SlideShare a Scribd company logo
1 of 220
Đại học Quốc gia Hà nội
Khoa luật
Nguyễn Mai Bộ
Các tội xâm phạm
nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân-
một số vấn đề lý luận và thực tiễn
Chuyên ngành: Luật hình sự
Mã số: 62 38 40 01
Luận án tiến sĩ luật học
Hà nội- 2010
Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Các quy định của Bộ luật hình sự về các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách
nhiệm của quân nhân với tư cách là một chế định của pháp luật hình sự Việt
Nam bao gồm những quy phạm pháp luật quy định về tội phạm và chế tài đối
với hành vi vi phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân là công cụ pháp lý
quan trọng của công tác đấu tranh phòng chống tội phạm và vi phạm kỷ luật
trong Quân đội. Cho nên, các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân
nhân là đối tượng nghiên cứu của khoa học pháp lý hình sự.
Các quy định pháp luật hình sự của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam về các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân đã được
hình thành từ năm 1946 và ngày càng được hoàn thiện. Việc ban hành Bộ luật
hình sự năm 1985 là một bước tiến quan trọng của Luật hình sự nói chung và
chế định các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân nói riêng. Bộ
luật hình sự năm 1985 đã quy định “Các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm
của quân nhân” thành một chương độc lập. Sau khi ban hành Bộ luật hình sự,
các cơ quan hữu quan đã ban hành nhiều văn bản hướng dẫn áp dụng tạo cơ
sở pháp lý cho việc điều tra, truy tố, xét xử các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách
nhiệm của quân nhân, bảo đảm đúng người, đúng tội và đúng pháp luật. Tuy
nhiên, một số quy định của Bộ luật hình sự về các tội xâm phạm nghĩa vụ,
trách nhiệm của quân nhân chưa chặt chẽ, thiếu tính khoa học và không bảo
đảm tính lôgích với các quy định khác của Bộ luật hình sự. Việc hướng dẫn
thống nhất nhận thức và áp dụng các quy định nêu trên của Bộ luật hình sự
chưa được đầy đủ, kịp thời. Mặc dù, Bộ luật hình sự năm 1985 đã được sửa
đổi bổ sung nhiều lần với các mức độ khác nhau, trong đó có lần sửa đổi cơ
bản là ban hành Bộ luật hình sự năm 1999, nhưng những bất cập trong các
2
quy định của Bộ luật hình sự về các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của
quân nhân vẫn chưa được khắc phục triệt để. Cá biệt có quy định của Bộ luật
hình sự như quy định về tội vắng mặt trái phép được huỷ bỏ, quy định về tội
đào ngũ sau khi được sửa đổi đã tạo ra nhiều bất cập, không bảo đảm cho việc
đấu tranh phòng chống các tội phạm này.
Thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách
nhiệm của quân nhân cho thấy, số lượng vụ án về các tội phạm này chưa có
chiều hướng giảm và diễn biến tội phạm càng trở nên phức tạp. Có nhiều
trường hợp, hành vi vi phạm nghĩa vụ trách nhiệm của quân nhân đã vượt ra
ngoài phạm vi điều chỉnh của chế định các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách
nhiệm của quân nhân trong luật hình sự Việt Nam. Các cơ quan tiến hành tố
tụng trong Quân đội đã có nhiều cố gắng trong việc áp dụng quy định của Bộ
luật hình sự về các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân, giảm
bớt tình trạng sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật. Mặc dù vậy,
việc áp dụng pháp luật hình sự để giải quyết các vụ án về các tội xâm phạm
nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân vẫn còn bộc lộ nhiều hạn chế: để lọt tội
phạm; một số trường hợp định tội danh chưa chính xác hoặc có nhiều quan
điểm khác nhau do quy định không rõ ràng của Bộ luật hình sự hoặc do nhận
thức thiếu thống nhất các quy định của pháp luật.
Để đáp ứng kịp thời các yêu cầu cải cách tư pháp, đấu tranh phòng
chống các hành vi xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân, góp phần
xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam theo hướng cách mạng, chính quy,
tinh nhuệ, từng bước hiện đại, việc tiếp tục nghiên cứu các quy định của pháp
luật hình sự về các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân một
cách có hệ thống về mặt lý luận, chỉ ra những hạn chế, vướng mắc, bất cập
trong thực tiễn áp dụng; trên cơ sở đó đưa ra những căn cứ khoa học nhằm
3
hoàn thiện pháp luật hình sự về các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của
quân nhân là một việc làm cần thiết của khoa học luật hình sự hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Mặc dù các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân được
quy định trong Bộ luật hình sự từ năm 1985 nhưng cho đến nay chưa có một
luận án thạc sỹ hay luận án tiến sỹ nào nghiên cứ đề tài này. Trong khoa học
pháp lý hình sự, các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân đã
được một số tác giả trong nước nghiên cứu ở các cấp độ và mức độ khác
nhau. ở cấp độ giáo trình, có: giáo trình Luật hình sự Việt Nam của trường
Đại học Luật Hà Nội, giáo trình Luật hình sự của Khoa luật trực thuộc Đại
học quốc gia Hà Nội, giáo trình Luật hình sự của trường Đại học luật trực
thuộc Đại học quốc gia thành phố Hồ Chí Minh... Trong các giáo trình Luật
hình sự nêu trên, các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân mới
chỉ được đề cập ở mức độ cơ bản. ở cấp độ bình luận khoa học, phân tích
chuyên sâu, có: Chương “Các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân
nhân” của PGS. TS Trần Văn Độ trong Bình luận khoa học Bộ luật hình sự
của Viện nghiên cứu khoa học pháp lý Bộ Tư pháp năm 2000; Chương “Các
tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân” của TS. Nguyễn Đức
Mai trong Bình luận khoa học Bộ luật hình sự của Nhà xuất bản Công an
nhân dân năm 2000; sách chuyên khảo “ Tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm
của quân nhân” của tập thể tác giả Lê Đức Tiết, Lê Tranh Trung, Nguyễn Hữu
Hùng, Nguyễn Văn Hợp do Nhà xuất bản pháp lý phát hành năm 1987. Trong
các cuốn bình luận khoa học Bộ luật hình sự và cuốn sách chuyên khảo nêu
trên, các tác giả mới chỉ dừng lại ở việc phân tích, giải thích (trong đó, sách
chuyên khảo phân tích sâu hơn) các quy định của Bộ luật hình sự về các tội
xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân làm cơ sở cho việc nhận thức
và áp dụng pháp luật trong công tác điều tra, truy tố, xét xử các tội phạm này.
4
Ngoài những công trình nghiên cứu nêu trên, còn có một số bài viết đăng trên
các tạp chí như: Về cấu thành tội đào ngũ theo quy định của Bộ luật hình sự
năm 1999 và thực tiễn áp dụng của ThS. Nguyễn Văn Trượng đăng trên Tạp
chí Toà án nhân dân số 12 năm 2000; Những vướng mắc từ thực tiễn xử lý tội
đào ngũ của Lê Văn Sua đăng trên tạp chí Toà án nhân dân số 9 năm 2002;
Bàn về tội đào ngũ quy định tại Điều 325 Bộ luật hình sự năm 1999 của ThS.
Bùi Quang Thạch và CN. Trương Hùng Biện đăng trên Tạp chí Kiểm sát số
24 năm 2006. Các giả của những bài tạp chí nêu trên mới chỉ nghiên cứu một
tội phạm cụ thể (tội đào ngũ) trong Chương các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách
nhiệm của quân nhân. Tác giả cũng đã nghiên cứu và công bố một số cuốn
sách chuyên khảo về các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân
như: cuốn Tìm hiểu các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân
năm 1998; cuốn Các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân năm
2006; và một số bài tạp chí như: áp dụng hình phạt quản chế đối với quân
nhân phạm tội đăng trên Tạp chí Toà án nhân dân số 12 năm 1993, Tội đào
ngũ đăng trên Tạp chí Toà án nhân dân số 6 năm 1995 và Tước danh hiệu
quân nhân đối với các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân
đăng trên Tạp chí Toà án nhân dân số 3 năm 1998. Trong cuốn “Các tội xâm
phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân”, Nghiên cứu sinh đã chứng
minh, làm rõ các đặc điểm của các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm hình
sự của quân nhân theo quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam trên cơ sở phân
tích các đặc điểm của khái niệm tội phạm được đề cập tại Điều 8 Bộ luật hình
sự. Đồng thời, phân tích bình luận về từng tội phạm cụ thể xâm phạm nghĩa
vụ, trách nhiệm của quân nhân.
