Download luận văn thạc sĩ ngành luật kinh tế với đề tài: Áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trong giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài thương mại theo pháp luật Việt Nam hiện nay, cho các bạn làm luận văn tham khảo
Luận văn: Biện pháp khẩn cấp tạm thời trong giải quyết tranh chấp
1. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
LÊ BÁ TÒNG
ÁP DỤNG BIỆN PHÁP KHẨN CẤP TẠM THỜI TRONG
GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP BẰNG TRỌNG TÀI THƯƠNG
MẠI THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ
HÀ NỘI, năm 2019
2. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
LÊ BÁ TÒNG
ÁP DỤNG BIỆN PHÁP KHẨN CẤP TẠM THỜI TRONG
GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP BẰNG TRỌNG TÀI THƯƠNG
MẠI THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY
Ngành: Luật kinh tế
Mã số: 8.38.01.07
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. LÊ THỊ BÍCH THỌ
HÀ NỘI, năm 2019
3. LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn này tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến các
quý Thầy, Cô của Học viện Khoa học Xã hội đã giúp tôi trang bị kiến thức,
tạo môi trường thuận lợi nhất trong suốt quá trình học tập và thực hiện luận
văn.
Với lòng kính trọng và biết ơn, tôi xin bày tỏ lời cảm ơn sâu sắc tới Cô
PGS.TS Lê Thị Bích Thọ, đã tận tình, tận tâm, khuyến khích, chỉ dẫn cho tôi
trong suốt thời gian thực hiện luận văn này.
Tôi gửi lời tri ân sâu sắc đến đồng nghiệp và những người bạn đã động
viên hỗ trợ tôi rất nhiều trong suốt quá trình học tập, làm việc và hoàn thiện
luận văn này.
Do hiểu biết hạn chế, thời gian nghiên cứu có giới hạn, nên luận văn sẽ
không tránh khỏi những thiếu sót, người viết mong nhận được sự đóng góp ý
kiến của các Nhà khoa học, Thầy giáo, Cô giáo và đồng nghiệp để luận văn
được hoàn thiện hơn.
4. LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn này hoàn toàn do tôi thực hiện. Các đoạn
trích dẫn và số liệu sử dụng trong luận văn đều được dẫn nguồn và có độ
chính xác cao nhất trong phạm vi hiểu biết của tôi.
Hà Nội, ngày 25 tháng 02 năm 2019
NGƯỜI CAM ĐOAN
LÊ BÁ TÒNG
5. MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ......................................................................................................... 1
Chương 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ ÁP DỤNG BIỆN PHÁP KHẨN CẤP
TẠM THỜI TRONG GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP BẰNG TRỌNG
TÀI THƯƠNG MẠI ....................................................................................... 5
1.1. Biện pháp khẩn cấp tạm thời trong giải quyết tranh chấp bằng trọng tài
thương mại......................................................................................................... 5
1.1.1. Khái niệm biện pháp khẩn cấp tạm thời ................................................. 5
1.1.2. Đặc trưng của biện pháp khẩn cấp tạm thời............................................ 6
1.1.3. Thuộc tính của biện pháp khẩn cấp tạm thời .......................................... 7
1.1.4. Sự cần thiết phải có biện pháp khẩn cấp tạm thời trong giải quyết tranh
chấp bằng trọng tài thương mại......................................................................... 8
1.2. Nguyên tắc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời.................................100
1.2.1. Bảo đảm quyền lợi của các bên đương sự ..........................................100
1.2.2. Bảo đảm tính hiệu quả của biện pháp được áp dụng ..........................100
1.2.3. Bảo đảm quyền tự định đoạt của đương sự...........................................12
1.3. Các quy định về biện pháp khẩn cấp tạm thời trong luật trọng tài thương
mại năm 2010………………………………………………………………..13
Chương 2: THỰC TRẠNG VỀ ÁP DỤNG BIỆN PHÁP KHẨN CẤP
TẠM THỜI TRONG GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP BẰNG TRỌNG
TÀI THƯƠNG MẠI THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY ......22
2.1. Những điểm mới, thuận lợi trong việc áp dụng các biện pháp khẩn cấp
tạm thời trong giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại ....................22
2.2. Thực trạng về những bất cập, khó khăn trong việc áp dụng các biện pháp
khẩn cấp tạm thời trong giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại.....42
Chương 3: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN VÀ TĂNG CƯỜNG NHẰM
NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG CÁC BIỆN PHÁP KHẨN CẤP
TẠM THỜI TRONG GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP BẰNG TRỌNG
TÀI THƯƠNG MẠI THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY ......47
6. 3.1. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm
thời trong giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại theo pháp luật Việt
Nam hiện nay ..................................................................................................47
3.2. Giải pháp tăng cường nhằm nâng cao hiệu quả trong việc áp dụng các
biện pháp khẩn cấp tạm thời ...........................................................................55
3.2.1. Đối với các cơ quan tư pháp .................................................................55
3.2.2. Đối với trọng tài giải quyết tranh chấp .................................................56
3.2.3. Đối với các bên tranh chấp....................................................................57
3.3. Các giải pháp khác ...................................................................................58
KẾT LUẬN....................................................................................................62
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
7. DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
- BLDS: Bộ luật Dân sự năm 2015
- BLTTDS: Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015
- BPKCTT: Biện pháp khẩn cấp tạm thời
- HĐTT: Hội đồng trọng tài
- Luật mẫu của UNCITRAL: Luật mẫu của UNCITRAL về Trọng tài
Thương mại Quốc tế, được thông qua bởi UNCITRAL ngày 21/06/1985 và
được sửa đổi năm 2006
- LTTTM: Luật trọng tài thương mại năm 2010 được Quốc hội thông
qua ngày 17/06/2010, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2011
- PLTTTM: Pháp lệnh trọng tài thương mại năm 2003 được Ủy ban
thường vụ Quốc hội thông qua 25/02/2003, có hiệu lực từ ngày 01/07/2003
- TAND: Tòa án nhân dân.
8. 1
MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Với chính sách mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam đã ký
nhiều Điều ước quốc tế về thương mại, Việt Nam là thành viên của tổ chức
thương mại quốc tế chính thức vào ngày 11/01/2007 , sự mâu thuẩn và xung
đột về lợi ích giữa các doanh nghiệp , các quốc gia với nhau là điều tất yếu,
do đó các tranh chấp phát sinh là điều không tránh khỏi. Việc sử dụng hiệu
quả các phương thức giải quyết tranh chấp trong thương mại, mà đặc biệt là
giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài thương mại sẽ rất cần thiết để
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho các bên tranh chấp.
Hiện nay số lượng giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại còn
rất khiêm tốn, giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại chưa thực sự là
một hình thức giải quyết góp phần giảm tải cho Tòa án vì nó tồn tại những
điều chưa phù hợp. Việc áp dụng BPKCTT trong tố tụng trọng tài thương mại
chưa được chú ý khiến cho các doanh nghiệp không tin tưởng vào quá trình
giải quyết cũng như thi hành các phán quyết của trọng tài thương mại.
Luật trọng tài thương mại ra đời năm 2010, bằng việc quy định rõ hơn
về các BPKCTT trong tố tụng trọng tài thương mại, Luật trọng tài thương mại
năm 2010 đã thổi một luồng gió mới vào hình thức giải quyết tranh chấp bằng
trọng tài thương mại. Đặc biệt, việc quy định có tính chất mở rộng quyền của
HĐTT trong việc áp dụng các BPKCTT trong tố tụng trọng tài thương mại.
Tuy được quy định rất cụ thể về trình tự, thủ tục đối với việc áp dụng
BPKCTT nhưng trong quá trình thực hiện tại trọng tài thương mại đã nảy sinh
ra nhiều khó khăn, bất cập và việc thiếu thống nhất với nhau giữa các văn
bản pháp luật điều chỉnh việc áp dụng BPKCTT. Do vậy tác giả chọn đề tài “
Áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trong giải quyết tranh chấp bằng Trọng
9. 2
tài thương mại theo pháp luật Việt Nam hiện nay”. Làm đề tài nghiên cứu của
luận văn cao học luật, chuyên nghành luật kinh tế của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Hiện tại các công trình nghiên cứu và phân tích các BPKCTT từ góc độ
tố tụng của Tòa án hoặc theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự như của các
tác giả: Nguyễn Bích Thảo (2008), Các biện pháp khẩn cấp tạm thời trong
giải quyết tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ tại tòa án, Tạp chí Nhà nước và
pháp luât (số 9), Trần Phương Thảo (2005), Chế định biện pháp khẩn cấp tạm
thời, Tạp chí Luật học, Số Đặc san về Bộ luật tố tụng dân sự 2005, Trần
Phương Thảo (2009), Bảo vệ quyền và lợi ích của người bị áp dụng biện pháp
khẩn cấp tạm thời theo pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam, Tạp chí Luật học
(số 1). Trách nhiệm do áp dụng BPKCTT không đúng quy định tại điều 101
Bộ luật tố tụng dân sự của Trần Phương Thảo, Tạp chí Tòa án nhân dân, số
4/2010.
Các nghiên cứu về áp dụng BPKCTT trong tố tụng trọng tài, pháp luật
trọng tài thương mại Việt Nam rất ít nghiên cứu.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Góp phần hoàn thiện hơn pháp luật quy định về việc áp dụng các biện
pháp khẩn cấp tạm thời trong giải quyết tranh chấp thương mại bằng phương
thức trọng tài thương mại theo pháp luật Việt Nam hiện nay.
Luận văn nghiên cứu trên cơ sở lý luận các BPKCTT của Luật trọng tài
thương mại năm 2010, và thực trạng áp dụng các BPKCTT của Hội đồng
trọng tài trong giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại theo pháp luật
Việt Nam hiện nay
Nhiệm vụ nghiên cứu
10. 3
Phân tích các khái niệm, đặc điểm, phân loại BPKCTT, sự cần thiết
phải có các quy định về áp dụng BPKCTT trong pháp luật về trọng tài thương
mại, quyền và nghĩa vụ của các bên tranh chấp trong tố tụng trọng tài thương
mại đối với việc áp dụng các BPKCTT.
Đánh giá thực trạng các qui định và tình hình áp dụng BPKCTT trong
thời gian qua để hoàn thiện và tăng cường hiệu quả trong áp dụng các
BPKCTT của Hội đồng trọng tài trong gải quyết các tranh chấp thương mại ở
Việt Nam, Đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật trọng tài thương mại
Việt Nam năm 2010 về các quy định liên quan đến áp dụng các BPKCTT
trong quá trình tố tụng trọng tài thương mại.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những quy định của pháp luật
Việt Nam về biện pháp khẩn cấp tạm thời trong tố tụng trọng tài thương mại
chủ yếu các biện pháp khẩn cấp tạm thời của Luật trọng tài thương mại năm
2010.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở quan điểm biện chứng và duy
vật của chủ nghĩa Mác- Lênin, quan điểm đường lối chính sách của Đảng,
Nhà nước Việt Nam trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế và toàn cầu hóa.
Các phương pháp nghiên cứu khoa học truyền thống:
+ Phương pháp phân tích.
+ Phương pháp liệt kê.
+ Phương pháp chứng minh
+ Phương pháp so sánh
+ Phương pháp nghiên cứu tổng hợp
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
11. 4
Luận văn góp phần hoàn thiện hơn pháp luật quy định về việc áp dụng
các biện pháp khẩn cấp tạm thời trong giải quyết tranh chấp thương mại bằng
phương thức trọng tài thương mại theo pháp luật Việt Nam hiện nay. Đồng
thời là tài liệu tham khảo tốt cho doanh nghiệp, phục vụ và đáp ứng nhu cầu
hiểu biết cho các doanh nghiệp về trọng tài thương mại, Giúp doanh nghiệp
tin tưởng và sử dụng phương thức giải quyết tranh chấp kinh doanh thương
mại bằng trọng tài thương mại để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các
bên tranh chấp.
7. Kết cấu của luận văn
Luận văn được kết cấu bởi:
Phần mở đầu
Phần nội dung gồm 3 chương:
Chương 1: Lý luận chung về áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời
trong giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại .
Chương 2: Thực trạng về áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trong
giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại theo pháp luật Việt Nam hiện
nay.
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện và tăng cường nhằm nâng cao hiệu quả
áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời trong giải quyết tranh chấp bằng
trọng tài thương mại theo pháp luật Việt Nam hiện nay.
Kết luận
Danh mục tài liệu tham khảo
12. 5
Chương 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ ÁP DỤNG BIỆN PHÁP KHẨN CẤP TẠM
THỜI TRONG GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP BẰNG TRỌNG TÀI
THƯƠNG MẠI
1.1. Biện pháp khẩn cấp tạm thời trong giải quyết tranh chấp bằng
trọng tài thương mại
1.1.1. Khái niệm biện pháp khẩn cấp tạm thời
Pháp luật trọng tài thương mại Việt Nam không đưa ra khái niệm về
BPKCTT mà chỉ quy định về điều kiện và thủ tục yêu cầu áp dụng BPKCTT,
theo điều 33 PLTTTM năm 2003 Trong quá trình Hội đồng trọng tài (HĐTT)
giải quyết vụ tranh chấp, nếu quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm hại
hoặc có nguy cơ trực tiếp bị xâm hại, thì các bên có quyền làm đơn đến Tòa
án cấp tỉnh nơi HĐTT thụ lý vụ tranh chấp yêu cầu áp dụng một hoặc một số
BPKCTT.
