SlideShare a Scribd company logo
1 of 102
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
TRẦN THỊ HUYỀN TRANG
BẢO ĐẢM QUYỀN CỦA TRẺ EM KHUYẾT TẬT
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Chuyên ngành: Pháp luật về quyền con ngƣời
Mã số: Chuyên ngành đào tạo thí điểm
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS.TS CHU HỒNG THANH
HÀ NỘI - 2014
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố
trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn
trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực.
Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các
nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc
gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN
Trần Thị Huyền Trang
MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục chữ viết tắt
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chƣơng 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN CỦA TRẺ
EM KHUYẾT TẬT............................................................................ 9
1.1. Trẻ em khuyết tật ............................................................................... 9
1.1.1. Khái niệm trẻ em.................................................................................. 9
1.1.2. Khái niệm trẻ em khuyết tật...............................................................11
1.1.3. Ảnh hưởng của tình trạng khuyết tật đến hoạt động của trẻ ..............17
1.1.4. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng khuyết tật ở trẻ...............................18
1.1.5. Phân loại trẻ em khuyết tật.................................................................20
1.2. Quyền của trẻ em khuyết tật và Bảo đảm quyền của trẻ em
khuyết tật...........................................................................................22
1.2.1. Khái niệm Quyền của trẻ em khuyết tật.............................................22
1.2.2. Khái niệm Bảo đảm quyền của trẻ em khuyết tật ..............................27
Tiểu kết chƣơng 1..........................................................................................29
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG BẢO ĐẢM QUYỀN CỦA TRẺ EM
KHUYẾT TẬT Ở VIỆT NAM HIỆN NAY...................................30
2.1. Tình trạng trẻ em khuyết tật ở Việt Nam hiện nay ......................30
2.2. Thực trạng Bảo đảm quyền của trẻ em khuyết tật trong lĩnh
vực xây dựng pháp luật ...................................................................31
2.2.1. Thành tựu ...........................................................................................32
2.2.2. Hạn chế...............................................................................................34
2.3. Thực trạng Bảo đảm một số quyền của trẻ em khuyết tật...........37
2.3.1. Quyền được giáo dục .........................................................................38
2.3.2. Quyền được hưởng bảo trợ xã hội......................................................42
2.3.3. Quyền được chăm sóc sức khỏe.........................................................46
2.3.4. Quyền được tham gia hoạt động văn hóa, thể thao, giải trí ...............50
2.3.5. Quyền được tiếp cận cơ sở hạ tầng, dịch vụ công cộng.....................53
2.4. Thực trạng bảo đảm quyền của trẻ em khuyết tật trong cộng đồng ...57
2.4.1. Thành tựu..........................................................................................57
2.4.2. Hạn chế..............................................................................................60
Tiểu kết Chƣơng 2.........................................................................................63
Chƣơng 3: PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM
QUYỀN CỦA TRẺ EM KHUYẾT TẬT .......................................64
3.1. Phƣơng hƣớng Bảo đảm quyền của trẻ em khuyết tật.................64
3.1.1. Thể chế hóa quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước về trẻ
em khuyết tật ......................................................................................64
3.1.2. Khắc phục những hạn chế trong quá trình bảo đảm quyền của trẻ
em khuyết tật ......................................................................................65
3.1.3. Tăng cường hoạt động tuyên truyền về trẻ em khuyết tật trong
cộng đồng ...........................................................................................67
3.1.4. Tích cực, chủ động hợp tác và đối thoại quốc tế ...............................67
3.2. Giải pháp Bảo đảm quyền của trẻ em khuyết tật .........................69
3.2.1. Về xây dựng pháp luật .......................................................................70
3.2.2. Về một số quyền cụ thể......................................................................75
3.2.3. Về phía cộng đồng..............................................................................84
3.2.4. Về phía bản thân trẻ khuyết tật ..........................................................86
Tiểu kết chƣơng 3..........................................................................................89
KẾT LUẬN....................................................................................................91
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................94
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
CRC Công ước quốc tế về quyền trẻ em 1989 (Convention on the
Rights of the Childs)
CRPD Công ước về quyền của người khuyết tật 2007 (Convention on
the Rights of Persons with Disabilities)
ICCPR Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị 1966
(International Convenant on Civil and Political Rights)
ICCSCR Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa 1996
(International Convenant on Economic, Social and Cultural Rights).
UDHR Tuyên ngôn quốc tế Nhân quyền 1948 (The Universal
Declaration of Human Rights)
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong luật nhân quyền quốc tế, phần nội dung về quyền của các nhóm
xã hội dễ bị tổn thương chiếm vị trí rất quan trọng. Kể từ khi Liên Hợp Quốc
thành lập (1945), nhiều văn kiện quốc tế về nhân quyền đã được tổ chức này
thông qua, trong đó có một số lượng ngày càng lớn văn kiện đề cập đến quyền
của các nhóm xã hội dễ bị tổn thương. Đây là các nhóm, cộng đồng có vị thế
về chính trị, xã hội hoặc kinh tế thấp hơn, từ đó khiến họ có nguy cơ cao hơn
trong việc bị bỏ quên hay bị vi phạm các quyền con người, bởi vậy, họ cần
được chú ý bảo vệ đặc biệt so với những nhóm, cộng đồng người khác. Nhóm
này bao gồm: phụ nữ, trẻ em, người khuyết tật, người sống chung với HIV,
người di tản hoặc tìm kiếm nơi lánh nạn, người không quốc tịch, người thiểu
số, người lao động di trú… Trong đó, người khuyết tật nói chung và trẻ em
khuyết tật nói riêng được coi là một trong các nhóm thiểu số lớn nhất trên thế
giới và cũng là một trong những nhóm dễ bị tổn thương nhất.
Quyền của người khuyết tật được pháp luật quốc tế ghi nhận, và ngày
càng được quan tâm đặc biệt. Tháng 11 năm 1989, Công ước về Quyền trẻ em
được thông qua, đây là Công ước đầu tiên về quyền con người mà trong đó có
dẫn chiếu cụ thể đến người khuyết tật, và có một điều riêng biệt về quyền và
nhu cầu của trẻ em khuyết tật (Điều 23). Sau đó, hàng loạt các hướng dẫn, các
quy tắc, các khuyến nghị về vấn đề này được ban hành nhằm thúc đẩy và bảo
vệ hơn nữa quyền của nhóm người khuyết tật nói chung và trẻ em khuyết tật
nói riêng, quan trọng nhất là Công ước về quyền của những người khuyết tật
được Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua vào tháng 03/2007 đã đánh dấu
một bước ngoặt trong cuộc đấu tranh cho quyền của những người khuyết tật
trên thế giới.
2
Ở Việt Nam, người khuyết tật được hưởng tất cả các quyền công dân
cơ bản, không có bất kỳ sự phân biệt đối xử nào dựa trên tình trạng khuyết tật
của họ. Ngoài ra, pháp luật Việt Nam cũng quy định những đối xử ưu đãi với
người khuyết tật, nhằm bù đắp những thiệt thòi của họ, cũng như để đảm bảo
sự bình đẳng thực chất về các quyền và cơ hội với mọi công dân. Đặc biệt,
Luật người khuyết tật năm 2010 vừa mới được thông qua, đã góp phần cải
thiện đời sống người khuyết tật, làm thay đổi nhận thức xã hội về người
khuyết tật, tạo môi trường pháp lý, môi trường xã hội thuận lợi để người
khuyết tật hòa nhập cộng đồng, khuyến khích các tổ chức, cá nhân trong và
ngoài nước tham gia trợ giúp người khuyết tật.
Nhưng trên thực tế, xuất phát từ việc bản thân người khuyết tật bị hạn
chế trong việc truyền tải nhu cầu, mong muốn của mình tới cộng đồng, xã hội,
cũng như những cơ quan hoạch định chính sách, pháp luật, nên các quy định
Nhà nước đưa ra thường dựa trên cơ sở suy đoán về mức độ suy giảm sức
khỏe của họ. Những suy đoán đó đa phần chứa đựng yếu tố chủ quan nên
nhiều khi không đáp ứng được nhu cầu, không phù hợp với khả năng và chưa
thực sự tạo điều kiện cho người khuyết tật. Bên cạnh đó, họ là đối tượng phải
chịu những khó khăn rất lớn về mặt vật chất và tinh thần, đồng thời, tình trạng
khuyết tật khiến họ đã và đang phải chịu những thiệt thòi trên tất cả các
phương diện của đời sống xã hội mặc dù xét ở góc độ con người, tất cả sinh ra
đều có những nhu cầu cơ bản giống nhau về sự tự do, bình đẳng, được tôn
trọng phẩm giá, được cống hiến, được khẳng định giá trị cá nhân…
Đặc biệt, với những trẻ em khuyết tật, thì những khó khăn còn tăng lên
đáng kể. Bởi trước hết, trẻ em nói chung vốn là đối tượng cần sự quan tâm,
chăm sóc, được tạo mọi điều kiện thuận lợi cho sự phát triển cả về thể chất
lẫn tinh thần. Tuy nhiên, với những trẻ em mang trong mình nhiều thiệt thòi
từ khi sinh ra như: dị tật bẩm sinh; vĩnh viễn không nghe được âm thanh của
3
cuộc sống; không được trò chuyện như các bạn cùng trang lứa; hay không
cảm nhận thấy ánh sáng của cuộc đời… thì việc tiếp cận những gì tốt đẹp nhất
dường như quá xa vời. Phải sống trong sự kì thị, phân biệt đối xử của mọi
người xung quanh, kết hợp với mặc cảm tự ti về bản thân mình, khiến nhiều
trẻ em khuyết tật không dám đến các nơi công cộng vì sợ những ánh mắt để ý;
không dám đến trường vì sợ bạn bè trêu chọc… Bên cạnh đó, một thực tế chỉ
ra rằng, đa số trẻ em khuyết tật đều sống trong nghèo khó; và dễ bị bạo hành
hoặc lạm dụng; bị đối xử vô trách nhiệm, ngược đãi hay bóc lột; trong khi đó,
việc tiếp cận với sự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp lại gặp nhiều trở ngại vì
những lý do khách quan và chủ quan. Có thể thấy, trẻ em khuyết tật thực sự
phải trải qua nhiều khó khăn, phải đối mặt với nhiều rào cản để được hưởng
trọn vẹn những quyền vốn có của mình. Rào cản này không chỉ nằm ở bản
thân của sự khuyết tật, mà còn là tổng hợp những trở ngại về mặt xã hội, văn
hóa, quan điểm và cả về vật chất mà trẻ em khuyết tật phải đối mặt trong đời
sống hàng ngày.
Chính vì những lý do trên, mà tác giả đã chọn chủ đề “Bảo đảm quyền
của trẻ em khuyết tật ở Việt Nam hiện nay” làm đề tài luận văn thạc sỹ của
mình. Với cách tiếp cận thông qua lăng kính nhân quyền, luận văn mong
muốn góp phần tích cực vào việc đề xuất những ý kiến, giải pháp trong hoạch
định và thực thi chính sách pháp luật về quyền của trẻ em khuyết tật ở Việt
Nam. Đồng thời qua đó, nâng cao hiểu biết, thái độ cảm thông đến nhóm đối
tượng dễ bị tổn thương này.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Ở Việt Nam, đề tài quyền của người khuyết tật là vấn đề được nhiều cơ
quan nhà nước, tổ chức xã hội, trường đại học, viện nghiên cứu, tổ chức liên
chính phủ, tổ chức phi chính phủ quan tâm. Đặc biệt, trong thời đại hội nhập
kinh tế quốc tế hiện nay, vấn đề quyền con người ngày càng được chú trọng
4
thì quyền của các nhóm người dễ bị tổn thương nói chung và quyền của người
khuyết tật nói riêng cũng nhận được nhiều chú ý, các công trình nghiên cứu
về vấn đề này cũng tăng lên cả về số lượng lẫn chất lượng.
Bên cạnh đó, trẻ em cũng là chủ đề đã được nghiên cứu từ rất lâu, với
nhiều công trình dưới các hình thức như giáo trình, sách chuyên khảo, tham
khảo, luận án, luận văn, bài báo, các buổi hội thảo… nhằm mục đích tăng
cường hơn nữa công tác bảo vệ lợi ích và quyền của trẻ em trong phạm vi
quốc gia và cộng đồng quốc tế.
Tuy nhiên, các nghiên cứu đó chỉ dừng lại ở mức độ chung, khái quát
về nhóm người khuyết tật hoặc nhóm trẻ em. Tính đến thời điểm hiện tại,
chưa có một công trình nào nghiên cứu cụ thể, toàn diện, đi sâu về lĩnh vực
Bảo đảm quyền của trẻ em khuyết tật ở Việt Nam dưới góc độ quyền con
người nhìn từ chính sách đến thực tiễn thi hành.
Ở nước ta, trong những năm qua, có một số công trình liên quan nghiên
cứu về Quyền của người khuyết tật, tiêu biểu như sau:
- Khoa Luật, Đại học quốc gia Hà Nội (2011), Luật quốc tế về quyền
của các nhóm người dễ bị tổn thương, Nxb Lao động – xã hội.
- Hoàng Thị Kim Quế (2010), Chủ nhiệm đề tài, “Hoàn thiện pháp luật
về bảo đảm quyền của các nhóm xã hội dễ bị tổn thương”, Đề tài nghiên cứu
khoa học, Khoa Luật, ĐHQG Hà Nội.
- Lê Bạch Dương – Đặng Nguyên Anh – Khuất Thu Hồng – Lê Hoài
Trung – Robert Leroy Bach (2005), Bảo trợ xã hội cho những nhóm thiệt thòi
ở Việt Nam, Nxb Thế giới
- Hà Đình Bốn – Phó Vụ trưởng vụ Pháp chế - Bộ Lao động thương
binh và xã hội, Hội đồng phối hợp công tác phổ biến, giáo dục pháp luật của
Chính phủ, Đặc san (2010), “Tuyên truyền pháp luật, (số 05), Chủ đề: Luật
người khuyết tật”, Hà Nội.
5
- Báo cáo đánh giá (2009), Quyền của trẻ em khuyết tật tại Việt Nam –
Đưa luật pháp của Việt Nam phù hợp với Công ước Liên Hợp Quốc về
Quyền của Người khuyết tật, tháng 12/2009, của Eric Rosenthal và Viện
Quốc tế bảo vệ quyền người khuyết tật tâm thần thực hiện theo yêu cầu của
UNICEF Việt Nam.
- Báo cáo của nghiên cứu viên về (2011), Người khuyết tật ở Việt Nam,
Một số kết quả chủ yếu từ Tổng điều tra Dân số và nhà ở Việt Nam, là xuất
bản phẩm thứ 9 trong tập hợp các ấn phẩm được Quỹ dân số Liên hợp Quốc
(UNFPA) công bố vào 2011.
- Báo cáo thường niên năm (2010), Về hoạt động hỗ trợ người khuyết tật
Việt Nam, của Ban điều phối các hoạt động hỗ trợ người tàn tật Việt Nam NCCD.
- Báo cáo (2010), Phân tích tình hình trẻ em tại Việt Nam, 2010 do
UNICEF xây dựng dưới sự cộng tác với Chính phủ Việt Nam về quyền trẻ em.
Như vậy, có thể thấy, các công trình nghiên cứu về người khuyết tật
khá phong phú, song so với yêu cầu thực tiễn thì còn khiêm tốn, chỉ dừng lại
ở mức chung, khái quát nhất, chưa đi sâu vào các mảng cụ thể. Vì vậy, việc
nghiên cứu vấn đề Quyền của trẻ em khuyết tật ở Việt Nam trong thời điểm
hiện tại là hết sức cần thiết cả về lý luận và thực tiễn. Luận văn sẽ góp phần
làm phong phú hơn nguồn tài liệu về lĩnh vực này, đồng thời, bổ sung thêm
kiến thức về đảm bảo quyền của người khuyết tật nói chung và của trẻ em
khuyết tật nói riêng.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
- Nghiên cứu tổng quan về tình hình trẻ em khuyết tật ở Việt Nam.
- Đánh giá được thực trạng đảm bảo quyền của trẻ em khuyết tật ở
nước ta hiện nay trong các khía cạnh xây dựng pháp luật, thực thi pháp luật,
từ phía cộng đồng… Từ đó rút ra được các quyền mà trẻ em khuyết tật dễ bị
xâm phạm và bị bỏ qua trên thực tế.
6
- Đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện hơn nữa chính sách về bảo
đảm quyền của trẻ em khuyết tật ở Việt nam hiện nay, hướng đến phù hợp với
pháp luật quốc tế.
3.2. Nhiệm vụ
- Nghiên cứu, làm rõ vấn đề lý luận về quyền của trẻ em khuyết tật.
- Nghiên cứu quy định của pháp luật Việt Nam trên cơ sở so sánh, đối
chiếu với pháp luật quốc tế về bảo đảm quyền của trẻ em khuyết tật.
- Đánh giá thực trạng việc thực thi pháp luật về bảo đảm quyền của trẻ
em khuyết tật ở Việt Nam: những thành tựu đạt được, hạn chế tồn tại, và rút
ra được nguyên nhân của thành tựu, hạn chế đó.
- Từ đó, đưa ra khuyến nghị nhằm cải thiện tính bất cập của pháp luật
và đề xuất các giải pháp nhằm bảo đảm quyền của trẻ em khuyết tật ở Việt
Nam hiện nay.
4. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn sẽ tập trung vào các vấn đề sau:
- Thực trạng pháp luật Việt Nam về bảo đảm quyền của trẻ em khuyết tật.
- Đánh giá tính đúng đắn, mức độ phù hợp giữa các quy định trong
pháp luật Việt Nam với tình hình thực tế, đồng thời xem xét các yếu tố tác
động tới việc thực thi pháp luật về bảo đảm quyền của trẻ em khuyết tật.
5. Cơ sở phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
- Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa duy
vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mac – Lenin; Các
nguyên tắc nền tảng của luật nhân quyền quốc tế; Các quan điểm về
quyền của người khuyết tật nói chung và của trẻ em khuyết tật nói riêng
trên thế giới.
- Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau: phân tích, tổng
hợp, xã hội học, thống kê, so sánh, đánh giá… để làm sáng tỏ các vấn đề liên
7
quan, đồng thời học hỏi kinh nghiệm thực tiễn của các nhà nghiên cứu về vấn
đề quyền của trẻ em khuyết tật.
6. Kết quả và ý nghĩa của luận văn
Kết quả nghiên cứu của Luận văn sẽ góp phần cung cấp những tri thức
khoa học cơ bản mang tính lý luận được nhìn nhận dưới góc độ quyền con
người về bảo đảm quyền của trẻ em khuyết tật; giúp người đọc nhận thức đầy
đủ và toàn diện hơn quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà
nước về quyền và đảm bảo quyền cho trẻ em khuyết tật.
Luận văn cũng nêu bật được các quyền mà trẻ em khuyết tật Việt Nam
dễ và đang bị bỏ qua hay bị xâm phạm; đồng thời tìm hiểu thực trạng của việc
đảm bảo quyền của trẻ em khuyết tật, rút ra nguyên nhân của những thành tựu
và hạn chế trong việc bảo đảm quyền của đối tượng này. Từ đó, là cơ sở cho
việc nghiên cứu, bổ sung để hoàn chỉnh hơn các quyền, cách thức đảm bảo
quyền cho trẻ em khuyết tật ở Việt Nam hiện nay.
7. Điểm mới của luận văn
Luận văn là một trong những công trình nghiên cứu đầu tiên, có tính hệ
thống thông qua lăng kính nhân quyền về vấn đề “Bảo đảm quyền của trẻ em
khuyết tật ở Việt Nam hiện nay”, và đã có những điểm mới nổi bật như sau:
- Thông qua việc làm sáng tỏ những vấn đề chung có liên quan đến trẻ
em khuyết tật, luận văn đã đưa ra được khái niệm trẻ em khuyết tật, khái niệm
quyền trẻ em khuyết tật và khái niệm đảm bảo quyền của trẻ em khuyết tật.
- Đánh giá có hệ thống và khái quát về thực trạng bảo đảm quyền của
trẻ em khuyết tật trong một số lĩnh vực cụ thể, nêu rõ thành tựu, hạn chế và
đưa ra được nguyên nhân có các thành tựu và hạn chế đó.
- Đề xuất các quan điểm, giải pháp cơ bản nhằm bảo đảm có hiệu quả
các quyền của trẻ em khuyết tật trong các lĩnh vực: xây dựng, thực thi pháp
luật, thái độ của cộng đồng và nhận thức của bản thân trẻ bị khuyết tật.
8
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Phần Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo,
kết cấu luận văn chia làm ba chương như sau:
Chương 1. Lý luận chung về bảo đảm quyền của trẻ em khuyết tật.
Chương 2. Thực trạng bảo đảm quyền của trẻ em khuyết tật ở Việt Nam.
Chương 3. Phương hướng và giải pháp bảo đảm quyền của trẻ em
khuyết tật ở Việt Nam.
9
Chƣơng 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN
CỦA TRẺ EM KHUYẾT TẬT
1.1. Trẻ em khuyết tật
1.1.1. Khái niệm trẻ em
Từ lâu, trẻ em vốn được coi là một trong các nhóm xã hội dễ bị tổn
thương và được nhà nước, cá nhân, các tổ chức xã hội quan tâm bảo vệ. Do
đó, việc xác định thế nào được gọi là trẻ em chính là cơ sở để thực hiện và
phát huy sự quan tâm đó.
Trong Công ước về quyền trẻ em 1989 (Convention on the Rights of
the Child – CRC) - văn kiện quốc tế cơ bản, toàn diện nhất về trẻ em tính đến
thời điểm này đã định nghĩa “Trẻ em có nghĩa là bất kỳ người nào dưới 18
tuổi, trừ trường hợp pháp luật có thể được áp dụng với trẻ em đó quy định
tuổi thành niên sớm hơn” (Điều 1). Và để làm rõ khái niệm trẻ em, ngay
trong lời nói đầu của Công ước đã nêu rõ “trẻ em, do còn non nớt về thể chất
và trí tuệ, cần phải được bảo vệ và chăm sóc đặc biệt, kể cả sự bảo vệ thích
hợp về mặt pháp lý trước cũng như sau khi ra đời”. Theo đó, trẻ em là những
người đảm bảo đầy đủ các điều kiện sau: Một là, phải là người còn non nớt về
thể chất và trí tuệ; Hai là, cần được bảo vệ và chăm sóc đặc biệt; Ba là người
từ 0 đến dưới 18 tuổi.
Do mỗi nước có quan niệm không giống nhau về trẻ em, nên độ tuổi
được xác định là trẻ em cũng khác nhau, và Công ước về quyền trẻ em đã quy
định vấn đề này theo hướng mở. Tức là, tuổi 18 được coi là mức tiêu chuẩn
nhưng không phải cố định, bắt buộc, mà cho phép mỗi quốc gia tùy thuộc vào
điều kiện kinh tế xã hội của nước mình, có thể quy định độ tuổi trẻ em sớm hơn
(dưới 18 tuổi). Tuy nhiên, việc quy định mang tính chất mềm dẻo này, có thể
10
làm số lượng trẻ em được bảo vệ theo Công ước giảm đi ở một số nước, nhưng
lại có tác dụng tích cực trong việc tăng lên về số lượng các quốc gia chấp nhận
tham gia công ước. Điều đó kéo theo việc bảo vệ, chăm sóc trẻ em theo quy
định của điều ước quốc tế này trở nên phổ biến ở nhiều nơi trên thế giới.
Liên quan đến khái niệm Trẻ em, Liên hợp quốc còn dùng khái niệm
“người chưa thành niên”. Theo quy tắc Bắc Kinh (Những quy tắc tối thiểu,
phổ biến của Liên hợp quốc về việc áp dụng pháp luật đối với người chưa
thành niên ngày 20/11/1985) nêu rõ “người chưa thành niên là người dưới 18
tuổi”. Họ là người chưa phát triển đầy đủ về thể chất cũng như về tâm sinh lý,
trình độ nhận thức và kinh nghiệm sống của họ bị hạn chế, thiếu những điều
kiện và bản lĩnh tự lập, khả năng kiềm chế kém, dễ bị kích động, lôi kéo vào
các hoạt động phiêu lưu mạo hiểm. Như vậy, việc sử dụng những khái niệm
này có ý nghĩa quan trọng về mặt pháp lý. Liên hợp quốc đặt các em trong đối
tượng điều chỉnh của pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia với mục đích
bảo vệ quyền trẻ em và người chưa thành niên khi phạm pháp. Kêu gọi các
nước thành viên tham gia CRC phải quan tâm đầy đủ đến các biện pháp; tích
cực, huy động các nguồn lực có thể để giúp đỡ trẻ em và người chưa thành
niên nhằm giảm sự can thiệp của pháp luật và xử lý người chưa thành niên
phạm pháp một cách công bằng, nhân đạo và hiệu quả.
Ở Việt Nam cũng không có một định nghĩa chung về trẻ em.
Theo Điều 1 Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004 thì trẻ
em là “công dân Việt Nam dưới 16 tuổi”. Như vậy, độ tuổi được coi là trẻ em
trong pháp luật nước ta thấp hơn so với quy định trong Điều 1 Công ước quốc
tế về quyền trẻ em. Tuy nhiên, đây không bị coi là trái với CRC vì Điều 1
Công ước này cho phép các quốc gia thành viên quy định độ tuổi được coi là
trẻ em thấp hơn 18 tuổi.
Bên cạnh khái niệm trẻ em, cũng giống như pháp luật quốc tế, pháp luật
11
Việt nam còn có khái niệm “người chưa thành niên” (là những người dưới 18
tuổi theo quy định tại Điều 18 Bộ luật Dân sự năm 2005); “lao động chưa
thành niên” (là những người lao động từ đủ 15 đến dưới 18 tuổi theo quy định
tại Điều 119 Bộ luật Lao động năm 1994, sửa đổi bổ sung năm 2002, 2006,
2007), và “người chưa thành niên phạm tội” (là những người phạm tội khi còn
dưới 18 tuổi, theo các quy định có liên quan trong Bộ luật Hình sự năm 1999,
sửa đổi bổ sung năm 2009). Ngoài ra, liên quan đến trẻ em, theo Luật giáo dục
năm 2005, sửa đổi bổ sung năm 2009 lại quy định người đang được nuôi
dưỡng, đào tạo trong hệ thống giáo dục mầm non “từ ba tháng đến sáu tuổi”
được coi là trẻ em (Điều 21), còn người từ 6 tuổi đến 18 tuổi gọi là học sinh.
Mặc dù không có một điều khoản thống nhất quy định rõ ràng về độ
tuổi trẻ em, nhưng về cơ bản, các quy định xung quanh khái niệm này đều
tương thích với điều khoản ghi nhận tại Công ước quốc tế về quyền trẻ em
1989. Do đó, có thể đưa ra định nghĩa chung nhất về trẻ em ở Việt Nam đó là:
Trẻ em là những người dưới 18 tuổi, vẫn còn non nớt về thể chất và trí tuệ, do
đó cần sự bảo vệ của cơ quan có thẩm quyền. Đây là cách định nghĩa phù hợp
với tinh thần của hệ thống pháp luật trong nước, đồng thời không mâu thuẫn
với quy định của pháp luật quốc tế. Việc xác định thống nhất khái niệm về trẻ
em có ý nghĩa khá quan trọng. Bởi nó sẽ là cơ sở để làm rõ các khái niệm có
liên quan đồng thời tạo điều kiện thực hiện có hiệu quả các biện pháp bảo vệ,
chăm sóc và giáo dục nhóm đối tượng dễ bị tổn thương này.
1.1.2. Khái niệm trẻ em khuyết tật
Trên phạm vi quốc tế lẫn khu vực hiện nay, chưa có một khái niệm cụ
thể về trẻ em khuyết tật. Việt Nam cũng không nằm ngoài xu hướng đó. Vì
vậy, để hiểu chính xác khái niệm trẻ em khuyết tật, trước hết, cần đi tìm hiểu
khái niệm người khuyết tật.
Trong một thời kỳ dài, người khuyết tật được coi là đối tượng phúc lợi
12
xã hội, việc bảo vệ hỗ trợ họ chủ yếu dựa trên tình thương và lòng nhân đạo
chứ không được nhìn nhận dưới tư cách chủ thể có quyền như công dân bình
thường. Những văn bản pháp luật quốc tế liên quan đến quyền con người
được các nước phê chuẩn từ những năm 1940 đến năm 1960 như: Tuyên ngôn
quốc tế Nhân quyền 1948 (The Universal Declaration of Human Rights - UDHR),
Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị 1966 (International
Convenant on Civil and Political Rights – ICCPR); Công ước quốc tế về các
quyền kinh tế, xã hội và văn hóa 1996 (International Convenant on Economic,
Social and Cultural Rights – ICCSCR)… cũng không trực tiếp đề cập đến
người khuyết tật.
Đến những năm 70, 80 của thế kỷ XX, dưới sự đấu tranh mạnh mẽ của
người khuyết tật và các hiệp hội của họ trên thế giới, nhận thức về người
khuyết tật là đối tượng của phúc lợi xã hội mới dần dần được thay thế thông
qua việc coi trọng năng lực của nhóm đối tượng này và coi vấn đề khuyết tật
là vấn đề bình thường trong xã hội. Sự chuyển biến về nhận thức đã dẫn đến
thay đổi cả cách gọi tên của nhóm này. Thay cho việc dùng từ Những người
tàn tật (Disable persons) có hàm ý miệt thị và hạ thấp, hiện nay, nhóm xã hội
này được gọi một cách tôn trọng là Những người khuyết tật (Persons with
Disabilities). Tuy nhiên, quá trình chuyển đổi nhận thức đó diễn ra trong
khoảng thời gian tương đối dài và không phải đã hết sự khác biệt.
Lịch sử phát triển của vấn đề này cho thấy đã có các quan điểm khác
nhau về khái niệm người khuyết tật. Hiện có hai quan điểm chính: quan điểm
khuyết tật cá nhân và quan điểm khuyết tật xã hội. [25]
- Quan điểm khuyết tật cá nhân hay Quan điểm khuyết tật dưới góc độ y
tế: Cho rằng khuyết tật là do chính bản thân con người đó, không liên quan quá
nhiều đến các yếu tố về môi trường xã hội và môi trường vật thể xung quanh
người khuyết tật. Quan niệm này nhìn nhận người khuyết tật như những người
