SlideShare a Scribd company logo
1 of 86
DỊCH VỤ VIẾT THUÊ KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
ZALO/TELEGRAM 0917 193 864
VIETKHOALUAN.COM
ĐẠI HỌC HUẾ
KHOA LUẬT
----------
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
CHUYÊN NGÀNH: DÂN SỰ
KHÓA HỌC: 2010 – 2014
LIÊN HỆ TẢI BÀI KẾT BẠN ZALO:0917 193 864
DỊCH VỤ VIẾT KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
WEBSITE: VIETKHOALUAN.COM
ZALO/TELEGRAM: 0917 193 864
MAIL: BAOCAOTHUCTAPNET@GMAIL.COM
PHÒNG CHỐNG BẠO LỰC GIA ĐÌNH
ĐỐI VỚI PHỤ NỮ QUA THỰC TIỄN
TẠI HUYỆN NÔNG SƠN, TỈNH QUẢNG NAM
DỊCH VỤ VIẾT THUÊ KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
ZALO/TELEGRAM 0917 193 864
VIETKHOALUAN.COM
Giáo viên hướng dẫn: Sinh viên thực hiện:
Th.S Đào Mai Hường Nguyễn Phước Trung
Huế, 03/2014
DỊCH VỤ VIẾT THUÊ KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
ZALO/TELEGRAM 0917 193 864
VIETKHOALUAN.COM
Lời Cảm Ơn
Để hoàn thành khóa luận này, đầu tiên em xin gửi lời cảm ơn
đến Quý thầy giáo, cô giáo trong Khoa Luật- Đại Học Huế đã
truyền đạt kiến thức cho em trong 4 năm học tập tại trường. Với
vốn kiến thức được tiếp thu trong quá trình học tập là nền tảng
quan trọng giúp hoàn thành khóa luận này.
Em xin trân trọng bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến cô giáo
Thạc sĩ Đào Mai Hường đã giúp đỡ, hướng dẫn em tận tình và đầy
trách nhiệm trong suốt quá trình hoàn thành khoán luận này.
Chân thành cảm ơn gia đình và bạn bè đã đóng góp ý kiến
cũng như sự động viên, khích lệ trong quá trình học tập, nghiên
cứu và thực hiện khóa luận.
Bài khóa luận được hoàn thành, bước đầu đi vào tìm hiểu,
nghiên cứu khoa học, kiến thức của em còn hạn chế và còn nhiều
bỡ ngỡ nên không thể tránh khỏi những điều thiếu sót. Kính mong
Quý thầy giáo, cô giáo, bạn bè nhiệt tình đóng góp ý kiến để bài
khóa luận của em có thể hoàn thiện hơn.
Sau cùng, em xin kính chúc Quý thầy giáo, cô giáo thật dồi
dào sức khỏe, niềm tin để tiếp tục thực hiện sứ mệnh cao đẹp của
mình là truyền đạt kiến thức cho thế hệ mai sau.
Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn!
Huế tháng 03/2014
Sinh viên
Nguyễn Phước Trung
DỊCH VỤ VIẾT THUÊ KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
ZALO/TELEGRAM 0917 193 864
VIETKHOALUAN.COM
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
BLGĐ: Bạo lực gia đình
PCBLGĐ: Phòng chống bạo lực gia đình
HNGĐ: Hôn nhân gia đình
LHQ: Liên hợp quốc
UBND: Ủy ban nhân dân
HĐND: Hội đồng nhân dân
HLHPN: Hội liên hiệp phụ nữ
HPN: Hội phụ nữ
BĐG: Bình đẳng giới
CEDAW: Công ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt
đối xử với phụ nữ
PN: Phụ nữ
DỊCH VỤ VIẾT THUÊ KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
ZALO/TELEGRAM 0917 193 864
VIETKHOALUAN.COM
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1
1. Tính cấp thiết của đề tài ................................................................................... 1
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài ........................................................................ 3
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài .................................................... 3
4. Phương pháp nghiên cứu của đề tài .................................................................. 4
5. Cơ cấu của đề tài. .............................................................................................. 4
NỘI DUNG ........................................................................................................... 5
CHƯƠNG 1: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ PHÒNG
CHỐNG BẠO LỰC GIA ĐÌNH ĐỐI VỚI PHỤ NỮ VÀ TRÁCH NHIỆM PHÁP
LÝ ĐỐI VỚI NHỮNG VI PHẠM............................................................................5
1.1. Một số khái niệm............................................................................................ 5
1.1.1. Khái niệm gia đình...................................................................................... 5
1.1.2. Khái niệm bạo lực gia đình ........................................................................ 6
1.1.3. Khái niệm bạo lực gia đình đối với phụ nữ................................................. 7
1.1.4. Khái niệm phòng, chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ.......................... 8
1.2. Các hình thức của bạo lực gia đình đối với phụ nữ ....................................... 9
1.2.1. Bạo lực thể xác........................................................................................... 9
1.2.2. Bạo lực tinh thần ....................................................................................... 11
1.2.3. Bạo lực tình dục ....................................................................................... 13
1.2.4. Bạo lực kinh tế .......................................................................................... 16
1.3. Quy định của một số nước trên thế giới về phòng chống bạo lực gia đình đối với
phụ nữ .................................................................................................................. 18
1.3.1. Phòng, chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ tại Nhật Bản.................... 19
1.3.2. Phòng, chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ tại Đông Timo................. 20
1.3.3. Phòng, chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ tại Trung Quốc................ 21
1.3.4. Phòng, chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ tại Philipphin .................. 23
1.3.5. Phòng, chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ tại Thái Lan..................... 25
1.4. Quy định của pháp luật Việt Nam về phòng, chống bạo lực gia đình đối với phụ
nữ ........................................................................................................................ 25
1.4.1. Nguyên tắc phòng, chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ...................... 27
DỊCH VỤ VIẾT THUÊ KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
ZALO/TELEGRAM 0917 193 864
VIETKHOALUAN.COM
1.4.2. Quyền, nghĩa vụ của các chủ thể trong việc phòng, chống bạo lực gia đình
đối với phụ nữ....................................................................................................... 30
1.4.3. Trách nhiệm của cá nhân, gia đình và các cơ quan, tổ chức trong phòng,
chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ................................................................ 32
1.4.4. Các biện pháp cơ bản ngăn chặn hành vi bạo lực và bảo vệ nạn nhân trong
việc bạo lực gia đình đối với phụ nữ................................................................... 36
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÒNG CHỐNG BẠO LỰC GIA ĐÌNH ĐỐI
VỚI PHỤ NỮ HUYỆN NÔNG SƠN, TỈNH QUẢNG NAM............................ 48
2.1. Khái quát tình hình kinh tế - xã hội của huyện Nông Sơn........................... 48
2.1.1. Vị trí địa lí ................................................................................................. 48
2.1.2. Địa hình.................................................................................................... 48
2.1.3. Tổ chức hành chính................................................................................... 48
2.1.4. Kinh tế - xã hội......................................................................................... 48
2.1.5. Văn hóa...................................................................................................... 49
2.2. Thực trạng phòng, chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ huyện Nông Sơn,
tỉnh Quảng Nam .................................................................................................. 50
2.2.1. Thực trạng phòng, chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ tại huyện Nông
Sơn thông qua khảo sát ....................................................................................... 50
2.2.2. Một số nhận định về công tác phòng, chống bạo lực gia đình đối với phụ
nữ huyện Nông Sơn............................................................................................. 55
2.3. Nguyên nhân và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả phòng, chống bạo lực gia
đình đối với phụ nữ huyện Nông Sơn, tỉnh Quảng Nam......................................... 61
2.3.1. Nguyên nhân dẫn đến hạn chế trong công tác phòng, chống bạo lực gia
đình đối với phụ nữ huyện Nông Sơn, tỉnh Quảng Nam .................................... 61
2.3.2. Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả phòng, chống bạo lực gia đình đối với
phụ nữ huyện Nông Sơn, tỉnh Quảng Nam......................................................... 66
KẾT LUẬN......................................................................................................... 77
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................ 78
1
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Gia đình là tế bào xã hội, là tổ ấm thân yêu của mỗi con người, như Bác Hồ
đã từng nói: "Nhiều gia đình cộng lại mới thành xã hội, gia đình tốt thì xã hội
mới tốt, xã hội tốt thì gia đình càng tốt. Hạt nhân của xã hội là gia đình”[3].
Gia đình là tế bào của xã hội, nơi duy trì nòi giống, là môi trường quan
trọng hình thành, nuôi dưỡng và giáo dục nhân cách con người, bảo tồn và phát
huy văn hóa truyền thống tốt đẹp, chống lại các tệ nạn xã hội, tạo nguồn nhân
lực phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Ngày 2/9/1945, Chủ tịch Hồ
Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam Dân Chủ Cộng
Hòa, trong Tuyên ngôn Người đã đặt ra vấn đề quan tâm hàng đầu là “Nam nữ
bình quyền”.
Tuy nhiên, vấn đề hiện nay tiềm ẩn trong mọi gia đình là vấn nạn vi phạm pháp
luật phòng, chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ và việc phòng, chống bạo lực gia
đình đối với phụ nữ là hết sức cần thiết. Bạo lực gia đình đối với phụ nữ là vấn đề
mang tính lịch sử toàn cầu, gây nhức nhối cho nhân loại, để lại nhiều hậu quả
nghiêm trọng cho con người, nhất là đối với phụ nữ. Bước sang thế kỷ XXI,
phòng, chống bạo lực giới đang là một trong những mục tiêu của thiên niên kỷ.
Tổng Thư ký Liên hiệp quốc Ban Ki Moon đã tuyên bố: "Bạo lực đối với phụ nữ
là không bao giờ được chấp nhận, không bao giờ được khoan dung, tha thứ
." [16]. Chúng ta những con người của thế kỷ 21 cần phải đặc biệt quan tâm đến
vấn đề bảo vệ quyền lợi cho phụ nữ và lên án nạn bạo lực với phụ nữ góp phần
vào nâng cao địa vị và quyền con người chính đáng của phụ nữ ở trong gia đình
và ngoài xã hội.
Thể chế hoá quy định của Hiến pháp năm 1992, việc bảo vệ phụ nữ khỏi
các hình thức bạo lực gia đình được quy định cụ thể, chi tiết trong nhiều văn bản
pháp luật khác như Luật Hôn nhân gia đình; Bộ Luật Hình sự; Luật Bình đẳng
giới; Luật Phòng, chống bạo lực gia đình...Mặc dù Đảng và Nhà nước ta đã có
2
nhiều cố gắng trong việc PCBLGĐ, để các quy định pháp luật về PCBLGĐ được
thực thi trong đời sống xã hội nhưng trên thực tế, tình trạng vi phạm pháp luật
về PCBLGĐ vẫn diễn ra thường xuyên ở nhiều nơi. Thống kê của Bộ Văn hoá -
Thể thao và Du lịch, Tổng cục thống kê và Quỹ nhi đồng LHQ công bố ngày
26/6/2008 với điều tra của 93 ngàn hộ gia đình trên khắp mọi miền đất nước thì
có tới 21,2% cặp vợ chồng đã trải qua một hình thức bạo lực gia đình như đánh,
mắng, nhục mạ, ép quan hệ tình dục và như vậy cứ 5 cặp vợ chồng thì đã có một
cặp đã có hình thức bạo lực gia đình.
Chúng ta đều biết bạo lực gia đình đối với phụ nữ là một hiện tượng xã hội
không mới, nhưng lại nổi lên như một căn bệnh xã hội hết sức nan giải trong
giai đoạn hiện nay. Qua các kết quả nghiên cứu cũng cho thấy khả năng phụ nữ
bị chồng mình lạm dụng nhiều hơn gấp 3 lần so với khả năng bị người khác lạm
dụng. Bạo lực gia đình đình đối với phụ nữ đã gây hậu quả hết sức nghiêm trọng
đối với thể chất và tinh thần của người phụ nữ.
Nông Sơn là huyện miền núi phía Tây của tỉnh Quảng Nam. Đây là một
huyện nghèo, 4/7 xã được xét là đặc biệt khó khăn. Mặc dù dân số ít nhưng địa
bàn phức tạp, trình độ dân trí thấp, đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn. Đời
sống nhân dân còn duy trì những phong tục tập quán lạc hậu. Đó chính là những
nguyên nhân hàng đầu dẫn đến tình trạng bạo lực ở vùng cao. Tuy nhiên, hiện
nay vẫn chưa có những công trình chuyên sâu để tìm hiểu rõ hơn về việc
PCBLGĐ đối với phụ nữ miền núi.
Trong những năm qua Đảng và nhà nước Việt Nam đã rất quan tâm đến
công tác đấu tranh PCBLGĐ đối với phụ nữ . Từ năm 1980, chính phủ Việt Nam
đã ký kết gia nhập Công ước về loại bỏ các tất cả các hình thức phân biệt đối xử
với phụ nữ (CEDAW). Luật Phòng, chống bạo lực gia đình đã được Nước Cộng
Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam thông qua vào tháng 11/2007 và có hiệu lực
từ ngày 1/7/2008. Quá trình thực hiện đã đạt đươc những kết quả đáng khích lệ.
Tuy nhiên tình trạng bạo lực gia đình đối với phụ nữ vẫn diễn biến phức tạp cả
3
về số vụ và mức độ nghiêm trọng, và việc PCBLGĐ đối với phụ nữ và vấn đề
hết sức quan trọng và cần thiết.
Với những lí do nêu trên, mà em đã mạnh dạn chọn đề tài “Phòng chống
bạo lực gia đình đối với phụ nữ qua thực tiễn tại huyện Nông Sơn, tỉnh
Quảng Nam” làm đề tài khóa luận tốt nghiệp của mình.
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Đề tài hướng đến những mục đích như sau:
- Nâng cao nhận thức sâu sắc hơn về pháp luật PCBLGĐ đối với phụ nữ.
- Đánh giá thực trạng PCBLGĐ đối với phụ nữ ở huyện Nông Sơn, tỉnh
Quảng Nam.
- Tìm ra những hạn chế trong việc PCBLGĐ đối với phụ nữ huyện Nông
Sơn.
- Đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả PCBLGĐ đối với phụ
nữ huyện Nông Sơn, tỉnh Quảng Nam.
Từ những mục đích trên đề tài hướng tới những nhiệm vụ sau:
- Làm sáng rõ khái niệm đặc điểm của bạo lực gia đình đối với phụ nữ.
- Chỉ ra và phân tích các đặc điểm các hình thức bạo lực gia đình đối với
phụ nữ .
- Nêu lên các hình thức và phương pháp đấu tranh PCBLGĐ đối với phụ
nữ.
- Chỉ rõ những hậu quả mà bạo lực gia đình đối với phụ nữ đã để lại cho
phụ nữ, cho trẻ em và cho cả toàn xã hội.
- Đề xuất những kiến nghị và giải pháp để nâng cao hiệu quả đấu tranh
PCBLGĐ đối với phụ nữ tại huyện Nông Sơn, tỉnh Quảng Nam.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đối tượng nghiên cứu: Đề tài tập trung phân tích, đánh giá và xem xét về
thực tiễn PCBLGĐ đối với phụ nữ địa bàn huyện Nông Sơn nói riêng, Tỉnh
Quảng Nam nói chung.
4
Phạm vi nghiên cứu: Trong khuôn khổ có hạn của một bài Khóa Luận, em
chỉ đi sâu vào nghiên cứu một số vấn đề lý luận về bạo lực gia đình đối với phụ
nữ và thực tiễn thực hiện pháp luật PCBLGĐ đối với phụ nữ huyện Nông Sơn,
tỉnh Quảng Nam.
4. Phương pháp nghiên cứu của đề tài
Để thực hiện đề tài “Phòng chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ qua
thực tiễn tại huyện Nông Sơn, tỉnh Quảng Nam”. Em đã sử dụng phương pháp
duy vật biện chứng và phương pháp duy vật lịch sử. Ngoài ra em còn sử dụng
một số phương pháp cụ thể như: phân tích, giải thích, thống kê, tổng hợp, khảo
sát thực tế.
5. Cơ cấu của đề tài.
Lời mở đầu: Nêu lên tính cấp thiết của đề tài, mục đích nghiên cứu, đối
tượng và phạm vi nghiên cứu, phương pháp nghiên cứu và kết quả nghiên cứu.
Nội dung: Gồm có 2 chương.
- Chương 1: Quy định của pháp luật Việt Nam về phòng chống bạo lực gia
đình đối với phụ nữ và trách nhiệm pháp lý đối với những vi phạm.
- Chương 2: Thực trạng phòng chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ tại
huyện Nông Sơn, tỉnh Quảng Nam.
Kết luận
Tài liệu tham khảo
5
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ PHÒNG CHỐNG
BẠO LỰC GIA ĐÌNH ĐỐI VỚI PHỤ NỮ VÀ TRÁCH NHIỆM
PHÁP LÝ ĐỐI VỚI NHỮNG VI PHẠM
1.1. Một số khái niệm
1.1.1. Khái niệm gia đình
Dưới góc độ xã hội học, gia đình được coi là tế bào xã hội. Không giống
bất cứ nhóm xã hội nào khác, gia đình đan xen các yếu tố sinh học, kinh tế, tâm
lý, văn hóa…những mối liên hệ cơ bản của gia đình bao gồm vợ chồng, cha mẹ
và con, ông bà và cháu, những mối liên hệ khác: cô, dì, chú, bác với cháu, cha
mẹ chồng và con dâu, cha mẹ vợ và con rễ…Mối quan hệ gia đình được thể hiện
ở khía cạnh như: có đời sống tình dục, sinh con và nuôi dạy con cái, lao động
tạo ra của cái vật chất để duy trì đời sống gia đình và đóng góp cho xã hội. Mối
liên hệ này có thể dựa trên những căn cứ pháp lý hoặc có thể dựa trên những căn
cứ thực tế một cách tự nhiên, tự phát.
Theo đó gia đình được định nghĩa “là một thiết chế xã hội đặc thù, một
nhóm xã hội thu nhỏ mà các thành viên của nó gắn bó với nhau bởi quan hệ hôn
nhân, quan hệ huyết thống hoặc quan hệ con người bởi tính cộng đồng về sinh
hoạt trách nhiệm đạo đức với nhau nhằm đáp ứng nhu cầu riêng của thành viên
cũng như để thể hiện tính tất yếu của xã hội về phát triển sản xuất con người”.
Dưới góc độ pháp lý, gia đình là tập hợp những người gắn bó với nhau hôn
nhân, quan hệ huyết thống hoặc quan hệ nuôi dưỡng, làm phát sinh nghĩa vụ và
quyền giữa họ với nhau theo quy định của luật này (Điều 8, Luật Hôn nhân và
gia đình năm 2000).
Tuy nhiên, trong thực tế đời sống cũng có nhiều cách hiểu khác nhau về
khái niệm gia đình: gia đình là tập hợp những người cùng có tên trong sổ hộ
khẩu; gia đình là tập hợp những người cùng chung sống với nhau dưới một
mái nhà…
6
Từ những góc độ nghiên cứu khác nhau, gia đình được chia tách thành
nhiều dạng thức khác nhau: gia đình hiện đại và gia đình truyền thống, gia đình
hạt nhân và gia đình đa thế hệ; gia đình khuyết thiếu và gia đình đầy đủ.
1.1.2. Khái niệm bạo lực gia đình
Trong tiếng Việt, bạo lực được hiểu là “sức mạnh dùng để cưỡng bức, lấn
áp hoặc lật đổ”[3]. Khái niệm này dễ làm người ta liên tưởng tới các hoạt động
chính trị, nhưng trên thực tế bạo lực được coi như một phương thức hành xử
trong quan hệ xã hội nói chung. Các mối quan hệ xã hội vốn rất phức tạp nên
hành vi bạo lực cũng rất phong phú, được chia thành nhiều dạng khác nhau, tùy
theo từng góc độ nhìn nhận: bạo lực nhìn thấy và bạo lực không nhìn thấy được;
bạo lực với trẻ em…
Còn theo chủ nghĩa cộng sản khoa học: “Bạo lực là một giai cấp (các nhóm
chính trị- xã hội) nào đó áp dụng những hình thức cưỡng bức khác nhau, kể cả
sự tác động bằng vũ trang, đối với giai cấp (các nhóm chính trị- xã hội) khác
nhau nhằm mục đích giành lấy hoặc duy trì sự thống trị về kinh tế, chính trị
những quyền hay đặc quyền khác nhau” [4].
Bạo lực gia đình là một dạng thức của bạo lực xã hội, là “hành vi cố ý của các
thành viên gia đình gây tổn hại hoặc đe dọa gây tổn hại với các thành viên khác
trong gia đình” (Điều 1, Luật Phòng, chống bạo lực gia đình). Nói cách khác, đó là
việc “ các thành viên trong gia đình vân dụng sức mạnh để giải quyết các vấn đề
gia đình”.
Theo định nghĩa của Đại Hội Đồng Liên Hợp Quốc thông qua năm 1993 được
các tổ chức cũng như các nhà khoa học trên thế giới chấp nhận rộng rãi. Theo đó,
bạo lực gia đình bao gồm bất kỳ một hành động bạo lực dựa trên cơ sở một giới
nào dẫn đến, hoặc có khả năng dẫn đến những tổn hại về thân thể, tình dục hay tâm
lý, hay những đau khổ của phụ nữ bao gồm cả sự đe dọa có những hành động như
vậy, sự cưỡng bức hay tước đoạt một cách tỳ tiện sự tự do, dù xảy ra nơi công cộng
hay cuộc sống riêng tư.
7
Như vậy, bạo lực gia đình bao gồm các yếu tố bạo hành về thể chất, bạo
hành về tinh thần, bạo hành tình dục và cả bạo hành về kinh tế. Những hành vi
bạo lực gia đình gây ra để lại nhiều tổn hại đối với cộng đồng xã hội, đối với con
người, đặc biệt đối với phụ nữ- đối tượng chịu ảnh hưởng trực tiếp của bạo lực
gia đình.
1.1.3. Khái niệm bạo lực gia đình đối với phụ nữ
Tuyên bố của Liên hợp quốc về việc loại bỏ bạo lực đối với phụ nữ, ngày
20/12/1993, đã định nghĩa: “Bạo lực đối với phụ nữ là bất kỳ hành động bạo lực
nào dựa trên cơ sở giới gây ra hậu quả hoặc có thể gây ra hậu quả, làm tổn hại
hoặc gây đau khổ cho phụ nữ về thân thể, tình dục hay tâm lý, kể cả những lời
đe doạ hay độc đoán tước quyền tự do, dù xảy ra ở nơi công cộng hay trong đời
sống riêng tư”. Theo định nghĩa trên, bạo lực gia đình đối với phụ nữ bao gồm:
các hành vi bạo lực trên cơ sở giới gây ra hậu quả hoặc có thể gây ra hậu quả,
làm tổn hại hoặc gây đau khổ cho phụ nữ về thân thể, tình dục và tâm lý xảy
ra trong gia đình.
Bạo lực chống lại phụ nữ trong gia đình: Quan hệ giới trong gia đình là một
trong những quan hệ cơ bản tạo nên sự tồn tại của một gia đình. Về thực chất nó
là mối quan hệ giữa nam giới và nữ giới trong gia đình mà trung tâm là mối
quan hệ vợ chồng. Trong mối quan hệ về giới, mặc dù thủ phạm của hành vi bạo
lực gia đình có thể bao gồm cả phụ nữ và nạn nhân của nó có thể bao gồm cả
đàn ông. Tuy nhiên, các nghiên cứu về vấn đề này cho phép kết luận rằng, bạo
lực gia đình về cơ bản là bạo lực chống lại phụ nữ và thủ phạm cơ bản là đàn
ông. Phần lớn bạo lực chống lại phụ nữ xảy ra trong gia đình và người gây ra
bạo lực gần như luôn luôn là nam giới, thường là chồng, người tình, hoặc chồng
cũ, người tình cũ, hay những người đàn ông quen biết của phụ nữ.
"Bạo lực trên cơ sở giới là bạo lực giữa nam giới và phụ nữ, trong đó phụ
nữ thường là nạn nhân và điều này bắt nguồn từ các mối quan hệ quyền lực bất
bình đẳng giữa nam giới và phụ nữ. Bạo lực thường nhằm vào phụ nữ vì họ là
phái yếu hoặc ảnh hưởng lớn đến phụ nữ. Bạo lực trên cơ sở giới bao gồm,
8
những tổn hại về thân thể, tình dục và tâm lý (bao gồm cả sự đe doạ, gây đau
khổ, cưỡng bức, hoặc tước đoạt sự tự do xảy ra trong gia đình hoặc trong cộng
đồng, nhưng nó không hạn chế chỉ ở những dạng này. Bạo lực trên cơ sở giới
bao gồm cả bạo lực do Nhà nước gây ra hoặc bỏ qua "[15].
Bạo lực gia đình đối với phụ nữ ngoài những đặc điểm của bạo lực gia đình
nói chung còn mang một đặc điểm rất quan trọng để chúng ta nhận biết và phân
biệt với bạo lực gia đình nói chung, đó là, nạn nhân của bạo lực gia đình đối với
phụ nữ chỉ là nữ giới (nạn nhân của bạo lực gia đình có thể là tất cả đối tượng: nữ
giới, nam giới, trẻ em, người già, người tàn tật...). Chủ thể thực hiện hành vi bạo
lực gia đình đối với phụ nữ thường là nam giới và thường là người chồng trong hôn
nhân, chồng cũ hay bạn tình.
1.1.4. Khái niệm phòng, chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ
Phòng, chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ là việc thực hiện các biện
pháp nhằm ngăn chặn và đẩy lùi bạo hành đối với phụ nữ trong gia đình, giúp
cho người phụ nữ tránh được bạo lực gia đình, bảo đảm các quyền con người và
có cuộc sống hạnh phúc.
Phòng chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ là một công việc khó khăn và
lâu dài. Để bảo vệ người phụ nữ, bảo vệ quyền và vị trí của người phụ nữ trong
xã hội, việc phòng chống bạo lực gia đình đối với người phụ nữ cần thiết phải có
sự điều chỉnh của pháp luật. Việc PCBLGĐ đối với người phụ nữ chỉ đạt được
hiệu quả khi nó được đặt dưới sự bảo vệ của pháp luật và phù hợp với pháp luật,
phù hợp với truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Cho đến nay, Việt Nam đã xây
dựng được một hệ thống pháp luật về PCBLGĐ đặc biệt, lần đầu tiên, Luật
Phòng, chống bạo lực gia đình đã ra đời. Đây chính là cơ sở pháp lý để bảo vệ
con người trong đó có người phụ nữ trước bạo hành gia đình.
Chính phủ Việt Nam đã tham gia rất mạnh mẽ phong trào quốc tế trong việc
bảo vệ người phụ nữ và đẩy lùi bạo lực gia đình. Việt Nam đã phê chuẩn Công ước
về Xoá bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử đối với phụ nữ (CEDAW) năm 1981 và
cam kết với kế hoạch hành động của Hội nghị quốc tế về Dân số và Phát triển tại
9
Cai-rô năm 1994 và Cương lĩnh hành động của Hội nghị quốc tế về phụ nữ tại Bắc
Kinh năm 1995. Với tư cách là quốc gia thành viên của công ước CEDAW, Việt
Nam đã có những tiếp cận theo đúng cách tiếp cận của công ước đối với bình đẳng
và bình đẳng giới. Điều này được thể hiện trong hệ thống pháp luật của Việt Nam, từ
đạo luật gốc là Hiến pháp đến các đạo luật và các văn bản pháp luật khác đều khẳng
định một nguyên tắc bình đẳng nam nữ và không có bất kỳ sự phân biệt nào trên cơ
sở giới trên mọi lĩnh vực.
Từ những phân tích trên, phòng chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ
được hiểu là phòng ngừa những hành vi trái pháp luật phòng, chống bạo lực
gia đình, có lỗi, do chủ thể có năng lực trách nhiệm pháp lý thực hiện, xâm hại
đến các quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ trong lĩnh vực PCBLGĐ mà nạn
nhân của bạo hành gia đình là người phụ nữ.
Như vậy, PCBLGĐ đối với phụ nữ là phòng ngừa các hành vi bạo hành
gia đình đối với phụ nữ mà trong đó nạn nhân là người phụ nữ, người gây ra
bạo hành chủ yếu là nam giới. Tuy nhiên, cũng cần phải thấy rằng, trong xu thế
gia đình ở Việt Nam là gia đình mở, người phụ nữ không chỉ bị bạo hành từ
phía người chồng mà còn bị bạo hành từ phía gia đình nhà chồng, bố, mẹ
chồng, anh em của chồng. Mặt khác, trong thực tế cũng có nhiều người chồng
cũng phải chịu bạo lực gia đình như phụ nữ nhưng trong khuôn khổ khóa luận
này, tác giả nghiên cứu việc phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn và xử lý các vụ
bạo lực gia đình đối với phụ nữ trái với pháp luật PCBLGĐ và là nội dung cơ
bản tác giả đề cập tới việc PCBLGĐ đối với phụ nữ.
1.2. Các hình thức của bạo lực gia đình đối với phụ nữ
1.2.1. Bạo lực thể xác
Người phụ nữ đã phải chịu đựng nhiều hình thức bạo lực gia đình. Bạo lực
thân thể là hình thức khá phổ biến trong các dạng bạo lực gia đình trên thế giới
nói chung, ở Việt Nam nói riêng. Bạo lực thể chất là một trong những nguyên
nhân hàng đầu gây ra thương tích cho phụ nữ. Người phụ nữ là nạn nhân của
bạo hành gia đình dưới hình thức bạo lực thân thể, họ phải chịu sự đánh đập của
10
người chồng, người bạn tình ở nhiều mức độ khác nhau, có trường hợp người
chồng đấm, đá, tát, xô ngã vợ; có trường hợp dùng cả vũ khí để hành hung vợ để
lại những hậu quả nghiêm trọng như để lại thương tích trên thân thể, xảy thai,
thậm chí tử vong...
Theo luật mẫu của Liên hợp quốc bạo lực thể xác bao gồm bất cứ hành vi
nào gây ra thương tích về mặt thể chất hoặc tổn thương thân thể ở bất kỳ mức độ
nào.
Theo tài liệu của Viện Khoa học xã hội: Bạo lực thể xác là hành vi cưỡng
bức thân thể, đánh đập nhằm gây thương tích cho nạn nhân hoặc ngăn cấm phụ
nữ tiếp cận các dịch vụ chăm sóc sức khỏe cũng như ngăn ngừa họ không được
tiếp cận các nhu cầu vật chất thiết yếu như: ăn uống, nghĩ ngơi,...
Luật Phòng, chống bạo lực gia đình năm 2007 của Việt Nam cũng đã nêu:
Hành vi “hành hạ, ngược đãi, đánh đập hoặc hành vi cố ý khác xâm hại đến sức
khỏe, tính mạng” được xem là hành vi bạo lực gia đình về mặt thể xác.
Những hành vi bạo lực về thể xác thường sử dụng sức mạnh cơ bắp hoặc
công cụ (thậm chí cả vũ khí ) để gây ra sự đau đớn về thân thể đối với nạn nhân
và mức độ có thể từ nhẹ tới nặng: thờ ơ; đánh đau, gây thương tích ở khu vực
khó phát hiện; đấm đá; gây thương tích nặng không cho nạn nhân đi chữa trị;