Tác giả Tưởng Duy Lượng định nghĩa trong cuốn sách về “Pháp luật tố
tụng dân sự và thực tiễn xét xử” xuất bản năm 2009, về BPKCTT như sau “
BPKCTT là biện pháp Tòa án quyết định áp dụng trước khi thụ lý và trong
quá trình giải quyết vụ việc dân sự nhằm giải quyết nhu cầu cấp bách của
đương sự, bảo vệ bằng chứng, bảo toàn tài sản tranh chấp, tránh gây thiệt hại
không thể khắc phục được hoặc bảo đảm việc thi hành án” [10, tr.225]. Với
định nghĩa này cũng nêu rõ mục đích của việc áp dụng BPKCTT, đồng thời
cũng chỉ rõ hơn về thời điểm áp dụng BPKCTT trong tố tụng dân sự.
Biện pháp khẩn cấp tạm thời (BPKCTT) là những biện pháp khẩn cấp
cần được áp dụng trong những trường hợp đặc biệt, để tạm thời giải quyết
những vấn đề cấp bách nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho các bên
tranh chấp hoặc nhằm ngăn chặn các sự việc, hiện tượng hoặc hành vi có hại
13. 6
cho các bên, cũng như cho quá trình thụ lý và giải quyết tranh chấp tại trọng
tài thương mại.
Biện pháp khẩn cấp tạm thời (BPKCTT) trong tố tụng trọng tài thương
mại là những biện pháp khẩn cấp, cần thiết được trọng tài tạm thời áp dụng
trong quá trình thụ lý và giải quyết tranh chấp, trước khi ra quyết định cuối
cùng về vụ việc tranh chấp, nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho các
bên trong quá trình giải quyết tranh chấp tại trọng tài cũng như bảo đảm cho
tố tụng trọng tài được thực hiện theo đúng quy định của pháp luật.
1.1.2. Đặc trưng của biện pháp khẩn cấp tạm thời
Chủ thể yêu cầu HĐTT áp dụng BPKCTT: Trong tranh chấp kinh
doanh, thương mại chỉ có đương sự và người đại diện hợp pháp của đương sự
có quyền yêu cầu HĐTT áp dụng BPKCTT.
Chủ thể có thẩm quyền áp dụng BPKCTT: Chủ thể có thẩm quyền ra
quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ BPKCTT được pháp luật quy định, theo
điều 49 LTTTM thẩm quyền của HĐTT áp dụng BPKCTT.
Chủ thể có thẩm quyền áp dụng BPKCTT dựa trên cơ sở đơn yêu cầu
áp dụng BPKCTT của đương sự HĐTT giải quyết tranh chấp có thẩm quyền
ban hành quyết định áp dụng BPKCTT trên cơ sở chấp hành pháp luật liên
quan.
Sau khi nhận được quyết định áp dụng BPKCTT thì cơ quan Thi hành
án phải chủ động thi hành ngay trong thời hạn 24 giờ kể từ khi nhận được
quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ BPKCTT.
Đối tượng bị áp dụng: đối tượng của các BPKCTT trong giải quyết
kinh doanh, thương mại là tài sản đang tranh chấp, tài sản của người có nghĩa
vụ và các hành vi của cá nhân, cơ quan, tổ chức khác đối với tài sản đang
tranh chấp.
14. 7
Đơn đề nghị của các bên tranh chấp là điều kiện tiên quyết cần phải có
khi muốn áp dụng BPKCTT và việc áp dụng phải nhằm bảo vệ chứng cứ, bảo
toàn tình trạng tài sản tranh chấp, tránh gây thiệt hại không thể khắc phục
được hoặc đảm bảo thi hành án.
Quyền và nghĩa vụ của bên liên quan : tranh chấp kinh doanh thương
mại là tranh chấp quyền lợi tư và đối tượng áp dụng BPKCTT là tài sản, các
quyền đối với tài sản nên quyền và nghĩa vụ của các bên liên quan là bình
đẳng. Do vậy, ngoài người yêu cầu, người bị yêu cầu áp dụng BPKCTT là
đương sự của vụ tranh chấp thì người liên quan đến đối tượng bị áp dụng
cũng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
1.1.3. Thuộc tính của biện pháp khẩn cấp tạm thời
Tính “khẩn cấp”: cần được tiến hành, được giải quyết ngay không chậm
trễ, có tính chất nghiêm trọng, đòi hỏi phải có ngay những biện pháp tích cực
để đối phó, không cho phép chậm trễ.
Tính “tạm thời”: thể hiện ở chỗ, quyết định áp dụng BPKCTT không
phải là quyết định cuối cùng giải quyết tranh chấp, chỉ tạm thời được áp dụng
nhằm bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho bên có liên quan hoặc nhằm giúp cho
thủ tục tố tụng trọng tài được thực thi một cách hiệu quả. Sau khi quyết định
áp dụng BPKCTT, nếu lý do của việc áp dụng không còn nữa thì HĐTT hủy
quyết định này.
Tính khẩn cấp cũng được hiểu là BPKCTT được áp dụng khi quyền lợi
của một bên đương sự đang bị đe dọa, đang trong tình thế cấp bách, hoặc khi
chứng cứ đang có nguy cơ bị tiêu hủy, tài sản tranh chấp đang có nguy cơ bị
tẩu tán. Do vậy tính khẩn cấp của biện pháp này thể hiện ở chổ HĐTT phải ra
ngay quyết định áp dụng BPKCTT và quyết định này phải được thi hành ngay
nếu không thì việc ra quyết định không còn giá trị.
15. 8
Một tính chất không thể thiếu của BPKCTT nữa đó chính là tính có
hiệu lực thi hành ngay, tính “ kịp thời” của quyết định áp dụng BPKCTT tính
chất này xuất phát từ tính khẩn cấp tạm thời và được thi hành ngay mà không
bị kháng cáo kháng nghị, cơ quan thi hành án phải chủ động tổ chức thi hành
quyết định ngay.
Tính khẩn cấp của BPKCTT chỉ được bảo đảm khi và chỉ khi quyết
định áp dụng BPKCTT hợp pháp dựa trên điều kiện, thủ tục, thời hạn áp
dụng, phạm vi áp dụng và chủ thể có quyền áp dụng mà luật đã quy định.
1.1.4. Sự cần thiết phải có biện pháp khẩn cấp tạm thời trong giải
quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại
Giải quyết tranh chấp về thương mại bằng trọng tài là một hình thức
giải quyết tranh chấp mang tính tài phán, cùng tồn tại song song với hình thức
giải quyết tranh chấp thương mại bằng Tòa án. Ngược lại đây là hình thức
giải quyết tranh chấp ra đời nhằm một mặt giúp Tòa án giải quyết sự quá tải
do sự tồn động quá nhiều các vụ việc, mặt khác tạo cho các doanh nghiệp có
thêm một sự lựa chọn phù hợp với hoạt động kinh doanh của mình. Với ý
nghĩa đó, việc quy định các BPKCTT trong tố tụng trọng tài thương mại là sự
cần thiết.
Việc quy định các BPKCTT trong tố tụng trọng tài thương mại nhằm
khẳng định rằng việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại là hình
thức giải quyết tranh chấp mang tính tài phán vì trọng tài có quyền quyết định
về vụ tranh chấp và quyết định của trọng tài có giá trị chung thẩm đối với các
bên.
Là hình thức giải quyết tranh chấp hỗ trợ Tòa án tháo gỡ tình trạng quá
tải khi các tranh chấp về thương mại phát sinh ngày càng nhiều, hình thức giải
quyết tranh chấp bằng trọng tài không thể nằm ngoài sự điều chỉnh của pháp
luật về trọng tài thương mại nói riêng và pháp luật tố tụng dân sự nói chung.
16. 9
Việc quy định các BPKCTT trong tố tụng trọng tài thương mại là cần thiết,
bằng việc quy định về các biện pháp này trong tố tụng trọng tài thương mại,
pháp luật trọng tài thương mại muốn thừa nhận và khẳng định rằng giải quyết
tranh chấp về thương mại bằng trọng tài thương mại là hình thức giải quyết
tranh chấp mang tính tài phán, cùng tồn tại song hành với Tòa án và cùng chịu
sự điều chỉnh của pháp luật về tố tụng dân sự nói chung và pháp luật về trọng
tài thương mại nói riêng.
Quy định BPKCTT trong tố tụng trọng tài thương mại nhằm bảo vệ
quyền và lợi ích chính đáng của các bên trong quá trình thụ lý tranh chấp bảo
toàn tình trạng tài sản, bảo đảm đối tượng của vụ tranh chấp không bị thay
đổi trước khi trọng tài ra phán quyết về vụ tranh chấp.
Việc áp dụng BPKCTT mang nhiều ý nghĩa không những đối với việc
giải quyết vụ kiện của trọng tài mà cả đối với việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp của các bên tranh chấp. Điều này tạo lòng tin cho các doanh nghiệp khi
họ muốn lựa chọn hình thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại,
Họ hiểu rằng dù cơ quan giải quyết tranh chấp là Tòa án hay Trọng tài thương
mại thì quyền và lợi ích hợp pháp của họ trong tố tụng vẫn được pháp luật
thừa nhận và bảo vệ.
Trên thực tế vì lợi ích của mình hoặc do sự thiếu thiện chí của một
trong số các bên tranh chấp đã có hành vi tẩu tán tài sản, hủy hoại chứng cứ
việc áp dụng BPKCTT trong những trường hợp này, một mặt có tác động
chống lại các hành vi đó nhằm bảo vệ được chứng cứ, mặc khác còn bảo toàn
được tình trạng tài sản và giữ được tài sản bảo đảm cho việc thi hành quyết
định của trọng tài thương mại sau này.
Việc áp dụng BPKCTT sẽ giúp các doanh nghiệp trong việc bảo toàn
vốn, bảo vệ tình trạng tài sản của doanh nghiệp và trong nhiều trường hợp là
bảo vệ tài sản của Nhà nước, tài sản chung của các cổ đông.
17. 10
Quy định về các BPKCTT trong tố tụng trọng tài thương mại góp phần
nâng cao uy tín của các tổ chức trọng tài thương mại nói chung và của việc
giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài thương mại nói riêng.
Có thể nói áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời là một thủ tục mang lại
kết quả giải quyết vụ việc tranh chấp có hiệu quả nhất. Áp dụng biện pháp
khẩn cấp tạm thời là một trong những hoạt động tố tụng được hội đồng trọng
tài có thẩm quyền áp dụng trong quá trình giải quyết tranh chấp nhằm bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của các bên trong quá trình tiến hành tố tụng, cũng
như đảm bảo hiệu quả của quá trình thi hành án.
1.2. Nguyên tắc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời
1.2.1. Bảo đảm quyền lợi của các bên đương sự
Chỉ khi đáp ứng đầy đủ các điều kiện này thì việc áp dụng BPKCTT
mới được thực thi, người yêu cầu áp dụng phải chứng minh được việc yêu cầu
là cần thiết, phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại khi yêu cầu áp dụng
không đúng, bên yêu cầu áp dụng BPKCTT phải nộp một khoản tài chính do
Hội đồng trọng tài ấn định để đảm bảo cho yêu cầu áp dụng. Đây là điều hoàn
toàn phù hợp và cần thiết, việc quy định trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ bảo
đảm, trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho người có yêu cầu, buộc họ phải cân
nhắc và có trách nhiệm khi muốn áp dụng BPKCTT, Tuy nhiên cũng cần phải
có cơ chế bảo đảm cho người có yêu cầu áp dụng BPKCTT trong trường hợp
họ đã thực hiện đầy đủ các quy định của pháp luật.
1.2.2. Bảo đảm tính hiệu quả của biện pháp được áp dụng
Có thể nói áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời là một thủ tục mang lại
kết quả giải quyết vụ việc tranh chấp có hiệu quả nhất. Áp dụng biện pháp
khẩn cấp tạm thời là một trong những hoạt động tố tụng được hội đồng trọng
tài có thẩm quyền áp dụng trong quá trình giải quyết tranh chấp nhằm bảo vệ
18. 11
quyền và lợi ích hợp pháp của các bên trong quá trình tiến hành tố tụng, cũng
như đảm bảo hiệu quả của quá trình thi hành án.
BPKCTT có thể áp dụng trước khi thụ lý vụ việc dân sự, còn tấc cả các
biện pháp khác, quyết định khác chỉ được áp dụng sau khi vụ án được thụ lý.