13
có vấn đề về thể chất, cần được chữa trị bằng các phương pháp khoa học như:
thuốc điều trị hoặc công nghệ trị liệu. Lý giải rõ thêm cho quan điểm này, Tổ
chức y tế thế giới (WHO) đã phân ra ba loại mức độ suy giảm đó là: Khiếm
khuyết (impairment), Khuyết tật (disability), và Tàn tật (Handicap). Trong đó:
Khiếm khuyết chỉ tình trạng bị mất hoặc tình trạng bất bình thường của một
hay các bộ phận cơ thể hoặc chức năng tâm sinh lý. Khuyết tật chỉ sự giảm
thiểu chức năng hoạt động, là hậu quả của sự khiếm khuyết. Còn Tàn tật để chỉ
tình thế bất lợi hoặc thiệt thòi của người mang khiếm khuyết do tác động của
môi trường xung quanh lên tình trạng khuyết tật của họ.
Như vậy, quan điểm khuyết tật cá nhân hay quan điểm khuyết tật y tế
nhìn nhận vấn đề khuyết tật là hạn chế ở chính bản thân họ. Mô hình này chú
trọng vào việc trị liệu cá nhân chứ không xem trọng việc trị liệu xã hội. Khi bị
khuyết tật, chính bản thân những người này cần phải thay đổi chứ không phải
xã hội hay môi trường xung quanh họ cần phải thay đổi.
- Quan điểm khuyết tật theo mô hình xã hội: cho rằng, nhiều người bị
khiếm khuyết ở các cách khác nhau nhưng xã hội đã biến họ thành khuyết tật;
con người bị khiếm khuyết nhưng xã hội bị khuyết tật. Nói cách khác, mô
hình này coi xã hội là vấn đề cần giải quyết, và giải pháp là phải thay đổi toàn
bộ xã hội. Bên cạnh đó, nhấn mạnh việc xóa bỏ các yếu tố rào cản, tạo điều
kiện cho người khuyết tật được đối xử như những người bình thường khác,
giúp họ nhận thức đầy đủ các nghĩa vụ của mình với tư cách là một công dân.
Đây là mô hình khá nổi trội trong những nghiên cứu về khuyết tật trên thế
giới vào những năm 1990, nó được coi là mô hình có cơ sở lý thuyết và có
quy tắc riêng, là nền tảng những biến chuyển của vấn đề người khuyết tật.
Điểm khác biệt chủ yếu giữa hai quan điểm này là: nếu ở mô hình y tế,
nguyên nhân gây nên khuyết tật được xác định là do chính bản thân người
khuyết tật thì ở mô hình xã hội, khởi nguồn khuyết tật là ở xã hội. Hơn nữa,
14
bản chất của mô hình y tế là sự suy giảm về mặt thể chất, cảm giác và trí tuệ
người khuyết tật; còn mô hình xã hội, bản chất của khuyết tật là các rào cản
đã ngăn cản người khuyết tật tham gia vào các hoạt động đời sống. Nhìn
chung mỗi quan điểm đều có những điểm mạnh và hạn chế nhất định: Quan
điểm khuyết tật y tế có tác dụng tốt trong một số lĩnh vực cụ thể như y tế phục
hồi chức năng và đảm bảo xã hội. Còn quan điểm khuyết tật theo mô hình xã
hội cho thấy nguyên nhân gốc rễ của việc người khuyết tật bị tách biệt khỏi
cuộc sống chung, những bất lợi và vấn đề phân biệt đối xử.
Hiện nay trên thế giới, cũng không có khái niệm về người khuyết tật
được áp dụng chung cho tất cả các nước. Tùy vào điều kiện kinh tế xã hội,
truyền thống văn hóa mà mỗi quốc gia có định nghĩa khác nhau về vấn đề
này. Như, Điều 2 Luật của nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa về bảo vệ
người khuyết tật năm 1990 quy định:
Người khuyết tật là một trong những người bị bất thường,
mất mát của một cơ quan nhất định hoặc chức năng tâm lí hay
sinh lí, hoặc trong cấu trúc giải phẫu và những người đã mất
toàn bộ hoặc một phần khả năng tham gia vào các hoạt động một
cách bình thường.
Người khuyết tật là những người có thính giác, thị giác, lời
nói hoặc khuyết tật về thể chất, chậm phát triển tâm thần, rối loạn
tâm thần, khuyết tật nhiều và/hoặc khuyết tật khác.
Còn Luật về người khuyết tật ban hành năm 1995 của Ấn Độ định
nghĩa khuyết tật bao gồm những tình trạng bị mù, nghe kém, lành bệnh
phong; thị lực kém; suy giảm khả năng vận động; chậm phát triển trí óc và
mắc bệnh về tâm thần.
Hay ở Đức, sách số chín của Bộ luật xã hội định nghĩa:
15
Người khuyết tật là người có các chức năng về thể lực, trí
lực hoặc tâm lí tiến triển không bình thường so với người có cùng
độ tuổi trong thời gian trên 6 tháng và sự không bình thường này
là nguyên nhân dẫn đến việc họ bị hạn chế tham gia vào cuộc
sống xã hội.
Đạo luật về người khuyết tật của Hoa Kỳ năm 1990 định nghĩa: “Người
khuyết tật là người có sự suy yếu về thể chất hay tinh thần gây ảnh hưởng
đáng kể đến một hay nhiều hoạt động trong cuộc sống”. Cũng theo đạo luật
này, những ví dụ cụ thể về khuyết tật bao gồm: Khiếm khuyết về vận động,
thị giác, nói và nghe, chậm phát triển tinh thần, bệnh cảm xúc và những
khiếm khuyết cụ thể về học tập, bại não, động kinh, teo cơ, ung thư, bệnh tim,
tiểu đường, các bệnh lây và không lây như bệnh lao và bệnh do HIV (Có triệu
chứng hoặc không có triệu chứng).
Tháng 03/2007, Công ước về quyền của người khuyết tật (Convention
on the Rights of Persons with Disabilities - CRPD) đã được Đại hội đồng
Liên hợp quốc thông qua. Đây là điều ước quốc tế đầu tiên về quyền con
người của Liên hợp quốc trong thế kỷ XXI, đánh dấu một bước ngoặt trong
cuộc đấu tranh cho quyền của những người khuyết tật trên thế giới. Theo đó,
tại Điều 1 Công ước, người khuyết tật bao gồm “Những người có khiếm
khuyết lâu dài về thể chất, tâm thần, trí tuệ hoặc giác quan mà khi tương tác
với những rào cản khác nhau có thể phương hại đến sự tham gia hữu hiệu và
trọn vẹn của họ vào xã hội trên cơ sở bình đẳng với những người khác”. Mặc
dù vẫn còn những quan điểm khác nhau về những thuộc tính cấu thành khái
niệm “người khuyết tật”, tuy nhiên, đây là lần đầu tiên có một định nghĩa về
“người khuyết tật” được ghi nhận trong pháp luật quốc tế về quyền con người,
nó là cơ sở trong việc bảo vệ và thúc đẩy quyền của nhóm đối tượng này.
Ở Việt Nam hiện nay vẫn còn nhiều quan niệm khác nhau về người
16
khuyết tật hoặc người tàn tật. Đại đa số đều dùng từ khuyết tật và tàn tật để chỉ
cùng một khái niệm, và được dùng song song trên cả phương tiện truyền thông
đại chúng và văn bản pháp quy. Điều 1 Pháp lệnh về người tàn tật năm 1998
định nghĩa người tàn tật là: “Người bị khiếm khuyết một hay nhiều bộ phận cơ
thể hoặc chức năng biểu hiện dưới những dạng tật khác nhau, làm suy giảm
khả năng hoạt động khiến cho lao động, học tập gặp nhiều khó khăn”
Tuy nhiên, cùng với quá trình phát triển kinh tế - xã hội cũng như quá
trình hội nhập quốc tế, cụm từ “Người tàn tật” ngày càng được sử dụng ít đi,
thay vào đó là cụm từ “Người khuyết tật” với mục đích tạo sắc thái tình cảm
tích cực, coi trọng hơn, đề cao khả năng phục hồi hơn. Trong cuộc hội thảo do
Văn phòng Điều phối các hoạt động hỗ trợ người tàn tật Việt Nam (NCCD)
và Tổ chức Cứu trợ và Phát triển (CRS) thực hiện thì có đến 17 trên tổng số
19 ý kiến cho rằng nên thay cụm từ tàn tật bằng khuyết tật. [31]
Ngày 17/6/2010, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
đã thông qua Luật Người khuyết tật, có hiệu lực từ 01/01/2011 thay thế Pháp
lệnh về người tàn tật 1998, chính thức sử dụng khái niệm “Người khuyết tật”
thay cho khái niệm “Người tàn tật” hiện hành, phù hợp với xu hướng nhìn
nhận chung của thế giới. Theo quy định tại khoản 1 Điều 2 Luật Người
khuyết tật 2010 thì người khuyết tật được hiểu là “người bị khiếm khuyết một
hoặc nhiều bộ phận cơ thể hoặc bị suy giảm chức năng được biểu hiện dưới
dạng tật khiến cho lao động, sinh hoạt, học tập gặp khó khăn.” Khái niệm này
được đưa ra dựa vào mô hình xã hội và về cơ bản phù hợp với khái niệm
người khuyết tật trong Công ước về quyền của người khuyết tật năm 2007.
Như vậy, dựa trên định nghĩa về người khuyết tật và định nghĩa về trẻ
em, theo tác giả, Trẻ em khuyết tật được hiểu là những trẻ từ 0 đến 18 tuổi có
khiếm khuyết về cấu trúc cơ thể hoặc suy giảm các chức năng của cơ thể làm
hạn chế khả năng hoạt động, gây khó khăn trong sinh hoạt, học tập, xã hội.
17
Việc đưa ra khái niệm chung, thống nhất về trẻ em khuyết tật rất quan
trọng nhưng không phải dễ dàng, bởi ngay trong hệ thống pháp luật quốc gia
và pháp luật quốc tế cũng không có quy định cụ thể về vấn đề này, trong khi
các tiêu chí xác định khuyết tật hay độ tuổi được coi là trẻ em vẫn chưa thực
sự thống nhất. Vì vậy, cần phải có cái nhìn tổng thể về trẻ em và người
khuyết tật để hình thành khái niệm hợp lý nhất về trẻ em khuyết tật. Từ đó,
là cơ sở để phân loại, nghiên cứu, chăm sóc và bảo vệ nhóm đối tượng dễ bị
tổn thương này.
1.1.3. Ảnh hưởng của tình trạng khuyết tật đến hoạt động của trẻ
Trẻ em khuyết tật trước hết là con người nên họ mang những đặc điểm
chung về mặt kinh tế - xã hội, đặc điểm tâm sinh lí như mọi người. Tuy nhiên,
do khiếm khuyết về mặt thể chất nên họ có nét đặc thù tương đối so với trẻ
không khuyết tật, và cũng bởi những khiếm khuyết đó, mà họ gặp không ít
khó khăn trong quá trình sinh hoạt và tham gia vào các hoạt động xã hội.
Trước hết, trẻ khuyết tật sẽ gặp khó khăn trong việc tự chăm sóc bản
thân mình. Bởi do khiếm khuyết của cơ thể nên hầu hết công việc sinh hoạt
hàng ngày của trẻ phải dựa vào người thân trong gia đình. Đây là ảnh hưởng
trực tiếp nhất mà tình trạng khuyết tật gây ra cho chính bản thân họ.
Thứ hai, tình trạng khuyết tật gây khó khăn cho trẻ trong việc tiếp cận
cơ sở vật chất kĩ thuật và tham gia đầy đủ hoạt động giáo dục, việc làm, bệnh
viện, công trình phúc lợi xã hội… Bởi các thiết kế công cộng thường chỉ dành
cho những người có chức năng được thực hiện bình thường, việc xây dựng
làn đường, hoặc lối đi dành riêng cho người khuyết tật chưa phổ biến. Do vậy,
trẻ em khuyết tật khó tiếp cận với các dịch vụ giao thông, công cộng, giáo
dục, việc làm… dẫn đến họ bị cô lập hoặc loại trừ khỏi sinh hoạt của cộng
đồng. Từ chỗ khó tiếp cận các dịch vụ công cộng, tiếp cận giáo dục… trẻ
khuyết tật bị đẩy vào tình trạng có trình độ học vấn thấp hơn và cơ hội việc
18
làm thấp hơn. Khó khăn về vật chất dẫn đến thiệt thòi về tinh thần, tình trạng
khuyết tật này làm tăng nguy cơ nghèo đói, và sự nghèo đói lại làm tình trạng
khuyết tật trầm trọng hơn rất nhiều.
Thứ ba, khó khăn xuất phát từ tâm lý tự ti, mặc cảm, và thái độ kỳ thị
của xã hội nói chung. Bởi quan niệm của xã hội về người khuyết tật còn tiêu
cực, dẫn đến sự kì thị và phân biệt đối xử. Điều này diễn ra dưới nhiều hình
thức, ở nhiều bối cảnh khác nhau như gia đình, cộng đồng, trường học… Đối
với cộng đồng, trẻ khuyết tật được nhìn nhận là đối tượng “đáng thương”,
không có cuộc sống “bình thường”, là “gánh nặng” của toàn xã hội. Trong khi
những quy định ghi nhận ở nhiều đạo luật, nghị định lại chưa phổ biến, người
dân không biết đến sự tồn tại của các quy định đó nên không hiểu được trách
nhiệm và nghĩa vụ của mình đối với trẻ em khuyết tật là như thế nào… Từ đó,
dẫn đến sự kì thị, phân biệt đối xử. Điều này ảnh hưởng không nhỏ đến trạng
thái tâm lý của trẻ khuyết tật, khiến các em tự xây cho mình một rào cản với
thế giới bên ngoài. Đây chính là khó khăn lớn nhất, ảnh hưởng mạnh mẽ nhất
đến mọi hoạt động của trẻ em khuyết tật.
Có thể thấy, tình trạng khuyết tật gây ra ảnh hưởng lớn đến không chỉ
bản thân trẻ khuyết tật mà còn với cả gia đình có trẻ khuyết tật. Từ đó, hình
thành nên những rào cản hữu hình và vô hình, cản trở trẻ khuyết tật tham gia
vào các hoạt động xã hội, khó có điều kiện phát huy năng lực bản thân, hòa
nhập vào cộng đồng. Do vậy, cần có những biện pháp hữu hiệu nhằm hạn chế
phần nào tác động tiêu cực mà tình trạng khuyết tật đã gây ra.
1.1.4. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng khuyết tật ở trẻ
Có khá nhiều nguyên nhân dẫn đến khuyết tật ở trẻ em. Mặc dù chưa có
bằng chứng chính xác, nhưng có thể tổng hợp căn cứ vào tình hình khuyết tật
ở trẻ em và chia ra làm các nguyên nhân sau:
Một là, do di truyền gây dị tật bẩm sinh. Nguyên nhân của tình trạng
19
này là bởi kết hôn giữa những người cùng dòng máu. Vì thế, để ngăn ngừa,
cần tăng cường kiến thức về hôn nhân, giúp mọi người hiểu đúng và đầy đủ
về vấn đề này.
Hai là, trong thời kỳ mang thai, người mẹ bị ốm; sử dụng các chất kích
thích; bị nhiễm các chất độc hại trong môi trường như: chì, thủy ngân,
amiăng... Do đó, cần tăng cường giữ gìn sức khỏe cho mẹ và bé, đẩy mạnh
chương trình miễn dịch đối với những căn bệnh có thể phòng ngừa như tiêm
vacxin cúm, sốt, quai bị…
Ba là, do thiếu dinh dưỡng, bệnh tật để lại di chứng như trẻ có thể bị
mù do thiếu vitamin A, viêm não, sốt xuất huyết, sốt bại liệt... Vì vậy, cần
tăng cường chăm sóc trước khi sinh cho trẻ, đảm bảo cung cấp đầy đủ và có
chất lượng các dịch vụ y tế trước, trong và sau khi sinh. Đồng thời, nâng cao
nhận thức của cha mẹ đối với vấn đề chế độ dinh dưỡng và chăm sóc y tế cơ
bản cho con em mình.
Bốn là, do tai nạn xảy ra trong quá trình tham gia giao thông, trong sinh
hoạt và tham gia lao động. Đây là nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng
khuyết tật đối với trẻ em ở nhiều quốc gia trên thế giới. Vì vậy, cần thiết lập
và thực thi có hiệu quả các chính sách về an toàn giao thông, về an toàn và
bảo hộ lao động…
Năm là, do ảnh hưởng của chiến tranh, tàn tích của các loại vũ khí cũng
là nguyên nhân gây ra tình trạng khuyết tật ở nhiều nước trên thế giới. Như ở
Việt Nam, trải qua hai cuộc kháng chiến trường kỳ, nhất là khi Mỹ rải thuốc
diệt cỏ chứa chất độc đioxin đã ảnh hưởng trực tiếp đến người dân, và gây ra
tình trạng khuyết tật ở những đứa trẻ được sinh ra từ bố mẹ từng bị phơi
nhiễm chất độc này. Vì vậy, cần phải thực hiện các biện pháp cần thiết để bảo
vệ trẻ em khỏi những tác động có hại của chiến tranh và xung đột vũ trang đó.
Như vậy, có rất nhiều nguyên nhân gây ra khuyết tật ở trẻ em với tính
20
chất và mức độ rất khác nhau. Do vậy, cần nhận biết và ngăn chặn sớm để
giảm bớt phần nào số trẻ em bị khuyết tật đang ngày càng gia tăng trên phạm
vi toàn cầu. Đồng thời việc xác định rõ nguyên nhân gây ra khuyết tật của trẻ
sẽ là cơ sở giúp phân loại trẻ em khuyết tật, từ đó có cách chăm sóc và giáo
dục cho phù hợp với từng loại trẻ.
1.1.5. Phân loại trẻ em khuyết tật
Pháp luật Việt Nam không quy định cụ thể, riêng biệt về trẻ em khuyết
tật, vì vậy khi phân loại, sẽ dựa vào dạng tật và mức độ khuyết tật được ghi
nhận trong Luật Người khuyết tật năm 2010. Cụ thể:
- Căn cứ trên dạng tật thì trẻ em khuyết tật bao gồm:
Một là, khuyết tật vận động: Là những trẻ có cơ quan vận động bị tổn
thương, biểu hiện dễ nhận thấy là khó khăn trong việc nằm, ngồi, di chuyển,
cầm, nắm… Do đó, trẻ khuyết tật vận động gặp rất nhiều khó khăn trong sinh
hoạt cá nhân, vui chơi, học tập và lao động. Vì vậy trẻ khuyết tật vận động
cần được hỗ trợ về phương tiện đi lại như xe lăn, gậy chống; và đặc biệt là
không gian cần thiết, thuận tiện, phù hợp để di chuyển.
Hai là, khuyết tật nghe nói: Là những trẻ gặp khó khăn trong việc giao
tiếp xã hội, dẫn đến hạn chế trong sinh hoạt, làm việc, học tập và hòa nhập
cộng đồng. Để tiếp nhận thông tin, trẻ cần có sự trợ giúp của ngôn ngữ kí
hiệu, trợ giúp của công nghệ hiện đại. Tuy nhiên, ngôn ngữ kí hiệu cũng có
nhiều hạn chế vì không thể phản ánh được đầy đủ tính chất, mức độ và hoạt
động của cuộc sống như tiếng nói hay chữ viết.
Ba là, Khuyết tật thị giác: là những tật về mắt khiến trẻ giảm hoặc mất
khả năng nhìn và cảm nhận ánh sáng, màu sắc, hình ảnh, sự vật trong điều
kiện ánh sáng và môi trường bình thường. Đối với trẻ khiếm thị công cụ hỗ
trợ di chuyển là chiếc gậy, các dụng cụ hỗ trợ thông minh, lối đi thuận tiện và
dễ nhận biết….
21
Bốn là, khuyết tật thần kinh, tâm thần: là tình trạng rối loạn tri giác, trí
nhớ, cảm xúc, kiểm soát hành vi, suy nghĩ và có biểu hiện với những lời nói,
hành động bất thường.
Năm là, khuyết tật trí tuệ: là tình trạng giảm hoặc mất khả năng nhận
thức, tư duy biểu hiện bằng việc chậm hoặc không thể suy nghĩ, phân tích về
sự vật, hiện tượng, giải quyết sự việc. Xét về mức độ, đây là đối tượng khuyết
tật không có những đặc điểm cơ bản, chung như các dạng khuyết tật khác. Bởi
khuyết tật trí tuệ được xác định khi: Chức năng trí tuệ dưới mức trung bình
(chỉ số thông minh đạt gần 70 hoặc thấp hơn 70 trên một lần thực hiện trắc
nghiệm cá nhân); Hoặc bị thiếu hụt hoặc khiếm khuyết ít nhất là hai trong số
những hành vi thích ứng sau: giao tiếp, tự chăm sóc, sống tại gia đình, kĩ năng
xã hội/cá nhân, sử dụng các tiện ích trong cộng đồng, tự định hướng, kĩ năng
học đường, làm việc, giải trí, sức khỏe và an toàn…
Sáu là, khuyết tật khác: là tình trạng giảm hoặc mất những chức năng
cơ thể khiến cho hoạt động lao động, sinh hoạt, học tập gặp khó khăn mà
không thuộc các trường hợp khuyết tật được xác định ở trên.
- Căn cứ vào mức độ khuyết tật thì trẻ em khuyết tật bao gồm:
Thứ nhất, trẻ khuyết tật đặc biệt nặng: là những trẻ do khuyết tật dẫn
đến không thể tự thực hiện phục vụ nhu cầu sinh hoạt cá nhân hàng ngày.
Thứ hai, trẻ khuyết tật nặng là những trẻ do khuyết tật dẫn đến không
thể tự thực hiện một số việc phục vụ nhu cầu sinh hoạt cá nhân hàng ngày.
Thứ ba, trẻ khuyết tật nhẹ là những trẻ không thuộc trường hợp khuyết
tật đặc biệt nặng và khuyết tật nặng.
Như vậy, khuyết tật ở trẻ khá đa dạng. Tuy nhiên có thể nhận thấy điểm
chung ở những trẻ khuyết tật vận động, khuyết tật nghe, nói, khuyết tật nhìn
là đều có bộ não phát triển bình thường. Nếu được quan tâm, tạo môi trường
thuận lợi, rèn luyện từ sớm và thường xuyên thì họ vẫn có thể tiếp thu được
22
chương trình học tập, làm việc, tham gia vào các hoạt động kinh tế xã hội của
cộng đồng. Do đó, việc phân loại rõ ràng, chính xác trẻ khuyết tật là cơ sở để
thực hiện các hoạt động phù hợp với từng dạng tật của trẻ, giúp trẻ phát triển
năng lực bản thân, tự tin trong cuộc sống.
Mang trong mình khiếm khuyết về cơ thể giống như người khuyết tật
nói chung, lại vừa là những công dân còn non nớt về mặt thể chất và tinh thần
giống như biết bao trẻ em bình thường khác, trẻ khuyết tật với tư cách là
nhóm bị tổn thương kép đã phải chịu rất nhiều thiệt thòi do tình trạng khuyết
tật đem lại. Những thiệt thòi đó ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống của bản thân
trẻ và gia đình có trẻ khuyết tật, ảnh hưởng đến việc tham gia các hoạt động
xã hội của trẻ. Do vậy, xác định được nguyên nhân dẫn đến tình trạng khuyết
tật, tính chất, mức độ khuyết tật và phân loại được trẻ em khuyết tật sẽ có tác
dụng trong việc ngăn ngừa, giảm bớt số lượng trẻ khuyết tật đang ngày càng
gia tăng, từ đó hạn chế tình trạng trẻ em bị thiệt thòi, đồng thời phân loại trẻ
khuyết tật còn là cơ sở để áp dụng các chính sách, biện pháp phù hợp nhằm
bảo vệ, hỗ trợ, giúp đỡ trẻ khuyết tật vượt qua khó khăn trong cuộc sống,
vươn lên hòa nhập cộng đồng.
1.2. Quyền của trẻ em khuyết tật và Bảo đảm quyền của trẻ em
khuyết tật
1.2.1. Khái niệm Quyền của trẻ em khuyết tật
Trên phạm vi quốc gia cũng như quốc tế, hầu hết vẫn chưa đưa ra
được một khái niệm thống nhất về Quyền của trẻ em khuyết tật, có chăng
chỉ gợi mở theo hướng liệt kê các quyền của trẻ khuyết tật. Vì vậy, muốn
làm sáng tỏ vấn đề này, cần đi tìm hiểu và phân tích về các nội dung có
liên quan, cụ thể như sau:
Trước hết, cần hiểu, thế nào là Quyền? Theo Đại Từ điển Tiếng Việt,
quyền là “cái mà luật pháp, xã hội, phong tục hay lẽ phải cho phép được
23
hưởng thụ, được vận dụng, được thực hành…., và nếu thiếu thì được phép yêu
cầu để có đầy đủ, nếu bị tước đoạt có thể đòi hỏi để giành lại”.[29]. Như vậy,
khái niệm Quyền chủ yếu liên quan đến việc hành động, cụ thể là tự do hành
động. Theo đó, một người được phép làm những việc trong khuôn khổ nhất
định mà không bị cưỡng ép, áp đặt, và không ai được vi phạm vào các quyền
đó. Việc làm rõ khái niệm quyền là cơ sở để xác định các vấn đề có liên quan
dựa trên Quyền.
Thứ hai là khái niệm Quyền con người. Có nhiều cách định nghĩa khác
nhau về quyền con người dựa trên các hướng tiếp cận từ những góc độ nhất
định. Trên phạm vi quốc tế, theo định nghĩa của Văn phòng Cao ủy Liên hợp
quốc về quyền con người thì, Quyền con người là những bảo đảm pháp lý
toàn cầu có tác dụng bảo vệ các cá nhân và các nhóm chống lại những hành
động hoặc sự bỏ mặc mà làm tổn hại đến nhân phẩm, những sự được phép và
tự do cơ bản của con người. [12]. Ở Việt Nam, xét chung, quyền con người
thường được hiểu là những nhu cầu, lợi ích tự nhiên, vốn có và khách quan
của con người được ghi nhận và bảo vệ trong pháp luật quốc gia và các thỏa
thuận pháp lý quốc tế. Dù nhìn ở góc độ và cấp độ nào thì Quyền con người
cũng được xác định là những đặc quyền tự nhiên được pháp luật ghi nhận
điều chỉnh và đảm bảo thực hiện.
Thứ ba là vấn đề Quyền trẻ em. Trẻ em là con người, là một thành viên
của xã hội, là công dân đặc biệt của một quốc gia, vì vậy quyền trẻ em có
quan hệ chặt chẽ với quyền con người, là một bộ phận của quyền con người.
Hay nói cách khác, trẻ em cũng là một chủ thể của quyền, quyền trẻ em là
quyền con người của trẻ em, nhờ đó trẻ được hưởng, được làm, được tôn
trọng và thực hiện nhằm bảo đảm sự sống, sự tham gia và phát triển toàn diện
của mình. Tuy nhiên, trước đây, thuật ngữ Quyền trẻ em chưa thực sự được
chú trọng. Phải đến đầu thế kỷ thứ XX, thuật ngữ này mới được đề cập sau
24
một loạt biến cố quốc tế lớn, nhất là sau cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ I
(1914 – 1918). Sự kiện này khiến rất nhiều trẻ em ở Châu Âu bị rơi vào hoàn
cảnh đặc biệt khó khăn như mồ côi không nơi nương tựa, đói khát, bệnh tật…
Tình cảnh đó đã thúc đẩy việc thành lập hai tổ chức cứu trợ trẻ em đầu tiên
trên thế giới ở Anh và Thụy Điển vào năm 1919. Đến năm 1924, Hội Quốc
liên thông qua bản Tuyên ngôn Geneva về Quyền trẻ em. Đây là lần đầu tiên,
vấn đề Quyền trẻ em chính thức được khẳng định và thừa nhận trong pháp
luật quốc tế, đánh dấu bước ngoặt trong nhận thức và hoạt động bảo vệ trẻ em
trên thế giới. Năm 1948, Liên Hợp quốc thông qua Tuyên ngôn thế giới về
quyền con người, trong đó khẳng định trẻ em cũng là chủ thể bình đẳng của
các quyền con người. Năm 1959, Liên Hợp quốc thông qua bản Tuyên ngôn
(thứ hai) về quyền trẻ em, phát triển nội dung của Tuyên ngôn Giơ-ne-vơ năm
1924. Từ năm 1959 đến những năm 80 của thế kỷ XX, một loạt văn kiện quốc
tế khác cũng được thông qua, trực tiếp hoặc gián tiếp đề cập đến các quyền
của trẻ em. Song, các văn kiện này hoặc không có tính ràng buộc về nghĩa vụ
pháp lý hoặc chưa tiếp cận từ vị thế đặc biệt và chú trọng đến những nhu cầu
đặc thù của trẻ em nên tác động trên thực tế rất hạn chế. Đến năm 1989, Liên
Hợp quốc thông qua Công ước quốc tế về quyền trẻ em, tính đến thời điểm
này, đây là văn kiện quốc tế cơ bản và toàn diện nhất về vấn đề Quyền trẻ em.
Mặc dù vậy, đây không phải là văn kiện quốc tế duy nhất về lĩnh vực này, mà
còn nhiều văn kiện khác, trong đó tiêu biểu là hai Nghị định thư không bắt
buộc bổ sung CRC về sử dụng trẻ em trong các cuộc xung đột vũ trang và về
buôn bán trẻ em, bóc lột và văn hóa phẩm khiêu dâm trẻ em…
Thứ tư là vấn đề Quyền của người khuyết tật. Cũng giống như trẻ em,
trong một thời kỳ dài, những người khuyết tật bị coi là đối tượng của lòng
thương hại, việc bảo vệ hỗ trợ họ chủ yếu dựa trên tình thương, lòng nhân đạo
chứ không bắt nguồn từ nhận thức coi họ cũng là những chủ thể của quyền và
25
trách nhiệm của cá nhân, nhà nước, tổ chức xã hội là phải tôn trọng họ. Chỉ
sau những cuộc vận động kiên trì và mạnh mẽ của nhiều cá nhân, tổ chức xã
hội, nhận thức rằng người khuyết tật cũng là chủ thể bình đẳng của các quyền
con người mới dần dần chiếm ưu thế, và thuật ngữ Quyền của người khuyết
tật mới được chú trọng theo hướng quyền con người của người khuyết tật.
Theo đó, người khuyết tật được hưởng các quyền của con người mà không có
bất cứ sự phân biệt đối xử nào dựa trên tình trạng khuyết tật của họ nhằm đảm
bảo cho đối tượng này được phát huy năng lực của bản thân, hòa nhập cộng
đồng. Trên phương diện pháp lý, cho đến trước năm 2007, không có điều ước
quốc tế nào quy định riêng về vấn đề quyền của người khuyết tật. Ngay trong
các văn bản pháp luật quốc tế liên quan đến quyền con người được các nước
phê chuẩn từ những năm 1940 đến năm 1960 như Tuyên ngôn nhân quyền
1948, Công ước của Liên hợp quốc về quyền kinh tế, văn hóa, xã hội năm
1966 hay Công ước của Liên hợp quốc về quyền dân sự, chính trị năm
1966… cũng không có điều khoản riêng biệt nào ghi nhận cụ thể quyền của
nhóm đối tượng này. Tuy nhiên, đoạn 1 Điều 2 Tuyên ngôn quốc tế nhân
quyền 1948 đã khẳng định:
Mọi người đều được hưởng tất cả các quyền và tự do nêu
trong bản Tuyên ngôn này mà không có bất kỳ sự phân biệt đối xử
nào về chủng tộc, màu da, giới tính, ngôn ngữ, tôn giáo, quan điểm
chính trị hoặc quan điểm khác, nguồn gốc dân tộc hoặc xã hội, tài
sản, thành phần xuất thân hay các địa vị khác.
Mặc dù không đề cập một cách cụ thể, nhưng cụm từ “địa vị khác” đã
gián tiếp ghi nhận người khuyết tật cũng là chủ thể của các quyền con người.
Từ đầu thập kỷ 80 của thế kỷ XX, Liên hợp quốc đã thông qua khá nhiều văn
kiện không ràng buộc pháp lý nhằm thúc đẩy vấn đề quyền của nhóm này,
trong đó, tiêu biểu là: Chương trình hành động thế giới về người tàn tật
26
(1982); Các nguyên tắc về bảo vệ người bị bệnh tâm thần và về tăng cường
chăm sóc sức khỏe tâm thần (1991); Các quy tắc tiêu chuẩn về bình đẳng hóa
cơ hội cho người khuyết tật (1993)… Đặc biệt, năm 1993, trong Tuyên bố
Viên và chương trình Hành động (Đoạn 13), Hội nghị thế giới về quyền con
người lần thứ II đã nêu rõ: “Tất cả các quyền con người và tự do cơ bản là
mang tính phổ biến, bởi vậy tất cả mọi người, kể cả những người khuyết tật,
đều là chủ thể bình đẳng của các quyền này”. Đây thực sự là khẳng định chắc
chắn, là bước tiến rõ ràng về mặt nhận thức, coi trọng khả năng, năng lực chủ
thể quyền con người của người khuyết tật.
Như vậy, thông qua các khái niệm Quyền, Quyền con người, Quyền trẻ
em và Quyền của người khuyết tật, có thể rút ra được Quyền của trẻ em
khuyết tật là: Quyền con người của trẻ em khuyết tật, là một bộ phận của
quyền con người, có quan hệ chặt chẽ với quyền con người. Theo đó, trẻ em
khuyết tật được hưởng đầy đủ các quyền tự nhiên vốn có, trẻ được thực hiện
hoặc không thực hiện các hoạt động một cách tự nguyện mà không ai được
phép cản trở, xâm phạm hay phân biệt đối xử chỉ vì lý do khuyết tật của trẻ.
Việc làm rõ các khái niệm nêu trên có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, là
cơ sở để xác định khái niệm Quyền của trẻ em khuyết tật. Bởi trẻ em khuyết
tật là những công dân đặc biệt của xã hội. Họ vừa mang đặc điểm non nớt về
mặt tâm sinh lý như biết bao trẻ em không khuyết tật khác, lại vừa mang trong
mình khiếm khuyết về mặt thể chất và tinh thần như những người khuyết tật
nói chung nên quyền của trẻ em khuyết tật vừa là một bộ phận của quyền con