dùng phương tiện có dự định( dao, súng...)...;giết.
Phụ nữ bị tát, xô, đẩy (không có những hành vi nghiêm trọng hơn) được
xếp vào nhóm bị bạo lực ở mức độ nhẹ và những người bị đấm đá kéo lê hoặc
đe dọa dùng vũ khí được coi là bị bạo lực ở mức độ nghiêm trọng. Thường thì
phụ nữ phải gánh chịu nhiều hành vi bạo lực thể xác chứ không phải đơn thuần
một hành vi.
Trên thực tế không chỉ có những người trình độ văn hóa thấp mà cả những
người có trình độ văn hóa tương đối cao, có địa vị trong xã hội cũng là nạn nhân
của bạo lực trong gia đình. Trong đó bạo lực thể xác đối với người phụ nữ là rõ
nhất. Mặt khác, bạo lực về thể xác đối với phụ nữ ở nông thôn cao hơn so với
11
thành thị và phần lớn là tập trung vào các gia đình có chồng trình độ học vấn
thấp, làm nông nghiệp.
Bạo lực thể xác để lại hậu quả rất nghiêm trọng, nó không chỉ tác động trực tiếp
đến sức khỏe, tinh thần của người phụ nữ mà còn gây ảnh hưởng đến sự phát triển
tình cảm của trẻ con trong gia đình. Gia đình không hòa thuận, cha mẹ đánh đập
nhau sẽ tác động không không tốt đến tư tưởng, làm mất niềm tin của con trẻ vào cha
mẹ của mình.
Như vậy, có thể thấy rằng bạo lực thể xác là một trong những nguyên nhân
chính của tình trạng ly hôn hiện nay, đẩy nhiều gia đình đến bờ vực khủng
hoảng và tan vỡ, trẻ em thì xa vào con đường tội phạm.
1.2.2. Bạo lực tinh thần
Bạo lực về tinh thần đối với phụ nữ là loại hình bạo lực không sử dụng đến
vũ lực để tác động lên thể xác của nạn nhân mà chỉ tác động lên tinh thần của
nạn nhân như: chì chiết, mắng chửi, lăng mạ, xỉ nhục, tỏ thái độ lạnh lùng,
không nói chuyện, không quan tâm.
Cùng với bạo lực về thân thể, bạo lực về tinh thần đối với phụ nữ là hình
thức bạo lực đối với phụ nữ ngày càng phổ biến ở nước ta. Những vết thương về
thân thể của người phụ nữ, với thời gian có thể lành lại nhưng những vết thương
về tinh thần do bạo lực gia đình gây ra cho người phụ nữ sẽ rất khó lành. Bạo
lực về tinh thần đã gây cho người phụ nữ những chấn động mạnh và lâu dài về
tâm lý, họ phải chịu đựng những chấn thương tâm lý mà không dễ gì chữa khỏi.
Nạn nhân bị bạo lực tinh thần thường tự dằn vặt mình, trầm cảm và sợ sệt, ăn
không ngon, ngủ không yên, nóng giận vô cớ, luôn bị ám ảnh về bạo lực, có
trường hợp bị ảnh hưởng nghiêm trọng đến tâm lý, thần kinh suốt đời, có trường
hợp thì tự tử.
Bạo lực về tinh thần cũng là một loại hình bạo lực không kém phần nghiêm
trọng so với bạo lực về thể xác, số động phụ nữ đếu cho rằng: ảnh hưởng của
bạo lực tinh thần thường nặng nề hơn bạo lực thể xác. Liên quan đến vấn đề này
12
thì Luật Phòng, chống bạo lực gia đình có nêu lên một số hành vi bạo lực tinh
thần như:
“Cô lập, xua đuổi hoặc gây áp lực thường xuyên về tâm lý và gây hậu quả
nghiêm trọng; lăng mạ hoặc hành vi cố ý khác xúc phạm danh dự, nhân phẩm...”
Một số những hành vi bạo lực tinh thần :
- Dùng lời nói để mắng nhiếc nạn nhân;
- Chửi mắng, lăng mạ, chì chiết;
- Xúc phạm nhân phẩm, hạ thấp uy tín ( tiết lộ đời tư, phát tán tờ rơi làm
ảnh hưởng đến danh dự, cưỡng ép lột bỏ quần áo trước mặt người khác...).
- Cấm đoán ( quyền được chăm sóc con cái, người thân,dược làm việc, được
tham gia vào công tác xã hội, quyền được giao tiếp, quyền được quyết định...).
- Xua đuổi, quấy rối hoặc gây áp lực thường xuyên về mặt tâm lý gây hậu
quả nghiêm trọng;
- Buộc tội, nghi ngờ, theo dõi;
- Phớt lờ cảm xúc của người khác, không quan tâm, đối xử lạnh nhạt;
- Chê bai, chế nhạo, hạ thấp giá trị trước mặt người khác…
Với bạo lực thể xác, nỗi đau đớn thể hiện rõ ràng trên cơ thể người phụ nữ
nhưng với bạo lực về tinh thần thì vết thương ấy nông sâu như thế nào không ai
có thể đo đếm được. Bạo lực tinh thần từng ngày từng giờ gặm nhấm ý chí, tâm
can của người phụ nữ khiến những nạn nhân này luôn trong tình trạng căng
thẳng dẫn đến “stress”, tâm thần ở thể nhẹ hoặc thần kinh và hậu quả đau lòng
nhất là nhiều người do quá bế tắc đã phải tìm đến cái chết để giải tỏa.
Bạo lực tinh thần đối với phụ nữ đang dần làm mai một đi bản chất tốt đẹp
vốn có của mỗi một thành viên trong gia đình, gây tan vỡ hạnh phúc lứa đôi của
các cặp vợ chồng, gây đỗ vỡ cuộc sống gia đình.
Bạo lực tinh thần đối với phụ nữ trong gia đình là hình thức bạo lực không
nhìn thấy được. Trong nhiều trường hợp, nó là nguyên nhân trực tiếp cướp đi
sinh mạng của người phụ nữ. Rất nhiều phụ nữ không chịu nổi bạo hành tinh
thần đã tìm đến với cái chết. Một trường hợp vi phạm pháp luật phòng chống
13
bạo lực gia đình đối với phụ nữ dưới hình thức bạo hành tinh thần đăng trên báo
VnExpress ngày 23/10/2008 đã nói lên nỗi đau của mà người phụ nữ phải chịu
đựng khi bị bạo lực tinh thần: Một người chồng đã không đánh đập vợ khi bắt
gặp vợ ngoại tình và chỉ xin 10 nghìn của người tình vợ, sau đó, cứ mỗi lần đến
bữa ăn, người chồng lại đặt 10 nghìn lên mâm cơm và giải thích với con đó là số
tiền mà mẹ khó nhọc kiếm được. Ba tháng sau, không chịu nổi áp lực về mặt
tâm lý, người vợ đã tự vẫn chết.
Có rất nhiều lý do dẫn đến bạo lực tinh thần đối với phụ nữ, một trong
những lý do khá nổi bật là ngoại tình. Phần lớn những người chồng khi ngoại
tình về thường bỏ rơi, chửi mắng, ngược đãi vợ con. Cùng với sự tra tấn dã man
đó là mục đích mong cho vợ chết mòn, chết dần. Trong những hoàn cảnh như
vậy, người phụ nữ thật đau khổ và nhiều khi họ đã không làm chủ được bản thân
mình nữa, mắc phải những sang chấn tâm lý ám ảnh suốt cuộc đời họ.
1.2.3. Bạo lực tình dục
Một hình thức bạo lực gia đình đối với người phụ nữ hiện nay làm ảnh
hưởng rất lớn đến tâm lý của người phụ nữ là bạo lực tình dục. Hình thức bạo
lực này rất khó phát hiện bởi tất cả các nạn nhân rất ít khi nói ra. Theo Tổ chức
Y tế thế giới, bạo lực tình dục được xem là vấn đề ưu tiên trong các vấn đề sức
khoẻ cộng đồng và quyền con người bởi vì vấn đề này tồn tại ở nhiều nước trên
thế giới và gây ảnh hưởng đến sức khoẻ phụ nữ. Cưỡng bức tình dục trong hôn
nhân là một hình thức bạo lực đối với phụ nữ, là hành vi vi phạm pháp luật
phòng chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ, đây là điều mà bấy lâu nay nhiều
người không nhận thức được. Ở nước ta, theo quan niệm truyền thống, việc
người vợ đáp ứng nhu cầu tình dục của chồng là việc bình thường như là một
bổn phận của người vợ để giữ gìn hạnh phúc gia đình. Nhiều người chồng coi đó
là trách nhiệm đương nhiên của người vợ, người vợ không có quyền kháng cự
và đã có rất nhiều người được hỏi đã khẳng định rằng đây không phải là việc
bạo hành vợ, vì thế không phải là vi phạm pháp luật. Chính vì vậy mà hình thức
bạo lực này bị xem nhẹ. Điều này dẫn đến tình trạng bạo lực tình dục trong gia
14
đình đối với vợ còn xảy ra nhiều với con số khá cao mà trong thực tế, con số đó
còn nhiều hơn rất nhiều.
Quan hệ tình dục giữa vợ và chồng là quan hệ tình dục đồng thuận, nhưng
không phải lúc nào cũng là quan hệ tình dục được mong muốn. Vì vậy, không
phải cứ là vợ chồng thì đương nhiên chồng được quan hệ và vợ phải chiều
chồng, mà cần có sự mong muốn và đồng thuận của đôi bên. Hành vi ép buộc
tình dục có thể xảy ra trong hôn nhân giữa vợ và chồng, kể cả khi ly thân, ly hôn
và ngay cả trong tình yêu giữa bạn tình với nhau.
Bạo lực tình dục được định nghĩa là: hành vi sử dụng vũ lực, cưỡng bức
hoặc chấn áp về tâm lý nhằm ép buộc một người phụ nữ quan hệ tình dục ngoài
ý muốn cho dù có đạt mục đích hay không. Bạo lực tình dục bao gồm hiếp dâm,
quấy rối tình dục và các hình thức bạo lực tình dục khác trong hôn nhân mà đối
tượng gây ra là các thành viên trong gia đình, người quen, cưỡng ép kết hôn,
cưỡng ép làm nghề mại dâm, chủ thể của hành vi bạo lực tình dục thường xử
dụng vũ lực để ép buộc người kia có quan hệ tình dục, hoặc hành vi cố lôi kéo
họ vào hoạt động tình dục ngay cả khi họ không có khả năng tử chối bởi các lý
do như: sức khỏe, bị ảnh hưởng của chất kích thích, chưa đủ năng lực để hiểu
biết về hậu quả của quan hệ tình dục đó, hoặc sự hăm doa, quấy rối tình dục.
Trong Luật Phòng, chống bạo lực gia đình năm 2007 của Việt Nam cũng có
nêu rõ “...cưỡng ép quan hệ tình dục” cũng là một trong những hành vi bạo lực
gia đình. Chúng ta có thể xác định bạo lực tinh dục qua một số hành vi cụ thể sau:
- Đùa cợt về phụ nữ và về tình dục trước mặt nạn nhân;
- Xem phụ nữ như một đồ vật để thỏa mãn;
- Làm mất cảm xúc và nhu cầu sinh lý của nạn nhân;
- Sờ mó bộ phận sinh dục của nạn nhân khi nạn nhân không đồng ý;
- Sử dụng những hình thức quan hệ tình dục gây đau đớn;
- Sử dụng những lời lẽ liên quan tới dục tính gây khó chịu về tâm lý;
- Cưỡng ép thực hiện hành vi khiêu dâm, các thuốc kích dục;
- Ép buộc quan hệ tình để làm nhục, gây đau;
- Buộc cởi bỏ y phục trước mặt con cái, công chúng…
15
Trong đời sống vợ chồng ở nhiều gia đình, hôn nhân được hiểu như là sự
cho phép người đàn ông có quyền tiếp cận tình dục với người vợ vô điều kiện và
họ có sức mạnh để củng cố sự tiếp cận này thông qua cưỡng bức nếu thấy cần
thiết. Không ít phụ nữ khi không đồng ý quan hệ với chồng đã bị chồng chì
chiết, chửi mắng thậm tệ. Bị bạo hành về tình dục khiến cho người phụ nữ cảm
giác như mình chỉ là công cụ giải quyết sinh lý của chồng nên họ cảm thấy sợ
mỗi khi gần gũi chồng. Trong quan hệ “phòng the” lẽ ra người phụ nữ có quyền
được trân trọng thì trái lại bị tước đi quyền làm vợ, quyền được nâng niu chiều
chuộng và được yêu thương, nhưng trái lại họ chỉ có một nhiêm vụ duy nhất là
phục vụ.
Các hành vi bạo lực tình dục chủ yếu là dùng sức mạnh thể lực để ép quan
hệ tình dục ngoài ý muốn, đa phần người phụ nữ phải quan hệ tình dục vì sợ
rằng nếu không đáp ứng nhu cầu sinh ý cho chồng thì sẽ có điều xấu xảy ra và bị
ép làm những việc có liên quan đến tình dục mà người vợ cảm thấy bị nhục nhã
hoặc hạ thấp nhân phẩm. Một số phụ nữ khác cho rằng: họ bị ép quan hệ tình
dục vì họ sợ, vì họ nghĩ tới lần quan hệ sau những chuyện như này sẽ tiếp diễn.
Tình dục cưỡng ép không chỉ xảy ra một lần mà có thể tiếp tục lặp đi lặp lại
nhiều lần.
Như vậy, có thể nói nạn bạo lực tình dục đã và đang trở thành vấn nạn của
các gia đình và toàn xã hội. Bạo lực tình dục không chỉ gây đau đớn về mặt thể
xác đối với phụ nữ mà còn gây ra hậu quả về mặt tinh thần hết sức nghiêm
trọng, là nỗi kinh hoàng trong đêm của nhiều phụ nữ. Sự lạm dụng về tình dục
có thể gây ra các căn bệnh có thể liên quan đến sức khỏe sinh sản khó điều trị
như: HIV, mang thai ngoài ý muốn, các bệnh lây truyền qua đường tình dục hay
những tai biến chứng thai sản...Do bạo lực tình dục có mối quan hệ chặt chẽ với
vấn đề đạo đức và được ngụy trang một cách kính đáo bởi “quan hệ tình cảm”
giữa hai vợ chồng. Mặt khác, vì nó là vấn đề tế nhị, nên chị em thường giấu
diếm vì không muốn “ vạch áo cho người xem lưng”, “xấu chàng hổ ai”. Những
16
điều này góp phần làm cho bạo lực tình dục ngày một phát triển, đe dọa đến tinh
thần và sức khỏe của phụ nữ.
1.2.4. Bạo lực kinh tế
Cùng với bạo hành về thể chất, bạo hành về tinh thần là bạo hành về kinh
tế. Bạo hành về kinh tế là hành vi dùng sức mạnh, áp đặt hoặc lừa mị nhằm
chiếm giữ và kiểm soát tài chính của người phụ nữ trong gia đình nhằm tạo ra sự
phụ thuộc về mặt kinh tế. Cho đến nay, chưa có nhiều số liệu thống kê về bạo
lực kinh tế trong gia đình đối với phụ nữ, tuy nhiên trên thực tế, bạo lực kinh tế
đối với phụ nữ thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau như: không đóng góp
kinh tế (tiền bạc) cho vợ chi tiêu chung trong gia đình; quản lý hết tiền của gia
đình; bắt người vợ phụ thuộc hoàn toàn vào mình; coi thường vợ không có công
ăn việc làm, không kiếm được tiền; kiểm soát toàn bộ việc chi tiêu trong nhà;
vay nợ nhiều để vợ gánh chịu trả nợ... Có rất nhiều người phụ nữ hoàn toàn bị
phụ thuộc vào chồng về mặt kinh tế, mọi sự chi tiêu trong gia đình từ những vật
dụng nhỏ nhất cũng phải xin chồng, phải xin phép chồng, chồng không đồng ý
hay không cho thì không có tiền để tiêu thậm chí để phục vụ cho những nhu cầu
tối thiểu nhất của người phụ nữ. Như vậy, câu hỏi đặt ra người phụ nữ sinh ra để
làm gì?, họ đâu còn được tôn trọng quyền con người nữa. Như vậy, bạo lực kinh
tế đối với người phụ nữ trong gia đình biểu hiện rất đa dạng, nhiều vẻ với nhiều
cấp độ khác nhau và phần lớn bạo lực kinh tế thường ít bộc lộ công khai. Vì thế,
bạo lực kinh tế là dạng bạo lực không dễ nhận diện. Bạo lực kinh tế đã và đang
ảnh hưởng sâu sắc tới người phụ nữ, vi phạm quyền tự do của người phụ nữ.
Chính vì vậy, hơn ai hết, người phụ nữ phải đứng lên đấu tranh để bảo vệ quyền
cho họ đồng thời những kẻ gây ra bạo lực cho người vợ của mình cần bị xử lý
nghiêm minh theo quy định của pháp luật.
Bạo lực kinh tế là hành vi kiểm soát tài chính, bắt phụ thuộc vào tài chính
đối với thành viên trong gia đình.Theo nghị định 110/2009/NĐ-CP ngày 10-
12-2009 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực
17
phòng, chống bạo lực gia đình có quy định một số hành vi về bạo lực kinh tế
trong gia đình như sau:
- Không cho thành viên trong gia đình sử dụng tài sản chung vào mục đích
chính đáng;
- Kiểm soát chặt chẽ nguồn tài chính của thành viên gia đình hoặc nguồn
tài chính chung của gia đình nhằm tạo cho thành viên gia đình sự phụ thuộc về
tài chính;
- Buộc thành viên gia đình đóng góp tài chính vượt quá khả năng của họ;
- Đập phá tài sản riêng của mình nhằm gây áp lực về tâm lý đối với thành
viên gia đình;
- Có hành vi cố ý làm hư hỏng tài sản riêng của thành viên gia đình hoặc tài
sản chung của gia đình;
- Chiếm đoạt tài sản riêng của thành viên gia đình;
- Chiếm đoạt tài sản chung của gia đình để sử dụng vào mục đích cá nhân;
- Ép buộc thành viên gia đình lao động quá sức hoặc làm công việc nặng
nhọc, nguy hiểm, tiếp xúc với chất độc hại hoặc làm những công việc khác trái
với quy định của pháp luật về lao động;
- Ép buộc thành viên trong gia đình đi ăn xin hoặc lang thang kiếm sống;
Bạo lực về kinh tế cũng là một trong những loại hình bạo lực gây nhiều
sức ép cho phụ nữ, đặc biệt là sức ép về mặt tinh thần, khiến cho họ luôn luôn
rơi vào tình trạng căng thẳng và mệt mỏi. Như vậy, chúng ta có thể thấy bạo
hành gia đình là con sóng ngầm có sức tàn phá rất lớn hạnh phúc của mỗi gia
đình, nó để lại rất nhiều hậu quả, mà dễ thấy nhất là hạnh phúc gia đình bị đổ
vỡ, con cái thiếu sự quan tâm dễ xa ngã vào các tệ nạn xã hội...Qua những hình
thức bạo lực gia đình nói trên chúng ta đã có những cách nhìn khách quan về
đặc điểm cũng như tính nguy hiểm của từng loại hình. Từ đó cần phải có những
giải pháp nhằm đấu tranh chống lại nạn bạo lực gia đình đối với phụ nữ đang
ngày một phát triển trong giai đoạn hiện nay.
18
1.3. Quy định của một số nước trên thế giới về phòng chống bạo lực gia
đình đối với phụ nữ
Bạo lực gia đình đối với phụ nữ là một vấn đề phổ biến trên tất cả các quốc
gia trên toàn thế giới, ảnh hưởng tới sự an toàn, lành mạnh của cộng đồng và trật
tự xã hội. Hiện nay, hầu hết các quốc gia đều có các văn bản quy phạm pháp luật
hình sự hoặc hành chính để xử phạt các hành vi bạo lực, trong đó bao gồm cả
bạo lực trong gia đình đối với phụ nữ. Tuy nhiên, bạo lực gia đình đối với phụ
nữ có một số đặc thù mà các thủ tục hành chính, dân sự, hình sự không giải
quyết được như: xảy ra trong bối cảnh riêng tư, mang tính liên tục, nạn nhân
không muốn nhờ cậy sự giúp đỡ từ các cơ quan chức năng vì xấu hổ, sợ bị miệt
thị, vì phụ thuộc vào người có hành vi bạo lực…
Trên thực tế hiện nay thì Châu Á, Châu Phi hiện đang được đánh giá là khu
vực đứng đầu thế giới về tỷ lệ phụ nữ là nạn nhân của bạo lực gia đình. Theo số
liệu đưa ra tại hội thảo khu vực ASEAN về nhạy cảm giới và các dịch vụ hỗ trợ
ngăn ngừa bạo lực gia đình đối với phụ nữ vào tháng 11 năm 2006 tại Thái Lan,
riêng khu vực ASEAN có 56% phụ nữ là nạn nhân của các vụ đánh đập gây
thương tích hay các vụ án mạng và 33% phụ nữ thường xuyên bị hãm hiếp hay
đe doạ tình dục. Đứng trước thực trạng nhức nhối trên, các quốc gia Châu Á, đặc
biệt là các nước khu vực ASEAN đã có những biện pháp tích cực để giải quyết
tình hình, giúp người phụ nữ khắc phục những hậu quả nặng nề của nạn bạo lực.
Đây là những bài học kinh nghiệm quý báu cho các quốc gia khác. Để công tác
phòng, chống vi phạm pháp luật phòng chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ
đạt được hiệu quả cao trong thời gian tới, Việt Nam chúng ta nên học hỏi và tiếp
thu kinh nghiệm của các nước khác trong lĩnh vực này.
Chính vì vậy, nhiều quốc gia đã ban hành văn bản pháp luật riêng về bạo
lực gia đình với mục đích giải quyết có hiệu quả tình trạng bạo lực gia đình đối
với phụ nữ, chỉnh sửa các thủ tục hành chính và hình sự cho phù hợp với những
nhu cầu đặc biệt của các nạn nhân bạo lực gia đình đối với phụ nữ. Cụ thể:
19
1.3.1. Phòng, chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ tại Nhật Bản
Nhật Bản là một quốc gia ở Châu Á có sự phát triển mạnh mẽ về mọi mặt
và là nước có nhiều kinh nghiệm trong việc PCBLGĐ đối với phụ nữ. Điều quan
trọng nhất là đến nay Nhật Bản đã xây dựng được khung pháp lý về PCBLGĐ
khá hoàn thiện. Nhiều đạo luật quan trọng liên quan đến PCBLGĐ đã được
thông qua như: Luật về phúc lợi cho trẻ em (1947); Luật về đảm bảo cuộc sống
(1950) ; Luật về phúc lợi xã hội (1951); Luật về phúc lợi cho bà mẹ, trẻ em và
người goá (1964); Luật về cảnh sát; Bộ luật Hình sự; Luật về phòng, ngừa bạo
lực hôn nhân và bảo vệ nạn nhân năm 2001 và sửa đổi năm 2004 là đạo luật trụ
cột, làm cơ sở quan trọng để PCBLGĐ. Đạo luật này đã quy định một cách chặt
chẽ các vấn đề về bạo lực gia đình như: khái niệm về bạo lực gia đình; xử lý
người có hành vi vi phạm pháp luật phòng, ngừa bạo lực hôn nhân; quyền của
nạn nhân bạo lực gia đình; trách nhiệm của Chính phủ và chính quyền địa
phương; chính sách và định hướng cơ bản của công tác PCBLGĐ...
Chính vì có hệ thống pháp luật khá hoàn thiện, trách nhiệm pháp lý nghiêm
khắc được áp dụng đối với chủ thể có hành vi vi phạm pháp luật phòng, chống
bạo lực hôn nhân, nên nhận thức của người Nhật Bản về bạo lực gia đình rất
cao, do vậy họ hiểu và thực hiện khá tốt PCBLGĐ; tình trạng vi phạm pháp luật
PCBLGĐ, bạo lực hôn nhân nói chung, bạo lực gia đình đối với phụ nữ ngày
một giảm đi đáng kể.
Cùng với hệ thống pháp luật khá hoàn thiện, Chính phủ Nhật Bản còn
thành lập các Trung tâm tư vấn và hỗ trợ về bạo lực hôn nhân, các Tòa án
HNGĐ. Các trung tâm và Tòa án hôn nhân gia đình này có nhiệm vụ: 1. Tư vấn
cho các nạn nhân về các vấn đề ảnh hưởng đến cuộc sống của họ hoặc giới thiệu
họ với các nhân viên tư vấn phụ nữ hoặc các tổ chức tư vấn thích hợp; 2. Tư vấn
hướng dẫn về y tế, tâm lý hoặc các vấn đề khác giúp họ phục hồi về tinh thần và
thể chất; 3. Cung cấp các biện pháp bảo vệ tạm thời cho nạn nhân và cả các
thành viên khác trong gia đình trong trường hợp có các thành viên khác trong
gia đình; 4. Cung cấp thông tin, tư vấn và thông tin cho các tổ chức liên quan,
20
cùng với các hình thức hỗ trợ khác có liên quan; 5. Cung cấp thông tin, tư vấn,
hợp tác, liên kết với các tổ chức liên quan, cũng như các hình thức trợ giúp khác
liên quan đến các cơ sở mà nạn nhân có thể sống và được bảo vệ...
Các trung tâm tư vấn và hỗ trợ về bạo lực hôn nhân đã làm rất tốt nhiệm vụ
của mình và đây chính là một biện pháp rất hữu hiệu nhằm giúp người phụ nữ
tránh được bạo lực hôn nhân, khắc phục được những hậu quả nặng nề do bạo lực
gây ra, đem lại niềm tin trong cuộc sống cho những người phụ nữ. Như vậy, với
một hệ thống pháp luật hoàn thiện cùng với các biện pháp tích cực trong đó có
biện pháp thành lập các trung tâm tư vấn và hỗ trợ về bạo lực hôn nhân, Nhật
Bản là một trong các nước ở khu vực Châu Á đạt được kết quả cao trong việc
PCBLGĐ đối với phu nữ. Những kinh nghiệm quý báu này là bài học quý giá
cho các nước khác trong đó có Việt Nam trong việc ngăn chặn và đẩy lùi tình
trạng vi phạm pháp luật PCBLGĐ đối với phụ nữ.
1.3.2. Phòng, chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ tại Đông Timo
Luật Chống bạo lực gia đình của Đông Timo có cách tiếp cận khá rộng đối
với việc phòng ngừa bạo lực gia đình. Theo đó, để phòng ngừa bạo lực gia đình
đối với phụ nữ xảy ra, Nhà nước phải:
Một là, tạo điều kiện để xây dựng một chương trình giáo dục về quyền con
người cho cả trường tiểu học lẫn trung học;
Hai là, tạo điều kiện để biên soạn một chương trình giáo dục về quyền con
người và các hình thức về bạo lực gia đình cho cảnh sát, công tố viên, thẩm
phán, luật sư tham gia giải quyết những vụ việc bạo lực gia đình;
Ba là, cung cấp thông tin cho quần chúng, những người lãnh đạo theo truyền
thống và trong cộng đồng về quyền con người, về bạo lực gia đình – một sự vi phạm
quyền con người;
Bốn là, các cơ quan chính phủ, các tổ chức phi chính phủ và cộng đồng
cùng nhau phối hợp nỗ lực phòng ngừa bạo lực gia đình và giải quyết những yếu
tố kinh tế - xã hội làm tăng nguy cơ bạo lực gia đình.
21
Do sự nhạy cảm và phức tạp của các mối quan hệ gia đình, việc sử dụng
các biện pháp để phòng ngừa hành vi bạo lực gia đình đối với phụ nữ trước khi
nó xảy ra và để lại những hậu quả đáng tiếc là rất cần thiết và quan trọng. Tuy
nhiên, việc này lại đòi hỏi một quá trình khó khăn và phức tạp. Những quy định
của Đông Timo về vấn này khá cụ thể, hướng tới những chủ thể quan trọng có
khả năng đem lại hiệu quả cao, rất cần được nghiên cứu và học hỏi.
Là một quốc gia còn rất trẻ nhưng Đông-ti-mo lại đặc biệt quan tâm đến
vấn đề PCBLGĐ đối với phụ nữ. Đông-ti-mo đã có rất nhiều hoạt động cũng
như kinh nghiệm PCBLGĐ từ đó hạn chế được tình trạng vi phạm pháp luật
PCBLGĐ đối với phụ nữ.
Đông-ti-mo có một hệ thống pháp luật về PCBLGĐ với các đạo luật cơ bản
như: Luật Hôn nhân gia đình; Luật Dân sự; Bộ luật hình sự; Luật chống bạo lực
gia đình và nhiều văn bản pháp luật khác. Bên cạnh hệ thống pháp luật, Đông-ti-
mo còn có nhiều sáng kiến và kinh nghiệm trong PCBLGĐ. Đông-ti-mo đã
thành lập hệ thống thông tin cho công tác PCBLGĐ. Theo hệ thống thông tin
này, mỗi huyện có một đường dây điện thoại chuyên sử dụng cho các vụ bạo lực
gia đình. Ngoài ra, ở nước này còn có một hệ thống Radio khẩn cấp được đặt ở
những nơi cần thiết để các cơ quan chức năng có thể tiếp cận một cách nhanh
nhất với các nạn nhân và thủ phạm bạo lực gia đình. Với các biện pháp như vậy,
công tác PCBLGĐ sẽ đạt được hiệu quả, các vụ bạo lực gia đình sẽ được phát
hiện kịp thời đồng thời các chủ thể sẽ khác sẽ sợ không thực hiện hành vi bạo
lực gia đình vì có nguy cơ bị phát hiện. Các chủ thể sẽ tuân thủ pháp luật một
cách nghiêm chỉnh.
1.3.3. Phòng, chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ tại Trung Quốc
Đây là một quốc gia phát triển mạnh về mọi mặt ở Châu Á, Trung Quốc là
quốc gia có dân số đông nhất thế giới (1,4 tỉ người). Trung Quốc có, nhiều kinh
nghiệm trong việc PCBLGĐ đối với phụ nữ. Mặc dù bị ảnh hưởng trong một
thời gian dài tư tưởng trọng nam khinh nữ, người phụ nữ không có vai trò gì
trong xã hội, nhưng cho đến nay, Trung Quốc đã đạt được kết quả khá cao trong
22
lĩnh vực PCBLGĐ đối với phụ nữ. Có được kết quả tốt như vậy là do Trung
Quốc đã xây dựng được khung pháp lý về PCBLGĐ khá hoàn chỉnh. Mặc dù
Trung Quốc chưa có văn bản pháp luật định nghĩa thế nào là bạo hành gia đình
nhưng nhiều đạo luật liên quan đến bạo lực gia đình đã được Trung Quốc thông
qua như: Luật bảo vệ quyền và lợi ích của phụ nữ; Luật bảo vệ sức khoẻ bà mẹ
và trẻ em; Luật hình sự; Luật hôn nhân và gia đình cùng nhiều văn bản pháp luật
khác. Đặc biệt, từ sau khi là nước chủ nhà Hội nghị thế giới lần thứ tư của LHQ
năm 1995, xã hội Trung Quốc đã có sự thay đổi về nhận thức về bạo lực gia
đình. Đây là một mốc đánh dấu sự thay đổi quan trọng của Trung Quốc trong
việc PCBLGĐ đối với phụ nữ. Rất nhiều đạo luật liên quan đến bạo lực gia đình
đã được bổ sung, sửa đổi. Đến nay, Trung Quốc đã có hơn 10 tỉnh, thành phố và
khu tự trị ban hành các Nghị định điều chỉnh nạn bạo lực gia đình trong phạm
vi địa phương mình nhằm thực hiện có hiệu quả việc PCBLGĐ. Như vậy việc
PCBLGĐ đối với phụ nữ ở Trung Quốc là vấn đề được các cấp chính quyền và
cả xã hội đặc biệt quan tâm, chung tay, góp sức nhằm đẩy lùi nạn bạo lực gia
đình cũng như tình trạng vi phạm pháp luật PCBLGĐ.
Bên cạnh hệ thống pháp luật, Trung Quốc đặc biệt chú trọng tới công tác
tuyên truyền về PCBLGĐ. Một biện pháp rất tích cực là Hội Liên hiệp phụ nữ
Trung Quốc đã thiết lập một đường dây nóng, treo và dán áp phích trên khắp các
đường phố để kêu gọi những nạn nhân của bạo lực gia đình đến trình báo với
các cơ quan chức năng, khuyến khích nạn nhân bạo lực gia đình tự bảo vệ mình
trong khuôn khổ pháp luật. Đặc biệt đài truyền hình Trung Quốc cũng mở một
chương trình truyền hình riêng chuyên cung cấp thông tin và tuyên truyền nâng
cao hiểu biết của người dân về nạn bạo lực gia đình. Mục đích của chương trình
là tuyên truyền những kiến thức cơ bản để giúp người phụ nữ tự bảo vệ mình
khỏi bạo lực gia đình thông qua các tình huống được thể hiện dưới các hình thức
các vở kịch. Biện pháp này có tác dụng rất lớn bởi vì muốn PCBLGĐ, vi phạm
pháp luật PCBLGĐ trước hết cần nâng cao nhận thức và trình độ pháp luật của
người dân trong lĩnh vực này. Khi họ có kiến thức về pháp luật PCBLGĐ, họ sẽ
23
không vi phạm đồng thời chủ động phát hiện, tố cáo các hành vi vi phạm pháp
luật của các chủ thể khác.
Cũng là việc phát huy sức mạnh của công tác tuyên truyền, hiện nay Trung
Quốc đang thông qua giới báo chí và các phương tiện truyền thông để đẩy mạnh
công tác tuyên truyền về PCBLGĐ đối với phụ nữ. Tờ Trung Quốc Nhật báo đã
tổ chức tập huấn về vai trò của phương tiện thông tin đại chúng đối với việc
PCBLGĐ. Các chủ đề chính được thảo luận trong chương trình tập huấn là nhận
thức về giới, bạo lực gia đình và vai trò của báo chí trong việc tìm hiểu, can thiệp
và ngăn chặn bạo lực xảy ra. Bên cạnh đó, Trung Quốc còn thành lập các Trung
tâm dịch vụ pháp lý phục vụ cho hoạt động PCBLGĐ như Trung tâm tư vấn tâm lý
phụ nữ. Hoạt động của các trung tâm này cũng nhằm nâng cao nhận thức của chị
em phụ nữ để họ biết cách bảo vệ mình trước tình trạng bạo lực gia đình.
Như vậy, mặc dù những năm trước đây, rất nhiều phụ nữ Trung Quốc phải
chịu đựng nạn bạo lực gia đình và tình trạng vi phạm pháp luật PCBLGĐ còn
xảy ra nhiều nhưng với sự thay đổi về nhận thức từ năm 1995, cùng với sự nỗ
lực của toàn Đảng, toàn dân Trung Quốc, việc PCBLGĐ đã đạt được nhiều kết
quả tốt đẹp, tình trạng vi phạm pháp luật trong lĩnh vực PCBLGĐ đã giảm đáng
kể mà một trong những biện pháp hữu hiệu là đẩy mạnh công tác tuyên truyền
nhằm nâng cao nhận thức cho mọi người dân trong xã hội.
1.3.4. Phòng, chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ tại Philipphin
Phi - lip -pin là một quốc gia đặc biệt quan tâm đến vấn đề PCBLGĐ. Yếu
tố quyết định đến việc PCBLGĐ hiệu quả chính là Phi-lip-pin đã xây dựng được
một hệ thống pháp luật và quy định khá đầy đủ về PCBLGĐ đối với phụ nữ.
Theo pháp luật của Philipin thì đối tượng của nạn bạo lực gia đình không chỉ là
