SlideShare a Scribd company logo
1 of 98
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN THỊ THANH HÕA
HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
VỀ DOANH NGHIỆP PHỤC VỤ SỰ NGHIỆP
CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA ĐẤT NƯỚC
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI – 2014
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN THỊ THANH HÕA
HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
VỀ DOANH NGHIỆP PHỤC VỤ SỰ NGHIỆP
CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA ĐẤT NƯỚC
Chuyên ngành : Luật Kinh tế
Mã số : 60 38 50
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS Dương Đăng Huệ
HÀ NỘI – 2014
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào
khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác,
tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán
tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia
Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể
bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN
Nguyễn Thị Thanh Hòa
MỤC LỤC
Trang
Lời cam đoan.......................................................................................................
Mục lục................................................................................................................
Danh mục các bảng .............................................................................................
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ DOANH NGHIỆP
VÀ PHÁP LUẬT VỀ DOANH NGHIỆP...................................................... 4
1.1. Lý luận về doanh nghiệp ...................................................................... 4
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của doanh nghiệp ..................................... 4
1.1.2. Vị trí và vai trò của doanh nghiệp................................................ 11
1.1.3. Các loại hình doanh nghiệp ở Việt Nam...................................... 14
1.2. Lý luận về pháp luật về doanh nghiệp................................................ 17
1.2.1. Khái niệm pháp luật về doanh nghiệp.......................................... 17
1.2.2. Vai trò của pháp luật về doanh nghiệp trong nền kinh tế thị
trường ...................................................................................................... 19
1.2.3. Nội dung pháp luật về doanh nghiệp ........................................... 21
1.2.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến việc xây dựng nội dung pháp luật về
doanh nghiệp............................................................................................. 24
Chương 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ DOANH NGHIỆP CỦA
VIỆT NAM..................................................................................................... 36
2.1. Thực trạng pháp luật về doanh nghiệp ............................................... 36
2.1.1. Thực trạng pháp luật về thành lập và đăng ký doanh nghiệp ...... 36
2.1.2. Thực trạng pháp luật về cơ cấu tổ chức và quản trị doanh
nghiệp ............................................................................................... 45
2.1.3. Thực trạng pháp luật về tổ chức lại, giải thể doanh nghiệp......... 55
2.2. Nhận xét chung về thực trạng pháp luật về doanh nghiệp ................. 61
2.2.1. Ưu điểm........................................................................................ 61
2.2.2. Khuyết điểm................................................................................. 63
Chương 3. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
VỀ DOANH NGHIỆP................................................................................... 66
3.1. Yêu cầu hoàn thiện ............................................................................. 66
3.2. Phương hướng hoàn thiện................................................................... 69
3.3. Giải pháp cụ thể.................................................................................. 72
3.3.1. Kiến nghị hoàn thiện quy định về các loại hình doanh nghiệp.... 72
3.3.2. Kiến nghị hoàn thiện quy định về thành lập và đăng ký doanh
nghiệp ...................................................................................................... 75
3.3.3. Kiến nghị hoàn thiện quy định về cơ cấu tổ chức và quản trị
doanh nghiệp............................................................................................. 77
3.3.4. Kiến nghị hoàn thiện quy định về tổ chức lại, giải thể doanh
nghiệp ...................................................................................................... 81
3.3.5. Một số kiến nghị khác.................................................................. 83
KẾT LUẬN.................................................................................................... 89
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO..................................................... 90
DANH MụC CÁC BảNG
Bảng 2.1: Bảng so sánh yêu cầu tỷ lệ biểu quyết thông qua quyết định trong
công ty của một số nước……………………………………………………53
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là một cuộc cải biến cách mạng từ nền
kinh tế nông nghiệp trở thành nền kinh tế với công nghiệp là chủ đạo, đồng
thời đó cũng là cuộc cải biến cách mạng trên mọi lĩnh vực của đời sống xã
hội. Để triển khai thuận lợi và thực hiện thành công sự nghiệp này đòi hỏi
phải có những tiền đề cần thiết, trong đó việc mở rộng quy mô huy động và sử
dụng có hiệu quả các nguồn vốn là một trong những điều kiện quan trọng để
công nghiệp hoá, hiện đại hoá thành công. Vốn để công nghiệp hoá, hiện đại
hoá có hai nguồn: nguồn vốn trong nước và nguồn vốn ngoài nước. Nguồn
vốn trong nước được tích lũy từ nội bộ nền kinh tế quốc dân dựa trên cơ sở
hiệu quả sản xuất, là lao động thặng dư của người lao động thuộc tất cả các
thành phần kinh tế. Trong đó hiện nay doanh nghiệp là nhân tố đặc biệt quan
trọng thúc đẩy tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế; là bộ phận chủ yếu tạo ra
tổng sản phẩm trong nước; là đơn vị sản xuất hàng hoá, dịch vụ đáp ứng nhu
cầu chủ yếu của toàn xã hội. Mặt khác, một trong những mục tiêu quan trọng
của công nghiệp hóa, hiện đại hóa là phân bổ tốt nguồn vốn, nguồn lao động,
nguồn tài nguyên vào nơi đem lại nhiều nhất lợi nhuận và giá trị thặng dư cho
xã hội. Nhiều số liệu thực tế đã chứng minh, trên cùng một đơn vị vốn, lao động
và tài nguyên thì doanh nghiệp là bộ phận đem lại giá trị thặng dư cao nhất.
Hiện nay, đầu tư thành lập doanh nghiệp đang là xu hướng chung của
tổ chức, cá nhân trong mọi nền kinh tế. Để điều chỉnh hoạt động của doanh
nghiệp, Nhà nước đã ban hành Luật Doanh nghiệp năm 2005 và hàng loạt
nghị định hướng dẫn thi hành. Những văn bản này đã có những tác động tích
cực trong việc tạo lập môi trường kinh doanh thuận lợi, bình đẳng; thúc đẩy
huy động vốn, phát triển và mở rộng kinh doanh của các doanh nghiệp; góp
phần gia tăng tốc độ tăng trưởng và giải quyết các vấn đề xã hội. Tuy vậy,
thực tế cũng cho thấy, việc triển khai thực hiện Luật Doanh nghiệp trong 8
2
năm qua đã gây ra không ít vướng mắc, hạn chế đối với yêu cầu hoàn thiện và
nâng cao chất lượng môi trường kinh doanh nói chung và phát triển doanh
nghiệp nói riêng; đã ghi nhận rất nhiều bất cập khi các quy định trong luật còn
chưa rõ ràng, chồng chéo và không đáp ứng kịp thời với sự biến đổi của nền
kinh tế, sự chuyển đổi của các cơ chế quản lý nhà nước và nhu cầu phát triển
nhanh, mạnh của cộng đồng doanh nghiệp.
Xuất phát từ những bất cập nêu trên, đồng thời ý thức được Luật Doanh
nghiệp là một đạo luật có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với việc đầu tư vốn
thành lập doanh nghiệp và quyền tự do kinh doanh của công dân đã được
Hiến pháp ghi nhận, tôi đã chọn đề tài “Hoàn thiện pháp luật về doanh
nghiệp phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” để
nghiên cứu cho luận văn thạc sĩ của mình. Từ nghiên cứu này sẽ tổng kết,
đánh giá những ưu nhược điểm, các tồn tại, hạn chế, bất cập của Luật Doanh
nghiệp năm 2005. Quan trọng hơn, tôi mong muốn sẽ đề xuất được những
kiến nghị hữu ích đối với việc sửa đổi, hoàn thiện Luật Doanh nghiệp năm
2005, đáp ứng mục tiêu tạo lập môi trường kinh doanh cạnh tranh, thông
thoáng, bình đẳng, làm động lực cho việc thu hút các nguồn lực trong nước
cũng như nước ngoài, góp phần thúc đẩy các loại hình doanh nghiệp phát
triển toàn diện, tự do có trật tự; huy động được ngày càng nhiều vốn đầu tư
vào sản xuất, kinh doanh, khuyến khích mọi công dân làm giàu cho mình và
cho đất nước.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các nội dung, quy định về bản chất
pháp lý của các loại hình doanh nghiệp; về thành lập doanh nghiệp và đăng ký
kinh doanh; về tổ chức quản lý doanh nghiệp; về cấu trúc vốn của doanh
nghiệp; về tổ chức lại, giải thể, phá sản doanh nghiệp.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là Luật Doanh nghiệp năm 2005 và các
văn bản hướng dẫn thi hành.
3
3. Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu của đề tài là trên cơ sở những vấn đề lý luận về
doanh nghiệp và pháp luật về doanh nghiệp; phân tích những nội dung cơ bản
của pháp luật Việt Nam về doanh nghiệp nói chung và từng loại hình doanh
nghiệp nói riêng, từ đó đưa ra những ưu, nhược điểm của pháp luật Việt Nam
về vấn đề này; đề xuất những quan điểm cá nhân về định hướng và những giải
pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về doanh nghiệp để pháp luật này trở thành
công cụ hỗ trợ đắc lực phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện
nay tại Việt Nam.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn dựa trên phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác – Lênin; tư
tưởng Hồ Chí Minh về pháp luật; các quan điểm, đường lối của Đảng cộng
sản Việt Nam, Nhà nước về chính trị, kinh tế, văn hóa và xã hội nói chung; về
vị trí, vai trò của doanh nghiệp vàpháp luật doanh nghiệp nói riêng.
Luận văn đã kết hợp sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu khoa học
khác nhau, như phương pháp tổng hợp và phân tích; phương pháp thống kê;
phương pháp so sánh và đối chiếu; kết hợp nghiên cứu lý luận với thực tiễn...
Các phương pháp nghiên cứu này được thực hiện trên nền tảng của phương
pháp duy vật lịch sử, duy vật biện chứng.
5. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
được kết cấu gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận chung về doanh nghiệp và pháp luật
về doanh nghiệp
Chương 2: Thực trạng pháp luật về doanh nghiệp của Việt Nam
Chương 3: Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về doanh nghiệp
4
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG
VỀ DOANH NGHIỆP VÀ PHÁP LUẬT VỀ DOANH NGHIỆP
1.1. Lý luận về doanh nghiệp
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của doanh nghiệp
Sự hình thành các doanh nghiệp là quy luật tất yếu khách quan của nền
kinh tế. Sản xuất hàng hoá khi phát triển đến một mức độ nhất định sẽ tất yếu
nảy sinh nhu cầu mở rộng kinh doanh. Chính nhu cầu về vốn và nhu cầu chia
sẻ rủi ro đã thúc đẩy các nhà đầu tư liên kết lại với nhau, tổ chức theo một cấu
trúc nhất định để tiến hành sản xuất kinh doanh. Nhưng không chỉ là quy luật
khách quan của nền kinh tế, sự hình thành và phát triển của các doanh nghiệp
còn bị tác động bởi yếu tố chủ quan, tuỳ thuộc vào điều kiện chính trị - xã hội
khác nhau trong từng thời kỳ lịch sử. Theo đó, khái niệm doanh nghiệp,
tương ứng với mỗi giai đoạn, mỗi quốc gia, mỗi khu vực lại có những cách
hiểu không đồng nhất.
Hiện nay, trong điều kiện đất nước ta đang tiến vào thời kỳ hội nhập, với
ý nghĩa tạo tiền đề lý luận cho việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật về
doanh nghiệp, quan điểm về doanh nghiệp cần được tiếp cận phù hợp với xu
hướng phổ biến, đáp ứng đòi hỏi của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa. Để thống nhất cách hiểu về doanh nghiệp, chúng ta cần xem xét khái
niệm doanh nghiệp từ hai góc độ: kinh tế - xã hội và pháp lý, gắn với những
yếu tố của nền kinh tế thị trường.
Dưới góc độ kinh tế - xã hội, các doanh nghiệp được coi là thành tố cơ
bản của hệ thống kinh tế - xã hội, tuy nhiên dưới góc độ này khái niệm doanh
nghiệp cũng được hiểu theo nhiều cách khác nhau. Trong tiếng Anh, theo từ
điển Black’ law dictionary “doanh nghiệp (Enterprise)” có nghĩa là hoạt động
5
kinh doanh”. Như vậy, cách hiểu này mới chỉ đề cập đến khía cạnh thương
mại của doanh nghiệp chứ chưa thực sự nhìn nhận bản chất của doanh nghiệp
dưới góc độ là những thực thể kinh tế - xã hội độc lập mà ở đó hoạt động kinh
doanh chỉ là chức năng đầu tiên và chủ yếu. Từ điển Tiếng Việt định nghĩa
“doanh nghiệp là một hình thức tổ chức kinh tế làm công việc kinh doanh”.
Theo đó, xét về mặt bản chất, doanh nghiệp là một loại hình tổ chức nên
mang những đặc điểm chung như bao gồm nhiều thành viên, có một cấu trúc
rõ ràng để các thành viên thực hiện phần việc của mình.
Có thể nói, đặc trưng riêng có của doanh nghiệp, phân biệt doanh
nghiệp với các đơn vị khác như cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội, trường học,
bệnh viện... chính là mục tiêu mà doanh nghiệp luôn hướng tới: lợi nhuận từ
hoạt động sản xuất kinh doanh. Theo đó, kinh doanh là một phạm trù gắn liền
với sản xuất hàng hoá, là tổng thể các hình thức, phương pháp, biện pháp
nhằm tổ chức các hoạt động kinh tế, phản ánh mối quan hệ giữa người với
người trong quá trình sản xuất, phân phối, trao đổi, tiêu dùng của cải vật chất
xã hội nhằm thu về một giá trị lớn hơn giá trị đã bỏ ra ban đầu [8].
Như vậy, dưới góc độ kinh tế - xã hội, doanh nghiệp được tổ chức theo
một cấu trúc nhất định để sử dụng vốn, bộ máy quản lý, lực lượng lao động
nhằm thu lợi nhuận sau một thời gian hoạt động. Với cách hiểu trên đây, khái
niệm doanh nghiệp ở Việt Nam không đồng nghĩa với khái niệm chủ thể kinh
doanh theo quan niệm phổ biến ở nhiều nước trên thế giới, coi doanh nghiệp
là chủ thể pháp luật bao gồm cả cá nhân và tổ chức. Theo đó, doanh nghiệp ở
Việt Nam chỉ là một trong rất nhiều chủ thể kinh doanh được pháp luật ghi
nhận để điều chỉnh.
Có thể khẳng định rằng, với những đặc điểm nêu trên, doanh nghiệp chỉ
thực sự phát huy lợi thế trong nền kinh tế thị trường. Theo kinh nghiệm phát
6
triển kinh tế của Việt Nam trước đây, trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung,
các doanh nghiệp chịu ảnh hưởng nhiều từ phía Nhà nước về nguồn vốn cũng
như mục tiêu, kế hoạch sản xuất, kinh doanh. Với mô hình này, Nhà nước
chứ không phải là các doanh nghiệp đóng vai trò trung tâm của nền kinh tế.
Bước sang nền kinh tế thị trường, doanh nghiệp chủ yếu hoạt động theo
những quy luật kinh tế cơ bản (quy luật cạnh tranh, quy luật giá trị, quy luật
cung - cầu) nên tất yếu có quyền tự chủ rất cao. Xuất phát từ mục tiêu xây
dựng một nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, ở Việt Nam
hiện nay, khái niệm doanh nghiệp và các yếu tố ảnh hưởng đến việc thành
lập, hoạt động của doanh nghiệp không những bị chi phối bởi những quy luật
của nền kinh tế thị trường mà còn bị chi phối bởi định hướng xây dựng xã hội
chủ nghĩa.
Dưới góc độ pháp lý, khái niệm doanh nghiệp được pháp luật nhìn
nhận với những đặc trưng riêng. Theo Luật Công ty năm 1990 thì doanh
nghiệp được định nghĩa là “một đơn vị kinh doanh được thành lập nhằm mục
đích chủ yếu là thực hiện các hoạt động kinh doanh”. Khái niệm này có nội
hàm khá rộng, theo đó tất cả những đơn vị kinh doanh có hoạt động kinh
doanh sẽ được công nhận là doanh nghiệp. Tuy nhiên, khái niệm trong Luật
Công ty năm 1990 chưa thể hiện được những đặc điểm pháp lý của doanh
nghiệp. Đến khi Luật Doanh nghiệp năm 1999 và Luật Doanh nghiệp năm
2005 được ban hành, các nhà làm luật đã đưa ra khái niệm doanh nghiệp một
cách cụ thể và đầy đủ hơn “Doanh nghiệp là một tổ chức kinh tế có tên riêng,
có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy
định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh”
(Khoản 1 Điều 4 Luật Doanh nghiệp năm 2005). Trong khuôn khổ luận văn
này, tôi sẽ nghiên cứu doanh nghiệp dưới góc độ pháp lý với những đặc điểm
pháp lý cơ bản sau:
7
Thứ nhất, doanh nghiệp là một loại chủ thể pháp luật. Có thể nói, việc
pháp luật công nhận hay không công nhận tư cách chủ thể pháp luật cho tổ
chức, cá nhân có ý nghĩa vô cùng to lớn, là cơ sở để tổ chức, cá nhân đó tiến
hành mọi hoạt động nhân danh mình, đồng thời được pháp luật bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp. Tư cách chủ thể pháp lý độc lập của doanh nghiệp cho
phép doanh nghiệp có quyền tự chủ, đồng thời phải tự chịu trách nhiệm trong
việc tổ chức hoạt động. Trách nhiệm pháp lý cơ bản của doanh nghiệp về hoạt
động kinh doanh thể hiện ở chỗ doanh nghiệp phải chịu trách nhiệm bằng
toàn bộ tài sản của mình, thậm chí vượt ra khỏi phạm vi những tài sản đó về
những cam kết tài chính, nợ nần trong kinh doanh... Trước đây, pháp luật về
doanh nghiệp đã công nhận tư cách chủ thể của doanh nghiệp nhà nước; công
ty trách nhiệm hữu hạn; công ty cổ phần; công ty hợp danh; doanh nghiệp tư
nhân; doanh nghiệp liên doanh; doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài. Sau này,
khi thống nhất các loại hình doanh nghiệp theo Luật Doanh nghiệp năm 2005,
pháp luật chỉ công nhận tư cách chủ thể cho bốn loại hình doanh nghiệp: công
ty trách nhiệm hữu hạn; công ty cổ phần; công ty hợp danh và doanh nghiệp
tư nhân. Dù thuộc bất kỳ thành phần kinh tế nào thì khi thành lập doanh
nghiệp, các nhà đầu tư cũng chỉ được thành lập một trong bốn loại hình doanh
nghiệp đó. Kết quả là khái niệm doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp liên
doanh, doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài đã được thay thế bằng những khái
niệm chính xác hơn như doanh nghiệp có vốn nhà nước hay doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài. Đây là tên gọi chung cho các doanh nghiệp được tổ
chức theo một trong bốn hình thức nêu trên mà Nhà nước hoặc tổ chức, cá
nhân nước ngoài bỏ vốn thành lập.
Bên cạnh đó, khi nói đến doanh nghiệp, có một loại chủ thể luôn được
đề cập đến với hai quan điểm khác nhau về bản chất và tư cách chủ thể - đó
chính là hợp tác xã.
8
Quan điểm thứ nhất cho rằng, hợp tác xã là một loại hình doanh
nghiệp. Quan điểm này giải thích lý do là: Hợp tác xã có tổ chức rõ ràng, có
bộ máy điều hành gồm hội đồng xã viên, ban quản trị hợp tác xã, ban kiểm
soát; đồng thời cũng có quy định về góp vốn và cơ chế huy động vốn tương
tự như doanh nghiệp. Vì vậy, hợp tác xã phải là một loại hình doanh nghiệp
được điều chỉnh bằng luật riêng - Luật Hợp tác xã, cũng giống như doanh
nghiệp nhà nước được quy định trong Luật Doanh nghiệp nhà nước năm
2003; công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty hợp danh, doanh
nghiệp tư nhân được quy định trong Luật Doanh nghiệp năm 1999 hay doanh
nghiệp liên doanh, doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài được quy định trong
Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam [6].
Quan điểm thứ hai cho rằng, hợp tác xã không phải là một loại hình
doanh nghiệp. Quan điểm này giải thích lý do là: Hợp tác xã có những nét
tương đồng với doanh nghiệp là vì “Hợp tác xã hoạt động như một loại hình
doanh nghiệp” nhưng điểm khác nhau cơ bản giữa hợp tác xã và doanh
nghiệp chính là yếu tố tự nguyện trong việc tham gia hay rút khỏi hợp tác xã
và tính xã hội, tương trợ cộng đồng rất cao của xã viên. Trong công ty, những
điều kiện ràng buộc giữa các thành viên công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty
cổ phần, công ty hợp danh với nhau và giữa các thành viên với công ty liên
quan đến việc chuyển nhượng phần vốn góp hay cổ phần bao giờ cũng phức
tạp hơn so với các trường hợp tương tự trong hợp tác xã. Đồng thời, không
giống như doanh nghiệp chỉ hoạt động trước hết và chủ yếu vì mục tiêu lợi
nhuận, hợp tác xã còn luôn hướng đến việc phát huy sức mạnh tập thể của
từng xã viên, cùng giúp nhau thực hiện có hiệu quả hoạt động sản xuất, kinh
doanh [6].
Mặc dù tồn tại với những lý lẽ khá thuyết phục, quan điểm thứ nhất về
tư cách doanh nghiệp của hợp tác xã cũng không được ghi nhận trong luật.
9
Luật Doanh nghiệp năm 2005 đã thống nhất các loại hình doanh nghiệp, trong
đó không bao gồm hình thức hợp tác xã. Luật Hợp tác xã năm 2013 có hiệu
lực thi hành từ ngày 01/7/2013 đã chính thức khẳng định Hợp tác xã không
phải là chủ thể của pháp luật doanh nghiệp.
Thứ hai, để được công nhận tư cách chủ thể pháp lý, doanh nghiệp phải
được thành lập và đăng ký kinh doanh theo thủ tục nhất định do pháp luật quy
định. Đây là một đặc điểm rất quan trọng bởi lẽ nó thể hiện thái độ của Nhà
nước đối với các tổ chức kinh tế, xác định tổ chức ấy có đủ hay không đủ
điều kiện được công nhận là một doanh nghiệp. Dưới góc độ pháp lý, các
doanh nghiệp buộc phải đăng ký kinh doanh trước khi tham gia thị trường,
đây là hoạt động có ý nghĩa to lớn không chỉ đối với các doanh nghiệp mà
còn xuất phát từ yêu cầu của quản lý nhà nước đối với hoạt động kinh doanh
trong nền kinh tế thị trường. Đối với các doanh nghiệp, đăng ký kinh doanh
nhằm xác định tư cách chủ thể cho doanh nghiệp. Kể từ thời điểm được cấp
giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, doanh nghiệp được phép tiến hành
những hoạt động kinh doanh theo nội dung đã đăng ký. Hoạt động kinh doanh
đó sẽ được pháp luật bảo vệ nhằm chống lại những hành vi xâm phạm quyền
và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, việc đăng ký kinh doanh
sẽ giúp Nhà nước nắm bắt được hệ thống thông tin về số lượng doanh nghiệp,
số lượng mỗi loại hình doanh nghiệp, các ngành nghề kinh doanh chủ yếu, địa
bàn thu hút vốn đầu tư... từ đó đưa ra, sửa đổi hoặc bổ sung kịp thời chủ
trương chính sách nhằm hoàn thiện pháp luật về doanh nghiệp. Hơn nữa, việc
đăng ký kinh doanh sẽ tạo ra một môi trường cạnh tranh an toàn và minh bạch
khi các nhà đầu tư dễ dàng tìm hiểu thông tin về bạn hàng từ sổ đăng ký kinh
doanh. Việc đăng ký kinh doanh vì thế có thể giúp các doanh nghiệp tránh
được tình trạng lừa đảo bằng việc bưng bít thông tin hay cạnh tranh không
lành mạnh trong hoạt động kinh doanh vốn đã có rất nhiều rủi ro. Trên thực
10
tế, hoạt động đăng ký kinh doanh thể hiện thái độ của Nhà nước đối với các
thành phần kinh tế. Trước đây, khi pháp luật về doanh nghiệp còn phân loại
các doanh nghiệp theo tiêu chí tính chất sở hữu, việc đăng ký kinh doanh
được quy định trong nhiều văn bản khác nhau. Hiện nay, theo xu hướng
chung để đảm bảo sự bình đẳng cho các thành phần kinh tế, đồng thời đảm
bảo hơn nữa quyền tự do kinh doanh của công dân, các quy định về đăng ký
kinh doanh đã được thống nhất trong Luật Doanh nghiệp năm 2005, áp dụng
chung cho tất cả các loại hình doanh nghiệp. Điều này tạo thuận lợi và dễ
dàng cho các nhà đầu tư khi áp dụng những quy định đó. Trong bối cảnh nền
thương mại thế giới hiện nay, Việt Nam cũng như các quốc gia khác, luôn
luôn đề cao việc cải thiện môi trường đầu tư mà trong đó quan trọng nhất là
cải thiện thủ tục hành chính ở khâu đăng ký kinh doanh nhằm khuyến khích
đầu tư trong nước đồng thời thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Thứ ba, mỗi doanh nghiệp đều được xác định bởi những ngành nghề
kinh doanh nhất định. Doanh nghiệp sẽ phải kinh doanh đúng ngành nghề mà
mình đã đăng ký một cách thường xuyên. Nếu một chủ thể nào đó thực hiện
hành vi kinh doanh có tính chất đơn lẻ, vụ việc thì không thể xem chủ thể đó
là doanh nghiệp. Hơn nữa, thậm chí khi một chủ thể đã được coi là một doanh
nghiệp (được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh) mà “không hoạt động
tại trụ sở đăng ký trong thời hạn 6 tháng liên tục kể từ ngày được cấp giấy
chứng nhận đăng ký kinh doanh hoặc chứng nhận thay đổi trụ sở chính thì sẽ
bị xoá tên trong sổ đăng ký kinh doanh” (Khoản 2 Điều 165 Luật Doanh
nghiệp năm 2005). Quy định này thực sự là một công cụ hiệu quả giúp cho cơ
quan quản lý nhà nước dễ dàng nắm bắt thông tin về doanh nghiệp, đồng thời
tránh tình trạng doanh nghiệp chỉ đăng ký kinh doanh mà trên thực tế không
tiến hành hoạt động hoặc ngừng hoạt động trong một thời gian dài.
11
Trên đây là một số vấn đề lý luận cơ bản về khái niệm doanh nghiệp
được nhìn nhận một cách tổng quát từ phương diện kinh tế - xã hội và phương
diện pháp lý. Có thể nói, những đặc trưng được chỉ ra ở trên sẽ là nền tảng, là
cơ sở khoa học cho pháp luật về doanh nghiệp được ban hành và hoàn thiện
trong điều kiện Việt Nam hiện nay.
1.1.2. Vị trí và vai trò của doanh nghiệp
Doanh nghiệp có vị trí đặc biệt quan trọng trong nền kinh tế, là bộ phận
chủ yếu tạo ra tổng sản phẩm nội địa. Trong những năm qua, hoạt động của
doanh nghiệp đã có bước phát triển đột biến, góp phần giải phóng và phát
triển sức sản xuất, huy động và phát huy nội lực vào phát triển kinh tế xã hội;
góp phần quyết định vào phục hồi và tăng trưởng kinh tế, tăng kim ngạch xuất
khẩu, tăng thu ngân sách và tham gia giải quyết có hiệu quả các vấn đề xã hội
như tạo việc làm, xoá đói, giảm nghèo...; quyết định đến chuyển dịch các cơ
cấu lớn của nền kinh tế quốc dân như cơ cấu thành phần kinh tế, cơ cấu ngành
kinh tế, cơ cấu kinh tế giữa các vùng, địa phương.
Sự phát triển của doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp ngành công
nghiệp tăng nhanh là nhân tố đảm bảo cho việc thực hiện các mục tiêu của
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, nâng cao hiệu quả kinh tế, giữ vững
ổn định và tạo thế mạnh hơn về năng lực cạnh tranh của nền kinh tế trong quá
trình hội nhập. Có thể nói vai trò của doanh nghiệp không chỉ quyết định sự
phát triển bền vững về mặt kinh tế mà còn quyết định đến sự ổn định và lành
mạnh hoá các vấn đề xã hội.
Sau khi các luật về đăng ký kinh doanh được ban hành và sửa đổi như
Luật Doanh nghiệp nhà nước, Luật Ðầu tư trực tiếp của nước ngoài, Luật Hợp
tác xã và đặc biệt là Luật Doanh nghiệp đã đi vào cuộc sống, hoạt động trong
khu vực doanh nghiệp có nhiều thay đổi, môi trường thông thoáng hơn, sản
12
xuất kinh doanh sôi động hơn, vai trò của doanh nghiệp được ghi nhận và có
nhiều tiến bộ, nhất là trong các ngành công nghiệp, thương mại, vận tải, du
lịch. Cùng với số lượng doanh nghiệp tăng nhanh, các yếu tố sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp như lao động, nguồn vốn, tài sản và kết quả sản xuất
kinh doanh như doanh thu, nguồn nộp ngân sách cũng tăng lên. Ðiều đáng
chú ý là trong những năm gần đây, các chủ trương, chính sách khuyến khích
phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ của Nhà nước đã có tác động tích cực đến
việc huy động mọi nguồn vốn của các tầng lớp dân cư vào sản xuất kinh
doanh của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh.
Doanh nghiệp tăng trưởng nhanh trong những năm gần đây đã đưa lại
những kết quả quan trọng sau:
- Doanh nghiệp là khu vực chủ yếu tạo ra giá trị gia tang, thu nhập cho
nền kinh tế, qua đó tang nguồn thu cho ngân sách nhà nước, nguồn thu này
tăng nhanh trong những năm qua là điều kiện để đầu tư phát triển cơ sở hạ
tầng, phát triển các hoạt động xã hội công (y tế, giáo dục, xoá đói giảm
nghèo,...). Phát triển doanh nghiệp tác động đến việc giải quyết tốt hơn các