người, lại vừa là sự kết hợp giữa quyền của trẻ em và quyền của người khuyết
tật. Vì vậy, việc nhận thức chính xác về Quyền của trẻ em khuyết tật chính là
cơ sở để chăm sóc, giáo dục và bảo đảm có hiệu quả các quyền của nhóm đối
tượng bị tổn thương kép này.
27
1.2.2. Khái niệm Bảo đảm quyền của trẻ em khuyết tật
So với người khuyết tật nói chung, trẻ em khuyết tật là đối tượng chịu
nhiều thiệt thòi hơn cả bởi sự phân biệt đối xử và nguy cơ tổn thương gây ra
từ nhiều yếu tố. Và, cũng giống như các trẻ em không khuyết tật khác, trẻ em
khuyết tật cũng là chủ thể của các quyền và quá trình phát triển. Đó không chỉ
là công dân non nớt về thể chất và trí tuệ như trẻ em bình thường, mà còn là
công dân đặc biệt, mang trong mình những mặc cảm tự ti do khiếm khuyết về
cơ thể, dễ bị tổn thương do sự non yếu về thể chất, tinh thần, kinh nghiệm
sống… Chúng luôn phải đối mặt với nguy cơ bị bỏ mặc, lạm dụng, bị đối xử
bất công, bạo hành, đặc biệt là trẻ em gái khuyết tật. Chính vì vậy yêu cầu cần
bảo đảm quyền cho trẻ em khuyết tật đang ngày càng nhận được sự quan tâm
ủng hộ từ phía nhà nước, tổ chức xã hội và người dân nhằm xóa đi rào cản vô
hình, đưa các quyền lại gần hơn với nhóm đối tượng dễ bị tổn thương này.
Tuy nhiên, vấn đề thế nào là Bảo đảm quyền của trẻ em khuyết tật
dường như vẫn còn khá mơ hồ và chưa có hướng dẫn cụ thể. Theo Từ điển
Vdict “bảo đảm” được hiểu là “làm cho chắc chắn thực hiện được, giữ gìn
được, hoặc có đầy đủ những gì cần thiết…”. [30]. Đại Từ điển Tiếng Việt
cũng đưa ra định nghĩa tương tự trong đó, “bảo đảm” là “1…, 2. Làm cho có
được điều gì; 3. Có đủ, trọn vẹn các điều quy định; 4. Chắc chắn, đạt tiêu
chuẩn cần thiết”. [29]. Công ước về quyền trẻ em 1989 và Công ước về quyền
của người khuyết tật 2007 cũng ghi nhận khá nhiều điều khoản nhấn mạnh
đến trách nhiệm của các quốc gia thành viên phải bảo đảm các quyền của trẻ
em khuyết tật trong tất cả các lĩnh vực mà Công ước đã đề cập, song không có
một điều khoản cụ thể nào định nghĩa về bảo đảm quyền của trẻ em khuyết
tật. Trong pháp luật Việt Nam cũng vậy. Do đó, dựa trên định nghĩa ở Đại Từ
điển tiếng Việt, dưới góc độ ngôn ngữ, có thể đưa ra cách hiểu chung nhất về
Bảo đảm quyền của trẻ em khuyết tật đó là: việc tạo mọi điều kiện thuận lợi
28
để trẻ em khuyết tật được hưởng các quyền vốn có của mình một cách phù
hợp, đầy đủ và trọn vẹn nhất.
Như vậy, việc xác định rõ ràng khái niệm về Bảo đảm quyền của trẻ em
khuyết tật là cơ sở để thúc đẩy công tác bảo đảm quyền của nhóm đối tượng
này trên thực tế. Quá trình bảo đảm đó phải dựa trên các nguyên tắc nhất định
như: bình đẳng, không phân biệt đối xử; lợi ích tốt nhất dành cho trẻ, tôn
trọng ý kiến, quan điểm của trẻ… Những nguyên tắc này đóng vai trò là
nguyên tắc nền tảng, chi phối toàn bộ quá trình bảo đảm quyền của trẻ em
khuyết tật, giúp cho các quyền đó được thực thi có hiệu quả nhất.
Tuy nhiên, không thể phủ nhận rằng, trên thực tế, nhiều quyền của
người khuyết tật nói chung và quyền của trẻ em khuyết tật nói riêng vẫn
không được đảm bảo một cách trọn vẹn như: Trẻ em khuyết tật không được
tham gia vào quá trình ra quyết định, bị đối xử nặng nề; nhận thức của xã hội
về vấn đề người khuyết tật còn hạn chế; Điều kiện giao thông chưa tiếp cận;
Giáo dục, y tế chưa được đảm bảo; bản thân trẻ khuyết tật chưa hòa nhập với
xã hội do mặc cảm, tự ti về khiếm khuyết cơ thể… Chính vì vậy, việc đảm
bảo quyền cho trẻ em khuyết tật đang được đặt ra và ngày càng trở nên cấp
thiết, nó góp phần phát huy truyền thống nhân đạo, tinh thần dân tộc sâu sắc,
sự sẻ chia giữa người với người. Không chỉ thế, còn tác động tích cực đến tâm
lý của nhóm đối tượng thiệt thòi này, giúp cho các em vượt qua mặc cảm,
vươn lên phát triển năng lực bản thân, hòa nhập vào cộng đồng. Xét trong xu
thế hội nhập hiện nay, điều này có ý nghĩa lớn trong việc ổn định kinh tế, góp
phần đưa pháp luật Việt Nam lại gần hơn với chuẩn mực chung của quốc tế.
Đồng thời, với vị trí là một bộ phận của quyền con người, có quan hệ chặt chẽ
với quyền con người, việc bảo đảm quyền của trẻ em khuyết tật chính là cơ sở
thiết thực để đảm bảo các quyền con người.
29
Tiểu kết chƣơng 1
Chương 1 đã trình bày khái quát hệ thống lý luận về bảo đảm quyền
của trẻ em khuyết tật. Đây là tiền đề để phân tích thực trạng trong quá trình
đảm bảo quyền ở chương tiếp theo. Thông qua việc tìm hiểu các khái niệm có
liên quan trong phạm vi pháp luật quốc gia và pháp luật quốc tế, tác giả đã
đưa ra được nhận thức chung nhất về khái niệm trẻ em khuyết tật và bảo đảm
quyền cho trẻ em khuyết tật. Việc xác định rõ các khái niệm này là cơ sở quan
trọng để nghiên cứu hệ thống pháp luật, chính sách và đánh giá thực trạng về
bảo đảm quyền của trẻ em khuyết tật. Đồng thời, những kiến thức chung về
phân loại trẻ em khuyết tật theo mức độ và dạng tật, nêu bật những nguyên
nhân dẫn đến tình trạng khuyết tật của trẻ và những ảnh hưởng do tình trạng
khuyết tật đem lại có tác dụng tích cực trong việc xây dựng, áp dụng các
chính sách phù hợp nhằm ngăn ngừa, giảm bớt số lượng trẻ em khuyết tật
đang có xu hướng ngày càng gia tăng hiện nay.
30
Chƣơng 2
THỰC TRẠNG BẢO ĐẢM QUYỀN CỦA TRẺ EM KHUYẾT TẬT
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Có nhiều cách tiếp cận để phân tích thực trạng Bảo đảm quyền của trẻ
em khuyết tật như: Tiếp cận dưới góc độ chia việc bảo đảm quyền của trẻ
em khuyết tật ở từng lĩnh vực như: Xây dựng pháp luật, Thực thi pháp
luật…; Hoặc tiếp cận dưới góc độ chia việc bảo đảm quyền của trẻ em
khuyết tật thành các tiểu mục tương ứng với từng loại quyền quan trọng của
người khuyết tật; cụ thể như quyền không bị phân biệt đối xử, quyền được
chăm sóc, nuôi dưỡng; quyền được tái hòa nhập với cộng đồng… Mỗi cách
tiếp cận đều có ưu điểm và hạn chế riêng để làm nổi bật nội dung cần hướng
đến. Trong luận văn này, tác giả lựa chọn cách tiếp cận thứ nhất, tức là đánh
giá thực trạng Bảo đảm quyền của trẻ em khuyết tật thông qua một số lĩnh
vực cụ thể. Tuy nhiên, trước khi đi sâu vào phân tích, đánh giá thực trạng
bảo đảm quyền, luận văn sẽ trình bày khái quát tình trạng trẻ em khuyết tật ở
Việt Nam hiện nay để cung cấp bức tranh cơ bản về cuộc sống của trẻ
khuyết tật từ đó là cơ sở xây dựng chính sách, biện pháp phù hợp đối với
nhóm xã hội dễ bị tổn thương này.
2.1. Tình trạng trẻ em khuyết tật ở Việt Nam hiện nay
Kể từ khi gia nhập Công ước quốc tế về quyền của người khuyết tật, vị
trí của người khuyết tật và trẻ em khuyết tật tại Việt Nam đã có nhiều biến
chuyển đáng kể, nhận được sự quan tâm rất lớn của Đảng và Nhà nước.
Năm 2009, Tổng cục Thống kê đã tiến hành cuộc Tổng điều tra Dân số
và Nhà ở, đây là cuộc Tổng điều tra dân số đầu tiên thu thập các thông tin về
tình trạng khuyết tật của người dân và trẻ em khuyết tật. Kết quả đã cho thấy,
tỷ lệ người khuyết tật ở độ tuổi từ 5 tuổi trở lên chiếm 7,8% dân số tương
đương với 6,7 triệu người khuyết tật với khoảng 1,2 triệu trẻ em khuyết tật,
31
chiếm khoảng 19,7% số người khuyết tật trên phạm vi cả nước. Trong đó, số
trẻ khuyết tật nặng chiếm tỷ lệ cao nhất với 31%; ngoài ra có 27% trẻ khuyết
tật trí tuệ; 20% trẻ khuyết tật vận động; 19% trẻ khuyết tật ngôn ngữ; 12,43%
trẻ khiếm thính; 12% trẻ khiếm thị; 12,6% đa tật; và 7% khuyết tật khác [26].
Nguyên nhân gây ra khuyết tật ở trẻ em tại Việt Nam phần lớn là do
hậu quả của chiến tranh để lại. Theo số liệu thống kê vào cuối năm 2011 của
Trung ương Hội chữ thập đỏ Việt Nam thì cả nước ta hiện nay có khoảng 4,8
triệu người bị phơi nhiễm chất độc màu da cam, trong đó có khoảng 150.000
trẻ em bị dị tật bẩm sinh. [27]. Dự báo trong những năm tới, số lượng trẻ
khuyết tật vẫn có xu hướng gia tăng. Và nếu nguyên nhân dẫn đến khuyết tật
do bẩm sinh, bệnh tật chiến tranh có chiều hướng giảm đi thì các nguyên nhân
do tai nạn, do ô nhiễm môi trường lại có xu hướng tăng lên bởi quá trình phát
triển của công nghiệp hoá và đô thị hoá đang diễn ra tương đối mạnh mẽ ở
Việt Nam, đặc biệt, sẽ xuất hiện phổ biến tình trạng trẻ em tự kỷ - một dạng
khuyết tật mới trong thời đại hiện nay.
Hơn nữa, qua kết quả của một số cuộc điều tra mẫu trước đây cho thấy,
phần lớn trẻ em khuyết tật ở Việt Nam chủ yếu sống phụ thuộc vào gia đình,
hoặc được cưu mang trong các cơ sở bảo trợ xã hội. Trẻ hầu như chưa có khả
năng tạo ra thu nhập, nếu có thì chiếm tỷ lệ rất ít, và nguồn thu nhập thấp,
không ổn định. Bên cạnh đó, kết hợp với trình độ văn hóa chưa được đảm
bảo, thêm vào là rào cản từ phía xã hội khiến trẻ khuyết tật gặp nhiều khó
khăn khi có nhu cầu tham gia bình đẳng vào mọi hoạt động của đời sống cộng
đồng. Điều này phản ánh một thực trạng đáng lo ngại về tình trạng trẻ khuyết
tật và cuộc sống của trẻ em khuyết tật ở nước ta hiện nay, do đó rất cần sự hỗ
trợ, quan tâm, chia sẻ từ phía các cá nhân, cơ quan, tổ chức và toàn xã hội.
2.2. Thực trạng Bảo đảm quyền của trẻ em khuyết tật trong lĩnh
vực xây dựng pháp luật
Pháp luật là khung pháp lý ghi nhận các quyền của con người nói
32
chung và của trẻ em khuyết tật nói riêng, đồng thời cũng là cơ sở để bảo đảm
cho các quyền này được thực thi hiệu quả trên thực tế. Do đó, việc xây dựng
khung pháp luật hoàn chỉnh về trẻ em khuyết tật càng có vai trò vô cùng quan
trọng và nhận được sự quan tâm đặc biệt của Đảng, Nhà nước và toàn xã hội.
2.2.1. Thành tựu
Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em luôn là truyền thống tốt đẹp của
dân tộc ta. Kế thừa những quy định tiến bộ trong Bộ Luật Hồng Đức thời Hậu
Lê, ngay khi mới thành lập và thông qua Cương lĩnh chính trị đầu tiên, Đảng
ta đã đặc biệt nhấn mạnh đến nguyên tắc “nam nữ bình quyền” nhằm chống
mọi hình thức phân biệt đối xử. Kết hợp với tinh thần nhân văn cao cả “trẻ em
hôm nay, thế giới ngày mai” của Chủ tịch Hồ Chí Minh, truyền thống tốt đẹp
đó đã được khẳng định và thể chế hóa thành luật và chính sách của Nhà nước.
Bản Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa năm
1946 đã quy định “Tất cả công dân Việt Nam đều ngang quyền về mọi
phương diện: chính trị, kinh tế, văn hóa” (Điều 6); và nhấn mạnh sự bảo đảm
quyền trẻ em, đó là: “Trẻ con được săn sóc về mặt giáo dưỡng” (Điều 14).
Quan điểm nhất quán về chăm lo và bảo đảm quyền con người, quyền
trẻ em đó cũng được kế thừa, thể hiện xuyên suốt trong các bản Hiến pháp
1959, 1980, 1992, và mới đây nhất là Hiến pháp năm 2013 – Bản Hiến pháp
đầu tiên dành riêng Chương II để quy định về Quyền con người, Quyền và
nghĩa vụ công dân. Điều 3 Hiến pháp 2013 khẳng định, Nhà nước “công
nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người , quyền công dân”, và
nhấn mạnh “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con
người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được
công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật” (Điều
14). Đặc biệt, “Trẻ em được Nhà nước, gia đình và xã hội bảo vệ, chăm sóc
và giáo dục; được tham gia và o cá c vấn đề về trẻ em ” (Điều 37). Hơn nữa,
33
nhằm bù đắp những thiệt thòi cũng như bảo đảm sự bình đẳng thực chất về
quyền và cơ hội với mọi công dân, khoản 2 Điều 59 đã nêu rõ:
Nhà nước tạo bình đẳng về cơ hội để công dân thụ hưởng
phúc lợi xã hội, phát triển hệ thống an sinh xã hội, có chính sách trợ
giúp người cao tuổi, người khuyết tật, người nghèo và người có hoàn
cảnh khó khăn khác”; và Nhà nước “tạo điều kiện để người khuyết
tật và người nghèo được học văn hoá và học nghề” (Điều 61).
Đây là những tư tưởng chỉ đạo, là nền tảng cho các quy định khác trong
hệ thống pháp luật Việt Nam về không chỉ trẻ em khuyết tật mà tất cả trẻ em
trên phạm vi toàn lãnh thổ.
Dựa trên tinh thần đó, trong những năm qua, nhiều chính sách riêng
cho trẻ em khuyết tật đã được ban hành, tạo hành lang pháp lý để chăm sóc và
bảo vệ quyền lợi của nhóm đối tượng yếu thế này. Đặc biệt, từ khi trở thành
quốc gia đầu tiên ở Châu Á và quốc gia thứ hai trên thế giới phê chuẩn Công
ước quốc tế về quyền trẻ em 1948, đồng thời còn là thành viên thứ 118 tham
gia ký Công ước quốc tế về quyền của Người khuyết tật năm 2007, Việt Nam
đã và đang nỗ lực trong tiến trình nội luật hóa, đưa pháp luật Việt Nam lại gần
hơn với chuẩn mực chung của pháp luật quốc tế về quyền của trẻ em khuyết
tật. Do đó, tại kỳ họp thứ 7, ngày 17 tháng 6 năm 2010, Quốc hội nước Cộng
hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam khoá XII đã thông qua Luật người khuyết tật,
góp phần hoàn thiện hơn nữa hệ thống chính sách dành cho người khuyết tật
nói chung và trẻ em khuyết tật nói riêng. Tính đến thời điểm hiện tại, đây là
văn bản pháp luật ghi nhận những quyền cơ bản của trẻ em khuyết tật một
cách hoàn chỉnh, thống nhất và có hiệu lực pháp lý trên phạm vi toàn quốc.
Đó thực sự là thành tựu lớn nhất trong công tác lập pháp về lĩnh vực này.
Nhằm tiếp tục đẩy mạnh thực hiện các chính sách trợ giúp trẻ khuyết
tật theo quy định của Luật người khuyết tật, đồng thời thực hiện cam kết của
34
Chính phủ Việt Nam về 7 lĩnh vực ưu tiên trong Thập kỷ thứ II Thiên niên kỷ
Biwako về người khuyết tật khu vực Châu Á Thái Bình Dương, Thủ tướng
Chính phủ đã ban hành Quyết định phê duyệt các Đề án, trong đó liên quan
trực tiếp và tập trung đến trẻ em khuyết tật là: Quyết định số 647/QĐ-TTg
ngày 26/04/2013 về việc Phê duyệt Đề án chăm sóc trẻ em mồ côi không nơi
nương tựa, trẻ em bị bỏ rơi, trẻ em nhiễm HIV/AIDS, trẻ em là nạn nhân của
chất độc hóa học, trẻ em khuyết tật nặng và trẻ em bị ảnh hưởng bởi thiên tai,
thảm họa dựa vào cộng đồng giai đoạn 2013 – 2020.
Có thể thấy, hệ thống pháp luật về trẻ khuyết tật được xây dựng khá
hoàn thiện và có nhiều nét tương đồng với quy định của pháp luật quốc tế. Đi
liền với việc tạo hành lang pháp lí cần thiết thì việc quy định và áp dụng các
biện pháp chế tài thích hợp đối với chủ thể đã xâm phạm đến quyền, lợi ích
hợp pháp, chính đáng của trẻ cũng được chú trọng quan tâm và xây dựng. Tùy
từng đối tượng, từng trường hợp vi phạm mà có thể áp dụng một hoặc đồng
thời một số loại trách nhiệm pháp lí như: trách nhiệm kỉ luật, trách nhiệm
hành chính, trách nhiệm hình sự, trách nhiệm bồi thường thiệt hại.
Như vậy, quyền của trẻ em khuyết tật chỉ được đảm bảo đảm thực hiện
khi có một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh. Có được thành tựu kể trên là do sự
quan tâm rất lớn của Đảng và Nhà nước. Đồng thời, đội ngũ cán bộ trực tiếp
xây dựng pháp luật đã được chuyên nghiệp hóa về mặt chuyên môn, nghiệp
vụ; công tác hợp tác quốc tế để học hỏi kinh nghiệm thành tựu lập pháp ở các
quốc gia trên thế giới được đẩy mạnh và nâng cao. Do đó, quá trình xây dựng
pháp luật cho trẻ em khuyết tật trong những năm vừa qua đã gặt hái được
nhiều thành tựu quan trọng, góp phần giúp trẻ vượt qua mặc cảm và nhanh
chóng hòa nhập cộng đồng.
2.2.2. Hạn chế
Mặc dù đã xây dựng được hệ thống pháp luật tương đối hoàn chỉnh về
quyền trẻ em khuyết tật, tuy nhiên, vẫn tồn tại một số hạn chế như sau:
35
Một là, Việt Nam đã ban hành Luật người khuyết tật vào năm 2010,
nhưng những quy định trong luật chủ yếu hướng về người khuyết tật nói
chung. Quy định về trẻ em khuyết tật đa phần mang màu sắc ý chí chủ quan
của cơ quan lập pháp, chủ yếu dựa trên cơ sở suy đoán mà chưa thực sự đi sâu
tìm hiểu nguyện vọng của trẻ khuyết tật. Hơn nữa, các quy định đó chỉ mang
tính nguyên tắc và được lồng ghép, nhắc đến trong một vài điều khoản mà
chưa có hướng dẫn thực hiện cụ thể như: Nhà nước có chính sách ưu tiên thực
hiện bảo trợ và hỗ trợ người khuyết tật là trẻ em (khoản 3 Điều 5); ưu tiên
khám chữa bệnh cho trẻ em khuyết tật (khoản 2 Điều 23)…. Việc thiếu các
quy định mang tính chất cụ thể hóa là nguyên nhân dẫn đến khó khăn khi thực
hiện và ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình thụ hưởng quyền của trẻ.
Hai là, Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều đề án, chương trình như:
Đề án trợ giúp xã hội và phục hồi chức năng cho người tâm thần, người rối
nhiễu tâm trí dựa vào cộng đồng giai đoạn 2011-2020; Đề án Trợ giúp người
khuyết tật giai đoạn 2012 – 2022; Chương trình quốc gia bảo vệ trẻ em giai
đoạn 2011 – 2015; Chương trình hành động quốc gia vì trẻ em giai đoạn 2012
-2020… Tuy nhiên, những chương trình, đề án đó là dành cho người khuyết
tật hoặc trẻ em nói chung chứ không phải dành riêng cho trẻ em khuyết tật.
Tính đến thời điểm hiện tại, chưa có một chương trình nào đặc biệt dành riêng
cho trẻ khuyết tật. Đặt ra vấn đề này bởi xuất phát từ đặc điểm riêng về tâm
sinh lý và khiếm khuyết cơ thể, trẻ khuyết tật vừa có nhu cầu như những trẻ
em bình thường, lại vừa có nhu cầu giống như người khuyết tật khác. Vì vậy,
việc áp dụng chung các chương trình, đề án đó sẽ phần nào hạn chế việc đáp
ứng mong muốn của nhóm đối tượng bị tổn thương kép này.
Ba là, về quy định độ tuổi của trẻ em khuyết tật. Việc xác định độ tuổi
nào được coi là trẻ em sẽ mang lại nhiều quyền lợi cho trẻ khuyết tật. Tuy
nhiên hiện nay, hệ thống pháp luật nước ta tồn tại nhiều quy định không thống
36
nhất về tuổi trẻ em dẫn đến những khó khăn trong quá trình thực hiện. Điều 1
Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004 quy định, trẻ em là
những người dưới 16 tuổi. Điều 6 Bộ luật Lao động quy định: “người lao
động là người ít nhất đủ 15 tuổi, có khả năng lao động và có giao kết hợp
đồng lao động”. Hay trong Bộ luật Dân sự 2005 quy định: “người từ đủ 18
tuổi trở lên là người thành niên, người chưa đủ 18 tuổi là người chưa thành
niên”. Trong khi đó, hầu hết các điều ước và thỏa thuận quốc tế mà Việt Nam
đã ký kết, tham gia lại quy định độ tuổi trẻ em là dưới 18 tuổi. Như vậy, việc
quy định trẻ em là những người dưới 16 tuổi hay dưới 18 tuổi ở nước ta vẫn
chưa thực sự thống nhất và các chính sách liên quan đến trẻ em chủ yếu dành
cho đối tượng dưới 16 tuổi hưởng lợi, còn lứa tuổi từ 16 – 18 chưa có những
quy định cụ thể, rõ ràng. Sự thiếu thống nhất trong việc quy định độ tuổi vị
thành niên không chỉ gây khó khăn cho cơ quan chức năng trong việc đảm
bảo quyền lợi của trẻ mà còn ảnh hưởng trực tiếp đến việc thụ hưởng quyền
của trẻ em, đặc biệt là trẻ em khuyết tật.
Bốn là, về các biện pháp xử phạt đối với hành vi vi phạm quyền của trẻ
em khuyết tật. Mặc dù Điều 7 Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em và
Điều 14 Luật người khuyết tật đã liệt kê khá đầy đủ các hành vi bị nghiêm
cấm, quy định rõ ràng trách nhiệm của Nhà nước, các cơ quan, tổ chức xã hội
đối với trẻ khuyết tật và khẳng định sẽ nghiêm trị mọi hành vi vi phạm làm
tổn hại đến quyền trẻ em, nhưng không có bất cứ điều khoản nào quy định về
các biện pháp chế tài cụ thể được áp dụng nếu có hành vi vi phạm những
quyền đó. Điều này gây khó khăn trong việc xử lý vi phạm, ảnh hưởng không
nhỏ đến quá trình bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của trẻ em khuyết tật.
Năm là, vẫn tồn tại một bộ phận không nhỏ cán bộ nhà nước đại diện
cho các cơ quan trực tiếp hoạt động trong lĩnh vực xây dựng pháp luật còn
hạn chế về trình độ, ý thức tôn trọng trẻ khuyết tật thấp nên vẫn xảy ra tình
37
trạng phân biệt đối xử. Hơn nữa, dù đã đẩy mạnh việc hợp tác trao đổi kinh
nghiệm với các quốc gia trên thế giới trong lĩnh vực này song thực sự vẫn
chưa đạt được hiệu quả cao, hoạt động chỉ mang tính hình thức, và số lượng
các buổi giao lưu trao đổi kinh nghiệm còn khá ít. Điều này đã ảnh hưởng đến
việc xây dựng pháp luật về bảo đảm quyền cho trẻ em khuyết tật.
Sáu là, Việt Nam chưa xây dựng được một cơ quan quốc gia về bảo vệ
và thúc đẩy nhân quyền. Đây thực sự là hạn chế rất lớn đối với công cuộc bảo
đảm quyền của không chỉ trẻ em khuyết tật mà còn cả công cuộc bảo đảm
quyền con người ở nước ta. Bởi khi một cơ quan nhân quyền quốc gia được
thành lập, sẽ hình thành một cơ chế riêng về việc giám sát, thực thi và bảo vệ
pháp luật về quyền con người nói chung và quyền của trẻ em khuyết tật nói
riêng. Việc chưa xây dựng được cơ quan này thậm chí chưa có bất cứ một quy
định về việc thành lập cơ quan này trong Hiến pháp – đạo luật cơ bản, cao
nhất ở Việt Nam là một hạn chế rất lớn, khiến việc bảo đảm quyền trẻ em
khuyết tật chưa thực sự đạt được hiệu quả cao trên thực tế.
Đó là những hạn chế về bảo đảm quyền của trẻ em khuyết tật trong lĩnh
vực xây dựng pháp luật. Nguyên nhân của hạn chế này xuất phát từ việc mỗi
văn bản pháp luật được ban hành ở các thời điểm khác nhau, trong những lĩnh
vực và hoàn cảnh khác nhau. Đặc biệt, các văn bản luật chỉ mang tính định
hướng, chưa có văn bản dưới luật hướng dẫn cụ thể, đồng thời, ngân sách đầu
tư cho công tác xây dựng pháp luật về lĩnh vực này còn hạn hẹp. Điều này đặt
ra yêu cầu cần nhanh chóng có những giải pháp nhằm khắc phục phần nào
những hạn chế trong quá trình xây dựng pháp luật để đảm bảo quyền cho
nhóm đối tượng dễ bị tổn thương này.
2.3. Thực trạng Bảo đảm một số quyền của trẻ em khuyết tật
Trẻ em khuyết tật trước hết là trẻ em, còn non nớt về mặt tâm sinh lý,
lại mang trong mình những khiếm khuyết về mặt cơ thể như những người
38
khuyết tật khác, do đó, việc nghiên cứu và xác định các quyền của trẻ em
khuyết tật sẽ dựa trên quyền của trẻ em quy định tại Luật bảo vệ, chăm sóc và
giáo dục trẻ em năm 2004 và quyền của người khuyết tật ghi nhận tại Luật
người khuyết tật năm 2010. Trên cơ sở thừa nhận sự bình đẳng, không phân
biệt đối xử, ở Việt Nam, trẻ em khuyết tật sẽ được hưởng tất cả các quyền mà
pháp luật quy định. Điều này hoàn toàn phù hợp với tinh thần chung của pháp
luật quốc tế. Tuy nhiên, trong khuôn khổ phạm vi luận văn thạc sỹ, tác giả chỉ
chọn, phân tích một số quyền mà theo quan điểm của bản thân tác giả, đây là
những quyền cơ bản, và ngay bản thân trẻ em khuyết tật cũng có thể nhận
thấy rằng mình dễ bị xâm phạm nhất, bao gồm: Quyền được giáo dục; Quyền
được hưởng bảo trợ xã hội; Quyền được chăm sóc sức khoẻ; Quyền được
tham gia hoạt động văn hoá, thể thao, giải trí; Quyền được tiếp cận cơ sở hạ
tầng, dịch vụ công cộng; cụ thể từng quyền như sau:
2.3.1. Quyền được giáo dục
2.3.1.1. Quy định của pháp luật
Với phương châm: Giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, khoản 3
Điều 61, Hiến pháp năm 2013 khẳng định Nhà nước “tạo điều kiện để người
khuyết tật và người nghèo được học văn hoá và học nghề”. Theo đó, trẻ
khuyết tật có quyền được giáo dục như các trẻ em không khuyết tật khác và
được hưởng đầy đủ quyền này mà không có bất kỳ sự phân biệt đối xử nào
trên cơ sở bình đẳng về cơ hội.
Trẻ khuyết tật cũng có nhu cầu học tập, nhưng do khiếm khuyết cơ thể
nên việc học tập của họ gặp nhiều khó khăn hơn, do đó, Nhà nước, pháp luật
và xã hội đã tạo điều kiện thuận lợi cho trẻ thông qua những quy định riêng
biệt mang tính chất ưu tiên dựa trên cơ sở khắc phục khiếm khuyết của trẻ
chứ không mang tính chất bất bình đẳng giữa trẻ khuyết tật với trẻ không
khuyết tật như: được nhập học ở độ tuổi cao hơn so với độ tuổi quy định đối
Đề tài: Bảo đảm quyền của trẻ em khuyết tật ở Việt Nam, HOT
Đề tài: Bảo đảm quyền của trẻ em khuyết tật ở Việt Nam, HOT
Đề tài: Bảo đảm quyền của trẻ em khuyết tật ở Việt Nam, HOT
Đề tài: Bảo đảm quyền của trẻ em khuyết tật ở Việt Nam, HOT
Đề tài: Bảo đảm quyền của trẻ em khuyết tật ở Việt Nam, HOT
Đề tài: Bảo đảm quyền của trẻ em khuyết tật ở Việt Nam, HOT
Đề tài: Bảo đảm quyền của trẻ em khuyết tật ở Việt Nam, HOT
Đề tài: Bảo đảm quyền của trẻ em khuyết tật ở Việt Nam, HOT
Đề tài: Bảo đảm quyền của trẻ em khuyết tật ở Việt Nam, HOT
Đề tài: Bảo đảm quyền của trẻ em khuyết tật ở Việt Nam, HOT
Đề tài: Bảo đảm quyền của trẻ em khuyết tật ở Việt Nam, HOT
Đề tài: Bảo đảm quyền của trẻ em khuyết tật ở Việt Nam, HOT
Đề tài: Bảo đảm quyền của trẻ em khuyết tật ở Việt Nam, HOT
Đề tài: Bảo đảm quyền của trẻ em khuyết tật ở Việt Nam, HOT
Đề tài: Bảo đảm quyền của trẻ em khuyết tật ở Việt Nam, HOT
Đề tài: Bảo đảm quyền của trẻ em khuyết tật ở Việt Nam, HOT
Đề tài: Bảo đảm quyền của trẻ em khuyết tật ở Việt Nam, HOT
Đề tài: Bảo đảm quyền của trẻ em khuyết tật ở Việt Nam, HOT
Đề tài: Bảo đảm quyền của trẻ em khuyết tật ở Việt Nam, HOT
Đề tài: Bảo đảm quyền của trẻ em khuyết tật ở Việt Nam, HOT
Đề tài: Bảo đảm quyền của trẻ em khuyết tật ở Việt Nam, HOT
Đề tài: Bảo đảm quyền của trẻ em khuyết tật ở Việt Nam, HOT
Đề tài: Bảo đảm quyền của trẻ em khuyết tật ở Việt Nam, HOT
Đề tài: Bảo đảm quyền của trẻ em khuyết tật ở Việt Nam, HOT
Đề tài: Bảo đảm quyền của trẻ em khuyết tật ở Việt Nam, HOT
Đề tài: Bảo đảm quyền của trẻ em khuyết tật ở Việt Nam, HOT
Đề tài: Bảo đảm quyền của trẻ em khuyết tật ở Việt Nam, HOT
Đề tài: Bảo đảm quyền của trẻ em khuyết tật ở Việt Nam, HOT
Đề tài: Bảo đảm quyền của trẻ em khuyết tật ở Việt Nam, HOT
Đề tài: Bảo đảm quyền của trẻ em khuyết tật ở Việt Nam, HOT
Đề tài: Bảo đảm quyền của trẻ em khuyết tật ở Việt Nam, HOT
Đề tài: Bảo đảm quyền của trẻ em khuyết tật ở Việt Nam, HOT
Đề tài: Bảo đảm quyền của trẻ em khuyết tật ở Việt Nam, HOT
Đề tài: Bảo đảm quyền của trẻ em khuyết tật ở Việt Nam, HOT
Đề tài: Bảo đảm quyền của trẻ em khuyết tật ở Việt Nam, HOT
Đề tài: Bảo đảm quyền của trẻ em khuyết tật ở Việt Nam, HOT
Đề tài: Bảo đảm quyền của trẻ em khuyết tật ở Việt Nam, HOT
Đề tài: Bảo đảm quyền của trẻ em khuyết tật ở Việt Nam, HOT
Đề tài: Bảo đảm quyền của trẻ em khuyết tật ở Việt Nam, HOT
Đề tài: Bảo đảm quyền của trẻ em khuyết tật ở Việt Nam, HOT
Đề tài: Bảo đảm quyền của trẻ em khuyết tật ở Việt Nam, HOT
Đề tài: Bảo đảm quyền của trẻ em khuyết tật ở Việt Nam, HOT
Đề tài: Bảo đảm quyền của trẻ em khuyết tật ở Việt Nam, HOT
Đề tài: Bảo đảm quyền của trẻ em khuyết tật ở Việt Nam, HOT
Đề tài: Bảo đảm quyền của trẻ em khuyết tật ở Việt Nam, HOT
Đề tài: Bảo đảm quyền của trẻ em khuyết tật ở Việt Nam, HOT
Đề tài: Bảo đảm quyền của trẻ em khuyết tật ở Việt Nam, HOT
Đề tài: Bảo đảm quyền của trẻ em khuyết tật ở Việt Nam, HOT
Đề tài: Bảo đảm quyền của trẻ em khuyết tật ở Việt Nam, HOT
Đề tài: Bảo đảm quyền của trẻ em khuyết tật ở Việt Nam, HOT
Đề tài: Bảo đảm quyền của trẻ em khuyết tật ở Việt Nam, HOT
Đề tài: Bảo đảm quyền của trẻ em khuyết tật ở Việt Nam, HOT
Đề tài: Bảo đảm quyền của trẻ em khuyết tật ở Việt Nam, HOT
Đề tài: Bảo đảm quyền của trẻ em khuyết tật ở Việt Nam, HOT
Đề tài: Bảo đảm quyền của trẻ em khuyết tật ở Việt Nam, HOT
Đề tài: Bảo đảm quyền của trẻ em khuyết tật ở Việt Nam, HOT
Đề tài: Bảo đảm quyền của trẻ em khuyết tật ở Việt Nam, HOT
Đề tài: Bảo đảm quyền của trẻ em khuyết tật ở Việt Nam, HOT
Đề tài: Bảo đảm quyền của trẻ em khuyết tật ở Việt Nam, HOT