Xuất phát từ mục đích là nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương
sự được kịp thời ngăn chặn những hành vi gây thiệt hại, tẩu tán tài sản, hủy
hoại chứng cứ giúp cho quá trình giải quyết tranh chấp của HĐTT được thuận
lợi và đặc biệt là việc đảm bảo cho việc thi hành quyết định trọng tài.
Tính hiệu quả của BPKCTT thể hiện trước hết ở tính kịp thời của nó,
sự chậm trễ trong áp dụng BPKCTT có khi dẫn đến việc vô hiệu hóa toàn bộ
kết quả hoạt động tố tụng, gây thiệt hại nghiêm trọng cho bên có lợi ích hợp
pháp, kéo theo nhiều hệ lụy về trách nhiệm trong hoạt động kinh doanh
thương mại cho các bên tranh chấp mà khó có thể khắc phục được trên thực
tế. Theo khoản 4 điều 50 LTTTM năm 2010 trong thời hạn ba ngày làm việc,
kể từ ngày nhận đơn, ngay sau khi bên yêu cầu đã thực hiện biện pháp bảo
đảm theo quy định thì HDTT xem xét ra quyết định áp dụng BPKCTT.
Trường hợp không chấp nhận yêu cầu, HĐTT thông báo bằng văn bản nêu rõ
lý do cho bên yêu cầu biết. Việc thi hành quyết định áp dụng BPKCTT của
HĐTT được thưc hiện theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự
(theo khoản 5 điều 50 LTTTM năm 2010).
Theo khoản 5 điều 49 LTTTM năm 2010 Hội đồng trọng tài áp dụng
BPKCTT khác hoặc vượt quá yêu cầu áp dụng BPKCTT của bên yêu cầu mà
gây thiệt hại cho bên yêu cầu, bên bị áp dụng hoặc người thứ ba thì người bị
thiệt hại có quyền khởi kiện ra Tòa án để yêu cầu giải quyết bồi thường theo
quy định của pháp luật về tố tụng dân sự.
19. 12
1.2.3. Bảo đảm quyền tự định đoạt của đương sự
Quyền tự quyết định và định đoạt của đương sự là một trong những
nguyên tắc cơ bản thể hiện sự tôn trọng nguyện vọng của các đương sự. Theo
khoản 1 điều 4 LTTTM năm 2010 Trọng tài viên phải tôn trọng thỏa thuận
của các bên nếu thỏa thuận đó không vi phạm điều cấm và trái đạo đức xã hội.
Hội đồng trọng tài có trách nhiệm tạo điều kiện để họ thực hiện các
quyền và nghĩa vụ của mình (theo khoản 3 điều 4 LTTTM năm 2010- Nguyên
tắc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài).
Tranh chấp trong lĩnh vực hoạt động kinh doanh thương mại là tranh
chấp về lợi ích tư, việc có yêu cầu bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình
hay không là do các bên tranh chấp hoàn toàn quyết định
Đơn yêu cầu của đương sự là căn cứ để HĐTT xem xét quyết định áp
dụng BPKCTT, tên của BPKCTT cũng là do đương sự lựa chọn trong những
biện pháp do pháp luật quy định, phạm vi áp dụng của mỗi biện pháp do
đương sự lựa chọn. Điều này chứng tỏ rằng HĐTT là chủ thể có quyền ra
quyết định áp dụng BPKCTT nhưng quyền này phụ thuộc vào sự chủ động
và tự quyết của các bên đương sự.
Và khi yêu cầu áp dụng BPKCTT của đương sự là hợp pháp thì HĐTT
có tránh nhiệm áp dụng đúng biện pháp, đúng phạm vi yêu cầu của đương sự.
Áp dụng BPKCTT trong pháp luật trọng tài thương mại LTTTM năm
2010 vừa thể hiện quyền tự định đoạt của các bên tranh chấp, vừa tăng cường
vai trò của trọng tài thương mại, từ đó tạo cơ sở pháp lý khuyến khích sự phát
triển của cơ chế giải quyết tranh chấp thương mại tại trọng tài thương mại,
một thiết chế tài phán tư được thừa nhận ở phạm vi quốc tế, ở nhiều nước
cũng như ở Việt Nam. Đặc biệt, với các doanh nghiệp Việt Nam, việc quy
định về các BPKCTT trong pháp luật trọng tài thương mại sẽ góp phần làm
cho các doanh nghiệp tin tưởng hơn vào hình thức giải quyết tranh chấp này.
20. 13
1.3. Các quy định về biện pháp khẩn cấp tạm thời trong luật trọng tài
thương mại năm 2010.
Các BPKCTT được quy định trong LTTTM năm 2010 theo khoản 2
điều 49 :
- Cấm thay đổi hiện trạng tài sản đang tranh chấp
Trong quá trình giải quyết tranh chấp, HĐTT có thể áp dụng BPKCTT
này khi hội tụ đầy đủ các điều kiện: đối tượng mà đương sự yêu cầu áp dụng
BPKCTT phải là tài sản đang có tranh chấp, người đang chiếm hữu hoặc giữ
tài sản hoặc người khác đang có hành vi làm thay đổi hiện trạng của tài sản
như phá hủy, tháo dỡ, lắp ghép xây dựng thêm hoặc có hành vi khác làm thay
đổi hiện trạng tài sản, người yêu cầu áp dụng BPKCTT đã thực hiện nghĩa vụ
bảo đảm tài chính.
Đương sự yêu cầu áp dụng BPKCTT phải đưa ra tài liệu, chứng cứ
chứng minh bên đang chiếm hữu, giữ tài sản đang có hành vi làm thay đổi
hiện trạng tài sản. HĐTT hoặc Thẩm phán phải xem xét các yêu cầu, các căn
cứ mà đương sự đã đưa ra để quyết định có áp dụng BPKCTT đó hay không.
- Nghiêm cấm các hành vi ảnh hưởng bất lợi đến quá trình tố tụng trọng
tài.
Trong quá trình giải quyết tranh chấp, nếu thấy đương sự nào đó đang
có hành vi mà hành vi đó sẽ tác động gây bất lợi cho quá trình tố tụng trọng
tài thì đương sự bên kia có quyền yêu cầu trọng tài hoặc Tòa án áp dụng biện
pháp cấm hoặc buộc bên tranh chấp thực hiện một hoặc một số hành vi nhất
định. Khi có đương sự yêu cầu áp dụng BPKCTT này, nếu thấy yêu cầu đó là
chính đáng và đương sự đã xuất trình được tài liệu, chứng cứ chứng minh cho
việc cần thiết phải áp dụng BPKCTT này thì Trọng tài hoặc Tòa án phải áp
dụng ngay.
- Kê biên tài sản đang tranh chấp
21. 14
Kê biên tài sản chỉ áp dụng cho trường hợp người chiếm giữ tài sản
đang có tranh chấp có hành vi tẩu tán, cất giấu tài sản đang có tranh chấp gây
khó khăn trong việc xem xét, giải quyết của HĐTT hoặc thi hành án sau này,
thì theo yêu cầu của một trong các bên đương sự HĐTT hoặc Tòa án có quyền
áp dụng BPKCTT này.
Khi lập biên bản kê biên phải ghi rõ ngày, giờ, loại tài sản, mô tả đầy
đủ, chính xác tình trạng tài sản. Nếu cơ quan , người thứ ba được giao quản lý
tài sản kê biên có thể được hưởng thù lao theo quy định của pháp luật.
- Có những tài sản đang tranh chấp hoặc có liên quan đến tranh chấp,
nếu không xử lý kịp thời sẽ làm hư hỏng, mất giá trị, giảm giá trị hoặc làm
biến dạng tài sản, thì theo yêu cầu của một trong các bên tranh chấp có thể áp
dụng BPKCTT “ bảo tồn, cất giữ, bán hoặc định đoạt bất kỳ tài sản nào của
một hoặc các bên tranh chấp” thì HĐTT hoặc Tòa án sẽ áp dụng biện pháp
này khi các bên đương sự đã đưa ra tài liệu, chứng cứ chứng minh cho sự cần
thiết phải áp dụng biện pháp khẩn cấp này.
- Yêu cầu tạm thời về việc trả tiền giữa các bên;
Để kịp thời xử lý những nhu cầu cấp bách của đương sự, dù hai bên
còn đang có tranh chấp về quyền và nghĩa vụ, về hợp đồng mua bán hàng hóa,
dịch vụ đang phải chờ HĐTT phán xử, thì theo yêu cầu của một trong các bên
tranh chấp, HĐTT hoặc Tòa án có thể áp dụng BPKCTT về việc trả tiền giữa
các bên tranh chấp khi bên yêu cầu đã chứng minh yêu cầu áp dụng biện
pháp này là chính đáng, cần thiết.
- Hoạt động tố tụng trọng tài được diễn ra trong thời gian không dài so
với tố tụng tại Tòa án, nhưng nó vẫn cần một khoản thời gian nhất định. Lợi
dụng thời gian tố tụng trọng tài đang diễn ra một bên tranh chấp có thể có
hành vi bán, chuyển nhượng, cho thuê, tặng cho tài sản đang có tranh chấp
hành vi này đe dọa gây ra những thiệt hại cho đương sự khác hoặc gây khó
22. 15
khăn trong việc giải quyết tranh chấp, xử lý tài sản tranh chấp. Do đó khi có
yêu cầu của một trong các bên đương sự áp dụng BPKCTT cấm chuyển dịch
quyền về tài sản đối với tài sản đang có tranh chấp thì HĐTT hoặc Tòa án
phải áp dụng biện pháp này.
LTTTM năm 2010 vẫn còn thiếu những BPKCTT phù hợp với thực
tiễn và tính chất của hoạt động thương mại. so với PLTTTM năm 2003 tại
điều 33 gồm 6 BPKCTT:
- Bảo toàn chứng cứ…
- Kê biên tài sản tranh chấp;
- Cấm chuyển dịch tài sản tranh chấp;
- Cấm thay đổi hiện trạng tài sản tranh chấp;
- Kê biên và niêm phong tài sản ở nơi gửi giữ;
- Phong tỏa tài khoản tại ngân hàng.
Theo khoản 2 điều 49 LTTTM năm 2010 các BPKCTT bao gồm:
- Cấm thay đổi hiện trạng tài sản tranh chấp;
- Cấm các hành vi ảnh hưởng bất lợi đến quá trình tố tụng trọng tài;
- Kê biên tài sản đang tranh chấp;
- Yêu cầu bảo tồn, cất trữ, bán hoặc định đoạt bất kỳ tài sản nào của
một hoặc các bên tranh chấp;
-Yêu cầu tạm thời về việc trả tiền giữa các bên;
- Cấm chuyển dịch quyền về tài sản đang tranh chấp.
Tuy nhiên, LTTTM năm 2010 lại không quy định về biện pháp phong
tỏa tài khoản tại ngân hàng, phong tỏa tài sản nơi gửi giữ, phong tỏa tài sản
của người có nghĩa vụ… Điều này là không phù hợp với tính chất của hoạt
động thương mại vì trong thực tiễn kinh doanh hiện nay các doanh nghiệp
thường giao dịch với nhau thông qua ngân hàng nơi có tài khoản của họ,vì
vâỵ khi xảy ra tranh chấp nếu một bên có ý đồ không tốt như cố tình không
23. 16
thực hiện nghĩa vụ bằng cách tẩu tán tài sản chuyển khoản sang tài khoản của
người khác thì HĐTT sẽ rất khó kiểm soát được hành vi này.
Thẩm quyền áp dụng BPKCTT của HĐTT
Trong quá trình giải quyết tranh chấp, một trong các bên tranh chấp yêu
cầu HĐTT áp dụng BPKCTT thì HĐTT có quyền áp dụng BPKCTT và chỉ
được áp dụng các BPKCTT mà đương sự đã yêu cầu.
Theo điều 49 LTTTM năm 2010 thì HĐTT có quyền áp dụng BPKCTT
đối với các bên tranh chấp mà không có thẩm quyền đối với bên thứ ba. Điều
này khác với thẩm quyền của Tòa án, bởi Tòa án có quyền áp dụng BPKCTT
đối với cả bên thứ ba nếu được yêu cầu và xét thấy có đủ căn cứ theo luật.
Trong trường hợp có yêu cầu và trọng tài áp dụng cho bên thứ ba, cần làm rõ
bên thứ ba có liên quan đến thỏa thuận trọng tài hay không, vì thong thường
thỏa thuận trọng tài chỉ có giá trị ràng buộc đối với các bên tham gia thỏa
thuận đó. Chỉ một số ít trường hợp bên thứ ba trong thảo thuận trọng tài bị
ràng buộc bởi thỏa thuận đó. Theo tập đoàn công ty mà theo đó những quyền
và lợi và trách nhiệm phát sinh từ một thỏa thuận trọng tài trong một số
trường hợp có thể mở rộng sang các thành viên khác trong tập đoàn các công
ty con. Do hiệu lực của quy tắc chung về chuyển nhượng , đại lý và kế thừa,
theo đó một chi nhánh của một bên trong điều khoản trọng tài có thể là đồng
bị đơn trong quá trình tố tung trọng tài. Tuy nhiên, cần phải chỉ rõ rằng những
trường hợp trên là hạn chế và thông thường thỏa thuận trọng tài không liên
quan đến bên thứ ba, để việc hiểu và áp dụng thống nhất , khi sửa đổi, bổ sung
LTTTM cần quy định rõ khi nào thì thỏa thuận trọng tài sẽ có giá trị đối với
bên thứ ba, và chỉ khi đó HĐTT mới có thẩm quyền áp dụng BPKCTT đối
với bên thứ ba đó.