vấn đề xã hội. Những năm gần đây, sản phẩm hàng hoá và dịch vụ do khối
doanh nghiệp tạo ra ngày càng phong phú, đa dạng về chủng loại mặt hàng,
chất lượng hàng hoá, dịch vụ được nâng lên, do đó đã giải quyết cơ bản nhu
cầu tiêu dùng hàng hoá, dịch vụ ngày càng cao của toàn xã hội, góp phần
nâng cao mức sống vật chất của dân cư và tăng nhanh lượng hàng hoá xuất
khẩu. Nhiều sản phẩm trước đây thường phải nhập khẩu cho tiêu dùng thì nay
đã được các doanh nghiệp trong nước sản xuất thay thế và được người tiêu
dùng trong nước tín nhiệm như: Ô tô, xe máy, phương tiện vận tải, các mặt
hàng đồ điện, điện tử, may mặc, thực phẩm, đồ uống, hoá mỹ phẩm, đồ dùng
gia đình, sản phẩm phục vụ xây dựng, ... [20].
13
- Giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống của người
lao động: Số lượng doanh nghiệp tăng nhanh đã giải quyết được nhiều việc
làm với thu nhập cao hơn cho người lao động. Tuy chiếm tỷ trọng không cao
trong tổng lao động toàn xã hội, nhưng lao động của khu vực doanh nghiệp lại
là lực lượng chủ yếu tạo ra nguồn thu cho ngân sách nhà nước và đóng góp
lớn cho tăng trưởng tổng sản phẩm nội địa; lao động ở khu vực này cũng có
thu nhập cao hơn nhiều so với khu vực cá thể và hộ gia đình. Thu nhập cao và
tăng nhanh của lao động khối doanh nghiệp góp phần cải thiện và nâng cao
mức sống chung của toàn xã hội và tham gia vào quá trình chuyển dịch cơ cấu
lao động từ nông nghiệp sang các ngành phi nông nghiệp.
- Doanh nghiệp tăng trưởng và phát triển là yếu tố quyết định đến tăng
trưởng cao và ổn định của nền kinh tế: Doanh nghiệp phát triển nhanh những
năm gần đây đã làm cho tỷ trọng đóng góp của khu vực này vào tổng sản
phẩm nội địa tăng nhanh. Lợi ích cao hơn mà tăng trưởng doanh nghiệp đem
lại là tạo ra khối lượng hàng hoá và dịch vụ lớn hơn, phong phú hơn, chất
lượng tốt hơn, thay thế được nhiều mặt hàng phải nhập khẩu, góp phần quan
trọng cải thiện và nâng cao mức tiêu dùng trong nước và tăng xuất khẩu, đó là
yếu tố quan trọng giữ cho nền kinh tế ổn định và phát triển những năm qua.
- Doanh nghiệp phát triển tác động đến chuyển dịch cơ cấu trong nền
kinh tế quốc dân và trong nội bộ mỗi ngành: Trước năm 2000, doanh nghiệp
phát triển chủ yếu trong ngành công nghiệp với vai trò quyết định là doanh
nghiệp nhà nước, các ngành khác (như nông, lâm nghiệp, thuỷ sản, thương
mại...) hoạt động của cá thể, hộ gia đình là chính, chiếm từ 85-95% sản lượng
toàn ngành [20]. Ðến nay, hoạt động của loại hình doanh nghiệp có mặt ở hầu
hết các ngành sản xuất kinh doanh. Các loại hình kinh tế trong doanh nghiệp
phát triển đa dạng gồm nhiều thành phần, trong đó doanh nghiệp nhà nước và
khu vực có vốn đầu tư nước ngoài chiếm tỷ trọng lớn, các loại hình doanh
14
nghiệp tư nhân tuy còn nhỏ nhưng phát triển nhanh và rộng khắp ở các ngành
và các địa phương trong cả nước. Doanh nghiệp phát triển nhanh trong tất cả
các ngành và ở khắp các địa phương đã tạo ra cơ hội phân công lại lao động
giữa các khu vực nông lâm nghiệp, thủy sản và sản xuất kinh doanh nhỏ của
hộ gia đình là khu vực lao động có năng suất thấp, thu nhập không cao, chiếm
số đông, thiếu việc làm sang khu vực doanh nghiệp, nhất là ngành công
nghiệp và dịch vụ có năng suất cao và thu nhập khá hơn.
1.1.3. Các loại hình doanh nghiệp ở Việt Nam
Việc phân loại doanh nghiệp nhằm các mục đích khác nhau và được
dựa trên các tiêu chí khác nhau. Từ góc độ nghiên cứu và lập pháp, việc phân
loại doanh nghiệp có ý nghĩa quan trọng cho việc lựa chọn cơ chế điều chỉnh
pháp luật thích hợp đối với doanh nghiệp, cả về quản lý nhà nước và quản trị
doanh nghiệp. Có nhiều căn cứ để phân loại doanh nghiệp như căn cứ vào
hình thức pháp lý của doanh nghiệp; chế độ trách nhiệm; tính chất sở hữu và
mục đích hoạt động của doanh nghiệp; cơ cấu nhà đầu tư và phương thức góp
vốn vào doanh nghiệp…
Ở hệ thống pháp luật của các quốc gia khác nhau thì có sự phân chia
các loại hình doanh nghiệp khác nhau. Ví dụ ở các nước theo hệ thống Luật
Án lệ chia doanh nghiệp ra làm hai nhóm chủ yếu là hãng kinh doanh và công
ty; ở các nước theo hệ thống pháp luật Châu Âu lục địa thì doanh nghiệp được
chia thành hai nhóm là doanh nghiệp cá nhân và công ty; doanh nghiệp theo
hệ thống pháp luật của Trung Quốc gồm hộ cá thể, doanh nghiệp cá thể
(doanh nghiệp tư nhân), hợp danh, doanh nghiệp tập thể, doanh nghiệp nhà
nước, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và công ty.
Ở Việt Nam, do những điều kiện lịch sử, xã hội đặc thù, doanh nghiệp
và pháp luật về doanh nghiệp hiện nay vẫn còn nhiều điểm khác biệt lớn so
15
với xu hướng phổ biến trên thế giới, một trong những khác biệt đó là vấn đề
loại hình doanh nghiệp.
Căn cứ vào hình thức pháp lý của doanh nghiệp, theo Luật Doanh
nghiệp năm 2005 thì các loại hình doanh nghiệp ở Việt Nam bao gồm:
 Công ty trách nhiệm hữu hạn (bao gồm công ty trách nhiệm hữu hạn
một thành viên và công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên) là
doanh nghiệp mà các thành viên trong công ty chịu trách nhiệm về các khoản nợ
và nghĩa vụ tài sản khác của công ty trong phạm vi số vốn điều lệ của công ty.
 Công ty cổ phần là doanh nghiệp mà vốn điều lệ của công ty được chia
thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần. Cá nhân hay tổ chức sở hữu cổ
phần của doanh nghiệp được gọi là cổ đông và chịu trách nhiệm về các khoản
nợ và các nghĩa vụ tài sản khác trong phạm vi số vốn đã góp vào doanh nghiệp.
 Doanh nghiệp tư nhân là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và tự
chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh
nghiệp. Mỗi cá nhân chỉ được quyền thành lập một doanh nghiệp tư nhân.
 Công ty hợp danh là doanh nghiệp trong đó có ít nhất hai thành viên là
chủ sở hữu của công ty, cùng kinh doanh dưới một tên chung (gọi là thành
viên hợp danh). Thành viên hợp danh phải là cá nhân và chịu trách nhiệm
bằng toàn bộ tài sản của mình về các nghĩa vụ của công ty. Ngoài ra trong
công ty hợp danh còn có các thành viên góp vốn.
 Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được thành lập theo Luật
Đầu tư nước ngoài năm 1996 chưa đăng ký lại hay chuyển đổi theo quy định.
Căn cứ vào chế độ trách nhiệm, có thể phân loại các doanh nghiệp
thành doanh nghiệp có chế độ trách nhiệm vô hạn và doanh nghiệp chế độ
trách nhiệm hữu hạn, cụ thể:
16
 Doanh nghiệp có chế độ trách nhiệm vô hạn là loại hình doanh nghiệp
mà ở đó chủ sở hữu doanh nghiệp có nghĩa vụ phải trả nợ thay cho doanh
nghiệp bằng tất cả tài sản của mình, khi doanh nghiệp không đủ tài sản để
thực hiện các nghĩa vụ tài chính của nó. Theo pháp luật Việt Nam, có hai loại
doanh nghiệp có chế độ trách nhiệm vô hạn là doanh nghiệp tư nhân và công
ty hợp danh. Thực chất chế độ trách nhiệm vô hạn của loại doanh nghiệp này
là chế độ trách nhiệm vô hạn của chủ sở hữu doanh nghiệp tư nhân và của
thành viên hợp danh công ty hợp danh. Chủ sở hữu doanh nghiệp tư nhân và
thành viên hợp danh sẽ chịu trách nhiệm đến cùng về mọi nghĩa vụ tài sản của
doanh nghiệp mà không giới hạn ở phần tài sản chủ doanh nghiệp, các thành
viên hợp danh đã bỏ vào đầu tư kinh doanh tại doanh nghiệp tư nhân và công
ty hợp danh. Điều này có nghĩa là nếu tài sản của doanh nghiệp tư nhân và
công ty hợp danh không đủ để thực hiện các nghĩa vụ về tài chính của doanh
nghiệp khi các doanh nghiệp này phải áp dụng thủ tục thanh lý trong thủ tục
phá sản, chủ sở hữu doanh nghiệp và các thành viên hợp danh phải sử dụng cả
tài sản riêng không đầu tư vào doanh nghiệp để thanh toán cho các khoản nợ
của doanh nghiệp.
 Doanh nghiệp có chế độ trách nhiệm hữu hạn là loại hình doanh nghiệp
mà ở đó chủ sở hữu chỉ phải chịu trách nhiệm về mọi khoản nợ và nghĩa vụ
tài chính của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã góp vào doanh nghiệp.
Theo pháp luật Việt Nam, doanh nghiệp có chế độ trách nhiệm hữu hạn bao
gồm: công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, doanh nghiệp liên doanh
và doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài không tiến hành đăng ký lại
theo Nghị định số 101/2006/NĐ-CP. Chế độ trách nhiệm hữu hạn của các loại
doanh nghiệp trên thực chất là chế độ trách nhiệm hữu hạn của các nhà đầu tư
- thành viên/chủ sở hữu công ty. Điều đó có nghĩa là khi số tài sản của doanh
17
nghiệp không đủ để trả nợ thì chủ sở hữu không có nghĩa vụ phải trả nợ thay
cho doanh nghiệp.
Ngoài ra còn có các thuật ngữ sau:
 Nhóm công ty là tập hợp các công ty có mối quan hệ gắn bó lâu dài với
nhau về lợi ích kinh tế, công nghệ, thị trường và các dịch vụ kinh doanh khác,
gồm có các hình thức sau: công ty mẹ - công ty con, tập đoàn kinh tế...
 Doanh nghiệp nhà nước là doanh nghiệp trong đó Nhà nước sở hữu trên
50% vốn điều lệ.
 Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là doanh nghiệp do nhà đầu tư
nước ngoài thành lập để thực hiện hoạt động đầu tư tại Việt Nam hoặc doanh
nghiệp Việt Nam do nhà đầu tư nước ngoài mua cổ phần, sáp nhập, mua lại.
1.2. Lý luận về pháp luật về doanh nghiệp
1.2.1. Khái niệm pháp luật về doanh nghiệp
Pháp luật là một chỉnh thể thống nhất, ra đời và phát triển gắn liền với
sự xuất hiện của Nhà nước và tiến bộ xã hội. Hệ thống pháp luật có sự thay
đổi về nội dung, cơ cấu, luôn vận động từ thấp đến cao, ngày càng đa dạng và
phong phú. Trong sự vận động của hệ thống pháp luật nói chung, pháp luật về
doanh nghiệp - một bộ phận cơ bản của pháp luật kinh tế Việt Nam cũng có
những bước phát triển nhất định. Tuy nhiên, cho đến nay vẫn chưa có định
nghĩa thống nhất về lĩnh vực pháp luật này. Về mặt lý luận, có thể xem xét
pháp luật về doanh nghiệp dưới hai góc độ: theo nghĩa rộng và theo nghĩa hẹp.
Theo nghĩa rộng, pháp luật về doanh nghiệp bao gồm những quy phạm
pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình tổ chức và
hoạt động của các doanh nghiệp. Những quan hệ xã hội này có phạm vi rất
rộng, phát sinh từ khi nhà đầu tư đăng ký kinh doanh, chính thức hoạt động
18
trên thị trường cho đến khi doanh nghiệp kết thúc hoạt động. Những quan hệ
đó bao gồm: quan hệ giữa Nhà nước và nhà đầu tư trong quá trình đăng ký
kinh doanh; quan hệ giữa doanh nghiệp với các thành viên; quan hệ giữa các
thành viên với nhau; quan hệ giữa doanh nghiệp với các chủ thể trong quá
trình sử dụng đất, tài chính, bảo vệ môi trường, thuê lao động hay quan hệ
giữa doanh nghiệp với các chủ nợ trong quá trình doanh nghiệp tiến hành giải
thể, phá sản. Những quan hệ này rất đa dạng và khác nhau về tính chất, nội
dung cũng như thành phần chủ thể. Như vậy, có thể định nghĩa pháp luật về
doanh nghiệp theo nghĩa rộng như sau: Pháp luật về doanh nghiệp là những
quy tắc xử sự do Nhà nước ban hành hoặc thừa nhận, điều chỉnh các quan hệ
xã hội phát sinh trong quá trình tổ chức và tiến hành hoạt động của các doanh
nghiệp. Theo đó, pháp luật về doanh nghiệp bao gồm cả những quy phạm
điều chỉnh quan hệ xã hội thuộc các ngành pháp luật khác nhau như Luật Dân
sự, Luật Môi trường, Luật Đất đai, Luật Thuế, Luật Lao động....
Theo nghĩa hẹp, pháp luật về doanh nghiệp là những quy tắc xử sự do
Nhà nước ban hành hoặc thừa nhận điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh
trong khi doanh nghiệp gia nhập thị trường, quản trị nội bộ và rút khỏi thị
trường. Theo nghĩa này, pháp luật về doanh nghiệp bao gồm:
 Quy định về bản chất pháp lý của các loại hình doanh nghiệp.
 Quy định về thành lập và đăng ký doanh nghiệp.
 Quy định về cơ cấu tổ chức và quản trị doanh nghiệp.
 Quy định về cấu trúc vốn của doanh nghiệp.
 Quy định về tổ chức lại, giải thể, phá sản doanh nghiệp.
Theo nghĩa này, pháp luật về doanh nghiệp là một bộ phận của pháp
luật kinh tế, có mối quan hệ mật thiết với những ngành luật khác như Luật
Dân sự, Luật Thuế, Luật Thương mại…
19
Việc phân biệt đối tượng, phạm vi điều chỉnh của pháp luật về doanh
nghiệp theo nghĩa rộng hay nghĩa hẹp chỉ mang tính chất tương đối, bởi lẽ
pháp luật về doanh nghiệp dù hiểu theo chiều hướng nào vẫn luôn bao gồm
những bộ phận có mối liên hệ chặt chẽ với nhau. Tuy nhiên, việc phân biệt
này cũng đem lại những ý nghĩa nhất định trong quá trình nghiên cứu. Trong
phạm vi luận văn này, tôi sẽ nghiên cứu pháp luật về doanh nghiệp dưới góc
độ tiếp cận theo nghĩa hẹp.
1.2.2. Vai trò của pháp luật về doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường
Trong cơ chế thị trường, sự tồn tại của pháp luật là một nhu cầu bắt
nguồn từ chính đòi hỏi của các quan hệ kinh tế. Nền kinh tế thị trường đòi hỏi
pháp luật phải đảm bảo các quy luật, nguyên tắc của thị trường. Trong quá
trình xây dựng nền kinh tế thị trường ở Việt Nam, pháp luật về doanh nghiệp
cùng với các chế định khác của pháp luật kinh tế là công cụ không thể thiếu
để Nhà nước điều tiết nền kinh tế thị trường phát triển theo định hướng xã hội
chủ nghĩa. Đối với các nhà đầu tư, pháp luật về doanh nghiệp không chỉ có
vai trò đảm bảo quyền tự do và sự bình đẳng mà còn có vai trò đảm bảo sự an
toàn trong đầu tư vốn của họ. Vai trò của pháp luật về doanh nghiệp thể hiện
ở những mặt sau:
Thứ nhất, pháp luật về doanh nghiệp phải đảm bảo quyền tự do của
công dân trong tổ chức hoạt động kinh doanh. Với một xã hội có Nhà nước,
tự do kinh doanh chỉ có ý nghĩa hiện thực khi được ghi nhận bởi pháp luật. Vì
vậy, quyền tự do kinh doanh không thể được thực hiện hiệu quả trên thực tế
nếu thiếu pháp luật. Vai trò ghi nhận và đảm bảo quyền tự do kinh doanh của
pháp luật về doanh nghiệp thể hiện ở những nội dung cơ bản sau:
 Pháp luật về doanh nghiệp quy định những ngành nghề, lĩnh vực cấm
kinh doanh hoặc hạn chế kinh doanh.
20
 Pháp luật về doanh nghiệp quy định thủ tục đăng ký kinh doanh cho các
nhà đầu tư.
 Pháp luật về doanh nghiệp quy định các hình thức doanh nghiệp để các
nhà đầu tư lựa chọn.
 Pháp luật về doanh nghiệp quy định các quyền và nghĩa vụ cụ thể của
nhà đầu tư trong tổ chức hoạt động của doanh nghiệp như tổ chức bộ máy
quản lý nội bộ của doanh nghiệp; mở rộng, thu hẹp quy mô kinh doanh; huy
động vốn; chấm dứt sự tồn tại của doanh nghiệp...
Thứ hai, pháp luật về doanh nghiệp đảm bảo quyền sở hữu vốn và tài
sản trong kinh doanh của các nhà đầu tư. Vốn và tài sản là tiền đề vật chất
không thể thiếu để thực hiện hoạt động kinh doanh. Vì vậy, quyền sở hữu vốn
và tài sản cần phải được ghi nhận bằng pháp luật. Pháp luật về doanh nghiệp
góp phần khẳng định địa vị chủ sở hữu tài sản của các tổ chức, cá nhân khi họ
dùng vốn và tài sản để đầu tư kinh doanh. Với quy định về quyền và nghĩa vụ
của người góp vốn vào doanh nghiệp, pháp luật về doanh nghiệp thể hiện vai
trò tiếp tục phát triển các quy định về sở hữu đổi với tài sản trong kinh doanh.
Tính đặc thù của các quy định về sở hữu trong pháp luật về doanh nghiệp thể
hiện ở chỗ pháp luật về doanh nghiệp bảo vệ quyền sở hữu tài sản trong trạng
thái vận động, đồng thời hạn chế những tiêu cực phát sinh do chế độ đa sở
hữu trong kinh doanh của cơ chế thị trường gây ra.
Thứ ba, pháp luật về doanh nghiệp là công cụ đảm bảo cho các hoạt
động kinh doanh vận hành theo các quy luật của thị trường. Đối với pháp luật
về doanh nghiệp, việc xác định tư cách chủ thể, xác định địa vị pháp lý của
chủ thể kinh doanh, đảm bảo quyền tự do kinh doanh và quyền bình đẳng của
họ có tầm quan trọng đặc biệt. Đó là cơ sở, sự đảm bảo pháp lý để các chủ thể
kinh doanh tiến hành các hoạt động của mình trên thương trường.
21
Thứ tư, pháp luật về doanh nghiệp góp phần giải quyết các vấn đề xã hội
như phân hóa giàu nghèo, thất nghiệp,... Để đạt được mục tiêu đặt ra, Nhà
nước phải sử dụng nhiều công cụ khác nhau để điều tiết và định hướng nền
kinh tế thị trường, trong đó pháp luật được coi là công cụ hữu hiệu nhất. Với
tư cách là một bộ phận cấu thành của pháp luật kinh doanh, pháp luật về
doanh nghiệp góp phần giải quyết các vấn đề xã hội; giải quyết hài hòa mối
quan hệ giữa các lợi ích của Nhà nước, của doanh nghiệp và lợi ích của các
chủ thể có quan hệ với doanh nghiệp (chủ nợ, người lao động...) trong tổ chức
hoạt động kinh doanh.
Như vậy có thế thấy rằng vai trò của pháp luật doanh nghiệp là rất to
lớn, nó có ý nghĩa làm hoàn thiện hơn nữa các loại hình doanh nghiệp, từ đó
thúc đẩy nền kinh tế thị trường ngày một phát triển, phục vụ đắc lực cho sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
1.2.3. Nội dung pháp luật về doanh nghiệp
Theo nghĩa rộng, đối tượng điều chỉnh của pháp luật về doanh nghiệp
là các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình tổ chức và hoạt động của
doanh nghiệp. Còn theo nghĩa hẹp, đối tượng điều chỉnh của pháp luật về
doanh nghiệp là các quan hệ pháp luật về tổ chức doanh nghiệp, đó là các
quan hệ phát sinh trong các giai đoạn: gia nhập thị trường, quản trị doanh
nghiệp và rút khỏi thị trường.
Những quy định về doanh nghiệp được nêu trong hệ thống văn bản
pháp luật về doanh nghiệp. Nội dung của pháp luật về doanh nghiệp chủ yếu
là những quy phạm ghi nhận và đảm bảo quyền, đồng thời xác định trách
nhiệm của nhà đầu tư trong việc tổ chức, vận hành doanh nghiệp. Các nhóm
quy phạm của pháp luật Việt Nam về doanh nghiệp bao gồm:
22
Thứ nhất, các quy định về bản chất pháp lý của các loại hình doanh
nghiệp. Các quy định này đưa ra những dấu hiệu pháp lý để xác định loại
hình doanh nghiệp. Mỗi loại hình doanh nghiệp có những đặc điểm pháp lý
nhất định và cần được xác định trong luật pháp. Các nhà đầu tư có quyền lựa
chọn loại hình doanh nghiệp phù hợp với nhu cầu và điều kiện của mình,
song trong quá trình tổ chức vận hành doanh nghiệp phải tuân thủ những quy
định về bản chất của loại hình doanh nghiệp đã lựa chọn.
Thứ hai, các quy định về thành lập và đăng ký doanh nghiệp. Thành lập
doanh nghiệp có ý nghĩa xác lập tư cách pháp lý cho doanh nghiệp. Trong nền
kinh tế thị trường, với yêu cầu của nguyên tắc tự do kinh doanh, thành lập
doanh nghiệp được coi là quyền cơ bản của nhà đầu tư. Tuy nhiên, sự hiện
diện của doanh nghiệp trên thương trường luôn tiềm ẩn nguy cơ ảnh hưởng
đến những lợi ích của các chủ thể có liên quan, vì vậy việc thành lập doanh
nghiệp phải được thực hiện trên khuôn khổ pháp luật. Chế định thành lập
doanh nghiệp thường bao gồm những nội dung cơ bản là đối tượng có quyền
thành lập doanh nghiệp, ngành nghề kinh doanh, thủ tục đăng ký kinh doanh.
Thứ ba, các quy định về cơ cấu tổ chức và quản trị doanh nghiệp. Với
yêu cầu của nguyên tắc tự do kinh doanh, việc tổ chức và quản trị doanh
nghiệp trước hết và chủ yếu thuộc quyền quyết định của chủ sở hữu các doanh
nghiệp. Pháp luật chỉ quy định ràng buộc những vấn đề cơ bản, mang tính
nguyên tắc, xác lập khung pháp lý cho việc tổ chức quản trị doanh nghiệp.
Nội dung của chế định tổ chức quản trị doanh nghiệp bao gồm các vấn đề: cơ
cấu bộ máy tổ chức quản trị, thẩm quyền và thể thức hoạt động của bộ máy
quản trị doanh nghiệp, nghĩa vụ của người quản lý doanh nghiệp, kiểm soát
giao dịch tư lợi.
23
Thứ tư, các quy định về cấu trúc vốn của doanh nghiệp. Vốn là cơ sở
vật chất không thể thiếu cho sự tồn tại và hoạt động của doanh nghiệp. Vốn
của doanh nghiệp được quan niệm là vốn kinh doanh, là giá trị của toàn bộ tài
sản được đầu tư vào hoạt động của doanh nghiệp nhằm mục đích sinh lời.
Việc xác định cấu trúc vốn của doanh nghiệp phải tuân thủ những ràng buộc
của pháp luật ở các mức độ khác nhau, tùy thuộc vào loại hình doanh nghiệp
và lĩnh vực hoạt động của doanh nghiệp. Các quy định về cấu trúc vốn của
doanh nghiệp bao gồm hai nội dung cơ bản là cơ sở hình thành, mối quan hệ
giữa vốn chủ sở hữu và vốn tín dụng và cơ chế điều chỉnh, huy động vốn của
doanh nghiệp trong quá trình hoạt động.
Thứ năm, các quy định về tổ chức lại, giải thể, phá sản doanh nghiệp.
Tổ chức lại doanh nghiệp là một nhu cầu chính đáng của các nhà đầu tư, nó
có thể xuất hiện trong quá trình tự nhiên của doanh nghiệp. Nội dung của việc
tổ chức lại doanh nghiệp chính là sự biến đổi của doanh nghiệp cho phù hợp
với môi trường và điều kiện kinh doanh cụ thể, nhằm đạt được hiệu quả kinh
doanh cao hơn. Các biện pháp tổ chức lại doanh nghiệp về cơ bản bao gồm:
chia, tách, sáp nhập, hợp nhất doanh nghiệp và chuyển đổi hình thức pháp lý
của doanh nghiệp. Biện pháp tổ chức lại doanh nghiệp cho từng loại hình
doanh nghiệp khác nhau thì khác nhau. Giải thể doanh nghiệp là một trong
những thủ tục pháp lý dẫn đến chấm dứt tồn tại của doanh nghiệp. Các quy
định pháp luật về giải thể doanh nghiệp bao gồm hai nội dung cơ bản là các
trường hợp giải thể và thủ tục giải thể. Về nguyên tắc, việc quyết định giải thể
doanh nghiệp thuộc quyền của chủ sở hữu doanh nghiệp. Tuy nhiên, khi
doanh nghiệp không còn thỏa mãn các điều kiện tồn tại theo quy định của
pháp luật hoặc kinh doanh vi phạm pháp luật thì doanh nghiệp sẽ bị bắt buộc
phải giải thể.
Như vậy, phụ thuộc vào các loại hình doanh nghiệp, hệ thống pháp luật
về doanh nghiệp được cấu trúc với những chế định phù hợp với các đặc điểm
pháp lý của từng loại doanh nghiệp.
24
1.2.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến việc xây dựng nội dung pháp luật về
doanh nghiệp
Như đã phân tích ở trên, pháp luật về doanh nghiệp là một bộ phận cấu
thành quan trọng trong hệ thống pháp luật kinh tế của mỗi quốc gia. Tuy
nhiên, trong từng giai đoạn lịch sử, tùy thuộc vào tình hình kinh tế, chính trị,
văn hóa và xã hội tồn tại một cách khách quan mà pháp luật doanh nghiệp tại
mỗi nước được quy định khác nhau. Hay nói cách khác, nền tảng của xây
dựng nội dung pháp luật doanh nghiệp là việc đánh giá tổng thể, toàn diện các
yếu tố ảnh hưởng. Vậy tại Việt Nam các yếu tố đó là gì? Trả lời cho câu hỏi
này, trong khuôn khổ luận văn của mình, tôi sẽ đánh giá theo: tính chất của
nền kinh tế Việt Nam; đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước qua hai
thời kỳ: trước đổi mới, sau đổi mới; tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế.
1.2.4.1. Tính chất của nền kinh tế
Năm 1975, sau khi đất nước được hoàn toàn giải phóng, với mục tiêu
cơ bản là ổn định tình hình kinh tế - xã hội, ổn định đời sống nhân dân sau
thời gian dài chiến tranh; tạo bước tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên
chủ nghĩa xã hội, Đảng Cộng sản Việt Nam đã tiếp tục lãnh đạo nhân dân
thực hiện ba cuộc cách mạng: (i) cách mạng về quan hệ sản xuất; (ii) cách
mạng khoa học - kỹ thuật; (iii) cách mạng tư tưởng và văn hoá. Định hướng
phát triển kinh tế của Việt Nam thời kỳ này là công nghiệp hóa xã hội chủ
nghĩa, xây dựng chế độ sở hữu tập thể. Thời kỳ này được nhắc đến với danh
từ "bao cấp" và nền kinh tế hoạt động theo cơ chế tập trung kế hoạch hóa
trong đó Nhà nước lên kế hoạch cho mọi hoạt động kinh tế của các xí nghiệp
nhà máy.
25
Tính chất nền kinh tế nêu trên dẫn đến pháp luật về doanh nghiệp thời
kỳ này đơn thuần chỉ được coi là một văn bản hành chính quản lý nhà nước,
không có tác dụng điều tiết hay thúc đẩy nền kinh tế, biểu hiện cụ thể:
 Do không thừa nhận kinh tế tư nhân nên các loại hình doanh nghiệp rất
nghèo nàn, ngoài doanh nghiệp nhà nước thì doanh nghiệp ngoài quốc doanh
chỉ có hợp tác xã.Tuy nhiên do ruộng đất thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước
quản lý, cộng thêm cơ cấu quản lý hợp tác xã còn nhiều bất cập, phụ thuộc và
làm theo chỉ tiêu của Nhà nước nên các ý tưởng, lối làm ăn tập thể mang tính
nhân đạo, đùm bọc lẫn nhau không thể phát huy tác dụng, thậm trí mang tính
kinh tế nhà nước hơn là kinh tế tập thể.
 Do không có tự do kinh doanh nên pháp luật về hợp đồng rất nghèo
nàn, không thể hiện tự do ý chí của các chủ thể kinh doanh, điều kiện của việc
ký kết và thực hiện hợp đồng rất chặt chẽ, bởi lẽ hoạt động kinh doanh giai
đoạn này về bản chất là làm theo chỉ tiêu kế hoạch của Nhà nước.
 Bên cạnh đó, do không thừa nhận tự do cạnh tranh, không thừa nhận
khả năng “đào thải” những chủ thể không có khả năng kinh doanh nên giai
đoạn này không có hiện tượng phá sản, không có luật về phá sản, những
doanh nghiệp hoạt động không hiệu quả, thua lỗ sẽ tự động giải thể mà không
cần đến cơ chế phá sản, không phải chịu bất cứ trách nhiệm nào.
Hệ quả của cách thức quản lý nêu trên là kinh tế Việt Nam đã không
thực hiện được những mục tiêu đề ra, nền kinh tế - xã hội lâm vào khủng
hoảng trầm trọng vào cuối năm 1985.
Để thoát khỏi cuộc khủng hoảng đó, năm 1986, Việt Nam bắt đầu thực
hiện đường lối đổi mới với ba trụ cột: (i) chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch
hoá tập trung sang vận hành theo cơ chế thị trường; (ii) phát triển nền kinh tế
nhiều thành phần trong đó khu vực dân doanh đóng vai trò ngày càng quan
26
trọng; (iii) chủ động hội nhập kinh tế khu vực và thế giới một cách hiệu quả
và phù hợp với điều kiện thực tiễn của Việt Nam. Theo đó, một loạt các đạo
luật và các văn bản hướng dẫn, pháp lệnh, nghị định được ban hành bước đầu
đã tạo ra khung pháp lý cho việc hình thành nền kinh tế thị trường tại Việt
Nam. Hiến pháp sửa đổi năm 1992 nêu rõ nhiệm vụ đảm bảo sự tồn tại và
phát triển của nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị
trường và khu vực đầu tư nước ngoài. Việc ban hành Luật Doanh nghiệp năm
2005 và Luật Đầu tư năm 2005 được coi là bước đột phá trong tư duy và cải
cách hoàn thiện hệ thống pháp luật ở Việt Nam. Luật Doanh nghiệp năm 2005
đã thay thế các quy định pháp luật trước đó về doanh nghiệp (bao gồm Luật
Doanh nghiệp năm 1999 và Luật Doanh nghiệp nhà nước năm 2003) và áp
dụng thống nhất cho tất cả các doanh nghiệp không phân biệt thành phần kinh
tế, có tác dụng đẩy nhanh quá trình cải cách kinh tế. Cũng tương tự, Luật Đầu
tư năm 2005 đã thay thế Luật Khuyến khích đầu tư trong nước năm 1998 và
Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 2000, áp dụng thống nhất cho hoạt
động đầu tư, không phân biệt nhà đầu tư trong và ngoài nước, góp phần tạo
bước tiến dài trong việc điều chỉnh, cải tiến môi trường đầu tư của Việt Nam.
Hiến pháp 2013 (sửa đổi) khẳng định nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa và đang từng bước tạo dựng là nền kinh
tế thị trường hiện đại [20].
Bên cạnh việc tuân thủ nghiêm ngặt yêu cầu của những quy luật khách
quan của kinh tế thị trường, nền kinh tế thị trường hiện đại còn mang một số
đặc trưng mới, đó là:
Thứ nhất, nền kinh tế thị trường hiện đại phải dựa trên nền tảng sở hữu
hỗn hợp của các chủ thể thị trường. Trong nền kinh tế này, sở hữu hỗn hợp
dựa trên chế độ cổ phần chiếm ưu thế phổ biến, đây là kết quả xã hội hóa sản
xuất và xã hội hóa sở hữu ở trình độ cao do yêu cầu phát triển của lực lượng
27
sản xuất, khoa học, công nghệ và trình độ quản lý. Hình thức sở hữu này đang
ngàycàng phát triển, từng bước vượt qua biên giới của một quốc gia và gắn
liền với sự phát triển mạnh của các công ty đa quốc gia, xuyên quốc gia.
Thứ hai, nền kinh tế thị trường hiện đại phải dựa trên những thành tựu
của khoa học, công nghệ hiện đại và kinh tế tri thức - một trong những nhân
tố quyết định trực tiếp đến sự giàu mạnh, văn minh của mọi quốc gia.
Thứ ba, nền kinh tế thị trường hiện đại phải có cơ cấu, trong đó những
lĩnh vực sau phải hiện đại, đó là: công nghiệp - thị trường, hệ thống kết cấu hạ
tầng, các ngành dịch vụ cao cấp mà đặc biệt là dịch vụ tài chính và ngân hàng.
Ngoài ra, nông nghiệp và nông thôn về cơ bản phải được phát triển trên nền
tảng công nghiệp và thị trường hiện đại.