Nhìn chung, việc nghiên cứu các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm
của quân nhân của các tác giả trong nước tuy đã đạt được những thành quả
nhất định nhưng với những kết quả nêu trên, thì có thể nói việc nghiên cứu
5
các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân vẫn còn là một
khoảng trống trong khoa học luật hình sự Việt Nam. Điều này cho thấy sự cần
thiết phải nghiên cứu sâu hơn, toàn diện hơn cả về lý luận và thực tiễn áp
dụng các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân để từng bước
hoàn thiện quy định của Bộ luật hình sự về các tội phạm này. Đó cũng chính
là lý do chúng tôi chọn đề tài “Các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của
quân nhân- một số vấn đề lý luận và thực tiễn” làm đề tài nghiên cứu sinh của
mình.
Về tình hình nghiên cứu các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của
quân nhân ở nước ngoài, do khả năng và điều kiện hạn chế nên chúng tôi chỉ
nắm được một số thông tin về các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của
quân nhân được đề cập trong: cuốn Bình luận khoa học Luật về trách nhiệm
hình sự của các tội quân sự năm 1986 của GS. TS. Axmetina X. M., GS. TS.
Ter-Akopop, PGS.TS. Procovich E. V. và Giáo trình luật hình sự của nhà xuất
bản Pháp lý Matxcơva năm 1988. Trong đó, GS. TS. Axmetina X. M đã phân
tích rất kỹ đặc điểm của các tội phạm quân sự theo quy định của Bộ luật hình
sự Liên bang Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Xô viết Nga. Kết quả nghiên cứu của
GS. TS. Axmetina X. M có thể kế thừa và phát triển để xây dựng khái niệm
các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân theo quy định của Bộ
luật hình sự Việt Nam. Do có nhiều khó khăn trong việc tiếp cận, phân tích,
đánh giá pháp luật nước ngoài nên trong luận án này chúng tôi chỉ phân tích
số quy định về các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân trong
Bộ luật hình sự của một số nước đã được dịch ra tiếng Việt mang tích chất
thông tin khoa học.
Các kết quả nêu trên cho thấy, trong khoa học luật hình sự nói chung và
khoa học luật hình sự Việt Nam nói riêng đã có một hệ thống lý luận về các
tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân. Kế thừa và phát triển
6
những kết quả nghiên cứu của khoa học luật hình sự trước đây để nghiên cứu,
xây dựng khái niệm các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân là
việc làm cần thiết.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
Mục đích của luận án là nghiên cứu: thừa kế và phát triển lý luận về các
tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân; đề xuất những giải pháp
hoàn thiện quy định của Bộ luật hình sự về các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách
nhiệm của quân nhân.
Để đạt được các mục đích nêu trên, luận án đề ra các nhiệm vụ:
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận về các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách
nhiệm của quân nhân như: sự cần thiết phải quy định trách nhiệm hình sự đối
với các hành vi xâm phạm, nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân; khái niệm
các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân; cơ sở trách nhiệm
hình sự và các hình thức trách nhiệm hình sự của các tội xâm phạm nghĩa vụ,
trách nhiêm của quân nhân;
- Xem xét, đánh giá tính khoa học, tích pháp lý những quy định của Bộ
luật hình sự hiện hành về các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiêm của quân
nhân;
- Thực tiễn áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự về các tội xâm
phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân trong hoạt động điều tra, truy tố,
xét xử các tội phạm này.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
7
Đối tượng nghiên cứu của luận án là những quy định của pháp luật hình
sự Việt Nam về các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân và
thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử các vụ án hình sự về loại tội phạm này.
Phạm vi nghiên cứu của luận án là các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách
nhiệm của quân nhân trong pháp luật hình sự của Nhà nước Cộng hoà xã hội
chủ nghĩa Việt Nam, có sự so sánh đối chiếu với pháp luật hình sự của một số
nước trên thế giới; thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử các vụ án về các tội xâm
phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân từ khi Cách mạng tháng Tám
thành công cho tới nay.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận án được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng cộng sản và Nhà nước Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam về xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa và xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam theo hướng cách mạng,
chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại.
Đồng thời, tác giả sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: hệ
thống, lịch sử, so sánh luật học, thống kê, phân tích, tổng hợp và phương pháp
chuyên gia...
6. ý nghĩa của việc nghiên cứu và những đóng góp mới của luận án
Việc nghiên cứu đề tài “Các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của
quân nhân – một số vấn đề lý luận và thực tiễn” có ý nghĩa rất lớn đối với
việc: tuyên truyền giáo dục pháp luật cho quân nhân trong Quân đội nhân dân
Việt Nam và các đối tượng liên quan; áp dụng pháp luật hình sự trong việc
truy cứu trách nhiệm hình sự các hành vi nguy hiểm cho xã hội xâm phạm
nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân; hoàn thiện pháp luật hình sự về các tội
xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân theo tinh thần cải cách tư
8
pháp; và giúp sinh viên các khoa luật chuyên ngành hình sự nghiên cứu sâu
hơn về các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân.
Đề tài là công trình khoa học đầu tiên ở cấp độ tiến sỹ nghiên cứu toàn
diện, hệ thống về các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân
trong pháp luật hình sự Việt Nam. Những đóng góp mới của luận án là:
- Luận án chứng minh sự cần thiết phải quy định trách nhiệm hình sự
của các hành vi xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân;
- Luận án đưa ra các khái niệm khoa học về: các tội xâm phạm nghĩa
vụ, trách nhiệm của quân nhân; cơ sở trách nhiệm hình sự của các tội xâm
phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân; các yếu tố cấu thành tội phạm
(khái niệm khách thể, chủ thể, mặt khách quan và mặt chủ quan) của các tội
xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân;
- Luận án nêu các hình thức trách nhiệm hình sự của các tội xâm phạm
nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân;
- Luận án phân tích và chứng minh những bất cập trong các quy định
của Bộ luật hình sự hiện hành về các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của
quân nhân và thực tiễn áp dụng chúng trong việc truy cứu trách nhiệm hình sự
hành vi xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân;
- Luận án đã kiến nghị sửa đổi, bổ sung nhiều quy định của Bộ luật
hình sự năm 1999 về các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân
đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp.
7. Cơ cấu của luận án
Cơ cấu của luận án, ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu
tham khảo, luận án có ba chương:
9
Chương 1. Những vấn đề lý luận chung về các tội xâm phạm nghĩa vụ,
trách nhiệm của quân nhân.
Chương 2. Các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân theo
quy định của pháp luật hình sự Việt Nam.
Chương 3. Thực tiễn áp dụng và những kiến nghị hoàn thiện Bộ luật
hình sự Việt Nam về các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân.
Chương 1
Những vấn đề lý luận chung về Các tội
xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân
1.1. Nhận thức chung về Các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm
của quân nhân
1.1.1. Sự cần thiết phải quy định trách nhiệm hình sự đối với các
hành vi xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân
Những hành vi vi phạm kỷ luật quân đội bao gồm hành vi vi phạm
pháp luật Nhà nước và hành vi vi phạm Điều lệnh Quân đội, có mức độ nguy
hiểm khác nhau cần được xử lý bởi các hình thức khác nhau. Trong đó có
hành vi bị xử lý hình sự, có hành vi bị xử lý kỷ luật. Những hành vi vi phạm
kỷ luật quân đội bị xử lý hình sự là những hành vi có tính nguy hiểm cao cho
xã hội, vì gây thiệt hại hoặc có khả năng gây thiệt hại cho các quan hệ xã hội
được luật hình sự bảo vệ. Căn cứ vào tính chất các quan hệ xã hội được luật
hình sự bảo vệ có thể chia những hành vi vi phạm kỷ luật quân đội bị xử lý
hình sự thành: những hành vi phạm các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm
10
của quân nhân; và những hành vi phạm tội hình sự chung. Trong đó, những
hành vi phạm các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân là
những hành vi do quân nhân và những người có nghĩa vụ, trách nhiệm như
quân nhân thực hiện, xâm phạm quan hệ xã hội trong lĩnh vực quân sự. Trách
nhiệm hình sự của các hành vi này là trách nhiệm hình sự của các hành vi
xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân.