More Related Content

What's hot

Công tác xã hội với người khuyết tật
Công tác xã hội với người khuyết tậtCông tác xã hội với người khuyết tật
Công tác xã hội với người khuyết tậtTrường Bảo
 
Luận văn: Quyền sống của trẻ em ở Việt Nam hiện nay, HAY, 9đ - Gửi miễn phí q...
Luận văn: Quyền sống của trẻ em ở Việt Nam hiện nay, HAY, 9đ - Gửi miễn phí q...Luận văn: Quyền sống của trẻ em ở Việt Nam hiện nay, HAY, 9đ - Gửi miễn phí q...
Luận văn: Quyền sống của trẻ em ở Việt Nam hiện nay, HAY, 9đ - Gửi miễn phí q...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Giới và Phát triển
Giới và Phát triểnGiới và Phát triển
Giới và Phát triểnMặc Vũ
 
Tiểu luận thực trạng bạo lực gia đình Việt Nam hiện nay
Tiểu luận thực trạng bạo lực gia đình Việt Nam hiện nayTiểu luận thực trạng bạo lực gia đình Việt Nam hiện nay
Tiểu luận thực trạng bạo lực gia đình Việt Nam hiện nayYenPhuong16
 
Cong tac xa hoi voi tre em
Cong tac xa hoi voi tre emCong tac xa hoi voi tre em
Cong tac xa hoi voi tre emforeman
 
Bai giang ctxh ca nhan (vta quan)
Bai giang ctxh ca nhan (vta quan)Bai giang ctxh ca nhan (vta quan)
Bai giang ctxh ca nhan (vta quan)Nengyong Ye
 

What's hot (20)

Công tác xã hội với người khuyết tật
Công tác xã hội với người khuyết tậtCông tác xã hội với người khuyết tật
Công tác xã hội với người khuyết tật
 
Khóa luận: Phòng chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ, 9 ĐIỂM
Khóa luận: Phòng chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ, 9 ĐIỂMKhóa luận: Phòng chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ, 9 ĐIỂM
Khóa luận: Phòng chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ, 9 ĐIỂM
 
Luận văn: Bảo vệ quyền trẻ em trong phòng, chống bạo lực gia đình
Luận văn: Bảo vệ quyền trẻ em trong phòng, chống bạo lực gia đìnhLuận văn: Bảo vệ quyền trẻ em trong phòng, chống bạo lực gia đình
Luận văn: Bảo vệ quyền trẻ em trong phòng, chống bạo lực gia đình
 
Luận văn: Pháp luật về bình đẳng giới trong lĩnh vực chính trị
Luận văn: Pháp luật về bình đẳng giới trong lĩnh vực chính trịLuận văn: Pháp luật về bình đẳng giới trong lĩnh vực chính trị
Luận văn: Pháp luật về bình đẳng giới trong lĩnh vực chính trị
 
Luận văn: Quyền sống của trẻ em ở Việt Nam hiện nay, HAY, 9đ - Gửi miễn phí q...
Luận văn: Quyền sống của trẻ em ở Việt Nam hiện nay, HAY, 9đ - Gửi miễn phí q...Luận văn: Quyền sống của trẻ em ở Việt Nam hiện nay, HAY, 9đ - Gửi miễn phí q...
Luận văn: Quyền sống của trẻ em ở Việt Nam hiện nay, HAY, 9đ - Gửi miễn phí q...
 