phụ nữ mà luôn gắn liền với một đối tượng yếu thế của xã hội là trẻ em. Các văn
bản pháp luật quan trọng trong lĩnh vực này như: Luật Gia đình; Luật hình sự và
đặc biệt là Luật chống bạo hành phụ nữ và trẻ em năm 2004... Luật Chống bạo
hành phụ nữ và trẻ em được Nghị viện Phi-lip-pin thông qua tại kỳ họp thứ 3,
khoá 12, năm 2004 đã chỉ ra một cách chi tiết thế nào là "bạo hành đối với phụ
24
nữ và trẻ em"; các hình thức bạo hành như: bạo hành về thể chất, bạo hành tình
dục, bạo hành tâm lý và lạm dụng kinh tế... (điều 3); quy định về các hành vi
bạo hành với phụ nữ và trẻ em (điều 5). Luật còn quy định các quyền của nạn
nhân bạo hành gia đình của phụ nữ và trẻ em như: được đối xử với sự tôn trọng
về phẩm giá; được trợ giúp miễn phí; được hưởng các dịch vụ hỗ trợ của Bộ
phúc lợi và các cơ quan địa phương; được hưởng mọi sự bồi thường pháp lý và
hỗ trợ theo quy định của bộ luật gia đình; được thông báo về các quyền và dịch
vụ dành cho mình bao gồm cả quyền được nộp đơn đề nghị ra quyết định bảo
vệ; quyền được tạm nghỉ việc...Như vậy, người phụ nữ khi bị là nạn nhân của
bạo lực gia đình, họ có rất nhiều quyền và có nhiều cơ chế đảm bảo thực hiện
quyền này. Điều này thể hiện sự quan tâm đặc biệt của nhà nước Phi-lip-pin đối
với nạn nhân bạo lực gia đình cũng như đối với vấn đề bạo lực gia đình. Để
công tác PCBLGĐ có hiệu quả, Luật Chống bạo hành phụ nữ và trẻ em của Phi-
lip-pin còn quy định rõ trách nhiệm của các cơ quan nhà nước nhất là cơ quan
công an và cán bộ y tế trong việc giúp đỡ các nạn nhân cũng như xử lý các vụ
vi phạm pháp luật chống bạo hành gia đình đối với phụ nữ và trẻ em. Họ phải
giúp đỡ nạn nhân về mọi mặt và dưới nhiều hình thức, cả hỗ trợ ngay tức thì
cũng như các biện pháp hỗ trợ lâu dài.
Điều đặc biệt, Luật Chống bạo hành phụ nữ và trẻ em đã quy định về việc
hình thành cơ quan có trách nhiệm trong việc chống bạo hành gia đình đối với
phụ nữ và trẻ em. Tại điều 39 của Luật quy định việc hình thành Hội đồng liên
ngành về chống bạo hành với phụ nữ và trẻ em gồm: 1. Cơ quan phúc lợi và
phát triển xã hội; Uỷ ban quốc gia về quyền của phụ nữ; 3. Uỷ ban dịch vụ dân
sự; 4. Hội đồng chăm sóc trẻ em; 5. Bộ Tư pháp; 6. Bộ Nội vụ và chính quyền
địa phương; 7. Cảnh sát quốc gia; 8. Bộ Y tế; 9. Bộ Giáo dục; 10. Bộ Lao động
và việc làm; 11. Cục điều tra quốc gia . Các cơ quan này có nhiệm vụ đưa ra các
chương trình và dự án ngăn chặn nạn bạo hành theo thẩm quyền của từng cơ
quan, đồng thời thực hiện các chương trình nâng cao năng lực cho nhân viên của
họ thích ứng nhanh hơn với nhu cầu của các đối tượng mà họ phục vụ. Hội đồng
25
có nhiệm vụ sẽ giám sát việc thực hiện công tác của các cơ quan nói trên.
Tại Phi-lip-pin, theo quy định của Luật Chống bạo hành phụ nữ và trẻ em,
một Uỷ ban liên ngành về bạo lực đối với phụ nữ và trẻ em đẫ được thành lập.
ủy ban liên ngành này được tổ chức và hoạt động nhằm đáp ứng một cách nhanh
nhất các biện pháp bảo đảm cho việc phát hiện kịp thời, xử lý nghiêm minh
những hành vi vi phạm pháp luật chống bạo hành phụ nữ và trẻ em, đồng thời
ngăn chặn tối đa những thiệt hại về tính mạng, tinh thần và sức khỏe cũng như
các thiệt hại khác của nạn nhân nữ.
1.3.5. Phòng, chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ tại Thái Lan
Một trong những nước khác ở Đông Nam Á có nhiều kinh nghiệm trong
việc PCBLGĐ là Thái Lan. Cùng với việc xây dựng một hệ thống pháp luật
hoàn thiện để điều chỉnh hết và kịp thời các hành vi bạo lực gia đình, quy định
trách nhiệm, việc xử lý các vụ vi phạm pháp luật bạo lực gia đình, Thái Lan còn
sử dụng các biện pháp rất hiệu quả. Một trong những biện pháp đó là xây dựng
mô hình trung tâm hỗ trợ các nạn nhân của bạo lực gia đình đối với phụ nữ
(OSCC). Trung tâm này có chức năng điều trị, tư vấn về luật pháp và tâm lý cho
các nạn nhân này. Tại Thái Lan, Trung tâm OSCC được thành lập lần đầu tiên ở
các Bệnh viện từ năm 1998, sau đó mở rộng dần từ Trung ương xuống cấp
huyện. Đến năm 2005, đã có 109 trung tâm được thành lập trên khắp đất nước.
Đây là thành công lớn của Thái Lan trong việc kết hợp thêm chức năng tư vấn
và hỗ trợ các nạn nhân của bạo lực gia đình cho các cơ sở y tế.
1.4. Quy định của pháp luật Việt Nam về phòng, chống bạo lực gia đình
đối với phụ nữ
Phòng, chống bạo lực gia đình trong đó có PCBLGĐ đối với phụ nữ đã
được đề cập trong một số văn bản pháp luật của nước ta như: Hiến pháp 1992,
Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, Bộ luật Dân sự năm 2005, Bộ luật Tố
tụng Dân sự, Bộ luật Hình sự năm 1999, Bộ luật Tố tụng Hình sự 2003, Luật
Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính, Pháp
lệnh người cao tuổi.... Những văn bản pháp luật trên đã có rất nhiều quy định
26
về phòng, chống bạo lực gia đình, góp phần quan trọng trong bảo vệ người phụ
nữ khỏi bạo lực gia đình. Để công tác PCBLGĐ có hiệu quả hơn nữa, ngày 21
tháng 11 năm 2007, Quốc hội khoá XII của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam đã thông qua Luật Phòng, chống bạo lực gia đình. Luật Phòng, chống
bạo lực gia đình ra đời là một bước tiến tích cực, có ý nghĩa rất lớn để chúng ta
tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật về PCBLGĐ, bảo vệ quyền con người,
bảo vệ người phụ nữ, tiếp tục sự nghiệp giải phóng người phụ nữ, xây dựng nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.
Luật Phòng, chống bạo lực gia đình lần đầu tiên ra đời như tiếng chuông lớn
cảnh tỉnh những ai đang có hành vi bạo lực gia đình đối với phụ nữ, gửi đến tất
cả các chủ thể trong xã hội một thông điệp rõ ràng rằng bạo lực gia đình nói
chung và bạo lực gia đình đối với phụ nữ là trái với đạo đức, đi ngược lại truyền
thống đạo đức tốt đẹp của dân tộc, trái với ý chí chung của xã hội, là vi phạm
pháp luật, vi phạm những chuẩn mực chung của xã hội và phải chịu sự trừng
phạt của xã hội, của pháp luật.
Cụ thể hoá các quy định của Hiến pháp 1992, nội dung PCBLGĐ đối với phụ
nữ được quy định trong nhiều văn bản pháp luật khác. Tiêu biểu là những quy định
trong Bộ luật Hình sự năm 1999 là một trong những văn bản đó. Bộ luật Hình sự là
căn cứ để xác định hành vi bạo lực gia đình nào là hành vi phạm tội. Điều 130, Bộ
luật Hình sự năm 1999 quy định tội xâm phạm quyền bình đẳng của phụ nữ: "người
nào dùng vũ lực hoặc có hành vi nghiêm trọng khác cản trở phụ nữ tham gia hoạt
động chính trị, kinh tế, khoa học, văn hoá, xã hội, thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không
giam giữ đến một năm hoặc bị phạt tù từ ba tháng đến một năm". Cùng với Bộ luật
Hình sự, Luật Tổ chức Chính phủ cũng quy định nhiệm vụ, quyền hạn của Chính
phủ: "thực hiện chính sách và biện pháp bảo đảm quyền bình đẳng nam nữ về mọi
mặt chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội và gia đình; bảo vệ, chăm sóc bà mẹ và thực
hiện quyền trẻ em; giúp đỡ người già, người khuyết tật và trẻ em có hoàn cảnh khó
khăn đặc biệt; có biện pháp ngăn ngừa và chống mọi hành vi bạo lực đối với phụ nữ
27
và trẻ em, xúc phạm nhân phẩm phụ nữ và trẻ em". (Khoản 4, điều 12, Luật Tổ chức
Chính phủ).
Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000 là một trong những văn
bản pháp luật quan trọng trong việc xây dựng, hoàn thiện và bảo vệ chế độ hôn
nhân và gia đình tiến bộ, xây dựng chuẩn mực pháp lý cho cách ứng xử của các
thành viên trong gia đình, kế thừa và phát huy truyền thống đạo đức tốt đẹp của
gia đình Việt Nam nhằm xây dựng gia đình ấm no, bình đẳng, tiến bộ, hạnh
phúc, bền vững. Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam còn là phương tiện hữu
hiệu trong việc PCBLGĐ. Luật đã có nhiều điều khoản quy định trực tiếp và
gián tiếp đến việc PCBLGĐ. Tuy nhiên, xét một cách tổng quát, những quy định
đó vẫn còn sơ sài, tản mạn ở nhiều văn bản khác nhau, thiếu tính cụ thể và chưa
có những quy định pháp lý đặc thù.
Ngoài ra, Bộ luật hình sự Việt Nam đã hình sự hoá nhiều hành vi bạo lực
gia đình, quy định thành nhiều tội phạm liên quan đến bạo lực gia đình. Tuy
nhiên, những điều luật đó mới chỉ quy định gián tiếp về hành vi bạo lực gia
đình, chưa có nhiều quy định trực tiếp về PCBLGĐ trong đó có PCBLGĐ đối
với phụ nữ.
1.4.1. Nguyên tắc phòng, chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ
Theo quy định của Luật Phòng, chống bạo lực gia đình, nguyên tắc của
phòng, chống bạo lực gia đình bao gồm:
Kết hợp và thực hiện đồng bộ các biện pháp phòng, chống bạo lực gia
đình, lấy phòng ngừa là chính, chú trọng công tác tuyên truyền, giáo dục về gia
đình, tư vấn, hoà giải phù hợp với truyền thống văn hoá, phong tục, tập quán tốt
đẹp của dân tộc Việt Nam.
Đây là nguyên tắc chủ đạo trong phòng, chống bạo lực gia đình đối với phụ
nữ bởi nhiều lý do. Xuất phát từ thực tế quan hệ trong gia đình thường mang
tính khép kín, với các thành viên gia đình cũng như những người xung quanh,
việc trong gia đình thì người ngoài ít có cơ hội xen vào. Vì thế, những vụ việc
bạo hành gia đình đối với phụ nữ thường khó phát hiện, khi bị phát hiện cũng
28
khó xử lý bởi tâm lý e ngại của nạn nhân là phụ nữ và cả những người biết
chuyện, và thậm chí nếu xử lý rồi thì khả năng tái diễn cũng rất cao vì để tìm ra
biện pháp ngăn chặn phù hợp là không dễ. Các quy định pháp luật khó vươn tới
từng gia đình, bởi nhận thức của người dân về vấn đề này còn hạn chế, sự can
thiệp thô bạo của pháp luật có thể dẫn tới phá hủy các mối quan hệ giữa các
thành viên gia đình. Chính vì vậy, công tác tuyên truyền, giáo dục về gia đình,
tư vấn, hoà giải trong vấn đề này là rất quan trọng, góp phần định hướng hành vi
của mỗi người: nạn nhân được trang bị kiến thức để tự bảo vệ; người có thể có
hành vi bạo lực thì nhận thức được tính chất, hậu quả của hành vi để tự kiềm chế
tốt hơn; những người xung quanh biết được trách nhiệm tham gia PCBLGĐ và
có ứng xử phù hợp.
Việc tuyên truyền giáo dục nếu kết hợp với truyền thống văn hoá, phong
tục, tập quán tốt đẹp của dân tộc thì sẽ càng được phát huy tốt hơn nữa, bởi vì
người Việt Nam nói chung chịu tác động khá lớn từ những tư tưởng này. Đặc
biệt, ở những nơi mà quan niệm "phép vua thua lệ làng", trình độ dân trí thấp thì
việc giáo dục người dân thông qua các phong tục, tập quán mói có thể phát huy
hiệu quả tốt nhất.
Hành vi bạo lực gia đình được phát hiện, ngăn chặn và xử lý kịp thời theo
quy định của pháp luật.
Đây là một trong những nguyên tắc chung của pháp luật. Riêng trong lĩnh
vực bạo lực gia đình đối với phụ nữ, việc phát hiện, ngăn chặn và xử lý kịp thời
các hành vi càng có ý nghĩa quan trọng, nếu không thì có thể trở thành "thói
quen", được chấp nhận với cả nạn nhân, người vi phạm và những người xung
quanh. Thực tế cho thấy: nếp sống, nếp nghĩ của người Việt Nam nói chung vẫn
cho rằng những hành vi bạo lực trong gia đình đối với phụ nữ là bình thường,
thậm chí đôi khi là cần thiết. Vì thế, những hành vi bạo lực mà luật quy định
thường không được nhìn nhận, từ đó khó phát hiện, và càng khó ngăn chặn, xử
lý. Do đó, quy định về nguyên tắc này là cần thiết nhằm nâng cao ý thức, trách
nhiệm của mọi công dân trong lĩnh vực này.
29
Nạn nhân bạo lực gia đình được bảo vệ, giúp đỡ kịp thời phù hợp với điều
kiện hoàn cảnh của họ và điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước; ưu tiên bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp của trẻ em, người cao tuổi, người tàn tật và phụ nữ.
Giúp đỡ các nạn nhân, bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của họ là điều cần
thiết và đã được pháp luật ghi nhận như một nguyên tắc quan trọng, mọi người
đều phải tuân theo. Như đã phân tích ở trên, những vấn đề về gia đình, trong đó
có bạo lực gia đình thường không nhận được sự quan tâm sâu sắc và đúng đắn
của những người xung quanh, bởi vì họ coi đấy là chuyện riêng, chuyện nội bộ
của mỗi nhà. Từ đó, việc giúp đỡ nạn nhân trở nên hạn chế, nhất là khi họ còn
phải lo sợ sự trả thù của người có hành vi bạo lực. Ngoài ra, việc giúp nạn nhân
như thế nào, bằng những phương tiện gì cũng gây cho họ những lúng túng nhất
định, do đó pháp luật cho phép họ tùy khả năng, tình hình mà đưa ra những xử
sự hợp lý nhất, ưu tiên những đối tượng dễ bị tổn thương như trẻ em, phụ nữ,
người già…
Phát huy vai trò, trách nhiệm của cá nhân, gia đình, cộng đồng, cơ quan,
tổ chức trong phòng, chống bạo lực gia đình. [Điều 3]
Bạo lực gia đình đối với phụ nữ từ lâu đã không còn là vấn đề của mỗi gia
đình mà còn tiềm ẩn nhiều nguy cơ gây mất ổn định xã hội, do đó việc PCBLGĐ
đối với phụ nữ là trách nhiệm chung của cộng đồng chứ không chỉ là của nhà
nước và những người có liên quan. Bên cạnh đó, công tác PCBLGĐ đối với phụ
nữ vốn gặp nhiều khó khăn khi triển khai trên thực tế, nên rất cần sự quan tâm
phối hợp của tất cả các thành viên trong xã hội. Tuy nhiên, hiện nay không có
nhiều chủ thể tích cực tham gia công tác này do nhận thức không đúng tầm quan
trọng, ý nghĩa của nó. Việc quy định nguyên tắc này một lần nữa khẳng định
tầm quan trọng cũng như sự cần thiết của việc phát huy vai trò, trách nhiệm của
cá nhân, gia đình, cộng đồng, cơ quan, tổ chức trong PCBLGĐ đối với phụ nữ.
30
1.4.2. Quyền, nghĩa vụ của các chủ thể trong việc phòng, chống bạo lực gia
đình đối với phụ nữ
1.4.2.1. Quyền, nghĩa vụ của nạn nhân
Quyền và nghĩa vụ của nạn nhân bạo lực gia đình được quy định cụ thể tại
Điều 5, Luật Phòng, chống bạo lực gia đình, bao gồm:
“1. Nạn nhân bạo lực gia đình có các quyền sau đây:
a) Yêu cầu cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền bảo vệ sức khỏe, tính
mạng, nhân phẩm, quyền và lợi ích hợp pháp khác của mình;
b) Yêu cầu cơ quan, người có thẩm quyền áp dụng biện pháp ngăn chặn,
bảo vệ, cấm tiếp xúc theo quy định của Luật này;
c) Được cung cấp dịch vụ y tế, tư vấn tâm lý, pháp luật;
d) Được bố trí nơi tạm lánh, được giữ bí mật về nơi tạm lánh và thông tin
khác theo quy định của Luật này;
đ) Các quyền khác theo quy định của pháp luật.
2. Nạn nhân bạo lực gia đình có nghĩa vụ cung cấp thông tin liên quan đến
bạo lực gia đình cho cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền khi có yêu cầu.”
Nạn nhân trong việc BLGĐ đối với phụ nữ chính là người phụ nữ, những
người đã bị chính người thân của mình gây ra những thương tổn nhất định, rất
cần nhận được sự giúp đỡ của cộng đồng và xã hội. Khi hành vi BLGĐ với phụ
nữ đã xảy ra trong gia đình thì những thành viên gia đình vì những mối liên hệ
với người thực hiện hành vi bạo lực sẽ rất khó có sự can thiệp mạnh mẽ, dứt
khoát cần thiết để bảo vệ nạn nhân. Do đó, nạn nhân cần sự giúp đỡ của các cơ
quan, tổ chức, người có thẩm quyền để bảo vệ sức khỏe, tính mạng, nhân phẩm,
quyền và lợi ích hợp pháp của minh. Việc quy định đây là quyền của nạn nhân,
tức là nghĩa vụ của các chủ thể khác phải thực hiện là hoàn toàn đúng đắn. Bởi
vì thực tế cho thấy ở rất nhiều nơi, việc can thiệp bảo vệ phụ nữ trong nạn bạo
lực gia đình còn rất e dè vì quan niệm đấy là “chuyện riêng”, là vấn đề tế nhị của
các gia đình.
31
1.4.2.2. Quyền và nghĩa vụ của người có hành vi bạo lực gia đình đối với
phụ nữ
Người có hành vi BLGĐ đối với phụ nữ là người đã gây ra những tổn hại
hoặc có khả năng gây tổn hại cho thành viên khác trong gia đình. Trong lĩnh vực
PCBLGĐ, nghĩa vụ của họ được ghi nhận ở Điều 4, Luật Phòng, chống bạo lực
gia đình:
“1. Tôn trọng sự can thiệp hợp pháp của cộng đồng; chấm dứt ngay hành vi
bạo lực.
2. Chấp hành quyết định của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền.
3. Kịp thời đưa nạn nhân đi cấp cứu, điều trị; chăm sóc nạn nhân bạo lực
gia đình, trừ trường hợp nạn nhân từ chối.
4. Bồi thường thiệt hại cho nạn nhân bạo lực gia đình khi có yêu cầu và
theo quy định của pháp luật.”
Trước hết, khi thực hiện hành vi bạo lực gia đình đối với phụ nữ và bị phát
hiện, người có hành vi bạo lực gia đình đối với phụ nữ phải tôn trọng sự can
thiệp hợp pháp của cộng đồng; chấm dứt ngay hành vi bạo lực. Cộng đồng ở đây
là chỉ chung những người biết được về hành vi, có thể là thành viên khác trong
gia đình, hành xóm, tổ dân phố, người chứng kiến… Sự can thiệp ở đây phải là
can thiệp hợp pháp, tức là chỉ được thực hiện những điều pháp luật cho phép
(buộc chấm dứt hành vi, cấp cứu nạn nhân…). Mọi sự can thiệp trái pháp luật
(sử dụng vũ lực với người có hành vi bạo lực gia đình đối với phụ nữ, tiếp tay
cho hành vi bạo lực…) đều sẽ bị xử lý theo quy định của pháp luật. Tôn trọng sự
can thiệp nghĩa là người có hành vi bạo lực gia đình đối với phụ nữ phải lắng
nghe, thực hiện theo những yêu cầu chính đáng của cộng đồng, không được có
thái độ hung hãn, thù địch, chống đối hay có ý định trả thù sự can thiệp đó.
Chấp hành quyết định của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền cũng là nghĩa vụ
của người có hành vi bạo lực gia đình đối với phụ nữ. Trong lĩnh vực phòng,
chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ, những chủ thể có thẩm quyền có thể đưa
ra những chế tài như: góp ý, phê bình trong cộng đồng dân cư; cấm tiếp xúc; áp
32
dụng các biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn… Việc bị xử lý hành vi bạo
lực gia đình vốn không quen thuộc với người Việt Nam, vì rất nhiều người vẫn
nghĩ đó là quyền của họ. Do đó, quy định người có hành vi bạo lực có nghĩa vụ
chấp hành quyết định của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền là cần thiết để tạo ra
cơ sở pháp lý mạnh mẽ, buộc chủ thể phải thực hiện, đảm bảo hiệu quả của công
tác PCBLGĐ đối với phụ nữ.
Với những trường hợp nạn nhân bị tổn thương về thể chất hoặc tinh thần,
cần tới sự can thiệp của y tế thì người thực hiện hành bạo lực phải kịp thời đưa
nạn nhân đi cấp cứu, điều trị; chăm sóc nạn nhân bạo lực gia đình, trừ trường
hợp nạn nhân từ chối. Đây tưởng chừng là điều hiển nhiên, là ứng xử bắt buộc
của các thành viên gia đình đối với nhau, nhưng lại là điều rất khó thực hiện khi
một bên là chủ thể, một bên là nạn nhân của hành vi bạo lực. Người thực hiện
hành vi khi đã nhẫn tâm ra tay thì rất khó có chuyện thương xót, lo lắng cho nạn
nhân mà đưa họ đi chữa trị, chăm sóc; hoặc có khi hành vi là bột phát, họ nhận
thấy sai lầm của mình nhưng do sợ bị phát hiện, sợ phải gánh trách nhiệm nên
không dám đưa nạn nhân tới cơ sở chữa trị. Chính vì vậy, pháp luật cần quy
định đây là nghĩa vụ, bắt buộc họ phải thực hiện để đảm bảo quyền lợi về sức
khỏe cho nạn nhân. Trong trường hợp nạn nhân từ chối sự chăm sóc của người
đã gây tổn thương cho mình, điều này là hoàn toàn phù hợp về tâm lý, thì người
có hành vi bạo lực cũng phải tôn trọng và thực hiện điều đó.
Luật Phòng, chống bạo lực gia đình không nhắc tới quyền mà chỉ quy định
nghĩa vụ của người có hành vi bạo lực gia đình nói chung và bạo lực gia đình
đối với phụ nữ nói riêng. Điều này trước hết có lẽ bởi vì những người này đã
thực hiện hành vi vi phạm pháp luật, nên họ phải chịu những trách nhiệm nhất
định và không được hưởng sự bảo vệ của pháp luật trong lĩnh vực này.
1.4.3. Trách nhiệm của cá nhân, gia đình và các cơ quan, tổ chức trong
phòng, chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ
1.4.3.1. Trách nhiệm của cá nhân, gia đình
Điều 32, Luật Phòng, chống bạo lực gia đình quy định về trách nhiệm gia
đình và các thành viên gia đình trong phòng, chống bạo lực gia đình:
33
1. Giáo dục, nhắc nhở thành viên gia đình thực hiện quy định của pháp
luật về phòng, chống bạo lực gia đình, hôn nhân và gia đình, bình đẳng giới,
phòng, chống ma túy, mại dâm và các tệ nạn xã hội khác.
2. Hòa giải mâu thuẫn, tranh chấp giữa các thành viên gia đình; can ngăn
người có hành vi bạo lực gia đình chấm dứt hành vi bạo lực; chăm sóc nạn nhân
bạo lực gia đình.
3. Phối hợp với cơ quan, tổ chức và cộng đồng dân cư trong phòng, chống
bạo lực gia đình.
4. Thực hiện các biện pháp khác về phòng, chống bạo lực gia đình theo quy
định của Luật này.
Phải khẳng định rằng gia đình và các thành viên gia đình đóng một vai trò
rất quan trọng trong công tác PCBLGĐ nói chung và PCBLGĐ đối với phụ nữ
nói riêng. Bất cứ thành viên nào trong gia đình cũng có thể có hành vi của bạo
lực gia đình nói chung và bạo lực gia đình đối với phụ nữ nói riêng: mẹ chồng
ruồng rẫy nàng dâu, chị dâu em chồng xích mích với nhau..; đồng thời chính họ
cũng dễ dàng trở thành nạn nhân của bạo lực gia đình đối với phụ nữ. Tuy nhiên,
ở đây chúng chỉ đề cập tới họ dưới khía cạnh là người chứng kiến bạo lực gia
đình đối với phụ nữ. Cùng chung sống dưới một mái nhà, họ là người chịu tác
động trực tiếp của hành vi, có khả năng phát hiện nhanh chóng cũng như tìm
hiểu nguyên nhân, diễn biến, mức độ của hành vi bạo lực; họ cũng là người có
khả năng thành công trong việc giáo dục, thuyết phục người có hành vi bạo lực
thay đổi hành vi bởi vì hai bên có sự hiểu biết về nhau, có mối quan hệ thân thiết
với nhau…
Chính vì vậy, pháp luật đã quy định gia đình và các thành viên gia đình phải có
những trách nhiệm, phải có sự chủ động nhất định trong PCBLGĐ nói chung và
PCBLGĐ đối với phụ nữ nói riêng: giáo dục, nhắc nhở, hòa giải mâu thuẫn giữa các
thành viên, can ngăn người có hành vi bạo lực; chăm sóc nạn nhân... Đây là những
việc họ hoàn toàn có khả năng thực hiện, nhưng việc có thực hiện không, thực hiện
như thế nào thì lại phụ thuộc vào mỗi người, mỗi gia đình, mỗi hoàn cảnh, Nhà nước
34
không quy định đây là nghĩa vụ mà chỉ là trách nhiệm của gia đình và các thành viên.
Tuy nhiên, nếu có những hành vi bị cấm trong PCBLGĐ nói chung và PCBLGĐ đối
với phụ nữ nói riêng thì họ phải chịu trách nhiệm theo quy định của pháp luật. Cụ
thể: một số hành vi bị pháp luật nghiêm cấm, được quy định tại Điều 8, Luật Phòng,
chống bạo lực gia đình:
1. Các hành vi bạo lực gia đình quy định tại Điều 2 của Luật này.
2. Cưỡng bức, kích động, xúi giục, giúp sức người khác thực hiện hành vi
bạo lực gia đình.
3. Sử dụng, truyền bá thông tin, hình ảnh, âm thanh nhằm kích động bạo lực
gia đình.
4. Trả thù, đe doạ trả thù người giúp đỡ nạn nhân bạo lực gia đình, người
phát hiện, báo tin, ngăn chặn hành vi bạo lực gia đình.
5. Cản trở việc phát hiện, khai báo và xử lý hành vi bạo lực gia đình.
6. Lợi dụng hoạt động phòng, chống bạo lực gia đình để trục lợi hoặc thực
hiện hoạt động trái pháp luật.
7. Dung túng, bao che, không xử lý, xử lý không đúng quy định của pháp
luật đối với hành vi bạo lực gia đình.
Với tâm lý hiếu thắng, coi trọng sỹ diện vốn rất phổ biến ở Việt Nam, rất
nhiều hành vi bạo lực gia đình nói chung và bạo lực gia đình đối với phụ nữ nói
riêng xuất phát từ sự xúi giục, kích động, khích bác… của những người xung
quanh. Những hành vi đó có thể chỉ là lời nói đùa vô ý, sự trêu chọc lẫn nhau,
thậm chí là những lời khuyên bảo sai lầm; nhưng đó cũng có thể là ác tâm muốn
phá hủy hạnh phúc gia đình người khác, muốn trục lợi hoặc thực hiện ý đồ xấu
khác. Khi hành vi bạo lực xảy ra, người thực hiện hành vi và những người có
liên quan đương nhiên muốn trốn tránh, cản trở việc phát hiện và xử lý; nếu
không được thì sẽ có tâm lý muốn trả thù người đã phát hiện, khai báo, giúp đỡ
nạn nhân… Trong một số trường hợp, những hành vi này đã nhận được sự dung
túng, bao che của những người có thẩm quyền. Kết quả là bạo lực gia đình
không ngừng gia tăng và tiếp tục để lại những hậu quả nặng nề cho gia đình và
Khóa luận: Phòng chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ, 9 ĐIỂM
Khóa luận: Phòng chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ, 9 ĐIỂM
Khóa luận: Phòng chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ, 9 ĐIỂM
Khóa luận: Phòng chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ, 9 ĐIỂM
Khóa luận: Phòng chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ, 9 ĐIỂM
Khóa luận: Phòng chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ, 9 ĐIỂM
Khóa luận: Phòng chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ, 9 ĐIỂM
Khóa luận: Phòng chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ, 9 ĐIỂM
Khóa luận: Phòng chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ, 9 ĐIỂM
Khóa luận: Phòng chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ, 9 ĐIỂM
Khóa luận: Phòng chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ, 9 ĐIỂM
Khóa luận: Phòng chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ, 9 ĐIỂM
Khóa luận: Phòng chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ, 9 ĐIỂM
Khóa luận: Phòng chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ, 9 ĐIỂM
Khóa luận: Phòng chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ, 9 ĐIỂM
Khóa luận: Phòng chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ, 9 ĐIỂM
Khóa luận: Phòng chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ, 9 ĐIỂM
Khóa luận: Phòng chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ, 9 ĐIỂM
Khóa luận: Phòng chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ, 9 ĐIỂM
Khóa luận: Phòng chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ, 9 ĐIỂM
Khóa luận: Phòng chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ, 9 ĐIỂM
Khóa luận: Phòng chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ, 9 ĐIỂM
Khóa luận: Phòng chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ, 9 ĐIỂM
Khóa luận: Phòng chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ, 9 ĐIỂM
Khóa luận: Phòng chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ, 9 ĐIỂM
Khóa luận: Phòng chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ, 9 ĐIỂM
Khóa luận: Phòng chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ, 9 ĐIỂM
Khóa luận: Phòng chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ, 9 ĐIỂM
Khóa luận: Phòng chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ, 9 ĐIỂM
Khóa luận: Phòng chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ, 9 ĐIỂM
Khóa luận: Phòng chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ, 9 ĐIỂM
Khóa luận: Phòng chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ, 9 ĐIỂM
Khóa luận: Phòng chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ, 9 ĐIỂM
Khóa luận: Phòng chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ, 9 ĐIỂM
Khóa luận: Phòng chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ, 9 ĐIỂM
Khóa luận: Phòng chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ, 9 ĐIỂM
Khóa luận: Phòng chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ, 9 ĐIỂM
Khóa luận: Phòng chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ, 9 ĐIỂM
Khóa luận: Phòng chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ, 9 ĐIỂM
Khóa luận: Phòng chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ, 9 ĐIỂM
Khóa luận: Phòng chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ, 9 ĐIỂM
Khóa luận: Phòng chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ, 9 ĐIỂM
Khóa luận: Phòng chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ, 9 ĐIỂM
Khóa luận: Phòng chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ, 9 ĐIỂM
Khóa luận: Phòng chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ, 9 ĐIỂM
Khóa luận: Phòng chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ, 9 ĐIỂM