Trong khoa học luật hình sự Việt Nam chưa có định nghĩa nào về trách
nhiệm hình sự của các hành vi xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân
nhân. Nhưng xuất phát từ việc phân tích các định nghĩa khoa học về trách
nhiệm hình sự [10, tr.9, 33, tr.126, 41, tr.14, 95, tr.49, 96, tr.45] và quy định
của Bộ luật hình sự về các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân
nhân, chúng tôi nêu khái niệm trách nhiệm hình sự của các hành vi xâm phạm
nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân như sau:
Trách nhiệm hình sự của các hành vi xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm
của quân nhân là trách nhiệm pháp lý hình sự mà người thực hiện hành vi
nguy hiểm cho xã hội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân phải
chịu sự tác động của hoạt động truy cứu trách nhiệm hình sự, chịu bị kết tội,
chịu biện pháp cưỡng chế, chịu mang án tích do Toà án áp dụng tuỳ thuộc
vào tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi mà người đó đã thực hiện.
Việc quy định trách nhiệm hình sự đối với hành vi xâm phạm nghĩa vụ,
trách nhiệm của quân nhân xuất phát từ các lý do sau đây:
Thứ nhất, xuất phát từ quan điểm của Chủ nghĩa Mác- Lênin về xây
dựng quân đội cách mạng là “Trong quân đội cần có kỷ luật nghiêm khắc
nhất”[100, tr 240] và sự nguy hại lớn nhất đối với kỷ luật quân đội và chế độ
phục vụ trong quân đội là tội phạm mà trách nhiệm hình sự của nó được thể
hiện trong văn bản pháp luật hình sự [101, tr. 563].
11
Thứ hai, Luật hình sự là một ngành trong hệ thống pháp luật Việt Nam,
bao gồm hệ thống những quy phạm pháp luật, xác định những hành vi nguy
hiểm cho xã hội (trong đó có hành vi xâm phạm nghĩa vụ trách nhiệm của
quân nhân) là tội phạm; quy định loại và mức hình phạt áp dụng đối với từng
tội phạm cụ thể. Luật hình sự là công cụ quan trọng để bảo vệ những thành
quả cách mạng, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ an ninh quốc gia và
trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân,
đấu tranh chống và phòng ngừa mọi hành vi phạm tội, góp phần hoàn thành
hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ
vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa Việt Nam [93, tr.288].
Thứ ba, để bảo đảm nguyên tắc công bằng “ở việc không thoát khỏi
trách nhiệm và sự tương xứng của trách nhiệm đối với hành vi vi phạm” [96,
tr.45].
Thứ tư, để làm cơ sở cho việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với
hành vi xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân theo nguyên tắc “Chỉ
người nào phạm một tội đã được Bộ luật hình sự quy định mới phải chịu
trách nhiệm hình sự [45, tr.15].”
Thứ năm, Bộ luật hình sự thể hiện tinh thần chủ động phòng ngừa và
kiên quyết đấu tranh chống mọi tội phạm và thông qua hình phạt để răn đe,
giáo dục, cảm hoá, cải tạo người phạm tội trở thành người lương thiện; qua
đó, bồi dưỡng cho mọi công dân tinh thần, ý thức làm chủ xã hội, ý thức tuân
theo pháp luật, chủ động tham gia phòng ngừa tội phạm [45, tr.14].
Thứ sáu, chỉ những hành vi nguy hiểm cho quan hệ xã hội tồn tại trong
quân đội, do chủ thể đặc biệt (là quân nhân và những người có nghĩa vụ, trách
nhiệm như quân nhân) thực hiện bằng hành động hoặc không hành động (vi
phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân) gây thiệt hại cho sức mạnh, trình
12
độ sẵn sàng chiến đấu và chế độ phục vụ trong quân đội (sẽ được trình bày tại
Mục 1.2 của Luận án) mới bị quy định là tội phạm cụ thể xâm phạm nghĩa vụ,
trách nhiệm của quân nhân. Đó là những hành vi đã từng xảy ra nhiều trong
hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ hoặc chưa từng xảy ra nhưng
việc quy định trách nhiệm hình sự đối với nó có ý nghĩa giáo dục ý thức pháp
luật và phòng ngừa tội phạm. Mặt khác, Bộ luật hình sự Việt Nam là văn bản
quy phạm pháp luật áp dụng cho cả thời bình và thời chiến. Do vậy, Cơ quan
lập pháp của Nhà nước ta chỉ quy định: 28 tội phạm cụ thể xâm phạm nghĩa
vụ, trách nhiệm của quân nhân trong Bộ luật hình sự năm 1985 và 27 tội
phạm cụ thể xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân trong Bộ luật
hình sự năm 1999.
Việc quy định trách nhiệm hình sự đối với các hành vi xâm phạm nghĩa
vụ, trách nhiệm của quân nhân có ý nghĩa rất lớn đối với việc bảo vệ sức
mạnh của Quân đội. Bởi lẽ, các yếu tố tạo nên sức mạnh của Quân đội bao
gồm lực lượng, con người, vũ khí, phương tiện kỹ thuật, trang bị, tính tổ chức
và kỷ luật… Khả năng kinh tế của đất nước ta không cho phép duy trì một số
lượng quân thường trực rất lớn, trang bị thật nhiều vũ khí, phương tiện kỹ
thuật hiện đại. Cho nên, cùng với việc xây dựng Quân đội từng bước hiện đại,
đổi mới tổ chức lực lượng, đổi mới huấn luyện và đào tạo nhằm nâng cao chất
lượng huấn luyện, cần tăng cường tính tổ chức và tính kỷ luật của Quân đội
đáp ứng yêu cầu tác chiến trong điều kiện chiến tranh hiện đại [54, tr.3] như
yêu cầu của V.I. Lênin “trong quân đội cần có kỷ luật nghiêm khắc nhất”[100,
tr.240].
Về ý nghĩa pháp lý, thì:
Thứ nhất, việc quy định trách nhiệm hình sự đối với các hành vi xâm
phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân là cơ sở pháp lý để xử lý người
13
thực hiện hành vi vi phạm pháp luật xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của
quân nhân.
Thứ hai, thông qua việc “quy định trong luật” về các hình thức cưỡng
chế đối với người thực hiện hành vi phạm một trong các tội xâm phạm nghĩa
vụ, trách nhiệm của quân nhân sẽ tác động đến ý thức của quân nhân. Từ đó
tác động tới tâm lý quân nhân và những người có nghĩa vụ, trách nhiệm như
quân nhân, tạo hiệu quả trong cảnh báo và răn đe nếu ai đó thực hiện hành vi
xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân.
Thứ ba, việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm một
trong các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân là thông điệp cụ
thể, trực quan “Nhà nước làm thật chứ không chỉ tuyên bố trong luật”.
Thứ tư, cùng với việc áp dụng hình phạt, Toà án còn áp dụng biện
pháp tư pháp buộc người phạm tội cụ thể xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm
của quân nhân bồi thường thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra như: phạm tội
huỷ hoại vũ khí, phương tiện kỹ thuật quân sự thì phải bồi thường giá trị vũ
khí, phương tiện kỹ thuật quân sự bị huỷ hoại; phạm tội hành hung đồng đội
gây thương tích phải bồi thường toàn bộ chi phí hợp lý mà bệnh viện quân y
đã bỏ ra cứu chữa, điều trị cho nạn nhân… Tất cả các khoản bồi thường nêu
trên đều được đưa vào ngân sách quốc phòng để bù đắp lại những thiệt hại do
hành vi xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân gây ra.
Như vậy, việc quy định trách nhiệm hình sự đối với hành vi xâm phạm
nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân không chỉ có ý nghĩa về lý luận, thực
tiễn mà còn mang tính cấp thiết để bảo đảm sức mạnh chiến đấu của Quân đội
nhân dân Việt Nam.