Luận văn: Thực hiện pháp luật về bảo vệ quyền trẻ em, HOT
Luận văn: Thực hiện pháp luật về bảo vệ quyền trẻ em, HOTLuận văn: Thực hiện pháp luật về bảo vệ quyền trẻ em, HOT
Luận văn: Thực hiện pháp luật về bảo vệ quyền trẻ em, HOT
 
Giới và Phát triển
Giới và Phát triểnGiới và Phát triển
Giới và Phát triển
 
Vai trò của nhân viên công tác xã hội trong việc hỗ trợ người khuyết tật
Vai trò của nhân viên công tác xã hội trong việc hỗ trợ người khuyết tậtVai trò của nhân viên công tác xã hội trong việc hỗ trợ người khuyết tật
Vai trò của nhân viên công tác xã hội trong việc hỗ trợ người khuyết tật
 
Hành vi bạo lực của cha mẹ đối với con tuổi Vị thành niên, HAY
Hành vi bạo lực của cha mẹ đối với con tuổi Vị thành niên, HAYHành vi bạo lực của cha mẹ đối với con tuổi Vị thành niên, HAY
Hành vi bạo lực của cha mẹ đối với con tuổi Vị thành niên, HAY
 
Luận án: Xung đột tâm lý trong giao tiếp của học sinh THCS, HAY
Luận án: Xung đột tâm lý trong giao tiếp của học sinh THCS, HAYLuận án: Xung đột tâm lý trong giao tiếp của học sinh THCS, HAY
Luận án: Xung đột tâm lý trong giao tiếp của học sinh THCS, HAY
 
Luận văn: Bảo đảm quyền học tập của trẻ em ở Việt Nam, HAY, 9đ
Luận văn: Bảo đảm quyền học tập của trẻ em ở Việt Nam, HAY, 9đLuận văn: Bảo đảm quyền học tập của trẻ em ở Việt Nam, HAY, 9đ
Luận văn: Bảo đảm quyền học tập của trẻ em ở Việt Nam, HAY, 9đ
 
Luận văn: Quyền kinh tế, văn hóa, xã hội qua bản Hiến pháp, HOT
Luận văn: Quyền kinh tế, văn hóa, xã hội qua bản Hiến pháp, HOTLuận văn: Quyền kinh tế, văn hóa, xã hội qua bản Hiến pháp, HOT
Luận văn: Quyền kinh tế, văn hóa, xã hội qua bản Hiến pháp, HOT
 
Luận văn: Vấn đề quyền con người và can thiệp nhân đạo, HAY
Luận văn: Vấn đề quyền con người và can thiệp nhân đạo, HAYLuận văn: Vấn đề quyền con người và can thiệp nhân đạo, HAY
Luận văn: Vấn đề quyền con người và can thiệp nhân đạo, HAY
 
Luận văn: Bạo lực gia đình ở Hàn Quốc và Việt Nam, HAY, 9đ
Luận văn: Bạo lực gia đình ở Hàn Quốc và Việt Nam, HAY, 9đLuận văn: Bạo lực gia đình ở Hàn Quốc và Việt Nam, HAY, 9đ
Luận văn: Bạo lực gia đình ở Hàn Quốc và Việt Nam, HAY, 9đ
 
Luận văn: Quyền con người và giáo dục quyền con người, HOT
Luận văn: Quyền con người và giáo dục quyền con người, HOTLuận văn: Quyền con người và giáo dục quyền con người, HOT
Luận văn: Quyền con người và giáo dục quyền con người, HOT
 
Tiểu luận thực trạng bạo lực gia đình Việt Nam hiện nay
Tiểu luận thực trạng bạo lực gia đình Việt Nam hiện nayTiểu luận thực trạng bạo lực gia đình Việt Nam hiện nay
Tiểu luận thực trạng bạo lực gia đình Việt Nam hiện nay
 
Luận văn: Quản lý nhà nước về nhà ở xã hội tại TP Đà Nẵng, HAY
Luận văn: Quản lý nhà nước về nhà ở xã hội tại TP Đà Nẵng, HAYLuận văn: Quản lý nhà nước về nhà ở xã hội tại TP Đà Nẵng, HAY
Luận văn: Quản lý nhà nước về nhà ở xã hội tại TP Đà Nẵng, HAY
 
Cong tac xa hoi voi tre em
Cong tac xa hoi voi tre emCong tac xa hoi voi tre em
Cong tac xa hoi voi tre em
 
Luận văn: Hỗ trợ hòa nhập cộng đồng đối với trẻ em mồ côi, HAY
Luận văn: Hỗ trợ hòa nhập cộng đồng đối với trẻ em mồ côi, HAYLuận văn: Hỗ trợ hòa nhập cộng đồng đối với trẻ em mồ côi, HAY
Luận văn: Hỗ trợ hòa nhập cộng đồng đối với trẻ em mồ côi, HAY
 
Bai giang ctxh ca nhan (vta quan)
Bai giang ctxh ca nhan (vta quan)Bai giang ctxh ca nhan (vta quan)
Bai giang ctxh ca nhan (vta quan)
 

Similar to Đề tài: Bảo đảm quyền của trẻ em khuyết tật ở Việt Nam, HOT

Luận án: Quyền trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt ở Việt Nam, HAY - Gửi miễn phí qu...
Luận án: Quyền trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt ở Việt Nam, HAY - Gửi miễn phí qu...Luận án: Quyền trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt ở Việt Nam, HAY - Gửi miễn phí qu...
Luận án: Quyền trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt ở Việt Nam, HAY - Gửi miễn phí qu...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Luận văn: Quyền của người đồng tính: Lý luận và thực tiễn, HAY - Gửi miễn phí...
Luận văn: Quyền của người đồng tính: Lý luận và thực tiễn, HAY - Gửi miễn phí...Luận văn: Quyền của người đồng tính: Lý luận và thực tiễn, HAY - Gửi miễn phí...
Luận văn: Quyền của người đồng tính: Lý luận và thực tiễn, HAY - Gửi miễn phí...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Hôn nhân đồng tính dưới góc độ quyền con người.pdf
Hôn nhân đồng tính dưới góc độ quyền con người.pdfHôn nhân đồng tính dưới góc độ quyền con người.pdf
Hôn nhân đồng tính dưới góc độ quyền con người.pdfTÀI LIỆU NGÀNH MAY
 
Quyển 4: Hợp phần Sinh kế - Hướng dẫn Phục hồi chức năng dựa vào cộng đồng
Quyển 4: Hợp phần Sinh kế - Hướng dẫn Phục hồi chức năng dựa vào cộng đồngQuyển 4: Hợp phần Sinh kế - Hướng dẫn Phục hồi chức năng dựa vào cộng đồng
Quyển 4: Hợp phần Sinh kế - Hướng dẫn Phục hồi chức năng dựa vào cộng đồngYhoccongdong.com
 

Similar to Đề tài: Bảo đảm quyền của trẻ em khuyết tật ở Việt Nam, HOT (20)

Đề tài: Bảo vệ, thúc đẩy quyền dân sự của người khuyết tật, HOT
Đề tài: Bảo vệ, thúc đẩy quyền dân sự của người khuyết tật, HOTĐề tài: Bảo vệ, thúc đẩy quyền dân sự của người khuyết tật, HOT
Đề tài: Bảo vệ, thúc đẩy quyền dân sự của người khuyết tật, HOT
 
Đề tài: Bảo vệ quyền của người khuyết tật trong luật lao động, HAY
Đề tài: Bảo vệ quyền của người khuyết tật trong luật lao động, HAYĐề tài: Bảo vệ quyền của người khuyết tật trong luật lao động, HAY
Đề tài: Bảo vệ quyền của người khuyết tật trong luật lao động, HAY
 
Quyền của người khuyết tật trong Luật Nhân quyền quốc tế và Việt Nam
Quyền của người khuyết tật trong Luật Nhân quyền quốc tế và Việt NamQuyền của người khuyết tật trong Luật Nhân quyền quốc tế và Việt Nam
Quyền của người khuyết tật trong Luật Nhân quyền quốc tế và Việt Nam
 
Luận án: Quyền trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt ở Việt Nam, HAY - Gửi miễn phí qu...
Luận án: Quyền trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt ở Việt Nam, HAY - Gửi miễn phí qu...Luận án: Quyền trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt ở Việt Nam, HAY - Gửi miễn phí qu...
Luận án: Quyền trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt ở Việt Nam, HAY - Gửi miễn phí qu...
 
Đề tài: Pháp luật về dạy nghề đối với người khuyết tật Việt Nam, HOT
Đề tài: Pháp luật về dạy nghề đối với người khuyết tật Việt Nam, HOTĐề tài: Pháp luật về dạy nghề đối với người khuyết tật Việt Nam, HOT
Đề tài: Pháp luật về dạy nghề đối với người khuyết tật Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Quyền của người đồng tính: Lý luận và thực tiễn, HAY - Gửi miễn phí...
Luận văn: Quyền của người đồng tính: Lý luận và thực tiễn, HAY - Gửi miễn phí...Luận văn: Quyền của người đồng tính: Lý luận và thực tiễn, HAY - Gửi miễn phí...
Luận văn: Quyền của người đồng tính: Lý luận và thực tiễn, HAY - Gửi miễn phí...
 
Luận văn: Quyền của người đồng tính, HAY, 9đ
Luận văn: Quyền của người đồng tính, HAY, 9đLuận văn: Quyền của người đồng tính, HAY, 9đ
Luận văn: Quyền của người đồng tính, HAY, 9đ
 
Hôn nhân đồng tính dưới góc độ quyền con người.pdf
Hôn nhân đồng tính dưới góc độ quyền con người.pdfHôn nhân đồng tính dưới góc độ quyền con người.pdf
Hôn nhân đồng tính dưới góc độ quyền con người.pdf
 
Luận văn Hoàn Thiện Pháp Luật Về Quyền Của Người Đồng Tính.docx
Luận văn Hoàn Thiện Pháp Luật Về Quyền Của Người Đồng Tính.docxLuận văn Hoàn Thiện Pháp Luật Về Quyền Của Người Đồng Tính.docx
Luận văn Hoàn Thiện Pháp Luật Về Quyền Của Người Đồng Tính.docx
 
Quyền của người bị tạm giữ, tạm giam và chấp hành hình phạt tù
Quyền của người bị tạm giữ, tạm giam và chấp hành hình phạt tùQuyền của người bị tạm giữ, tạm giam và chấp hành hình phạt tù
Quyền của người bị tạm giữ, tạm giam và chấp hành hình phạt tù
 
Luận Văn Ngành Luật Học Về Quyền Trẻ Em Việt Nam
Luận Văn Ngành Luật Học Về Quyền Trẻ Em Việt NamLuận Văn Ngành Luật Học Về Quyền Trẻ Em Việt Nam
Luận Văn Ngành Luật Học Về Quyền Trẻ Em Việt Nam
 
Các tội phạm xâm hại tình dục trẻ em trong luật hình sự Việt Nam
Các tội phạm xâm hại tình dục trẻ em trong luật hình sự Việt NamCác tội phạm xâm hại tình dục trẻ em trong luật hình sự Việt Nam
Các tội phạm xâm hại tình dục trẻ em trong luật hình sự Việt Nam
 
Đề tài: Các tội phạm xâm hại tình dục trẻ em trong luật hình sự, HOT
Đề tài: Các tội phạm xâm hại tình dục trẻ em trong luật hình sự, HOTĐề tài: Các tội phạm xâm hại tình dục trẻ em trong luật hình sự, HOT
Đề tài: Các tội phạm xâm hại tình dục trẻ em trong luật hình sự, HOT
 
Luận án: Quyền trẻ em trong xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam
Luận án: Quyền trẻ em trong xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt NamLuận án: Quyền trẻ em trong xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam
Luận án: Quyền trẻ em trong xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam
 
Quyền trẻ em trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền
Quyền trẻ em trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyềnQuyền trẻ em trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền
Quyền trẻ em trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền
 
Bảo vệ quyền con người của người chưa thành niên bị tước tự do
Bảo vệ quyền con người của người chưa thành niên bị tước tự doBảo vệ quyền con người của người chưa thành niên bị tước tự do
Bảo vệ quyền con người của người chưa thành niên bị tước tự do
 
Đề tài: Bảo đảm quyền của nhóm người yếu thế trong xã hội
Đề tài: Bảo đảm quyền của nhóm người yếu thế trong xã hộiĐề tài: Bảo đảm quyền của nhóm người yếu thế trong xã hội
Đề tài: Bảo đảm quyền của nhóm người yếu thế trong xã hội
 
Quyển 4: Hợp phần Sinh kế - Hướng dẫn Phục hồi chức năng dựa vào cộng đồng
Quyển 4: Hợp phần Sinh kế - Hướng dẫn Phục hồi chức năng dựa vào cộng đồngQuyển 4: Hợp phần Sinh kế - Hướng dẫn Phục hồi chức năng dựa vào cộng đồng
Quyển 4: Hợp phần Sinh kế - Hướng dẫn Phục hồi chức năng dựa vào cộng đồng
 
Luận văn: Bình đẳng giới trong pháp luật hôn nhân - gia đình, HOT
Luận văn: Bình đẳng giới trong pháp luật hôn nhân - gia đình, HOTLuận văn: Bình đẳng giới trong pháp luật hôn nhân - gia đình, HOT
Luận văn: Bình đẳng giới trong pháp luật hôn nhân - gia đình, HOT
 
Luận văn: Dịch vu công tác xã hội đối với trẻ khuyết tật vận động
Luận văn: Dịch vu công tác xã hội đối với trẻ khuyết tật vận độngLuận văn: Dịch vu công tác xã hội đối với trẻ khuyết tật vận động
Luận văn: Dịch vu công tác xã hội đối với trẻ khuyết tật vận động
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864

Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864 (20)

200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
 
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
 
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhuadanh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
 
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay NhấtKinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
 
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểmKho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại họcKho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
 
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tửKho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểmKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu HọcKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhấtKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểmKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin HọcKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập KhẩuKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
 

Recently uploaded

Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxChàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxendkay31
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhvanhathvc
 
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...Nguyen Thanh Tu Collection
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...hoangtuansinh1
 
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdfSơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdftohoanggiabao81
 
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfhoangtuansinh1
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxTrích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxnhungdt08102004
 
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...Nguyen Thanh Tu Collection
 
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoabài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa2353020138
 
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líKiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líDr K-OGN
 
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...ThunTrn734461
 
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdfNQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdfNguyễn Đăng Quang
 

Recently uploaded (19)

Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxChàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
 
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
 
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
 
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
 
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdfSơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
 
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
 
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxTrích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
 
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
 
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoabài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
 
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líKiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
 
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
 
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdfNQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
 