More Related Content

What's hot

NHẬT KÝ THỰC TẬP TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
NHẬT KÝ THỰC TẬP TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI NHẬT KÝ THỰC TẬP TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
NHẬT KÝ THỰC TẬP TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI nataliej4
 

What's hot (20)

Báo cáo thực tập pháp luật về giải quyết tranh chấp tài sản khi ly hôn
Báo cáo thực tập pháp luật về giải quyết tranh chấp tài sản khi ly hônBáo cáo thực tập pháp luật về giải quyết tranh chấp tài sản khi ly hôn
Báo cáo thực tập pháp luật về giải quyết tranh chấp tài sản khi ly hôn
 
Luận văn: Bạo lực gia đình ở Hàn Quốc và Việt Nam, HAY, 9đ
Luận văn: Bạo lực gia đình ở Hàn Quốc và Việt Nam, HAY, 9đLuận văn: Bạo lực gia đình ở Hàn Quốc và Việt Nam, HAY, 9đ
Luận văn: Bạo lực gia đình ở Hàn Quốc và Việt Nam, HAY, 9đ
 
Luận văn thạc sĩ: Đương sự trong vụ án dân sự, HAY
Luận văn thạc sĩ: Đương sự trong vụ án dân sự, HAYLuận văn thạc sĩ: Đương sự trong vụ án dân sự, HAY
Luận văn thạc sĩ: Đương sự trong vụ án dân sự, HAY
 
Luận văn: Các tội hiếp dâm theo quy định của Bộ luật hình sự
Luận văn: Các tội hiếp dâm theo quy định của Bộ luật hình sựLuận văn: Các tội hiếp dâm theo quy định của Bộ luật hình sự
Luận văn: Các tội hiếp dâm theo quy định của Bộ luật hình sự
 
Luận văn: Bảo vệ quyền trẻ em trong phòng, chống bạo lực gia đình
Luận văn: Bảo vệ quyền trẻ em trong phòng, chống bạo lực gia đìnhLuận văn: Bảo vệ quyền trẻ em trong phòng, chống bạo lực gia đình
Luận văn: Bảo vệ quyền trẻ em trong phòng, chống bạo lực gia đình
 
Mẫu giấy xác nhận cư trú của bị đơn
Mẫu giấy xác nhận cư trú của bị đơn Mẫu giấy xác nhận cư trú của bị đơn
Mẫu giấy xác nhận cư trú của bị đơn
 
Luận văn thạc sĩ Thỏa thuận thi hành án dân sự theo pháp luật Việt Nam
Luận văn thạc sĩ Thỏa thuận thi hành án dân sự theo pháp luật Việt NamLuận văn thạc sĩ Thỏa thuận thi hành án dân sự theo pháp luật Việt Nam
Luận văn thạc sĩ Thỏa thuận thi hành án dân sự theo pháp luật Việt Nam
 
Luận văn: Các tội xâm phạm nhân phẩm, danh dự của con người
Luận văn: Các tội xâm phạm nhân phẩm, danh dự của con ngườiLuận văn: Các tội xâm phạm nhân phẩm, danh dự của con người
Luận văn: Các tội xâm phạm nhân phẩm, danh dự của con người
 
Luận văn: Bảo đảm quyền trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, HAY
Luận văn: Bảo đảm quyền trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, HAYLuận văn: Bảo đảm quyền trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, HAY
Luận văn: Bảo đảm quyền trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, HAY
 
Luận văn: Pháp luật về lao động là người khuyết tật ở Việt Nam
Luận văn: Pháp luật về lao động là người khuyết tật ở Việt NamLuận văn: Pháp luật về lao động là người khuyết tật ở Việt Nam
Luận văn: Pháp luật về lao động là người khuyết tật ở Việt Nam
 
NHẬT KÝ THỰC TẬP TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
NHẬT KÝ THỰC TẬP TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI NHẬT KÝ THỰC TẬP TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
NHẬT KÝ THỰC TẬP TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
 
Đề tài: Vai trò của án lệ và thực tiễn xét xử trong pháp luật, HOT
Đề tài: Vai trò của án lệ và thực tiễn xét xử trong pháp luật, HOTĐề tài: Vai trò của án lệ và thực tiễn xét xử trong pháp luật, HOT
Đề tài: Vai trò của án lệ và thực tiễn xét xử trong pháp luật, HOT
 
Luận văn: Xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước
Luận văn: Xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nướcLuận văn: Xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước
Luận văn: Xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước
 
Luận văn: Pháp luật về giải quyết tranh chấp lao động tập thể
Luận văn: Pháp luật về giải quyết tranh chấp lao động tập thểLuận văn: Pháp luật về giải quyết tranh chấp lao động tập thể
Luận văn: Pháp luật về giải quyết tranh chấp lao động tập thể
 
Luận văn: Chế tài đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh, 9đ
Luận văn: Chế tài đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh, 9đLuận văn: Chế tài đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh, 9đ
Luận văn: Chế tài đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh, 9đ
 
Luận văn: Hình phạt tử hình trong pháp luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Hình phạt tử hình trong pháp luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Hình phạt tử hình trong pháp luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Hình phạt tử hình trong pháp luật hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Bạo lực của cha mẹ đối vói con cái tuổi tiểu học, HAY
Luận văn: Bạo lực của cha mẹ đối vói con cái tuổi tiểu học, HAYLuận văn: Bạo lực của cha mẹ đối vói con cái tuổi tiểu học, HAY
Luận văn: Bạo lực của cha mẹ đối vói con cái tuổi tiểu học, HAY
 
Luận văn: Thực hiện pháp luật về quyền sử dụng đất, HOT
Luận văn: Thực hiện pháp luật về quyền sử dụng đất, HOTLuận văn: Thực hiện pháp luật về quyền sử dụng đất, HOT
Luận văn: Thực hiện pháp luật về quyền sử dụng đất, HOT
 
Luận văn: Quyền của người khuyết tật trong pháp Luật, HOT
Luận văn: Quyền của người khuyết tật trong pháp Luật, HOTLuận văn: Quyền của người khuyết tật trong pháp Luật, HOT
Luận văn: Quyền của người khuyết tật trong pháp Luật, HOT
 
Báo Cáo Thực Tập Thủ Tục Giải Quyết Ly Hôn Tại Tòa Án, 9 Điểm.docx
Báo Cáo Thực Tập Thủ Tục Giải Quyết Ly Hôn Tại Tòa Án, 9 Điểm.docxBáo Cáo Thực Tập Thủ Tục Giải Quyết Ly Hôn Tại Tòa Án, 9 Điểm.docx
Báo Cáo Thực Tập Thủ Tục Giải Quyết Ly Hôn Tại Tòa Án, 9 Điểm.docx
 

Similar to Khóa luận: Phòng chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ, 9 ĐIỂM

Khoá Luận Tốt Nghiệp Sự Khác Biệt Giữa Thái Độ Và Hành Vi Về Bạo Lực Giữa Vợ ...
Khoá Luận Tốt Nghiệp Sự Khác Biệt Giữa Thái Độ Và Hành Vi Về Bạo Lực Giữa Vợ ...Khoá Luận Tốt Nghiệp Sự Khác Biệt Giữa Thái Độ Và Hành Vi Về Bạo Lực Giữa Vợ ...
Khoá Luận Tốt Nghiệp Sự Khác Biệt Giữa Thái Độ Và Hành Vi Về Bạo Lực Giữa Vợ ...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0936 885 877
 
Công tác xã hội với phòng chống bạo lực gia đình
Công tác xã hội với phòng chống bạo lực gia đìnhCông tác xã hội với phòng chống bạo lực gia đình
Công tác xã hội với phòng chống bạo lực gia đìnhTrường Bảo
 
Chính sách an sinh xã hội dành cho người cao tuổi tại Việt Nam
Chính sách an sinh xã hội dành cho người cao tuổi tại Việt NamChính sách an sinh xã hội dành cho người cao tuổi tại Việt Nam
Chính sách an sinh xã hội dành cho người cao tuổi tại Việt Namluanvantrust
 

Similar to Khóa luận: Phòng chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ, 9 ĐIỂM (20)

BÀI MẪU Khóa luận luật hôn nhân gia đình, HAY, 9 ĐIỂM
BÀI MẪU Khóa luận luật hôn nhân gia đình, HAY, 9 ĐIỂMBÀI MẪU Khóa luận luật hôn nhân gia đình, HAY, 9 ĐIỂM
BÀI MẪU Khóa luận luật hôn nhân gia đình, HAY, 9 ĐIỂM
 
Luận văn: Đặc điểm ngôn ngữ của người nông dân, HAY, 9 ĐIỂM
Luận văn:  Đặc điểm ngôn ngữ của người nông dân, HAY, 9 ĐIỂMLuận văn:  Đặc điểm ngôn ngữ của người nông dân, HAY, 9 ĐIỂM
Luận văn: Đặc điểm ngôn ngữ của người nông dân, HAY, 9 ĐIỂM
 
Khoá Luận Tốt Nghiệp Sự Khác Biệt Giữa Thái Độ Và Hành Vi Về Bạo Lực Giữa Vợ ...
Khoá Luận Tốt Nghiệp Sự Khác Biệt Giữa Thái Độ Và Hành Vi Về Bạo Lực Giữa Vợ ...Khoá Luận Tốt Nghiệp Sự Khác Biệt Giữa Thái Độ Và Hành Vi Về Bạo Lực Giữa Vợ ...
Khoá Luận Tốt Nghiệp Sự Khác Biệt Giữa Thái Độ Và Hành Vi Về Bạo Lực Giữa Vợ ...
 