Thứ tư, nền kinh tế thị trường hiện đại dựa trên nguồn nhân lực chất
lượng cao, làm chủ được khoa học và công nghệ với trình độ quản lý hiện đại.
Thứ năm, nền kinh tế thị trường hiện đại đòi hỏi phải giải quyết tốt mối
quan hệ giữa nhà nước - thị trường - doanh nghiệp nhằm thỏa mãn những yêu
cầu phát triển trong bối cảnh hiện đại dưới tác động trực tiếp của toàn cầu
hóa, cách mạng khoa học - công nghệ, kinh tế tri thức và xã hội thông tin.
Nền kinh tế này cũng đòi hỏi phải giải quyết tốt mối quan hệ giữa kinh tế thị
trường, nhà nước pháp quyền và xã hội dân sự trong điều kiện cụ thể và đặc
thù về chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa, con người nhằm thực hiện tốt mục
tiêu phát triển của mỗi quốc gia.
Thứ sáu, nền kinh tế thị trường hiện đại phải dựa trên hệ thống an sinh
xã hội hiện đại và một hệ thống phúc lợi vì mục tiêu phát triển con người. Hệ
thống an sinh xã hội và phúc lợi xã hội này được xây dựng bằng sự đóng góp
của chủ doanh nghiệp, người lao động, nhà nước và các tổ chức xã hội dân sự
nhằm hỗ trợ người lao động, đặc biệt là người nghèo trước những biến động
28
và rủi ro của thị trường do tác động ngày càng lớn của toàn cầu hóa và biến
đổi khí hậu.
Xuất phát từ những đặc trưng nêu trên, những vấn đề mang tính phổ
biến mà Việt Nam cần giải quyết để hình thành nền kinh tế thị trường hiện đại
gồm có: Phải hình thành đầy đủ và đồng bộ các loại thị trường, tôn trọng các
quy luật của thị trường và giải quyết hài hòa mối quan hệ nhà nước - thị
trường - doanh nghiệp; chủ động và tích cực hội nhập vào nền kinh tế toàn
cầu và khu vực; Phát triển và quản lý có hiệu quả nền kinh tế thị trường hiện
đại với những đặc trưng cơ bản, mang tính phổ biến đối với tất cả các quốc
gia, không phân biệt chế độ chính trị. Thiếu những đặc trưng cơ bản này thì
nền kinh tế thị trường ở Việt Nam không thể được coi là kinh tế thị trường
hiện đại [10].
Những đặc trưng này đặt ra yêu cầu cho các nhà lập pháp cần ngày
càng hoàn thiện pháp luật về doanh nghiệp nhằm tạo ra môi trường pháp lý
hấp dẫn đầu tư, kinh doanh, tạo ra sự bình đẳng giữa các doanh nghiệp trong
nước và giữa doanh nghiệp nội địa với quốc tế.
1.2.4.2. Đường lối chính sách phát triển kinh tế trong từng thời kỳ của
Đảng, Nhà nước
Sau Đại thắng mùa Xuân năm 1975, đất nước thống nhất, Đại hội IV
của Đảng họp tháng 12/1976 đã đề ra đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội
trong cả nước mà nội dung cơ bản là tiến hành đồng thời ba cuộc cách mạng:
(i) cách mạng về quan hệ sản xuất; (ii) cách mạng khoa học - kỹ thuật; (iii)
cách mạng tư tưởng và văn hoá, trong đó cách mạng khoa học - kỹ thuật là
then chốt. Nhưng trong quá trình tổ chức thực hiện, chúng ta đã phạm sai lầm
chủ quan, nóng vội, tính sai bước đi. Trong phát triển lực lượng sản xuất, đã
không tập trung phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ mà quá thiên về
29
công nghiệp nặng, ham làm nhanh, làm nhiều. Về quan hệ sản xuất, đã chủ
trương cải tạo ồ ạt, muốn nhanh chóng xoá bỏ các thành phần kinh tế tư nhân
để xác lập một cách phổ biến các hình thức sở hữu tập thể và toàn dân đối với
tư liệu sản xuất ngay cả khi lực lượng sản xuất còn rất thấp kém. Về quản lý,
đã chọn mô hình kế hoạch hoá tập trung quan liêu, phủ nhận kinh tế thị
trường, xem nhẹ năng suất, chất lượng và hiệu quả. Như vậy, do chủ quan,
duy ý chí, Đảng và Nhà nước đã đề ra đường lối phát triển kinh tế - xã hội
không phù hợp với hoàn cảnh cụ thể của đất nước. Điều này lý giải tại sao
một số văn bản pháp luật về kinh tế đã được đưa vào kế hoạch xây dựng và
thông qua nhưng kế hoạch đó cứ bị chuyển từ năm này sang năm khác mà
không thể thực hiện được.
Năm 1986, tại Đại hội lần thứ VI, Đảng cộng sản Việt Nam chính thức
tuyên bố việc đề ra và thực hiện đường lối đổi mới ở Việt Nam. Chính sự đổi
mới trong đường lối, chính sách phát triển kinh tế đã tạo ra bước ngoặt cho
pháp luật Việt Nam trong đó lĩnh vực pháp luật kinh tế là lĩnh vực đi tiên
phong trong sự nghiệp đổi mới. Trong giai đoạn này, để cụ thể hóa định
hướng nền kinh tế thị trường ở Việt Nam, Đảng và Nhà nước ta đã vạch ra
những nội dung chính như sau:
Thứ nhất, phát triển kinh tế thị trường phải nhằm góp phần thực hiện
mục tiêu phát triển đất nước là từng bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội, làm
cho dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Bằng phát triển kinh
tế thị trường hiện đại, từng bước tạo lập những cơ sở kinh tế kỹ thuật cần thiết
cho phát triển đất nước theo hướng hiện đại trong nhiều thập niên tới, trước
mắt là đến năm 2020 về cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện
đại, đến giữa thế kỷ này trở thành nước công nghiệp hiện đại.
30
Thứ hai, giải quyết tốt những mối quan hệ lớn trong quá trình thực hiện
mục tiêu phát triển đất nước ở từng giai đoạn quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đó
là quan hệ hài hòa giữa đổi mới, ổn định và phát triển đất nước; giữa đổi mới
kinh tế và đổi mới chính trị; giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; giữa giữ vững
độc lập, tự chủ trong phát triển và chủ động, tích cực hội nhập quốc tế, hợp
tác phát triển; giữa tuân thủ tính quy luật và coi trọng tính đặc thù quốc gia
trong phát triển kinh tế thị trường hiện đại, định hướng xã hội chủ nghĩa; giữa
tăng trưởng kinh tế và thực hiện phân bổ thành quả tăng trưởng bảo đảm tạo
động lực, công bằng và tiến bộ xã hội; giữa phát triển kinh tế và phát triển xã
hội, văn hóa, bảo vệ và làm giàu môi trường theo yêu cầu phát triển bền vững.
Thứ ba, bảo đảm, nâng cao hiệu lực và hiệu quả quản lý của Nhà nước
pháp quyền Việt Nam của dân, do dân và vì dân dưới sự lãnh đạo của Đảng
có bản lĩnh và trí tuệ đồng thời cũng là nhân tố quan trọng nhất để bảo đảm
định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam.
Để cụ thể hóa những nội dung nêu trên, trong những năm gần đây,
Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách hỗ trợ, khuyến khích doanh
nghiệp như:
Một là, các chính sách về tài chính và hỗ trợ tiếp cận nguồn vốn tín
dụng. Thời gian qua, Chính phủ đã thành công trong việc kiểm soát lạm phát,
đồng thời các ngân hàng đã giảm mạnh lãi suất cho vay, lãi suất đã xuống
tương đối thấp trong tương quan với mức lạm phát kỳ vọng đặc biệt là các
chương trình cho vay ưu đãi. Bên cạnh việc đơn giản hóa thủ tục và điều kiện
cho vay, Chính phủ còn khuyến khích thực hiện những hình thức cho vay
mới như: Cho vay theo các chuỗi sản xuất và cung ứng; mở rộng hình thức
cho vay tín chấp; cho vay theo dự án sản xuất kinh doanh chứ không chỉ dựa
vào tài sản thế chấp; khẩn trương đưa quỹ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa
vào hoạt động, phát triển các quỹ đầu tư mạo hiểm, quỹ tiên phong…
31
Hai là, các chính sách cải thiện môi trường đầu tư, chính sách đổi mới
nâng cao năng lực công nghệ và trình độ kỹ thuật, chính sách xúc tiến mở
rộng thị trường, chính sách tham gia các hoạt động mua sắm và cung ứng dịch
vụ công, chính sách về thông tin và tư vấn, chính sách trợ giúp phát triển
nguồn nhân lực, chính sách vườn ươm doanh nghiệp, chính sách giảm thuế...
Các chính sách này nhìn chung đã bao quát mọi mặt của đời sống doanh
nghiệp.
Ba là, định hướng xây dựng và hoàn thiện khung pháp lý cho doanh
nghiệp hoạt động, gồm các nội dung cơ bản sau:
- Thể chế hóa đường lối đổi mới và các chủ trương chính sách của Đảng
và Nhà nước về phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, coi các thành phần
kinh tế đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa; tiếp tục chính sách phát huy tối đa nội lực và chủ
động hội nhập kinh tế quốc tế.
- Duy trì, mở rộng và phát triển quyền tự do kinh doanh và cạnh tranh
bình đẳng của doanh nghiệp. Doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế có
quyền kinh doanh các ngành, nghề mà pháp luật không cấm; có quyền tự chủ
và phải tự chịu trách nhiệm trong hoạt động kinh doanh; các doanh nghiệp
được đối xử bình đẳng, không phân biệt tính chất sở hữu. Tiếp tục đơn giản
hóa và tạo thuận lợi hơn cho thành lập doanh nghiệp và tổ chức quản trị
doanh nghiệp.
- Đổi mới chức năng của Nhà nước trong kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa, coi việc khuyến khích, hướng dẫn và trợ giúp là chức năng
chính; coi nhà đầu tư và doanh nghiệp là đối tượng phục vụ, là đối tác bình
đẳng của cơ quan hành chính nhà nước. Tăng cường sự hợp tác và chia sẻ
thông tin giữa các cơ quan nhà nước nhằm giảm nghĩa vụ cung cấp thông tin
cho doanh nghiệp, đồng thời tăng hiệu lực quản lý nhà nước.
32
- Đảm bảo sự tương thích với những điều ước mà nước ta đã cam kết
trong các thỏa thuận đa phương và song phương, nhất là các nguyên tắc cơ
bản như đối xử quốc gia và tối huệ quốc. Đồng thời, góp phần xây dựng và
tiếp tục hoàn thiện môi trường kinh doanh bình đẳng, minh bạch, ổn định,
thông thoáng, đủ mức hấp dẫn và có sức cạnh tranh so với khu vực.
- Kế thừa và phát triển thêm những đổi mới và tiến bộ về thành lập, tổ
chức quản lý nội bộ của doanh nghiệp đã đạt được; đồng thời phải hoàn thiện
và phát triển hơn nữa theo các thông lệ tốt trên thế giới, phù hợp với việc hội
nhập thế giới. Tiếp tục đổi mới và hoàn thiện khung quản trị đối với doanh
nghiệp có sở hữu nhà nước đảm bảo quyền sở hữu vốn nhà nước được thực
hiện một cách chuyên nghiệp, tập trung, thống nhất và có hiệu quả.
- Việc ban hành các văn bản chính sách liên quan đến doanh nghiệp phải
được thực hiện theo hướng tạo những điều kiện thông thoáng nhất cho doanh
nghiệp hoạt động, như trong lĩnh vực đấu thầu, đất đai, thuế, đầu tư, phá sản
doanh nghiệp...
Bốn là, định hướng các cấp chính quyền, ngành chức năng cần quan
tâm đầu tư xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng đồng bộ, hiện đại; tích cực cải
cách thủ tục hành chính; thu hút nhiều nguồn vốn đầu tư; nâng cao chất lượng
giáo dục - đào tạo, cung cấp nhân lực cho doanh nghiệp; bảo đảm an toàn, an
ninh cho doanh nghiệp, tạo ra môi trường thông thoáng để các doanh nghiệp
hoạt động.
1.2.4.3. Chính sách hội nhập kinh tế quốc tế của Đảng và Nhà nước
Việt Nam bắt đầu chủ trương hội nhập kinh tế từ Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ VI (1986) của Đảng Cộng sản Việt Nam. Sau Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ VIII (1996), chủ trương này càng được đẩy mạnh, hội nhập
kinh tế của Việt Nam diễn ra càng ngày càng nhanh và càng sâu. Từ chỗ chỉ
33
hợp tác thương mại thông thường đã tiến tới hợp tác kinh tế toàn diện, từ chỗ
hợp tác song phương đã tiến tới hợp tác kinh tế đa phương.
Việt Nam hiện tham gia nhiều liên kết kinh tế ở cả ba cấp độ song
phương, khu vực và toàn cầu, là thành viên c ủa Liên hiệp quốc, Tổ chức
Thương mại Thế giới, Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á, Diễn đàn hợp tác
Á - Âu, Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á – Thái Bình Dương, Ngân hàng Thế
giới, Quỹ tiền tệ Thế giới, Ngân hàng phát triển Châu Á và nhiều tổ chức
quốc tế, khu vực khác. Trong đó việc gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới
với tiêu chuẩn WTO Plus nghĩa là chấp nhận các đòi hỏi về tự do hóa thương
mại (hàng hóa và dịch vụ), đầu tư, mua sắm của Chính phủ cao hơn so với
mức độ quy định trong các văn kiện có hiệu lực đang áp dụng của Tổ chức
Thương mại Thế giới.
Như vậy, khi một nền kinh tế tham gia tiến trình hội nhập kinh tế có
nghĩa là quốc gia đó đã chấp nhận xóa bỏ toàn bộ hay một phần các rào cản
thuế quan về thương mại, đầu tư trong phạm vi lãnh thổ quốc gia để hàng hóa,
dịch vụ, vốn đầu tư của nước ngoài có thể được dễ dàng trao đổi và thực hiện
tại nước mình. Theo lộ trình, Việt Nam phải từng bước mở cửa thị trường,
cho phép nhà đầu tư nước ngoài được kinh doanh, được thành lập công ty,
góp vốn, mua cổ phần của các công ty Việt Nam trong hầu hết các lĩnh vực
của nền kinh tế. Song song với lộ trình đó, hệ thống pháp luật Việt Nam nói
chung và pháp luật về doanh nghiệp nói riêng cần có những sửa đổi, hoàn
thiện, nội luật hóa để một mặt đảm bảo tương thích, thực thi các văn kiện,
công ước quốc tế đã ký kết; mặt khác dần từng bước nâng cao khả năng, sức
cạnh tranh của doanh nghiệp nội địa trước làn sóng nhà đầu tư nước ngoài
đang coi Việt Nam là một thị trường đầy thu hút và tiềm năng.
34
Tuy nhiên đi cùng với những thách thức, Việt Nam càng có điều kiện
tiếp thu những tri thức khoa học pháp lý về doanh nghiệp, do đó pháp luật
doanh nghiệp ngày càng khoa học và hiện đại hơn. Dưới đây là một số phân
tích để có thể thấy rõ những thay đổi trong nội dung xây dựng luật doanh
nghiệp Việt Nam để phù hợp với hội nhập kinh tế quốc tế:
- Theo Luật Doanh nghiệp năm 1999 thì hầu như người nước ngoài
không thể góp vốn, thành lập công ty và doanh nghiệp tư nhân vì rất hiếm khi
có người nước ngoài nào là “người nước ngoài thường trú tại Việt Nam”. Do
đó, tổ chức, cá nhân nước ngoài muốn thành lập doanh nghiệp tại Việt Nam
vẫn phải theo quy định của Luật Đầu tư nước ngoài, vì vậy, vẫn còn đó sự
phân biệt đối xử. Với việc ban hành Luật Doanh nghiệp năm 2005, pháp luật
Việt Nam đã mở rộng quyền góp vốn, thành lập công ty và doanh nghiệp tư
nhân tại Việt Nam cho các tổ chức, cá nhân nước ngoài. Đây là lần đầu tiên,
một đạo luật do Quốc hội ban hành đã khẳng định “tổ chức, cá nhân Việt
Nam, tổ chức, cá nhân nước ngoài có quyền thành lập và quản lý doanh
nghiệp tại Việt Nam” trừ trường hợp bị cấm với những quy định giống nhau
mà không quan tâm đến vấn đề quốc tịch. Như vậy, Luật Doanh nghiệp năm
2005 đã khẳng định quyền bình đẳng giữa nhà đầu tư trong nước và nhà đầu
tư nước ngoài trong việc thành lập, quản lý doanh nghiệp tại Việt Nam theo
những quy định chung thống nhất.
- Cuộc cải cách pháp luật về chủ thể kinh doanh cũng góp phần quan
trọng vào việc xây dựng các mô hình tổ chức kinh doanh có nhiều sự tương
đồng với pháp luật ở các nước phương Tây. Nói một cách khái quát, trên thế
giới có bốn mô hình kinh doanh cơ bản, phổ biến nhất là cơ sở kinh doanh
một chủ (sole proprietorship hay sole trader), hợp danh (partnership), công ty
trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần. Tại Việt Nam, mô hình công ty hợp
danh không có trong Luật Công ty năm 1990, nhưng đã xuất hiện trở lại sau
35
mấy thập kỷ vắng bóng trong Luật Doanh nghiệp năm 1999 sau những tranh
luận gay gắt cả bên trong và bên ngoài nghị trường Quốc hội và được khẳng
định rõ ràng hơn trong Luật Doanh nghiệp năm 2005 (20). Nếu như trong
Luật Doanh nghiệp năm 1999, công ty hợp danh được coi là tổ chức kinh tế
độc lập, có tên riêng, có vốn điều lệ nhưng Luật lại không quy định rõ nó có
là pháp nhân hay không thì tại Điều 130 của Luật Doanh nghiệp năm 2005 đã
tuyên bố rõ rằng, công ty hợp danh là pháp nhân.
Có thể khẳng định, tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế đã có những tác
động không nhỏ tới việc xây dựng nội dung pháp luật doanh nghiệp tại Việt
Nam. Ngay trong luận văn này, tôi cũng đã tham khảo cơ chế cải cách pháp
luật của Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế để đưa ra những đề xuất đối
với phương hướng hoàn thiện pháp luật doanh nghiệp nói riêng và cải cách hệ
thống pháp luật nói chung.
Qua những phân tích trên có thể thấy, với quan điểm xây dựng và phát
triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; thực hiện sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa, những năm gần đây Đảng và Nhà nước ta rất
quan tâm xây dựng và hoàn thiện pháp luật về doanh nghiệp. Việc ban hành
Luật Doanh nghiệp năm 2005 được xem như một bước phát triển quan trọng,
với những tư duy pháp lý mới trong xây dựng pháp luật về doanh nghiệp ở
Việt Nam. Tuy nhiên, đến nay hệ thống pháp luật hiện hành về doanh nghiệp
nói chung, Luật Doanh nghiệp năm 2005 nói riêng đã bộc lộ nhiều bất cập cả
về nội dung pháp lý và kỹ thuật lập pháp, vẫn chưa đạt được mức độ hoàn
thiện cần thiết, chưa đáp ứng được tốt các yêu cầu mà thực tiễn kinh doanh
đang đặt ra. Dưới đây tôi sẽ đi vào phân tích thực trạng pháp luật về doanh
nghiệp của Việt Nam để thấy rõ những bất cập nêu trên.
36
Chương 2
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ DOANH NGHIỆP CỦA VIỆT NAM
2.1. Thực trạng pháp luật về doanh nghiệp
2.1.1. Thực trạng pháp luật về thành lập và đăng ký doanh nghiệp
Về mặt lý luận, trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, việc thành lập doanh nghiệp được coi là quyền cơ bản của nhà đầu tư
song lại có ảnh hưởng không nhỏ đến lợi ích toàn xã hội. Vì vậy, trình tự
thành lập doanh nghiệp phải được tiến hành trong khuôn khổ của pháp luật.
Các quy định về thành lập doanh nghiệp không những phải đảm bảo quyền tự
do kinh doanh của nhà đầu tư mà còn phải đáp ứng nhu cầu của quản lý Nhà
nước đối với doanh nghiệp.
Trên thực tế, thủ tục thành lập doanh nghiệp có ý nghĩa xác lập tư cách
pháp lý cho doanh nghiệp. Cũng giống như quyền thành lập doanh nghiệp,
trước đây, thủ tục thành lập doanh nghiệp được quy định khác nhau tương
ứng với mỗi loại hình doanh nghiệp. Với vai trò là đạo luật áp dụng chung
cho tất cả các doanh nghiệp thuộc thành phần sở hữu khác nhau, Luật Doanh
nghiệp năm 2005 đã đưa ra những quy định nhằm thống nhất về thủ tục đăng
ký kinh doanh như sau:
Thứ nhất, tất cả các loại hình doanh nghiệp không phân biệt tính chất
sở hữu và thành phần kinh tế, nguồn gốc vốn đầu tư, doanh nghiệp nhà nước,
doanh nghiệp có vốn trong nước hay có vốn nước ngoài khi thành lập doanh
nghiệp đều tuân theo quy định của Điều 15 Luật Doanh nghiệp năm 2005. Từ
những ngày đầu ban hành, đây được xem là một trong những điểm mới cơ
bản của pháp luật về doanh nghiệp, chấm dứt quy trình phức tạp khi thành lập
doanh nghiệp nhà nước hay doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Biểu
hiện cụ thể của sự phức tạp đó là:
37
- Về quy trình thành lập mới công ty nhà nước, đầu tiên người có thẩm
quyền đề xuất thành lập phải lập đề án thành lập công ty nhà nước và hồ sơ
thành lập mới công ty nhà nước gửi cho người có thẩm quyền. Trước khi ra
quyết định thành lập mới công ty nhà nước, người có thẩm quyền phải lập hội
đồng thẩm định đề án thành lập mới công ty nhà nước. Hội đồng thẩm định
phải xem xét các điều kiện thành lập mới công ty nhà nước theo quy định của
Điều 8 Luật Doanh nghiệp nhà nước năm 2003. Trên cơ sở kết quả thẩm
định, người có quyền thành lập công ty nhà nước ra quyết định thành lập công
ty. Sau khi có quyết định thành lập, công ty phải đăng ký kinh doanh tại
phòng đăng ký kinh doanh cấp tỉnh nơi công ty có trụ sở chính. Cuối cùng,
khi có giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, công ty mới tiếp nhận vốn từ
ngân sách nhà nước hoặc huy động vốn để hoạt động kinh doanh. Như vậy,
với một quy trình phức tạp và có sự tham gia của rất nhiều tổ chức, cá nhân
có thẩm quyền, các nhà làm luật mong muốn đảm bảo chắc chắn an toàn cho
nguồn vốn từ ngân sách nhà nước. Song trên thực tế, các doanh nghiệp nhà
nước được thành lập với thủ tục rườm rà đó lại không đem lại hiệu quả như
mong muốn. Có thể nói, Luật Doanh nghiệp nhà nước năm 2003 quá chú
trọng ở khâu thành lập mà không có những quy định cụ thể và rõ ràng về vấn
đề quản lý vốn nhà nước cũng như kiểm tra, giám sát hoạt động của công ty.
Điều này không phù hợp với xu hướng cải cách thủ tục hành chính hiện nay
cũng như nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước. Do
đó, những quy định này được thay thế bằng những quy định hợp lý hơn là
một đòi hỏi tất yếu.
- Về quy trình thành lập doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, có thể
nói đó là quy trình phức tạp hơn nhiều so với quy trình thành lập doanh
nghiệp có vốn đầu tư trong nước. Trừ một số doanh nghiệp thoả mãn những
điều kiện nhất định được áp dụng thủ tục đăng ký cấp giấy phép đầu tư theo
quy định tại Điều 17 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đầu tư nước
38
ngoài tại Việt Nam ngày 22/06/2000 thì hầu hết doanh nghiệp có vốn nước
ngoài được thành lập thông qua thủ tục thẩm định cấp giấy phép đầu tư. Thủ
tục này đòi hỏi các nhà đầu tư mất rất nhiều thời gian và chi phí để xây dựng
hồ sơ xin cấp giấy phép đầu tư, nhất là xây dựng giải trình kinh tế kỹ thuật.
Với quy định bao gồm nhiều công đoạn như trên, pháp luật về doanh nghiệp
đã không đảm bảo nguyên tắc bình đẳng giữa nhà đầu tư trong và ngoài nước
ngay từ khâu thành lập doanh nghiệp.
Trong Luật Doanh nghiệp năm 2005, nhà làm luật đã quy định thủ tục
đăng ký kinh doanh áp dụng cho các loại hình doanh nghiệp tương tự như thủ
tục quy định trong Luật Doanh nghiệp năm 1999. Đó là quy trình, thủ tục thể
hiện một bước phát triển so với Luật Công ty và Luật Doanh nghiệp tư nhân
khi đã bãi bỏ thủ tục xin phép đầu tư thành lập doanh nghiệp gây rất nhiều
phiền hà cho nhà đầu tư. Theo đó, nhà đầu tư gửi hồ sơ đăng ký kinh doanh
đến các cơ quan có thẩm quyền là phòng đăng ký kinh doanh cấp tỉnh. Trong
hồ sơ còn phải có thêm văn bản xác nhận vốn pháp định của cơ quan, tổ chức
có thẩm quyền đối với doanh nghiệp kinh doanh ngành, nghề mà theo quy
định của pháp luật phải có vốn pháp định hoặc chứng chỉ hành nghề của giám
đốc và cá nhân khác đối với doanh nghiệp kinh doanh ngành, nghề mà theo
quy định của pháp luật phải có chứng chỉ hành nghề. Cơ quan đăng ký kinh
doanh sẽ dựa trên những điều kiện pháp luật quy định để xem xét việc cấp
giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh cho doanh nghiệp. Đồng thời, cơ quan
này sẽ chịu trách nhiệm về tính hợp lệ trong khi người thành lập doanh
nghiệp sẽ phải chịu trách nhiệm về tính chính xác, trung thực của hồ sơ đăng
ký kinh doanh. Người thành lập doanh nghiệp chỉ bị từ chối cấp giấy chứng
nhận kinh doanh trong trường hợp người đó không có đủ điều kiện theo luật
định. Trong trường hợp đó, cơ quan đăng ký kinh doanh sẽ phải gửi thông
báo bằng văn bản nêu rõ lý do từ chối cho người thành lập doanh nghiệp. Sau
khi được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, doanh nghiệp được ghi
39
tên vào sổ đăng ký kinh doanh và kể từ thời điểm đó, doanh nghiệp có tư cách
chủ thể kinh doanh và có quyền tiến hành các hoạt động kinh doanh. Tuy
nhiên, doanh nghiệp vẫn phải có nghĩa vụ công bố nội dung của giấy chứng
nhận đăng ký kinh doanh như là một khâu trong quy trình thành lập.
Như vậy, một cách tổng quát nhất, việc tiến hành thành lập doanh
nghiệp theo Luật Doanh nghiệp năm 2005 cũng bao gồm những bước cơ bản
như trên. Song Luật Doanh nghiệp năm 2005 đã rút ngắn thời hạn cơ quan
đăng ký kinh doanh phải xem xét hồ sơ để cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh
doanh cho nhà đầu tư từ 15 ngày xuống còn 10 ngày làm việc. Sự thay đổi
này đã đáp ứng được nhu cầu của các nhà đầu tư, bởi lẽ nếu phải chờ đợi quá
lâu, họ có thể sẽ đánh mất cơ hội kinh doanh. Đồng thời, Luật Doanh nghiệp
năm 2005 đã quy định rõ ràng và chi tiết hơn về hồ sơ đăng ký kinh doanh
cho từng loại hình doanh nghiệp. Một điểm mới nữa của Luật Doanh nghiệp
năm 2005 cũng rất có ý nghĩa trong việc đảm bảo cho nhà đầu tư có thể tiến
hành thành lập doanh nghiệp một cách thuận lợi hơn chính là việc mở rộng
hình thức công bố nội dung đăng ký kinh doanh. Theo đó, doanh nghiệp
không nhất thiết phải công bố theo hình thức “đăng báo địa phương hoặc báo
hàng ngày của trung ương trong ba số liên tiếp” mà còn có thể công bố đăng
ký kinh doanh bằng cách “đăng trên mạng thông tin doanh nghiệp của cơ
quan đăng ký kinh doanh hoặc một trong các loại tờ báo viết hoặc báo điện tử
trong ba số liên tiếp” về các nội dung chủ yếu của Giấy chứng nhận đăng ký
kinh doanh (Khoản 1 Điều 28 Luật Doanh nghiệp năm 2005).
Những quy định mới trên đây không những phù hợp với tình hình thực
tiễn trong thời đại công nghệ thông tin, làm giảm chi phí trong hoạt động
quản lý nhà nước, mà còn khuyến khích đầu tư, đóng góp tích cực vào tăng
trưởng kinh tế. Tuy nhiên, có ý kiến lại cho rằng, càng quy định dễ dàng
trong khâu đăng ký kinh doanh thì môi trường đầu tư càng bị ảnh hưởng xấu
Đề tài: Pháp luật về doanh nghiệp trong công nghiệp hóa, HAY
Đề tài: Pháp luật về doanh nghiệp trong công nghiệp hóa, HAY
Đề tài: Pháp luật về doanh nghiệp trong công nghiệp hóa, HAY
Đề tài: Pháp luật về doanh nghiệp trong công nghiệp hóa, HAY
Đề tài: Pháp luật về doanh nghiệp trong công nghiệp hóa, HAY
Đề tài: Pháp luật về doanh nghiệp trong công nghiệp hóa, HAY
Đề tài: Pháp luật về doanh nghiệp trong công nghiệp hóa, HAY
Đề tài: Pháp luật về doanh nghiệp trong công nghiệp hóa, HAY
Đề tài: Pháp luật về doanh nghiệp trong công nghiệp hóa, HAY
Đề tài: Pháp luật về doanh nghiệp trong công nghiệp hóa, HAY
Đề tài: Pháp luật về doanh nghiệp trong công nghiệp hóa, HAY
Đề tài: Pháp luật về doanh nghiệp trong công nghiệp hóa, HAY
Đề tài: Pháp luật về doanh nghiệp trong công nghiệp hóa, HAY
Đề tài: Pháp luật về doanh nghiệp trong công nghiệp hóa, HAY
Đề tài: Pháp luật về doanh nghiệp trong công nghiệp hóa, HAY
Đề tài: Pháp luật về doanh nghiệp trong công nghiệp hóa, HAY
Đề tài: Pháp luật về doanh nghiệp trong công nghiệp hóa, HAY
Đề tài: Pháp luật về doanh nghiệp trong công nghiệp hóa, HAY
Đề tài: Pháp luật về doanh nghiệp trong công nghiệp hóa, HAY
Đề tài: Pháp luật về doanh nghiệp trong công nghiệp hóa, HAY
Đề tài: Pháp luật về doanh nghiệp trong công nghiệp hóa, HAY
Đề tài: Pháp luật về doanh nghiệp trong công nghiệp hóa, HAY
Đề tài: Pháp luật về doanh nghiệp trong công nghiệp hóa, HAY
Đề tài: Pháp luật về doanh nghiệp trong công nghiệp hóa, HAY
Đề tài: Pháp luật về doanh nghiệp trong công nghiệp hóa, HAY
Đề tài: Pháp luật về doanh nghiệp trong công nghiệp hóa, HAY
Đề tài: Pháp luật về doanh nghiệp trong công nghiệp hóa, HAY
Đề tài: Pháp luật về doanh nghiệp trong công nghiệp hóa, HAY
Đề tài: Pháp luật về doanh nghiệp trong công nghiệp hóa, HAY
Đề tài: Pháp luật về doanh nghiệp trong công nghiệp hóa, HAY
Đề tài: Pháp luật về doanh nghiệp trong công nghiệp hóa, HAY
Đề tài: Pháp luật về doanh nghiệp trong công nghiệp hóa, HAY
Đề tài: Pháp luật về doanh nghiệp trong công nghiệp hóa, HAY
Đề tài: Pháp luật về doanh nghiệp trong công nghiệp hóa, HAY
Đề tài: Pháp luật về doanh nghiệp trong công nghiệp hóa, HAY
Đề tài: Pháp luật về doanh nghiệp trong công nghiệp hóa, HAY
Đề tài: Pháp luật về doanh nghiệp trong công nghiệp hóa, HAY
Đề tài: Pháp luật về doanh nghiệp trong công nghiệp hóa, HAY
Đề tài: Pháp luật về doanh nghiệp trong công nghiệp hóa, HAY
Đề tài: Pháp luật về doanh nghiệp trong công nghiệp hóa, HAY
Đề tài: Pháp luật về doanh nghiệp trong công nghiệp hóa, HAY
Đề tài: Pháp luật về doanh nghiệp trong công nghiệp hóa, HAY
Đề tài: Pháp luật về doanh nghiệp trong công nghiệp hóa, HAY
Đề tài: Pháp luật về doanh nghiệp trong công nghiệp hóa, HAY
Đề tài: Pháp luật về doanh nghiệp trong công nghiệp hóa, HAY
Đề tài: Pháp luật về doanh nghiệp trong công nghiệp hóa, HAY
Đề tài: Pháp luật về doanh nghiệp trong công nghiệp hóa, HAY
Đề tài: Pháp luật về doanh nghiệp trong công nghiệp hóa, HAY
Đề tài: Pháp luật về doanh nghiệp trong công nghiệp hóa, HAY
Đề tài: Pháp luật về doanh nghiệp trong công nghiệp hóa, HAY
Đề tài: Pháp luật về doanh nghiệp trong công nghiệp hóa, HAY
Đề tài: Pháp luật về doanh nghiệp trong công nghiệp hóa, HAY
Đề tài: Pháp luật về doanh nghiệp trong công nghiệp hóa, HAY