1.1.2. Khái niệm các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân
nhân
14
Khi quy định trách nhiệm hình sự cũng như nghiên cứu về các tội xâm
phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân, vấn đề cơ bản và đầu tiên cần
được giải quyết là phải đưa ra khái niệm các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách
nhiệm của quân nhân. Trước đây và hiện nay, các nước trên thế giới có một số
khuynh hướng:
Một là, không quy định các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của
quân nhân trong Bộ luật hình sự như Bộ luật hình sự của nước Cộng hoà nhân
dân Trung Hoa (được ban hành ngày 01/7/1979), Bộ luật hình sự Cộng hoà
Pháp (Luật số 92-683 ngày 23/7/1992 sửa đổi các quy định chung của Bộ luật
hình sự), Bộ luật hình sự Tây úc…;
Hai là, có quy định các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân
nhân trong Bộ luật hình sự nhưng không nêu định nghĩa các tội phạm này như
Bộ luật hình sự của Vương quốc Thuỵ Điển, Bộ luật hình sự nước Cộng hoà
xã hội chủ nghĩa Việt Nam…;
Ba là, có quy định các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân
nhân và có nêu định nghĩa các tội phạm này trong Bộ luật hình sự như Bộ luật
hình sự Liên bang Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Xô viết Nga (trước đây) và
Liên bang Nga (ngày nay), Bộ luật hình sự Cộng hoà nhân dân Trung Hoa
(được ban hành ngày 01/10/1997)…
Các nước theo xu hướng thứ ba tuy có định nghĩa các tội xâm phạm
nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân trong Bộ luật hình sự của mình, nhưng
mỗi nước lại có một cách định nghĩa khác nhau. Trong Bộ luật hình sự Liên
bang Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Xô viết Nga năm 1960 được sửa đổi, bổ sung
năm 1984, các tội phạm quân sự được định nghĩa tại Điều 237 là “những tội
phạm được quy định trong Bộ luật hình sự xâm phạm chế độ phục vụ quân
đội, do quân nhân cũng như những người có nghĩa vụ quân sự trong thời gian
15
tập trung huấn luyện hoặc kiểm tra sẵn sàng chiến đấu thực hiện” [101,
tr.128]. Trong Bộ luật hình sự Liên bang Nga năm 1996, các tội xâm phạm
chế độ phục vụ trong quân đội được định nghĩa tại Điều 331 là “những tội
phạm được quy định tại Chương này xâm phạm trật tự phục vụ trong quân
đội, do quân nhân, những người được trưng tập hoặc phục vụ trong lực lượng
vũ trang Liên bang Nga theo hợp đồng, quân nhân dự bị trong thời gian tập
trung huấn luyện thực hiện”[35, tr.143]. Trong Bộ luật hình sự nước Cộng
hoà nhân dân Trung Hoa năm 1997, tại Điều 420 quy định “Quân nhân có
hành vi vi phạm chức trách gây nguy hại lợi ích quân sự quốc gia thì sẽ là
phạm tội vi phạm chức trách quân nhân bị xử phạt theo quy định của pháp
luật [15, tr.67].”
Phân tích các định nghĩa nêu trên về các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách
nhiệm của quân nhân, chúng tôi thấy:
Quy định tại Điều 237 Bộ luật hình sự Liên bang Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Xô viết Nga và Điều 331 Bộ luật hình sự Liên bang Nga mới chỉ nêu
được khách thể loại của các tội phạm quân sự (là chế độ phục vụ quân đội) và
người phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm này (là quân nhân, người
được trưng tập hoặc phục vụ trong lực lượng vũ trang theo hợp đồng, quân
nhân dự bị trong thời gian tập trung huấn luyện) mà chưa nêu được các tội
phạm quân sự có tính nguy hiểm cho xã hội cũng như tính có lỗi của loại tội
phạm này. Trong khi đó tại Điều 7 Bộ luật hình sự Liên bang Cộng hoà xã hội
chủ nghĩa Xô viết Nga lại đưa ra khái niệm “Tội phạm là hành vi nguy hiểm
cho xã hội được quy định trong pháp luật hình sự, xâm phạm….[35, tr.71]; và
tại Điều 14 Bộ luật hình sự Liên bang Nga định nghĩa “Tội phạm là hành vi
có lỗi, nguy hiểm cho xã hội bị áp dụng hình phạt theo quy định của Bộ luật
hình sự”. Mặt khác về hình thức ngôn ngữ, tại các điều luật nêu trên dùng
thuật ngữ “các tội quân sự là những tội phạm…; các tội xâm phạm chế độ
16
phục vụ trong quân đội là những tội phạm…” là không khoa học. Như vậy,
các khái niệm về các tội phạm quân sự được các nhà lập pháp Liên bang Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Xô viết Nga và Liên bang Nga quy định không bảo đảm
tính lôgích hình thức giữa quy định tại Phần chung và Phần các tội phạm của
Bộ luật hình sự.
Tại Điều 420 Bộ luật hình sự nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa năm
1997 cũng chỉ nêu được tội xâm phạm chức trách quân nhân là hành vi vi
phạm chức trách gây nguy hại cho lợi ích quân sự quốc gia và chủ thể của các
tội xâm phạm chức trách quân nhâ là quân nhân, mà chưa nêu được tính
“được quy định trong Bộ luật hình sự” và chưa liệt kê được đầy đủ chủ thể
của loại tội phạm này. Mặc dù, tại Chương IX Bộ luật hình sự này lại quy
định từng tội phạm cụ thể xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân (từ
Điều 421 đến Điều 448); tại Điều 450 lại nêu “Chương này được áp dụng cho
những học viên trong quân đội, binh sỹ, cán bộ, sỹ quan Quân giải phóng
nhân dân Trung Hoa và những học viên, binh sỹ, cán bộ, sỹ quan của bộ đội
lực lượng vũ trang và cả những sỹ quan dự bị và những nhân viên khác”[15,
tr.71].
Việt Nam tuy theo xu hướng thứ hai (có quy định các tội xâm phạm
nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân trong Bộ luật hình sự nhưng không nêu
định nghĩa tội phạm này), nhưng trong khoa học pháp lý hình sự cũng có một
số cách định nghĩa khác nhau về các tội xâm phạm nghĩa vụ trách nhiệm của
quân nhân. Cách định nghĩa thứ nhất cho rằng, các tội xâm phạm nghĩa vụ,
trách nhiệm của quân nhân là loại tội xảy ra trong lĩnh vực hoạt động quân
sự của Quân đội [93, tr. 458]. Cách định nghĩa thứ hai cho rằng, “Tội xâm
phạm nghĩa vụ, trách nhiện của quân nhân được Bộ luật hình sự nước Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy định tại Chương XI, do quân nhân tại
ngũ, quân nhân dự bị trong thời gian tập trung huấn luyện, công dân được
17
trưng tập vào phục vụ trong quân đội, dân quân tự vệ phối thuộc chiến đấu
với quân đội, những người khác được quy định thuộc lực lượng vũ trang gây
ra và xâm hại đến việc duy trì, củng cố, phát triển trình độ sẵn sàng chiến
đấu và sức mạnh của quân đội”[58, tr. 33]. Cách định nghĩa thứ ba cho rằng,
“Tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiện của quân nhân là hành vi nguy hiểm
cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách
nhiệm hình sự được quy định tại Điều 249 Bộ luật hình sự thực hiện một cách
cố ý hoặc vô ý, xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân [6, tr.21]”.
Cách định nghĩa thứ tư cho rằng, “Tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiện của
quân nhân là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình
sự, do những người có năng lực trách nhiệm hình sự được quy định tại Điều
315 Bộ luật hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm nghĩa vụ,
trách nhiệm của quân nhân”[6, tr.61].