Trước khi áp dụng BPKCTT thì HĐTT phải hỏi đương sự và kiểm tra
một trong các bên đương sự đã yêu cầu Tòa án và Tòa án đã áp dụng một
24. 17
hoặc một số BPKCTT hay chưa. Nếu một trong các bên đương sự đã yêu cầu
Tòa án áp dụng BPKCTT thì HĐTT phải từ chối việc áp dụng BPKCTT, theo
khoản 3 điều 49 LTTTM năm 2010 “Trong quá trình gải quyết tranh chấp,
nếu một trong các bên đã yêu cầu Tòa án áp dụng một hoặc một số BPKCTT
quy định tại khoản 2 điều 49 LTTTM năm 2010 mà sau đó lại có đơn yêu cầu
HĐTT áp dụng BPKCTT thì HĐTT phải từ chối”.
Điều kiện để áp dụng BPKCTT
Theo quy định tại khoản 1, 3, 4 điều 49 LTTTM năm 2010 trọng tài chỉ
có thể áp dụng BPKCTT khi có đủ bốn điều kiện sau:
- Phải có đương sự yêu cầu áp dụng một hoặc một số BPKCTT cụ thể;
- Người yêu cầu phải cung cấp tài liệu, chứng cứ chứng minh cho sự
cần thiết phải áp dụng BPKCTT đó;
- Người yêu cầu áp dụng BPKCTT đã thực hiện nghĩa vụ bảo đảm về
tài chính để đảm bảo việc bồi thường những thiệt hại do việc yêu cầu áp dụng
BPKCTT không đúng gây thiệt hại cho người bị áp dụng;
- Chưa có đương sự nào yêu cầu Tòa án áp dụng BPKCTT
Nếu thiếu một trong bốn điều kiện nói trên thì HĐTT sẽ không áp dụng
BPKCTT.
Thủ tục áp dụng BPKCTT của HĐTT theo điều 50 LTTTM
- Bên yêu cầu áp dụng BPKCTT phải làm đơn gửi đến HĐTT theo
khoản 1 điều 50 LTTTM năm 2010.
- Đơn yêu cầu áp dụng BPKCTT phải có các nội dung chính sau đây
theo khoản 2 điều 50 LTTTM năm 2010.
a) Ngày, tháng, năm làm đơn;
b) Tên, địa chỉ của bên có yêu cầu áp dụng BPKCTT;
c) Tên, địa chỉ của bên bị yêu cầu áp dụng BPKCTT;
d) Tóm tắt nội dung tranh chấp;
25. 18
đ) Lý do cần phải áp dụng BPKCTT;
e) BPKCTT cần được áp dụng và các yêu cầu cụ thể;
Kèm theo đơn yêu cầu áp dụng BPKCTT, bên yêu cầu phải cung cấp
cho HĐTT chứng cứ để chứng minh cho sự cần thiết phải áp dụng BPKCTT
đó.
Theo quyết định của HĐTT, bên yêu cầu áp dụng BPKCTT phải gửi
một khoản tiền, kim khí quý, đá quý hoặc giấy tờ có giá do HĐTT ấn định
tương ứng với giá trị thiệt hại có thể phát sinh do do áp dụng BPKCTT không
đúng gây ra (theo khoản 3 điều 50 LTTTM năm 2010).
Trong thời hạn 3 ngày làm việc, kể từ ngày nhận đơn, ngay sau khi bên
yêu cầu đã thực hiện biện pháp bảo đảm quy định tại khoản 3 điều 50 thì
HĐTT xem xét ra quyết định áp dụng BPKCTT. Trường hợp không chấp
nhận yêu cầu, HĐTT phải thông báo bằng văn bản và nêu rõ lý do cho bên
yêu cầu biết (theo khoản 4 điều 50 LTTTM năm 2010).
Việc thi hành quyết định áp dụng BPKCTT của HĐTT được thực hiện
theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự (theo khoản 5 điều 50
LTTTM năm 2010).
Thẩm quyền thay đổi, bổ sung BPKCTT của HĐTT
Sau khi HĐTT đã ra quyết định áp dụng BPKCTT, theo yêu cầu của
một bên, HĐTT có quyền thay đổi, bổ sung, hủy bỏ BPKCTT vào bất kỳ thời
điểm nào trong quá trình giải quyết tranh chấp (theo khoản 1 điều 51 LTTTM
năm 2010).
Thủ tục thay đổi, bổ sung BPKCTT của HĐTT
Bên yêu cầu thay đổi, bổ sung BPKCTT phải làm đơn gửi HĐTT. Đơn
yêu cầu thay đổi bổ sung BPKCTT phải có các nội dung sau:
a) Ngày, tháng, năm làm đơn;
b) Tên, địa chỉ của bên có yêu cầu áp dụng BPKCTT;
26. 19
c) Tên, địa chỉ của bên bị yêu cầu áp dụng BPKCTT;
d) Tóm tắt nội dung tranh chấp;
đ) Lý do cần phải thay đổi, bổ sung BPKCTT;
e) BPKCTT cần được thay đổi, bổ sung và các yêu cầu cụ thể;
Hủy bỏ BPKCTT của HĐTT
Theo khoản 3 điều 51 LTTTM năm 2010 khi có một trong các căn cứ
dưới đây thì HĐTT phải ra quyết định hủy bỏ BPKCTT:
- Bên yêu cầu áp dụng BPKCTT đề nghị hủy bỏ;
- Bên phải thi hành quyết định áp dụng BPKCTT đã nộp tài sản hoặc
có người khác thực hiện biện pháp bảo đảm thi hành nghĩa vụ đối với bên có
yêu cầu;
- Nghĩa vụ của bên có nghĩa vụ chấm dứt theo quy định của pháp luật.
Thủ tục hủy bỏ BPKCTT của HĐTT (theo khoản 4 điều 51 LTTTM
năm 2010)
- Bên yêu cầu phải có đơn đề nghị hủy bỏ BPKCTT gửi HĐTT;
- HĐTT xem xét ra quyết định hủy bỏ BPKCTT thì phải xem xét, quyết
định để người đã thực hiện việc bảo đảm nhận lại tài sản bảo đảm. Nếu do
việc yêu cầu áp dụng BPKCTT không đúng gây thiệt hại cho người bị áp
dụng BPKCTT hoặc người thứ ba thì HĐTT không ra quyết định trả lại tài
sản bảo đảm cho người đã thực hiện biện pháp bảo đảm đó.
Quyết định hủy bỏ BPKCTT phải được gửi ngay cho các bên tranh
chấp và Cơ quan thi hành án dân sự.
Trách nhiệm của bên yêu cầu áp dụng BPKCTT (theo điều 52 LTTTM
năm 2010)
Bên yêu cầu áp dụng BPKCTT phải chịu trách nhiệm về yêu cầu của
mình. Trong trường hợp bên yêu cầu áp dụng BPKCTT không đúng và gây
thiệt hại cho bên kia hoặc cho người thứ ba thì phải bồi thường.
27. 20
Theo khoản 5 điều 49 LTTTM năm 2010, trách nhiệm của HĐTT khi
áp dụng BPKCTT, HĐTT áp dụng BPKCTT khác hoặc vượt quá yêu cầu áp
dụng BPKCTT của bên yêu cầu mà gây thiệt hại cho bên yêu cầu, bên bị áp
dụng, hoặc người thứ ba thì người bị thiệt hại có quyền khởi kiện ra Tòa án để
yêu cầu giải quyết bồi thường theo qui định của pháp luật về tố tụng dân sự.
28. 21
Kết luận chương 1
Trong điều kiện tự do hóa thương mại và hội nhập kinh tế quốc tế, việc
pháp luật trọng tài thương mại đưa ra những quy định về áp dụng BPKCTT
trong giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại, đã cho thấy rõ rằng
giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại là một hình thức giải quyết
tranh chấp mang tính tài phán cùng song hành với việc giải quyết tranh chấp
tại Tòa án với những điểm mạnh và điểm yếu của việc giải quyết tranh chấp
về thương mại bằng trọng tài thương mại, những quy định trong pháp luật
trọng tài thương mại về các BPKCTT cũng phần nào cho thấy rõ thêm về đặc
điểm của hình thức giải quyết tranh chấp này. Những quy định về áp dụng
BPKCTT trong pháp luật trọng tài thương mại LTTTM năm 2010 vừa thể
hiện quyền tự định đoạt của các bên tranh chấp, vừa tăng cường vai trò của
trọng tài thương mại, từ đó tạo cơ sở pháp lý khuyến khích sự phát triển của
cơ chế giải quyết tranh chấp thương mại tại trọng tài thương mại, một thiết
chế tài phán tư được thừa nhận ở phạm vi quốc tế, ở nhiều nước cũng như ở
Việt Nam. Đặc biệt, với các doanh nghiệp Việt Nam, việc quy định về các
BPKCTT trong pháp luật trọng tài thương mại sẽ góp phần làm cho các
doanh nghiệp tin tưởng hơn vào hình thức giải quyết tranh chấp này. Điều này
sẽ giúp họ tích cực và chủ động hơn trong việc đưa vụ việc tranh chấp về
thương mại ra trọng tài, doanh nghiệp cũng sẽ góp phần vào việc giải quyết
tình trạng quá tải tại các Tòa án do có quá nhiều vụ việc tranh chấp về thương
mại.
29. 22
Chương 2
THỰC TRẠNG VỀ ÁP DỤNG BIỆN PHÁP KHẨN CẤP TẠM THỜI
TRONG GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP BẰNG TRỌNG TÀI THƯƠNG
MẠI THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1. Những điểm mới, thuận lợi trong việc áp dụng các biện pháp
khẩn cấp tạm thời trong giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại
LTTTM năm 2010 quy định tại chương VII từ điều 48 đến điều 53 về
các biện pháp khẩn cấp tạm thời so với PLTTTM năm 2003, LTTTM năm
2010 có những điểm mới đặc biệt là điểm mới về thẩm quyền của Hội đồng
trọng tài trong việc áp dụng các BPKCTT.
Có thể nói áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời là một thủ tục mang lại
kết quả giải quyết vụ việc tranh chấp có hiệu quả nhất. Áp dụng BPKCTT là
một trong những hoạt động tố tụng được HĐTTcó thẩm quyền áp dụng trong
quá trình giải quyết tranh chấp nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
các bên trong quá trình tiến hành tố tụng, cũng như đảm bảo hiệu quả của quá
trình thi hành án.
PLTTM năm 2003 là văn bản pháp luật ban đầu quy định về các
BPKCTT trong tố tụng trọng tài thương mại. Mặc dù các quy định về
BPKCTT còn ít chưa đầy đủ, để áp dụng được BPKCTT các bên tranh chấp
phải nhờ đến sự hỗ trợ của tòa án, tuy nhiên, đây cũng là những quy định ban
đầu và là cơ sở pháp lý để các bên tranh chấp cũng như HĐTT tiếp cận và
nhận diện được vai trò của các BPKCTT để áp dụng trong quá trình tố tụng
trọng tài.
Các BPKCTT trong tố tụng trọng tài thương mại của PLTTTM năm
2003 đã thừa nhận hình thức giải quyết tranh chấp trong kinh tế thương mại
bằng trọng tài thương mại là phương thức giải quyết tranh chấp mang tính
chất là cơ quan tài phán tư, cùng song hành tồn tại với hình thức giải quyết
30. 23
tranh chấp tại tòa án, hai hình thức này có mối quan hệ tương trợ nhau HĐTT
và Tòa án có sự hỗ trợ lẫn nhau trong trong thực tiễn giải quyết tranh chấp về
thương mại.
LTTTM ra đời năm 2010 với những quy định về các BPKCTT đã nâng
vị thế của trọng tài thương mại thông qua việc cho phép HĐTT được quyền
áp dụng các BPKCTT trên cơ sở yêu cầu của các bên tranh chấp theo khoản 1
điều 48 LTTTM năm 2010 Các bên tranh chấp có quyền yêu cầu HĐTT, Tòa
án áp dụng BPKCTT theo quy định của luật này và các quy định của pháp
luật có liên quan, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác, Giúp cho quá
trình tố tụng trọng tài thuận lợi hơn trong quá trình giải quyết tranh chấp.
LTTTM năm 2010 quy định rõ nếu một bên đưa yêu cầu áp dụng
BPKCTT ra Tòa án, yêu cầu này không bị coi là sự bác bỏ quyền giải quyết
tranh chấp bằng trọng tài theo khoản 2 điều 48 LTTTM năm 2010 việc yêu
cầu Tòa án áp dụng BPKCTT không bị coi là sự bác bỏ thỏa thuận trọng tài
hoặc khước từ quyền giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài.