Đề tài: Bảo đảm quyền của trẻ em khuyết tật ở Việt Nam, HOT

  • 1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT TRẦN THỊ HUYỀN TRANG BẢO ĐẢM QUYỀN CỦA TRẺ EM KHUYẾT TẬT Ở VIỆT NAM HIỆN NAY Chuyên ngành: Pháp luật về quyền con ngƣời Mã số: Chuyên ngành đào tạo thí điểm LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS.TS CHU HỒNG THANH HÀ NỘI - 2014
  • 2. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƯỜI CAM ĐOAN Trần Thị Huyền Trang
  • 3. MỤC LỤC Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục chữ viết tắt MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chƣơng 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN CỦA TRẺ EM KHUYẾT TẬT............................................................................ 9 1.1. Trẻ em khuyết tật ............................................................................... 9 1.1.1. Khái niệm trẻ em.................................................................................. 9 1.1.2. Khái niệm trẻ em khuyết tật...............................................................11 1.1.3. Ảnh hưởng của tình trạng khuyết tật đến hoạt động của trẻ ..............17 1.1.4. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng khuyết tật ở trẻ...............................18 1.1.5. Phân loại trẻ em khuyết tật.................................................................20 1.2. Quyền của trẻ em khuyết tật và Bảo đảm quyền của trẻ em khuyết tật...........................................................................................22 1.2.1. Khái niệm Quyền của trẻ em khuyết tật.............................................22 1.2.2. Khái niệm Bảo đảm quyền của trẻ em khuyết tật ..............................27 Tiểu kết chƣơng 1..........................................................................................29 Chƣơng 2: THỰC TRẠNG BẢO ĐẢM QUYỀN CỦA TRẺ EM KHUYẾT TẬT Ở VIỆT NAM HIỆN NAY...................................30 2.1. Tình trạng trẻ em khuyết tật ở Việt Nam hiện nay ......................30 2.2. Thực trạng Bảo đảm quyền của trẻ em khuyết tật trong lĩnh vực xây dựng pháp luật ...................................................................31 2.2.1. Thành tựu ...........................................................................................32 2.2.2. Hạn chế...............................................................................................34
  • 4. 2.3. Thực trạng Bảo đảm một số quyền của trẻ em khuyết tật...........37 2.3.1. Quyền được giáo dục .........................................................................38 2.3.2. Quyền được hưởng bảo trợ xã hội......................................................42 2.3.3. Quyền được chăm sóc sức khỏe.........................................................46 2.3.4. Quyền được tham gia hoạt động văn hóa, thể thao, giải trí ...............50 2.3.5. Quyền được tiếp cận cơ sở hạ tầng, dịch vụ công cộng.....................53 2.4. Thực trạng bảo đảm quyền của trẻ em khuyết tật trong cộng đồng ...57 2.4.1. Thành tựu..........................................................................................57 2.4.2. Hạn chế..............................................................................................60 Tiểu kết Chƣơng 2.........................................................................................63 Chƣơng 3: PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM QUYỀN CỦA TRẺ EM KHUYẾT TẬT .......................................64 3.1. Phƣơng hƣớng Bảo đảm quyền của trẻ em khuyết tật.................64 3.1.1. Thể chế hóa quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước về trẻ em khuyết tật ......................................................................................64 3.1.2. Khắc phục những hạn chế trong quá trình bảo đảm quyền của trẻ em khuyết tật ......................................................................................65 3.1.3. Tăng cường hoạt động tuyên truyền về trẻ em khuyết tật trong cộng đồng ...........................................................................................67 3.1.4. Tích cực, chủ động hợp tác và đối thoại quốc tế ...............................67 3.2. Giải pháp Bảo đảm quyền của trẻ em khuyết tật .........................69 3.2.1. Về xây dựng pháp luật .......................................................................70 3.2.2. Về một số quyền cụ thể......................................................................75 3.2.3. Về phía cộng đồng..............................................................................84 3.2.4. Về phía bản thân trẻ khuyết tật ..........................................................86 Tiểu kết chƣơng 3..........................................................................................89 KẾT LUẬN....................................................................................................91 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................94
  • 5. DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT CRC Công ước quốc tế về quyền trẻ em 1989 (Convention on the Rights of the Childs) CRPD Công ước về quyền của người khuyết tật 2007 (Convention on the Rights of Persons with Disabilities) ICCPR Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị 1966 (International Convenant on Civil and Political Rights) ICCSCR Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa 1996 (International Convenant on Economic, Social and Cultural Rights). UDHR Tuyên ngôn quốc tế Nhân quyền 1948 (The Universal Declaration of Human Rights)
  • 6. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong luật nhân quyền quốc tế, phần nội dung về quyền của các nhóm xã hội dễ bị tổn thương chiếm vị trí rất quan trọng. Kể từ khi Liên Hợp Quốc thành lập (1945), nhiều văn kiện quốc tế về nhân quyền đã được tổ chức này thông qua, trong đó có một số lượng ngày càng lớn văn kiện đề cập đến quyền của các nhóm xã hội dễ bị tổn thương. Đây là các nhóm, cộng đồng có vị thế về chính trị, xã hội hoặc kinh tế thấp hơn, từ đó khiến họ có nguy cơ cao hơn trong việc bị bỏ quên hay bị vi phạm các quyền con người, bởi vậy, họ cần được chú ý bảo vệ đặc biệt so với những nhóm, cộng đồng người khác. Nhóm này bao gồm: phụ nữ, trẻ em, người khuyết tật, người sống chung với HIV, người di tản hoặc tìm kiếm nơi lánh nạn, người không quốc tịch, người thiểu số, người lao động di trú… Trong đó, người khuyết tật nói chung và trẻ em khuyết tật nói riêng được coi là một trong các nhóm thiểu số lớn nhất trên thế giới và cũng là một trong những nhóm dễ bị tổn thương nhất. Quyền của người khuyết tật được pháp luật quốc tế ghi nhận, và ngày càng được quan tâm đặc biệt. Tháng 11 năm 1989, Công ước về Quyền trẻ em được thông qua, đây là Công ước đầu tiên về quyền con người mà trong đó có dẫn chiếu cụ thể đến người khuyết tật, và có một điều riêng biệt về quyền và nhu cầu của trẻ em khuyết tật (Điều 23). Sau đó, hàng loạt các hướng dẫn, các quy tắc, các khuyến nghị về vấn đề này được ban hành nhằm thúc đẩy và bảo vệ hơn nữa quyền của nhóm người khuyết tật nói chung và trẻ em khuyết tật nói riêng, quan trọng nhất là Công ước về quyền của những người khuyết tật được Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua vào tháng 03/2007 đã đánh dấu một bước ngoặt trong cuộc đấu tranh cho quyền của những người khuyết tật trên thế giới.
  • 7. 2 Ở Việt Nam, người khuyết tật được hưởng tất cả các quyền công dân cơ bản, không có bất kỳ sự phân biệt đối xử nào dựa trên tình trạng khuyết tật của họ. Ngoài ra, pháp luật Việt Nam cũng quy định những đối xử ưu đãi với người khuyết tật, nhằm bù đắp những thiệt thòi của họ, cũng như để đảm bảo sự bình đẳng thực chất về các quyền và cơ hội với mọi công dân. Đặc biệt, Luật người khuyết tật năm 2010 vừa mới được thông qua, đã góp phần cải thiện đời sống người khuyết tật, làm thay đổi nhận thức xã hội về người khuyết tật, tạo môi trường pháp lý, môi trường xã hội thuận lợi để người khuyết tật hòa nhập cộng đồng, khuyến khích các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước tham gia trợ giúp người khuyết tật. Nhưng trên thực tế, xuất phát từ việc bản thân người khuyết tật bị hạn chế trong việc truyền tải nhu cầu, mong muốn của mình tới cộng đồng, xã hội, cũng như những cơ quan hoạch định chính sách, pháp luật, nên các quy định Nhà nước đưa ra thường dựa trên cơ sở suy đoán về mức độ suy giảm sức khỏe của họ. Những suy đoán đó đa phần chứa đựng yếu tố chủ quan nên nhiều khi không đáp ứng được nhu cầu, không phù hợp với khả năng và chưa thực sự tạo điều kiện cho người khuyết tật. Bên cạnh đó, họ là đối tượng phải chịu những khó khăn rất lớn về mặt vật chất và tinh thần, đồng thời, tình trạng khuyết tật khiến họ đã và đang phải chịu những thiệt thòi trên tất cả các phương diện của đời sống xã hội mặc dù xét ở góc độ con người, tất cả sinh ra đều có những nhu cầu cơ bản giống nhau về sự tự do, bình đẳng, được tôn trọng phẩm giá, được cống hiến, được khẳng định giá trị cá nhân… Đặc biệt, với những trẻ em khuyết tật, thì những khó khăn còn tăng lên đáng kể. Bởi trước hết, trẻ em nói chung vốn là đối tượng cần sự quan tâm, chăm sóc, được tạo mọi điều kiện thuận lợi cho sự phát triển cả về thể chất lẫn tinh thần. Tuy nhiên, với những trẻ em mang trong mình nhiều thiệt thòi từ khi sinh ra như: dị tật bẩm sinh; vĩnh viễn không nghe được âm thanh của
  • 8. 3 cuộc sống; không được trò chuyện như các bạn cùng trang lứa; hay không cảm nhận thấy ánh sáng của cuộc đời… thì việc tiếp cận những gì tốt đẹp nhất dường như quá xa vời. Phải sống trong sự kì thị, phân biệt đối xử của mọi người xung quanh, kết hợp với mặc cảm tự ti về bản thân mình, khiến nhiều trẻ em khuyết tật không dám đến các nơi công cộng vì sợ những ánh mắt để ý; không dám đến trường vì sợ bạn bè trêu chọc… Bên cạnh đó, một thực tế chỉ ra rằng, đa số trẻ em khuyết tật đều sống trong nghèo khó; và dễ bị bạo hành hoặc lạm dụng; bị đối xử vô trách nhiệm, ngược đãi hay bóc lột; trong khi đó, việc tiếp cận với sự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp lại gặp nhiều trở ngại vì những lý do khách quan và chủ quan. Có thể thấy, trẻ em khuyết tật thực sự phải trải qua nhiều khó khăn, phải đối mặt với nhiều rào cản để được hưởng trọn vẹn những quyền vốn có của mình. Rào cản này không chỉ nằm ở bản thân của sự khuyết tật, mà còn là tổng hợp những trở ngại về mặt xã hội, văn hóa, quan điểm và cả về vật chất mà trẻ em khuyết tật phải đối mặt trong đời sống hàng ngày. Chính vì những lý do trên, mà tác giả đã chọn chủ đề “Bảo đảm quyền của trẻ em khuyết tật ở Việt Nam hiện nay” làm đề tài luận văn thạc sỹ của mình. Với cách tiếp cận thông qua lăng kính nhân quyền, luận văn mong muốn góp phần tích cực vào việc đề xuất những ý kiến, giải pháp trong hoạch định và thực thi chính sách pháp luật về quyền của trẻ em khuyết tật ở Việt Nam. Đồng thời qua đó, nâng cao hiểu biết, thái độ cảm thông đến nhóm đối tượng dễ bị tổn thương này. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Ở Việt Nam, đề tài quyền của người khuyết tật là vấn đề được nhiều cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội, trường đại học, viện nghiên cứu, tổ chức liên chính phủ, tổ chức phi chính phủ quan tâm. Đặc biệt, trong thời đại hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, vấn đề quyền con người ngày càng được chú trọng
  • 9. 4 thì quyền của các nhóm người dễ bị tổn thương nói chung và quyền của người khuyết tật nói riêng cũng nhận được nhiều chú ý, các công trình nghiên cứu về vấn đề này cũng tăng lên cả về số lượng lẫn chất lượng. Bên cạnh đó, trẻ em cũng là chủ đề đã được nghiên cứu từ rất lâu, với nhiều công trình dưới các hình thức như giáo trình, sách chuyên khảo, tham khảo, luận án, luận văn, bài báo, các buổi hội thảo… nhằm mục đích tăng cường hơn nữa công tác bảo vệ lợi ích và quyền của trẻ em trong phạm vi quốc gia và cộng đồng quốc tế. Tuy nhiên, các nghiên cứu đó chỉ dừng lại ở mức độ chung, khái quát về nhóm người khuyết tật hoặc nhóm trẻ em. Tính đến thời điểm hiện tại, chưa có một công trình nào nghiên cứu cụ thể, toàn diện, đi sâu về lĩnh vực Bảo đảm quyền của trẻ em khuyết tật ở Việt Nam dưới góc độ quyền con người nhìn từ chính sách đến thực tiễn thi hành. Ở nước ta, trong những năm qua, có một số công trình liên quan nghiên cứu về Quyền của người khuyết tật, tiêu biểu như sau: - Khoa Luật, Đại học quốc gia Hà Nội (2011), Luật quốc tế về quyền của các nhóm người dễ bị tổn thương, Nxb Lao động – xã hội. - Hoàng Thị Kim Quế (2010), Chủ nhiệm đề tài, “Hoàn thiện pháp luật về bảo đảm quyền của các nhóm xã hội dễ bị tổn thương”, Đề tài nghiên cứu khoa học, Khoa Luật, ĐHQG Hà Nội. - Lê Bạch Dương – Đặng Nguyên Anh – Khuất Thu Hồng – Lê Hoài Trung – Robert Leroy Bach (2005), Bảo trợ xã hội cho những nhóm thiệt thòi ở Việt Nam, Nxb Thế giới - Hà Đình Bốn – Phó Vụ trưởng vụ Pháp chế - Bộ Lao động thương binh và xã hội, Hội đồng phối hợp công tác phổ biến, giáo dục pháp luật của Chính phủ, Đặc san (2010), “Tuyên truyền pháp luật, (số 05), Chủ đề: Luật người khuyết tật”, Hà Nội.
  • 10. 5 - Báo cáo đánh giá (2009), Quyền của trẻ em khuyết tật tại Việt Nam – Đưa luật pháp của Việt Nam phù hợp với Công ước Liên Hợp Quốc về Quyền của Người khuyết tật, tháng 12/2009, của Eric Rosenthal và Viện Quốc tế bảo vệ quyền người khuyết tật tâm thần thực hiện theo yêu cầu của UNICEF Việt Nam. - Báo cáo của nghiên cứu viên về (2011), Người khuyết tật ở Việt Nam, Một số kết quả chủ yếu từ Tổng điều tra Dân số và nhà ở Việt Nam, là xuất bản phẩm thứ 9 trong tập hợp các ấn phẩm được Quỹ dân số Liên hợp Quốc (UNFPA) công bố vào 2011. - Báo cáo thường niên năm (2010), Về hoạt động hỗ trợ người khuyết tật Việt Nam, của Ban điều phối các hoạt động hỗ trợ người tàn tật Việt Nam NCCD. - Báo cáo (2010), Phân tích tình hình trẻ em tại Việt Nam, 2010 do UNICEF xây dựng dưới sự cộng tác với Chính phủ Việt Nam về quyền trẻ em. Như vậy, có thể thấy, các công trình nghiên cứu về người khuyết tật khá phong phú, song so với yêu cầu thực tiễn thì còn khiêm tốn, chỉ dừng lại ở mức chung, khái quát nhất, chưa đi sâu vào các mảng cụ thể. Vì vậy, việc nghiên cứu vấn đề Quyền của trẻ em khuyết tật ở Việt Nam trong thời điểm hiện tại là hết sức cần thiết cả về lý luận và thực tiễn. Luận văn sẽ góp phần làm phong phú hơn nguồn tài liệu về lĩnh vực này, đồng thời, bổ sung thêm kiến thức về đảm bảo quyền của người khuyết tật nói chung và của trẻ em khuyết tật nói riêng. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu - Nghiên cứu tổng quan về tình hình trẻ em khuyết tật ở Việt Nam. - Đánh giá được thực trạng đảm bảo quyền của trẻ em khuyết tật ở nước ta hiện nay trong các khía cạnh xây dựng pháp luật, thực thi pháp luật, từ phía cộng đồng… Từ đó rút ra được các quyền mà trẻ em khuyết tật dễ bị xâm phạm và bị bỏ qua trên thực tế.
  • 11. 6 - Đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện hơn nữa chính sách về bảo đảm quyền của trẻ em khuyết tật ở Việt nam hiện nay, hướng đến phù hợp với pháp luật quốc tế. 3.2. Nhiệm vụ - Nghiên cứu, làm rõ vấn đề lý luận về quyền của trẻ em khuyết tật. - Nghiên cứu quy định của pháp luật Việt Nam trên cơ sở so sánh, đối chiếu với pháp luật quốc tế về bảo đảm quyền của trẻ em khuyết tật. - Đánh giá thực trạng việc thực thi pháp luật về bảo đảm quyền của trẻ em khuyết tật ở Việt Nam: những thành tựu đạt được, hạn chế tồn tại, và rút ra được nguyên nhân của thành tựu, hạn chế đó. - Từ đó, đưa ra khuyến nghị nhằm cải thiện tính bất cập của pháp luật và đề xuất các giải pháp nhằm bảo đảm quyền của trẻ em khuyết tật ở Việt Nam hiện nay. 4. Phạm vi nghiên cứu Luận văn sẽ tập trung vào các vấn đề sau: - Thực trạng pháp luật Việt Nam về bảo đảm quyền của trẻ em khuyết tật. - Đánh giá tính đúng đắn, mức độ phù hợp giữa các quy định trong pháp luật Việt Nam với tình hình thực tế, đồng thời xem xét các yếu tố tác động tới việc thực thi pháp luật về bảo đảm quyền của trẻ em khuyết tật. 5. Cơ sở phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu - Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mac – Lenin; Các nguyên tắc nền tảng của luật nhân quyền quốc tế; Các quan điểm về quyền của người khuyết tật nói chung và của trẻ em khuyết tật nói riêng trên thế giới. - Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau: phân tích, tổng hợp, xã hội học, thống kê, so sánh, đánh giá… để làm sáng tỏ các vấn đề liên
  • 12. 7 quan, đồng thời học hỏi kinh nghiệm thực tiễn của các nhà nghiên cứu về vấn đề quyền của trẻ em khuyết tật. 6. Kết quả và ý nghĩa của luận văn Kết quả nghiên cứu của Luận văn sẽ góp phần cung cấp những tri thức khoa học cơ bản mang tính lý luận được nhìn nhận dưới góc độ quyền con người về bảo đảm quyền của trẻ em khuyết tật; giúp người đọc nhận thức đầy đủ và toàn diện hơn quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về quyền và đảm bảo quyền cho trẻ em khuyết tật. Luận văn cũng nêu bật được các quyền mà trẻ em khuyết tật Việt Nam dễ và đang bị bỏ qua hay bị xâm phạm; đồng thời tìm hiểu thực trạng của việc đảm bảo quyền của trẻ em khuyết tật, rút ra nguyên nhân của những thành tựu và hạn chế trong việc bảo đảm quyền của đối tượng này. Từ đó, là cơ sở cho việc nghiên cứu, bổ sung để hoàn chỉnh hơn các quyền, cách thức đảm bảo quyền cho trẻ em khuyết tật ở Việt Nam hiện nay. 7. Điểm mới của luận văn Luận văn là một trong những công trình nghiên cứu đầu tiên, có tính hệ thống thông qua lăng kính nhân quyền về vấn đề “Bảo đảm quyền của trẻ em khuyết tật ở Việt Nam hiện nay”, và đã có những điểm mới nổi bật như sau: - Thông qua việc làm sáng tỏ những vấn đề chung có liên quan đến trẻ em khuyết tật, luận văn đã đưa ra được khái niệm trẻ em khuyết tật, khái niệm quyền trẻ em khuyết tật và khái niệm đảm bảo quyền của trẻ em khuyết tật. - Đánh giá có hệ thống và khái quát về thực trạng bảo đảm quyền của trẻ em khuyết tật trong một số lĩnh vực cụ thể, nêu rõ thành tựu, hạn chế và đưa ra được nguyên nhân có các thành tựu và hạn chế đó. - Đề xuất các quan điểm, giải pháp cơ bản nhằm bảo đảm có hiệu quả các quyền của trẻ em khuyết tật trong các lĩnh vực: xây dựng, thực thi pháp luật, thái độ của cộng đồng và nhận thức của bản thân trẻ bị khuyết tật.
  • 13. 8 8. Kết cấu của luận văn Ngoài phần Mở đầu, Phần Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, kết cấu luận văn chia làm ba chương như sau: Chương 1. Lý luận chung về bảo đảm quyền của trẻ em khuyết tật. Chương 2. Thực trạng bảo đảm quyền của trẻ em khuyết tật ở Việt Nam. Chương 3. Phương hướng và giải pháp bảo đảm quyền của trẻ em khuyết tật ở Việt Nam.
  • 14. 9 Chƣơng 1 LÝ LUẬN CHUNG VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN CỦA TRẺ EM KHUYẾT TẬT 1.1. Trẻ em khuyết tật 1.1.1. Khái niệm trẻ em Từ lâu, trẻ em vốn được coi là một trong các nhóm xã hội dễ bị tổn thương và được nhà nước, cá nhân, các tổ chức xã hội quan tâm bảo vệ. Do đó, việc xác định thế nào được gọi là trẻ em chính là cơ sở để thực hiện và phát huy sự quan tâm đó. Trong Công ước về quyền trẻ em 1989 (Convention on the Rights of the Child – CRC) - văn kiện quốc tế cơ bản, toàn diện nhất về trẻ em tính đến thời điểm này đã định nghĩa “Trẻ em có nghĩa là bất kỳ người nào dưới 18 tuổi, trừ trường hợp pháp luật có thể được áp dụng với trẻ em đó quy định tuổi thành niên sớm hơn” (Điều 1). Và để làm rõ khái niệm trẻ em, ngay trong lời nói đầu của Công ước đã nêu rõ “trẻ em, do còn non nớt về thể chất và trí tuệ, cần phải được bảo vệ và chăm sóc đặc biệt, kể cả sự bảo vệ thích hợp về mặt pháp lý trước cũng như sau khi ra đời”. Theo đó, trẻ em là những người đảm bảo đầy đủ các điều kiện sau: Một là, phải là người còn non nớt về thể chất và trí tuệ; Hai là, cần được bảo vệ và chăm sóc đặc biệt; Ba là người từ 0 đến dưới 18 tuổi. Do mỗi nước có quan niệm không giống nhau về trẻ em, nên độ tuổi được xác định là trẻ em cũng khác nhau, và Công ước về quyền trẻ em đã quy định vấn đề này theo hướng mở. Tức là, tuổi 18 được coi là mức tiêu chuẩn nhưng không phải cố định, bắt buộc, mà cho phép mỗi quốc gia tùy thuộc vào điều kiện kinh tế xã hội của nước mình, có thể quy định độ tuổi trẻ em sớm hơn (dưới 18 tuổi). Tuy nhiên, việc quy định mang tính chất mềm dẻo này, có thể
  • 15. 10 làm số lượng trẻ em được bảo vệ theo Công ước giảm đi ở một số nước, nhưng lại có tác dụng tích cực trong việc tăng lên về số lượng các quốc gia chấp nhận tham gia công ước. Điều đó kéo theo việc bảo vệ, chăm sóc trẻ em theo quy định của điều ước quốc tế này trở nên phổ biến ở nhiều nơi trên thế giới. Liên quan đến khái niệm Trẻ em, Liên hợp quốc còn dùng khái niệm “người chưa thành niên”. Theo quy tắc Bắc Kinh (Những quy tắc tối thiểu, phổ biến của Liên hợp quốc về việc áp dụng pháp luật đối với người chưa thành niên ngày 20/11/1985) nêu rõ “người chưa thành niên là người dưới 18 tuổi”. Họ là người chưa phát triển đầy đủ về thể chất cũng như về tâm sinh lý, trình độ nhận thức và kinh nghiệm sống của họ bị hạn chế, thiếu những điều kiện và bản lĩnh tự lập, khả năng kiềm chế kém, dễ bị kích động, lôi kéo vào các hoạt động phiêu lưu mạo hiểm. Như vậy, việc sử dụng những khái niệm này có ý nghĩa quan trọng về mặt pháp lý. Liên hợp quốc đặt các em trong đối tượng điều chỉnh của pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia với mục đích bảo vệ quyền trẻ em và người chưa thành niên khi phạm pháp. Kêu gọi các nước thành viên tham gia CRC phải quan tâm đầy đủ đến các biện pháp; tích cực, huy động các nguồn lực có thể để giúp đỡ trẻ em và người chưa thành niên nhằm giảm sự can thiệp của pháp luật và xử lý người chưa thành niên phạm pháp một cách công bằng, nhân đạo và hiệu quả. Ở Việt Nam cũng không có một định nghĩa chung về trẻ em. Theo Điều 1 Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004 thì trẻ em là “công dân Việt Nam dưới 16 tuổi”. Như vậy, độ tuổi được coi là trẻ em trong pháp luật nước ta thấp hơn so với quy định trong Điều 1 Công ước quốc tế về quyền trẻ em. Tuy nhiên, đây không bị coi là trái với CRC vì Điều 1 Công ước này cho phép các quốc gia thành viên quy định độ tuổi được coi là trẻ em thấp hơn 18 tuổi. Bên cạnh khái niệm trẻ em, cũng giống như pháp luật quốc tế, pháp luật
  • 16. 11 Việt nam còn có khái niệm “người chưa thành niên” (là những người dưới 18 tuổi theo quy định tại Điều 18 Bộ luật Dân sự năm 2005); “lao động chưa thành niên” (là những người lao động từ đủ 15 đến dưới 18 tuổi theo quy định tại Điều 119 Bộ luật Lao động năm 1994, sửa đổi bổ sung năm 2002, 2006, 2007), và “người chưa thành niên phạm tội” (là những người phạm tội khi còn dưới 18 tuổi, theo các quy định có liên quan trong Bộ luật Hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009). Ngoài ra, liên quan đến trẻ em, theo Luật giáo dục năm 2005, sửa đổi bổ sung năm 2009 lại quy định người đang được nuôi dưỡng, đào tạo trong hệ thống giáo dục mầm non “từ ba tháng đến sáu tuổi” được coi là trẻ em (Điều 21), còn người từ 6 tuổi đến 18 tuổi gọi là học sinh. Mặc dù không có một điều khoản thống nhất quy định rõ ràng về độ tuổi trẻ em, nhưng về cơ bản, các quy định xung quanh khái niệm này đều tương thích với điều khoản ghi nhận tại Công ước quốc tế về quyền trẻ em 1989. Do đó, có thể đưa ra định nghĩa chung nhất về trẻ em ở Việt Nam đó là: Trẻ em là những người dưới 18 tuổi, vẫn còn non nớt về thể chất và trí tuệ, do đó cần sự bảo vệ của cơ quan có thẩm quyền. Đây là cách định nghĩa phù hợp với tinh thần của hệ thống pháp luật trong nước, đồng thời không mâu thuẫn với quy định của pháp luật quốc tế. Việc xác định thống nhất khái niệm về trẻ em có ý nghĩa khá quan trọng. Bởi nó sẽ là cơ sở để làm rõ các khái niệm có liên quan đồng thời tạo điều kiện thực hiện có hiệu quả các biện pháp bảo vệ, chăm sóc và giáo dục nhóm đối tượng dễ bị tổn thương này. 1.1.2. Khái niệm trẻ em khuyết tật Trên phạm vi quốc tế lẫn khu vực hiện nay, chưa có một khái niệm cụ thể về trẻ em khuyết tật. Việt Nam cũng không nằm ngoài xu hướng đó. Vì vậy, để hiểu chính xác khái niệm trẻ em khuyết tật, trước hết, cần đi tìm hiểu khái niệm người khuyết tật. Trong một thời kỳ dài, người khuyết tật được coi là đối tượng phúc lợi