More Related Content

What's hot

Luận án: Pháp luật về công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên từ thực tiễn...
Luận án: Pháp luật về công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên từ thực tiễn...Luận án: Pháp luật về công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên từ thực tiễn...
Luận án: Pháp luật về công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên từ thực tiễn...Viết thuê trọn gói ZALO 0934573149
 
Pháp luật về công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên từ thực tiễn thành ph...
Pháp luật về công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên từ thực tiễn thành ph...Pháp luật về công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên từ thực tiễn thành ph...
Pháp luật về công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên từ thực tiễn thành ph...anh hieu
 

What's hot (17)

Luận văn: Pháp luật về tổ chức quản lý Doanh nghiệp nhà nước
Luận văn: Pháp luật về tổ chức quản lý Doanh nghiệp nhà nướcLuận văn: Pháp luật về tổ chức quản lý Doanh nghiệp nhà nước
Luận văn: Pháp luật về tổ chức quản lý Doanh nghiệp nhà nước
 
Luận án: Pháp luật về công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên từ thực tiễn...
Luận án: Pháp luật về công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên từ thực tiễn...Luận án: Pháp luật về công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên từ thực tiễn...
Luận án: Pháp luật về công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên từ thực tiễn...
 
Luận văn: Đăng ký kinh doanh theo Luật Doanh nghiệp 2014, 9đ
Luận văn: Đăng ký kinh doanh theo Luật Doanh nghiệp 2014, 9đLuận văn: Đăng ký kinh doanh theo Luật Doanh nghiệp 2014, 9đ
Luận văn: Đăng ký kinh doanh theo Luật Doanh nghiệp 2014, 9đ
 
Đăng ký thành lập doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, 9đ
Đăng ký thành lập doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, 9đĐăng ký thành lập doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, 9đ
Đăng ký thành lập doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, 9đ
 
Luận văn: Pháp luật về góp vốn thành lập công ty cổ phần, HAY
Luận văn: Pháp luật về góp vốn thành lập công ty cổ phần, HAYLuận văn: Pháp luật về góp vốn thành lập công ty cổ phần, HAY
Luận văn: Pháp luật về góp vốn thành lập công ty cổ phần, HAY
 
Luận văn: Chấm dứt Doanh nghiệp theo pháp luật Việt Nam, HAY
Luận văn: Chấm dứt Doanh nghiệp theo pháp luật Việt Nam, HAYLuận văn: Chấm dứt Doanh nghiệp theo pháp luật Việt Nam, HAY
Luận văn: Chấm dứt Doanh nghiệp theo pháp luật Việt Nam, HAY
 
Thủ tục thành lập doanh nghiệp trong ngành, nghề kinh doanh, HAY
Thủ tục thành lập doanh nghiệp trong ngành, nghề kinh doanh, HAYThủ tục thành lập doanh nghiệp trong ngành, nghề kinh doanh, HAY
Thủ tục thành lập doanh nghiệp trong ngành, nghề kinh doanh, HAY
 
Luận văn: Pháp luật về đăng ký kinh doanh cho doanh nghiệp
Luận văn: Pháp luật về đăng ký kinh doanh cho doanh nghiệpLuận văn: Pháp luật về đăng ký kinh doanh cho doanh nghiệp
Luận văn: Pháp luật về đăng ký kinh doanh cho doanh nghiệp
 
Địa vị pháp lý của công ty cổ phần trong nền kinh tế nhiều thành phần
Địa vị pháp lý của công ty cổ phần trong nền kinh tế nhiều thành phầnĐịa vị pháp lý của công ty cổ phần trong nền kinh tế nhiều thành phần
Địa vị pháp lý của công ty cổ phần trong nền kinh tế nhiều thành phần
 
Ưu đãi đầu tư đối với các doanh nghiệp trong các khu công nghiệp
Ưu đãi đầu tư đối với các doanh nghiệp trong các khu công nghiệpƯu đãi đầu tư đối với các doanh nghiệp trong các khu công nghiệp
Ưu đãi đầu tư đối với các doanh nghiệp trong các khu công nghiệp
 
Luận văn: Thủ tục đăng ký thành lập doanh nghiệp ở Việt Nam
Luận văn: Thủ tục đăng ký thành lập doanh nghiệp ở Việt NamLuận văn: Thủ tục đăng ký thành lập doanh nghiệp ở Việt Nam
Luận văn: Thủ tục đăng ký thành lập doanh nghiệp ở Việt Nam
 
Luận văn: Hoàn thiện pháp luật về quản trị công ty cổ phần, HOT
Luận văn: Hoàn thiện pháp luật về quản trị công ty cổ phần, HOTLuận văn: Hoàn thiện pháp luật về quản trị công ty cổ phần, HOT
Luận văn: Hoàn thiện pháp luật về quản trị công ty cổ phần, HOT
 
Pháp luật về công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên từ thực tiễn thành ph...
Pháp luật về công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên từ thực tiễn thành ph...Pháp luật về công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên từ thực tiễn thành ph...
Pháp luật về công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên từ thực tiễn thành ph...
 