Để tránh sự chồng chéo do việc cả HĐTT lẫn Tòa án cùng một lúc áp
dụng BPKCTT theo khoản 5 điều 53 LTTTM năm 2010 Trong quá trình giải
quyết tranh chấp, nếu một trong các bên đã yêu cầu HĐTT áp dụng một hoặc
một số BPKCTT mà lại có đơn yêu cầu Tóa án áp dụng BPKCTT thì tòa án
phải từ chối, trừ trường hợp yêu cầu áp dụng BPKCTT không thuộc thẩm
quyền của HĐTT.
LTTTM ra đời năm 2010 những quy định về các BPKCTT luôn được
sửa đổi bổ sung để phù hợp với thực tiễn hoạt động thương mại của Việt Nam
cũng như với thông lệ quốc tế, mặt khác nhằm tăng cường vai trò của trọng
tài thương mại trong việc giải quyết các tranh chấp thương mại ở Việt Nam
bằng cơ quan tài phán tư, bằng Trọng tài thương mại.
31. 24
2.2. Thực trạng về những bất cập, khó khăn trong việc áp dụng các
biện pháp khẩn cấp tạm thời trong giải quyết tranh chấp bằng trọng tài
thương mại
LTTTM năm 2010 quy định tại chương VII từ điều 48 đến điều 53 về
các biện pháp khẩn cấp tạm thời so với PLTTTM năm 2003, LTTTM năm
2010 có những điểm mới đặc biệt là điểm mới về thẩm quyền của Hội đồng
trọng tài trong việc áp dụng các BPKCTT.
Nếu như trong tố tụng dân sự chỉ có Tòa án là cơ quan duy nhất có
quyền áp dụng BPKCTT thì trong tố tụng trọng tài, HĐTT và Tòa án điều có
quyền áp dụng BPKCTT khi tố tụng trọng tài bắt đầu diễn ra. Nói cách khác,
khi trọng tài đã nhận đơn khởi kiện thì đương sự có quyền yêu cầu trọng tài
hoặc tòa án áp dụng BPKCTT. Do Tòa án và HĐTT đều có quyền áp dụng
BPKCTT, nên có thể có trường hợp đương sự yêu cầu cả hai cơ quan tài phán
áp dụng BPKCTT. Để tránh việc cả Tòa án và HĐTT đều ra quyết định áp
dụng BPKCTT về cùng một BPKCTT, khi nhận được đơn yêu cầu của đương
sự, Tòa án, HĐTT điều phải có sự kiểm tra xem xét kỹ trước khi ra quyết định
áp dụng theo khoản 5 điều 53 LTTTM trong quá trình giải quyết tranh chấp,
nếu một trong các bên đã yêu cầu HĐTT áp dụng một hoặc một số BPKCTT
mà lại có đơn yêu cầu Tòa án áp dụng BPKCTT thì Tòa án phải từ chối và trả
lại đơn yêu cầu, trừ trường hợp yêu cầu áp dụng BPKCTT không thuộc thẩm
quyền của HĐTT.
Luật trọng tài thương mại ra đời năm 2010, bằng việc quy định rõ hơn
về các BPKCTT trong tố tụng trọng tài thương mại, Luật trọng tài thương mại
năm 2010 đã thổi một luồng gió mới vào hình thức giải quyết tranh chấp bằng
trọng tài thương mại. Đặc biệt, việc quy định có tính chất mở rộng quyền của
HĐTT trong việc áp dụng các BPKCTT trong tố tụng trọng tài thương mại.
Tuy được quy định rất cụ thể về trình tự, thủ tục đối với việc áp dụng
32. 25
BPKCTT nhưng trong quá trình thực hiện tại trọng tài thương mại đã nảy sinh
ra nhiều khó khăn, bất cập và việc thiếu thống nhất với nhau giữa các văn
bản pháp luật điều chỉnh việc áp dụng BPKCTT
- Pháp luật trọng tài thương mại Việt Nam không đưa ra khái niệm về
BPKCTT mà chỉ quy định về điều kiện và thủ tục yêu cầu áp dụng BPKCTT.
Việc không nêu khái niệm BPKCTT có thể dẫn đến hậu quả là cả
HĐTT lẫn các bên tranh chấp không nắm được hết ý nghĩa cũng như vai trò
của các BPKCTT trong tố tụng trọng tài thương mại, từ đó làm cho việc áp
dụng trở nên khó khăn, các bên tranh chấp cũng như HĐTT ngại áp dụng các
biện pháp khẩn cấp tạm thời.
- Cần quy định rõ hơn việc thi hành quyết định áp dụng BPKCTT
Theo khoản 5 điều 50 LTTTM năm 2010 “ Việc thi hành quyết định áp
dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời của Hội đồng trọng tài được thực hiện theo
quy định của pháp luật về thi hành án dân sự”. Cần quy định cụ thể và đầy đủ
hơn.
- Cần quy định rõ hơn điều kiện về chứng cứ,biện pháp bảo đảm tương
đương để HĐTT ra quyết định áp dụng các BPKCTT
Chứng cứ thuyết phục sự cần thiết của BPKCTT
Cơ quan tài phán cần có chứng cớ để được thuyết phục rằng một lệnh
can thiệp tạm thời là hợp lý. Điều 50 LTTTM năm 2010 có thể cần được
hướng dẫn chi tiết hơn.
- Cần thống nhất giữa quy định của LTTTM năm 2010 với quy định
của BLTTDS năm 2015 về các BPKCTT thời trong tố tụng trọng tài thương
mại.
LTTTM năm 2010 theo quy định tại khoản 2 điều 49 quy định 6
BPKCTT, trong khi theo điều 114 BLTTDS năm 2015 quy định 17 BPKCTT
trong tố tụng dân sự, trong 6 BPKCTT của LTTTM năm 2010 có cái trùng và
33. 26
thiếu rất nhiều BPKCTT so với BLTTDS năm 2015 quy định về các
BPKCTT.
- Cần Quy định rõ thẩm quyền, trình tự, thủ tục khi Tòa án áp dụng,
thay đổi, hủy bỏ BPKCTT theo quy định tại điều 53 LTTTM năm 2010
Các quy định về áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trong pháp lệnh
trọng tài thương mại năm 2003.
Thẩm quyền áp dụng BPKCTT của HĐTT (theo điều 33 PLTTTM
năm 2003)
Trong quá trình HĐTT giải quyết vụ tranh chấp, nếu quyền và lợi ích
hợp pháp của mình bị xâm hại hoặc có nguy cơ trực tiếp bị xâm hại, thì các
bên có quyền làm đơn đến Tòa án cấp tỉnh nơi HĐTT thụ lý vụ tranh chấp
yêu cầu áp dụng một hoặc một số biện pháp khẩn cấp tạm thời sau đây:
- Bảo toàn chứng cứ…
- Kê biên tài sản tranh chấp;
- Cấm chuyển dịch tài sản tranh chấp;
- Cấm thay đổi hiện trạng tài sản tranh chấp;
- Kê biên và niêm phong tài sản ở nơi gửi giữ;
- Phong tỏa tài khoản tại ngân hàng.
Thủ tục áp dụng BPKCTT
Điều kiện để áp dụng BPKCTT
Theo khoản 1 điều 34 PLTTTM năm 2003 Bên có yêu cầu áp dụng
BPKCTT quy định tại điều 33 của PLTTTM năm 2003 phải làm đơn gửi đến
Tòa án cấp tỉnh nơi HĐTT đã thụ lý vụ tranh chấp.
Đơn yêu cầu áp dụng BPKCTT phải gửi kèm theo bản sao đơn kiện có
đầy đủ nội dung theo quy định tại điều 20 và bản sao thỏa thuận trọng tài qui
định tại điều 9 của PLTTTM năm 2003 các bản sao phải có chứng thực hợp
lệ.
34. 27
Tùy theo yêu cầu áp dụng BPKCTT mà bên yêu cầu phải cung cấp cho
Tòa án bằng chứng cụ thể về các chứng cứ cần được bảo toàn, các chứng cứ
về việc bị đơn tẩu tán, cất giấu tài sản có thể làm cho việc thi hành quyết định
trọng tài không thể thực hiện được. (khoản 2 điều 34 PLTTTM năm 2003).
Bên yêu cầu áp dụng BPKCTT phải nộp một khoản tiền bảo đảm do
Tòa án ấn định, nhưng không quá nghĩa vụ tài sản mà người có nghĩa vụ phải
thực hiện để bảo vệ lợi ích của bị đơn và ngăn ngừa sự lạm dụng BPKCTT từ
phía người có yêu cầu. Các khoản tiền này được gửi giữ tại ngân hàng nơi có
trụ sở của Tòa án quyết định áp dụng BPKCTT (khoản 3 điều 34 PLTTTM
năm 2003).
Sau khi nhận được đơn yêu cầu và những tài liệu theo quy định tại các
khoản 1, 2, 3 điều 34 PLTTTM năm 2003 , Chánh án Tòa án cấp tỉnh giao
cho một thẩm phán xem xét, giải quyết đơn yêu cầu. Trong thời hạn năm ngày
làm việc, kể từ ngày được giao, Thẩm phán phải kiểm tra tính chính xác của
những tài liệu, trong phạm vi yêu cầu của nguyên đơn, có thể ra quyết định áp
dụng một hoặc một số BPKCTT quy định tại điều 33 PLTTTM năm 2003.
Trong trường hợp áp dụng một hoặc một số biện pháp quy định tại các khoản
2, 3, 4, 5, 6 điều 33 PLTTTM năm 2003 thì tài sản bị áp dụng BPKCTT có
giá trị không quá nghĩa vụ tài sản mà người có nghĩa vụ phải thực hiện.
Quyết định áp dụng BPKCTT phải được gửi ngay cho HĐTT, các bên
tranh chấp và viện kiểm sát cùng cấp (khoản 5 điều 34 PLTTTM năm 2003)
quyết định áp dụng BPKCTT phải được thi hành ngay, việc thi hành quyết
định áp dụng BPKCTT theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự.
Trong thời hạn ba ngày làm việc, kể từ ngày nhận được quyết định áp
dụng BPKCTT, Viện trưởng viện kiểm sát cùng cấp có quyền kiến nghị, bị
đơn có quyền yêu cầu Chánh án Tòa án đã ra quyết định áp dụng BPKCTT
xem xét, giải quyết việc thay đổi, hủy bỏ hoặc giữ nguyên các biện pháp đó.
35. 28
Trong thời hạn ba ngày làm việc, kể từ ngày nhận được kiến nghị của Viện
kiểm sát hoặc yêu cầu của bị đơn, Chánh án Tòa án phải có quyết định và trả
lời cho Viện kiểm sát hoặc bị đơn. (khoản 6 điều 34 PLTTTM năm 2003).
Thay đổi hoặc hủy bỏ BPKCTT theo điều 35 PLTTTM năm 2003
Bên yêu cầu áp dụng BPKCTT có thể làm đơn yêu cầu thay đổi hoặc
hủy bỏ BPKCTT khi không còn phù hợp hoặc không còn cần thiết.
Trong thời hạn ba ngày làm việc, kể từ ngày nhận được đơn yêu cầu
thay đổi hoặc hủy bỏ BPKCTT thì chánh án Tòa án cấp tỉnh nơi đã ra quyết
định áp dụng BPKCTT giao cho một thẩm phán xem xét, quyết định thay đổi
hoặc hủy bỏ áp dụng BPKCTT quyết định này phải được gửi ngay cho
HĐTT, các bên tranh chấp và Viện kiểm sát cùng cấp. Trong trường hợp hủy
bỏ BPKCTT, Thẩm phán phải xem xét quyết định để người yêu cầu áp dụng
BPKCTT nhận lại số tiền bảo đảm quy định tại khoản 3 điều 34 PLTTTM
năm 2003, trừ trường hợp quy định tại điều 36 của Pháp lệnh này.
Trách nhiệm của bên yêu cầu áp dụng BPKCTT theo điều 36 PLTTTM
năm 2003
Bên yêu cầu áp dụng BPKCTT phải chịu trách nhiệm về yêu cầu của
mình. Trong trường hợp bên yêu cầu áp dụng BPKCTT không đúng và gây
thiệt hại cho bên kia, cho người thứ ba thì phải bồi thường.
Theo quy định của điều 48 LTTTM năm 2010 thì các bên trong quan
hệ tranh chấp có quyền yêu cầu HĐTT hoặc Tòa án áp dụng BPKCTT việc
yêu cầu Tòa án áp dụng BPKCTT không bị coi là sự bác bỏ thỏa thuận trọng
tài hoặc khước từ quyền giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại.