  • 17. 12 xã hội, việc bảo vệ hỗ trợ họ chủ yếu dựa trên tình thương và lòng nhân đạo chứ không được nhìn nhận dưới tư cách chủ thể có quyền như công dân bình thường. Những văn bản pháp luật quốc tế liên quan đến quyền con người được các nước phê chuẩn từ những năm 1940 đến năm 1960 như: Tuyên ngôn quốc tế Nhân quyền 1948 (The Universal Declaration of Human Rights - UDHR), Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị 1966 (International Convenant on Civil and Political Rights – ICCPR); Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa 1996 (International Convenant on Economic, Social and Cultural Rights – ICCSCR)… cũng không trực tiếp đề cập đến người khuyết tật. Đến những năm 70, 80 của thế kỷ XX, dưới sự đấu tranh mạnh mẽ của người khuyết tật và các hiệp hội của họ trên thế giới, nhận thức về người khuyết tật là đối tượng của phúc lợi xã hội mới dần dần được thay thế thông qua việc coi trọng năng lực của nhóm đối tượng này và coi vấn đề khuyết tật là vấn đề bình thường trong xã hội. Sự chuyển biến về nhận thức đã dẫn đến thay đổi cả cách gọi tên của nhóm này. Thay cho việc dùng từ Những người tàn tật (Disable persons) có hàm ý miệt thị và hạ thấp, hiện nay, nhóm xã hội này được gọi một cách tôn trọng là Những người khuyết tật (Persons with Disabilities). Tuy nhiên, quá trình chuyển đổi nhận thức đó diễn ra trong khoảng thời gian tương đối dài và không phải đã hết sự khác biệt. Lịch sử phát triển của vấn đề này cho thấy đã có các quan điểm khác nhau về khái niệm người khuyết tật. Hiện có hai quan điểm chính: quan điểm khuyết tật cá nhân và quan điểm khuyết tật xã hội. [25] - Quan điểm khuyết tật cá nhân hay Quan điểm khuyết tật dưới góc độ y tế: Cho rằng khuyết tật là do chính bản thân con người đó, không liên quan quá nhiều đến các yếu tố về môi trường xã hội và môi trường vật thể xung quanh người khuyết tật. Quan niệm này nhìn nhận người khuyết tật như những người
  • 18. 13 có vấn đề về thể chất, cần được chữa trị bằng các phương pháp khoa học như: thuốc điều trị hoặc công nghệ trị liệu. Lý giải rõ thêm cho quan điểm này, Tổ chức y tế thế giới (WHO) đã phân ra ba loại mức độ suy giảm đó là: Khiếm khuyết (impairment), Khuyết tật (disability), và Tàn tật (Handicap). Trong đó: Khiếm khuyết chỉ tình trạng bị mất hoặc tình trạng bất bình thường của một hay các bộ phận cơ thể hoặc chức năng tâm sinh lý. Khuyết tật chỉ sự giảm thiểu chức năng hoạt động, là hậu quả của sự khiếm khuyết. Còn Tàn tật để chỉ tình thế bất lợi hoặc thiệt thòi của người mang khiếm khuyết do tác động của môi trường xung quanh lên tình trạng khuyết tật của họ. Như vậy, quan điểm khuyết tật cá nhân hay quan điểm khuyết tật y tế nhìn nhận vấn đề khuyết tật là hạn chế ở chính bản thân họ. Mô hình này chú trọng vào việc trị liệu cá nhân chứ không xem trọng việc trị liệu xã hội. Khi bị khuyết tật, chính bản thân những người này cần phải thay đổi chứ không phải xã hội hay môi trường xung quanh họ cần phải thay đổi. - Quan điểm khuyết tật theo mô hình xã hội: cho rằng, nhiều người bị khiếm khuyết ở các cách khác nhau nhưng xã hội đã biến họ thành khuyết tật; con người bị khiếm khuyết nhưng xã hội bị khuyết tật. Nói cách khác, mô hình này coi xã hội là vấn đề cần giải quyết, và giải pháp là phải thay đổi toàn bộ xã hội. Bên cạnh đó, nhấn mạnh việc xóa bỏ các yếu tố rào cản, tạo điều kiện cho người khuyết tật được đối xử như những người bình thường khác, giúp họ nhận thức đầy đủ các nghĩa vụ của mình với tư cách là một công dân. Đây là mô hình khá nổi trội trong những nghiên cứu về khuyết tật trên thế giới vào những năm 1990, nó được coi là mô hình có cơ sở lý thuyết và có quy tắc riêng, là nền tảng những biến chuyển của vấn đề người khuyết tật. Điểm khác biệt chủ yếu giữa hai quan điểm này là: nếu ở mô hình y tế, nguyên nhân gây nên khuyết tật được xác định là do chính bản thân người khuyết tật thì ở mô hình xã hội, khởi nguồn khuyết tật là ở xã hội. Hơn nữa,
  • 19. 14 bản chất của mô hình y tế là sự suy giảm về mặt thể chất, cảm giác và trí tuệ người khuyết tật; còn mô hình xã hội, bản chất của khuyết tật là các rào cản đã ngăn cản người khuyết tật tham gia vào các hoạt động đời sống. Nhìn chung mỗi quan điểm đều có những điểm mạnh và hạn chế nhất định: Quan điểm khuyết tật y tế có tác dụng tốt trong một số lĩnh vực cụ thể như y tế phục hồi chức năng và đảm bảo xã hội. Còn quan điểm khuyết tật theo mô hình xã hội cho thấy nguyên nhân gốc rễ của việc người khuyết tật bị tách biệt khỏi cuộc sống chung, những bất lợi và vấn đề phân biệt đối xử. Hiện nay trên thế giới, cũng không có khái niệm về người khuyết tật được áp dụng chung cho tất cả các nước. Tùy vào điều kiện kinh tế xã hội, truyền thống văn hóa mà mỗi quốc gia có định nghĩa khác nhau về vấn đề này. Như, Điều 2 Luật của nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa về bảo vệ người khuyết tật năm 1990 quy định: Người khuyết tật là một trong những người bị bất thường, mất mát của một cơ quan nhất định hoặc chức năng tâm lí hay sinh lí, hoặc trong cấu trúc giải phẫu và những người đã mất toàn bộ hoặc một phần khả năng tham gia vào các hoạt động một cách bình thường. Người khuyết tật là những người có thính giác, thị giác, lời nói hoặc khuyết tật về thể chất, chậm phát triển tâm thần, rối loạn tâm thần, khuyết tật nhiều và/hoặc khuyết tật khác. Còn Luật về người khuyết tật ban hành năm 1995 của Ấn Độ định nghĩa khuyết tật bao gồm những tình trạng bị mù, nghe kém, lành bệnh phong; thị lực kém; suy giảm khả năng vận động; chậm phát triển trí óc và mắc bệnh về tâm thần. Hay ở Đức, sách số chín của Bộ luật xã hội định nghĩa:
  • 20. 15 Người khuyết tật là người có các chức năng về thể lực, trí lực hoặc tâm lí tiến triển không bình thường so với người có cùng độ tuổi trong thời gian trên 6 tháng và sự không bình thường này là nguyên nhân dẫn đến việc họ bị hạn chế tham gia vào cuộc sống xã hội. Đạo luật về người khuyết tật của Hoa Kỳ năm 1990 định nghĩa: “Người khuyết tật là người có sự suy yếu về thể chất hay tinh thần gây ảnh hưởng đáng kể đến một hay nhiều hoạt động trong cuộc sống”. Cũng theo đạo luật này, những ví dụ cụ thể về khuyết tật bao gồm: Khiếm khuyết về vận động, thị giác, nói và nghe, chậm phát triển tinh thần, bệnh cảm xúc và những khiếm khuyết cụ thể về học tập, bại não, động kinh, teo cơ, ung thư, bệnh tim, tiểu đường, các bệnh lây và không lây như bệnh lao và bệnh do HIV (Có triệu chứng hoặc không có triệu chứng). Tháng 03/2007, Công ước về quyền của người khuyết tật (Convention on the Rights of Persons with Disabilities - CRPD) đã được Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua. Đây là điều ước quốc tế đầu tiên về quyền con người của Liên hợp quốc trong thế kỷ XXI, đánh dấu một bước ngoặt trong cuộc đấu tranh cho quyền của những người khuyết tật trên thế giới. Theo đó, tại Điều 1 Công ước, người khuyết tật bao gồm “Những người có khiếm khuyết lâu dài về thể chất, tâm thần, trí tuệ hoặc giác quan mà khi tương tác với những rào cản khác nhau có thể phương hại đến sự tham gia hữu hiệu và trọn vẹn của họ vào xã hội trên cơ sở bình đẳng với những người khác”. Mặc dù vẫn còn những quan điểm khác nhau về những thuộc tính cấu thành khái niệm “người khuyết tật”, tuy nhiên, đây là lần đầu tiên có một định nghĩa về “người khuyết tật” được ghi nhận trong pháp luật quốc tế về quyền con người, nó là cơ sở trong việc bảo vệ và thúc đẩy quyền của nhóm đối tượng này. Ở Việt Nam hiện nay vẫn còn nhiều quan niệm khác nhau về người
  • 21. 16 khuyết tật hoặc người tàn tật. Đại đa số đều dùng từ khuyết tật và tàn tật để chỉ cùng một khái niệm, và được dùng song song trên cả phương tiện truyền thông đại chúng và văn bản pháp quy. Điều 1 Pháp lệnh về người tàn tật năm 1998 định nghĩa người tàn tật là: “Người bị khiếm khuyết một hay nhiều bộ phận cơ thể hoặc chức năng biểu hiện dưới những dạng tật khác nhau, làm suy giảm khả năng hoạt động khiến cho lao động, học tập gặp nhiều khó khăn” Tuy nhiên, cùng với quá trình phát triển kinh tế - xã hội cũng như quá trình hội nhập quốc tế, cụm từ “Người tàn tật” ngày càng được sử dụng ít đi, thay vào đó là cụm từ “Người khuyết tật” với mục đích tạo sắc thái tình cảm tích cực, coi trọng hơn, đề cao khả năng phục hồi hơn. Trong cuộc hội thảo do Văn phòng Điều phối các hoạt động hỗ trợ người tàn tật Việt Nam (NCCD) và Tổ chức Cứu trợ và Phát triển (CRS) thực hiện thì có đến 17 trên tổng số 19 ý kiến cho rằng nên thay cụm từ tàn tật bằng khuyết tật. [31] Ngày 17/6/2010, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã thông qua Luật Người khuyết tật, có hiệu lực từ 01/01/2011 thay thế Pháp lệnh về người tàn tật 1998, chính thức sử dụng khái niệm “Người khuyết tật” thay cho khái niệm “Người tàn tật” hiện hành, phù hợp với xu hướng nhìn nhận chung của thế giới. Theo quy định tại khoản 1 Điều 2 Luật Người khuyết tật 2010 thì người khuyết tật được hiểu là “người bị khiếm khuyết một hoặc nhiều bộ phận cơ thể hoặc bị suy giảm chức năng được biểu hiện dưới dạng tật khiến cho lao động, sinh hoạt, học tập gặp khó khăn.” Khái niệm này được đưa ra dựa vào mô hình xã hội và về cơ bản phù hợp với khái niệm người khuyết tật trong Công ước về quyền của người khuyết tật năm 2007. Như vậy, dựa trên định nghĩa về người khuyết tật và định nghĩa về trẻ em, theo tác giả, Trẻ em khuyết tật được hiểu là những trẻ từ 0 đến 18 tuổi có khiếm khuyết về cấu trúc cơ thể hoặc suy giảm các chức năng của cơ thể làm hạn chế khả năng hoạt động, gây khó khăn trong sinh hoạt, học tập, xã hội.
  • 22. 17 Việc đưa ra khái niệm chung, thống nhất về trẻ em khuyết tật rất quan trọng nhưng không phải dễ dàng, bởi ngay trong hệ thống pháp luật quốc gia và pháp luật quốc tế cũng không có quy định cụ thể về vấn đề này, trong khi các tiêu chí xác định khuyết tật hay độ tuổi được coi là trẻ em vẫn chưa thực sự thống nhất. Vì vậy, cần phải có cái nhìn tổng thể về trẻ em và người khuyết tật để hình thành khái niệm hợp lý nhất về trẻ em khuyết tật. Từ đó, là cơ sở để phân loại, nghiên cứu, chăm sóc và bảo vệ nhóm đối tượng dễ bị tổn thương này. 1.1.3. Ảnh hưởng của tình trạng khuyết tật đến hoạt động của trẻ Trẻ em khuyết tật trước hết là con người nên họ mang những đặc điểm chung về mặt kinh tế - xã hội, đặc điểm tâm sinh lí như mọi người. Tuy nhiên, do khiếm khuyết về mặt thể chất nên họ có nét đặc thù tương đối so với trẻ không khuyết tật, và cũng bởi những khiếm khuyết đó, mà họ gặp không ít khó khăn trong quá trình sinh hoạt và tham gia vào các hoạt động xã hội. Trước hết, trẻ khuyết tật sẽ gặp khó khăn trong việc tự chăm sóc bản thân mình. Bởi do khiếm khuyết của cơ thể nên hầu hết công việc sinh hoạt hàng ngày của trẻ phải dựa vào người thân trong gia đình. Đây là ảnh hưởng trực tiếp nhất mà tình trạng khuyết tật gây ra cho chính bản thân họ. Thứ hai, tình trạng khuyết tật gây khó khăn cho trẻ trong việc tiếp cận cơ sở vật chất kĩ thuật và tham gia đầy đủ hoạt động giáo dục, việc làm, bệnh viện, công trình phúc lợi xã hội… Bởi các thiết kế công cộng thường chỉ dành cho những người có chức năng được thực hiện bình thường, việc xây dựng làn đường, hoặc lối đi dành riêng cho người khuyết tật chưa phổ biến. Do vậy, trẻ em khuyết tật khó tiếp cận với các dịch vụ giao thông, công cộng, giáo dục, việc làm… dẫn đến họ bị cô lập hoặc loại trừ khỏi sinh hoạt của cộng đồng. Từ chỗ khó tiếp cận các dịch vụ công cộng, tiếp cận giáo dục… trẻ khuyết tật bị đẩy vào tình trạng có trình độ học vấn thấp hơn và cơ hội việc
  • 23. 18 làm thấp hơn. Khó khăn về vật chất dẫn đến thiệt thòi về tinh thần, tình trạng khuyết tật này làm tăng nguy cơ nghèo đói, và sự nghèo đói lại làm tình trạng khuyết tật trầm trọng hơn rất nhiều. Thứ ba, khó khăn xuất phát từ tâm lý tự ti, mặc cảm, và thái độ kỳ thị của xã hội nói chung. Bởi quan niệm của xã hội về người khuyết tật còn tiêu cực, dẫn đến sự kì thị và phân biệt đối xử. Điều này diễn ra dưới nhiều hình thức, ở nhiều bối cảnh khác nhau như gia đình, cộng đồng, trường học… Đối với cộng đồng, trẻ khuyết tật được nhìn nhận là đối tượng “đáng thương”, không có cuộc sống “bình thường”, là “gánh nặng” của toàn xã hội. Trong khi những quy định ghi nhận ở nhiều đạo luật, nghị định lại chưa phổ biến, người dân không biết đến sự tồn tại của các quy định đó nên không hiểu được trách nhiệm và nghĩa vụ của mình đối với trẻ em khuyết tật là như thế nào… Từ đó, dẫn đến sự kì thị, phân biệt đối xử. Điều này ảnh hưởng không nhỏ đến trạng thái tâm lý của trẻ khuyết tật, khiến các em tự xây cho mình một rào cản với thế giới bên ngoài. Đây chính là khó khăn lớn nhất, ảnh hưởng mạnh mẽ nhất đến mọi hoạt động của trẻ em khuyết tật. Có thể thấy, tình trạng khuyết tật gây ra ảnh hưởng lớn đến không chỉ bản thân trẻ khuyết tật mà còn với cả gia đình có trẻ khuyết tật. Từ đó, hình thành nên những rào cản hữu hình và vô hình, cản trở trẻ khuyết tật tham gia vào các hoạt động xã hội, khó có điều kiện phát huy năng lực bản thân, hòa nhập vào cộng đồng. Do vậy, cần có những biện pháp hữu hiệu nhằm hạn chế phần nào tác động tiêu cực mà tình trạng khuyết tật đã gây ra. 1.1.4. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng khuyết tật ở trẻ Có khá nhiều nguyên nhân dẫn đến khuyết tật ở trẻ em. Mặc dù chưa có bằng chứng chính xác, nhưng có thể tổng hợp căn cứ vào tình hình khuyết tật ở trẻ em và chia ra làm các nguyên nhân sau: Một là, do di truyền gây dị tật bẩm sinh. Nguyên nhân của tình trạng
  • 24. 19 này là bởi kết hôn giữa những người cùng dòng máu. Vì thế, để ngăn ngừa, cần tăng cường kiến thức về hôn nhân, giúp mọi người hiểu đúng và đầy đủ về vấn đề này. Hai là, trong thời kỳ mang thai, người mẹ bị ốm; sử dụng các chất kích thích; bị nhiễm các chất độc hại trong môi trường như: chì, thủy ngân, amiăng... Do đó, cần tăng cường giữ gìn sức khỏe cho mẹ và bé, đẩy mạnh chương trình miễn dịch đối với những căn bệnh có thể phòng ngừa như tiêm vacxin cúm, sốt, quai bị… Ba là, do thiếu dinh dưỡng, bệnh tật để lại di chứng như trẻ có thể bị mù do thiếu vitamin A, viêm não, sốt xuất huyết, sốt bại liệt... Vì vậy, cần tăng cường chăm sóc trước khi sinh cho trẻ, đảm bảo cung cấp đầy đủ và có chất lượng các dịch vụ y tế trước, trong và sau khi sinh. Đồng thời, nâng cao nhận thức của cha mẹ đối với vấn đề chế độ dinh dưỡng và chăm sóc y tế cơ bản cho con em mình. Bốn là, do tai nạn xảy ra trong quá trình tham gia giao thông, trong sinh hoạt và tham gia lao động. Đây là nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng khuyết tật đối với trẻ em ở nhiều quốc gia trên thế giới. Vì vậy, cần thiết lập và thực thi có hiệu quả các chính sách về an toàn giao thông, về an toàn và bảo hộ lao động… Năm là, do ảnh hưởng của chiến tranh, tàn tích của các loại vũ khí cũng là nguyên nhân gây ra tình trạng khuyết tật ở nhiều nước trên thế giới. Như ở Việt Nam, trải qua hai cuộc kháng chiến trường kỳ, nhất là khi Mỹ rải thuốc diệt cỏ chứa chất độc đioxin đã ảnh hưởng trực tiếp đến người dân, và gây ra tình trạng khuyết tật ở những đứa trẻ được sinh ra từ bố mẹ từng bị phơi nhiễm chất độc này. Vì vậy, cần phải thực hiện các biện pháp cần thiết để bảo vệ trẻ em khỏi những tác động có hại của chiến tranh và xung đột vũ trang đó. Như vậy, có rất nhiều nguyên nhân gây ra khuyết tật ở trẻ em với tính
  • 25. 20 chất và mức độ rất khác nhau. Do vậy, cần nhận biết và ngăn chặn sớm để giảm bớt phần nào số trẻ em bị khuyết tật đang ngày càng gia tăng trên phạm vi toàn cầu. Đồng thời việc xác định rõ nguyên nhân gây ra khuyết tật của trẻ sẽ là cơ sở giúp phân loại trẻ em khuyết tật, từ đó có cách chăm sóc và giáo dục cho phù hợp với từng loại trẻ. 1.1.5. Phân loại trẻ em khuyết tật Pháp luật Việt Nam không quy định cụ thể, riêng biệt về trẻ em khuyết tật, vì vậy khi phân loại, sẽ dựa vào dạng tật và mức độ khuyết tật được ghi nhận trong Luật Người khuyết tật năm 2010. Cụ thể: - Căn cứ trên dạng tật thì trẻ em khuyết tật bao gồm: Một là, khuyết tật vận động: Là những trẻ có cơ quan vận động bị tổn thương, biểu hiện dễ nhận thấy là khó khăn trong việc nằm, ngồi, di chuyển, cầm, nắm… Do đó, trẻ khuyết tật vận động gặp rất nhiều khó khăn trong sinh hoạt cá nhân, vui chơi, học tập và lao động. Vì vậy trẻ khuyết tật vận động cần được hỗ trợ về phương tiện đi lại như xe lăn, gậy chống; và đặc biệt là không gian cần thiết, thuận tiện, phù hợp để di chuyển. Hai là, khuyết tật nghe nói: Là những trẻ gặp khó khăn trong việc giao tiếp xã hội, dẫn đến hạn chế trong sinh hoạt, làm việc, học tập và hòa nhập cộng đồng. Để tiếp nhận thông tin, trẻ cần có sự trợ giúp của ngôn ngữ kí hiệu, trợ giúp của công nghệ hiện đại. Tuy nhiên, ngôn ngữ kí hiệu cũng có nhiều hạn chế vì không thể phản ánh được đầy đủ tính chất, mức độ và hoạt động của cuộc sống như tiếng nói hay chữ viết. Ba là, Khuyết tật thị giác: là những tật về mắt khiến trẻ giảm hoặc mất khả năng nhìn và cảm nhận ánh sáng, màu sắc, hình ảnh, sự vật trong điều kiện ánh sáng và môi trường bình thường. Đối với trẻ khiếm thị công cụ hỗ trợ di chuyển là chiếc gậy, các dụng cụ hỗ trợ thông minh, lối đi thuận tiện và dễ nhận biết….
  • 26. 21 Bốn là, khuyết tật thần kinh, tâm thần: là tình trạng rối loạn tri giác, trí nhớ, cảm xúc, kiểm soát hành vi, suy nghĩ và có biểu hiện với những lời nói, hành động bất thường. Năm là, khuyết tật trí tuệ: là tình trạng giảm hoặc mất khả năng nhận thức, tư duy biểu hiện bằng việc chậm hoặc không thể suy nghĩ, phân tích về sự vật, hiện tượng, giải quyết sự việc. Xét về mức độ, đây là đối tượng khuyết tật không có những đặc điểm cơ bản, chung như các dạng khuyết tật khác. Bởi khuyết tật trí tuệ được xác định khi: Chức năng trí tuệ dưới mức trung bình (chỉ số thông minh đạt gần 70 hoặc thấp hơn 70 trên một lần thực hiện trắc nghiệm cá nhân); Hoặc bị thiếu hụt hoặc khiếm khuyết ít nhất là hai trong số những hành vi thích ứng sau: giao tiếp, tự chăm sóc, sống tại gia đình, kĩ năng xã hội/cá nhân, sử dụng các tiện ích trong cộng đồng, tự định hướng, kĩ năng học đường, làm việc, giải trí, sức khỏe và an toàn… Sáu là, khuyết tật khác: là tình trạng giảm hoặc mất những chức năng cơ thể khiến cho hoạt động lao động, sinh hoạt, học tập gặp khó khăn mà không thuộc các trường hợp khuyết tật được xác định ở trên. - Căn cứ vào mức độ khuyết tật thì trẻ em khuyết tật bao gồm: Thứ nhất, trẻ khuyết tật đặc biệt nặng: là những trẻ do khuyết tật dẫn đến không thể tự thực hiện phục vụ nhu cầu sinh hoạt cá nhân hàng ngày. Thứ hai, trẻ khuyết tật nặng là những trẻ do khuyết tật dẫn đến không thể tự thực hiện một số việc phục vụ nhu cầu sinh hoạt cá nhân hàng ngày. Thứ ba, trẻ khuyết tật nhẹ là những trẻ không thuộc trường hợp khuyết tật đặc biệt nặng và khuyết tật nặng. Như vậy, khuyết tật ở trẻ khá đa dạng. Tuy nhiên có thể nhận thấy điểm chung ở những trẻ khuyết tật vận động, khuyết tật nghe, nói, khuyết tật nhìn là đều có bộ não phát triển bình thường. Nếu được quan tâm, tạo môi trường thuận lợi, rèn luyện từ sớm và thường xuyên thì họ vẫn có thể tiếp thu được
  • 27. 22 chương trình học tập, làm việc, tham gia vào các hoạt động kinh tế xã hội của cộng đồng. Do đó, việc phân loại rõ ràng, chính xác trẻ khuyết tật là cơ sở để thực hiện các hoạt động phù hợp với từng dạng tật của trẻ, giúp trẻ phát triển năng lực bản thân, tự tin trong cuộc sống. Mang trong mình khiếm khuyết về cơ thể giống như người khuyết tật nói chung, lại vừa là những công dân còn non nớt về mặt thể chất và tinh thần giống như biết bao trẻ em bình thường khác, trẻ khuyết tật với tư cách là nhóm bị tổn thương kép đã phải chịu rất nhiều thiệt thòi do tình trạng khuyết tật đem lại. Những thiệt thòi đó ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống của bản thân trẻ và gia đình có trẻ khuyết tật, ảnh hưởng đến việc tham gia các hoạt động xã hội của trẻ. Do vậy, xác định được nguyên nhân dẫn đến tình trạng khuyết tật, tính chất, mức độ khuyết tật và phân loại được trẻ em khuyết tật sẽ có tác dụng trong việc ngăn ngừa, giảm bớt số lượng trẻ khuyết tật đang ngày càng gia tăng, từ đó hạn chế tình trạng trẻ em bị thiệt thòi, đồng thời phân loại trẻ khuyết tật còn là cơ sở để áp dụng các chính sách, biện pháp phù hợp nhằm bảo vệ, hỗ trợ, giúp đỡ trẻ khuyết tật vượt qua khó khăn trong cuộc sống, vươn lên hòa nhập cộng đồng. 1.2. Quyền của trẻ em khuyết tật và Bảo đảm quyền của trẻ em khuyết tật 1.2.1. Khái niệm Quyền của trẻ em khuyết tật Trên phạm vi quốc gia cũng như quốc tế, hầu hết vẫn chưa đưa ra được một khái niệm thống nhất về Quyền của trẻ em khuyết tật, có chăng chỉ gợi mở theo hướng liệt kê các quyền của trẻ khuyết tật. Vì vậy, muốn làm sáng tỏ vấn đề này, cần đi tìm hiểu và phân tích về các nội dung có liên quan, cụ thể như sau: Trước hết, cần hiểu, thế nào là Quyền? Theo Đại Từ điển Tiếng Việt, quyền là “cái mà luật pháp, xã hội, phong tục hay lẽ phải cho phép được
  • 28. 23 hưởng thụ, được vận dụng, được thực hành…., và nếu thiếu thì được phép yêu cầu để có đầy đủ, nếu bị tước đoạt có thể đòi hỏi để giành lại”.[29]. Như vậy, khái niệm Quyền chủ yếu liên quan đến việc hành động, cụ thể là tự do hành động. Theo đó, một người được phép làm những việc trong khuôn khổ nhất định mà không bị cưỡng ép, áp đặt, và không ai được vi phạm vào các quyền đó. Việc làm rõ khái niệm quyền là cơ sở để xác định các vấn đề có liên quan dựa trên Quyền. Thứ hai là khái niệm Quyền con người. Có nhiều cách định nghĩa khác nhau về quyền con người dựa trên các hướng tiếp cận từ những góc độ nhất định. Trên phạm vi quốc tế, theo định nghĩa của Văn phòng Cao ủy Liên hợp quốc về quyền con người thì, Quyền con người là những bảo đảm pháp lý toàn cầu có tác dụng bảo vệ các cá nhân và các nhóm chống lại những hành động hoặc sự bỏ mặc mà làm tổn hại đến nhân phẩm, những sự được phép và tự do cơ bản của con người. [12]. Ở Việt Nam, xét chung, quyền con người thường được hiểu là những nhu cầu, lợi ích tự nhiên, vốn có và khách quan của con người được ghi nhận và bảo vệ trong pháp luật quốc gia và các thỏa thuận pháp lý quốc tế. Dù nhìn ở góc độ và cấp độ nào thì Quyền con người cũng được xác định là những đặc quyền tự nhiên được pháp luật ghi nhận điều chỉnh và đảm bảo thực hiện. Thứ ba là vấn đề Quyền trẻ em. Trẻ em là con người, là một thành viên của xã hội, là công dân đặc biệt của một quốc gia, vì vậy quyền trẻ em có quan hệ chặt chẽ với quyền con người, là một bộ phận của quyền con người. Hay nói cách khác, trẻ em cũng là một chủ thể của quyền, quyền trẻ em là quyền con người của trẻ em, nhờ đó trẻ được hưởng, được làm, được tôn trọng và thực hiện nhằm bảo đảm sự sống, sự tham gia và phát triển toàn diện của mình. Tuy nhiên, trước đây, thuật ngữ Quyền trẻ em chưa thực sự được chú trọng. Phải đến đầu thế kỷ thứ XX, thuật ngữ này mới được đề cập sau
  • 29. 24 một loạt biến cố quốc tế lớn, nhất là sau cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ I (1914 – 1918). Sự kiện này khiến rất nhiều trẻ em ở Châu Âu bị rơi vào hoàn cảnh đặc biệt khó khăn như mồ côi không nơi nương tựa, đói khát, bệnh tật… Tình cảnh đó đã thúc đẩy việc thành lập hai tổ chức cứu trợ trẻ em đầu tiên trên thế giới ở Anh và Thụy Điển vào năm 1919. Đến năm 1924, Hội Quốc liên thông qua bản Tuyên ngôn Geneva về Quyền trẻ em. Đây là lần đầu tiên, vấn đề Quyền trẻ em chính thức được khẳng định và thừa nhận trong pháp luật quốc tế, đánh dấu bước ngoặt trong nhận thức và hoạt động bảo vệ trẻ em trên thế giới. Năm 1948, Liên Hợp quốc thông qua Tuyên ngôn thế giới về quyền con người, trong đó khẳng định trẻ em cũng là chủ thể bình đẳng của các quyền con người. Năm 1959, Liên Hợp quốc thông qua bản Tuyên ngôn (thứ hai) về quyền trẻ em, phát triển nội dung của Tuyên ngôn Giơ-ne-vơ năm 1924. Từ năm 1959 đến những năm 80 của thế kỷ XX, một loạt văn kiện quốc tế khác cũng được thông qua, trực tiếp hoặc gián tiếp đề cập đến các quyền của trẻ em. Song, các văn kiện này hoặc không có tính ràng buộc về nghĩa vụ pháp lý hoặc chưa tiếp cận từ vị thế đặc biệt và chú trọng đến những nhu cầu đặc thù của trẻ em nên tác động trên thực tế rất hạn chế. Đến năm 1989, Liên Hợp quốc thông qua Công ước quốc tế về quyền trẻ em, tính đến thời điểm này, đây là văn kiện quốc tế cơ bản và toàn diện nhất về vấn đề Quyền trẻ em. Mặc dù vậy, đây không phải là văn kiện quốc tế duy nhất về lĩnh vực này, mà còn nhiều văn kiện khác, trong đó tiêu biểu là hai Nghị định thư không bắt buộc bổ sung CRC về sử dụng trẻ em trong các cuộc xung đột vũ trang và về buôn bán trẻ em, bóc lột và văn hóa phẩm khiêu dâm trẻ em… Thứ tư là vấn đề Quyền của người khuyết tật. Cũng giống như trẻ em, trong một thời kỳ dài, những người khuyết tật bị coi là đối tượng của lòng thương hại, việc bảo vệ hỗ trợ họ chủ yếu dựa trên tình thương, lòng nhân đạo chứ không bắt nguồn từ nhận thức coi họ cũng là những chủ thể của quyền và
  • 30. 25 trách nhiệm của cá nhân, nhà nước, tổ chức xã hội là phải tôn trọng họ. Chỉ sau những cuộc vận động kiên trì và mạnh mẽ của nhiều cá nhân, tổ chức xã hội, nhận thức rằng người khuyết tật cũng là chủ thể bình đẳng của các quyền con người mới dần dần chiếm ưu thế, và thuật ngữ Quyền của người khuyết tật mới được chú trọng theo hướng quyền con người của người khuyết tật. Theo đó, người khuyết tật được hưởng các quyền của con người mà không có bất cứ sự phân biệt đối xử nào dựa trên tình trạng khuyết tật của họ nhằm đảm bảo cho đối tượng này được phát huy năng lực của bản thân, hòa nhập cộng đồng. Trên phương diện pháp lý, cho đến trước năm 2007, không có điều ước quốc tế nào quy định riêng về vấn đề quyền của người khuyết tật. Ngay trong các văn bản pháp luật quốc tế liên quan đến quyền con người được các nước phê chuẩn từ những năm 1940 đến năm 1960 như Tuyên ngôn nhân quyền 1948, Công ước của Liên hợp quốc về quyền kinh tế, văn hóa, xã hội năm 1966 hay Công ước của Liên hợp quốc về quyền dân sự, chính trị năm 1966… cũng không có điều khoản riêng biệt nào ghi nhận cụ thể quyền của nhóm đối tượng này. Tuy nhiên, đoạn 1 Điều 2 Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền 1948 đã khẳng định: Mọi người đều được hưởng tất cả các quyền và tự do nêu trong bản Tuyên ngôn này mà không có bất kỳ sự phân biệt đối xử nào về chủng tộc, màu da, giới tính, ngôn ngữ, tôn giáo, quan điểm chính trị hoặc quan điểm khác, nguồn gốc dân tộc hoặc xã hội, tài sản, thành phần xuất thân hay các địa vị khác. Mặc dù không đề cập một cách cụ thể, nhưng cụm từ “địa vị khác” đã gián tiếp ghi nhận người khuyết tật cũng là chủ thể của các quyền con người. Từ đầu thập kỷ 80 của thế kỷ XX, Liên hợp quốc đã thông qua khá nhiều văn kiện không ràng buộc pháp lý nhằm thúc đẩy vấn đề quyền của nhóm này, trong đó, tiêu biểu là: Chương trình hành động thế giới về người tàn tật
