụ bảo đảm cho các cuộc biểu tình đó được diễn ra. Một cuộc biểu tình được coi là hòa bình nếu như việc tổ chức cuộc biểu tình đó diễn ra một cách hòa bình và không xảy ra tình trạng bạo lực. Cụm từ “hòa bình” được diễn giải bao gồm hoạt động không gây phiền hà hoặc xúc phạm, thậm chí cản trở hoạt động của bên thứ ba [67]. Trong Báo cáo của Báo cáo viên đặc biệt về các quyền tự do hội họp ôn hòa và hiệp hội (Report of the Special Rapporteur on the rights to freedom of peaceful assembly and of association, Maina Kiai), 21/5/2012, A/HRC/20/27 có đưa ra định nghĩa về hội họp ôn hòa. Theo đó “hội họp” là việc tụ họp có mục đích và tạm thời trong trong một không gian riêng hay không gian chung (công) vì mục đích cụ thể [63].Vì thế, việc này bao gồm các cuộc biểu tình, các cuộc họp trong nhà, đình công, diễu hành, tuần hành hoặc thậm chí cả biểu tình ngồi. Theo luật nhân quyền quốc tế , Các cuộc hội họp ôn hòa sẽ được bảo vệ, đó là những cuộc hội họp phi bạo lực. Công ước Châu Âu về quyền con người tại Điều 11 “mỗi người đều có quyền tự do hội họp hòa bình và tự do hội họp với những người khác”. Cũng như các văn bản trên Công ước cũng đề cập đến các trường hợp nhà nước có quyền áp dụng các biện pháp cần thiết để bảo vệ an ninh quốc gia hoặc an toàn công cộng, để phòng ngừa rối loạn hoặc tội phạm, để bảo vệ sức khỏe đạo lý, hay để bảo vệ các quyền và tự do của người khác mà hạn chế quyền này [52]. Hiến chương châu Phi về quyền con người và dân tộc tại Điều 11 có quy định : “Mọi cá nhân đều có quyền tự do hội họp với người khác. Việc thực hiện quyền này chỉ chịu những hạn chế cần thiết theo quy định của pháp
  • 44. 38 luật, vì lợi ích an ninh quốc gia, an toàn, sức khỏe, đạo đức của cộng đồng hoặc để bảo vệ các quyền và tự do của người khác”[54]. Hiến chương châu Mỹ về quyền con người ghi nhận quyền biểu tình của công chúng tại Điều 15 : “Quyền hội họp hòa bình, không sử dụng vũ khí được công nhận. Việc thực hiện quyền này không thể bị hạn chế, trừ những hạn chế do pháp luật quy định và là cần thiết trong một xã hội dân chủ, vì lợi ích an ninh quốc gia, an toàn và trật tự công cộng, và để bảo vệ sức khỏe hoặc đạo đức của công chúng hay các quyền và tự do của người khác” [53]. Tất cả các ý kiến trên để khẳng định quyền biểu tình là một quyền cơ bản, phổ biến và được thế giới công nhận. Quyền biểu tình được pháp luật Việt Nam ghi nhận trong các bản Hiến pháp – văn bản pháp lý có giá trị cao nhất nhưng cho đến nay vẫn chưa có một bộ luật trực tiếp nào quy định về vấn đề biểu tình, trong đó thực tiễn đã diễn ra nhiều cuộc biểu tình của công chức. Điều này đặt ra yêu cầu cấp thiết phải xây dựng dự luật để đảm bảo quyền biểu tình của công dân ở nước ta và thực hiện các cam kết quốc tế mà Việt Nam là thành viên. 2.1.2. Về người tổ chức và tham gia biểu tình Người tổ chức là người lên kế hoạch, chương trình, lãnh đạo đoàn biểu tình, đàm phán với các nhà chức trách để tổ chức một cuộc biểu tình đúng theo quy định của pháp luật, là người liên kết những người biểu tình hướng đến mục tiêu chung. Người tổ chức biểu tình có thể là cá nhân, một nhóm người hoặc một tổ chức nào đó để lãnh đạo cuộc biểu tình. Những chủ thể này phải có thông tin rõ ràng để có thể tiến hành đối thoại với các cơ quan chức năng của nhà nước và để xác định trách nhiệm trong trường hợp cuộc biểu tình xảy ra vi phạm. Người tổ chức có trách nhiệm lãnh đạo và hướng dẫn những người tham gia biểu tình mộ cách hòa bình, theo đúng các thông tin đã cung cấp trong việc đăng ký biểu tình với các cơ quan chức năng.