Các BPKCTT được quy định của LTTTM năm 2010 và việc HĐTT áp
dụng, thay đổi, hủy bỏ áp dụng BPKCTT theo quy định của LTTTM năm
2010. Nếu như trong tố tụng dân sự chỉ có Tòa án là cơ quan duy nhất có
quyền áp dụng BPKCTT thì trong tố tụng trọng tài, HĐTT và Tòa án điều có
36. 29
quyền áp dụng BPKCTT khi tố tụng trọng tài bắt đầu diễn ra. Nói cách khác,
khi trọng tài đã nhận đơn khởi kiện thì đương sự có quyền yêu cầu trọng tài
hoặc tòa án áp dụng BPKCTT. Do Tòa án và HĐTT đều có quyền áp dụng
BPKCTT, nên có thể có trường hợp đương sự yêu cầu cả hai cơ quan tài phán
áp dụng BPKCTT. Để tránh việc cả Tòa án và HĐTT đều ra quyết định áp
dụng BPKCTT về cùng một BPKCTT, khi nhận được đơn yêu cầu của đương
sự, Tòa án, HĐTT điều phải có sự kiểm tra xem xét kỹ trước khi ra quyết định
áp dụng theo khoản 5 điều 53 LTTTM năm 2010 trong quá trình giải quyết
tranh chấp, nếu một trong các bên đã yêu cầu HĐTT áp dụng một hoặc một số
BPKCTT mà lại có đơn yêu cầu Tòa án áp dụng BPKCTT thì Tòa án phải từ
chối và trả lại đơn yêu cầu, trừ trường hợp yêu cầu áp dụng BPKCTT không
thuộc thẩm quyền của HĐTT.
Việc áp dụng BPKCTT có thể nhằm đáp ứng một hay một số yêu cầu
cấp bách của đương sự trong vụ tranh chấp , hoặc để bảo vệ bằng chứng, bảo
toàn tài sản đang tranh chấp tránh gây thiệt hại không thể khắc phục được
hoặc để bảo đảm thi hành án, LTTTM năm 2010 theo khoản 2 điều 49 đã quy
định 6 BPKCTT mà HĐTT có quyền trực tiếp áp dụng khi một trong các bên
tranh chấp có yêu cầu.
Gọi là BPKCTT bởi lẽ nó đòi hỏi phải được xử lý rất nhanh, thi hành
ngay không có kháng cáo kháng nghị. Dù vậy, nó không phải là quyết định
cuối cùng về giải quyết quan hệ đang có tranh chấp, nó chỉ tồn tại trong một
khoản thời gian nhất định và nó có thể bị thay đổi hủy bỏ với một thủ tục đơn
giản, nhanh gọn trong khi diễn ra việc xét xử hoặc sau khi HĐTT đã xét xử.
Việc áp dụng BPKCTT có ý nghĩa rất quan trọng trong việc bảo vệ kịp
thời các quyền và lợi ích hợp pháp và nhu cầu cấp bách của đương sự, bảo
toàn được tài sản tranh chấp, hoặc bảo vệ được chứng cứ. Đây là một quyền
rất quan trọng trong tố tụng trọng tài thương mại của đương sự mà HĐTT
37. 30
phải xem xét, quyết định áp dụng khi đương sự có yêu cầu và xuất trình được
chứng cứ chứng minh việc áp dụng BPKCTT là có cơ sở và cần thiết
Các BPKCTT được quy định trong LTTTM năm 2010 theo khoản 2
điều 49 :
- Cấm thay đổi hiện trạng tài sản đang tranh chấp
Trong quá trình giải quyết tranh chấp, HĐTT có thể áp dụng BPKCTT
này khi hội tụ đầy đủ các điều kiện: đối tượng mà đương sự yêu cầu áp dụng
BPKCTT phải là tài sản đang có tranh chấp, người đang chiếm hữu hoặc giữ
tài sản hoặc người khác đang có hành vi làm thay đổi hiện trạng của tài sản
như phá hủy, tháo dỡ, lắp ghép xây dựng thêm hoặc có hành vi khác làm thay
đổi hiện trạng tài sản, người yêu cầu áp dụng BPKCTT đã thực hiện nghĩa vụ
bảo đảm tài chính.
Đương sự yêu cầu áp dụng BPKCTT phải đưa ra tài liệu, chứng cứ
chứng minh bên đang chiếm hữu, giữ tài sản đang có hành vi làm thay đổi
hiện trạng tài sản. HĐTT hoặc Thẩm phán phải xem xét các yêu cầu, các căn
cứ mà đương sự đã đưa ra để quyết định có áp dụng BPKCTT đó hay không.
- Nghiêm cấm các hành vi ảnh hưởng bất lợi đến quá trình tố tụng trọng
tài.
Trong quá trình giải quyết tranh chấp, nếu thấy đương sự nào đó đang
có hành vi mà hành vi đó sẽ tác động gây bất lợi cho quá trình tố tụng trọng
tài thì đương sự bên kia có quyền yêu cầu trọng tài hoặc Tòa án áp dụng biện
pháp cấm hoặc buộc bên tranh chấp thực hiện một hoặc một số hành vi nhất
định. Khi có đương sự yêu cầu áp dụng BPKCTT này, nếu thấy yêu cầu đó là
chính đáng và đương sự đã xuất trình được tài liệu, chứng cứ chứng minh cho
việc cần thiết phải áp dụng BPKCTT này thì Trọng tài hoặc Tòa án phải áp
dụng ngay.
- Kê biên tài sản đang tranh chấp
38. 31
Kê biên tài sản chỉ áp dụng cho trường hợp người chiếm giữ tài sản
đang có tranh chấp có hành vi tẩu tán, cất giấu tài sản đang có tranh chấp gây
khó khăn trong việc xem xét, giải quyết của HĐTT hoặc thi hành án sau này,
thì theo yêu cầu của một trong các bên đương sự HĐTT hoặc Tòa án có quyền
áp dụng BPKCTT này.
Khi lập biên bản kê biên phải ghi rõ ngày, giờ, loại tài sản, mô tả đầy
đủ, chính xác tình trạng tài sản. Nếu cơ quan , người thứ ba được giao quản lý
tài sản kê biên có thể được hưởng thù lao theo quy định của pháp luật.
Có những tài sản đang tranh chấp hoặc có liên quan đến tranh chấp, nếu
không xử lý kịp thời sẽ làm hư hỏng, mất giá trị, giảm giá trị hoặc làm biến
dạng tài sản, thì theo yêu cầu của một trong các bên tranh chấp có thể áp
dụng BPKCTT “ bảo tồn, cất giữ, bán hoặc định đoạt bất kỳ tài sản nào của
một hoặc các bên tranh chấp” thì HĐTT hoặc Tòa án sẽ áp dụng biện pháp
này khi các bên đương sự đã đưa ra tài liệu, chứng cứ chứng minh cho sự cần
thiết phải áp dụng biện pháp khẩn cấp này.
- Yêu cầu tạm thời về việc trả tiền giữa các bên;
Để kịp thời xử lý những nhu cầu cấp bách của đương sự, dù hai bên
còn đang có tranh chấp về quyền và nghĩa vụ, về hợp đồng mua bán hàng hóa,
dịch vụ đang phải chờ HĐTT phán xử, thì theo yêu cầu của một trong các bên
tranh chấp, HĐTT hoặc Tòa án có thể áp dụng BPKCTT về việc trả tiền giữa
các bên tranh chấp khi bên yêu cầu đã chứng minh yêu cầu áp dụng biện
pháp này là chính đáng, cần thiết.
Hoạt động tố tụng trọng tài được diễn ra trong thời gian không dài so
với tố tụng tại Tòa án, nhưng nó vẫn cần một khoản thời gian nhất định. Lợi
dụng thời gian tố tụng trọng tài đang diễn ra một bên tranh chấp có thể có
hành vi bán, chuyển nhượng, cho thuê, tặng cho tài sản đang có tranh chấp
hành vi này đe dọa gây ra những thiệt hại cho đương sự khác hoặc gây khó
39. 32
khăn trong việc giải quyết tranh chấp, xử lý tài sản tranh chấp. Do đó khi có
yêu cầu của một trong các bên đương sự áp dụng BPKCTT cấm chuyển dịch
quyền về tài sản đối với tài sản đang có tranh chấp thì HĐTT hoặc Tòa án
phải áp dụng biện pháp này.
Các BPKCTT được quy định tại khoản 2 điều 49 LTTTM năm 2010,
có biện pháp chỉ là một hành vi, một đối tượng, một hoạt động chuyển dịch,
một hành động cần ngăn chặn hoặc buộc phải thực hiện, cấm thực hiện,
nhưng có BPKCTT có quy định kép, nên chứa đựng nhiều nội dung, nhiều
hành vi, hoạt động cần điều chỉnh bằng BPKCTT tại điểm b khoản 2 điều 49
LTTTM năm 2010 điều chỉnh hai loại hành vi trái ngược nhau, đó là “ Cấm”
thực hiện một hoặc một số hành vi hoặc “Buộc” thực hiện một hoặc một số
hành vi. Còn BPKCTT quy định tại điểm d khoản 2 điều 49 LTTTM năm
2010 lại điều chỉnh rât nhiều hoạt động khác nhau đó là: hoạt động về bảo
tồn, hoạt động về cất giữ, hoạt động giao dịch “bán”, hành vi định đoạt. Do đó
khi áp dụng BPKCTT không phải bê nguyên xi toàn bộ các hành vi, các hoạt
động, các nội dung trong các điểm, khoản quy định biện pháp kép đó mà chỉ
nêu những hành vi hoạt động nào cần điều chỉnh, ngăn chặn theo yêu cầu của
đương sự. Nếu thực tế đang diễn ra hoặc sẽ diễn ra tất cả các hành vi, hoạt
động được quy định trong BPKCTT đó và một bên yêu cầu áp dụng biện pháp
ngăn chặn toàn bộ các hành vi, hoạt động đang hoặc sẽ diễn ra được quy định
trong BPKCTT đó thì mới ghi nguyên văn tất cả hành vi, hoạt động được quy
định trong điểm, khoản quy định về BPKCTT đó.
Thẩm quyền áp dụng BPKCTT của HĐTT
Trong quá trình giải quyết tranh chấp, một trong các bên tranh chấp yêu
cầu HĐTT áp dụng BPKCTT thì HĐTT có quyền áp dụng BPKCTT và chỉ
được áp dụng các BPKCTT mà đương sự đã yêu cầu.
40. 33
Theo điều 49 LTTTM năm 2010 thì HĐTT có quyền áp dụng BPKCTT
đối với các bên tranh chấp mà không có thẩm quyền đối với bên thứ ba. Điều
này khác với thẩm quyền của Tòa án, bởi Tòa án có quyền áp dụng BPKCTT
đối với cả bên thứ ba nếu được yêu cầu và xét thấy có đủ căn cứ theo luật.
Trong trường hợp có yêu cầu và trọng tài áp dụng cho bên thứ ba, cần làm rõ
bên thứ ba có liên quan đến thỏa thuận trọng tài hay không, vì thong thường
thỏa thuận trọng tài chỉ có giá trị ràng buộc đối với các bên tham gia thỏa
thuận đó. Chỉ một số ít trường hợp bên thứ ba trong thảo thuận trọng tài bị
ràng buộc bởi thỏa thuận đó. Theo tập đoàn công ty mà theo đó những quyền
và lợi và trách nhiệm phát sinh từ một thỏa thuận trọng tài trong một số
trường hợp có thể mở rộng sang các thành viên khác trong tập đoàn các công
ty con. Do hiệu lực của quy tắc chung về chuyển nhượng , đại lý và kế thừa,
theo đó một chi nhánh của một bên trong điều khoản trọng tài có thể là đồng
bị đơn trong quá trình tố tung trọng tài. Tuy nhiên, cần phải chỉ rõ rằng những
trường hợp trên là hạn chế và thông thường thỏa thuận trọng tài không liên
quan đến bên thứ ba, để việc hiểu và áp dụng thống nhất , khi sửa đổi, bổ sung
LTTTM cần quy định rõ khi nào thì thỏa thuận trọng tài sẽ có giá trị đối với
bên thứ ba, và chỉ khi đó HĐTT mới có thẩm quyền áp dụng BPKCTT đối
với bên thứ ba đó.
Trước khi áp dụng BPKCTT thì HĐTT phải hỏi đương sự và kiểm tra
một trong các bên đương sự đã yêu cầu Tòa án và Tòa án đã áp dụng một
hoặc một số BPKCTT hay chưa. Nếu một trong các bên đương sự đã yêu cầu
Tòa án áp dụng BPKCTT thì HĐTT phải từ chối việc áp dụng BPKCTT, theo
khoản 3 điều 49 LTTTM năm 2010 “Trong quá trình gải quyết tranh chấp,
nếu một trong các bên đã yêu cầu Tòa án áp dụng một hoặc một số BPKCTT
quy định tại khoản 2 điều 49 LTTTM năm 2010 mà sau đó lại có đơn yêu cầu
HĐTT áp dụng BPKCTT thì HĐTT phải từ chối”.