  • 31. 26 (1982); Các nguyên tắc về bảo vệ người bị bệnh tâm thần và về tăng cường chăm sóc sức khỏe tâm thần (1991); Các quy tắc tiêu chuẩn về bình đẳng hóa cơ hội cho người khuyết tật (1993)… Đặc biệt, năm 1993, trong Tuyên bố Viên và chương trình Hành động (Đoạn 13), Hội nghị thế giới về quyền con người lần thứ II đã nêu rõ: “Tất cả các quyền con người và tự do cơ bản là mang tính phổ biến, bởi vậy tất cả mọi người, kể cả những người khuyết tật, đều là chủ thể bình đẳng của các quyền này”. Đây thực sự là khẳng định chắc chắn, là bước tiến rõ ràng về mặt nhận thức, coi trọng khả năng, năng lực chủ thể quyền con người của người khuyết tật. Như vậy, thông qua các khái niệm Quyền, Quyền con người, Quyền trẻ em và Quyền của người khuyết tật, có thể rút ra được Quyền của trẻ em khuyết tật là: Quyền con người của trẻ em khuyết tật, là một bộ phận của quyền con người, có quan hệ chặt chẽ với quyền con người. Theo đó, trẻ em khuyết tật được hưởng đầy đủ các quyền tự nhiên vốn có, trẻ được thực hiện hoặc không thực hiện các hoạt động một cách tự nguyện mà không ai được phép cản trở, xâm phạm hay phân biệt đối xử chỉ vì lý do khuyết tật của trẻ. Việc làm rõ các khái niệm nêu trên có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, là cơ sở để xác định khái niệm Quyền của trẻ em khuyết tật. Bởi trẻ em khuyết tật là những công dân đặc biệt của xã hội. Họ vừa mang đặc điểm non nớt về mặt tâm sinh lý như biết bao trẻ em không khuyết tật khác, lại vừa mang trong mình khiếm khuyết về mặt thể chất và tinh thần như những người khuyết tật nói chung nên quyền của trẻ em khuyết tật vừa là một bộ phận của quyền con người, lại vừa là sự kết hợp giữa quyền của trẻ em và quyền của người khuyết tật. Vì vậy, việc nhận thức chính xác về Quyền của trẻ em khuyết tật chính là cơ sở để chăm sóc, giáo dục và bảo đảm có hiệu quả các quyền của nhóm đối tượng bị tổn thương kép này.
  • 32. 27 1.2.2. Khái niệm Bảo đảm quyền của trẻ em khuyết tật So với người khuyết tật nói chung, trẻ em khuyết tật là đối tượng chịu nhiều thiệt thòi hơn cả bởi sự phân biệt đối xử và nguy cơ tổn thương gây ra từ nhiều yếu tố. Và, cũng giống như các trẻ em không khuyết tật khác, trẻ em khuyết tật cũng là chủ thể của các quyền và quá trình phát triển. Đó không chỉ là công dân non nớt về thể chất và trí tuệ như trẻ em bình thường, mà còn là công dân đặc biệt, mang trong mình những mặc cảm tự ti do khiếm khuyết về cơ thể, dễ bị tổn thương do sự non yếu về thể chất, tinh thần, kinh nghiệm sống… Chúng luôn phải đối mặt với nguy cơ bị bỏ mặc, lạm dụng, bị đối xử bất công, bạo hành, đặc biệt là trẻ em gái khuyết tật. Chính vì vậy yêu cầu cần bảo đảm quyền cho trẻ em khuyết tật đang ngày càng nhận được sự quan tâm ủng hộ từ phía nhà nước, tổ chức xã hội và người dân nhằm xóa đi rào cản vô hình, đưa các quyền lại gần hơn với nhóm đối tượng dễ bị tổn thương này. Tuy nhiên, vấn đề thế nào là Bảo đảm quyền của trẻ em khuyết tật dường như vẫn còn khá mơ hồ và chưa có hướng dẫn cụ thể. Theo Từ điển Vdict “bảo đảm” được hiểu là “làm cho chắc chắn thực hiện được, giữ gìn được, hoặc có đầy đủ những gì cần thiết…”. [30]. Đại Từ điển Tiếng Việt cũng đưa ra định nghĩa tương tự trong đó, “bảo đảm” là “1…, 2. Làm cho có được điều gì; 3. Có đủ, trọn vẹn các điều quy định; 4. Chắc chắn, đạt tiêu chuẩn cần thiết”. [29]. Công ước về quyền trẻ em 1989 và Công ước về quyền của người khuyết tật 2007 cũng ghi nhận khá nhiều điều khoản nhấn mạnh đến trách nhiệm của các quốc gia thành viên phải bảo đảm các quyền của trẻ em khuyết tật trong tất cả các lĩnh vực mà Công ước đã đề cập, song không có một điều khoản cụ thể nào định nghĩa về bảo đảm quyền của trẻ em khuyết tật. Trong pháp luật Việt Nam cũng vậy. Do đó, dựa trên định nghĩa ở Đại Từ điển tiếng Việt, dưới góc độ ngôn ngữ, có thể đưa ra cách hiểu chung nhất về Bảo đảm quyền của trẻ em khuyết tật đó là: việc tạo mọi điều kiện thuận lợi
  • 33. 28 để trẻ em khuyết tật được hưởng các quyền vốn có của mình một cách phù hợp, đầy đủ và trọn vẹn nhất. Như vậy, việc xác định rõ ràng khái niệm về Bảo đảm quyền của trẻ em khuyết tật là cơ sở để thúc đẩy công tác bảo đảm quyền của nhóm đối tượng này trên thực tế. Quá trình bảo đảm đó phải dựa trên các nguyên tắc nhất định như: bình đẳng, không phân biệt đối xử; lợi ích tốt nhất dành cho trẻ, tôn trọng ý kiến, quan điểm của trẻ… Những nguyên tắc này đóng vai trò là nguyên tắc nền tảng, chi phối toàn bộ quá trình bảo đảm quyền của trẻ em khuyết tật, giúp cho các quyền đó được thực thi có hiệu quả nhất. Tuy nhiên, không thể phủ nhận rằng, trên thực tế, nhiều quyền của người khuyết tật nói chung và quyền của trẻ em khuyết tật nói riêng vẫn không được đảm bảo một cách trọn vẹn như: Trẻ em khuyết tật không được tham gia vào quá trình ra quyết định, bị đối xử nặng nề; nhận thức của xã hội về vấn đề người khuyết tật còn hạn chế; Điều kiện giao thông chưa tiếp cận; Giáo dục, y tế chưa được đảm bảo; bản thân trẻ khuyết tật chưa hòa nhập với xã hội do mặc cảm, tự ti về khiếm khuyết cơ thể… Chính vì vậy, việc đảm bảo quyền cho trẻ em khuyết tật đang được đặt ra và ngày càng trở nên cấp thiết, nó góp phần phát huy truyền thống nhân đạo, tinh thần dân tộc sâu sắc, sự sẻ chia giữa người với người. Không chỉ thế, còn tác động tích cực đến tâm lý của nhóm đối tượng thiệt thòi này, giúp cho các em vượt qua mặc cảm, vươn lên phát triển năng lực bản thân, hòa nhập vào cộng đồng. Xét trong xu thế hội nhập hiện nay, điều này có ý nghĩa lớn trong việc ổn định kinh tế, góp phần đưa pháp luật Việt Nam lại gần hơn với chuẩn mực chung của quốc tế. Đồng thời, với vị trí là một bộ phận của quyền con người, có quan hệ chặt chẽ với quyền con người, việc bảo đảm quyền của trẻ em khuyết tật chính là cơ sở thiết thực để đảm bảo các quyền con người.
  • 34. 29 Tiểu kết chƣơng 1 Chương 1 đã trình bày khái quát hệ thống lý luận về bảo đảm quyền của trẻ em khuyết tật. Đây là tiền đề để phân tích thực trạng trong quá trình đảm bảo quyền ở chương tiếp theo. Thông qua việc tìm hiểu các khái niệm có liên quan trong phạm vi pháp luật quốc gia và pháp luật quốc tế, tác giả đã đưa ra được nhận thức chung nhất về khái niệm trẻ em khuyết tật và bảo đảm quyền cho trẻ em khuyết tật. Việc xác định rõ các khái niệm này là cơ sở quan trọng để nghiên cứu hệ thống pháp luật, chính sách và đánh giá thực trạng về bảo đảm quyền của trẻ em khuyết tật. Đồng thời, những kiến thức chung về phân loại trẻ em khuyết tật theo mức độ và dạng tật, nêu bật những nguyên nhân dẫn đến tình trạng khuyết tật của trẻ và những ảnh hưởng do tình trạng khuyết tật đem lại có tác dụng tích cực trong việc xây dựng, áp dụng các chính sách phù hợp nhằm ngăn ngừa, giảm bớt số lượng trẻ em khuyết tật đang có xu hướng ngày càng gia tăng hiện nay.
  • 35. 30 Chƣơng 2 THỰC TRẠNG BẢO ĐẢM QUYỀN CỦA TRẺ EM KHUYẾT TẬT Ở VIỆT NAM HIỆN NAY Có nhiều cách tiếp cận để phân tích thực trạng Bảo đảm quyền của trẻ em khuyết tật như: Tiếp cận dưới góc độ chia việc bảo đảm quyền của trẻ em khuyết tật ở từng lĩnh vực như: Xây dựng pháp luật, Thực thi pháp luật…; Hoặc tiếp cận dưới góc độ chia việc bảo đảm quyền của trẻ em khuyết tật thành các tiểu mục tương ứng với từng loại quyền quan trọng của người khuyết tật; cụ thể như quyền không bị phân biệt đối xử, quyền được chăm sóc, nuôi dưỡng; quyền được tái hòa nhập với cộng đồng… Mỗi cách tiếp cận đều có ưu điểm và hạn chế riêng để làm nổi bật nội dung cần hướng đến. Trong luận văn này, tác giả lựa chọn cách tiếp cận thứ nhất, tức là đánh giá thực trạng Bảo đảm quyền của trẻ em khuyết tật thông qua một số lĩnh vực cụ thể. Tuy nhiên, trước khi đi sâu vào phân tích, đánh giá thực trạng bảo đảm quyền, luận văn sẽ trình bày khái quát tình trạng trẻ em khuyết tật ở Việt Nam hiện nay để cung cấp bức tranh cơ bản về cuộc sống của trẻ khuyết tật từ đó là cơ sở xây dựng chính sách, biện pháp phù hợp đối với nhóm xã hội dễ bị tổn thương này. 2.1. Tình trạng trẻ em khuyết tật ở Việt Nam hiện nay Kể từ khi gia nhập Công ước quốc tế về quyền của người khuyết tật, vị trí của người khuyết tật và trẻ em khuyết tật tại Việt Nam đã có nhiều biến chuyển đáng kể, nhận được sự quan tâm rất lớn của Đảng và Nhà nước. Năm 2009, Tổng cục Thống kê đã tiến hành cuộc Tổng điều tra Dân số và Nhà ở, đây là cuộc Tổng điều tra dân số đầu tiên thu thập các thông tin về tình trạng khuyết tật của người dân và trẻ em khuyết tật. Kết quả đã cho thấy, tỷ lệ người khuyết tật ở độ tuổi từ 5 tuổi trở lên chiếm 7,8% dân số tương đương với 6,7 triệu người khuyết tật với khoảng 1,2 triệu trẻ em khuyết tật,
  • 36. 31 chiếm khoảng 19,7% số người khuyết tật trên phạm vi cả nước. Trong đó, số trẻ khuyết tật nặng chiếm tỷ lệ cao nhất với 31%; ngoài ra có 27% trẻ khuyết tật trí tuệ; 20% trẻ khuyết tật vận động; 19% trẻ khuyết tật ngôn ngữ; 12,43% trẻ khiếm thính; 12% trẻ khiếm thị; 12,6% đa tật; và 7% khuyết tật khác [26]. Nguyên nhân gây ra khuyết tật ở trẻ em tại Việt Nam phần lớn là do hậu quả của chiến tranh để lại. Theo số liệu thống kê vào cuối năm 2011 của Trung ương Hội chữ thập đỏ Việt Nam thì cả nước ta hiện nay có khoảng 4,8 triệu người bị phơi nhiễm chất độc màu da cam, trong đó có khoảng 150.000 trẻ em bị dị tật bẩm sinh. [27]. Dự báo trong những năm tới, số lượng trẻ khuyết tật vẫn có xu hướng gia tăng. Và nếu nguyên nhân dẫn đến khuyết tật do bẩm sinh, bệnh tật chiến tranh có chiều hướng giảm đi thì các nguyên nhân do tai nạn, do ô nhiễm môi trường lại có xu hướng tăng lên bởi quá trình phát triển của công nghiệp hoá và đô thị hoá đang diễn ra tương đối mạnh mẽ ở Việt Nam, đặc biệt, sẽ xuất hiện phổ biến tình trạng trẻ em tự kỷ - một dạng khuyết tật mới trong thời đại hiện nay. Hơn nữa, qua kết quả của một số cuộc điều tra mẫu trước đây cho thấy, phần lớn trẻ em khuyết tật ở Việt Nam chủ yếu sống phụ thuộc vào gia đình, hoặc được cưu mang trong các cơ sở bảo trợ xã hội. Trẻ hầu như chưa có khả năng tạo ra thu nhập, nếu có thì chiếm tỷ lệ rất ít, và nguồn thu nhập thấp, không ổn định. Bên cạnh đó, kết hợp với trình độ văn hóa chưa được đảm bảo, thêm vào là rào cản từ phía xã hội khiến trẻ khuyết tật gặp nhiều khó khăn khi có nhu cầu tham gia bình đẳng vào mọi hoạt động của đời sống cộng đồng. Điều này phản ánh một thực trạng đáng lo ngại về tình trạng trẻ khuyết tật và cuộc sống của trẻ em khuyết tật ở nước ta hiện nay, do đó rất cần sự hỗ trợ, quan tâm, chia sẻ từ phía các cá nhân, cơ quan, tổ chức và toàn xã hội. 2.2. Thực trạng Bảo đảm quyền của trẻ em khuyết tật trong lĩnh vực xây dựng pháp luật Pháp luật là khung pháp lý ghi nhận các quyền của con người nói
  • 37. 32 chung và của trẻ em khuyết tật nói riêng, đồng thời cũng là cơ sở để bảo đảm cho các quyền này được thực thi hiệu quả trên thực tế. Do đó, việc xây dựng khung pháp luật hoàn chỉnh về trẻ em khuyết tật càng có vai trò vô cùng quan trọng và nhận được sự quan tâm đặc biệt của Đảng, Nhà nước và toàn xã hội. 2.2.1. Thành tựu Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em luôn là truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta. Kế thừa những quy định tiến bộ trong Bộ Luật Hồng Đức thời Hậu Lê, ngay khi mới thành lập và thông qua Cương lĩnh chính trị đầu tiên, Đảng ta đã đặc biệt nhấn mạnh đến nguyên tắc “nam nữ bình quyền” nhằm chống mọi hình thức phân biệt đối xử. Kết hợp với tinh thần nhân văn cao cả “trẻ em hôm nay, thế giới ngày mai” của Chủ tịch Hồ Chí Minh, truyền thống tốt đẹp đó đã được khẳng định và thể chế hóa thành luật và chính sách của Nhà nước. Bản Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa năm 1946 đã quy định “Tất cả công dân Việt Nam đều ngang quyền về mọi phương diện: chính trị, kinh tế, văn hóa” (Điều 6); và nhấn mạnh sự bảo đảm quyền trẻ em, đó là: “Trẻ con được săn sóc về mặt giáo dưỡng” (Điều 14). Quan điểm nhất quán về chăm lo và bảo đảm quyền con người, quyền trẻ em đó cũng được kế thừa, thể hiện xuyên suốt trong các bản Hiến pháp 1959, 1980, 1992, và mới đây nhất là Hiến pháp năm 2013 – Bản Hiến pháp đầu tiên dành riêng Chương II để quy định về Quyền con người, Quyền và nghĩa vụ công dân. Điều 3 Hiến pháp 2013 khẳng định, Nhà nước “công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người , quyền công dân”, và nhấn mạnh “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật” (Điều 14). Đặc biệt, “Trẻ em được Nhà nước, gia đình và xã hội bảo vệ, chăm sóc và giáo dục; được tham gia và o cá c vấn đề về trẻ em ” (Điều 37). Hơn nữa,
  • 38. 33 nhằm bù đắp những thiệt thòi cũng như bảo đảm sự bình đẳng thực chất về quyền và cơ hội với mọi công dân, khoản 2 Điều 59 đã nêu rõ: Nhà nước tạo bình đẳng về cơ hội để công dân thụ hưởng phúc lợi xã hội, phát triển hệ thống an sinh xã hội, có chính sách trợ giúp người cao tuổi, người khuyết tật, người nghèo và người có hoàn cảnh khó khăn khác”; và Nhà nước “tạo điều kiện để người khuyết tật và người nghèo được học văn hoá và học nghề” (Điều 61). Đây là những tư tưởng chỉ đạo, là nền tảng cho các quy định khác trong hệ thống pháp luật Việt Nam về không chỉ trẻ em khuyết tật mà tất cả trẻ em trên phạm vi toàn lãnh thổ. Dựa trên tinh thần đó, trong những năm qua, nhiều chính sách riêng cho trẻ em khuyết tật đã được ban hành, tạo hành lang pháp lý để chăm sóc và bảo vệ quyền lợi của nhóm đối tượng yếu thế này. Đặc biệt, từ khi trở thành quốc gia đầu tiên ở Châu Á và quốc gia thứ hai trên thế giới phê chuẩn Công ước quốc tế về quyền trẻ em 1948, đồng thời còn là thành viên thứ 118 tham gia ký Công ước quốc tế về quyền của Người khuyết tật năm 2007, Việt Nam đã và đang nỗ lực trong tiến trình nội luật hóa, đưa pháp luật Việt Nam lại gần hơn với chuẩn mực chung của pháp luật quốc tế về quyền của trẻ em khuyết tật. Do đó, tại kỳ họp thứ 7, ngày 17 tháng 6 năm 2010, Quốc hội nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam khoá XII đã thông qua Luật người khuyết tật, góp phần hoàn thiện hơn nữa hệ thống chính sách dành cho người khuyết tật nói chung và trẻ em khuyết tật nói riêng. Tính đến thời điểm hiện tại, đây là văn bản pháp luật ghi nhận những quyền cơ bản của trẻ em khuyết tật một cách hoàn chỉnh, thống nhất và có hiệu lực pháp lý trên phạm vi toàn quốc. Đó thực sự là thành tựu lớn nhất trong công tác lập pháp về lĩnh vực này. Nhằm tiếp tục đẩy mạnh thực hiện các chính sách trợ giúp trẻ khuyết tật theo quy định của Luật người khuyết tật, đồng thời thực hiện cam kết của
  • 39. 34 Chính phủ Việt Nam về 7 lĩnh vực ưu tiên trong Thập kỷ thứ II Thiên niên kỷ Biwako về người khuyết tật khu vực Châu Á Thái Bình Dương, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định phê duyệt các Đề án, trong đó liên quan trực tiếp và tập trung đến trẻ em khuyết tật là: Quyết định số 647/QĐ-TTg ngày 26/04/2013 về việc Phê duyệt Đề án chăm sóc trẻ em mồ côi không nơi nương tựa, trẻ em bị bỏ rơi, trẻ em nhiễm HIV/AIDS, trẻ em là nạn nhân của chất độc hóa học, trẻ em khuyết tật nặng và trẻ em bị ảnh hưởng bởi thiên tai, thảm họa dựa vào cộng đồng giai đoạn 2013 – 2020. Có thể thấy, hệ thống pháp luật về trẻ khuyết tật được xây dựng khá hoàn thiện và có nhiều nét tương đồng với quy định của pháp luật quốc tế. Đi liền với việc tạo hành lang pháp lí cần thiết thì việc quy định và áp dụng các biện pháp chế tài thích hợp đối với chủ thể đã xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của trẻ cũng được chú trọng quan tâm và xây dựng. Tùy từng đối tượng, từng trường hợp vi phạm mà có thể áp dụng một hoặc đồng thời một số loại trách nhiệm pháp lí như: trách nhiệm kỉ luật, trách nhiệm hành chính, trách nhiệm hình sự, trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Như vậy, quyền của trẻ em khuyết tật chỉ được đảm bảo đảm thực hiện khi có một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh. Có được thành tựu kể trên là do sự quan tâm rất lớn của Đảng và Nhà nước. Đồng thời, đội ngũ cán bộ trực tiếp xây dựng pháp luật đã được chuyên nghiệp hóa về mặt chuyên môn, nghiệp vụ; công tác hợp tác quốc tế để học hỏi kinh nghiệm thành tựu lập pháp ở các quốc gia trên thế giới được đẩy mạnh và nâng cao. Do đó, quá trình xây dựng pháp luật cho trẻ em khuyết tật trong những năm vừa qua đã gặt hái được nhiều thành tựu quan trọng, góp phần giúp trẻ vượt qua mặc cảm và nhanh chóng hòa nhập cộng đồng. 2.2.2. Hạn chế Mặc dù đã xây dựng được hệ thống pháp luật tương đối hoàn chỉnh về quyền trẻ em khuyết tật, tuy nhiên, vẫn tồn tại một số hạn chế như sau:
  • 40. 35 Một là, Việt Nam đã ban hành Luật người khuyết tật vào năm 2010, nhưng những quy định trong luật chủ yếu hướng về người khuyết tật nói chung. Quy định về trẻ em khuyết tật đa phần mang màu sắc ý chí chủ quan của cơ quan lập pháp, chủ yếu dựa trên cơ sở suy đoán mà chưa thực sự đi sâu tìm hiểu nguyện vọng của trẻ khuyết tật. Hơn nữa, các quy định đó chỉ mang tính nguyên tắc và được lồng ghép, nhắc đến trong một vài điều khoản mà chưa có hướng dẫn thực hiện cụ thể như: Nhà nước có chính sách ưu tiên thực hiện bảo trợ và hỗ trợ người khuyết tật là trẻ em (khoản 3 Điều 5); ưu tiên khám chữa bệnh cho trẻ em khuyết tật (khoản 2 Điều 23)…. Việc thiếu các quy định mang tính chất cụ thể hóa là nguyên nhân dẫn đến khó khăn khi thực hiện và ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình thụ hưởng quyền của trẻ. Hai là, Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều đề án, chương trình như: Đề án trợ giúp xã hội và phục hồi chức năng cho người tâm thần, người rối nhiễu tâm trí dựa vào cộng đồng giai đoạn 2011-2020; Đề án Trợ giúp người khuyết tật giai đoạn 2012 – 2022; Chương trình quốc gia bảo vệ trẻ em giai đoạn 2011 – 2015; Chương trình hành động quốc gia vì trẻ em giai đoạn 2012 -2020… Tuy nhiên, những chương trình, đề án đó là dành cho người khuyết tật hoặc trẻ em nói chung chứ không phải dành riêng cho trẻ em khuyết tật. Tính đến thời điểm hiện tại, chưa có một chương trình nào đặc biệt dành riêng cho trẻ khuyết tật. Đặt ra vấn đề này bởi xuất phát từ đặc điểm riêng về tâm sinh lý và khiếm khuyết cơ thể, trẻ khuyết tật vừa có nhu cầu như những trẻ em bình thường, lại vừa có nhu cầu giống như người khuyết tật khác. Vì vậy, việc áp dụng chung các chương trình, đề án đó sẽ phần nào hạn chế việc đáp ứng mong muốn của nhóm đối tượng bị tổn thương kép này. Ba là, về quy định độ tuổi của trẻ em khuyết tật. Việc xác định độ tuổi nào được coi là trẻ em sẽ mang lại nhiều quyền lợi cho trẻ khuyết tật. Tuy nhiên hiện nay, hệ thống pháp luật nước ta tồn tại nhiều quy định không thống
  • 41. 36 nhất về tuổi trẻ em dẫn đến những khó khăn trong quá trình thực hiện. Điều 1 Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004 quy định, trẻ em là những người dưới 16 tuổi. Điều 6 Bộ luật Lao động quy định: “người lao động là người ít nhất đủ 15 tuổi, có khả năng lao động và có giao kết hợp đồng lao động”. Hay trong Bộ luật Dân sự 2005 quy định: “người từ đủ 18 tuổi trở lên là người thành niên, người chưa đủ 18 tuổi là người chưa thành niên”. Trong khi đó, hầu hết các điều ước và thỏa thuận quốc tế mà Việt Nam đã ký kết, tham gia lại quy định độ tuổi trẻ em là dưới 18 tuổi. Như vậy, việc quy định trẻ em là những người dưới 16 tuổi hay dưới 18 tuổi ở nước ta vẫn chưa thực sự thống nhất và các chính sách liên quan đến trẻ em chủ yếu dành cho đối tượng dưới 16 tuổi hưởng lợi, còn lứa tuổi từ 16 – 18 chưa có những quy định cụ thể, rõ ràng. Sự thiếu thống nhất trong việc quy định độ tuổi vị thành niên không chỉ gây khó khăn cho cơ quan chức năng trong việc đảm bảo quyền lợi của trẻ mà còn ảnh hưởng trực tiếp đến việc thụ hưởng quyền của trẻ em, đặc biệt là trẻ em khuyết tật. Bốn là, về các biện pháp xử phạt đối với hành vi vi phạm quyền của trẻ em khuyết tật. Mặc dù Điều 7 Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em và Điều 14 Luật người khuyết tật đã liệt kê khá đầy đủ các hành vi bị nghiêm cấm, quy định rõ ràng trách nhiệm của Nhà nước, các cơ quan, tổ chức xã hội đối với trẻ khuyết tật và khẳng định sẽ nghiêm trị mọi hành vi vi phạm làm tổn hại đến quyền trẻ em, nhưng không có bất cứ điều khoản nào quy định về các biện pháp chế tài cụ thể được áp dụng nếu có hành vi vi phạm những quyền đó. Điều này gây khó khăn trong việc xử lý vi phạm, ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của trẻ em khuyết tật. Năm là, vẫn tồn tại một bộ phận không nhỏ cán bộ nhà nước đại diện cho các cơ quan trực tiếp hoạt động trong lĩnh vực xây dựng pháp luật còn hạn chế về trình độ, ý thức tôn trọng trẻ khuyết tật thấp nên vẫn xảy ra tình
  • 42. 37 trạng phân biệt đối xử. Hơn nữa, dù đã đẩy mạnh việc hợp tác trao đổi kinh nghiệm với các quốc gia trên thế giới trong lĩnh vực này song thực sự vẫn chưa đạt được hiệu quả cao, hoạt động chỉ mang tính hình thức, và số lượng các buổi giao lưu trao đổi kinh nghiệm còn khá ít. Điều này đã ảnh hưởng đến việc xây dựng pháp luật về bảo đảm quyền cho trẻ em khuyết tật. Sáu là, Việt Nam chưa xây dựng được một cơ quan quốc gia về bảo vệ và thúc đẩy nhân quyền. Đây thực sự là hạn chế rất lớn đối với công cuộc bảo đảm quyền của không chỉ trẻ em khuyết tật mà còn cả công cuộc bảo đảm quyền con người ở nước ta. Bởi khi một cơ quan nhân quyền quốc gia được thành lập, sẽ hình thành một cơ chế riêng về việc giám sát, thực thi và bảo vệ pháp luật về quyền con người nói chung và quyền của trẻ em khuyết tật nói riêng. Việc chưa xây dựng được cơ quan này thậm chí chưa có bất cứ một quy định về việc thành lập cơ quan này trong Hiến pháp – đạo luật cơ bản, cao nhất ở Việt Nam là một hạn chế rất lớn, khiến việc bảo đảm quyền trẻ em khuyết tật chưa thực sự đạt được hiệu quả cao trên thực tế. Đó là những hạn chế về bảo đảm quyền của trẻ em khuyết tật trong lĩnh vực xây dựng pháp luật. Nguyên nhân của hạn chế này xuất phát từ việc mỗi văn bản pháp luật được ban hành ở các thời điểm khác nhau, trong những lĩnh vực và hoàn cảnh khác nhau. Đặc biệt, các văn bản luật chỉ mang tính định hướng, chưa có văn bản dưới luật hướng dẫn cụ thể, đồng thời, ngân sách đầu tư cho công tác xây dựng pháp luật về lĩnh vực này còn hạn hẹp. Điều này đặt ra yêu cầu cần nhanh chóng có những giải pháp nhằm khắc phục phần nào những hạn chế trong quá trình xây dựng pháp luật để đảm bảo quyền cho nhóm đối tượng dễ bị tổn thương này. 2.3. Thực trạng Bảo đảm một số quyền của trẻ em khuyết tật Trẻ em khuyết tật trước hết là trẻ em, còn non nớt về mặt tâm sinh lý, lại mang trong mình những khiếm khuyết về mặt cơ thể như những người
  • 43. 38 khuyết tật khác, do đó, việc nghiên cứu và xác định các quyền của trẻ em khuyết tật sẽ dựa trên quyền của trẻ em quy định tại Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004 và quyền của người khuyết tật ghi nhận tại Luật người khuyết tật năm 2010. Trên cơ sở thừa nhận sự bình đẳng, không phân biệt đối xử, ở Việt Nam, trẻ em khuyết tật sẽ được hưởng tất cả các quyền mà pháp luật quy định. Điều này hoàn toàn phù hợp với tinh thần chung của pháp luật quốc tế. Tuy nhiên, trong khuôn khổ phạm vi luận văn thạc sỹ, tác giả chỉ chọn, phân tích một số quyền mà theo quan điểm của bản thân tác giả, đây là những quyền cơ bản, và ngay bản thân trẻ em khuyết tật cũng có thể nhận thấy rằng mình dễ bị xâm phạm nhất, bao gồm: Quyền được giáo dục; Quyền được hưởng bảo trợ xã hội; Quyền được chăm sóc sức khoẻ; Quyền được tham gia hoạt động văn hoá, thể thao, giải trí; Quyền được tiếp cận cơ sở hạ tầng, dịch vụ công cộng; cụ thể từng quyền như sau: 2.3.1. Quyền được giáo dục 2.3.1.1. Quy định của pháp luật Với phương châm: Giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, khoản 3 Điều 61, Hiến pháp năm 2013 khẳng định Nhà nước “tạo điều kiện để người khuyết tật và người nghèo được học văn hoá và học nghề”. Theo đó, trẻ khuyết tật có quyền được giáo dục như các trẻ em không khuyết tật khác và được hưởng đầy đủ quyền này mà không có bất kỳ sự phân biệt đối xử nào trên cơ sở bình đẳng về cơ hội. Trẻ khuyết tật cũng có nhu cầu học tập, nhưng do khiếm khuyết cơ thể nên việc học tập của họ gặp nhiều khó khăn hơn, do đó, Nhà nước, pháp luật và xã hội đã tạo điều kiện thuận lợi cho trẻ thông qua những quy định riêng biệt mang tính chất ưu tiên dựa trên cơ sở khắc phục khiếm khuyết của trẻ chứ không mang tính chất bất bình đẳng giữa trẻ khuyết tật với trẻ không khuyết tật như: được nhập học ở độ tuổi cao hơn so với độ tuổi quy định đối