Pháp luật về bảo vệ trẻ em trong lĩnh vực lao động và hôn nhân gia đình.doc
Pháp luật về bảo vệ trẻ em trong lĩnh vực lao động và hôn nhân gia đình.docPháp luật về bảo vệ trẻ em trong lĩnh vực lao động và hôn nhân gia đình.doc
Pháp luật về bảo vệ trẻ em trong lĩnh vực lao động và hôn nhân gia đình.doc
 
Hoàn thiện pháp luật bảo vệ quyền của phụ nữ ở Việt Nam hiện nay.doc
Hoàn thiện pháp luật bảo vệ quyền của phụ nữ ở Việt Nam hiện nay.docHoàn thiện pháp luật bảo vệ quyền của phụ nữ ở Việt Nam hiện nay.doc
Hoàn thiện pháp luật bảo vệ quyền của phụ nữ ở Việt Nam hiện nay.doc
 
Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Nhà Nước Về An Sinh Xã Hội
Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Nhà Nước Về An Sinh Xã HộiLuận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Nhà Nước Về An Sinh Xã Hội
Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Nhà Nước Về An Sinh Xã Hội
 
BÀI MẪU Luận văn thạc sĩ ngành công tác xã hội, 9 ĐIỂM
BÀI MẪU Luận văn thạc sĩ ngành công tác xã hội, 9 ĐIỂMBÀI MẪU Luận văn thạc sĩ ngành công tác xã hội, 9 ĐIỂM
BÀI MẪU Luận văn thạc sĩ ngành công tác xã hội, 9 ĐIỂM
 
Khóa luận: Công tác xã hội trong phòng chống xâm hại tình dục, HAY
Khóa luận: Công tác xã hội trong phòng chống xâm hại tình dục, HAYKhóa luận: Công tác xã hội trong phòng chống xâm hại tình dục, HAY
Khóa luận: Công tác xã hội trong phòng chống xâm hại tình dục, HAY
 
Công tác xã hội với phòng chống bạo lực gia đình
Công tác xã hội với phòng chống bạo lực gia đìnhCông tác xã hội với phòng chống bạo lực gia đình
Công tác xã hội với phòng chống bạo lực gia đình
 
Luận văn Pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp ở Việt Nam hiện nay.doc
Luận văn Pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp ở Việt Nam hiện nay.docLuận văn Pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp ở Việt Nam hiện nay.doc
Luận văn Pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp ở Việt Nam hiện nay.doc
 
BÀI MẪU Khóa luận pháp luật về phòng, chống tham nhũng, HAY, 9 ĐIỂM
BÀI MẪU Khóa luận pháp luật về phòng, chống tham nhũng, HAY, 9 ĐIỂMBÀI MẪU Khóa luận pháp luật về phòng, chống tham nhũng, HAY, 9 ĐIỂM
BÀI MẪU Khóa luận pháp luật về phòng, chống tham nhũng, HAY, 9 ĐIỂM
 
Luận Văn Quản Lý Nhà nước về phòng chống tội phạm trên địa bàn Kiên Giang
Luận Văn Quản Lý Nhà nước về phòng chống tội phạm trên địa bàn Kiên GiangLuận Văn Quản Lý Nhà nước về phòng chống tội phạm trên địa bàn Kiên Giang
Luận Văn Quản Lý Nhà nước về phòng chống tội phạm trên địa bàn Kiên Giang
 
Luận văn: Bảo vệ quyền công dân của phạm nhân, 9 ĐIỂM
Luận văn: Bảo vệ quyền công dân của phạm nhân, 9 ĐIỂMLuận văn: Bảo vệ quyền công dân của phạm nhân, 9 ĐIỂM
Luận văn: Bảo vệ quyền công dân của phạm nhân, 9 ĐIỂM
 
BÀI MẪU Khóa luận ngành xã hội học, HAY, 9 ĐIỂM
BÀI MẪU Khóa luận ngành xã hội học, HAY, 9 ĐIỂMBÀI MẪU Khóa luận ngành xã hội học, HAY, 9 ĐIỂM
BÀI MẪU Khóa luận ngành xã hội học, HAY, 9 ĐIỂM
 
BÀI MẪU Khóa luận trách nhiệm xã hội, HAY, 9 ĐIỂM
BÀI MẪU Khóa luận trách nhiệm xã hội, HAY, 9 ĐIỂMBÀI MẪU Khóa luận trách nhiệm xã hội, HAY, 9 ĐIỂM
BÀI MẪU Khóa luận trách nhiệm xã hội, HAY, 9 ĐIỂM
 
Sự tác động của dư luận xã hội đối với việc thực hiện pháp luật ở Việt Nam hi...
Sự tác động của dư luận xã hội đối với việc thực hiện pháp luật ở Việt Nam hi...Sự tác động của dư luận xã hội đối với việc thực hiện pháp luật ở Việt Nam hi...
Sự tác động của dư luận xã hội đối với việc thực hiện pháp luật ở Việt Nam hi...
 
BÀI MẪU Khóa luận tốt nghiệp về gia đình, HAY, 9 ĐIỂM
BÀI MẪU Khóa luận tốt nghiệp về gia đình, HAY, 9 ĐIỂMBÀI MẪU Khóa luận tốt nghiệp về gia đình, HAY, 9 ĐIỂM
BÀI MẪU Khóa luận tốt nghiệp về gia đình, HAY, 9 ĐIỂM
 
Chính sách an sinh xã hội dành cho người cao tuổi tại Việt Nam
Chính sách an sinh xã hội dành cho người cao tuổi tại Việt NamChính sách an sinh xã hội dành cho người cao tuổi tại Việt Nam
Chính sách an sinh xã hội dành cho người cao tuổi tại Việt Nam
 
Dịch vụ công tác xã hội với người cao tuổi tại trung tâm công tác xã hội
Dịch vụ công tác xã hội với người cao tuổi tại trung tâm công tác xã hộiDịch vụ công tác xã hội với người cao tuổi tại trung tâm công tác xã hội
Dịch vụ công tác xã hội với người cao tuổi tại trung tâm công tác xã hội
 
BÀI MẪU Khóa luận ngành công tác xã hội, HAY, 9 ĐIỂM
BÀI MẪU Khóa luận ngành công tác xã hội, HAY, 9 ĐIỂMBÀI MẪU Khóa luận ngành công tác xã hội, HAY, 9 ĐIỂM
BÀI MẪU Khóa luận ngành công tác xã hội, HAY, 9 ĐIỂM
 

More from Viết Thuê Khóa Luận _ ZALO 0917.193.864 default

More from Viết Thuê Khóa Luận _ ZALO 0917.193.864 default (20)

Khóa luận ngành tài chính ngân hàng chính sách xã hội, HAY
Khóa luận ngành tài chính ngân hàng chính sách xã hội, HAYKhóa luận ngành tài chính ngân hàng chính sách xã hội, HAY
Khóa luận ngành tài chính ngân hàng chính sách xã hội, HAY
 
Bài mẫu báo cáo thực tập tại ngân hàng chính sách xã hội, HAY
Bài mẫu báo cáo thực tập tại ngân hàng chính sách xã hội, HAYBài mẫu báo cáo thực tập tại ngân hàng chính sách xã hội, HAY
Bài mẫu báo cáo thực tập tại ngân hàng chính sách xã hội, HAY
 
Bài mẫu báo cáo tại ngân hàng đầu tư và phát triển BIDV
Bài mẫu báo cáo tại ngân hàng đầu tư và phát triển BIDVBài mẫu báo cáo tại ngân hàng đầu tư và phát triển BIDV
Bài mẫu báo cáo tại ngân hàng đầu tư và phát triển BIDV
 
Báo cáo Thực trạng hoạt động cho vay cá nhân Tại Vietcombank, HAY
Báo cáo Thực trạng hoạt động cho vay cá nhân Tại Vietcombank, HAYBáo cáo Thực trạng hoạt động cho vay cá nhân Tại Vietcombank, HAY
Báo cáo Thực trạng hoạt động cho vay cá nhân Tại Vietcombank, HAY
 
Khóa luận tại ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, HAY
Khóa luận tại ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, HAYKhóa luận tại ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, HAY
Khóa luận tại ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, HAY
 
Bài mẫu tiểu luận về An ninh mạng, HAY
Bài mẫu tiểu luận về An ninh mạng, HAYBài mẫu tiểu luận về An ninh mạng, HAY
Bài mẫu tiểu luận về An ninh mạng, HAY
 
Bài mẫu Tiểu luận về an toàn giao thông đường bộ, HAY
Bài mẫu Tiểu luận về an toàn giao thông đường bộ, HAYBài mẫu Tiểu luận về an toàn giao thông đường bộ, HAY
Bài mẫu Tiểu luận về an toàn giao thông đường bộ, HAY
 
Tiểu luận Chiến lược cạnh tranh của công ty Amazon, HAY
Tiểu luận Chiến lược cạnh tranh của công ty Amazon, HAYTiểu luận Chiến lược cạnh tranh của công ty Amazon, HAY
Tiểu luận Chiến lược cạnh tranh của công ty Amazon, HAY
 
Bài mẫu tiểu luận môn về Apple, HAY
Bài mẫu tiểu luận môn về Apple, HAYBài mẫu tiểu luận môn về Apple, HAY
Bài mẫu tiểu luận môn về Apple, HAY
 
Bài mẫu Tiểu luận về FPT, HAY
Bài mẫu Tiểu luận về FPT, HAYBài mẫu Tiểu luận về FPT, HAY
Bài mẫu Tiểu luận về FPT, HAY
 
Bài mẫu Tiểu luận về chính quyền địa phương, HAY
Bài mẫu Tiểu luận về chính quyền địa phương, HAYBài mẫu Tiểu luận về chính quyền địa phương, HAY
Bài mẫu Tiểu luận về chính quyền địa phương, HAY
 
Bài mẫu tiểu luận về công ty Vissan, HAY
Bài mẫu tiểu luận về công ty Vissan, HAYBài mẫu tiểu luận về công ty Vissan, HAY
Bài mẫu tiểu luận về công ty Vissan, HAY
 
Tiểu luận Chiến lược marketing của kinh đô, HAY
Tiểu luận Chiến lược marketing của kinh đô, HAYTiểu luận Chiến lược marketing của kinh đô, HAY
Tiểu luận Chiến lược marketing của kinh đô, HAY
 
Bài mẫu Tiểu luận về cà phê Trung Nguyên, HAY
Bài mẫu Tiểu luận về cà phê Trung Nguyên, HAYBài mẫu Tiểu luận về cà phê Trung Nguyên, HAY
Bài mẫu Tiểu luận về cà phê Trung Nguyên, HAY
 
Bài mẫu tiểu luận về bình đẳng giới, 9 ĐIỂM
Bài mẫu tiểu luận về bình đẳng giới, 9 ĐIỂMBài mẫu tiểu luận về bình đẳng giới, 9 ĐIỂM
Bài mẫu tiểu luận về bình đẳng giới, 9 ĐIỂM
 
Bài mẫu tiểu luận về bánh ngọt, HAY
Bài mẫu tiểu luận về bánh ngọt, HAYBài mẫu tiểu luận về bánh ngọt, HAY
Bài mẫu tiểu luận về bánh ngọt, HAY
 
Bài mẫu tiểu luận về báo in, HAY
Bài mẫu tiểu luận về báo in, HAYBài mẫu tiểu luận về báo in, HAY
Bài mẫu tiểu luận về báo in, HAY
 
Bài mẫu Tiểu luận bảo vệ môi trường, HAY
Bài mẫu Tiểu luận bảo vệ môi trường, HAYBài mẫu Tiểu luận bảo vệ môi trường, HAY
Bài mẫu Tiểu luận bảo vệ môi trường, HAY
 
Tiểu luận thực trạng bạo lực gia đình Việt Nam hiện nay
Tiểu luận thực trạng bạo lực gia đình Việt Nam hiện nayTiểu luận thực trạng bạo lực gia đình Việt Nam hiện nay
Tiểu luận thực trạng bạo lực gia đình Việt Nam hiện nay
 
Tiểu luận Nguyên lý marketing với đề tài về BITIS, HAY
Tiểu luận Nguyên lý marketing với đề tài về BITIS, HAYTiểu luận Nguyên lý marketing với đề tài về BITIS, HAY
Tiểu luận Nguyên lý marketing với đề tài về BITIS, HAY
 

Recently uploaded

Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxChàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxendkay31
 
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptx
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptxpowerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptx
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptxAnAn97022
 
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIGIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIĐiện Lạnh Bách Khoa Hà Nội
 
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdfNQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdfNguyễn Đăng Quang
 
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líKiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líDr K-OGN
 
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdfchuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdfVyTng986513
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdfSơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdftohoanggiabao81
 
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
sách sinh học đại cương   -   Textbook.pdfsách sinh học đại cương   -   Textbook.pdf
sách sinh học đại cương - Textbook.pdfTrnHoa46
 
Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................TrnHoa46
 
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...hoangtuansinh1
 
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxTrích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxnhungdt08102004
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfhoangtuansinh1
 

Recently uploaded (20)

Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxChàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
 
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptx
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptxpowerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptx
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptx
 
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
 
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIGIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
 
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdfNQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
 
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líKiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
 
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdfchuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdfSơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
 
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
sách sinh học đại cương   -   Textbook.pdfsách sinh học đại cương   -   Textbook.pdf
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
 
Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................
 
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
 
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxTrích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
 