Luận văn: Quyền lợi của cổ đông thiểu số theo luật doanh nghiệp
Luận văn: Quyền lợi của cổ đông thiểu số theo luật doanh nghiệpLuận văn: Quyền lợi của cổ đông thiểu số theo luật doanh nghiệp
Luận văn: Quyền lợi của cổ đông thiểu số theo luật doanh nghiệp
 
Luận văn: Pháp luật về tên thương mại của doanh nghiệp, HOT
Luận văn: Pháp luật về tên thương mại của doanh nghiệp, HOTLuận văn: Pháp luật về tên thương mại của doanh nghiệp, HOT
Luận văn: Pháp luật về tên thương mại của doanh nghiệp, HOT
 
Luận văn: Pháp luật về điều kiện và thủ tục thành lập doanh nghiệp
Luận văn: Pháp luật về điều kiện và thủ tục thành lập doanh nghiệpLuận văn: Pháp luật về điều kiện và thủ tục thành lập doanh nghiệp
Luận văn: Pháp luật về điều kiện và thủ tục thành lập doanh nghiệp
 
Luận văn: Pháp luật về công ty TNHH một thành viên tại Hà Nội
Luận văn: Pháp luật về công ty TNHH một thành viên tại Hà NộiLuận văn: Pháp luật về công ty TNHH một thành viên tại Hà Nội
Luận văn: Pháp luật về công ty TNHH một thành viên tại Hà Nội
 

Similar to Đề tài: Pháp luật về doanh nghiệp trong công nghiệp hóa, HAY

Chấm dứt doanh nghiệp theo pháp luật Việt Nam hiện nay.pdf
Chấm dứt doanh nghiệp theo pháp luật Việt Nam hiện nay.pdfChấm dứt doanh nghiệp theo pháp luật Việt Nam hiện nay.pdf
Chấm dứt doanh nghiệp theo pháp luật Việt Nam hiện nay.pdfHanaTiti
 
LUẬN VĂN PHÁP LUẬT VỀ CÔNG TY TRÁCH NHIỆM HỮU HẠN MỘT THÀNH VIÊN TỪ THỰC TIỄN...
LUẬN VĂN PHÁP LUẬT VỀ CÔNG TY TRÁCH NHIỆM HỮU HẠN MỘT THÀNH VIÊN TỪ THỰC TIỄN...LUẬN VĂN PHÁP LUẬT VỀ CÔNG TY TRÁCH NHIỆM HỮU HẠN MỘT THÀNH VIÊN TỪ THỰC TIỄN...
LUẬN VĂN PHÁP LUẬT VỀ CÔNG TY TRÁCH NHIỆM HỮU HẠN MỘT THÀNH VIÊN TỪ THỰC TIỄN...KhoTi1
 
Bảo đảm quyền tự do kinh doanh theo Luật doanh nghiệp năm 2014
Bảo đảm quyền tự do kinh doanh theo Luật doanh nghiệp năm 2014Bảo đảm quyền tự do kinh doanh theo Luật doanh nghiệp năm 2014
Bảo đảm quyền tự do kinh doanh theo Luật doanh nghiệp năm 2014Dịch vụ Làm Luận Văn 0936885877
 
Bài mẫu Tiểu luận Pháp luật Việt Nam về các loại hình doanh nghiệp
Bài mẫu Tiểu luận Pháp luật Việt Nam về các loại hình doanh nghiệpBài mẫu Tiểu luận Pháp luật Việt Nam về các loại hình doanh nghiệp
Bài mẫu Tiểu luận Pháp luật Việt Nam về các loại hình doanh nghiệpViết thuê báo cáo thực tập giá rẻ
 
Pháp luật về công ty TNHH một thành viên ở Việt Nam
Pháp luật về công ty TNHH một thành viên ở Việt NamPháp luật về công ty TNHH một thành viên ở Việt Nam
Pháp luật về công ty TNHH một thành viên ở Việt Namhieu anh
 
Pháp luật về công ty TNHH một thành viên ở Việt Nam
Pháp luật về công ty TNHH một thành viên ở Việt NamPháp luật về công ty TNHH một thành viên ở Việt Nam
Pháp luật về công ty TNHH một thành viên ở Việt Namhieu anh
 

Similar to Đề tài: Pháp luật về doanh nghiệp trong công nghiệp hóa, HAY (20)

Các Biện Pháp Bảo Đảm Thực Hiện Quyền Tự Do Kinh Doanh Theo Quy Định Của Pháp...
Các Biện Pháp Bảo Đảm Thực Hiện Quyền Tự Do Kinh Doanh Theo Quy Định Của Pháp...Các Biện Pháp Bảo Đảm Thực Hiện Quyền Tự Do Kinh Doanh Theo Quy Định Của Pháp...
Các Biện Pháp Bảo Đảm Thực Hiện Quyền Tự Do Kinh Doanh Theo Quy Định Của Pháp...
 
Chấm dứt doanh nghiệp theo pháp luật Việt Nam hiện nay.pdf
Chấm dứt doanh nghiệp theo pháp luật Việt Nam hiện nay.pdfChấm dứt doanh nghiệp theo pháp luật Việt Nam hiện nay.pdf
Chấm dứt doanh nghiệp theo pháp luật Việt Nam hiện nay.pdf
 
Luận văn: Pháp luật về công ty TNHH tại thành phố Hà Nội, HAY
Luận văn: Pháp luật về công ty TNHH tại thành phố Hà Nội, HAYLuận văn: Pháp luật về công ty TNHH tại thành phố Hà Nội, HAY
Luận văn: Pháp luật về công ty TNHH tại thành phố Hà Nội, HAY
 
LUẬN VĂN PHÁP LUẬT VỀ CÔNG TY TRÁCH NHIỆM HỮU HẠN MỘT THÀNH VIÊN TỪ THỰC TIỄN...
LUẬN VĂN PHÁP LUẬT VỀ CÔNG TY TRÁCH NHIỆM HỮU HẠN MỘT THÀNH VIÊN TỪ THỰC TIỄN...LUẬN VĂN PHÁP LUẬT VỀ CÔNG TY TRÁCH NHIỆM HỮU HẠN MỘT THÀNH VIÊN TỪ THỰC TIỄN...
LUẬN VĂN PHÁP LUẬT VỀ CÔNG TY TRÁCH NHIỆM HỮU HẠN MỘT THÀNH VIÊN TỪ THỰC TIỄN...
 
Luận văn: Bảo đảm quyền tự do kinh doanh theo Luật doanh nghiệp
Luận văn: Bảo đảm quyền tự do kinh doanh theo Luật doanh nghiệpLuận văn: Bảo đảm quyền tự do kinh doanh theo Luật doanh nghiệp
Luận văn: Bảo đảm quyền tự do kinh doanh theo Luật doanh nghiệp
 
Bảo đảm quyền tự do kinh doanh theo Luật doanh nghiệp năm 2014
Bảo đảm quyền tự do kinh doanh theo Luật doanh nghiệp năm 2014Bảo đảm quyền tự do kinh doanh theo Luật doanh nghiệp năm 2014
Bảo đảm quyền tự do kinh doanh theo Luật doanh nghiệp năm 2014
 
Bài mẫu Tiểu luận Pháp luật Việt Nam về các loại hình doanh nghiệp
Bài mẫu Tiểu luận Pháp luật Việt Nam về các loại hình doanh nghiệpBài mẫu Tiểu luận Pháp luật Việt Nam về các loại hình doanh nghiệp
Bài mẫu Tiểu luận Pháp luật Việt Nam về các loại hình doanh nghiệp
 
Luận văn: Doanh nghiệp xã hội theo pháp luật Việt Nam, HAY
Luận văn: Doanh nghiệp xã hội theo pháp luật Việt Nam, HAYLuận văn: Doanh nghiệp xã hội theo pháp luật Việt Nam, HAY
Luận văn: Doanh nghiệp xã hội theo pháp luật Việt Nam, HAY
 
Quyền tự do kinh doanh của doanh nghiệp theo pháp luật Việt Nam.docx
Quyền tự do kinh doanh của doanh nghiệp theo pháp luật Việt Nam.docxQuyền tự do kinh doanh của doanh nghiệp theo pháp luật Việt Nam.docx
Quyền tự do kinh doanh của doanh nghiệp theo pháp luật Việt Nam.docx
 
Chế định Ban kiểm soát của công ty theo Luật Doanh nghiệp, HOT
Chế định Ban kiểm soát của công ty theo Luật Doanh nghiệp, HOTChế định Ban kiểm soát của công ty theo Luật Doanh nghiệp, HOT
Chế định Ban kiểm soát của công ty theo Luật Doanh nghiệp, HOT
 
Luận văn: Giáo dục pháp luật trong các doanh nghiệp, HOT
Luận văn: Giáo dục pháp luật trong các doanh nghiệp, HOTLuận văn: Giáo dục pháp luật trong các doanh nghiệp, HOT
Luận văn: Giáo dục pháp luật trong các doanh nghiệp, HOT
 
PHÁP LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG CỦA CÔNG TY TÀI CHÍNH Ở VIỆT NAM 
PHÁP LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG CỦA CÔNG TY TÀI CHÍNH Ở VIỆT NAM PHÁP LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG CỦA CÔNG TY TÀI CHÍNH Ở VIỆT NAM 
PHÁP LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG CỦA CÔNG TY TÀI CHÍNH Ở VIỆT NAM 
 
Quản trị Công ty cổ phần theo mô hình không có Ban kiểm soát, HOT
Quản trị Công ty cổ phần theo mô hình không có Ban kiểm soát, HOTQuản trị Công ty cổ phần theo mô hình không có Ban kiểm soát, HOT
Quản trị Công ty cổ phần theo mô hình không có Ban kiểm soát, HOT
 
Hoạt động về tư vấn hoàn thành doanh nghiệp tại văn phòng luật sư ...
Hoạt động về tư vấn hoàn thành doanh nghiệp tại văn phòng luật sư  ...Hoạt động về tư vấn hoàn thành doanh nghiệp tại văn phòng luật sư  ...
Hoạt động về tư vấn hoàn thành doanh nghiệp tại văn phòng luật sư ...
 
Luận văn: Thủ tục phục hồi trong pháp luật phá sản ở Việt Nam
Luận văn: Thủ tục phục hồi trong pháp luật phá sản ở Việt NamLuận văn: Thủ tục phục hồi trong pháp luật phá sản ở Việt Nam
Luận văn: Thủ tục phục hồi trong pháp luật phá sản ở Việt Nam
 
Pháp luật về công ty TNHH một thành viên ở Việt Nam
Pháp luật về công ty TNHH một thành viên ở Việt NamPháp luật về công ty TNHH một thành viên ở Việt Nam
Pháp luật về công ty TNHH một thành viên ở Việt Nam
 
Pháp luật về công ty TNHH một thành viên ở Việt Nam
Pháp luật về công ty TNHH một thành viên ở Việt NamPháp luật về công ty TNHH một thành viên ở Việt Nam
Pháp luật về công ty TNHH một thành viên ở Việt Nam
 
Đề tài: Pháp luật về công ty TNHH một thành viên ở Việt Nam, HAY
Đề tài: Pháp luật về công ty TNHH một thành viên ở Việt Nam, HAYĐề tài: Pháp luật về công ty TNHH một thành viên ở Việt Nam, HAY
Đề tài: Pháp luật về công ty TNHH một thành viên ở Việt Nam, HAY
 
Luận văn thạc sĩ - Bảo vệ quyền tự do kinh doanh theo pháp luật Việt Nam.doc
Luận văn thạc sĩ - Bảo vệ quyền tự do kinh doanh theo pháp luật Việt Nam.docLuận văn thạc sĩ - Bảo vệ quyền tự do kinh doanh theo pháp luật Việt Nam.doc
Luận văn thạc sĩ - Bảo vệ quyền tự do kinh doanh theo pháp luật Việt Nam.doc
 
BÀI MẪU Khóa luận tốt nghiệp tổ chức quản lý, HAY, 9 ĐIỂM
BÀI MẪU Khóa luận tốt nghiệp tổ chức quản lý, HAY, 9 ĐIỂMBÀI MẪU Khóa luận tốt nghiệp tổ chức quản lý, HAY, 9 ĐIỂM
BÀI MẪU Khóa luận tốt nghiệp tổ chức quản lý, HAY, 9 ĐIỂM
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864

Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864 (20)

200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
 
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
 
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhuadanh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
 
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay NhấtKinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
 
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểmKho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại họcKho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
 
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tửKho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểmKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu HọcKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhấtKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểmKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin HọcKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập KhẩuKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
 

Recently uploaded

GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfhoangtuansinh1
 
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
sách sinh học đại cương   -   Textbook.pdfsách sinh học đại cương   -   Textbook.pdf
sách sinh học đại cương - Textbook.pdfTrnHoa46
 
PHÁT TRIỂN DU LỊCH BỀN VỮNG Ở TUYÊN QUANG
PHÁT TRIỂN DU LỊCH BỀN VỮNG Ở TUYÊN QUANGPHÁT TRIỂN DU LỊCH BỀN VỮNG Ở TUYÊN QUANG
PHÁT TRIỂN DU LỊCH BỀN VỮNG Ở TUYÊN QUANGhoinnhgtctat
 
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdfchuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdfVyTng986513
 
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...Nguyen Thanh Tu Collection
 
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIGIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIĐiện Lạnh Bách Khoa Hà Nội
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoáCác điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoámyvh40253
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................TrnHoa46
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfCampbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfTrnHoa46
 
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptx
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptxpowerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptx
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptxAnAn97022
 
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIĐiện Lạnh Bách Khoa Hà Nội
 
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docxTHAO316680
 

Recently uploaded (20)

GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
 
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
sách sinh học đại cương   -   Textbook.pdfsách sinh học đại cương   -   Textbook.pdf
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
 
PHÁT TRIỂN DU LỊCH BỀN VỮNG Ở TUYÊN QUANG
PHÁT TRIỂN DU LỊCH BỀN VỮNG Ở TUYÊN QUANGPHÁT TRIỂN DU LỊCH BỀN VỮNG Ở TUYÊN QUANG
PHÁT TRIỂN DU LỊCH BỀN VỮNG Ở TUYÊN QUANG
 
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdfchuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
 
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
 
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIGIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
 
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoáCác điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
 
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfCampbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
 
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptx
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptxpowerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptx
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptx
 