Phân tích các cách định nghĩa nêu trên, chúng tôi thấy:
Cách định nghĩa thứ nhất mới chỉ nêu được lĩnh vực xảy ra các tội xâm
phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân mà chưa trả lời được câu hỏi “Các
tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân là gì? được quy định ở
đâu? do ai thực hiện? có lỗi hay không?”. Cách định nghĩa thứ hai cũng chỉ
mới nêu được khách thể loại và chủ thể của các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách
nhiệm của quân nhân. Cách định nghĩa thứ ba tuy có đầy đủ hơn nhưng cũng
như cách định nghĩa thứ hai lại không chặt chẽ về thuật ngữ pháp lý vì trong
Bộ luật hình sự Việt Nam không có “Tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiện của
quân nhân” mà chỉ có “Các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiện của quân
nhân”. Quy định tại Điều 249 Bộ luật hình sự năm 1985 về những người phải
chịu trách nhiệm hình sự về các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân
nhân bao gồm: “Quân nhân tại ngũ, quân nhân dự bị trong thời gian tập
trung huấn luyện, công dân đươc trưng tập vào phục vụ trong quân đội, dân
18
quan tự vệ phối thuộc chiến đấu với quân đội, những người khác được quy
định là lực lượng vũ trang” là chưa chính xác. Bởi lẽ, theo quy định của pháp
luật, thì Lực lượng vũ trang Việt Nam bao gồm Quân đội nhân dân, Công an
nhân dân, Dân quân tự vệ [48. tr.12]. Trong đó hành vi xâm phạm nghĩa vụ,
trách nhiệm của Công an nhân dân do sỹ quan, hạ sỹ quan, công nhân, viên
chức Công an nhân dân chỉ có thể xâm phạm sức mạnh của Công an nhân dân
chứ không thể xâm phạm sức mạnh của Quân đội. Cho nên, nội dung được
nêu trong cách định nghĩa thứ hai và thứ ba cũng không bảo đảm chính xác về
phạm vi khái niệm. Cách định nghĩa thứ tư cũng không chính xác về thuật
ngữ pháp lý vì đó là định nghĩa về “Tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của
quân nhân”, một tội danh không được quy định trong Bộ luật hình sự hiện
hành. Mặc dù nội dung đề cập trong khái niệm này là một số dấu hiệu của các
tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân như: hành vi có tính nguy
hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự, do những người có
năng lực trách nhiệm hình sự được quy định tại Điều 315 Bộ luật hình sự
thực hiện một cách có lỗi, xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân.
Như vậy, trong khoa học pháp lý hình sự Việt Nam chưa có định nghĩa
đầy đủ, chính xác và bảo đảm tính lôgích với quy định tại Điều 8 Bộ luật hình
sự về các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân. Theo chúng tôi,
các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân là một loại tội phạm
được quy định trong Bộ luật hình sự. Do vậy, khái niệm các tội xâm phạm
nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân cũng bao gồm các những dấu hiệu
chung của khái niệm tội phạm. Nghĩa là các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách
nhiệm của quân nhân cũng là những hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy
định trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực
hiện một cách cố ý hoặc vô ý xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân
Quân đội nhân dân Việt Nam. Trên cơ sở pháp lý quy định tại khoản 1 Điều 8
19
Bộ luật hình sự hiện hành, các quan điểm khoa học về các đặc điểm của tội
phạm nói chung [11, tr.297, 21, tr.59, 28, tr.38, 56, tr.5-6, 95, tr.78-84] và của
các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân nói riêng [7, tr. 13-22,
99, tr. 13-22], chúng tôi cho rằng các dấu hiệu chung của các tội xâm phạm
nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân bao gồm: các tội xâm phạm nghĩa vụ,
trách nhiệm của quân nhân là những hành vi nguy hiểm cho xã hội; các tội
xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân là những hành vi được quy
định trong Bộ luật hình sự; các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân
nhân là hành vi do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện; các tội
xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân là những hành vi có lỗi; các
tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân là những hành vi phải
chịu hình phạt. Các dấu hiệu nêu trên được thể hiện trong cấu thành tội phạm
của các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân. Nghiên cứu các
dấu hiệu của các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân (thông
qua việc nghiên cứu cấu thành tội phạm sẽ được trình bày ở Tiểu mục 1.2.2),
đối chiếu với quy định của Bộ luật hình sự một số nước (đã trình bày ở phần
trên) và của Bộ luật hình sự Việt Nam, chúng tôi thấy:
So với các tội phạm được quy định tại các chương khác của Bộ luật
hình sự, thì các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân có hai
điểm khác nhau cơ bản thể hiện ở hai yếu tố cấu thành tội phạm là khách thể
và chủ thể của tội phạm. Khách thể của các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách
nhiệm của quân nhân là những quan hệ xã hội chỉ tồn tại trong quân đội. Đó
là quan hệ giữa đơn vị quân đội với quân nhân trong đơn vị, công dân được
trưng tập vào phục vụ trong đơn vị và dân quân, tự vệ phối thuộc với đơn vị
trong chiến đấu hoặc phục vụ chiến đấu; quan hệ giữa các quân nhân với nhau
và quan hệ giữa quân nhân với những người không phải là quân nhân trong
quá trình phối thuộc chiến đấu, phục vụ chiến đấu, tập trung huấn luyện,
20
trưng tập vào phục vụ trong quân đội. Chủ thể của các tội xâm phạm nghĩa
vụ, trách nhiệm của quân nhân là những người được quy định tại Điều 315 Bộ
luật hình sự. Hai yếu tố còn lại là mặt khách quan và mặt chủ quan tuy có một
số điểm khác nhau về tính chất và được thể hiện trong từng điều luật quy định
về các tội phạm cụ thể nhưng nói chung là giống nhau. Do đó, nếu một người
thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội nhưng (hành vi và con người đó)
không được quy định tại Chương XXIII Bộ luật hình sự năm 1999, thì chỉ có
thể dẫn đến một trong hai hậu quả pháp lý sau đây:
Thứ nhất, nếu hành vi đó không đủ yếu tố cấu thành tội phạm hoặc tuy
có dấu hiệu của tội phạm nhưng tính chất nguy hiểm cho xã hội không đáng
kể, thì đó là hành vi vi phạm kỷ luật được xử lý theo quy định của Điều lệnh
quản lý bộ đội.
Thứ hai, nếu hành vi đó có đủ yếu tố cấu thành tội phạm, thì người thực
hiện hành vi đó bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội tương ứng được quy
định tại các chương khác (không phải là Chương XXIII) Phần các tội phạm
Bộ luật hình sự.
Do vậy, có thể kết luận đặc điểm đặc thù của các tội xâm phạm nghĩa
vụ, trách nhiệm của quân nhân được thể hiện ở hai yếu tố cấu thành tội phạm
là khách thể và chủ thể của tội phạm. Từ cách đặt vấn đề, trên cơ sở phân tích
các đấu hiệu của các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân và
các định nghĩa khác nhau về các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của
quân nhân; chúng tôi nêu khái niệm các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm
của quân nhân như sau:
Các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân là những hành
vi nguy hiểm cho xã hội được quy định tại Chương XXIII Bộ luật hình sự, do
những người sau đây có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố
21
ý hoặc vô ý, xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân: quân nhân tại
ngũ; quân nhân dự bị trong thời gian tập trung huấn luyện; công dân được
trưng tập vào phục vụ trong quân đội; dân quân, tự vệ phối thuộc với quân
đội trong chiến đấu hoặc phục vụ chiến đấu.
Khái niệm các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân nêu
trên vừa thể hiện các dấu hiệu chung của khái niệm tội phạm được quy định
tại Điều 8 Bộ luật hình sự vừa thể hiện các dấu hiệu đặc thù (là cơ sở để quy
định) các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân thành một nhóm
tội phạm riêng, một phần trong thể thống nhất của Bộ luật hình sự Việt Nam.
1.2. cơ sở Trách nhiệm hình sự của các tội xâm phạm nghĩa vụ,
trách nhiệm của quân nhân
1.2.1. Khái niệm cơ sở trách nhiệm hình sự của các tội xâm phạm
nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân
Khi bàn về cơ sở trách nhiệm hình sự, trong khoa học luật hình sự của
Liên Xô trước đây và Liên bang Nga hiện nay, về mặt nội dung có các quan
điểm coi cơ sở của trách nhiệm hình sự là: lỗi; cấu thành tội phạm; tội phạm;
hành vi có các dấu hiệu của cấu thành tội phạm; mối quan hệ nhân quả; việc
thực hiện tội phạm- hành vi xử sự trái pháp luật cụ thể của con người; hành vi
(bằng hành động hoặc không hành động) nguy hiểm cho xã hội, có tính chất
lỗi, trái pháp luật, tức là tội phạm mà các dấu hiệu của nó có trong điều tương
ứng của Phần riêng Bộ luật hình sự; khi có cấu thành tội phạm trong hành vi
nguy hiểm cho xã hội; việc xác định cấu thành tội phạm trong hành vi của
người có tội v.v…[11, tr.628]. Trong khoa học luật hình sự Việt Nam cũng có
các quan điểm khác nhau về cơ sở trách nhiệm hình sự. GS. TSKH Đào Trí úc
cho rằng, cơ sở của trách nhiệm hình sự là “sự hiện diện của tất cả những dấu
hiệu do luật định về tội phạm”[95, tr.43]; PGS. TS. Trần Văn Độ cho rằng, cơ
22
sở của trách nhiệm hình sự là “tội phạm (tức hành vi nguy hiểm cho xã hội
chứa đựng các yếu tố của cấu thành tội phạm)” [18, tr.182]; GS. TS. Đỗ
Ngọc Quang cho rằng, cơ sở của trách nhiệm hình sự là “hành vi của một
người khi thoả mãn các dấu hiệu cấu thành tội phạm được quy định trong
luật hình sự”[40, tr.18]; GS. TS. Nguyễn Ngọc Hoà cho rằng, “cấu thành tội
phạm trong luật hình sự được coi là cơ sở pháp lý và sự thoả mãn cấu thành
tội phạm là điều kiện cần và đủ của trách nhiệm hình sự”[29, tr.9-10]. Trên
cơ sở khoa học và cơ sở pháp lý quy định tại Điều 2 Bộ luật hình sự hiện hành
“Chỉ người nào phạm một tội đã được Bộ luật hình sự quy định mới phải chịu
trách nhiệm hình sự”[45, tr.15]. Từ kết quả của việc phân tích các quan điểm
của các nhà khoa học pháp lý hình sự về cơ sở của trách nhiệm hình sự, chúng
tôi đồng tình với quan điểm cho rằng, tội phạm (tức hành vi nguy hiểm cho xã
hội chứa đựng các yếu tố của cấu thành tội phạm) là cơ sở của trách nhiệm
hình sự.