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
 

Khóa luận: Phòng chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ, 9 ĐIỂM

  • 1. DỊCH VỤ VIẾT THUÊ KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ZALO/TELEGRAM 0917 193 864 VIETKHOALUAN.COM ĐẠI HỌC HUẾ KHOA LUẬT ---------- KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP CHUYÊN NGÀNH: DÂN SỰ KHÓA HỌC: 2010 – 2014 LIÊN HỆ TẢI BÀI KẾT BẠN ZALO:0917 193 864 DỊCH VỤ VIẾT KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP WEBSITE: VIETKHOALUAN.COM ZALO/TELEGRAM: 0917 193 864 MAIL: BAOCAOTHUCTAPNET@GMAIL.COM PHÒNG CHỐNG BẠO LỰC GIA ĐÌNH ĐỐI VỚI PHỤ NỮ QUA THỰC TIỄN TẠI HUYỆN NÔNG SƠN, TỈNH QUẢNG NAM
  • 2. DỊCH VỤ VIẾT THUÊ KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ZALO/TELEGRAM 0917 193 864 VIETKHOALUAN.COM Giáo viên hướng dẫn: Sinh viên thực hiện: Th.S Đào Mai Hường Nguyễn Phước Trung Huế, 03/2014
  • 3. DỊCH VỤ VIẾT THUÊ KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ZALO/TELEGRAM 0917 193 864 VIETKHOALUAN.COM Lời Cảm Ơn Để hoàn thành khóa luận này, đầu tiên em xin gửi lời cảm ơn đến Quý thầy giáo, cô giáo trong Khoa Luật- Đại Học Huế đã truyền đạt kiến thức cho em trong 4 năm học tập tại trường. Với vốn kiến thức được tiếp thu trong quá trình học tập là nền tảng quan trọng giúp hoàn thành khóa luận này. Em xin trân trọng bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến cô giáo Thạc sĩ Đào Mai Hường đã giúp đỡ, hướng dẫn em tận tình và đầy trách nhiệm trong suốt quá trình hoàn thành khoán luận này. Chân thành cảm ơn gia đình và bạn bè đã đóng góp ý kiến cũng như sự động viên, khích lệ trong quá trình học tập, nghiên cứu và thực hiện khóa luận. Bài khóa luận được hoàn thành, bước đầu đi vào tìm hiểu, nghiên cứu khoa học, kiến thức của em còn hạn chế và còn nhiều bỡ ngỡ nên không thể tránh khỏi những điều thiếu sót. Kính mong Quý thầy giáo, cô giáo, bạn bè nhiệt tình đóng góp ý kiến để bài khóa luận của em có thể hoàn thiện hơn. Sau cùng, em xin kính chúc Quý thầy giáo, cô giáo thật dồi dào sức khỏe, niềm tin để tiếp tục thực hiện sứ mệnh cao đẹp của mình là truyền đạt kiến thức cho thế hệ mai sau. Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn! Huế tháng 03/2014 Sinh viên Nguyễn Phước Trung
  • 4. DỊCH VỤ VIẾT THUÊ KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ZALO/TELEGRAM 0917 193 864 VIETKHOALUAN.COM DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT BLGĐ: Bạo lực gia đình PCBLGĐ: Phòng chống bạo lực gia đình HNGĐ: Hôn nhân gia đình LHQ: Liên hợp quốc UBND: Ủy ban nhân dân HĐND: Hội đồng nhân dân HLHPN: Hội liên hiệp phụ nữ HPN: Hội phụ nữ BĐG: Bình đẳng giới CEDAW: Công ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ PN: Phụ nữ
  • 5. DỊCH VỤ VIẾT THUÊ KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ZALO/TELEGRAM 0917 193 864 VIETKHOALUAN.COM MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1 1. Tính cấp thiết của đề tài ................................................................................... 1 2. Mục đích nghiên cứu của đề tài ........................................................................ 3 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài .................................................... 3 4. Phương pháp nghiên cứu của đề tài .................................................................. 4 5. Cơ cấu của đề tài. .............................................................................................. 4 NỘI DUNG ........................................................................................................... 5 CHƯƠNG 1: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ PHÒNG CHỐNG BẠO LỰC GIA ĐÌNH ĐỐI VỚI PHỤ NỮ VÀ TRÁCH NHIỆM PHÁP LÝ ĐỐI VỚI NHỮNG VI PHẠM............................................................................5 1.1. Một số khái niệm............................................................................................ 5 1.1.1. Khái niệm gia đình...................................................................................... 5 1.1.2. Khái niệm bạo lực gia đình ........................................................................ 6 1.1.3. Khái niệm bạo lực gia đình đối với phụ nữ................................................. 7 1.1.4. Khái niệm phòng, chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ.......................... 8 1.2. Các hình thức của bạo lực gia đình đối với phụ nữ ....................................... 9 1.2.1. Bạo lực thể xác........................................................................................... 9 1.2.2. Bạo lực tinh thần ....................................................................................... 11 1.2.3. Bạo lực tình dục ....................................................................................... 13 1.2.4. Bạo lực kinh tế .......................................................................................... 16 1.3. Quy định của một số nước trên thế giới về phòng chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ .................................................................................................................. 18 1.3.1. Phòng, chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ tại Nhật Bản.................... 19 1.3.2. Phòng, chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ tại Đông Timo................. 20 1.3.3. Phòng, chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ tại Trung Quốc................ 21 1.3.4. Phòng, chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ tại Philipphin .................. 23 1.3.5. Phòng, chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ tại Thái Lan..................... 25 1.4. Quy định của pháp luật Việt Nam về phòng, chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ ........................................................................................................................ 25 1.4.1. Nguyên tắc phòng, chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ...................... 27
  • 6. DỊCH VỤ VIẾT THUÊ KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ZALO/TELEGRAM 0917 193 864 VIETKHOALUAN.COM 1.4.2. Quyền, nghĩa vụ của các chủ thể trong việc phòng, chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ....................................................................................................... 30 1.4.3. Trách nhiệm của cá nhân, gia đình và các cơ quan, tổ chức trong phòng, chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ................................................................ 32 1.4.4. Các biện pháp cơ bản ngăn chặn hành vi bạo lực và bảo vệ nạn nhân trong việc bạo lực gia đình đối với phụ nữ................................................................... 36 CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÒNG CHỐNG BẠO LỰC GIA ĐÌNH ĐỐI VỚI PHỤ NỮ HUYỆN NÔNG SƠN, TỈNH QUẢNG NAM............................ 48 2.1. Khái quát tình hình kinh tế - xã hội của huyện Nông Sơn........................... 48 2.1.1. Vị trí địa lí ................................................................................................. 48 2.1.2. Địa hình.................................................................................................... 48 2.1.3. Tổ chức hành chính................................................................................... 48 2.1.4. Kinh tế - xã hội......................................................................................... 48 2.1.5. Văn hóa...................................................................................................... 49 2.2. Thực trạng phòng, chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ huyện Nông Sơn, tỉnh Quảng Nam .................................................................................................. 50 2.2.1. Thực trạng phòng, chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ tại huyện Nông Sơn thông qua khảo sát ....................................................................................... 50 2.2.2. Một số nhận định về công tác phòng, chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ huyện Nông Sơn............................................................................................. 55 2.3. Nguyên nhân và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả phòng, chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ huyện Nông Sơn, tỉnh Quảng Nam......................................... 61 2.3.1. Nguyên nhân dẫn đến hạn chế trong công tác phòng, chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ huyện Nông Sơn, tỉnh Quảng Nam .................................... 61 2.3.2. Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả phòng, chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ huyện Nông Sơn, tỉnh Quảng Nam......................................................... 66 KẾT LUẬN......................................................................................................... 77 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................ 78
  • 7. 1 LỜI MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Gia đình là tế bào xã hội, là tổ ấm thân yêu của mỗi con người, như Bác Hồ đã từng nói: "Nhiều gia đình cộng lại mới thành xã hội, gia đình tốt thì xã hội mới tốt, xã hội tốt thì gia đình càng tốt. Hạt nhân của xã hội là gia đình”[3]. Gia đình là tế bào của xã hội, nơi duy trì nòi giống, là môi trường quan trọng hình thành, nuôi dưỡng và giáo dục nhân cách con người, bảo tồn và phát huy văn hóa truyền thống tốt đẹp, chống lại các tệ nạn xã hội, tạo nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Ngày 2/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, trong Tuyên ngôn Người đã đặt ra vấn đề quan tâm hàng đầu là “Nam nữ bình quyền”. Tuy nhiên, vấn đề hiện nay tiềm ẩn trong mọi gia đình là vấn nạn vi phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ và việc phòng, chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ là hết sức cần thiết. Bạo lực gia đình đối với phụ nữ là vấn đề mang tính lịch sử toàn cầu, gây nhức nhối cho nhân loại, để lại nhiều hậu quả nghiêm trọng cho con người, nhất là đối với phụ nữ. Bước sang thế kỷ XXI, phòng, chống bạo lực giới đang là một trong những mục tiêu của thiên niên kỷ. Tổng Thư ký Liên hiệp quốc Ban Ki Moon đã tuyên bố: "Bạo lực đối với phụ nữ là không bao giờ được chấp nhận, không bao giờ được khoan dung, tha thứ ." [16]. Chúng ta những con người của thế kỷ 21 cần phải đặc biệt quan tâm đến vấn đề bảo vệ quyền lợi cho phụ nữ và lên án nạn bạo lực với phụ nữ góp phần vào nâng cao địa vị và quyền con người chính đáng của phụ nữ ở trong gia đình và ngoài xã hội. Thể chế hoá quy định của Hiến pháp năm 1992, việc bảo vệ phụ nữ khỏi các hình thức bạo lực gia đình được quy định cụ thể, chi tiết trong nhiều văn bản pháp luật khác như Luật Hôn nhân gia đình; Bộ Luật Hình sự; Luật Bình đẳng giới; Luật Phòng, chống bạo lực gia đình...Mặc dù Đảng và Nhà nước ta đã có
  • 8. 2 nhiều cố gắng trong việc PCBLGĐ, để các quy định pháp luật về PCBLGĐ được thực thi trong đời sống xã hội nhưng trên thực tế, tình trạng vi phạm pháp luật về PCBLGĐ vẫn diễn ra thường xuyên ở nhiều nơi. Thống kê của Bộ Văn hoá - Thể thao và Du lịch, Tổng cục thống kê và Quỹ nhi đồng LHQ công bố ngày 26/6/2008 với điều tra của 93 ngàn hộ gia đình trên khắp mọi miền đất nước thì có tới 21,2% cặp vợ chồng đã trải qua một hình thức bạo lực gia đình như đánh, mắng, nhục mạ, ép quan hệ tình dục và như vậy cứ 5 cặp vợ chồng thì đã có một cặp đã có hình thức bạo lực gia đình. Chúng ta đều biết bạo lực gia đình đối với phụ nữ là một hiện tượng xã hội không mới, nhưng lại nổi lên như một căn bệnh xã hội hết sức nan giải trong giai đoạn hiện nay. Qua các kết quả nghiên cứu cũng cho thấy khả năng phụ nữ bị chồng mình lạm dụng nhiều hơn gấp 3 lần so với khả năng bị người khác lạm dụng. Bạo lực gia đình đình đối với phụ nữ đã gây hậu quả hết sức nghiêm trọng đối với thể chất và tinh thần của người phụ nữ. Nông Sơn là huyện miền núi phía Tây của tỉnh Quảng Nam. Đây là một huyện nghèo, 4/7 xã được xét là đặc biệt khó khăn. Mặc dù dân số ít nhưng địa bàn phức tạp, trình độ dân trí thấp, đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn. Đời sống nhân dân còn duy trì những phong tục tập quán lạc hậu. Đó chính là những nguyên nhân hàng đầu dẫn đến tình trạng bạo lực ở vùng cao. Tuy nhiên, hiện nay vẫn chưa có những công trình chuyên sâu để tìm hiểu rõ hơn về việc PCBLGĐ đối với phụ nữ miền núi. Trong những năm qua Đảng và nhà nước Việt Nam đã rất quan tâm đến công tác đấu tranh PCBLGĐ đối với phụ nữ . Từ năm 1980, chính phủ Việt Nam đã ký kết gia nhập Công ước về loại bỏ các tất cả các hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ (CEDAW). Luật Phòng, chống bạo lực gia đình đã được Nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam thông qua vào tháng 11/2007 và có hiệu lực từ ngày 1/7/2008. Quá trình thực hiện đã đạt đươc những kết quả đáng khích lệ. Tuy nhiên tình trạng bạo lực gia đình đối với phụ nữ vẫn diễn biến phức tạp cả
  • 9. 3 về số vụ và mức độ nghiêm trọng, và việc PCBLGĐ đối với phụ nữ và vấn đề hết sức quan trọng và cần thiết. Với những lí do nêu trên, mà em đã mạnh dạn chọn đề tài “Phòng chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ qua thực tiễn tại huyện Nông Sơn, tỉnh Quảng Nam” làm đề tài khóa luận tốt nghiệp của mình. 2. Mục đích nghiên cứu của đề tài Đề tài hướng đến những mục đích như sau: - Nâng cao nhận thức sâu sắc hơn về pháp luật PCBLGĐ đối với phụ nữ. - Đánh giá thực trạng PCBLGĐ đối với phụ nữ ở huyện Nông Sơn, tỉnh Quảng Nam. - Tìm ra những hạn chế trong việc PCBLGĐ đối với phụ nữ huyện Nông Sơn. - Đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả PCBLGĐ đối với phụ nữ huyện Nông Sơn, tỉnh Quảng Nam. Từ những mục đích trên đề tài hướng tới những nhiệm vụ sau: - Làm sáng rõ khái niệm đặc điểm của bạo lực gia đình đối với phụ nữ. - Chỉ ra và phân tích các đặc điểm các hình thức bạo lực gia đình đối với phụ nữ . - Nêu lên các hình thức và phương pháp đấu tranh PCBLGĐ đối với phụ nữ. - Chỉ rõ những hậu quả mà bạo lực gia đình đối với phụ nữ đã để lại cho phụ nữ, cho trẻ em và cho cả toàn xã hội. - Đề xuất những kiến nghị và giải pháp để nâng cao hiệu quả đấu tranh PCBLGĐ đối với phụ nữ tại huyện Nông Sơn, tỉnh Quảng Nam. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài Đối tượng nghiên cứu: Đề tài tập trung phân tích, đánh giá và xem xét về thực tiễn PCBLGĐ đối với phụ nữ địa bàn huyện Nông Sơn nói riêng, Tỉnh Quảng Nam nói chung.
  • 10. 4 Phạm vi nghiên cứu: Trong khuôn khổ có hạn của một bài Khóa Luận, em chỉ đi sâu vào nghiên cứu một số vấn đề lý luận về bạo lực gia đình đối với phụ nữ và thực tiễn thực hiện pháp luật PCBLGĐ đối với phụ nữ huyện Nông Sơn, tỉnh Quảng Nam. 4. Phương pháp nghiên cứu của đề tài Để thực hiện đề tài “Phòng chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ qua thực tiễn tại huyện Nông Sơn, tỉnh Quảng Nam”. Em đã sử dụng phương pháp duy vật biện chứng và phương pháp duy vật lịch sử. Ngoài ra em còn sử dụng một số phương pháp cụ thể như: phân tích, giải thích, thống kê, tổng hợp, khảo sát thực tế. 5. Cơ cấu của đề tài. Lời mở đầu: Nêu lên tính cấp thiết của đề tài, mục đích nghiên cứu, đối tượng và phạm vi nghiên cứu, phương pháp nghiên cứu và kết quả nghiên cứu. Nội dung: Gồm có 2 chương. - Chương 1: Quy định của pháp luật Việt Nam về phòng chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ và trách nhiệm pháp lý đối với những vi phạm. - Chương 2: Thực trạng phòng chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ tại huyện Nông Sơn, tỉnh Quảng Nam. Kết luận Tài liệu tham khảo
  • 11. 5 NỘI DUNG CHƯƠNG 1 QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ PHÒNG CHỐNG BẠO LỰC GIA ĐÌNH ĐỐI VỚI PHỤ NỮ VÀ TRÁCH NHIỆM PHÁP LÝ ĐỐI VỚI NHỮNG VI PHẠM 1.1. Một số khái niệm 1.1.1. Khái niệm gia đình Dưới góc độ xã hội học, gia đình được coi là tế bào xã hội. Không giống bất cứ nhóm xã hội nào khác, gia đình đan xen các yếu tố sinh học, kinh tế, tâm lý, văn hóa…những mối liên hệ cơ bản của gia đình bao gồm vợ chồng, cha mẹ và con, ông bà và cháu, những mối liên hệ khác: cô, dì, chú, bác với cháu, cha mẹ chồng và con dâu, cha mẹ vợ và con rễ…Mối quan hệ gia đình được thể hiện ở khía cạnh như: có đời sống tình dục, sinh con và nuôi dạy con cái, lao động tạo ra của cái vật chất để duy trì đời sống gia đình và đóng góp cho xã hội. Mối liên hệ này có thể dựa trên những căn cứ pháp lý hoặc có thể dựa trên những căn cứ thực tế một cách tự nhiên, tự phát. Theo đó gia đình được định nghĩa “là một thiết chế xã hội đặc thù, một nhóm xã hội thu nhỏ mà các thành viên của nó gắn bó với nhau bởi quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống hoặc quan hệ con người bởi tính cộng đồng về sinh hoạt trách nhiệm đạo đức với nhau nhằm đáp ứng nhu cầu riêng của thành viên cũng như để thể hiện tính tất yếu của xã hội về phát triển sản xuất con người”. Dưới góc độ pháp lý, gia đình là tập hợp những người gắn bó với nhau hôn nhân, quan hệ huyết thống hoặc quan hệ nuôi dưỡng, làm phát sinh nghĩa vụ và quyền giữa họ với nhau theo quy định của luật này (Điều 8, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000). Tuy nhiên, trong thực tế đời sống cũng có nhiều cách hiểu khác nhau về khái niệm gia đình: gia đình là tập hợp những người cùng có tên trong sổ hộ khẩu; gia đình là tập hợp những người cùng chung sống với nhau dưới một mái nhà…
  • 12. 6 Từ những góc độ nghiên cứu khác nhau, gia đình được chia tách thành nhiều dạng thức khác nhau: gia đình hiện đại và gia đình truyền thống, gia đình hạt nhân và gia đình đa thế hệ; gia đình khuyết thiếu và gia đình đầy đủ. 1.1.2. Khái niệm bạo lực gia đình Trong tiếng Việt, bạo lực được hiểu là “sức mạnh dùng để cưỡng bức, lấn áp hoặc lật đổ”[3]. Khái niệm này dễ làm người ta liên tưởng tới các hoạt động chính trị, nhưng trên thực tế bạo lực được coi như một phương thức hành xử trong quan hệ xã hội nói chung. Các mối quan hệ xã hội vốn rất phức tạp nên hành vi bạo lực cũng rất phong phú, được chia thành nhiều dạng khác nhau, tùy theo từng góc độ nhìn nhận: bạo lực nhìn thấy và bạo lực không nhìn thấy được; bạo lực với trẻ em… Còn theo chủ nghĩa cộng sản khoa học: “Bạo lực là một giai cấp (các nhóm chính trị- xã hội) nào đó áp dụng những hình thức cưỡng bức khác nhau, kể cả sự tác động bằng vũ trang, đối với giai cấp (các nhóm chính trị- xã hội) khác nhau nhằm mục đích giành lấy hoặc duy trì sự thống trị về kinh tế, chính trị những quyền hay đặc quyền khác nhau” [4]. Bạo lực gia đình là một dạng thức của bạo lực xã hội, là “hành vi cố ý của các thành viên gia đình gây tổn hại hoặc đe dọa gây tổn hại với các thành viên khác trong gia đình” (Điều 1, Luật Phòng, chống bạo lực gia đình). Nói cách khác, đó là việc “ các thành viên trong gia đình vân dụng sức mạnh để giải quyết các vấn đề gia đình”. Theo định nghĩa của Đại Hội Đồng Liên Hợp Quốc thông qua năm 1993 được các tổ chức cũng như các nhà khoa học trên thế giới chấp nhận rộng rãi. Theo đó, bạo lực gia đình bao gồm bất kỳ một hành động bạo lực dựa trên cơ sở một giới nào dẫn đến, hoặc có khả năng dẫn đến những tổn hại về thân thể, tình dục hay tâm lý, hay những đau khổ của phụ nữ bao gồm cả sự đe dọa có những hành động như vậy, sự cưỡng bức hay tước đoạt một cách tỳ tiện sự tự do, dù xảy ra nơi công cộng hay cuộc sống riêng tư.
  • 13. 7 Như vậy, bạo lực gia đình bao gồm các yếu tố bạo hành về thể chất, bạo hành về tinh thần, bạo hành tình dục và cả bạo hành về kinh tế. Những hành vi bạo lực gia đình gây ra để lại nhiều tổn hại đối với cộng đồng xã hội, đối với con người, đặc biệt đối với phụ nữ- đối tượng chịu ảnh hưởng trực tiếp của bạo lực gia đình. 1.1.3. Khái niệm bạo lực gia đình đối với phụ nữ Tuyên bố của Liên hợp quốc về việc loại bỏ bạo lực đối với phụ nữ, ngày 20/12/1993, đã định nghĩa: “Bạo lực đối với phụ nữ là bất kỳ hành động bạo lực nào dựa trên cơ sở giới gây ra hậu quả hoặc có thể gây ra hậu quả, làm tổn hại hoặc gây đau khổ cho phụ nữ về thân thể, tình dục hay tâm lý, kể cả những lời đe doạ hay độc đoán tước quyền tự do, dù xảy ra ở nơi công cộng hay trong đời sống riêng tư”. Theo định nghĩa trên, bạo lực gia đình đối với phụ nữ bao gồm: các hành vi bạo lực trên cơ sở giới gây ra hậu quả hoặc có thể gây ra hậu quả, làm tổn hại hoặc gây đau khổ cho phụ nữ về thân thể, tình dục và tâm lý xảy ra trong gia đình. Bạo lực chống lại phụ nữ trong gia đình: Quan hệ giới trong gia đình là một trong những quan hệ cơ bản tạo nên sự tồn tại của một gia đình. Về thực chất nó là mối quan hệ giữa nam giới và nữ giới trong gia đình mà trung tâm là mối quan hệ vợ chồng. Trong mối quan hệ về giới, mặc dù thủ phạm của hành vi bạo lực gia đình có thể bao gồm cả phụ nữ và nạn nhân của nó có thể bao gồm cả đàn ông. Tuy nhiên, các nghiên cứu về vấn đề này cho phép kết luận rằng, bạo lực gia đình về cơ bản là bạo lực chống lại phụ nữ và thủ phạm cơ bản là đàn ông. Phần lớn bạo lực chống lại phụ nữ xảy ra trong gia đình và người gây ra bạo lực gần như luôn luôn là nam giới, thường là chồng, người tình, hoặc chồng cũ, người tình cũ, hay những người đàn ông quen biết của phụ nữ. "Bạo lực trên cơ sở giới là bạo lực giữa nam giới và phụ nữ, trong đó phụ nữ thường là nạn nhân và điều này bắt nguồn từ các mối quan hệ quyền lực bất bình đẳng giữa nam giới và phụ nữ. Bạo lực thường nhằm vào phụ nữ vì họ là phái yếu hoặc ảnh hưởng lớn đến phụ nữ. Bạo lực trên cơ sở giới bao gồm,
  • 14. 8 những tổn hại về thân thể, tình dục và tâm lý (bao gồm cả sự đe doạ, gây đau khổ, cưỡng bức, hoặc tước đoạt sự tự do xảy ra trong gia đình hoặc trong cộng đồng, nhưng nó không hạn chế chỉ ở những dạng này. Bạo lực trên cơ sở giới bao gồm cả bạo lực do Nhà nước gây ra hoặc bỏ qua "[15]. Bạo lực gia đình đối với phụ nữ ngoài những đặc điểm của bạo lực gia đình nói chung còn mang một đặc điểm rất quan trọng để chúng ta nhận biết và phân biệt với bạo lực gia đình nói chung, đó là, nạn nhân của bạo lực gia đình đối với phụ nữ chỉ là nữ giới (nạn nhân của bạo lực gia đình có thể là tất cả đối tượng: nữ giới, nam giới, trẻ em, người già, người tàn tật...). Chủ thể thực hiện hành vi bạo lực gia đình đối với phụ nữ thường là nam giới và thường là người chồng trong hôn nhân, chồng cũ hay bạn tình. 1.1.4. Khái niệm phòng, chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ Phòng, chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ là việc thực hiện các biện pháp nhằm ngăn chặn và đẩy lùi bạo hành đối với phụ nữ trong gia đình, giúp cho người phụ nữ tránh được bạo lực gia đình, bảo đảm các quyền con người và có cuộc sống hạnh phúc. Phòng chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ là một công việc khó khăn và lâu dài. Để bảo vệ người phụ nữ, bảo vệ quyền và vị trí của người phụ nữ trong xã hội, việc phòng chống bạo lực gia đình đối với người phụ nữ cần thiết phải có sự điều chỉnh của pháp luật. Việc PCBLGĐ đối với người phụ nữ chỉ đạt được hiệu quả khi nó được đặt dưới sự bảo vệ của pháp luật và phù hợp với pháp luật, phù hợp với truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Cho đến nay, Việt Nam đã xây dựng được một hệ thống pháp luật về PCBLGĐ đặc biệt, lần đầu tiên, Luật Phòng, chống bạo lực gia đình đã ra đời. Đây chính là cơ sở pháp lý để bảo vệ con người trong đó có người phụ nữ trước bạo hành gia đình. Chính phủ Việt Nam đã tham gia rất mạnh mẽ phong trào quốc tế trong việc bảo vệ người phụ nữ và đẩy lùi bạo lực gia đình. Việt Nam đã phê chuẩn Công ước về Xoá bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử đối với phụ nữ (CEDAW) năm 1981 và cam kết với kế hoạch hành động của Hội nghị quốc tế về Dân số và Phát triển tại
  • 15. 9 Cai-rô năm 1994 và Cương lĩnh hành động của Hội nghị quốc tế về phụ nữ tại Bắc Kinh năm 1995. Với tư cách là quốc gia thành viên của công ước CEDAW, Việt Nam đã có những tiếp cận theo đúng cách tiếp cận của công ước đối với bình đẳng và bình đẳng giới. Điều này được thể hiện trong hệ thống pháp luật của Việt Nam, từ đạo luật gốc là Hiến pháp đến các đạo luật và các văn bản pháp luật khác đều khẳng định một nguyên tắc bình đẳng nam nữ và không có bất kỳ sự phân biệt nào trên cơ sở giới trên mọi lĩnh vực. Từ những phân tích trên, phòng chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ được hiểu là phòng ngừa những hành vi trái pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình, có lỗi, do chủ thể có năng lực trách nhiệm pháp lý thực hiện, xâm hại đến các quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ trong lĩnh vực PCBLGĐ mà nạn nhân của bạo hành gia đình là người phụ nữ. Như vậy, PCBLGĐ đối với phụ nữ là phòng ngừa các hành vi bạo hành gia đình đối với phụ nữ mà trong đó nạn nhân là người phụ nữ, người gây ra bạo hành chủ yếu là nam giới. Tuy nhiên, cũng cần phải thấy rằng, trong xu thế gia đình ở Việt Nam là gia đình mở, người phụ nữ không chỉ bị bạo hành từ phía người chồng mà còn bị bạo hành từ phía gia đình nhà chồng, bố, mẹ chồng, anh em của chồng. Mặt khác, trong thực tế cũng có nhiều người chồng cũng phải chịu bạo lực gia đình như phụ nữ nhưng trong khuôn khổ khóa luận này, tác giả nghiên cứu việc phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn và xử lý các vụ bạo lực gia đình đối với phụ nữ trái với pháp luật PCBLGĐ và là nội dung cơ bản tác giả đề cập tới việc PCBLGĐ đối với phụ nữ. 1.2. Các hình thức của bạo lực gia đình đối với phụ nữ 1.2.1. Bạo lực thể xác Người phụ nữ đã phải chịu đựng nhiều hình thức bạo lực gia đình. Bạo lực thân thể là hình thức khá phổ biến trong các dạng bạo lực gia đình trên thế giới nói chung, ở Việt Nam nói riêng. Bạo lực thể chất là một trong những nguyên nhân hàng đầu gây ra thương tích cho phụ nữ. Người phụ nữ là nạn nhân của bạo hành gia đình dưới hình thức bạo lực thân thể, họ phải chịu sự đánh đập của