41. 34
Điều kiện để áp dụng BPKCTT
Theo quy định tại khoản 1, 3, 4 điều 49 LTTTM năm 2010 trọng tài chỉ
có thể áp dụng BPKCTT khi có đủ bốn điều kiện sau:
- Phải có đương sự yêu cầu áp dụng một hoặc một số BPKCTT cụ thể;
- Người yêu cầu phải cung cấp tài liệu, chứng cứ chứng minh cho sự
cần thiết phải áp dụng BPKCTT đó;
- Người yêu cầu áp dụng BPKCTT đã thực hiện nghĩa vụ bảo đảm về
tài chính để đảm bảo việc bồi thường những thiệt hại do việc yêu cầu áp dụng
BPKCTT không đúng gây thiệt hại cho người bị áp dụng;
- Chưa có đương sự nào yêu cầu Tòa án áp dụng BPKCTT
Nếu thiếu một trong bốn điều kiện nói trên thì HĐTT sẽ không áp dụng
BPKCTT.
Thủ tục áp dụng BPKCTT của HĐTT theo điều 50 LTTTM
- Bên yêu cầu áp dụng BPKCTT phải làm đơn gửi đến HĐTT theo
khoản 1 điều 50 LTTTM năm 2010.
- Đơn yêu cầu áp dụng BPKCTT phải có các nội dung chính sau đây
theo khoản 2 điều 50 LTTTM năm 2010.
a) Ngày, tháng, năm làm đơn;
b) Tên, địa chỉ của bên có yêu cầu áp dụng BPKCTT;
c) Tên, địa chỉ của bên bị yêu cầu áp dụng BPKCTT;
d) Tóm tắt nội dung tranh chấp;
đ) Lý do cần phải áp dụng BPKCTT;
e) BPKCTT cần được áp dụng và các yêu cầu cụ thể;
Kèm theo đơn yêu cầu áp dụng BPKCTT, bên yêu cầu phải cung cấp
cho HĐTT chứng cứ để chứng minh cho sự cần thiết phải áp dụng BPKCTT
đó.
42. 35
Theo quyết định của HĐTT, bên yêu cầu áp dụng BPKCTT phải gửi
một khoản tiền, kim khí quý, đá quý hoặc giấy tờ có giá do HĐTT ấn định
tương ứng với giá trị thiệt hại có thể phát sinh do do áp dụng BPKCTT không
đúng gây ra (theo khoản 3 điều 50 LTTTM năm 2010).
Trong thời hạn 3 ngày làm việc, kể từ ngày nhận đơn, ngay sau khi bên
yêu cầu đã thực hiện biện pháp bảo đảm quy định tại khoản 3 điều 50 thì
HĐTT xem xét ra quyết định áp dụng BPKCTT. Trường hợp không chấp
nhận yêu cầu, HĐTT phải thông báo bằng văn bản và nêu rõ lý do cho bên
yêu cầu biết (theo khoản 4 điều 50 LTTTM năm 2010).
Việc thi hành quyết định áp dụng BPKCTT của HĐTT được thực hiện
theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự (theo khoản 5 điều 50
LTTTM năm 2010).
Thẩm quyền thay đổi, bổ sung BPKCTT của HĐTT
Sau khi HĐTT đã ra quyết định áp dụng BPKCTT, theo yêu cầu của
một bên, HĐTT có quyền thay đổi, bổ sung, hủy bỏ BPKCTT vào bất kỳ thời
điểm nào trong quá trình giải quyết tranh chấp (theo khoản 1 điều 51 LTTTM
năm 2010).
Thủ tục thay, đổi bổ sung BPKCTT của HĐTT
Bên yêu cầu thay đổi, bổ sung BPKCTT phải làm đơn gửi HĐTT. Đơn
yêu cầu thay đổi bổ sung BPKCTT phải có các nội dung sau:
a) Ngày, tháng, năm làm đơn;
b) Tên, địa chỉ của bên có yêu cầu áp dụng BPKCTT;
c) Tên, địa chỉ của bên bị yêu cầu áp dụng BPKCTT;
d) Tóm tắt nội dung tranh chấp;
đ) Lý do cần phải thay đổi, bổ sung BPKCTT;
e) BPKCTT cần được thay đổi, bổ sung và các yêu cầu cụ thể;
Hủy bỏ BPKCTT của HĐTT
43. 36
Theo khoản 3 điều 51 LTTTM năm 2010 khi có một trong các căn cứ
dưới đây thì HĐTT phải ra quyết định hủy bỏ BPKCTT:
- Bên yêu cầu áp dụng BPKCTT đề nghị hủy bỏ;
- Bên phải thi hành quyết định áp dụng BPKCTT đã nộp tài sản hoặc
có người khác thực hiện biện pháp bảo đảm thi hành nghĩa vụ đối với bên có
yêu cầu;
- Nghĩa vụ của bên có nghĩa vụ chấm dứt theo quy định của pháp luật.
Thủ tục hủy bỏ BPKCTT của HĐTT (theo khoản 4 điều 51 LTTTM
năm 2010)
- Bên yêu cầu phải có đơn đề nghị hủy bỏ BPKCTT gửi HĐTT;
- HĐTT xem xét ra quyết định hủy bỏ BPKCTT thì phải xem xét, quyết
định để người đã thực hiện việc bảo đảm nhận lại tài sản bảo đảm. Nếu do
việc yêu cầu áp dụng BPKCTT không đúng gây thiệt hại cho người bị áp
dụng BPKCTT hoặc người thứ ba thì HĐTT không ra quyết định trả lại tài
sản bảo đảm cho người đã thực hiện biện pháp bảo đảm đó.
Quyết định hủy bỏ BPKCTT phải được gửi ngay cho các bên tranh
chấp và Cơ quan thi hành án dân sự.
Trách nhiệm của bên yêu cầu áp dụng BPKCTT (theo điều 52 LTTTM
năm 2010)
Bên yêu cầu áp dụng BPKCTT phải chịu trách nhiệm về yêu cầu của
mình. Trong trường hợp bên yêu cầu áp dụng BPKCTT không đúng và gây
thiệt hại cho bên kia hoặc cho người thứ ba thì phải bồi thường.
Theo khoản 5 điều 49 LTTTM năm 2010, trách nhiệm của HĐTT khi
áp dụng BPKCTT, HĐTT áp dụng BPKCTT khác hoặc vượt quá yêu cầu áp
dụng BPKCTT của bên yêu cầu mà gây thiệt hại cho bên yêu cầu, bên bị áp
dụng, hoặc người thứ ba thì người bị thiệt hại có quyền khởi kiện ra Tòa án để
yêu cầu giải quyết bồi thường theo qui định của pháp luật về tố tụng dân sự.
44. 37
Thẩm quyền , trình tự, thủ tục của Tòa án áp dụng, thay đổi, hủy bỏ
BPKCTT theo quy định tại điều 53 LTTTM
Thời điểm yêu cầu áp dụng BPKCTT tại Tòa án
Khi đương sự nộp đơn khởi kiện tại trọng tài. HĐTT đã nhận được đơn
khởi kiện cũng là lúc đương sự có quyền gửi đơn đến Tòa án yêu cầu áp dụng
BPKCTT, theo khoản 1 điều 53 LTTTM năm 2010 “Sau khi nộp đơn khởi
kiện, nếu quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm hại hoặc có nguy cơ
trực tiếp bị xâm hại, một bên có quyền làm đơn gửi đến Tòa án có thẩm quyền
yêu cầu áp dụng một hoặc một số BPKCTT”.
Thời điểm yêu cầu áp dụng BPKCTT không bị phụ thuộc vào việc
HĐTT đã được thành lập hay chưa, HĐTT đã giải quyết tranh chấp hay chưa.
Việc đương sự yêu cầu tòa án áp dụng BPKCTT không bị coi là từ bỏ
thỏa thuận trọng tài hoặc khước từ quyền giải quyết tranh chấp bằng Trọng
tài. Việc dành cho đương sự chọn một trong hai cơ quan tài phán (Tòa án hay
Hội đồng Trọng tài) yêu cầu áp dụng BPKCTT là nhằm tạo thuận lợi cho
đương sự trong việc bảo vệ lợi ích của mình. Hoạt động này của tòa án chỉ là
sự hỗ trợ cho hoạt động của Trọng tài, theo khoản 2 điều 48 LTTTM năm
2010 “ Việc yêu cầu Tòa án áp dụng BPKCTT không bị coi là sự bác bỏ thỏa
thuận trọng tài hoặc khước từ quyền giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài”.
Đương sự có quyền yêu cầu Tòa án áp dụng một hay một số BPKCTT.
Thẩm quyền, thủ tục áp dụng BPKCTT của Tòa án
Thẩm quyền chung:
Theo điều 7 LTTTM năm 2010 Xác định Tòa án có thẩm quyền đối
với hoạt động trọng tài.
Theo quy định tại khoản 3 điều 7 LTTTM năm 2010 thì chỉ có
45. 38
TAND cấp tỉnh, Thành phố trực thuộc trung ương mới có thẩm quyền quyết
định áp dụng BPKCTT.
Thẩm quyền riêng cụ thể theo quy định tại khoản 1 điều 7 LTTTM năm
2010 “ trường hợp các bên đã có thỏa thuận lựa chọn một Tòa án cụ thể thì
Tòa án có thẩm quyền là Tòa án được các bên lựa chọn” Trường hợp các bên
đã lựa chọn một TAND cấp tỉnh áp dụng BPKCTT thì thỏa thuận đó là hợp
pháp và Tòa án cấp tỉnh được các bên thỏa thuận lựa chọn có thẩm quyền áp
dụng BPKCTT. Ngược lại, nếu các bên lại thỏa thuận chọn một TAND cấp
huyện áp dụng BPKCTT thì thỏa thuận này sẽ không có giá trị pháp lý, vì đã
vi phạm quy định về thẩm quyền chung quy định tại khoản 3 điều 7 LTTTM
năm 2010. Do đó trong trường hợp này được coi là hai bên không có thỏa
thuận lựa chọn Tòa án.
Nếu các bên tranh chấp không có thỏa thuận lựa chọn một TAND cấp
tỉnh cụ thể nào đó, thì thẩm quyền áp dụng BPKCTT là TAND cấp tỉnh nơi
BPKCTT được áp dụng.
Trên thực tế việc áp dụng BPKCTT thường chỉ do một trong các bên
đương sự yêu cầu Tòa án áp dụng. Do đó theo đề nghị của một trong các bên
trong vụ tranh chấp Tòa án có thẩm quyền áp dụng một hoặc một số
BPKCTT quy định tại khoản 2 điều 49 LTTTM năm 2010.
Ví dụ: Bên khởi kiện yêu cầu áp dụng BPKCTT là kê biên tài sản đang
tranh chấp là nhà xưởng tại xã A huyện B, tỉnh AB. Tòa án có thẩm quyền áp
dụng BPKCTT theo yêu cầu của người khởi kiện là Tòa án nhân dân tỉnh
AB.
Điều kiện để áp dụng BPKCTT:
Cũng giống như HĐTT. Tòa án chỉ có thể áp dụng BPKCTT khi hội đủ
4 điều kiện sau.
- Phải có đương sự yêu cầu áp dụng một hoặc một số BPKCTT cụ thể;
46. 39
- Người yêu cầu phải cung cấp tài liệu, chứng cứ chứng minh cho sự
cần thiết phải áp dụng BPKCTT đó;
- Người yêu cầu áp dụng BPKCTT đã thực hiện nghĩa vụ bảo đảm về
tài chính để đảm bảo việc bồi thường những thiệt hại do việc yêu cầu áp dụng
BPKCTT không đúng gây thiệt hại cho người bị áp dụng;
- Chưa có đương sự nào yêu cầu Tòa án áp dụng BPKCTT;
Nếu thiếu một trong bốn điều kiện nói trên thì HĐTT sẽ không áp dụng
BPKCTT.
Trình tự, thủ tục Tòa án yêu cầu áp dụng BPKCTT
- Bên yêu cầu áp dụng BPKCTT phải làm đơn gửi đến Tòa án có thẩm
quyền.
- Đơn yêu cầu áp dụng BPKCTT phải có các nội dung chính sau đây
theo khoản 2 điều 50 LTTTM năm 2010.
a) Ngày, tháng, năm làm đơn;
b) Tên, địa chỉ của bên có yêu cầu áp dụng BPKCTT;
c) Tên, địa chỉ của bên bị yêu cầu áp dụng BPKCTT;
d) Tóm tắt nội dung tranh chấp;
đ) Lý do cần phải áp dụng BPKCTT;
e) BPKCTT cần được áp dụng và các yêu cầu cụ thể;
Kèm theo đơn yêu cầu áp dụng BPKCTT, bên yêu cầu phải cung cấp
cho HĐTT chứng cứ để chứng minh cho sự cần thiết phải áp dụng BPKCTT
đó.
Khi Tòa án nhận được đơn yêu cầu áp dụng BPKCTT, trong thời hạn
ba ngày làm việc kể từ ngày nhận đơn. Chánh án của Tòa án có thẩm quyền
phải phân công một thẩm phán xem xét giải quyết.