Vậy cơ sở trách nhiệm hình sự của các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách
nhiệm của quân nhân là gì? Để giải đáp câu hỏi này, chúng tôi đồng tình với
GS. TSKH Lê Cảm là về mặt phương pháp luật cần phải hiểu cơ sở trách
nhiệm hình sự của các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân
trên cả ba bình diện: về mặt nội dung (khách quan); về mặt hình thức; và về
mặt quy phạm [11, tr.626]. Trong đó:
- Về nội dung, không phải tất cả những hành vi nguy hiểm cho xã hội
do quân nhân và những người có nghĩa vụ, trách nhiệm như quân nhân thực
hiện mà luật hình sự quy định là tội phạm thì đều là những tội phạm cụ thể
xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân. Bởi lẽ, quân nhân vừa có các
quyền và nghĩa vụ công dân vừa có nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân. Cho
nên, mặc dù bị luật hình sự quy định là tội phạm nhưng những hành vi nguy
hiểm cho xã hội do quân nhân và những người có nghĩa vụ, trách nhiệm như
23
quân nhân thực hiện xâm phạm nghĩa vụ công dân không bị truy cứu trách
nhiệm hình sự về tội phạm cụ thể xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân
nhân mà bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội phạm khác. Ví dụ:
Hành vi giết người, cướp tài sản, tham ô tài sản, buôn lậu…do quân
nhân và những người có nghĩa vụ, trách nhiệm như quân nhân thực hiện là
những hành vi xâm phạm nghĩa vụ công dân. Cho nên, những hành vi đó
không bị coi là phạm tội cụ thể xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân
nhân mà bị coi là phạm tội giết người, tội cướp tài sản, tội tham ô tài sản, tội
buôn lậu…
Còn những hành vi nguy hiểm cho xã hội do quân nhân và những
người có nghĩa vụ, trách nhiệm như quân nhân thực hiện xâm phạm nghĩa vụ,
trách nhiệm của quân nhân mà luật hình sự quy định là tội phạm thì đều là tội
phạm cụ thể xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân. Ví dụ:
Hành vi chống mệnh lệnh, đào ngũ, đầu hàng địch…do quân nhân và
những người có nghĩa vụ, trách nhiệm như quân nhân thực hiện là những
hành vi xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân. Cho nên, những
hành vi đó bị coi là phạm tội cụ thể xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân
nhân như tội chống mệnh lệnh, tội đào ngũ, tội đầu hàng địch…
Từ những lập luận nêu trên, về mặt nội dung có thể đưa ra khái niệm cơ
sở khách quan của trách nhiệm hình sự của các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách
nhiệm của quân nhân như sau: Cơ sở trách nhiệm hình sự của các tội xâm
phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân là việc thực hiện hành vi nguy
hiểm cho xã hội mà luật hình sự quy định là tội phạm cụ thể xâm phạm nghĩa
vụ, trách nhiệm của quân nhân.
- Về mặt hình thức, thì xuất phát từ việc phân tích khái niệm cơ sở hình
thức của trách nhiệm hình sự của các nhà khoa học, chúng tôi đồng tình với
24
quan điểm của GS.TSKH Lê Cảm [11, tr.632] cho rằng, cơ sở hình thức của
trách nhiệm hình sự của các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân
nhân là căn cứ chung, có tính chất bắt buộc và do pháp luật quy định. Bởi lẽ,
hành vi khách quan của mỗi tội phạm cụ thể xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm
do pháp luật hình sự quy định là căn cứ chung, yêu cầu bắt buộc đối với việc
truy cứu trách nhiệm hình sự những hành vi cụ thể xâm phạm nghĩa vụ, trách
nhiệm của quân nhân thoả mãn những dấu hiệu được mô tả trong pháp luật
hình sự. Ví dụ:
Hành vi đi khỏi đơn vị, nơi công tác, nơi điều trị, điều dưỡng, hành vi
không trở lại đơn vị sau khi đi phép, đi công tác, đi điều trị, điều đưỡng và
hành vi không đến đơn vị mới (khi được chuyển đơn vị), không đến nơi công
tác, nơi điều trị, điều dưỡng đều là những biểu hiện cụ thể của hành vi đào
ngũ. Như vậy, “đào ngũ” là căn cứ chung do pháp luật hình sự quy định và
chỉ có thể dựa vào đó mà có thể đặt vấn đề truy cứu trách nhiệm hình sự các
hành vi nêu trên về tội đào ngũ.
Vì vậy, có thể khái niệm cơ sở hình thức của trách nhiệm hình sự của
các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân như sau: Cơ sở trách
nhiệm hình sự của các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân là
căn cứ chung, có tính chất bắt buộc và do luật hình sự quy định mà cơ quan
Nhà nước có thẩm quyền phải dựa vào đó để truy cứu trách nhiệm hình sự
người đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội xâm phạm nghĩa vụ, trách
nhiệm của quân nhân bị luật hình sự cấm.
- Về mặt quy phạm, trên cơ sở pháp lý quy định tại Điều 2 Bộ luật hình
sự hiện hành, chúng tôi cho rằng chỉ hành vi có đầy đủ các yếu tố cấu thành
một tội phạm cụ thể xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân được ghi
nhận tại Chương XXIII “Các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm hình sự
25
của quân nhân” Bộ luật hình sự mới bị truy cứu trách nhiệm hình sự về loại
tội phạm này. Cho nên, có thể đưa ra khái niệm cơ sở pháp lý của trách nhiệm
hình sự của các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân như sau:
Cơ sở trách nhiệm hình sự của các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của
quân nhân là cấu thành tội phạm các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của
quân nhân được ghi nhận trong luật hình sự.
1.2.2. Cấu thành tội phạm của các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách
nhiệm của quân nhân
Cấu thành tội phạm của các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của
quân nhân là kết quả của sự phản ánh các tội phạm này trong luật hình sự, bao
gồm các yếu tố khách thể, chủ thể, mặt khách quan và mặt chủ quan của các
tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân.
- Khách thể của các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân
nhân là khách thể loại của tội phạm, tức là khách thể của một nhóm tội phạm
trong Bộ luật hình sự. Khi nghiên cứu về khách thể của tội phạm, thì đa số
các nhà khoa học luật hình sự cho rằng, khách thể của tội phạm là các quan hệ
xã hội được luật hình sự bảo vệ và bị tội phạm xâm hại [11, tr.343, 18, tr.184,
29, tr.46, 95, tr.79]. Nhưng khi bàn về khách thể của các tội xâm phạm nghĩa
vụ, trách nhiệm của quân nhân, còn có nhiều quan điểm khác nhau.