  • 16. 10 người chồng, người bạn tình ở nhiều mức độ khác nhau, có trường hợp người chồng đấm, đá, tát, xô ngã vợ; có trường hợp dùng cả vũ khí để hành hung vợ để lại những hậu quả nghiêm trọng như để lại thương tích trên thân thể, xảy thai, thậm chí tử vong... Theo luật mẫu của Liên hợp quốc bạo lực thể xác bao gồm bất cứ hành vi nào gây ra thương tích về mặt thể chất hoặc tổn thương thân thể ở bất kỳ mức độ nào. Theo tài liệu của Viện Khoa học xã hội: Bạo lực thể xác là hành vi cưỡng bức thân thể, đánh đập nhằm gây thương tích cho nạn nhân hoặc ngăn cấm phụ nữ tiếp cận các dịch vụ chăm sóc sức khỏe cũng như ngăn ngừa họ không được tiếp cận các nhu cầu vật chất thiết yếu như: ăn uống, nghĩ ngơi,... Luật Phòng, chống bạo lực gia đình năm 2007 của Việt Nam cũng đã nêu: Hành vi “hành hạ, ngược đãi, đánh đập hoặc hành vi cố ý khác xâm hại đến sức khỏe, tính mạng” được xem là hành vi bạo lực gia đình về mặt thể xác. Những hành vi bạo lực về thể xác thường sử dụng sức mạnh cơ bắp hoặc công cụ (thậm chí cả vũ khí ) để gây ra sự đau đớn về thân thể đối với nạn nhân và mức độ có thể từ nhẹ tới nặng: thờ ơ; đánh đau, gây thương tích ở khu vực khó phát hiện; đấm đá; gây thương tích nặng không cho nạn nhân đi chữa trị; dùng phương tiện có dự định( dao, súng...)...;giết. Phụ nữ bị tát, xô, đẩy (không có những hành vi nghiêm trọng hơn) được xếp vào nhóm bị bạo lực ở mức độ nhẹ và những người bị đấm đá kéo lê hoặc đe dọa dùng vũ khí được coi là bị bạo lực ở mức độ nghiêm trọng. Thường thì phụ nữ phải gánh chịu nhiều hành vi bạo lực thể xác chứ không phải đơn thuần một hành vi. Trên thực tế không chỉ có những người trình độ văn hóa thấp mà cả những người có trình độ văn hóa tương đối cao, có địa vị trong xã hội cũng là nạn nhân của bạo lực trong gia đình. Trong đó bạo lực thể xác đối với người phụ nữ là rõ nhất. Mặt khác, bạo lực về thể xác đối với phụ nữ ở nông thôn cao hơn so với
  • 17. 11 thành thị và phần lớn là tập trung vào các gia đình có chồng trình độ học vấn thấp, làm nông nghiệp. Bạo lực thể xác để lại hậu quả rất nghiêm trọng, nó không chỉ tác động trực tiếp đến sức khỏe, tinh thần của người phụ nữ mà còn gây ảnh hưởng đến sự phát triển tình cảm của trẻ con trong gia đình. Gia đình không hòa thuận, cha mẹ đánh đập nhau sẽ tác động không không tốt đến tư tưởng, làm mất niềm tin của con trẻ vào cha mẹ của mình. Như vậy, có thể thấy rằng bạo lực thể xác là một trong những nguyên nhân chính của tình trạng ly hôn hiện nay, đẩy nhiều gia đình đến bờ vực khủng hoảng và tan vỡ, trẻ em thì xa vào con đường tội phạm. 1.2.2. Bạo lực tinh thần Bạo lực về tinh thần đối với phụ nữ là loại hình bạo lực không sử dụng đến vũ lực để tác động lên thể xác của nạn nhân mà chỉ tác động lên tinh thần của nạn nhân như: chì chiết, mắng chửi, lăng mạ, xỉ nhục, tỏ thái độ lạnh lùng, không nói chuyện, không quan tâm. Cùng với bạo lực về thân thể, bạo lực về tinh thần đối với phụ nữ là hình thức bạo lực đối với phụ nữ ngày càng phổ biến ở nước ta. Những vết thương về thân thể của người phụ nữ, với thời gian có thể lành lại nhưng những vết thương về tinh thần do bạo lực gia đình gây ra cho người phụ nữ sẽ rất khó lành. Bạo lực về tinh thần đã gây cho người phụ nữ những chấn động mạnh và lâu dài về tâm lý, họ phải chịu đựng những chấn thương tâm lý mà không dễ gì chữa khỏi. Nạn nhân bị bạo lực tinh thần thường tự dằn vặt mình, trầm cảm và sợ sệt, ăn không ngon, ngủ không yên, nóng giận vô cớ, luôn bị ám ảnh về bạo lực, có trường hợp bị ảnh hưởng nghiêm trọng đến tâm lý, thần kinh suốt đời, có trường hợp thì tự tử. Bạo lực về tinh thần cũng là một loại hình bạo lực không kém phần nghiêm trọng so với bạo lực về thể xác, số động phụ nữ đếu cho rằng: ảnh hưởng của bạo lực tinh thần thường nặng nề hơn bạo lực thể xác. Liên quan đến vấn đề này
  • 18. 12 thì Luật Phòng, chống bạo lực gia đình có nêu lên một số hành vi bạo lực tinh thần như: “Cô lập, xua đuổi hoặc gây áp lực thường xuyên về tâm lý và gây hậu quả nghiêm trọng; lăng mạ hoặc hành vi cố ý khác xúc phạm danh dự, nhân phẩm...” Một số những hành vi bạo lực tinh thần : - Dùng lời nói để mắng nhiếc nạn nhân; - Chửi mắng, lăng mạ, chì chiết; - Xúc phạm nhân phẩm, hạ thấp uy tín ( tiết lộ đời tư, phát tán tờ rơi làm ảnh hưởng đến danh dự, cưỡng ép lột bỏ quần áo trước mặt người khác...). - Cấm đoán ( quyền được chăm sóc con cái, người thân,dược làm việc, được tham gia vào công tác xã hội, quyền được giao tiếp, quyền được quyết định...). - Xua đuổi, quấy rối hoặc gây áp lực thường xuyên về mặt tâm lý gây hậu quả nghiêm trọng; - Buộc tội, nghi ngờ, theo dõi; - Phớt lờ cảm xúc của người khác, không quan tâm, đối xử lạnh nhạt; - Chê bai, chế nhạo, hạ thấp giá trị trước mặt người khác… Với bạo lực thể xác, nỗi đau đớn thể hiện rõ ràng trên cơ thể người phụ nữ nhưng với bạo lực về tinh thần thì vết thương ấy nông sâu như thế nào không ai có thể đo đếm được. Bạo lực tinh thần từng ngày từng giờ gặm nhấm ý chí, tâm can của người phụ nữ khiến những nạn nhân này luôn trong tình trạng căng thẳng dẫn đến “stress”, tâm thần ở thể nhẹ hoặc thần kinh và hậu quả đau lòng nhất là nhiều người do quá bế tắc đã phải tìm đến cái chết để giải tỏa. Bạo lực tinh thần đối với phụ nữ đang dần làm mai một đi bản chất tốt đẹp vốn có của mỗi một thành viên trong gia đình, gây tan vỡ hạnh phúc lứa đôi của các cặp vợ chồng, gây đỗ vỡ cuộc sống gia đình. Bạo lực tinh thần đối với phụ nữ trong gia đình là hình thức bạo lực không nhìn thấy được. Trong nhiều trường hợp, nó là nguyên nhân trực tiếp cướp đi sinh mạng của người phụ nữ. Rất nhiều phụ nữ không chịu nổi bạo hành tinh thần đã tìm đến với cái chết. Một trường hợp vi phạm pháp luật phòng chống
  • 19. 13 bạo lực gia đình đối với phụ nữ dưới hình thức bạo hành tinh thần đăng trên báo VnExpress ngày 23/10/2008 đã nói lên nỗi đau của mà người phụ nữ phải chịu đựng khi bị bạo lực tinh thần: Một người chồng đã không đánh đập vợ khi bắt gặp vợ ngoại tình và chỉ xin 10 nghìn của người tình vợ, sau đó, cứ mỗi lần đến bữa ăn, người chồng lại đặt 10 nghìn lên mâm cơm và giải thích với con đó là số tiền mà mẹ khó nhọc kiếm được. Ba tháng sau, không chịu nổi áp lực về mặt tâm lý, người vợ đã tự vẫn chết. Có rất nhiều lý do dẫn đến bạo lực tinh thần đối với phụ nữ, một trong những lý do khá nổi bật là ngoại tình. Phần lớn những người chồng khi ngoại tình về thường bỏ rơi, chửi mắng, ngược đãi vợ con. Cùng với sự tra tấn dã man đó là mục đích mong cho vợ chết mòn, chết dần. Trong những hoàn cảnh như vậy, người phụ nữ thật đau khổ và nhiều khi họ đã không làm chủ được bản thân mình nữa, mắc phải những sang chấn tâm lý ám ảnh suốt cuộc đời họ. 1.2.3. Bạo lực tình dục Một hình thức bạo lực gia đình đối với người phụ nữ hiện nay làm ảnh hưởng rất lớn đến tâm lý của người phụ nữ là bạo lực tình dục. Hình thức bạo lực này rất khó phát hiện bởi tất cả các nạn nhân rất ít khi nói ra. Theo Tổ chức Y tế thế giới, bạo lực tình dục được xem là vấn đề ưu tiên trong các vấn đề sức khoẻ cộng đồng và quyền con người bởi vì vấn đề này tồn tại ở nhiều nước trên thế giới và gây ảnh hưởng đến sức khoẻ phụ nữ. Cưỡng bức tình dục trong hôn nhân là một hình thức bạo lực đối với phụ nữ, là hành vi vi phạm pháp luật phòng chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ, đây là điều mà bấy lâu nay nhiều người không nhận thức được. Ở nước ta, theo quan niệm truyền thống, việc người vợ đáp ứng nhu cầu tình dục của chồng là việc bình thường như là một bổn phận của người vợ để giữ gìn hạnh phúc gia đình. Nhiều người chồng coi đó là trách nhiệm đương nhiên của người vợ, người vợ không có quyền kháng cự và đã có rất nhiều người được hỏi đã khẳng định rằng đây không phải là việc bạo hành vợ, vì thế không phải là vi phạm pháp luật. Chính vì vậy mà hình thức bạo lực này bị xem nhẹ. Điều này dẫn đến tình trạng bạo lực tình dục trong gia
  • 20. 14 đình đối với vợ còn xảy ra nhiều với con số khá cao mà trong thực tế, con số đó còn nhiều hơn rất nhiều. Quan hệ tình dục giữa vợ và chồng là quan hệ tình dục đồng thuận, nhưng không phải lúc nào cũng là quan hệ tình dục được mong muốn. Vì vậy, không phải cứ là vợ chồng thì đương nhiên chồng được quan hệ và vợ phải chiều chồng, mà cần có sự mong muốn và đồng thuận của đôi bên. Hành vi ép buộc tình dục có thể xảy ra trong hôn nhân giữa vợ và chồng, kể cả khi ly thân, ly hôn và ngay cả trong tình yêu giữa bạn tình với nhau. Bạo lực tình dục được định nghĩa là: hành vi sử dụng vũ lực, cưỡng bức hoặc chấn áp về tâm lý nhằm ép buộc một người phụ nữ quan hệ tình dục ngoài ý muốn cho dù có đạt mục đích hay không. Bạo lực tình dục bao gồm hiếp dâm, quấy rối tình dục và các hình thức bạo lực tình dục khác trong hôn nhân mà đối tượng gây ra là các thành viên trong gia đình, người quen, cưỡng ép kết hôn, cưỡng ép làm nghề mại dâm, chủ thể của hành vi bạo lực tình dục thường xử dụng vũ lực để ép buộc người kia có quan hệ tình dục, hoặc hành vi cố lôi kéo họ vào hoạt động tình dục ngay cả khi họ không có khả năng tử chối bởi các lý do như: sức khỏe, bị ảnh hưởng của chất kích thích, chưa đủ năng lực để hiểu biết về hậu quả của quan hệ tình dục đó, hoặc sự hăm doa, quấy rối tình dục. Trong Luật Phòng, chống bạo lực gia đình năm 2007 của Việt Nam cũng có nêu rõ “...cưỡng ép quan hệ tình dục” cũng là một trong những hành vi bạo lực gia đình. Chúng ta có thể xác định bạo lực tinh dục qua một số hành vi cụ thể sau: - Đùa cợt về phụ nữ và về tình dục trước mặt nạn nhân; - Xem phụ nữ như một đồ vật để thỏa mãn; - Làm mất cảm xúc và nhu cầu sinh lý của nạn nhân; - Sờ mó bộ phận sinh dục của nạn nhân khi nạn nhân không đồng ý; - Sử dụng những hình thức quan hệ tình dục gây đau đớn; - Sử dụng những lời lẽ liên quan tới dục tính gây khó chịu về tâm lý; - Cưỡng ép thực hiện hành vi khiêu dâm, các thuốc kích dục; - Ép buộc quan hệ tình để làm nhục, gây đau; - Buộc cởi bỏ y phục trước mặt con cái, công chúng…
  • 21. 15 Trong đời sống vợ chồng ở nhiều gia đình, hôn nhân được hiểu như là sự cho phép người đàn ông có quyền tiếp cận tình dục với người vợ vô điều kiện và họ có sức mạnh để củng cố sự tiếp cận này thông qua cưỡng bức nếu thấy cần thiết. Không ít phụ nữ khi không đồng ý quan hệ với chồng đã bị chồng chì chiết, chửi mắng thậm tệ. Bị bạo hành về tình dục khiến cho người phụ nữ cảm giác như mình chỉ là công cụ giải quyết sinh lý của chồng nên họ cảm thấy sợ mỗi khi gần gũi chồng. Trong quan hệ “phòng the” lẽ ra người phụ nữ có quyền được trân trọng thì trái lại bị tước đi quyền làm vợ, quyền được nâng niu chiều chuộng và được yêu thương, nhưng trái lại họ chỉ có một nhiêm vụ duy nhất là phục vụ. Các hành vi bạo lực tình dục chủ yếu là dùng sức mạnh thể lực để ép quan hệ tình dục ngoài ý muốn, đa phần người phụ nữ phải quan hệ tình dục vì sợ rằng nếu không đáp ứng nhu cầu sinh ý cho chồng thì sẽ có điều xấu xảy ra và bị ép làm những việc có liên quan đến tình dục mà người vợ cảm thấy bị nhục nhã hoặc hạ thấp nhân phẩm. Một số phụ nữ khác cho rằng: họ bị ép quan hệ tình dục vì họ sợ, vì họ nghĩ tới lần quan hệ sau những chuyện như này sẽ tiếp diễn. Tình dục cưỡng ép không chỉ xảy ra một lần mà có thể tiếp tục lặp đi lặp lại nhiều lần. Như vậy, có thể nói nạn bạo lực tình dục đã và đang trở thành vấn nạn của các gia đình và toàn xã hội. Bạo lực tình dục không chỉ gây đau đớn về mặt thể xác đối với phụ nữ mà còn gây ra hậu quả về mặt tinh thần hết sức nghiêm trọng, là nỗi kinh hoàng trong đêm của nhiều phụ nữ. Sự lạm dụng về tình dục có thể gây ra các căn bệnh có thể liên quan đến sức khỏe sinh sản khó điều trị như: HIV, mang thai ngoài ý muốn, các bệnh lây truyền qua đường tình dục hay những tai biến chứng thai sản...Do bạo lực tình dục có mối quan hệ chặt chẽ với vấn đề đạo đức và được ngụy trang một cách kính đáo bởi “quan hệ tình cảm” giữa hai vợ chồng. Mặt khác, vì nó là vấn đề tế nhị, nên chị em thường giấu diếm vì không muốn “ vạch áo cho người xem lưng”, “xấu chàng hổ ai”. Những
  • 22. 16 điều này góp phần làm cho bạo lực tình dục ngày một phát triển, đe dọa đến tinh thần và sức khỏe của phụ nữ. 1.2.4. Bạo lực kinh tế Cùng với bạo hành về thể chất, bạo hành về tinh thần là bạo hành về kinh tế. Bạo hành về kinh tế là hành vi dùng sức mạnh, áp đặt hoặc lừa mị nhằm chiếm giữ và kiểm soát tài chính của người phụ nữ trong gia đình nhằm tạo ra sự phụ thuộc về mặt kinh tế. Cho đến nay, chưa có nhiều số liệu thống kê về bạo lực kinh tế trong gia đình đối với phụ nữ, tuy nhiên trên thực tế, bạo lực kinh tế đối với phụ nữ thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau như: không đóng góp kinh tế (tiền bạc) cho vợ chi tiêu chung trong gia đình; quản lý hết tiền của gia đình; bắt người vợ phụ thuộc hoàn toàn vào mình; coi thường vợ không có công ăn việc làm, không kiếm được tiền; kiểm soát toàn bộ việc chi tiêu trong nhà; vay nợ nhiều để vợ gánh chịu trả nợ... Có rất nhiều người phụ nữ hoàn toàn bị phụ thuộc vào chồng về mặt kinh tế, mọi sự chi tiêu trong gia đình từ những vật dụng nhỏ nhất cũng phải xin chồng, phải xin phép chồng, chồng không đồng ý hay không cho thì không có tiền để tiêu thậm chí để phục vụ cho những nhu cầu tối thiểu nhất của người phụ nữ. Như vậy, câu hỏi đặt ra người phụ nữ sinh ra để làm gì?, họ đâu còn được tôn trọng quyền con người nữa. Như vậy, bạo lực kinh tế đối với người phụ nữ trong gia đình biểu hiện rất đa dạng, nhiều vẻ với nhiều cấp độ khác nhau và phần lớn bạo lực kinh tế thường ít bộc lộ công khai. Vì thế, bạo lực kinh tế là dạng bạo lực không dễ nhận diện. Bạo lực kinh tế đã và đang ảnh hưởng sâu sắc tới người phụ nữ, vi phạm quyền tự do của người phụ nữ. Chính vì vậy, hơn ai hết, người phụ nữ phải đứng lên đấu tranh để bảo vệ quyền cho họ đồng thời những kẻ gây ra bạo lực cho người vợ của mình cần bị xử lý nghiêm minh theo quy định của pháp luật. Bạo lực kinh tế là hành vi kiểm soát tài chính, bắt phụ thuộc vào tài chính đối với thành viên trong gia đình.Theo nghị định 110/2009/NĐ-CP ngày 10- 12-2009 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực
  • 23. 17 phòng, chống bạo lực gia đình có quy định một số hành vi về bạo lực kinh tế trong gia đình như sau: - Không cho thành viên trong gia đình sử dụng tài sản chung vào mục đích chính đáng; - Kiểm soát chặt chẽ nguồn tài chính của thành viên gia đình hoặc nguồn tài chính chung của gia đình nhằm tạo cho thành viên gia đình sự phụ thuộc về tài chính; - Buộc thành viên gia đình đóng góp tài chính vượt quá khả năng của họ; - Đập phá tài sản riêng của mình nhằm gây áp lực về tâm lý đối với thành viên gia đình; - Có hành vi cố ý làm hư hỏng tài sản riêng của thành viên gia đình hoặc tài sản chung của gia đình; - Chiếm đoạt tài sản riêng của thành viên gia đình; - Chiếm đoạt tài sản chung của gia đình để sử dụng vào mục đích cá nhân; - Ép buộc thành viên gia đình lao động quá sức hoặc làm công việc nặng nhọc, nguy hiểm, tiếp xúc với chất độc hại hoặc làm những công việc khác trái với quy định của pháp luật về lao động; - Ép buộc thành viên trong gia đình đi ăn xin hoặc lang thang kiếm sống; Bạo lực về kinh tế cũng là một trong những loại hình bạo lực gây nhiều sức ép cho phụ nữ, đặc biệt là sức ép về mặt tinh thần, khiến cho họ luôn luôn rơi vào tình trạng căng thẳng và mệt mỏi. Như vậy, chúng ta có thể thấy bạo hành gia đình là con sóng ngầm có sức tàn phá rất lớn hạnh phúc của mỗi gia đình, nó để lại rất nhiều hậu quả, mà dễ thấy nhất là hạnh phúc gia đình bị đổ vỡ, con cái thiếu sự quan tâm dễ xa ngã vào các tệ nạn xã hội...Qua những hình thức bạo lực gia đình nói trên chúng ta đã có những cách nhìn khách quan về đặc điểm cũng như tính nguy hiểm của từng loại hình. Từ đó cần phải có những giải pháp nhằm đấu tranh chống lại nạn bạo lực gia đình đối với phụ nữ đang ngày một phát triển trong giai đoạn hiện nay.
  • 24. 18 1.3. Quy định của một số nước trên thế giới về phòng chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ Bạo lực gia đình đối với phụ nữ là một vấn đề phổ biến trên tất cả các quốc gia trên toàn thế giới, ảnh hưởng tới sự an toàn, lành mạnh của cộng đồng và trật tự xã hội. Hiện nay, hầu hết các quốc gia đều có các văn bản quy phạm pháp luật hình sự hoặc hành chính để xử phạt các hành vi bạo lực, trong đó bao gồm cả bạo lực trong gia đình đối với phụ nữ. Tuy nhiên, bạo lực gia đình đối với phụ nữ có một số đặc thù mà các thủ tục hành chính, dân sự, hình sự không giải quyết được như: xảy ra trong bối cảnh riêng tư, mang tính liên tục, nạn nhân không muốn nhờ cậy sự giúp đỡ từ các cơ quan chức năng vì xấu hổ, sợ bị miệt thị, vì phụ thuộc vào người có hành vi bạo lực… Trên thực tế hiện nay thì Châu Á, Châu Phi hiện đang được đánh giá là khu vực đứng đầu thế giới về tỷ lệ phụ nữ là nạn nhân của bạo lực gia đình. Theo số liệu đưa ra tại hội thảo khu vực ASEAN về nhạy cảm giới và các dịch vụ hỗ trợ ngăn ngừa bạo lực gia đình đối với phụ nữ vào tháng 11 năm 2006 tại Thái Lan, riêng khu vực ASEAN có 56% phụ nữ là nạn nhân của các vụ đánh đập gây thương tích hay các vụ án mạng và 33% phụ nữ thường xuyên bị hãm hiếp hay đe doạ tình dục. Đứng trước thực trạng nhức nhối trên, các quốc gia Châu Á, đặc biệt là các nước khu vực ASEAN đã có những biện pháp tích cực để giải quyết tình hình, giúp người phụ nữ khắc phục những hậu quả nặng nề của nạn bạo lực. Đây là những bài học kinh nghiệm quý báu cho các quốc gia khác. Để công tác phòng, chống vi phạm pháp luật phòng chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ đạt được hiệu quả cao trong thời gian tới, Việt Nam chúng ta nên học hỏi và tiếp thu kinh nghiệm của các nước khác trong lĩnh vực này. Chính vì vậy, nhiều quốc gia đã ban hành văn bản pháp luật riêng về bạo lực gia đình với mục đích giải quyết có hiệu quả tình trạng bạo lực gia đình đối với phụ nữ, chỉnh sửa các thủ tục hành chính và hình sự cho phù hợp với những nhu cầu đặc biệt của các nạn nhân bạo lực gia đình đối với phụ nữ. Cụ thể:
  • 25. 19 1.3.1. Phòng, chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ tại Nhật Bản Nhật Bản là một quốc gia ở Châu Á có sự phát triển mạnh mẽ về mọi mặt và là nước có nhiều kinh nghiệm trong việc PCBLGĐ đối với phụ nữ. Điều quan trọng nhất là đến nay Nhật Bản đã xây dựng được khung pháp lý về PCBLGĐ khá hoàn thiện. Nhiều đạo luật quan trọng liên quan đến PCBLGĐ đã được thông qua như: Luật về phúc lợi cho trẻ em (1947); Luật về đảm bảo cuộc sống (1950) ; Luật về phúc lợi xã hội (1951); Luật về phúc lợi cho bà mẹ, trẻ em và người goá (1964); Luật về cảnh sát; Bộ luật Hình sự; Luật về phòng, ngừa bạo lực hôn nhân và bảo vệ nạn nhân năm 2001 và sửa đổi năm 2004 là đạo luật trụ cột, làm cơ sở quan trọng để PCBLGĐ. Đạo luật này đã quy định một cách chặt chẽ các vấn đề về bạo lực gia đình như: khái niệm về bạo lực gia đình; xử lý người có hành vi vi phạm pháp luật phòng, ngừa bạo lực hôn nhân; quyền của nạn nhân bạo lực gia đình; trách nhiệm của Chính phủ và chính quyền địa phương; chính sách và định hướng cơ bản của công tác PCBLGĐ... Chính vì có hệ thống pháp luật khá hoàn thiện, trách nhiệm pháp lý nghiêm khắc được áp dụng đối với chủ thể có hành vi vi phạm pháp luật phòng, chống bạo lực hôn nhân, nên nhận thức của người Nhật Bản về bạo lực gia đình rất cao, do vậy họ hiểu và thực hiện khá tốt PCBLGĐ; tình trạng vi phạm pháp luật PCBLGĐ, bạo lực hôn nhân nói chung, bạo lực gia đình đối với phụ nữ ngày một giảm đi đáng kể. Cùng với hệ thống pháp luật khá hoàn thiện, Chính phủ Nhật Bản còn thành lập các Trung tâm tư vấn và hỗ trợ về bạo lực hôn nhân, các Tòa án HNGĐ. Các trung tâm và Tòa án hôn nhân gia đình này có nhiệm vụ: 1. Tư vấn cho các nạn nhân về các vấn đề ảnh hưởng đến cuộc sống của họ hoặc giới thiệu họ với các nhân viên tư vấn phụ nữ hoặc các tổ chức tư vấn thích hợp; 2. Tư vấn hướng dẫn về y tế, tâm lý hoặc các vấn đề khác giúp họ phục hồi về tinh thần và thể chất; 3. Cung cấp các biện pháp bảo vệ tạm thời cho nạn nhân và cả các thành viên khác trong gia đình trong trường hợp có các thành viên khác trong gia đình; 4. Cung cấp thông tin, tư vấn và thông tin cho các tổ chức liên quan,
  • 26. 20 cùng với các hình thức hỗ trợ khác có liên quan; 5. Cung cấp thông tin, tư vấn, hợp tác, liên kết với các tổ chức liên quan, cũng như các hình thức trợ giúp khác liên quan đến các cơ sở mà nạn nhân có thể sống và được bảo vệ... Các trung tâm tư vấn và hỗ trợ về bạo lực hôn nhân đã làm rất tốt nhiệm vụ của mình và đây chính là một biện pháp rất hữu hiệu nhằm giúp người phụ nữ tránh được bạo lực hôn nhân, khắc phục được những hậu quả nặng nề do bạo lực gây ra, đem lại niềm tin trong cuộc sống cho những người phụ nữ. Như vậy, với một hệ thống pháp luật hoàn thiện cùng với các biện pháp tích cực trong đó có biện pháp thành lập các trung tâm tư vấn và hỗ trợ về bạo lực hôn nhân, Nhật Bản là một trong các nước ở khu vực Châu Á đạt được kết quả cao trong việc PCBLGĐ đối với phu nữ. Những kinh nghiệm quý báu này là bài học quý giá cho các nước khác trong đó có Việt Nam trong việc ngăn chặn và đẩy lùi tình trạng vi phạm pháp luật PCBLGĐ đối với phụ nữ. 1.3.2. Phòng, chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ tại Đông Timo Luật Chống bạo lực gia đình của Đông Timo có cách tiếp cận khá rộng đối với việc phòng ngừa bạo lực gia đình. Theo đó, để phòng ngừa bạo lực gia đình đối với phụ nữ xảy ra, Nhà nước phải: Một là, tạo điều kiện để xây dựng một chương trình giáo dục về quyền con người cho cả trường tiểu học lẫn trung học; Hai là, tạo điều kiện để biên soạn một chương trình giáo dục về quyền con người và các hình thức về bạo lực gia đình cho cảnh sát, công tố viên, thẩm phán, luật sư tham gia giải quyết những vụ việc bạo lực gia đình; Ba là, cung cấp thông tin cho quần chúng, những người lãnh đạo theo truyền thống và trong cộng đồng về quyền con người, về bạo lực gia đình – một sự vi phạm quyền con người; Bốn là, các cơ quan chính phủ, các tổ chức phi chính phủ và cộng đồng cùng nhau phối hợp nỗ lực phòng ngừa bạo lực gia đình và giải quyết những yếu tố kinh tế - xã hội làm tăng nguy cơ bạo lực gia đình.
  • 27. 21 Do sự nhạy cảm và phức tạp của các mối quan hệ gia đình, việc sử dụng các biện pháp để phòng ngừa hành vi bạo lực gia đình đối với phụ nữ trước khi nó xảy ra và để lại những hậu quả đáng tiếc là rất cần thiết và quan trọng. Tuy nhiên, việc này lại đòi hỏi một quá trình khó khăn và phức tạp. Những quy định của Đông Timo về vấn này khá cụ thể, hướng tới những chủ thể quan trọng có khả năng đem lại hiệu quả cao, rất cần được nghiên cứu và học hỏi. Là một quốc gia còn rất trẻ nhưng Đông-ti-mo lại đặc biệt quan tâm đến vấn đề PCBLGĐ đối với phụ nữ. Đông-ti-mo đã có rất nhiều hoạt động cũng như kinh nghiệm PCBLGĐ từ đó hạn chế được tình trạng vi phạm pháp luật PCBLGĐ đối với phụ nữ. Đông-ti-mo có một hệ thống pháp luật về PCBLGĐ với các đạo luật cơ bản như: Luật Hôn nhân gia đình; Luật Dân sự; Bộ luật hình sự; Luật chống bạo lực gia đình và nhiều văn bản pháp luật khác. Bên cạnh hệ thống pháp luật, Đông-ti- mo còn có nhiều sáng kiến và kinh nghiệm trong PCBLGĐ. Đông-ti-mo đã thành lập hệ thống thông tin cho công tác PCBLGĐ. Theo hệ thống thông tin này, mỗi huyện có một đường dây điện thoại chuyên sử dụng cho các vụ bạo lực gia đình. Ngoài ra, ở nước này còn có một hệ thống Radio khẩn cấp được đặt ở những nơi cần thiết để các cơ quan chức năng có thể tiếp cận một cách nhanh nhất với các nạn nhân và thủ phạm bạo lực gia đình. Với các biện pháp như vậy, công tác PCBLGĐ sẽ đạt được hiệu quả, các vụ bạo lực gia đình sẽ được phát hiện kịp thời đồng thời các chủ thể sẽ khác sẽ sợ không thực hiện hành vi bạo lực gia đình vì có nguy cơ bị phát hiện. Các chủ thể sẽ tuân thủ pháp luật một cách nghiêm chỉnh. 1.3.3. Phòng, chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ tại Trung Quốc Đây là một quốc gia phát triển mạnh về mọi mặt ở Châu Á, Trung Quốc là quốc gia có dân số đông nhất thế giới (1,4 tỉ người). Trung Quốc có, nhiều kinh nghiệm trong việc PCBLGĐ đối với phụ nữ. Mặc dù bị ảnh hưởng trong một thời gian dài tư tưởng trọng nam khinh nữ, người phụ nữ không có vai trò gì trong xã hội, nhưng cho đến nay, Trung Quốc đã đạt được kết quả khá cao trong
  • 28. 22 lĩnh vực PCBLGĐ đối với phụ nữ. Có được kết quả tốt như vậy là do Trung Quốc đã xây dựng được khung pháp lý về PCBLGĐ khá hoàn chỉnh. Mặc dù Trung Quốc chưa có văn bản pháp luật định nghĩa thế nào là bạo hành gia đình nhưng nhiều đạo luật liên quan đến bạo lực gia đình đã được Trung Quốc thông qua như: Luật bảo vệ quyền và lợi ích của phụ nữ; Luật bảo vệ sức khoẻ bà mẹ và trẻ em; Luật hình sự; Luật hôn nhân và gia đình cùng nhiều văn bản pháp luật khác. Đặc biệt, từ sau khi là nước chủ nhà Hội nghị thế giới lần thứ tư của LHQ năm 1995, xã hội Trung Quốc đã có sự thay đổi về nhận thức về bạo lực gia đình. Đây là một mốc đánh dấu sự thay đổi quan trọng của Trung Quốc trong việc PCBLGĐ đối với phụ nữ. Rất nhiều đạo luật liên quan đến bạo lực gia đình đã được bổ sung, sửa đổi. Đến nay, Trung Quốc đã có hơn 10 tỉnh, thành phố và khu tự trị ban hành các Nghị định điều chỉnh nạn bạo lực gia đình trong phạm vi địa phương mình nhằm thực hiện có hiệu quả việc PCBLGĐ. Như vậy việc PCBLGĐ đối với phụ nữ ở Trung Quốc là vấn đề được các cấp chính quyền và cả xã hội đặc biệt quan tâm, chung tay, góp sức nhằm đẩy lùi nạn bạo lực gia đình cũng như tình trạng vi phạm pháp luật PCBLGĐ. Bên cạnh hệ thống pháp luật, Trung Quốc đặc biệt chú trọng tới công tác tuyên truyền về PCBLGĐ. Một biện pháp rất tích cực là Hội Liên hiệp phụ nữ Trung Quốc đã thiết lập một đường dây nóng, treo và dán áp phích trên khắp các đường phố để kêu gọi những nạn nhân của bạo lực gia đình đến trình báo với các cơ quan chức năng, khuyến khích nạn nhân bạo lực gia đình tự bảo vệ mình trong khuôn khổ pháp luật. Đặc biệt đài truyền hình Trung Quốc cũng mở một chương trình truyền hình riêng chuyên cung cấp thông tin và tuyên truyền nâng cao hiểu biết của người dân về nạn bạo lực gia đình. Mục đích của chương trình là tuyên truyền những kiến thức cơ bản để giúp người phụ nữ tự bảo vệ mình khỏi bạo lực gia đình thông qua các tình huống được thể hiện dưới các hình thức các vở kịch. Biện pháp này có tác dụng rất lớn bởi vì muốn PCBLGĐ, vi phạm pháp luật PCBLGĐ trước hết cần nâng cao nhận thức và trình độ pháp luật của người dân trong lĩnh vực này. Khi họ có kiến thức về pháp luật PCBLGĐ, họ sẽ