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
 
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
 

Đề tài: Pháp luật về doanh nghiệp trong công nghiệp hóa, HAY

  • 1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN THỊ THANH HÕA HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ DOANH NGHIỆP PHỤC VỤ SỰ NGHIỆP CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA ĐẤT NƯỚC LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI – 2014
  • 2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN THỊ THANH HÕA HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ DOANH NGHIỆP PHỤC VỤ SỰ NGHIỆP CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA ĐẤT NƯỚC Chuyên ngành : Luật Kinh tế Mã số : 60 38 50 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS Dương Đăng Huệ HÀ NỘI – 2014
  • 3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƯỜI CAM ĐOAN Nguyễn Thị Thanh Hòa
  • 4. MỤC LỤC Trang Lời cam đoan....................................................................................................... Mục lục................................................................................................................ Danh mục các bảng ............................................................................................. MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ DOANH NGHIỆP VÀ PHÁP LUẬT VỀ DOANH NGHIỆP...................................................... 4 1.1. Lý luận về doanh nghiệp ...................................................................... 4 1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của doanh nghiệp ..................................... 4 1.1.2. Vị trí và vai trò của doanh nghiệp................................................ 11 1.1.3. Các loại hình doanh nghiệp ở Việt Nam...................................... 14 1.2. Lý luận về pháp luật về doanh nghiệp................................................ 17 1.2.1. Khái niệm pháp luật về doanh nghiệp.......................................... 17 1.2.2. Vai trò của pháp luật về doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường ...................................................................................................... 19 1.2.3. Nội dung pháp luật về doanh nghiệp ........................................... 21 1.2.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến việc xây dựng nội dung pháp luật về doanh nghiệp............................................................................................. 24 Chương 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ DOANH NGHIỆP CỦA VIỆT NAM..................................................................................................... 36 2.1. Thực trạng pháp luật về doanh nghiệp ............................................... 36 2.1.1. Thực trạng pháp luật về thành lập và đăng ký doanh nghiệp ...... 36
  • 5. 2.1.2. Thực trạng pháp luật về cơ cấu tổ chức và quản trị doanh nghiệp ............................................................................................... 45 2.1.3. Thực trạng pháp luật về tổ chức lại, giải thể doanh nghiệp......... 55 2.2. Nhận xét chung về thực trạng pháp luật về doanh nghiệp ................. 61 2.2.1. Ưu điểm........................................................................................ 61 2.2.2. Khuyết điểm................................................................................. 63 Chương 3. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ DOANH NGHIỆP................................................................................... 66 3.1. Yêu cầu hoàn thiện ............................................................................. 66 3.2. Phương hướng hoàn thiện................................................................... 69 3.3. Giải pháp cụ thể.................................................................................. 72 3.3.1. Kiến nghị hoàn thiện quy định về các loại hình doanh nghiệp.... 72 3.3.2. Kiến nghị hoàn thiện quy định về thành lập và đăng ký doanh nghiệp ...................................................................................................... 75 3.3.3. Kiến nghị hoàn thiện quy định về cơ cấu tổ chức và quản trị doanh nghiệp............................................................................................. 77 3.3.4. Kiến nghị hoàn thiện quy định về tổ chức lại, giải thể doanh nghiệp ...................................................................................................... 81 3.3.5. Một số kiến nghị khác.................................................................. 83 KẾT LUẬN.................................................................................................... 89 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO..................................................... 90
  • 6. DANH MụC CÁC BảNG Bảng 2.1: Bảng so sánh yêu cầu tỷ lệ biểu quyết thông qua quyết định trong công ty của một số nước……………………………………………………53
  • 7. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là một cuộc cải biến cách mạng từ nền kinh tế nông nghiệp trở thành nền kinh tế với công nghiệp là chủ đạo, đồng thời đó cũng là cuộc cải biến cách mạng trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Để triển khai thuận lợi và thực hiện thành công sự nghiệp này đòi hỏi phải có những tiền đề cần thiết, trong đó việc mở rộng quy mô huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn là một trong những điều kiện quan trọng để công nghiệp hoá, hiện đại hoá thành công. Vốn để công nghiệp hoá, hiện đại hoá có hai nguồn: nguồn vốn trong nước và nguồn vốn ngoài nước. Nguồn vốn trong nước được tích lũy từ nội bộ nền kinh tế quốc dân dựa trên cơ sở hiệu quả sản xuất, là lao động thặng dư của người lao động thuộc tất cả các thành phần kinh tế. Trong đó hiện nay doanh nghiệp là nhân tố đặc biệt quan trọng thúc đẩy tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế; là bộ phận chủ yếu tạo ra tổng sản phẩm trong nước; là đơn vị sản xuất hàng hoá, dịch vụ đáp ứng nhu cầu chủ yếu của toàn xã hội. Mặt khác, một trong những mục tiêu quan trọng của công nghiệp hóa, hiện đại hóa là phân bổ tốt nguồn vốn, nguồn lao động, nguồn tài nguyên vào nơi đem lại nhiều nhất lợi nhuận và giá trị thặng dư cho xã hội. Nhiều số liệu thực tế đã chứng minh, trên cùng một đơn vị vốn, lao động và tài nguyên thì doanh nghiệp là bộ phận đem lại giá trị thặng dư cao nhất. Hiện nay, đầu tư thành lập doanh nghiệp đang là xu hướng chung của tổ chức, cá nhân trong mọi nền kinh tế. Để điều chỉnh hoạt động của doanh nghiệp, Nhà nước đã ban hành Luật Doanh nghiệp năm 2005 và hàng loạt nghị định hướng dẫn thi hành. Những văn bản này đã có những tác động tích cực trong việc tạo lập môi trường kinh doanh thuận lợi, bình đẳng; thúc đẩy huy động vốn, phát triển và mở rộng kinh doanh của các doanh nghiệp; góp phần gia tăng tốc độ tăng trưởng và giải quyết các vấn đề xã hội. Tuy vậy, thực tế cũng cho thấy, việc triển khai thực hiện Luật Doanh nghiệp trong 8
  • 8. 2 năm qua đã gây ra không ít vướng mắc, hạn chế đối với yêu cầu hoàn thiện và nâng cao chất lượng môi trường kinh doanh nói chung và phát triển doanh nghiệp nói riêng; đã ghi nhận rất nhiều bất cập khi các quy định trong luật còn chưa rõ ràng, chồng chéo và không đáp ứng kịp thời với sự biến đổi của nền kinh tế, sự chuyển đổi của các cơ chế quản lý nhà nước và nhu cầu phát triển nhanh, mạnh của cộng đồng doanh nghiệp. Xuất phát từ những bất cập nêu trên, đồng thời ý thức được Luật Doanh nghiệp là một đạo luật có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với việc đầu tư vốn thành lập doanh nghiệp và quyền tự do kinh doanh của công dân đã được Hiến pháp ghi nhận, tôi đã chọn đề tài “Hoàn thiện pháp luật về doanh nghiệp phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” để nghiên cứu cho luận văn thạc sĩ của mình. Từ nghiên cứu này sẽ tổng kết, đánh giá những ưu nhược điểm, các tồn tại, hạn chế, bất cập của Luật Doanh nghiệp năm 2005. Quan trọng hơn, tôi mong muốn sẽ đề xuất được những kiến nghị hữu ích đối với việc sửa đổi, hoàn thiện Luật Doanh nghiệp năm 2005, đáp ứng mục tiêu tạo lập môi trường kinh doanh cạnh tranh, thông thoáng, bình đẳng, làm động lực cho việc thu hút các nguồn lực trong nước cũng như nước ngoài, góp phần thúc đẩy các loại hình doanh nghiệp phát triển toàn diện, tự do có trật tự; huy động được ngày càng nhiều vốn đầu tư vào sản xuất, kinh doanh, khuyến khích mọi công dân làm giàu cho mình và cho đất nước. 2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các nội dung, quy định về bản chất pháp lý của các loại hình doanh nghiệp; về thành lập doanh nghiệp và đăng ký kinh doanh; về tổ chức quản lý doanh nghiệp; về cấu trúc vốn của doanh nghiệp; về tổ chức lại, giải thể, phá sản doanh nghiệp. Phạm vi nghiên cứu của đề tài là Luật Doanh nghiệp năm 2005 và các văn bản hướng dẫn thi hành.
  • 9. 3 3. Mục tiêu nghiên cứu Mục tiêu nghiên cứu của đề tài là trên cơ sở những vấn đề lý luận về doanh nghiệp và pháp luật về doanh nghiệp; phân tích những nội dung cơ bản của pháp luật Việt Nam về doanh nghiệp nói chung và từng loại hình doanh nghiệp nói riêng, từ đó đưa ra những ưu, nhược điểm của pháp luật Việt Nam về vấn đề này; đề xuất những quan điểm cá nhân về định hướng và những giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về doanh nghiệp để pháp luật này trở thành công cụ hỗ trợ đắc lực phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay tại Việt Nam. 4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu Luận văn dựa trên phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác – Lênin; tư tưởng Hồ Chí Minh về pháp luật; các quan điểm, đường lối của Đảng cộng sản Việt Nam, Nhà nước về chính trị, kinh tế, văn hóa và xã hội nói chung; về vị trí, vai trò của doanh nghiệp vàpháp luật doanh nghiệp nói riêng. Luận văn đã kết hợp sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu khoa học khác nhau, như phương pháp tổng hợp và phân tích; phương pháp thống kê; phương pháp so sánh và đối chiếu; kết hợp nghiên cứu lý luận với thực tiễn... Các phương pháp nghiên cứu này được thực hiện trên nền tảng của phương pháp duy vật lịch sử, duy vật biện chứng. 5. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được kết cấu gồm 3 chương: Chương 1: Những vấn đề lý luận chung về doanh nghiệp và pháp luật về doanh nghiệp Chương 2: Thực trạng pháp luật về doanh nghiệp của Việt Nam Chương 3: Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về doanh nghiệp
  • 10. 4 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ DOANH NGHIỆP VÀ PHÁP LUẬT VỀ DOANH NGHIỆP 1.1. Lý luận về doanh nghiệp 1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của doanh nghiệp Sự hình thành các doanh nghiệp là quy luật tất yếu khách quan của nền kinh tế. Sản xuất hàng hoá khi phát triển đến một mức độ nhất định sẽ tất yếu nảy sinh nhu cầu mở rộng kinh doanh. Chính nhu cầu về vốn và nhu cầu chia sẻ rủi ro đã thúc đẩy các nhà đầu tư liên kết lại với nhau, tổ chức theo một cấu trúc nhất định để tiến hành sản xuất kinh doanh. Nhưng không chỉ là quy luật khách quan của nền kinh tế, sự hình thành và phát triển của các doanh nghiệp còn bị tác động bởi yếu tố chủ quan, tuỳ thuộc vào điều kiện chính trị - xã hội khác nhau trong từng thời kỳ lịch sử. Theo đó, khái niệm doanh nghiệp, tương ứng với mỗi giai đoạn, mỗi quốc gia, mỗi khu vực lại có những cách hiểu không đồng nhất. Hiện nay, trong điều kiện đất nước ta đang tiến vào thời kỳ hội nhập, với ý nghĩa tạo tiền đề lý luận cho việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật về doanh nghiệp, quan điểm về doanh nghiệp cần được tiếp cận phù hợp với xu hướng phổ biến, đáp ứng đòi hỏi của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Để thống nhất cách hiểu về doanh nghiệp, chúng ta cần xem xét khái niệm doanh nghiệp từ hai góc độ: kinh tế - xã hội và pháp lý, gắn với những yếu tố của nền kinh tế thị trường. Dưới góc độ kinh tế - xã hội, các doanh nghiệp được coi là thành tố cơ bản của hệ thống kinh tế - xã hội, tuy nhiên dưới góc độ này khái niệm doanh nghiệp cũng được hiểu theo nhiều cách khác nhau. Trong tiếng Anh, theo từ điển Black’ law dictionary “doanh nghiệp (Enterprise)” có nghĩa là hoạt động
  • 11. 5 kinh doanh”. Như vậy, cách hiểu này mới chỉ đề cập đến khía cạnh thương mại của doanh nghiệp chứ chưa thực sự nhìn nhận bản chất của doanh nghiệp dưới góc độ là những thực thể kinh tế - xã hội độc lập mà ở đó hoạt động kinh doanh chỉ là chức năng đầu tiên và chủ yếu. Từ điển Tiếng Việt định nghĩa “doanh nghiệp là một hình thức tổ chức kinh tế làm công việc kinh doanh”. Theo đó, xét về mặt bản chất, doanh nghiệp là một loại hình tổ chức nên mang những đặc điểm chung như bao gồm nhiều thành viên, có một cấu trúc rõ ràng để các thành viên thực hiện phần việc của mình. Có thể nói, đặc trưng riêng có của doanh nghiệp, phân biệt doanh nghiệp với các đơn vị khác như cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội, trường học, bệnh viện... chính là mục tiêu mà doanh nghiệp luôn hướng tới: lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh. Theo đó, kinh doanh là một phạm trù gắn liền với sản xuất hàng hoá, là tổng thể các hình thức, phương pháp, biện pháp nhằm tổ chức các hoạt động kinh tế, phản ánh mối quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất, phân phối, trao đổi, tiêu dùng của cải vật chất xã hội nhằm thu về một giá trị lớn hơn giá trị đã bỏ ra ban đầu [8]. Như vậy, dưới góc độ kinh tế - xã hội, doanh nghiệp được tổ chức theo một cấu trúc nhất định để sử dụng vốn, bộ máy quản lý, lực lượng lao động nhằm thu lợi nhuận sau một thời gian hoạt động. Với cách hiểu trên đây, khái niệm doanh nghiệp ở Việt Nam không đồng nghĩa với khái niệm chủ thể kinh doanh theo quan niệm phổ biến ở nhiều nước trên thế giới, coi doanh nghiệp là chủ thể pháp luật bao gồm cả cá nhân và tổ chức. Theo đó, doanh nghiệp ở Việt Nam chỉ là một trong rất nhiều chủ thể kinh doanh được pháp luật ghi nhận để điều chỉnh. Có thể khẳng định rằng, với những đặc điểm nêu trên, doanh nghiệp chỉ thực sự phát huy lợi thế trong nền kinh tế thị trường. Theo kinh nghiệm phát
  • 12. 6 triển kinh tế của Việt Nam trước đây, trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung, các doanh nghiệp chịu ảnh hưởng nhiều từ phía Nhà nước về nguồn vốn cũng như mục tiêu, kế hoạch sản xuất, kinh doanh. Với mô hình này, Nhà nước chứ không phải là các doanh nghiệp đóng vai trò trung tâm của nền kinh tế. Bước sang nền kinh tế thị trường, doanh nghiệp chủ yếu hoạt động theo những quy luật kinh tế cơ bản (quy luật cạnh tranh, quy luật giá trị, quy luật cung - cầu) nên tất yếu có quyền tự chủ rất cao. Xuất phát từ mục tiêu xây dựng một nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, ở Việt Nam hiện nay, khái niệm doanh nghiệp và các yếu tố ảnh hưởng đến việc thành lập, hoạt động của doanh nghiệp không những bị chi phối bởi những quy luật của nền kinh tế thị trường mà còn bị chi phối bởi định hướng xây dựng xã hội chủ nghĩa. Dưới góc độ pháp lý, khái niệm doanh nghiệp được pháp luật nhìn nhận với những đặc trưng riêng. Theo Luật Công ty năm 1990 thì doanh nghiệp được định nghĩa là “một đơn vị kinh doanh được thành lập nhằm mục đích chủ yếu là thực hiện các hoạt động kinh doanh”. Khái niệm này có nội hàm khá rộng, theo đó tất cả những đơn vị kinh doanh có hoạt động kinh doanh sẽ được công nhận là doanh nghiệp. Tuy nhiên, khái niệm trong Luật Công ty năm 1990 chưa thể hiện được những đặc điểm pháp lý của doanh nghiệp. Đến khi Luật Doanh nghiệp năm 1999 và Luật Doanh nghiệp năm 2005 được ban hành, các nhà làm luật đã đưa ra khái niệm doanh nghiệp một cách cụ thể và đầy đủ hơn “Doanh nghiệp là một tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh” (Khoản 1 Điều 4 Luật Doanh nghiệp năm 2005). Trong khuôn khổ luận văn này, tôi sẽ nghiên cứu doanh nghiệp dưới góc độ pháp lý với những đặc điểm pháp lý cơ bản sau:
  • 13. 7 Thứ nhất, doanh nghiệp là một loại chủ thể pháp luật. Có thể nói, việc pháp luật công nhận hay không công nhận tư cách chủ thể pháp luật cho tổ chức, cá nhân có ý nghĩa vô cùng to lớn, là cơ sở để tổ chức, cá nhân đó tiến hành mọi hoạt động nhân danh mình, đồng thời được pháp luật bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp. Tư cách chủ thể pháp lý độc lập của doanh nghiệp cho phép doanh nghiệp có quyền tự chủ, đồng thời phải tự chịu trách nhiệm trong việc tổ chức hoạt động. Trách nhiệm pháp lý cơ bản của doanh nghiệp về hoạt động kinh doanh thể hiện ở chỗ doanh nghiệp phải chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình, thậm chí vượt ra khỏi phạm vi những tài sản đó về những cam kết tài chính, nợ nần trong kinh doanh... Trước đây, pháp luật về doanh nghiệp đã công nhận tư cách chủ thể của doanh nghiệp nhà nước; công ty trách nhiệm hữu hạn; công ty cổ phần; công ty hợp danh; doanh nghiệp tư nhân; doanh nghiệp liên doanh; doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài. Sau này, khi thống nhất các loại hình doanh nghiệp theo Luật Doanh nghiệp năm 2005, pháp luật chỉ công nhận tư cách chủ thể cho bốn loại hình doanh nghiệp: công ty trách nhiệm hữu hạn; công ty cổ phần; công ty hợp danh và doanh nghiệp tư nhân. Dù thuộc bất kỳ thành phần kinh tế nào thì khi thành lập doanh nghiệp, các nhà đầu tư cũng chỉ được thành lập một trong bốn loại hình doanh nghiệp đó. Kết quả là khái niệm doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp liên doanh, doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài đã được thay thế bằng những khái niệm chính xác hơn như doanh nghiệp có vốn nhà nước hay doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Đây là tên gọi chung cho các doanh nghiệp được tổ chức theo một trong bốn hình thức nêu trên mà Nhà nước hoặc tổ chức, cá nhân nước ngoài bỏ vốn thành lập. Bên cạnh đó, khi nói đến doanh nghiệp, có một loại chủ thể luôn được đề cập đến với hai quan điểm khác nhau về bản chất và tư cách chủ thể - đó chính là hợp tác xã.
  • 14. 8 Quan điểm thứ nhất cho rằng, hợp tác xã là một loại hình doanh nghiệp. Quan điểm này giải thích lý do là: Hợp tác xã có tổ chức rõ ràng, có bộ máy điều hành gồm hội đồng xã viên, ban quản trị hợp tác xã, ban kiểm soát; đồng thời cũng có quy định về góp vốn và cơ chế huy động vốn tương tự như doanh nghiệp. Vì vậy, hợp tác xã phải là một loại hình doanh nghiệp được điều chỉnh bằng luật riêng - Luật Hợp tác xã, cũng giống như doanh nghiệp nhà nước được quy định trong Luật Doanh nghiệp nhà nước năm 2003; công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty hợp danh, doanh nghiệp tư nhân được quy định trong Luật Doanh nghiệp năm 1999 hay doanh nghiệp liên doanh, doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài được quy định trong Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam [6]. Quan điểm thứ hai cho rằng, hợp tác xã không phải là một loại hình doanh nghiệp. Quan điểm này giải thích lý do là: Hợp tác xã có những nét tương đồng với doanh nghiệp là vì “Hợp tác xã hoạt động như một loại hình doanh nghiệp” nhưng điểm khác nhau cơ bản giữa hợp tác xã và doanh nghiệp chính là yếu tố tự nguyện trong việc tham gia hay rút khỏi hợp tác xã và tính xã hội, tương trợ cộng đồng rất cao của xã viên. Trong công ty, những điều kiện ràng buộc giữa các thành viên công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty hợp danh với nhau và giữa các thành viên với công ty liên quan đến việc chuyển nhượng phần vốn góp hay cổ phần bao giờ cũng phức tạp hơn so với các trường hợp tương tự trong hợp tác xã. Đồng thời, không giống như doanh nghiệp chỉ hoạt động trước hết và chủ yếu vì mục tiêu lợi nhuận, hợp tác xã còn luôn hướng đến việc phát huy sức mạnh tập thể của từng xã viên, cùng giúp nhau thực hiện có hiệu quả hoạt động sản xuất, kinh doanh [6]. Mặc dù tồn tại với những lý lẽ khá thuyết phục, quan điểm thứ nhất về tư cách doanh nghiệp của hợp tác xã cũng không được ghi nhận trong luật.
  • 15. 9 Luật Doanh nghiệp năm 2005 đã thống nhất các loại hình doanh nghiệp, trong đó không bao gồm hình thức hợp tác xã. Luật Hợp tác xã năm 2013 có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2013 đã chính thức khẳng định Hợp tác xã không phải là chủ thể của pháp luật doanh nghiệp. Thứ hai, để được công nhận tư cách chủ thể pháp lý, doanh nghiệp phải được thành lập và đăng ký kinh doanh theo thủ tục nhất định do pháp luật quy định. Đây là một đặc điểm rất quan trọng bởi lẽ nó thể hiện thái độ của Nhà nước đối với các tổ chức kinh tế, xác định tổ chức ấy có đủ hay không đủ điều kiện được công nhận là một doanh nghiệp. Dưới góc độ pháp lý, các doanh nghiệp buộc phải đăng ký kinh doanh trước khi tham gia thị trường, đây là hoạt động có ý nghĩa to lớn không chỉ đối với các doanh nghiệp mà còn xuất phát từ yêu cầu của quản lý nhà nước đối với hoạt động kinh doanh trong nền kinh tế thị trường. Đối với các doanh nghiệp, đăng ký kinh doanh nhằm xác định tư cách chủ thể cho doanh nghiệp. Kể từ thời điểm được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, doanh nghiệp được phép tiến hành những hoạt động kinh doanh theo nội dung đã đăng ký. Hoạt động kinh doanh đó sẽ được pháp luật bảo vệ nhằm chống lại những hành vi xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, việc đăng ký kinh doanh sẽ giúp Nhà nước nắm bắt được hệ thống thông tin về số lượng doanh nghiệp, số lượng mỗi loại hình doanh nghiệp, các ngành nghề kinh doanh chủ yếu, địa bàn thu hút vốn đầu tư... từ đó đưa ra, sửa đổi hoặc bổ sung kịp thời chủ trương chính sách nhằm hoàn thiện pháp luật về doanh nghiệp. Hơn nữa, việc đăng ký kinh doanh sẽ tạo ra một môi trường cạnh tranh an toàn và minh bạch khi các nhà đầu tư dễ dàng tìm hiểu thông tin về bạn hàng từ sổ đăng ký kinh doanh. Việc đăng ký kinh doanh vì thế có thể giúp các doanh nghiệp tránh được tình trạng lừa đảo bằng việc bưng bít thông tin hay cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động kinh doanh vốn đã có rất nhiều rủi ro. Trên thực
  • 16. 10 tế, hoạt động đăng ký kinh doanh thể hiện thái độ của Nhà nước đối với các thành phần kinh tế. Trước đây, khi pháp luật về doanh nghiệp còn phân loại các doanh nghiệp theo tiêu chí tính chất sở hữu, việc đăng ký kinh doanh được quy định trong nhiều văn bản khác nhau. Hiện nay, theo xu hướng chung để đảm bảo sự bình đẳng cho các thành phần kinh tế, đồng thời đảm bảo hơn nữa quyền tự do kinh doanh của công dân, các quy định về đăng ký kinh doanh đã được thống nhất trong Luật Doanh nghiệp năm 2005, áp dụng chung cho tất cả các loại hình doanh nghiệp. Điều này tạo thuận lợi và dễ dàng cho các nhà đầu tư khi áp dụng những quy định đó. Trong bối cảnh nền thương mại thế giới hiện nay, Việt Nam cũng như các quốc gia khác, luôn luôn đề cao việc cải thiện môi trường đầu tư mà trong đó quan trọng nhất là cải thiện thủ tục hành chính ở khâu đăng ký kinh doanh nhằm khuyến khích đầu tư trong nước đồng thời thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Thứ ba, mỗi doanh nghiệp đều được xác định bởi những ngành nghề kinh doanh nhất định. Doanh nghiệp sẽ phải kinh doanh đúng ngành nghề mà mình đã đăng ký một cách thường xuyên. Nếu một chủ thể nào đó thực hiện hành vi kinh doanh có tính chất đơn lẻ, vụ việc thì không thể xem chủ thể đó là doanh nghiệp. Hơn nữa, thậm chí khi một chủ thể đã được coi là một doanh nghiệp (được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh) mà “không hoạt động tại trụ sở đăng ký trong thời hạn 6 tháng liên tục kể từ ngày được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh hoặc chứng nhận thay đổi trụ sở chính thì sẽ bị xoá tên trong sổ đăng ký kinh doanh” (Khoản 2 Điều 165 Luật Doanh nghiệp năm 2005). Quy định này thực sự là một công cụ hiệu quả giúp cho cơ quan quản lý nhà nước dễ dàng nắm bắt thông tin về doanh nghiệp, đồng thời tránh tình trạng doanh nghiệp chỉ đăng ký kinh doanh mà trên thực tế không tiến hành hoạt động hoặc ngừng hoạt động trong một thời gian dài.
  • 17. 11 Trên đây là một số vấn đề lý luận cơ bản về khái niệm doanh nghiệp được nhìn nhận một cách tổng quát từ phương diện kinh tế - xã hội và phương diện pháp lý. Có thể nói, những đặc trưng được chỉ ra ở trên sẽ là nền tảng, là cơ sở khoa học cho pháp luật về doanh nghiệp được ban hành và hoàn thiện trong điều kiện Việt Nam hiện nay. 1.1.2. Vị trí và vai trò của doanh nghiệp Doanh nghiệp có vị trí đặc biệt quan trọng trong nền kinh tế, là bộ phận chủ yếu tạo ra tổng sản phẩm nội địa. Trong những năm qua, hoạt động của doanh nghiệp đã có bước phát triển đột biến, góp phần giải phóng và phát triển sức sản xuất, huy động và phát huy nội lực vào phát triển kinh tế xã hội; góp phần quyết định vào phục hồi và tăng trưởng kinh tế, tăng kim ngạch xuất khẩu, tăng thu ngân sách và tham gia giải quyết có hiệu quả các vấn đề xã hội như tạo việc làm, xoá đói, giảm nghèo...; quyết định đến chuyển dịch các cơ cấu lớn của nền kinh tế quốc dân như cơ cấu thành phần kinh tế, cơ cấu ngành kinh tế, cơ cấu kinh tế giữa các vùng, địa phương. Sự phát triển của doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp ngành công nghiệp tăng nhanh là nhân tố đảm bảo cho việc thực hiện các mục tiêu của công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, nâng cao hiệu quả kinh tế, giữ vững ổn định và tạo thế mạnh hơn về năng lực cạnh tranh của nền kinh tế trong quá trình hội nhập. Có thể nói vai trò của doanh nghiệp không chỉ quyết định sự phát triển bền vững về mặt kinh tế mà còn quyết định đến sự ổn định và lành mạnh hoá các vấn đề xã hội. Sau khi các luật về đăng ký kinh doanh được ban hành và sửa đổi như Luật Doanh nghiệp nhà nước, Luật Ðầu tư trực tiếp của nước ngoài, Luật Hợp tác xã và đặc biệt là Luật Doanh nghiệp đã đi vào cuộc sống, hoạt động trong khu vực doanh nghiệp có nhiều thay đổi, môi trường thông thoáng hơn, sản