Trong khoa học luật hình sự nước ngoài có một số quan điểm khác
nhau về khách thể của các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân
nhân:
GS. TS. Axmetsina X. M. cho rằng, khách thể loại của tất cả các tội
phạm quân sự là trật tự phục vụ quân đội được quy định trong Lực lượng vũ
trang [99, tr. 14]. PGS. TS. Prôcôpvich E. V. cho rằng, khách thể loại của các
tội phạm quân sự là trật tự phục vụ quân đội - là tổng thể các quan hệ xã hội
26
bảo đảm cho Lực lượng vũ trang (nói chung) thực hiện chức năng của mình
một cách bình thường và các bộ phận của nó (nói riêng) thực hiện tốt nhiệm
vụ của mình [101, tr. 564]. GS. TS. Ter- Akôpôb A. A. thì cho rằng, khách
thể loại của các tội xâm phạm chế độ phục vụ quân sự là trật tự phục vụ quân
đội - là các quan hệ xã hội tồn tại trong Lực lượng vũ trang bảo đảm cho
chúng thực hiện thắng lợi nhiệm vụ bảo vệ nhà nước [104, tr. 330]. Còn các
nhà lập pháp nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa, thì cho rằng khách thể của
tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân là lợi ích quân sự quốc gia
[15, tr. 67].
Phân tích các quan điểm nêu trên, chúng tôi thấy dù được định nghĩa
theo cách nào, thì nội dung cốt lõi của khách thể loại của các tội phạm quân
sự hay các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân cũng là chế độ
phục vụ trong quân đội và sức mạnh của quân đội trong việc thực hiện chức
năng, nhiệm vụ của mình.
Trong khoa học luật hình sự Việt Nam cũng có một số quan điểm khác
nhau về khách thể của các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân
nhân. Quan điểm thứ nhất cho rằng, “các quy định của pháp luật Nhà nước,
của điều lệnh, điều lệ của quân đội về chức năng, nhiệm vụ, cơ quan, tổ chức,
quân đội, trách nhiệm, nghĩa vụ của quân nhân, các chế độ, quy tắc, nội quy,
quy định về trình tự, thủ tục công tác của quân nhân làm cơ sở pháp lý phục
vụ cho việc xây dựng, củng cố, phát triển sức mạnh tổng hợp của quân đội
đều là khách thể loại của các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân
nhân”[57, tr. 82]. Quan điểm thứ hai cho rằng, “khách thể của các tội xâm
phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân là các quan hệ xã hội tồn tại
trong quân đội giữa các quân nhân và giữa họ với những người không phải là
quân nhân trong khi thực hiện nhiệm vụ quân sự, huấn luyện quân sự, phối
thuộc chiến đấu hoặc phục vụ chiến đấu”[7, tr. 61- 62]. Quan điểm thứ ba
27
cho rằng, “khách thể của các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân
nhân chính là sức mạnh, khả năng sẵn sàng chiến đấu của quân đội và chế độ
phục vụ trong quân đội”[36, tr. 798]. Quan điểm thứ tư cho rằng,“khách thể
loại của các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân là sức mạnh,
trình độ sẵn sàng chiến đấu và chế độ phục vụ trong quân đội”[20, tr. 393- 394].
Nghiên cứu các quan điểm nêu trên, chúng tôi thấy: các quy định của
pháp luật Nhà nước, của điều lệnh, điều lệ quân đội chỉ là hình thức biểu hiện
của các quy phạm pháp luật và quy phạm hành chính quân sự mà nội dung
của nó là quy định về tổ chức, chức năng, nhiệm vụ của quân đội; nghĩa vụ,
trách nhiệm của quân nhân tại ngũ, quân nhân dự bị trong thời gian tập trung
huấn luyện, công dân được trưng tập vào phục vụ trong quân đội, dân quân, tự
vệ phối thuộc với quân đội trong chiến đấu hoặc phục vụ chiến đấu; các chế
độ, quy tắc, nội quy, quy định về trình tự, thủ tục công tác của các đối tượng
nêu trên. Do vậy, các quy định của pháp luật Nhà nước, của điều lệnh, điều lệ
của quân đội không thể là khách thể loại của các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách
nhiệm của quân.
Cách định nghĩa thứ hai về khách thể của các tội xâm phạm nghĩa vụ,
trách nhiệm của quân nhân là cách nói thổng quát theo giáo trình và mới chỉ
dừng lại ở việc nêu môi trường tồn tại các quan hệ xã hội bị các tội phạm này
xâm hại và quan hệ đó là quan hệ giữa quân nhân với nhau và giữa họ với
những người không phải là quân nhân trong khi thực hiện nhiệm vụ quân sự,
huấn luyện quân sự, phối thuộc chiến đấu hoặc phục vụ chiến đấu mà chưa
nêu được quan hệ xã hội bị các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân
nhân xâm phạm còn là quan hệ giữa đơn vị quân đội với những người là chủ
thể của các tội phạm này. Bởi lẽ, khách thể trực tiếp của các tội chống mệnh
lệnh, tội chấp hành không nghiêm chỉnh mệnh lệnh, tội bỏ vị trí chiến đấu, tội
đào ngũ, tội trốn tránh nhiệm vụ... là quan hệ xã hội giữa đơn vị quân đội mà
28
những người phải chịu trách nhiệm hình sự về các tội phạm này thuộc biên
chế, được trưng tập, phối thuộc chiến đấu hoặc phục vụ chiến đấu với họ.
Cách định nghĩa thứ ba và thứ tư gần giống hệt nhau và đều xuất phát
từ bản chất pháp lý, nội dung của các quan hệ xã hội bị các tội xâm phạm
nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân xâm phạm.
Từ cách đặt vấn đề, nghiên cứu các định nghĩa khác nhau cũng như
nghiên cứu bản chất khách thể của các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm
của quân nhân, chúng tôi có thể khái niệm (về hình thức) khách thể loại của
các tội xâm phạm nghĩa vụ trách nhiệm của quân nhân như sau:
Khách thể loại của các tội xâm phạm nghĩa vụ trách nhiệm của quân
nhân là các quan hệ xã hội tồn tại trong quân đội giữa: đơn vị quân đội với
quân nhân trong đơn vị, công dân được trưng tập vào phục vụ trong đơn vị và
dân quân, tự vệ phối thuộc với đơn vị trong chiến đấu hoặc phục vụ chiến
đấu; quân nhân, công dân (được trưng tập vào phục vụ trong quân đội) và
dân quan, tự vệ (phối thuộc với quân đội trong chiến đấu hoặc phục vụ chiến
đấu) với nhau.
Khách thể của các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân
có tính đặc biệt. Tính chất đặc biệt của khách thể các tội xâm phạm nghĩa vụ,
trách nhiệm của quân nhân thể hiện ở chỗ quan hệ xã hội cùng tính chất bị
xâm phạm, nhưng xâm phạm quan hệ đó trong quân đội, đối với quân nhân và
những người có nghĩa vụ, trách nhiệm như quân nhân lại tỏ ra nguy hiểm hơn
cho xã hội và cần phải đấu tranh phòng chống những hành vi xâm phạm các
quan hệ này một cách cao hơn. Cho nên, hành vi xâm phạm quan hệ đó trong
quân đội bị coi là phạm tội và được quy định thành tội phạm riêng với chế tài
nghiêm khắc hơn; còn hành vi xâm phạm quan hệ đó ngoài quân đội thì
không phải là tội phạm mà chỉ bị xử lý kỷ luật. Ví dụ:
29
Ví dụ 1: Xâm phạm quan hệ chỉ huy, phục tùng trong quân đội có tính
nguy hiểm cao hơn xâm phạm quan hệ chỉ huy, phục tùng trong các cơ quan,
tổ chức ngoài quân đội. Bởi lẽ, xâm phạm các quan hệ chỉ huy, phục tùng bởi
hành vi chống mệnh lệnh, chấp hành không nhiêm chỉnh lệnh ảnh hưởng rất
lớn đến việc hoàn thành nhiệm vụ của đơn vị, thậm chí phải đổ máu, thiệt hại
về người, về của, không giữu được khu vực đóng quân… Cho nên hành vi
chống mệnh lệnh, chấp hành không nghiêm chỉnh lệnh do quân nhân và
những người có nghĩa vụ, trách nhiệm như quân nhân thực hiện bị coi là
phạm tội hình sự; còn hành vi chống lệnh, chấp hành không nhiêm chỉnh lệnh
của cán bộ, công chức không bị coi là phạm tội hình sự.