  • 29. 23 không vi phạm đồng thời chủ động phát hiện, tố cáo các hành vi vi phạm pháp luật của các chủ thể khác. Cũng là việc phát huy sức mạnh của công tác tuyên truyền, hiện nay Trung Quốc đang thông qua giới báo chí và các phương tiện truyền thông để đẩy mạnh công tác tuyên truyền về PCBLGĐ đối với phụ nữ. Tờ Trung Quốc Nhật báo đã tổ chức tập huấn về vai trò của phương tiện thông tin đại chúng đối với việc PCBLGĐ. Các chủ đề chính được thảo luận trong chương trình tập huấn là nhận thức về giới, bạo lực gia đình và vai trò của báo chí trong việc tìm hiểu, can thiệp và ngăn chặn bạo lực xảy ra. Bên cạnh đó, Trung Quốc còn thành lập các Trung tâm dịch vụ pháp lý phục vụ cho hoạt động PCBLGĐ như Trung tâm tư vấn tâm lý phụ nữ. Hoạt động của các trung tâm này cũng nhằm nâng cao nhận thức của chị em phụ nữ để họ biết cách bảo vệ mình trước tình trạng bạo lực gia đình. Như vậy, mặc dù những năm trước đây, rất nhiều phụ nữ Trung Quốc phải chịu đựng nạn bạo lực gia đình và tình trạng vi phạm pháp luật PCBLGĐ còn xảy ra nhiều nhưng với sự thay đổi về nhận thức từ năm 1995, cùng với sự nỗ lực của toàn Đảng, toàn dân Trung Quốc, việc PCBLGĐ đã đạt được nhiều kết quả tốt đẹp, tình trạng vi phạm pháp luật trong lĩnh vực PCBLGĐ đã giảm đáng kể mà một trong những biện pháp hữu hiệu là đẩy mạnh công tác tuyên truyền nhằm nâng cao nhận thức cho mọi người dân trong xã hội. 1.3.4. Phòng, chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ tại Philipphin Phi - lip -pin là một quốc gia đặc biệt quan tâm đến vấn đề PCBLGĐ. Yếu tố quyết định đến việc PCBLGĐ hiệu quả chính là Phi-lip-pin đã xây dựng được một hệ thống pháp luật và quy định khá đầy đủ về PCBLGĐ đối với phụ nữ. Theo pháp luật của Philipin thì đối tượng của nạn bạo lực gia đình không chỉ là phụ nữ mà luôn gắn liền với một đối tượng yếu thế của xã hội là trẻ em. Các văn bản pháp luật quan trọng trong lĩnh vực này như: Luật Gia đình; Luật hình sự và đặc biệt là Luật chống bạo hành phụ nữ và trẻ em năm 2004... Luật Chống bạo hành phụ nữ và trẻ em được Nghị viện Phi-lip-pin thông qua tại kỳ họp thứ 3, khoá 12, năm 2004 đã chỉ ra một cách chi tiết thế nào là "bạo hành đối với phụ
  • 30. 24 nữ và trẻ em"; các hình thức bạo hành như: bạo hành về thể chất, bạo hành tình dục, bạo hành tâm lý và lạm dụng kinh tế... (điều 3); quy định về các hành vi bạo hành với phụ nữ và trẻ em (điều 5). Luật còn quy định các quyền của nạn nhân bạo hành gia đình của phụ nữ và trẻ em như: được đối xử với sự tôn trọng về phẩm giá; được trợ giúp miễn phí; được hưởng các dịch vụ hỗ trợ của Bộ phúc lợi và các cơ quan địa phương; được hưởng mọi sự bồi thường pháp lý và hỗ trợ theo quy định của bộ luật gia đình; được thông báo về các quyền và dịch vụ dành cho mình bao gồm cả quyền được nộp đơn đề nghị ra quyết định bảo vệ; quyền được tạm nghỉ việc...Như vậy, người phụ nữ khi bị là nạn nhân của bạo lực gia đình, họ có rất nhiều quyền và có nhiều cơ chế đảm bảo thực hiện quyền này. Điều này thể hiện sự quan tâm đặc biệt của nhà nước Phi-lip-pin đối với nạn nhân bạo lực gia đình cũng như đối với vấn đề bạo lực gia đình. Để công tác PCBLGĐ có hiệu quả, Luật Chống bạo hành phụ nữ và trẻ em của Phi- lip-pin còn quy định rõ trách nhiệm của các cơ quan nhà nước nhất là cơ quan công an và cán bộ y tế trong việc giúp đỡ các nạn nhân cũng như xử lý các vụ vi phạm pháp luật chống bạo hành gia đình đối với phụ nữ và trẻ em. Họ phải giúp đỡ nạn nhân về mọi mặt và dưới nhiều hình thức, cả hỗ trợ ngay tức thì cũng như các biện pháp hỗ trợ lâu dài. Điều đặc biệt, Luật Chống bạo hành phụ nữ và trẻ em đã quy định về việc hình thành cơ quan có trách nhiệm trong việc chống bạo hành gia đình đối với phụ nữ và trẻ em. Tại điều 39 của Luật quy định việc hình thành Hội đồng liên ngành về chống bạo hành với phụ nữ và trẻ em gồm: 1. Cơ quan phúc lợi và phát triển xã hội; Uỷ ban quốc gia về quyền của phụ nữ; 3. Uỷ ban dịch vụ dân sự; 4. Hội đồng chăm sóc trẻ em; 5. Bộ Tư pháp; 6. Bộ Nội vụ và chính quyền địa phương; 7. Cảnh sát quốc gia; 8. Bộ Y tế; 9. Bộ Giáo dục; 10. Bộ Lao động và việc làm; 11. Cục điều tra quốc gia . Các cơ quan này có nhiệm vụ đưa ra các chương trình và dự án ngăn chặn nạn bạo hành theo thẩm quyền của từng cơ quan, đồng thời thực hiện các chương trình nâng cao năng lực cho nhân viên của họ thích ứng nhanh hơn với nhu cầu của các đối tượng mà họ phục vụ. Hội đồng
  • 31. 25 có nhiệm vụ sẽ giám sát việc thực hiện công tác của các cơ quan nói trên. Tại Phi-lip-pin, theo quy định của Luật Chống bạo hành phụ nữ và trẻ em, một Uỷ ban liên ngành về bạo lực đối với phụ nữ và trẻ em đẫ được thành lập. ủy ban liên ngành này được tổ chức và hoạt động nhằm đáp ứng một cách nhanh nhất các biện pháp bảo đảm cho việc phát hiện kịp thời, xử lý nghiêm minh những hành vi vi phạm pháp luật chống bạo hành phụ nữ và trẻ em, đồng thời ngăn chặn tối đa những thiệt hại về tính mạng, tinh thần và sức khỏe cũng như các thiệt hại khác của nạn nhân nữ. 1.3.5. Phòng, chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ tại Thái Lan Một trong những nước khác ở Đông Nam Á có nhiều kinh nghiệm trong việc PCBLGĐ là Thái Lan. Cùng với việc xây dựng một hệ thống pháp luật hoàn thiện để điều chỉnh hết và kịp thời các hành vi bạo lực gia đình, quy định trách nhiệm, việc xử lý các vụ vi phạm pháp luật bạo lực gia đình, Thái Lan còn sử dụng các biện pháp rất hiệu quả. Một trong những biện pháp đó là xây dựng mô hình trung tâm hỗ trợ các nạn nhân của bạo lực gia đình đối với phụ nữ (OSCC). Trung tâm này có chức năng điều trị, tư vấn về luật pháp và tâm lý cho các nạn nhân này. Tại Thái Lan, Trung tâm OSCC được thành lập lần đầu tiên ở các Bệnh viện từ năm 1998, sau đó mở rộng dần từ Trung ương xuống cấp huyện. Đến năm 2005, đã có 109 trung tâm được thành lập trên khắp đất nước. Đây là thành công lớn của Thái Lan trong việc kết hợp thêm chức năng tư vấn và hỗ trợ các nạn nhân của bạo lực gia đình cho các cơ sở y tế. 1.4. Quy định của pháp luật Việt Nam về phòng, chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ Phòng, chống bạo lực gia đình trong đó có PCBLGĐ đối với phụ nữ đã được đề cập trong một số văn bản pháp luật của nước ta như: Hiến pháp 1992, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, Bộ luật Dân sự năm 2005, Bộ luật Tố tụng Dân sự, Bộ luật Hình sự năm 1999, Bộ luật Tố tụng Hình sự 2003, Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính, Pháp lệnh người cao tuổi.... Những văn bản pháp luật trên đã có rất nhiều quy định
  • 32. 26 về phòng, chống bạo lực gia đình, góp phần quan trọng trong bảo vệ người phụ nữ khỏi bạo lực gia đình. Để công tác PCBLGĐ có hiệu quả hơn nữa, ngày 21 tháng 11 năm 2007, Quốc hội khoá XII của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã thông qua Luật Phòng, chống bạo lực gia đình. Luật Phòng, chống bạo lực gia đình ra đời là một bước tiến tích cực, có ý nghĩa rất lớn để chúng ta tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật về PCBLGĐ, bảo vệ quyền con người, bảo vệ người phụ nữ, tiếp tục sự nghiệp giải phóng người phụ nữ, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Luật Phòng, chống bạo lực gia đình lần đầu tiên ra đời như tiếng chuông lớn cảnh tỉnh những ai đang có hành vi bạo lực gia đình đối với phụ nữ, gửi đến tất cả các chủ thể trong xã hội một thông điệp rõ ràng rằng bạo lực gia đình nói chung và bạo lực gia đình đối với phụ nữ là trái với đạo đức, đi ngược lại truyền thống đạo đức tốt đẹp của dân tộc, trái với ý chí chung của xã hội, là vi phạm pháp luật, vi phạm những chuẩn mực chung của xã hội và phải chịu sự trừng phạt của xã hội, của pháp luật. Cụ thể hoá các quy định của Hiến pháp 1992, nội dung PCBLGĐ đối với phụ nữ được quy định trong nhiều văn bản pháp luật khác. Tiêu biểu là những quy định trong Bộ luật Hình sự năm 1999 là một trong những văn bản đó. Bộ luật Hình sự là căn cứ để xác định hành vi bạo lực gia đình nào là hành vi phạm tội. Điều 130, Bộ luật Hình sự năm 1999 quy định tội xâm phạm quyền bình đẳng của phụ nữ: "người nào dùng vũ lực hoặc có hành vi nghiêm trọng khác cản trở phụ nữ tham gia hoạt động chính trị, kinh tế, khoa học, văn hoá, xã hội, thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến một năm hoặc bị phạt tù từ ba tháng đến một năm". Cùng với Bộ luật Hình sự, Luật Tổ chức Chính phủ cũng quy định nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ: "thực hiện chính sách và biện pháp bảo đảm quyền bình đẳng nam nữ về mọi mặt chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội và gia đình; bảo vệ, chăm sóc bà mẹ và thực hiện quyền trẻ em; giúp đỡ người già, người khuyết tật và trẻ em có hoàn cảnh khó khăn đặc biệt; có biện pháp ngăn ngừa và chống mọi hành vi bạo lực đối với phụ nữ
  • 33. 27 và trẻ em, xúc phạm nhân phẩm phụ nữ và trẻ em". (Khoản 4, điều 12, Luật Tổ chức Chính phủ). Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000 là một trong những văn bản pháp luật quan trọng trong việc xây dựng, hoàn thiện và bảo vệ chế độ hôn nhân và gia đình tiến bộ, xây dựng chuẩn mực pháp lý cho cách ứng xử của các thành viên trong gia đình, kế thừa và phát huy truyền thống đạo đức tốt đẹp của gia đình Việt Nam nhằm xây dựng gia đình ấm no, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc, bền vững. Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam còn là phương tiện hữu hiệu trong việc PCBLGĐ. Luật đã có nhiều điều khoản quy định trực tiếp và gián tiếp đến việc PCBLGĐ. Tuy nhiên, xét một cách tổng quát, những quy định đó vẫn còn sơ sài, tản mạn ở nhiều văn bản khác nhau, thiếu tính cụ thể và chưa có những quy định pháp lý đặc thù. Ngoài ra, Bộ luật hình sự Việt Nam đã hình sự hoá nhiều hành vi bạo lực gia đình, quy định thành nhiều tội phạm liên quan đến bạo lực gia đình. Tuy nhiên, những điều luật đó mới chỉ quy định gián tiếp về hành vi bạo lực gia đình, chưa có nhiều quy định trực tiếp về PCBLGĐ trong đó có PCBLGĐ đối với phụ nữ. 1.4.1. Nguyên tắc phòng, chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ Theo quy định của Luật Phòng, chống bạo lực gia đình, nguyên tắc của phòng, chống bạo lực gia đình bao gồm: Kết hợp và thực hiện đồng bộ các biện pháp phòng, chống bạo lực gia đình, lấy phòng ngừa là chính, chú trọng công tác tuyên truyền, giáo dục về gia đình, tư vấn, hoà giải phù hợp với truyền thống văn hoá, phong tục, tập quán tốt đẹp của dân tộc Việt Nam. Đây là nguyên tắc chủ đạo trong phòng, chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ bởi nhiều lý do. Xuất phát từ thực tế quan hệ trong gia đình thường mang tính khép kín, với các thành viên gia đình cũng như những người xung quanh, việc trong gia đình thì người ngoài ít có cơ hội xen vào. Vì thế, những vụ việc bạo hành gia đình đối với phụ nữ thường khó phát hiện, khi bị phát hiện cũng
  • 34. 28 khó xử lý bởi tâm lý e ngại của nạn nhân là phụ nữ và cả những người biết chuyện, và thậm chí nếu xử lý rồi thì khả năng tái diễn cũng rất cao vì để tìm ra biện pháp ngăn chặn phù hợp là không dễ. Các quy định pháp luật khó vươn tới từng gia đình, bởi nhận thức của người dân về vấn đề này còn hạn chế, sự can thiệp thô bạo của pháp luật có thể dẫn tới phá hủy các mối quan hệ giữa các thành viên gia đình. Chính vì vậy, công tác tuyên truyền, giáo dục về gia đình, tư vấn, hoà giải trong vấn đề này là rất quan trọng, góp phần định hướng hành vi của mỗi người: nạn nhân được trang bị kiến thức để tự bảo vệ; người có thể có hành vi bạo lực thì nhận thức được tính chất, hậu quả của hành vi để tự kiềm chế tốt hơn; những người xung quanh biết được trách nhiệm tham gia PCBLGĐ và có ứng xử phù hợp. Việc tuyên truyền giáo dục nếu kết hợp với truyền thống văn hoá, phong tục, tập quán tốt đẹp của dân tộc thì sẽ càng được phát huy tốt hơn nữa, bởi vì người Việt Nam nói chung chịu tác động khá lớn từ những tư tưởng này. Đặc biệt, ở những nơi mà quan niệm "phép vua thua lệ làng", trình độ dân trí thấp thì việc giáo dục người dân thông qua các phong tục, tập quán mói có thể phát huy hiệu quả tốt nhất. Hành vi bạo lực gia đình được phát hiện, ngăn chặn và xử lý kịp thời theo quy định của pháp luật. Đây là một trong những nguyên tắc chung của pháp luật. Riêng trong lĩnh vực bạo lực gia đình đối với phụ nữ, việc phát hiện, ngăn chặn và xử lý kịp thời các hành vi càng có ý nghĩa quan trọng, nếu không thì có thể trở thành "thói quen", được chấp nhận với cả nạn nhân, người vi phạm và những người xung quanh. Thực tế cho thấy: nếp sống, nếp nghĩ của người Việt Nam nói chung vẫn cho rằng những hành vi bạo lực trong gia đình đối với phụ nữ là bình thường, thậm chí đôi khi là cần thiết. Vì thế, những hành vi bạo lực mà luật quy định thường không được nhìn nhận, từ đó khó phát hiện, và càng khó ngăn chặn, xử lý. Do đó, quy định về nguyên tắc này là cần thiết nhằm nâng cao ý thức, trách nhiệm của mọi công dân trong lĩnh vực này.
  • 35. 29 Nạn nhân bạo lực gia đình được bảo vệ, giúp đỡ kịp thời phù hợp với điều kiện hoàn cảnh của họ và điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước; ưu tiên bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của trẻ em, người cao tuổi, người tàn tật và phụ nữ. Giúp đỡ các nạn nhân, bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của họ là điều cần thiết và đã được pháp luật ghi nhận như một nguyên tắc quan trọng, mọi người đều phải tuân theo. Như đã phân tích ở trên, những vấn đề về gia đình, trong đó có bạo lực gia đình thường không nhận được sự quan tâm sâu sắc và đúng đắn của những người xung quanh, bởi vì họ coi đấy là chuyện riêng, chuyện nội bộ của mỗi nhà. Từ đó, việc giúp đỡ nạn nhân trở nên hạn chế, nhất là khi họ còn phải lo sợ sự trả thù của người có hành vi bạo lực. Ngoài ra, việc giúp nạn nhân như thế nào, bằng những phương tiện gì cũng gây cho họ những lúng túng nhất định, do đó pháp luật cho phép họ tùy khả năng, tình hình mà đưa ra những xử sự hợp lý nhất, ưu tiên những đối tượng dễ bị tổn thương như trẻ em, phụ nữ, người già… Phát huy vai trò, trách nhiệm của cá nhân, gia đình, cộng đồng, cơ quan, tổ chức trong phòng, chống bạo lực gia đình. [Điều 3] Bạo lực gia đình đối với phụ nữ từ lâu đã không còn là vấn đề của mỗi gia đình mà còn tiềm ẩn nhiều nguy cơ gây mất ổn định xã hội, do đó việc PCBLGĐ đối với phụ nữ là trách nhiệm chung của cộng đồng chứ không chỉ là của nhà nước và những người có liên quan. Bên cạnh đó, công tác PCBLGĐ đối với phụ nữ vốn gặp nhiều khó khăn khi triển khai trên thực tế, nên rất cần sự quan tâm phối hợp của tất cả các thành viên trong xã hội. Tuy nhiên, hiện nay không có nhiều chủ thể tích cực tham gia công tác này do nhận thức không đúng tầm quan trọng, ý nghĩa của nó. Việc quy định nguyên tắc này một lần nữa khẳng định tầm quan trọng cũng như sự cần thiết của việc phát huy vai trò, trách nhiệm của cá nhân, gia đình, cộng đồng, cơ quan, tổ chức trong PCBLGĐ đối với phụ nữ.
  • 36. 30 1.4.2. Quyền, nghĩa vụ của các chủ thể trong việc phòng, chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ 1.4.2.1. Quyền, nghĩa vụ của nạn nhân Quyền và nghĩa vụ của nạn nhân bạo lực gia đình được quy định cụ thể tại Điều 5, Luật Phòng, chống bạo lực gia đình, bao gồm: “1. Nạn nhân bạo lực gia đình có các quyền sau đây: a) Yêu cầu cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền bảo vệ sức khỏe, tính mạng, nhân phẩm, quyền và lợi ích hợp pháp khác của mình; b) Yêu cầu cơ quan, người có thẩm quyền áp dụng biện pháp ngăn chặn, bảo vệ, cấm tiếp xúc theo quy định của Luật này; c) Được cung cấp dịch vụ y tế, tư vấn tâm lý, pháp luật; d) Được bố trí nơi tạm lánh, được giữ bí mật về nơi tạm lánh và thông tin khác theo quy định của Luật này; đ) Các quyền khác theo quy định của pháp luật. 2. Nạn nhân bạo lực gia đình có nghĩa vụ cung cấp thông tin liên quan đến bạo lực gia đình cho cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền khi có yêu cầu.” Nạn nhân trong việc BLGĐ đối với phụ nữ chính là người phụ nữ, những người đã bị chính người thân của mình gây ra những thương tổn nhất định, rất cần nhận được sự giúp đỡ của cộng đồng và xã hội. Khi hành vi BLGĐ với phụ nữ đã xảy ra trong gia đình thì những thành viên gia đình vì những mối liên hệ với người thực hiện hành vi bạo lực sẽ rất khó có sự can thiệp mạnh mẽ, dứt khoát cần thiết để bảo vệ nạn nhân. Do đó, nạn nhân cần sự giúp đỡ của các cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền để bảo vệ sức khỏe, tính mạng, nhân phẩm, quyền và lợi ích hợp pháp của minh. Việc quy định đây là quyền của nạn nhân, tức là nghĩa vụ của các chủ thể khác phải thực hiện là hoàn toàn đúng đắn. Bởi vì thực tế cho thấy ở rất nhiều nơi, việc can thiệp bảo vệ phụ nữ trong nạn bạo lực gia đình còn rất e dè vì quan niệm đấy là “chuyện riêng”, là vấn đề tế nhị của các gia đình.
  • 37. 31 1.4.2.2. Quyền và nghĩa vụ của người có hành vi bạo lực gia đình đối với phụ nữ Người có hành vi BLGĐ đối với phụ nữ là người đã gây ra những tổn hại hoặc có khả năng gây tổn hại cho thành viên khác trong gia đình. Trong lĩnh vực PCBLGĐ, nghĩa vụ của họ được ghi nhận ở Điều 4, Luật Phòng, chống bạo lực gia đình: “1. Tôn trọng sự can thiệp hợp pháp của cộng đồng; chấm dứt ngay hành vi bạo lực. 2. Chấp hành quyết định của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền. 3. Kịp thời đưa nạn nhân đi cấp cứu, điều trị; chăm sóc nạn nhân bạo lực gia đình, trừ trường hợp nạn nhân từ chối. 4. Bồi thường thiệt hại cho nạn nhân bạo lực gia đình khi có yêu cầu và theo quy định của pháp luật.” Trước hết, khi thực hiện hành vi bạo lực gia đình đối với phụ nữ và bị phát hiện, người có hành vi bạo lực gia đình đối với phụ nữ phải tôn trọng sự can thiệp hợp pháp của cộng đồng; chấm dứt ngay hành vi bạo lực. Cộng đồng ở đây là chỉ chung những người biết được về hành vi, có thể là thành viên khác trong gia đình, hành xóm, tổ dân phố, người chứng kiến… Sự can thiệp ở đây phải là can thiệp hợp pháp, tức là chỉ được thực hiện những điều pháp luật cho phép (buộc chấm dứt hành vi, cấp cứu nạn nhân…). Mọi sự can thiệp trái pháp luật (sử dụng vũ lực với người có hành vi bạo lực gia đình đối với phụ nữ, tiếp tay cho hành vi bạo lực…) đều sẽ bị xử lý theo quy định của pháp luật. Tôn trọng sự can thiệp nghĩa là người có hành vi bạo lực gia đình đối với phụ nữ phải lắng nghe, thực hiện theo những yêu cầu chính đáng của cộng đồng, không được có thái độ hung hãn, thù địch, chống đối hay có ý định trả thù sự can thiệp đó. Chấp hành quyết định của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền cũng là nghĩa vụ của người có hành vi bạo lực gia đình đối với phụ nữ. Trong lĩnh vực phòng, chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ, những chủ thể có thẩm quyền có thể đưa ra những chế tài như: góp ý, phê bình trong cộng đồng dân cư; cấm tiếp xúc; áp
  • 38. 32 dụng các biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn… Việc bị xử lý hành vi bạo lực gia đình vốn không quen thuộc với người Việt Nam, vì rất nhiều người vẫn nghĩ đó là quyền của họ. Do đó, quy định người có hành vi bạo lực có nghĩa vụ chấp hành quyết định của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền là cần thiết để tạo ra cơ sở pháp lý mạnh mẽ, buộc chủ thể phải thực hiện, đảm bảo hiệu quả của công tác PCBLGĐ đối với phụ nữ. Với những trường hợp nạn nhân bị tổn thương về thể chất hoặc tinh thần, cần tới sự can thiệp của y tế thì người thực hiện hành bạo lực phải kịp thời đưa nạn nhân đi cấp cứu, điều trị; chăm sóc nạn nhân bạo lực gia đình, trừ trường hợp nạn nhân từ chối. Đây tưởng chừng là điều hiển nhiên, là ứng xử bắt buộc của các thành viên gia đình đối với nhau, nhưng lại là điều rất khó thực hiện khi một bên là chủ thể, một bên là nạn nhân của hành vi bạo lực. Người thực hiện hành vi khi đã nhẫn tâm ra tay thì rất khó có chuyện thương xót, lo lắng cho nạn nhân mà đưa họ đi chữa trị, chăm sóc; hoặc có khi hành vi là bột phát, họ nhận thấy sai lầm của mình nhưng do sợ bị phát hiện, sợ phải gánh trách nhiệm nên không dám đưa nạn nhân tới cơ sở chữa trị. Chính vì vậy, pháp luật cần quy định đây là nghĩa vụ, bắt buộc họ phải thực hiện để đảm bảo quyền lợi về sức khỏe cho nạn nhân. Trong trường hợp nạn nhân từ chối sự chăm sóc của người đã gây tổn thương cho mình, điều này là hoàn toàn phù hợp về tâm lý, thì người có hành vi bạo lực cũng phải tôn trọng và thực hiện điều đó. Luật Phòng, chống bạo lực gia đình không nhắc tới quyền mà chỉ quy định nghĩa vụ của người có hành vi bạo lực gia đình nói chung và bạo lực gia đình đối với phụ nữ nói riêng. Điều này trước hết có lẽ bởi vì những người này đã thực hiện hành vi vi phạm pháp luật, nên họ phải chịu những trách nhiệm nhất định và không được hưởng sự bảo vệ của pháp luật trong lĩnh vực này. 1.4.3. Trách nhiệm của cá nhân, gia đình và các cơ quan, tổ chức trong phòng, chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ 1.4.3.1. Trách nhiệm của cá nhân, gia đình Điều 32, Luật Phòng, chống bạo lực gia đình quy định về trách nhiệm gia đình và các thành viên gia đình trong phòng, chống bạo lực gia đình:
  • 39. 33 1. Giáo dục, nhắc nhở thành viên gia đình thực hiện quy định của pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình, hôn nhân và gia đình, bình đẳng giới, phòng, chống ma túy, mại dâm và các tệ nạn xã hội khác. 2. Hòa giải mâu thuẫn, tranh chấp giữa các thành viên gia đình; can ngăn người có hành vi bạo lực gia đình chấm dứt hành vi bạo lực; chăm sóc nạn nhân bạo lực gia đình. 3. Phối hợp với cơ quan, tổ chức và cộng đồng dân cư trong phòng, chống bạo lực gia đình. 4. Thực hiện các biện pháp khác về phòng, chống bạo lực gia đình theo quy định của Luật này. Phải khẳng định rằng gia đình và các thành viên gia đình đóng một vai trò rất quan trọng trong công tác PCBLGĐ nói chung và PCBLGĐ đối với phụ nữ nói riêng. Bất cứ thành viên nào trong gia đình cũng có thể có hành vi của bạo lực gia đình nói chung và bạo lực gia đình đối với phụ nữ nói riêng: mẹ chồng ruồng rẫy nàng dâu, chị dâu em chồng xích mích với nhau..; đồng thời chính họ cũng dễ dàng trở thành nạn nhân của bạo lực gia đình đối với phụ nữ. Tuy nhiên, ở đây chúng chỉ đề cập tới họ dưới khía cạnh là người chứng kiến bạo lực gia đình đối với phụ nữ. Cùng chung sống dưới một mái nhà, họ là người chịu tác động trực tiếp của hành vi, có khả năng phát hiện nhanh chóng cũng như tìm hiểu nguyên nhân, diễn biến, mức độ của hành vi bạo lực; họ cũng là người có khả năng thành công trong việc giáo dục, thuyết phục người có hành vi bạo lực thay đổi hành vi bởi vì hai bên có sự hiểu biết về nhau, có mối quan hệ thân thiết với nhau… Chính vì vậy, pháp luật đã quy định gia đình và các thành viên gia đình phải có những trách nhiệm, phải có sự chủ động nhất định trong PCBLGĐ nói chung và PCBLGĐ đối với phụ nữ nói riêng: giáo dục, nhắc nhở, hòa giải mâu thuẫn giữa các thành viên, can ngăn người có hành vi bạo lực; chăm sóc nạn nhân... Đây là những việc họ hoàn toàn có khả năng thực hiện, nhưng việc có thực hiện không, thực hiện như thế nào thì lại phụ thuộc vào mỗi người, mỗi gia đình, mỗi hoàn cảnh, Nhà nước
  • 40. 34 không quy định đây là nghĩa vụ mà chỉ là trách nhiệm của gia đình và các thành viên. Tuy nhiên, nếu có những hành vi bị cấm trong PCBLGĐ nói chung và PCBLGĐ đối với phụ nữ nói riêng thì họ phải chịu trách nhiệm theo quy định của pháp luật. Cụ thể: một số hành vi bị pháp luật nghiêm cấm, được quy định tại Điều 8, Luật Phòng, chống bạo lực gia đình: 1. Các hành vi bạo lực gia đình quy định tại Điều 2 của Luật này. 2. Cưỡng bức, kích động, xúi giục, giúp sức người khác thực hiện hành vi bạo lực gia đình. 3. Sử dụng, truyền bá thông tin, hình ảnh, âm thanh nhằm kích động bạo lực gia đình. 4. Trả thù, đe doạ trả thù người giúp đỡ nạn nhân bạo lực gia đình, người phát hiện, báo tin, ngăn chặn hành vi bạo lực gia đình. 5. Cản trở việc phát hiện, khai báo và xử lý hành vi bạo lực gia đình. 6. Lợi dụng hoạt động phòng, chống bạo lực gia đình để trục lợi hoặc thực hiện hoạt động trái pháp luật. 7. Dung túng, bao che, không xử lý, xử lý không đúng quy định của pháp luật đối với hành vi bạo lực gia đình. Với tâm lý hiếu thắng, coi trọng sỹ diện vốn rất phổ biến ở Việt Nam, rất nhiều hành vi bạo lực gia đình nói chung và bạo lực gia đình đối với phụ nữ nói riêng xuất phát từ sự xúi giục, kích động, khích bác… của những người xung quanh. Những hành vi đó có thể chỉ là lời nói đùa vô ý, sự trêu chọc lẫn nhau, thậm chí là những lời khuyên bảo sai lầm; nhưng đó cũng có thể là ác tâm muốn phá hủy hạnh phúc gia đình người khác, muốn trục lợi hoặc thực hiện ý đồ xấu khác. Khi hành vi bạo lực xảy ra, người thực hiện hành vi và những người có liên quan đương nhiên muốn trốn tránh, cản trở việc phát hiện và xử lý; nếu không được thì sẽ có tâm lý muốn trả thù người đã phát hiện, khai báo, giúp đỡ nạn nhân… Trong một số trường hợp, những hành vi này đã nhận được sự dung túng, bao che của những người có thẩm quyền. Kết quả là bạo lực gia đình không ngừng gia tăng và tiếp tục để lại những hậu quả nặng nề cho gia đình và