  • 18. 12 xuất kinh doanh sôi động hơn, vai trò của doanh nghiệp được ghi nhận và có nhiều tiến bộ, nhất là trong các ngành công nghiệp, thương mại, vận tải, du lịch. Cùng với số lượng doanh nghiệp tăng nhanh, các yếu tố sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp như lao động, nguồn vốn, tài sản và kết quả sản xuất kinh doanh như doanh thu, nguồn nộp ngân sách cũng tăng lên. Ðiều đáng chú ý là trong những năm gần đây, các chủ trương, chính sách khuyến khích phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ của Nhà nước đã có tác động tích cực đến việc huy động mọi nguồn vốn của các tầng lớp dân cư vào sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Doanh nghiệp tăng trưởng nhanh trong những năm gần đây đã đưa lại những kết quả quan trọng sau: - Doanh nghiệp là khu vực chủ yếu tạo ra giá trị gia tang, thu nhập cho nền kinh tế, qua đó tang nguồn thu cho ngân sách nhà nước, nguồn thu này tăng nhanh trong những năm qua là điều kiện để đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng, phát triển các hoạt động xã hội công (y tế, giáo dục, xoá đói giảm nghèo,...). Phát triển doanh nghiệp tác động đến việc giải quyết tốt hơn các vấn đề xã hội. Những năm gần đây, sản phẩm hàng hoá và dịch vụ do khối doanh nghiệp tạo ra ngày càng phong phú, đa dạng về chủng loại mặt hàng, chất lượng hàng hoá, dịch vụ được nâng lên, do đó đã giải quyết cơ bản nhu cầu tiêu dùng hàng hoá, dịch vụ ngày càng cao của toàn xã hội, góp phần nâng cao mức sống vật chất của dân cư và tăng nhanh lượng hàng hoá xuất khẩu. Nhiều sản phẩm trước đây thường phải nhập khẩu cho tiêu dùng thì nay đã được các doanh nghiệp trong nước sản xuất thay thế và được người tiêu dùng trong nước tín nhiệm như: Ô tô, xe máy, phương tiện vận tải, các mặt hàng đồ điện, điện tử, may mặc, thực phẩm, đồ uống, hoá mỹ phẩm, đồ dùng gia đình, sản phẩm phục vụ xây dựng, ... [20].
  • 19. 13 - Giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống của người lao động: Số lượng doanh nghiệp tăng nhanh đã giải quyết được nhiều việc làm với thu nhập cao hơn cho người lao động. Tuy chiếm tỷ trọng không cao trong tổng lao động toàn xã hội, nhưng lao động của khu vực doanh nghiệp lại là lực lượng chủ yếu tạo ra nguồn thu cho ngân sách nhà nước và đóng góp lớn cho tăng trưởng tổng sản phẩm nội địa; lao động ở khu vực này cũng có thu nhập cao hơn nhiều so với khu vực cá thể và hộ gia đình. Thu nhập cao và tăng nhanh của lao động khối doanh nghiệp góp phần cải thiện và nâng cao mức sống chung của toàn xã hội và tham gia vào quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động từ nông nghiệp sang các ngành phi nông nghiệp. - Doanh nghiệp tăng trưởng và phát triển là yếu tố quyết định đến tăng trưởng cao và ổn định của nền kinh tế: Doanh nghiệp phát triển nhanh những năm gần đây đã làm cho tỷ trọng đóng góp của khu vực này vào tổng sản phẩm nội địa tăng nhanh. Lợi ích cao hơn mà tăng trưởng doanh nghiệp đem lại là tạo ra khối lượng hàng hoá và dịch vụ lớn hơn, phong phú hơn, chất lượng tốt hơn, thay thế được nhiều mặt hàng phải nhập khẩu, góp phần quan trọng cải thiện và nâng cao mức tiêu dùng trong nước và tăng xuất khẩu, đó là yếu tố quan trọng giữ cho nền kinh tế ổn định và phát triển những năm qua. - Doanh nghiệp phát triển tác động đến chuyển dịch cơ cấu trong nền kinh tế quốc dân và trong nội bộ mỗi ngành: Trước năm 2000, doanh nghiệp phát triển chủ yếu trong ngành công nghiệp với vai trò quyết định là doanh nghiệp nhà nước, các ngành khác (như nông, lâm nghiệp, thuỷ sản, thương mại...) hoạt động của cá thể, hộ gia đình là chính, chiếm từ 85-95% sản lượng toàn ngành [20]. Ðến nay, hoạt động của loại hình doanh nghiệp có mặt ở hầu hết các ngành sản xuất kinh doanh. Các loại hình kinh tế trong doanh nghiệp phát triển đa dạng gồm nhiều thành phần, trong đó doanh nghiệp nhà nước và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài chiếm tỷ trọng lớn, các loại hình doanh
  • 20. 14 nghiệp tư nhân tuy còn nhỏ nhưng phát triển nhanh và rộng khắp ở các ngành và các địa phương trong cả nước. Doanh nghiệp phát triển nhanh trong tất cả các ngành và ở khắp các địa phương đã tạo ra cơ hội phân công lại lao động giữa các khu vực nông lâm nghiệp, thủy sản và sản xuất kinh doanh nhỏ của hộ gia đình là khu vực lao động có năng suất thấp, thu nhập không cao, chiếm số đông, thiếu việc làm sang khu vực doanh nghiệp, nhất là ngành công nghiệp và dịch vụ có năng suất cao và thu nhập khá hơn. 1.1.3. Các loại hình doanh nghiệp ở Việt Nam Việc phân loại doanh nghiệp nhằm các mục đích khác nhau và được dựa trên các tiêu chí khác nhau. Từ góc độ nghiên cứu và lập pháp, việc phân loại doanh nghiệp có ý nghĩa quan trọng cho việc lựa chọn cơ chế điều chỉnh pháp luật thích hợp đối với doanh nghiệp, cả về quản lý nhà nước và quản trị doanh nghiệp. Có nhiều căn cứ để phân loại doanh nghiệp như căn cứ vào hình thức pháp lý của doanh nghiệp; chế độ trách nhiệm; tính chất sở hữu và mục đích hoạt động của doanh nghiệp; cơ cấu nhà đầu tư và phương thức góp vốn vào doanh nghiệp… Ở hệ thống pháp luật của các quốc gia khác nhau thì có sự phân chia các loại hình doanh nghiệp khác nhau. Ví dụ ở các nước theo hệ thống Luật Án lệ chia doanh nghiệp ra làm hai nhóm chủ yếu là hãng kinh doanh và công ty; ở các nước theo hệ thống pháp luật Châu Âu lục địa thì doanh nghiệp được chia thành hai nhóm là doanh nghiệp cá nhân và công ty; doanh nghiệp theo hệ thống pháp luật của Trung Quốc gồm hộ cá thể, doanh nghiệp cá thể (doanh nghiệp tư nhân), hợp danh, doanh nghiệp tập thể, doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và công ty. Ở Việt Nam, do những điều kiện lịch sử, xã hội đặc thù, doanh nghiệp và pháp luật về doanh nghiệp hiện nay vẫn còn nhiều điểm khác biệt lớn so
  • 21. 15 với xu hướng phổ biến trên thế giới, một trong những khác biệt đó là vấn đề loại hình doanh nghiệp. Căn cứ vào hình thức pháp lý của doanh nghiệp, theo Luật Doanh nghiệp năm 2005 thì các loại hình doanh nghiệp ở Việt Nam bao gồm:  Công ty trách nhiệm hữu hạn (bao gồm công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên và công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên) là doanh nghiệp mà các thành viên trong công ty chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của công ty trong phạm vi số vốn điều lệ của công ty.  Công ty cổ phần là doanh nghiệp mà vốn điều lệ của công ty được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần. Cá nhân hay tổ chức sở hữu cổ phần của doanh nghiệp được gọi là cổ đông và chịu trách nhiệm về các khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản khác trong phạm vi số vốn đã góp vào doanh nghiệp.  Doanh nghiệp tư nhân là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và tự chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp. Mỗi cá nhân chỉ được quyền thành lập một doanh nghiệp tư nhân.  Công ty hợp danh là doanh nghiệp trong đó có ít nhất hai thành viên là chủ sở hữu của công ty, cùng kinh doanh dưới một tên chung (gọi là thành viên hợp danh). Thành viên hợp danh phải là cá nhân và chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về các nghĩa vụ của công ty. Ngoài ra trong công ty hợp danh còn có các thành viên góp vốn.  Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được thành lập theo Luật Đầu tư nước ngoài năm 1996 chưa đăng ký lại hay chuyển đổi theo quy định. Căn cứ vào chế độ trách nhiệm, có thể phân loại các doanh nghiệp thành doanh nghiệp có chế độ trách nhiệm vô hạn và doanh nghiệp chế độ trách nhiệm hữu hạn, cụ thể:
  • 22. 16  Doanh nghiệp có chế độ trách nhiệm vô hạn là loại hình doanh nghiệp mà ở đó chủ sở hữu doanh nghiệp có nghĩa vụ phải trả nợ thay cho doanh nghiệp bằng tất cả tài sản của mình, khi doanh nghiệp không đủ tài sản để thực hiện các nghĩa vụ tài chính của nó. Theo pháp luật Việt Nam, có hai loại doanh nghiệp có chế độ trách nhiệm vô hạn là doanh nghiệp tư nhân và công ty hợp danh. Thực chất chế độ trách nhiệm vô hạn của loại doanh nghiệp này là chế độ trách nhiệm vô hạn của chủ sở hữu doanh nghiệp tư nhân và của thành viên hợp danh công ty hợp danh. Chủ sở hữu doanh nghiệp tư nhân và thành viên hợp danh sẽ chịu trách nhiệm đến cùng về mọi nghĩa vụ tài sản của doanh nghiệp mà không giới hạn ở phần tài sản chủ doanh nghiệp, các thành viên hợp danh đã bỏ vào đầu tư kinh doanh tại doanh nghiệp tư nhân và công ty hợp danh. Điều này có nghĩa là nếu tài sản của doanh nghiệp tư nhân và công ty hợp danh không đủ để thực hiện các nghĩa vụ về tài chính của doanh nghiệp khi các doanh nghiệp này phải áp dụng thủ tục thanh lý trong thủ tục phá sản, chủ sở hữu doanh nghiệp và các thành viên hợp danh phải sử dụng cả tài sản riêng không đầu tư vào doanh nghiệp để thanh toán cho các khoản nợ của doanh nghiệp.  Doanh nghiệp có chế độ trách nhiệm hữu hạn là loại hình doanh nghiệp mà ở đó chủ sở hữu chỉ phải chịu trách nhiệm về mọi khoản nợ và nghĩa vụ tài chính của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã góp vào doanh nghiệp. Theo pháp luật Việt Nam, doanh nghiệp có chế độ trách nhiệm hữu hạn bao gồm: công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, doanh nghiệp liên doanh và doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài không tiến hành đăng ký lại theo Nghị định số 101/2006/NĐ-CP. Chế độ trách nhiệm hữu hạn của các loại doanh nghiệp trên thực chất là chế độ trách nhiệm hữu hạn của các nhà đầu tư - thành viên/chủ sở hữu công ty. Điều đó có nghĩa là khi số tài sản của doanh
  • 23. 17 nghiệp không đủ để trả nợ thì chủ sở hữu không có nghĩa vụ phải trả nợ thay cho doanh nghiệp. Ngoài ra còn có các thuật ngữ sau:  Nhóm công ty là tập hợp các công ty có mối quan hệ gắn bó lâu dài với nhau về lợi ích kinh tế, công nghệ, thị trường và các dịch vụ kinh doanh khác, gồm có các hình thức sau: công ty mẹ - công ty con, tập đoàn kinh tế...  Doanh nghiệp nhà nước là doanh nghiệp trong đó Nhà nước sở hữu trên 50% vốn điều lệ.  Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là doanh nghiệp do nhà đầu tư nước ngoài thành lập để thực hiện hoạt động đầu tư tại Việt Nam hoặc doanh nghiệp Việt Nam do nhà đầu tư nước ngoài mua cổ phần, sáp nhập, mua lại. 1.2. Lý luận về pháp luật về doanh nghiệp 1.2.1. Khái niệm pháp luật về doanh nghiệp Pháp luật là một chỉnh thể thống nhất, ra đời và phát triển gắn liền với sự xuất hiện của Nhà nước và tiến bộ xã hội. Hệ thống pháp luật có sự thay đổi về nội dung, cơ cấu, luôn vận động từ thấp đến cao, ngày càng đa dạng và phong phú. Trong sự vận động của hệ thống pháp luật nói chung, pháp luật về doanh nghiệp - một bộ phận cơ bản của pháp luật kinh tế Việt Nam cũng có những bước phát triển nhất định. Tuy nhiên, cho đến nay vẫn chưa có định nghĩa thống nhất về lĩnh vực pháp luật này. Về mặt lý luận, có thể xem xét pháp luật về doanh nghiệp dưới hai góc độ: theo nghĩa rộng và theo nghĩa hẹp. Theo nghĩa rộng, pháp luật về doanh nghiệp bao gồm những quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình tổ chức và hoạt động của các doanh nghiệp. Những quan hệ xã hội này có phạm vi rất rộng, phát sinh từ khi nhà đầu tư đăng ký kinh doanh, chính thức hoạt động
  • 24. 18 trên thị trường cho đến khi doanh nghiệp kết thúc hoạt động. Những quan hệ đó bao gồm: quan hệ giữa Nhà nước và nhà đầu tư trong quá trình đăng ký kinh doanh; quan hệ giữa doanh nghiệp với các thành viên; quan hệ giữa các thành viên với nhau; quan hệ giữa doanh nghiệp với các chủ thể trong quá trình sử dụng đất, tài chính, bảo vệ môi trường, thuê lao động hay quan hệ giữa doanh nghiệp với các chủ nợ trong quá trình doanh nghiệp tiến hành giải thể, phá sản. Những quan hệ này rất đa dạng và khác nhau về tính chất, nội dung cũng như thành phần chủ thể. Như vậy, có thể định nghĩa pháp luật về doanh nghiệp theo nghĩa rộng như sau: Pháp luật về doanh nghiệp là những quy tắc xử sự do Nhà nước ban hành hoặc thừa nhận, điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình tổ chức và tiến hành hoạt động của các doanh nghiệp. Theo đó, pháp luật về doanh nghiệp bao gồm cả những quy phạm điều chỉnh quan hệ xã hội thuộc các ngành pháp luật khác nhau như Luật Dân sự, Luật Môi trường, Luật Đất đai, Luật Thuế, Luật Lao động.... Theo nghĩa hẹp, pháp luật về doanh nghiệp là những quy tắc xử sự do Nhà nước ban hành hoặc thừa nhận điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong khi doanh nghiệp gia nhập thị trường, quản trị nội bộ và rút khỏi thị trường. Theo nghĩa này, pháp luật về doanh nghiệp bao gồm:  Quy định về bản chất pháp lý của các loại hình doanh nghiệp.  Quy định về thành lập và đăng ký doanh nghiệp.  Quy định về cơ cấu tổ chức và quản trị doanh nghiệp.  Quy định về cấu trúc vốn của doanh nghiệp.  Quy định về tổ chức lại, giải thể, phá sản doanh nghiệp. Theo nghĩa này, pháp luật về doanh nghiệp là một bộ phận của pháp luật kinh tế, có mối quan hệ mật thiết với những ngành luật khác như Luật Dân sự, Luật Thuế, Luật Thương mại…
  • 25. 19 Việc phân biệt đối tượng, phạm vi điều chỉnh của pháp luật về doanh nghiệp theo nghĩa rộng hay nghĩa hẹp chỉ mang tính chất tương đối, bởi lẽ pháp luật về doanh nghiệp dù hiểu theo chiều hướng nào vẫn luôn bao gồm những bộ phận có mối liên hệ chặt chẽ với nhau. Tuy nhiên, việc phân biệt này cũng đem lại những ý nghĩa nhất định trong quá trình nghiên cứu. Trong phạm vi luận văn này, tôi sẽ nghiên cứu pháp luật về doanh nghiệp dưới góc độ tiếp cận theo nghĩa hẹp. 1.2.2. Vai trò của pháp luật về doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường Trong cơ chế thị trường, sự tồn tại của pháp luật là một nhu cầu bắt nguồn từ chính đòi hỏi của các quan hệ kinh tế. Nền kinh tế thị trường đòi hỏi pháp luật phải đảm bảo các quy luật, nguyên tắc của thị trường. Trong quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường ở Việt Nam, pháp luật về doanh nghiệp cùng với các chế định khác của pháp luật kinh tế là công cụ không thể thiếu để Nhà nước điều tiết nền kinh tế thị trường phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đối với các nhà đầu tư, pháp luật về doanh nghiệp không chỉ có vai trò đảm bảo quyền tự do và sự bình đẳng mà còn có vai trò đảm bảo sự an toàn trong đầu tư vốn của họ. Vai trò của pháp luật về doanh nghiệp thể hiện ở những mặt sau: Thứ nhất, pháp luật về doanh nghiệp phải đảm bảo quyền tự do của công dân trong tổ chức hoạt động kinh doanh. Với một xã hội có Nhà nước, tự do kinh doanh chỉ có ý nghĩa hiện thực khi được ghi nhận bởi pháp luật. Vì vậy, quyền tự do kinh doanh không thể được thực hiện hiệu quả trên thực tế nếu thiếu pháp luật. Vai trò ghi nhận và đảm bảo quyền tự do kinh doanh của pháp luật về doanh nghiệp thể hiện ở những nội dung cơ bản sau:  Pháp luật về doanh nghiệp quy định những ngành nghề, lĩnh vực cấm kinh doanh hoặc hạn chế kinh doanh.
  • 26. 20  Pháp luật về doanh nghiệp quy định thủ tục đăng ký kinh doanh cho các nhà đầu tư.  Pháp luật về doanh nghiệp quy định các hình thức doanh nghiệp để các nhà đầu tư lựa chọn.  Pháp luật về doanh nghiệp quy định các quyền và nghĩa vụ cụ thể của nhà đầu tư trong tổ chức hoạt động của doanh nghiệp như tổ chức bộ máy quản lý nội bộ của doanh nghiệp; mở rộng, thu hẹp quy mô kinh doanh; huy động vốn; chấm dứt sự tồn tại của doanh nghiệp... Thứ hai, pháp luật về doanh nghiệp đảm bảo quyền sở hữu vốn và tài sản trong kinh doanh của các nhà đầu tư. Vốn và tài sản là tiền đề vật chất không thể thiếu để thực hiện hoạt động kinh doanh. Vì vậy, quyền sở hữu vốn và tài sản cần phải được ghi nhận bằng pháp luật. Pháp luật về doanh nghiệp góp phần khẳng định địa vị chủ sở hữu tài sản của các tổ chức, cá nhân khi họ dùng vốn và tài sản để đầu tư kinh doanh. Với quy định về quyền và nghĩa vụ của người góp vốn vào doanh nghiệp, pháp luật về doanh nghiệp thể hiện vai trò tiếp tục phát triển các quy định về sở hữu đổi với tài sản trong kinh doanh. Tính đặc thù của các quy định về sở hữu trong pháp luật về doanh nghiệp thể hiện ở chỗ pháp luật về doanh nghiệp bảo vệ quyền sở hữu tài sản trong trạng thái vận động, đồng thời hạn chế những tiêu cực phát sinh do chế độ đa sở hữu trong kinh doanh của cơ chế thị trường gây ra. Thứ ba, pháp luật về doanh nghiệp là công cụ đảm bảo cho các hoạt động kinh doanh vận hành theo các quy luật của thị trường. Đối với pháp luật về doanh nghiệp, việc xác định tư cách chủ thể, xác định địa vị pháp lý của chủ thể kinh doanh, đảm bảo quyền tự do kinh doanh và quyền bình đẳng của họ có tầm quan trọng đặc biệt. Đó là cơ sở, sự đảm bảo pháp lý để các chủ thể kinh doanh tiến hành các hoạt động của mình trên thương trường.
  • 27. 21 Thứ tư, pháp luật về doanh nghiệp góp phần giải quyết các vấn đề xã hội như phân hóa giàu nghèo, thất nghiệp,... Để đạt được mục tiêu đặt ra, Nhà nước phải sử dụng nhiều công cụ khác nhau để điều tiết và định hướng nền kinh tế thị trường, trong đó pháp luật được coi là công cụ hữu hiệu nhất. Với tư cách là một bộ phận cấu thành của pháp luật kinh doanh, pháp luật về doanh nghiệp góp phần giải quyết các vấn đề xã hội; giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa các lợi ích của Nhà nước, của doanh nghiệp và lợi ích của các chủ thể có quan hệ với doanh nghiệp (chủ nợ, người lao động...) trong tổ chức hoạt động kinh doanh. Như vậy có thế thấy rằng vai trò của pháp luật doanh nghiệp là rất to lớn, nó có ý nghĩa làm hoàn thiện hơn nữa các loại hình doanh nghiệp, từ đó thúc đẩy nền kinh tế thị trường ngày một phát triển, phục vụ đắc lực cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. 1.2.3. Nội dung pháp luật về doanh nghiệp Theo nghĩa rộng, đối tượng điều chỉnh của pháp luật về doanh nghiệp là các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình tổ chức và hoạt động của doanh nghiệp. Còn theo nghĩa hẹp, đối tượng điều chỉnh của pháp luật về doanh nghiệp là các quan hệ pháp luật về tổ chức doanh nghiệp, đó là các quan hệ phát sinh trong các giai đoạn: gia nhập thị trường, quản trị doanh nghiệp và rút khỏi thị trường. Những quy định về doanh nghiệp được nêu trong hệ thống văn bản pháp luật về doanh nghiệp. Nội dung của pháp luật về doanh nghiệp chủ yếu là những quy phạm ghi nhận và đảm bảo quyền, đồng thời xác định trách nhiệm của nhà đầu tư trong việc tổ chức, vận hành doanh nghiệp. Các nhóm quy phạm của pháp luật Việt Nam về doanh nghiệp bao gồm:
  • 28. 22 Thứ nhất, các quy định về bản chất pháp lý của các loại hình doanh nghiệp. Các quy định này đưa ra những dấu hiệu pháp lý để xác định loại hình doanh nghiệp. Mỗi loại hình doanh nghiệp có những đặc điểm pháp lý nhất định và cần được xác định trong luật pháp. Các nhà đầu tư có quyền lựa chọn loại hình doanh nghiệp phù hợp với nhu cầu và điều kiện của mình, song trong quá trình tổ chức vận hành doanh nghiệp phải tuân thủ những quy định về bản chất của loại hình doanh nghiệp đã lựa chọn. Thứ hai, các quy định về thành lập và đăng ký doanh nghiệp. Thành lập doanh nghiệp có ý nghĩa xác lập tư cách pháp lý cho doanh nghiệp. Trong nền kinh tế thị trường, với yêu cầu của nguyên tắc tự do kinh doanh, thành lập doanh nghiệp được coi là quyền cơ bản của nhà đầu tư. Tuy nhiên, sự hiện diện của doanh nghiệp trên thương trường luôn tiềm ẩn nguy cơ ảnh hưởng đến những lợi ích của các chủ thể có liên quan, vì vậy việc thành lập doanh nghiệp phải được thực hiện trên khuôn khổ pháp luật. Chế định thành lập doanh nghiệp thường bao gồm những nội dung cơ bản là đối tượng có quyền thành lập doanh nghiệp, ngành nghề kinh doanh, thủ tục đăng ký kinh doanh. Thứ ba, các quy định về cơ cấu tổ chức và quản trị doanh nghiệp. Với yêu cầu của nguyên tắc tự do kinh doanh, việc tổ chức và quản trị doanh nghiệp trước hết và chủ yếu thuộc quyền quyết định của chủ sở hữu các doanh nghiệp. Pháp luật chỉ quy định ràng buộc những vấn đề cơ bản, mang tính nguyên tắc, xác lập khung pháp lý cho việc tổ chức quản trị doanh nghiệp. Nội dung của chế định tổ chức quản trị doanh nghiệp bao gồm các vấn đề: cơ cấu bộ máy tổ chức quản trị, thẩm quyền và thể thức hoạt động của bộ máy quản trị doanh nghiệp, nghĩa vụ của người quản lý doanh nghiệp, kiểm soát giao dịch tư lợi.
  • 29. 23 Thứ tư, các quy định về cấu trúc vốn của doanh nghiệp. Vốn là cơ sở vật chất không thể thiếu cho sự tồn tại và hoạt động của doanh nghiệp. Vốn của doanh nghiệp được quan niệm là vốn kinh doanh, là giá trị của toàn bộ tài sản được đầu tư vào hoạt động của doanh nghiệp nhằm mục đích sinh lời. Việc xác định cấu trúc vốn của doanh nghiệp phải tuân thủ những ràng buộc của pháp luật ở các mức độ khác nhau, tùy thuộc vào loại hình doanh nghiệp và lĩnh vực hoạt động của doanh nghiệp. Các quy định về cấu trúc vốn của doanh nghiệp bao gồm hai nội dung cơ bản là cơ sở hình thành, mối quan hệ giữa vốn chủ sở hữu và vốn tín dụng và cơ chế điều chỉnh, huy động vốn của doanh nghiệp trong quá trình hoạt động. Thứ năm, các quy định về tổ chức lại, giải thể, phá sản doanh nghiệp. Tổ chức lại doanh nghiệp là một nhu cầu chính đáng của các nhà đầu tư, nó có thể xuất hiện trong quá trình tự nhiên của doanh nghiệp. Nội dung của việc tổ chức lại doanh nghiệp chính là sự biến đổi của doanh nghiệp cho phù hợp với môi trường và điều kiện kinh doanh cụ thể, nhằm đạt được hiệu quả kinh doanh cao hơn. Các biện pháp tổ chức lại doanh nghiệp về cơ bản bao gồm: chia, tách, sáp nhập, hợp nhất doanh nghiệp và chuyển đổi hình thức pháp lý của doanh nghiệp. Biện pháp tổ chức lại doanh nghiệp cho từng loại hình doanh nghiệp khác nhau thì khác nhau. Giải thể doanh nghiệp là một trong những thủ tục pháp lý dẫn đến chấm dứt tồn tại của doanh nghiệp. Các quy định pháp luật về giải thể doanh nghiệp bao gồm hai nội dung cơ bản là các trường hợp giải thể và thủ tục giải thể. Về nguyên tắc, việc quyết định giải thể doanh nghiệp thuộc quyền của chủ sở hữu doanh nghiệp. Tuy nhiên, khi doanh nghiệp không còn thỏa mãn các điều kiện tồn tại theo quy định của pháp luật hoặc kinh doanh vi phạm pháp luật thì doanh nghiệp sẽ bị bắt buộc phải giải thể. Như vậy, phụ thuộc vào các loại hình doanh nghiệp, hệ thống pháp luật về doanh nghiệp được cấu trúc với những chế định phù hợp với các đặc điểm pháp lý của từng loại doanh nghiệp.
  • 30. 24 1.2.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến việc xây dựng nội dung pháp luật về doanh nghiệp Như đã phân tích ở trên, pháp luật về doanh nghiệp là một bộ phận cấu thành quan trọng trong hệ thống pháp luật kinh tế của mỗi quốc gia. Tuy nhiên, trong từng giai đoạn lịch sử, tùy thuộc vào tình hình kinh tế, chính trị, văn hóa và xã hội tồn tại một cách khách quan mà pháp luật doanh nghiệp tại mỗi nước được quy định khác nhau. Hay nói cách khác, nền tảng của xây dựng nội dung pháp luật doanh nghiệp là việc đánh giá tổng thể, toàn diện các yếu tố ảnh hưởng. Vậy tại Việt Nam các yếu tố đó là gì? Trả lời cho câu hỏi này, trong khuôn khổ luận văn của mình, tôi sẽ đánh giá theo: tính chất của nền kinh tế Việt Nam; đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước qua hai thời kỳ: trước đổi mới, sau đổi mới; tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế. 1.2.4.1. Tính chất của nền kinh tế Năm 1975, sau khi đất nước được hoàn toàn giải phóng, với mục tiêu cơ bản là ổn định tình hình kinh tế - xã hội, ổn định đời sống nhân dân sau thời gian dài chiến tranh; tạo bước tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội, Đảng Cộng sản Việt Nam đã tiếp tục lãnh đạo nhân dân thực hiện ba cuộc cách mạng: (i) cách mạng về quan hệ sản xuất; (ii) cách mạng khoa học - kỹ thuật; (iii) cách mạng tư tưởng và văn hoá. Định hướng phát triển kinh tế của Việt Nam thời kỳ này là công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa, xây dựng chế độ sở hữu tập thể. Thời kỳ này được nhắc đến với danh từ "bao cấp" và nền kinh tế hoạt động theo cơ chế tập trung kế hoạch hóa trong đó Nhà nước lên kế hoạch cho mọi hoạt động kinh tế của các xí nghiệp nhà máy.
  • 31. 25 Tính chất nền kinh tế nêu trên dẫn đến pháp luật về doanh nghiệp thời kỳ này đơn thuần chỉ được coi là một văn bản hành chính quản lý nhà nước, không có tác dụng điều tiết hay thúc đẩy nền kinh tế, biểu hiện cụ thể:  Do không thừa nhận kinh tế tư nhân nên các loại hình doanh nghiệp rất nghèo nàn, ngoài doanh nghiệp nhà nước thì doanh nghiệp ngoài quốc doanh chỉ có hợp tác xã.Tuy nhiên do ruộng đất thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước quản lý, cộng thêm cơ cấu quản lý hợp tác xã còn nhiều bất cập, phụ thuộc và làm theo chỉ tiêu của Nhà nước nên các ý tưởng, lối làm ăn tập thể mang tính nhân đạo, đùm bọc lẫn nhau không thể phát huy tác dụng, thậm trí mang tính kinh tế nhà nước hơn là kinh tế tập thể.  Do không có tự do kinh doanh nên pháp luật về hợp đồng rất nghèo nàn, không thể hiện tự do ý chí của các chủ thể kinh doanh, điều kiện của việc ký kết và thực hiện hợp đồng rất chặt chẽ, bởi lẽ hoạt động kinh doanh giai đoạn này về bản chất là làm theo chỉ tiêu kế hoạch của Nhà nước.  Bên cạnh đó, do không thừa nhận tự do cạnh tranh, không thừa nhận khả năng “đào thải” những chủ thể không có khả năng kinh doanh nên giai đoạn này không có hiện tượng phá sản, không có luật về phá sản, những doanh nghiệp hoạt động không hiệu quả, thua lỗ sẽ tự động giải thể mà không cần đến cơ chế phá sản, không phải chịu bất cứ trách nhiệm nào. Hệ quả của cách thức quản lý nêu trên là kinh tế Việt Nam đã không thực hiện được những mục tiêu đề ra, nền kinh tế - xã hội lâm vào khủng hoảng trầm trọng vào cuối năm 1985. Để thoát khỏi cuộc khủng hoảng đó, năm 1986, Việt Nam bắt đầu thực hiện đường lối đổi mới với ba trụ cột: (i) chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang vận hành theo cơ chế thị trường; (ii) phát triển nền kinh tế nhiều thành phần trong đó khu vực dân doanh đóng vai trò ngày càng quan