Trong thời hạn ba ngày kể từ ngày phân công, thẩm phán phải kiểm
tra, xem xét đơn yêu cầu áp dụng BPKCTT.Thẩm phán đề nghị người yêu cầu
47. 40
áp dụng BPKCTT cho biết trước hoặc sau khi yêu cầu họ đã yêu cầu HĐTT
áp dụng một hoặc một số BPKCTT hay chưa. Nếu họ chưa yêu cầu HĐTT
thì thẩm phán yêu cầu họ phải cam kết trong đơn yêu cầu không được yêu cầu
Tòa án khác, hoặc HĐTT. Đồng thời Tòa án phải kiểm tra xem xét các tài liệu
gửi kèm theo đơn yêu cầu để xác định vụ tranh chấp đó các bên đã có yêu cầu
Tòa án khác hoặc HĐTT áp dụng một hoặc một số BPKCTT đó hay chưa.
Trường hợp có căn cứ cho thấy một trong các bên đã có yêu cầu HĐTT
hoặc Tòa án khác áp dụng một hoặc một số BPKCTT đó thì thẩm phán căn cứ
vào quy định tại khoản 5 điều 53 LTTTM năm 2010 để trả lại đơn yêu cầu
cho các bên, trừ trường hơp yêu cầu áp dụng BPKCTT của các bên không
thuộc thẩm quyền của HĐTT.
Trong trường hợp không chấp nhận yêu cầu thì Thẩm phán phải thông
báo bằng văn bản và nêu rõ lý do cho người yêu cầu biết theo khoản 2 điều
53 LTTTM năm 2010.
Nếu thẩm phán xét thấy đơn yêu cầu áp dụng BPKCTT là có căn cứ,
thuộc trường hợp được chấp nhận, thì thẩm phán yêu cầu người yêu cầu áp
dụng BPKCTT thực hiện nghĩa vụ bảo đảm bằng tài sản. theo quy định tại
khoản 4 điều 49 LTTTM năm 2010, tất cả BPKCTT được quy định trong luật
TTTM năm 2010 thì họ phải thực hiện nghĩa vụ bảo đảm tài chính cho từng
biện pháp.
Tòa án có thẩm quyền căn cứ vào từng BPKCTT và yêu cầu cụ thể của
đương sự đối với việc áp dụng BPKCTT đó. Tòa án dự định khả năng và mức
độ thiệt hại có thể xảy ra đối với người bị áp dụng BPKCTT để xác định để
tạm tính, để ấn định một số tiền, kim khí quý, đá quý hoặc giấy tờ có giá để
buộc người yêu cầu áp dụng BPKCTT thực hiện nghĩa vụ bảo đảm.
Khi tiến hành dự kiến mức thực hiện nghĩa vụ bảo đảm, Thẩm phán có
thể đề nghị người yêu cầu áp dụng BPKCTT tạm tính mức thiệt hại có thể xảy
48. 41
ra, khi thấy cần thiết Thẩm phán có thể hỏi ý kiến người bị áp dụng BPKCTT
để họ dự kiến tạm tính thiệt hại có thể xảy ra khi áp dụng BPKCTT đó. Các
căn cứ của việc dự kiến, tạm tính trên cơ sở dự kiến tổng mức thiệt hại. Thẩm
phán ấn định khoản tiền hoặc kim khí quý, đá quý, hoặc giấy tờ có giá và
buộc người yêu cầu áp dụng BPKCTT thực hiện nghĩa vụ bảo đảm tại Ngân
hàng do Tòa án chỉ định.
Ngay sau khi người yêu cầu thực hiện nghĩa vụ bảo đảm (họ đã nộp các
tài liệu giấy tờ thể hiện đã thực hiện đúng yêu cầu của Tòa án về thực hiện
nghĩa vụ bảo đảm) Thẩm phán phải ban hành ngay quyết định áp dụng
BPKCTT.
Trường hợp sau khi đã ra quyết định áp dụng BPKCTT, Tòa án mới
phát hiện được vụ tranh chấp đó các bên đã có yêu cầu HĐTT hoặc Tòa án
khác áp dụng BPKCTT đó thì Tòa án căn cứ vào quy định tương ứng để ra
quyết định hủy bỏ BPKCTT do mình ban hành, đồng thời trả lại đơn yêu cầu
và các tài liệu gửi kèm theo đơn yêu cầu cho các bên. Khi hủy bỏ việc áp
dụng BPKCTT, Tòa án phải xử lý khoản tiền, kim khí quý, đá quý hoặc giấy
tờ có giá mà họ đã thực hiện khi yêu cầu áp dụng BPKCTT. Trong trường
hợp việc áp dụng không gây thiệt hại cho bên bị áp dụng thì tòa án cho họ
nhận lại số tài sản họ đã thực hiện nghĩa vụ bảo đảm trước đó.
Thủ tục thay đổi, áp dụng bổ sung BPKCTT.
Việc thay đổi, áp dụng bổ sung BPKCTT cũng áp dụng tương tự như
thủ tục áp dụng BPKCTT. Nhưng nếu việc thay đổi, bổ sung có lợi cho người
bị áp dụng thì thẩm phán cần chấp nhận ngay đơn yêu cầu và tùy tình hình cụ
thể để xử lý nghĩa vụ bảo đảm.
Nếu chấp nhận yêu cầu áp dụng bổ sung BPKCTT (với ý nghĩa là mở
rộng thêm các nội dung yêu cầu đối với biện pháp khẩn cấp đã áp dụng) thì
phải yêu cầu họ trình bày rõ lý do và thực hiện bổ sung biện pháp bảo đảm.
49. 42
Nếu việc áp dụng bổ sung BPKCTT với ý nghĩa là áp dụng thêm
BPKCTT mới thì yêu cầu đương sự phải trình bày rõ lý do, căn cứ cho đề
nghị này và yêu cầu họ thực hiện nghĩa vụ bảo đảm.
Thủ tục hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời
Căn cứ để hủy bỏ.
Người yêu cầu áp dụng BPKCTT có đơn đề nghị Tòa án hủy bỏ.
Người phải thi hành quyết định áp dụng BPKCTT nộp tài sản hoặc có
người khác thực hiện biện pháp bảo đảm thi hành nghĩa vụ đối với bên yêu
cầu.
Trường hợp bên yêu cầu áp dụng BPKCTT có đơn yêu cầu hủy bỏ
BPKCTT thì Tòa án cần chấp nhận ngay yêu cầu của họ. Trong trường hợp
này nếu yêu cầu áp dụng BPKCTT là đúng thì khi quyết định hủy bỏ
BPKCTT, Tòa án quyết định cho họ được nhận lại số tiền, tài sản mà họ đã
gửi giữ tại ngân hàng theo quyết định của Tòa án.
Trường hợp người yêu cầu áp dụng BPKCTT không đúng, gây thiệt hại
cho người bị áp dụng BPKCTT, hoặc cho người thứ ba và họ yêu cầu được
bồi thường thì chưa cho họ nhận lại số tiền, tài sản bảo đảm, trừ khi người bị
thiệt hại yêu cầu bồi thường thấp hơn số tiền bảo đảm đang gửi giữ tại ngân
hàng theo quyết định của tòa án, thì Tòa án quyết định cho người yêu cầu
được nhận lại số tiền, tài sản vượt quá mức người bị thiệt hại yêu cầu bồi
thường.
Khi ban hành quyết định này Tòa án phải gửi cho cá nhân, cơ quan, tổ
chức có liên quan, Viện kiểm sát, Cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền.
Những bất cập, khó khăn trong việc áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm
thời trong giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại
Pháp luật trọng tài thương mại Việt Nam không đưa ra khái niệm về
BPKCTT mà chỉ quy định về điều kiện và thủ tục yêu cầu áp dụng BPKCTT.
50. 43
Việc không nêu khái niệm BPKCTT có thể dẫn đến hậu quả là cả
HĐTT lẫn các bên tranh chấp không nắm được hết ý nghĩa cũng như vai trò
của các BPKCTT trong tố tụng trọng tài thương mại, từ đó làm cho việc áp
dụng trở nên khó khăn, các bên tranh chấp cũng như HĐTT ngại áp dụng các
biện pháp khẩn cấp tạm thời. Điều này ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp
pháp của các bên cũng như ảnh hưởng đến tác động tích cực của tố tụng
trọng tài.
Theo điều 49 LTTTM năm 2010 thì HĐTT có quyền áp dụng BPKCTT
đối với các bên tranh chấp mà không có thẩm quyền đối với bên thứ ba. Điều
này khác với thẩm quyền của Tòa án, bởi Tòa án có quyền áp dụng BPKCTT
đối với cả bên thứ ba nếu được yêu cầu và xét thấy có đủ căn cứ theo luật.
Trong trường hợp có yêu cầu và trọng tài áp dụng cho bên thứ ba, cần làm rõ
bên thứ ba có liên quan đến thỏa thuận trọng tài hay không, vì thông thường
thỏa thuận trọng tài chỉ có giá trị ràng buộc đối với các bên tham gia thỏa
thuận đó.
Có sự chồng chéo trong các quy định của Luật trọng tài thương mại
năm 2010 về BPKCTT trong tố tụng trọng tố tụng trọng tài thương mại với
quy định của Bộ luât tố tụng dân sự 2015. LTTTM năm 2010 theo quy định
tại khoản 2 điều 49 quy định 6 BPKCTT, trong khi theo điều 114 BLTTDS
2015 quy định 17 BPKCTT trong tố tụng dân sự, trong 6 BPKCTT của
LTTTM năm 2010 có cái trùng và thiếu rất nhiều BPKCTT so với BLTTDS
2015 quy định về các BPKCTT.
Tuy nhiên tại khoản 1 điều 48 LTTTM năm 2010 quy định các bên
tranh chấp có quyền yêu cầu HĐTT , Tòa án áp dụng BPKCTT theo quy
định của luật này và các quy định của pháp luật có liên quan, trừ trường hợp
các bên có thỏa thuận khác và chồng chéo chính là do quy định “theo quy
định của pháp luật có liên quan” vậy pháp luật có liên quan là pháp luật nào?
51. 44
Và những quy định về BPKCTT trong BLTTDS năm 2015 gồm 17 BPKCTT
có liên quan không.
Sự thiếu thống nhất quy định tại khoản 1 điều 153 LTTTM năm 2010
“sau khi nôp đơn khởi kiện, nếu quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm
hại hoặc có nguy cơ trực tiếp bị xâm hại, một bên có quyền làm đơn gửi đến
Tòa án có thẩm quyền yêu cầu áp dụng một hoặc một số BPKCTT”, vậy các
BPKCTT trong trường hợp này là các BPKCT nào?, 17 BPKCTT theo quy
định tại điều 114 BLTTDS 2015 hay là 6 BPKCTT quy định tại khoản 2 điều
49 LTTTM năm 2010. Đây chính là việc thiếu thống nhất , đồng bộ giữa
BPKCTT của LTTTM năm 2010 và BLTTDS năm 2015 do cách quy định
thiếu rõ ràng, nếu không có sự giải thích rõ việc áp dụng BPKCTT trong tố
tụng trọng tài sẽ gặp nhiều khó khăn.
LTTTM năm 2010 vẫn còn thiếu những BPKCTT phù hợp với thực
tiễn và tính chất của hoạt động thương mại. so với PLTTTM năm 2003 tại
điều 33 gồm 6 BPKCTT:
- Bảo toàn chứng cứ…
- Kê biên tài sản tranh chấp;
- Cấm chuyển dịch tài sản tranh chấp;
- Cấm thay đổi hiện trạng tài sản tranh chấp;
- Kê biên và niêm phong tài sản ở nơi gửi giữ;
- Phong tỏa tài khoản tại ngân hàng.
Theo khoản 2 điều 49 LTTTM năm 2010 các BPKCTT bao gồm:
- Cấm thay đổi hiện trạng tài sản tranh chấp;
- Cấm các hành vi ảnh hưởng bất lợi đến quá trình tố tụng trọng tài;
- Kê biên tài sản đang tranh chấp;
- Yêu cầu bảo tồn, cất trữ, bán hoặc định đoạt bất kỳ tài sản nào của
một hoặc các bên tranh chấp;
52. 45
-Yêu cầu tạm thời về việc trả tiền giữa các bên;
- Cấm chuyển dịch quyền về tài sản đang tranh chấp.
Tuy nhiên, LTTTM năm 2010 lại không quy định về biện pháp phong
tỏa tài khoản tại ngân hàng, phong tỏa tài sản nơi gửi giữ, phong tỏa tài sản
của người có nghĩa vụ… Điều này là không phù hợp với tính chất của hoạt
động thương mại vì trong thực tiễn kinh doanh hiện nay các doanh nghiệp
thường giao dịch với nhau thông qua ngân hàng nơi có tài khoản của họ,vì
vâỵ khi xảy ra tranh chấp nếu một bên có ý đồ không tốt như cố tình không
thực hiện nghĩa vụ bằng cách tẩu tán tài sản chuyển khoản sang tài khoản của
người khác thì HĐTT sẽ rất khó kiểm soát được hành vi này.