  • 32. 26 trọng; (iii) chủ động hội nhập kinh tế khu vực và thế giới một cách hiệu quả và phù hợp với điều kiện thực tiễn của Việt Nam. Theo đó, một loạt các đạo luật và các văn bản hướng dẫn, pháp lệnh, nghị định được ban hành bước đầu đã tạo ra khung pháp lý cho việc hình thành nền kinh tế thị trường tại Việt Nam. Hiến pháp sửa đổi năm 1992 nêu rõ nhiệm vụ đảm bảo sự tồn tại và phát triển của nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường và khu vực đầu tư nước ngoài. Việc ban hành Luật Doanh nghiệp năm 2005 và Luật Đầu tư năm 2005 được coi là bước đột phá trong tư duy và cải cách hoàn thiện hệ thống pháp luật ở Việt Nam. Luật Doanh nghiệp năm 2005 đã thay thế các quy định pháp luật trước đó về doanh nghiệp (bao gồm Luật Doanh nghiệp năm 1999 và Luật Doanh nghiệp nhà nước năm 2003) và áp dụng thống nhất cho tất cả các doanh nghiệp không phân biệt thành phần kinh tế, có tác dụng đẩy nhanh quá trình cải cách kinh tế. Cũng tương tự, Luật Đầu tư năm 2005 đã thay thế Luật Khuyến khích đầu tư trong nước năm 1998 và Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 2000, áp dụng thống nhất cho hoạt động đầu tư, không phân biệt nhà đầu tư trong và ngoài nước, góp phần tạo bước tiến dài trong việc điều chỉnh, cải tiến môi trường đầu tư của Việt Nam. Hiến pháp 2013 (sửa đổi) khẳng định nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và đang từng bước tạo dựng là nền kinh tế thị trường hiện đại [20]. Bên cạnh việc tuân thủ nghiêm ngặt yêu cầu của những quy luật khách quan của kinh tế thị trường, nền kinh tế thị trường hiện đại còn mang một số đặc trưng mới, đó là: Thứ nhất, nền kinh tế thị trường hiện đại phải dựa trên nền tảng sở hữu hỗn hợp của các chủ thể thị trường. Trong nền kinh tế này, sở hữu hỗn hợp dựa trên chế độ cổ phần chiếm ưu thế phổ biến, đây là kết quả xã hội hóa sản xuất và xã hội hóa sở hữu ở trình độ cao do yêu cầu phát triển của lực lượng
  • 33. 27 sản xuất, khoa học, công nghệ và trình độ quản lý. Hình thức sở hữu này đang ngàycàng phát triển, từng bước vượt qua biên giới của một quốc gia và gắn liền với sự phát triển mạnh của các công ty đa quốc gia, xuyên quốc gia. Thứ hai, nền kinh tế thị trường hiện đại phải dựa trên những thành tựu của khoa học, công nghệ hiện đại và kinh tế tri thức - một trong những nhân tố quyết định trực tiếp đến sự giàu mạnh, văn minh của mọi quốc gia. Thứ ba, nền kinh tế thị trường hiện đại phải có cơ cấu, trong đó những lĩnh vực sau phải hiện đại, đó là: công nghiệp - thị trường, hệ thống kết cấu hạ tầng, các ngành dịch vụ cao cấp mà đặc biệt là dịch vụ tài chính và ngân hàng. Ngoài ra, nông nghiệp và nông thôn về cơ bản phải được phát triển trên nền tảng công nghiệp và thị trường hiện đại. Thứ tư, nền kinh tế thị trường hiện đại dựa trên nguồn nhân lực chất lượng cao, làm chủ được khoa học và công nghệ với trình độ quản lý hiện đại. Thứ năm, nền kinh tế thị trường hiện đại đòi hỏi phải giải quyết tốt mối quan hệ giữa nhà nước - thị trường - doanh nghiệp nhằm thỏa mãn những yêu cầu phát triển trong bối cảnh hiện đại dưới tác động trực tiếp của toàn cầu hóa, cách mạng khoa học - công nghệ, kinh tế tri thức và xã hội thông tin. Nền kinh tế này cũng đòi hỏi phải giải quyết tốt mối quan hệ giữa kinh tế thị trường, nhà nước pháp quyền và xã hội dân sự trong điều kiện cụ thể và đặc thù về chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa, con người nhằm thực hiện tốt mục tiêu phát triển của mỗi quốc gia. Thứ sáu, nền kinh tế thị trường hiện đại phải dựa trên hệ thống an sinh xã hội hiện đại và một hệ thống phúc lợi vì mục tiêu phát triển con người. Hệ thống an sinh xã hội và phúc lợi xã hội này được xây dựng bằng sự đóng góp của chủ doanh nghiệp, người lao động, nhà nước và các tổ chức xã hội dân sự nhằm hỗ trợ người lao động, đặc biệt là người nghèo trước những biến động
  • 34. 28 và rủi ro của thị trường do tác động ngày càng lớn của toàn cầu hóa và biến đổi khí hậu. Xuất phát từ những đặc trưng nêu trên, những vấn đề mang tính phổ biến mà Việt Nam cần giải quyết để hình thành nền kinh tế thị trường hiện đại gồm có: Phải hình thành đầy đủ và đồng bộ các loại thị trường, tôn trọng các quy luật của thị trường và giải quyết hài hòa mối quan hệ nhà nước - thị trường - doanh nghiệp; chủ động và tích cực hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu và khu vực; Phát triển và quản lý có hiệu quả nền kinh tế thị trường hiện đại với những đặc trưng cơ bản, mang tính phổ biến đối với tất cả các quốc gia, không phân biệt chế độ chính trị. Thiếu những đặc trưng cơ bản này thì nền kinh tế thị trường ở Việt Nam không thể được coi là kinh tế thị trường hiện đại [10]. Những đặc trưng này đặt ra yêu cầu cho các nhà lập pháp cần ngày càng hoàn thiện pháp luật về doanh nghiệp nhằm tạo ra môi trường pháp lý hấp dẫn đầu tư, kinh doanh, tạo ra sự bình đẳng giữa các doanh nghiệp trong nước và giữa doanh nghiệp nội địa với quốc tế. 1.2.4.2. Đường lối chính sách phát triển kinh tế trong từng thời kỳ của Đảng, Nhà nước Sau Đại thắng mùa Xuân năm 1975, đất nước thống nhất, Đại hội IV của Đảng họp tháng 12/1976 đã đề ra đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội trong cả nước mà nội dung cơ bản là tiến hành đồng thời ba cuộc cách mạng: (i) cách mạng về quan hệ sản xuất; (ii) cách mạng khoa học - kỹ thuật; (iii) cách mạng tư tưởng và văn hoá, trong đó cách mạng khoa học - kỹ thuật là then chốt. Nhưng trong quá trình tổ chức thực hiện, chúng ta đã phạm sai lầm chủ quan, nóng vội, tính sai bước đi. Trong phát triển lực lượng sản xuất, đã không tập trung phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ mà quá thiên về
  • 35. 29 công nghiệp nặng, ham làm nhanh, làm nhiều. Về quan hệ sản xuất, đã chủ trương cải tạo ồ ạt, muốn nhanh chóng xoá bỏ các thành phần kinh tế tư nhân để xác lập một cách phổ biến các hình thức sở hữu tập thể và toàn dân đối với tư liệu sản xuất ngay cả khi lực lượng sản xuất còn rất thấp kém. Về quản lý, đã chọn mô hình kế hoạch hoá tập trung quan liêu, phủ nhận kinh tế thị trường, xem nhẹ năng suất, chất lượng và hiệu quả. Như vậy, do chủ quan, duy ý chí, Đảng và Nhà nước đã đề ra đường lối phát triển kinh tế - xã hội không phù hợp với hoàn cảnh cụ thể của đất nước. Điều này lý giải tại sao một số văn bản pháp luật về kinh tế đã được đưa vào kế hoạch xây dựng và thông qua nhưng kế hoạch đó cứ bị chuyển từ năm này sang năm khác mà không thể thực hiện được. Năm 1986, tại Đại hội lần thứ VI, Đảng cộng sản Việt Nam chính thức tuyên bố việc đề ra và thực hiện đường lối đổi mới ở Việt Nam. Chính sự đổi mới trong đường lối, chính sách phát triển kinh tế đã tạo ra bước ngoặt cho pháp luật Việt Nam trong đó lĩnh vực pháp luật kinh tế là lĩnh vực đi tiên phong trong sự nghiệp đổi mới. Trong giai đoạn này, để cụ thể hóa định hướng nền kinh tế thị trường ở Việt Nam, Đảng và Nhà nước ta đã vạch ra những nội dung chính như sau: Thứ nhất, phát triển kinh tế thị trường phải nhằm góp phần thực hiện mục tiêu phát triển đất nước là từng bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội, làm cho dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Bằng phát triển kinh tế thị trường hiện đại, từng bước tạo lập những cơ sở kinh tế kỹ thuật cần thiết cho phát triển đất nước theo hướng hiện đại trong nhiều thập niên tới, trước mắt là đến năm 2020 về cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại, đến giữa thế kỷ này trở thành nước công nghiệp hiện đại.
  • 36. 30 Thứ hai, giải quyết tốt những mối quan hệ lớn trong quá trình thực hiện mục tiêu phát triển đất nước ở từng giai đoạn quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đó là quan hệ hài hòa giữa đổi mới, ổn định và phát triển đất nước; giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị; giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; giữa giữ vững độc lập, tự chủ trong phát triển và chủ động, tích cực hội nhập quốc tế, hợp tác phát triển; giữa tuân thủ tính quy luật và coi trọng tính đặc thù quốc gia trong phát triển kinh tế thị trường hiện đại, định hướng xã hội chủ nghĩa; giữa tăng trưởng kinh tế và thực hiện phân bổ thành quả tăng trưởng bảo đảm tạo động lực, công bằng và tiến bộ xã hội; giữa phát triển kinh tế và phát triển xã hội, văn hóa, bảo vệ và làm giàu môi trường theo yêu cầu phát triển bền vững. Thứ ba, bảo đảm, nâng cao hiệu lực và hiệu quả quản lý của Nhà nước pháp quyền Việt Nam của dân, do dân và vì dân dưới sự lãnh đạo của Đảng có bản lĩnh và trí tuệ đồng thời cũng là nhân tố quan trọng nhất để bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam. Để cụ thể hóa những nội dung nêu trên, trong những năm gần đây, Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách hỗ trợ, khuyến khích doanh nghiệp như: Một là, các chính sách về tài chính và hỗ trợ tiếp cận nguồn vốn tín dụng. Thời gian qua, Chính phủ đã thành công trong việc kiểm soát lạm phát, đồng thời các ngân hàng đã giảm mạnh lãi suất cho vay, lãi suất đã xuống tương đối thấp trong tương quan với mức lạm phát kỳ vọng đặc biệt là các chương trình cho vay ưu đãi. Bên cạnh việc đơn giản hóa thủ tục và điều kiện cho vay, Chính phủ còn khuyến khích thực hiện những hình thức cho vay mới như: Cho vay theo các chuỗi sản xuất và cung ứng; mở rộng hình thức cho vay tín chấp; cho vay theo dự án sản xuất kinh doanh chứ không chỉ dựa vào tài sản thế chấp; khẩn trương đưa quỹ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa vào hoạt động, phát triển các quỹ đầu tư mạo hiểm, quỹ tiên phong…
  • 37. 31 Hai là, các chính sách cải thiện môi trường đầu tư, chính sách đổi mới nâng cao năng lực công nghệ và trình độ kỹ thuật, chính sách xúc tiến mở rộng thị trường, chính sách tham gia các hoạt động mua sắm và cung ứng dịch vụ công, chính sách về thông tin và tư vấn, chính sách trợ giúp phát triển nguồn nhân lực, chính sách vườn ươm doanh nghiệp, chính sách giảm thuế... Các chính sách này nhìn chung đã bao quát mọi mặt của đời sống doanh nghiệp. Ba là, định hướng xây dựng và hoàn thiện khung pháp lý cho doanh nghiệp hoạt động, gồm các nội dung cơ bản sau: - Thể chế hóa đường lối đổi mới và các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước về phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, coi các thành phần kinh tế đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; tiếp tục chính sách phát huy tối đa nội lực và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. - Duy trì, mở rộng và phát triển quyền tự do kinh doanh và cạnh tranh bình đẳng của doanh nghiệp. Doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế có quyền kinh doanh các ngành, nghề mà pháp luật không cấm; có quyền tự chủ và phải tự chịu trách nhiệm trong hoạt động kinh doanh; các doanh nghiệp được đối xử bình đẳng, không phân biệt tính chất sở hữu. Tiếp tục đơn giản hóa và tạo thuận lợi hơn cho thành lập doanh nghiệp và tổ chức quản trị doanh nghiệp. - Đổi mới chức năng của Nhà nước trong kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, coi việc khuyến khích, hướng dẫn và trợ giúp là chức năng chính; coi nhà đầu tư và doanh nghiệp là đối tượng phục vụ, là đối tác bình đẳng của cơ quan hành chính nhà nước. Tăng cường sự hợp tác và chia sẻ thông tin giữa các cơ quan nhà nước nhằm giảm nghĩa vụ cung cấp thông tin cho doanh nghiệp, đồng thời tăng hiệu lực quản lý nhà nước.
  • 38. 32 - Đảm bảo sự tương thích với những điều ước mà nước ta đã cam kết trong các thỏa thuận đa phương và song phương, nhất là các nguyên tắc cơ bản như đối xử quốc gia và tối huệ quốc. Đồng thời, góp phần xây dựng và tiếp tục hoàn thiện môi trường kinh doanh bình đẳng, minh bạch, ổn định, thông thoáng, đủ mức hấp dẫn và có sức cạnh tranh so với khu vực. - Kế thừa và phát triển thêm những đổi mới và tiến bộ về thành lập, tổ chức quản lý nội bộ của doanh nghiệp đã đạt được; đồng thời phải hoàn thiện và phát triển hơn nữa theo các thông lệ tốt trên thế giới, phù hợp với việc hội nhập thế giới. Tiếp tục đổi mới và hoàn thiện khung quản trị đối với doanh nghiệp có sở hữu nhà nước đảm bảo quyền sở hữu vốn nhà nước được thực hiện một cách chuyên nghiệp, tập trung, thống nhất và có hiệu quả. - Việc ban hành các văn bản chính sách liên quan đến doanh nghiệp phải được thực hiện theo hướng tạo những điều kiện thông thoáng nhất cho doanh nghiệp hoạt động, như trong lĩnh vực đấu thầu, đất đai, thuế, đầu tư, phá sản doanh nghiệp... Bốn là, định hướng các cấp chính quyền, ngành chức năng cần quan tâm đầu tư xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng đồng bộ, hiện đại; tích cực cải cách thủ tục hành chính; thu hút nhiều nguồn vốn đầu tư; nâng cao chất lượng giáo dục - đào tạo, cung cấp nhân lực cho doanh nghiệp; bảo đảm an toàn, an ninh cho doanh nghiệp, tạo ra môi trường thông thoáng để các doanh nghiệp hoạt động. 1.2.4.3. Chính sách hội nhập kinh tế quốc tế của Đảng và Nhà nước Việt Nam bắt đầu chủ trương hội nhập kinh tế từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (1986) của Đảng Cộng sản Việt Nam. Sau Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII (1996), chủ trương này càng được đẩy mạnh, hội nhập kinh tế của Việt Nam diễn ra càng ngày càng nhanh và càng sâu. Từ chỗ chỉ
  • 39. 33 hợp tác thương mại thông thường đã tiến tới hợp tác kinh tế toàn diện, từ chỗ hợp tác song phương đã tiến tới hợp tác kinh tế đa phương. Việt Nam hiện tham gia nhiều liên kết kinh tế ở cả ba cấp độ song phương, khu vực và toàn cầu, là thành viên c ủa Liên hiệp quốc, Tổ chức Thương mại Thế giới, Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á, Diễn đàn hợp tác Á - Âu, Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á – Thái Bình Dương, Ngân hàng Thế giới, Quỹ tiền tệ Thế giới, Ngân hàng phát triển Châu Á và nhiều tổ chức quốc tế, khu vực khác. Trong đó việc gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới với tiêu chuẩn WTO Plus nghĩa là chấp nhận các đòi hỏi về tự do hóa thương mại (hàng hóa và dịch vụ), đầu tư, mua sắm của Chính phủ cao hơn so với mức độ quy định trong các văn kiện có hiệu lực đang áp dụng của Tổ chức Thương mại Thế giới. Như vậy, khi một nền kinh tế tham gia tiến trình hội nhập kinh tế có nghĩa là quốc gia đó đã chấp nhận xóa bỏ toàn bộ hay một phần các rào cản thuế quan về thương mại, đầu tư trong phạm vi lãnh thổ quốc gia để hàng hóa, dịch vụ, vốn đầu tư của nước ngoài có thể được dễ dàng trao đổi và thực hiện tại nước mình. Theo lộ trình, Việt Nam phải từng bước mở cửa thị trường, cho phép nhà đầu tư nước ngoài được kinh doanh, được thành lập công ty, góp vốn, mua cổ phần của các công ty Việt Nam trong hầu hết các lĩnh vực của nền kinh tế. Song song với lộ trình đó, hệ thống pháp luật Việt Nam nói chung và pháp luật về doanh nghiệp nói riêng cần có những sửa đổi, hoàn thiện, nội luật hóa để một mặt đảm bảo tương thích, thực thi các văn kiện, công ước quốc tế đã ký kết; mặt khác dần từng bước nâng cao khả năng, sức cạnh tranh của doanh nghiệp nội địa trước làn sóng nhà đầu tư nước ngoài đang coi Việt Nam là một thị trường đầy thu hút và tiềm năng.
  • 40. 34 Tuy nhiên đi cùng với những thách thức, Việt Nam càng có điều kiện tiếp thu những tri thức khoa học pháp lý về doanh nghiệp, do đó pháp luật doanh nghiệp ngày càng khoa học và hiện đại hơn. Dưới đây là một số phân tích để có thể thấy rõ những thay đổi trong nội dung xây dựng luật doanh nghiệp Việt Nam để phù hợp với hội nhập kinh tế quốc tế: - Theo Luật Doanh nghiệp năm 1999 thì hầu như người nước ngoài không thể góp vốn, thành lập công ty và doanh nghiệp tư nhân vì rất hiếm khi có người nước ngoài nào là “người nước ngoài thường trú tại Việt Nam”. Do đó, tổ chức, cá nhân nước ngoài muốn thành lập doanh nghiệp tại Việt Nam vẫn phải theo quy định của Luật Đầu tư nước ngoài, vì vậy, vẫn còn đó sự phân biệt đối xử. Với việc ban hành Luật Doanh nghiệp năm 2005, pháp luật Việt Nam đã mở rộng quyền góp vốn, thành lập công ty và doanh nghiệp tư nhân tại Việt Nam cho các tổ chức, cá nhân nước ngoài. Đây là lần đầu tiên, một đạo luật do Quốc hội ban hành đã khẳng định “tổ chức, cá nhân Việt Nam, tổ chức, cá nhân nước ngoài có quyền thành lập và quản lý doanh nghiệp tại Việt Nam” trừ trường hợp bị cấm với những quy định giống nhau mà không quan tâm đến vấn đề quốc tịch. Như vậy, Luật Doanh nghiệp năm 2005 đã khẳng định quyền bình đẳng giữa nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài trong việc thành lập, quản lý doanh nghiệp tại Việt Nam theo những quy định chung thống nhất. - Cuộc cải cách pháp luật về chủ thể kinh doanh cũng góp phần quan trọng vào việc xây dựng các mô hình tổ chức kinh doanh có nhiều sự tương đồng với pháp luật ở các nước phương Tây. Nói một cách khái quát, trên thế giới có bốn mô hình kinh doanh cơ bản, phổ biến nhất là cơ sở kinh doanh một chủ (sole proprietorship hay sole trader), hợp danh (partnership), công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần. Tại Việt Nam, mô hình công ty hợp danh không có trong Luật Công ty năm 1990, nhưng đã xuất hiện trở lại sau
  • 41. 35 mấy thập kỷ vắng bóng trong Luật Doanh nghiệp năm 1999 sau những tranh luận gay gắt cả bên trong và bên ngoài nghị trường Quốc hội và được khẳng định rõ ràng hơn trong Luật Doanh nghiệp năm 2005 (20). Nếu như trong Luật Doanh nghiệp năm 1999, công ty hợp danh được coi là tổ chức kinh tế độc lập, có tên riêng, có vốn điều lệ nhưng Luật lại không quy định rõ nó có là pháp nhân hay không thì tại Điều 130 của Luật Doanh nghiệp năm 2005 đã tuyên bố rõ rằng, công ty hợp danh là pháp nhân. Có thể khẳng định, tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế đã có những tác động không nhỏ tới việc xây dựng nội dung pháp luật doanh nghiệp tại Việt Nam. Ngay trong luận văn này, tôi cũng đã tham khảo cơ chế cải cách pháp luật của Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế để đưa ra những đề xuất đối với phương hướng hoàn thiện pháp luật doanh nghiệp nói riêng và cải cách hệ thống pháp luật nói chung. Qua những phân tích trên có thể thấy, với quan điểm xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; thực hiện sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, những năm gần đây Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm xây dựng và hoàn thiện pháp luật về doanh nghiệp. Việc ban hành Luật Doanh nghiệp năm 2005 được xem như một bước phát triển quan trọng, với những tư duy pháp lý mới trong xây dựng pháp luật về doanh nghiệp ở Việt Nam. Tuy nhiên, đến nay hệ thống pháp luật hiện hành về doanh nghiệp nói chung, Luật Doanh nghiệp năm 2005 nói riêng đã bộc lộ nhiều bất cập cả về nội dung pháp lý và kỹ thuật lập pháp, vẫn chưa đạt được mức độ hoàn thiện cần thiết, chưa đáp ứng được tốt các yêu cầu mà thực tiễn kinh doanh đang đặt ra. Dưới đây tôi sẽ đi vào phân tích thực trạng pháp luật về doanh nghiệp của Việt Nam để thấy rõ những bất cập nêu trên.
  • 42. 36 Chương 2 THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ DOANH NGHIỆP CỦA VIỆT NAM 2.1. Thực trạng pháp luật về doanh nghiệp 2.1.1. Thực trạng pháp luật về thành lập và đăng ký doanh nghiệp Về mặt lý luận, trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, việc thành lập doanh nghiệp được coi là quyền cơ bản của nhà đầu tư song lại có ảnh hưởng không nhỏ đến lợi ích toàn xã hội. Vì vậy, trình tự thành lập doanh nghiệp phải được tiến hành trong khuôn khổ của pháp luật. Các quy định về thành lập doanh nghiệp không những phải đảm bảo quyền tự do kinh doanh của nhà đầu tư mà còn phải đáp ứng nhu cầu của quản lý Nhà nước đối với doanh nghiệp. Trên thực tế, thủ tục thành lập doanh nghiệp có ý nghĩa xác lập tư cách pháp lý cho doanh nghiệp. Cũng giống như quyền thành lập doanh nghiệp, trước đây, thủ tục thành lập doanh nghiệp được quy định khác nhau tương ứng với mỗi loại hình doanh nghiệp. Với vai trò là đạo luật áp dụng chung cho tất cả các doanh nghiệp thuộc thành phần sở hữu khác nhau, Luật Doanh nghiệp năm 2005 đã đưa ra những quy định nhằm thống nhất về thủ tục đăng ký kinh doanh như sau: Thứ nhất, tất cả các loại hình doanh nghiệp không phân biệt tính chất sở hữu và thành phần kinh tế, nguồn gốc vốn đầu tư, doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp có vốn trong nước hay có vốn nước ngoài khi thành lập doanh nghiệp đều tuân theo quy định của Điều 15 Luật Doanh nghiệp năm 2005. Từ những ngày đầu ban hành, đây được xem là một trong những điểm mới cơ bản của pháp luật về doanh nghiệp, chấm dứt quy trình phức tạp khi thành lập doanh nghiệp nhà nước hay doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Biểu hiện cụ thể của sự phức tạp đó là:
  • 43. 37 - Về quy trình thành lập mới công ty nhà nước, đầu tiên người có thẩm quyền đề xuất thành lập phải lập đề án thành lập công ty nhà nước và hồ sơ thành lập mới công ty nhà nước gửi cho người có thẩm quyền. Trước khi ra quyết định thành lập mới công ty nhà nước, người có thẩm quyền phải lập hội đồng thẩm định đề án thành lập mới công ty nhà nước. Hội đồng thẩm định phải xem xét các điều kiện thành lập mới công ty nhà nước theo quy định của Điều 8 Luật Doanh nghiệp nhà nước năm 2003. Trên cơ sở kết quả thẩm định, người có quyền thành lập công ty nhà nước ra quyết định thành lập công ty. Sau khi có quyết định thành lập, công ty phải đăng ký kinh doanh tại phòng đăng ký kinh doanh cấp tỉnh nơi công ty có trụ sở chính. Cuối cùng, khi có giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, công ty mới tiếp nhận vốn từ ngân sách nhà nước hoặc huy động vốn để hoạt động kinh doanh. Như vậy, với một quy trình phức tạp và có sự tham gia của rất nhiều tổ chức, cá nhân có thẩm quyền, các nhà làm luật mong muốn đảm bảo chắc chắn an toàn cho nguồn vốn từ ngân sách nhà nước. Song trên thực tế, các doanh nghiệp nhà nước được thành lập với thủ tục rườm rà đó lại không đem lại hiệu quả như mong muốn. Có thể nói, Luật Doanh nghiệp nhà nước năm 2003 quá chú trọng ở khâu thành lập mà không có những quy định cụ thể và rõ ràng về vấn đề quản lý vốn nhà nước cũng như kiểm tra, giám sát hoạt động của công ty. Điều này không phù hợp với xu hướng cải cách thủ tục hành chính hiện nay cũng như nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước. Do đó, những quy định này được thay thế bằng những quy định hợp lý hơn là một đòi hỏi tất yếu. - Về quy trình thành lập doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, có thể nói đó là quy trình phức tạp hơn nhiều so với quy trình thành lập doanh nghiệp có vốn đầu tư trong nước. Trừ một số doanh nghiệp thoả mãn những điều kiện nhất định được áp dụng thủ tục đăng ký cấp giấy phép đầu tư theo quy định tại Điều 17 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đầu tư nước
  • 44. 38 ngoài tại Việt Nam ngày 22/06/2000 thì hầu hết doanh nghiệp có vốn nước ngoài được thành lập thông qua thủ tục thẩm định cấp giấy phép đầu tư. Thủ tục này đòi hỏi các nhà đầu tư mất rất nhiều thời gian và chi phí để xây dựng hồ sơ xin cấp giấy phép đầu tư, nhất là xây dựng giải trình kinh tế kỹ thuật. Với quy định bao gồm nhiều công đoạn như trên, pháp luật về doanh nghiệp đã không đảm bảo nguyên tắc bình đẳng giữa nhà đầu tư trong và ngoài nước ngay từ khâu thành lập doanh nghiệp. Trong Luật Doanh nghiệp năm 2005, nhà làm luật đã quy định thủ tục đăng ký kinh doanh áp dụng cho các loại hình doanh nghiệp tương tự như thủ tục quy định trong Luật Doanh nghiệp năm 1999. Đó là quy trình, thủ tục thể hiện một bước phát triển so với Luật Công ty và Luật Doanh nghiệp tư nhân khi đã bãi bỏ thủ tục xin phép đầu tư thành lập doanh nghiệp gây rất nhiều phiền hà cho nhà đầu tư. Theo đó, nhà đầu tư gửi hồ sơ đăng ký kinh doanh đến các cơ quan có thẩm quyền là phòng đăng ký kinh doanh cấp tỉnh. Trong hồ sơ còn phải có thêm văn bản xác nhận vốn pháp định của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền đối với doanh nghiệp kinh doanh ngành, nghề mà theo quy định của pháp luật phải có vốn pháp định hoặc chứng chỉ hành nghề của giám đốc và cá nhân khác đối với doanh nghiệp kinh doanh ngành, nghề mà theo quy định của pháp luật phải có chứng chỉ hành nghề. Cơ quan đăng ký kinh doanh sẽ dựa trên những điều kiện pháp luật quy định để xem xét việc cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh cho doanh nghiệp. Đồng thời, cơ quan này sẽ chịu trách nhiệm về tính hợp lệ trong khi người thành lập doanh nghiệp sẽ phải chịu trách nhiệm về tính chính xác, trung thực của hồ sơ đăng ký kinh doanh. Người thành lập doanh nghiệp chỉ bị từ chối cấp giấy chứng nhận kinh doanh trong trường hợp người đó không có đủ điều kiện theo luật định. Trong trường hợp đó, cơ quan đăng ký kinh doanh sẽ phải gửi thông báo bằng văn bản nêu rõ lý do từ chối cho người thành lập doanh nghiệp. Sau khi được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, doanh nghiệp được ghi
  • 45. 39 tên vào sổ đăng ký kinh doanh và kể từ thời điểm đó, doanh nghiệp có tư cách chủ thể kinh doanh và có quyền tiến hành các hoạt động kinh doanh. Tuy nhiên, doanh nghiệp vẫn phải có nghĩa vụ công bố nội dung của giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh như là một khâu trong quy trình thành lập. Như vậy, một cách tổng quát nhất, việc tiến hành thành lập doanh nghiệp theo Luật Doanh nghiệp năm 2005 cũng bao gồm những bước cơ bản như trên. Song Luật Doanh nghiệp năm 2005 đã rút ngắn thời hạn cơ quan đăng ký kinh doanh phải xem xét hồ sơ để cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh cho nhà đầu tư từ 15 ngày xuống còn 10 ngày làm việc. Sự thay đổi này đã đáp ứng được nhu cầu của các nhà đầu tư, bởi lẽ nếu phải chờ đợi quá lâu, họ có thể sẽ đánh mất cơ hội kinh doanh. Đồng thời, Luật Doanh nghiệp năm 2005 đã quy định rõ ràng và chi tiết hơn về hồ sơ đăng ký kinh doanh cho từng loại hình doanh nghiệp. Một điểm mới nữa của Luật Doanh nghiệp năm 2005 cũng rất có ý nghĩa trong việc đảm bảo cho nhà đầu tư có thể tiến hành thành lập doanh nghiệp một cách thuận lợi hơn chính là việc mở rộng hình thức công bố nội dung đăng ký kinh doanh. Theo đó, doanh nghiệp không nhất thiết phải công bố theo hình thức “đăng báo địa phương hoặc báo hàng ngày của trung ương trong ba số liên tiếp” mà còn có thể công bố đăng ký kinh doanh bằng cách “đăng trên mạng thông tin doanh nghiệp của cơ quan đăng ký kinh doanh hoặc một trong các loại tờ báo viết hoặc báo điện tử trong ba số liên tiếp” về các nội dung chủ yếu của Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh (Khoản 1 Điều 28 Luật Doanh nghiệp năm 2005). Những quy định mới trên đây không những phù hợp với tình hình thực tiễn trong thời đại công nghệ thông tin, làm giảm chi phí trong hoạt động quản lý nhà nước, mà còn khuyến khích đầu tư, đóng góp tích cực vào tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, có ý kiến lại cho rằng, càng quy định dễ dàng trong khâu đăng ký kinh doanh thì môi trường đầu tư càng bị ảnh hưởng xấu