Ví dụ 2: Xâm phạm chế độ, quy định về bảo đảm bí mật công tác quân
sự, đặc biệt là bí mật quân sự về phòng thủ, kế hoạch chiến đấu là yêu cầu
sống còn của hoạt động quân sự có thể gây thiệt hại rất lớn, đôi khi dẫn tới
việc thất bại trong chiến đấu và tổ chức chiến đấu, thậm chí có thể bị trả giá
bằng tính mạng, vũ khí, trang bị kỹ thuật. Do vậy, xâm phạm chế độ, quy định
về bảo đảm bí mật công tác quân sự bởi các hành vi cố ý hoặc vô ý làm lộ bí
mật công tác quân sự, chiếm đoạt, mua bán, tiêu huỷ hoặc làm mất tài liệu bí
mật công tác quân sự đều bị coi là phạm tội. Còn xâm phạm chế độ, quy định
về bảo đảm bí mật công tác bởi các hành vi cố ý hoặc vô ý làm lộ bí mật công
tác, chiếm đoạt, mua bán, tiêu huỷ hoặc làm mất tài liệu bí mật công tác
(không thuộc bí mật Nhà nước) do cán bộ, công chức thực hiện không bị coi
là phạm tội…
Nội dung những quan hệ xã hội nêu trên được quy định trong Luật
nghĩa vụ quân sự, Luật về sỹ quan quân đội nhân dân Việt nam, Pháp lệnh bộ
đội biên phòng, Pháp lệnh về dân quân tự vệ, Pháp lệnh về lực lượng dự bị
động viên, Điều lệnh quản lý bộ đội, Điều lệ quân nhân chuyên nghiệp...
Nghiên cứu nội dung quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ thông qua việc
30
quy định các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân chúng tôi
thấy:
Nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân, công dân được trưng tập vào
phục vụ trong quân đội, dân quân, tự vệ khi phối thuộc với đơn vị quân đội
chiến đấu hoặc phục vụ chiến đấu như: nghĩa vụ chấp hành mệnh lệnh của
người chỉ huy hoặc cấp trên; nghĩa vụ chấp hành kỷ luật chiến đấu; nghĩa vụ
phải có mặt tại đơn vị để sẵn sàng nhận và thực hiện nhiệm vụ… là khách thể
loại của các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân. Bởi lẽ, theo
quy định tại Chương XXIII Bộ luật hình sự, thì xâm phạm các nghĩa vụ nêu
trên bị coi là phạm tội chống mệnh lệnh, tội chấp hành không nghiêm chỉnh
mệnh lệnh, tội đầu hàng địch, tội bỏ vị trí chiến đấu, tội đào ngũ, tội trốn
tránh nhiệm vụ…
Theo quy định tại các điều từ Điều 319 đến 321 Bộ luật hình sự, thì
hành vi xâm phạm sức khoẻ (chưa đến mức bị coi là phạm tội xâm phạm sức
khoẻ của người khác), danh dự, nhân phẩm của quân nhân và những người có
nghĩa vụ, trách nhiệm như quân nhân bị coi là phạm tội cụ thể xâm phạm
nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân. Theo hướng dẫn của các cơ quan có
thẩm quyền về các tình tiết định tội, định khung hình phạt (gây hậu quả
nghiêm trọng, rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng)[61, tr. 6-7] của các tội
xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân, thì tính mạng, sức khoẻ (của
quân nhân và những người có nghĩa vụ, trách nhiệm như quân nhân) và quan
hệ sở hữu tài sản cũng được coi là khách thể của một số tội phạm cụ thể xâm
phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân. Như vậy, tính mạng, sức khoẻ,
danh dự, nhân phẩm (của quân nhân và những người có nghĩa vụ, trách nhiệm
như quân nhân), tài sản của Nhà nước và công dân chỉ bị xâm phạm bởi một
số tội phạm cụ thể xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân. Cho nên,
tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm (của quân nhân và những người có
31
nghĩa vụ, trách nhiệm như quân nhân), tài sản của Nhà nước và công dân
không phải là khách thể loại của các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của
quân nhân.
Trên cơ sở những phân tích nội dung các quan hệ xã hội được luật hình
sự bảo vệ thông qua việc quy định các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm
của quân nhân, chúng tôi nêu khái niệm (về nội dung) khách thể loại của các
tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân như sau:
Khách thể loại của các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân
nhân là các quan hệ xã hội tồn tại trong quân đội, bao gồm nghĩa vụ, trách
nhiệm của quân nhân và những người có nghĩa vụ, trách nhiêm như quân
nhân.
Khách thể trực tiếp của các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của
quân nhân là quan hệ xã hội cụ thể bị tội phạm cụ thể (xâm phạm nghĩa vụ,
trách nhiệm của quân nhân) trực tiếp gây thiệt hại hoặc đe doạ gây hại. Bất cứ
tội phạm cụ thể nào xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân cũng có
khách thể trực tiếp. Nghiên cứu các tội phạm cụ thể xâm phạm nghĩa vụ, trách
nhiệm của quân nhân, chúng tôi thấy khách thể trực tiếp của loại tội phạm này
là quan hệ xã hội về: chỉ huy, phục tùng; đoàn kết nội bộ quân đội; kỷ luật
luật chiến đấu; chế độ phục vụ quân sự tại ngũ; chế độ công tác hàng ngày
của quân nhân và những người có nghĩa vụ, trách nhiệm như quân nhân; chế
độ, quy tắc bảo quản, sử dụng vũ khí, phương tiện kỹ thuật quân sự; và quan
hệ đoàn kết quân dân. Trong đó, mỗi quan hệ xã hội là khách thể trực tiếp của
một nhóm tội phạm cụ thể xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân. Ví
dụ: quan hệ chỉ huy, phục tùng là khách thể trực tiếp của tội chống mệnh lệnh,
tội chấp hành không nghiêm chỉnh mệnh lệnh và tội cản trở đồng đội thực
hiện nghĩa vụ, trách nhiệm; quan hệ đoàn kết quân dân là khách thể trực tiếp
32
của tội quấy nhiễu nhân dân, tội lạm dụng nhu cầu quân sự trong khi thực
hiện nhiệm vụ…
Việc xác định khách thể trực tiếp của các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách
nhiệm của quân nhân là căn cứ để chia những hành vi nguy hiểm cho xã hội
xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân thành những nhóm tội phạm
khác nhau. Căn cứ vào khách thể trực tiếp, có thể chia các tội xâm phạm
nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân thành bảy nhóm sau đây:
+ Nhóm 1, các tội xâm phạm quan hệ chỉ huy, phục tùng bao gồm: Tội
chống mệnh lệnh; Tội chấp hành không nghiêm chỉnh mệnh lệnh; Tội cản trở
đồng đội thực hiện nghĩa vụ, trách nhiệm.
+ Nhóm 2, các tội xâm phạm quan hệ đoàn kết nội bộ quân đội bao
gồm: Tội làm nhục, hành hung người chỉ huy hoặc cấp trên; Tội làm nhục
hoặc dùng nhục hình đối với cấp dưới; Tội làm nhục, hành hung đồng đội.
+ Nhóm 3, các tội xâm phạm chế độ kỷ luật chiến đấu bao gồm: Tội
đầu hàng địch; Tội khai báo hoặc tự nguyện làm việc cho địch khi bị bắt làm
tù binh; Tội bỏ vị trí chiến đấu; Tội vi phạm chính sách đối với thương binh,
tử sỹ trong chiến đấu; Tội chiếm đoạt hoặc huỷ hoại chiến lợi phẩm; Tội
ngược đãi tù binh, hàng binh.
+ Nhóm 4, các tội xâm phạm chế độ thực hiện nghĩa vụ quân sự tại ngũ
bao gồm: Tội đào ngũ; Tội trốn tránh nhiệm vụ.
+ Nhóm 5, các tội xâm phạm chế độ công tác hàng ngày của quân nhân
bao gồm: Tội cố ý làm lộ bí mật công tác quân sự; Tội chiếm đoạt, mua bán
hoặc tiêu huỷ tài liệu bí mật công tác quân sự; Tội vô ý làm lộ bí mật công tác
quân sự; Tội làm mất tài liệu bí mật công tác quân sự; Tội báo cáo sai; Tội vi
phạm các quy định về trực chiến, trực chỉ huy, trực ban; Tội vi phạm các quy
33
định về bảo vệ; Tội vi phạm các quy định về bảo đảm an toàn trong chiến đấu
hoặc trong huấn luyện.
+ Nhóm 6, các tội xâm phạm chế độ, quy tắc bảo quản, sử dụng vũ khí,
phương tiện kỹ thuật quân sự bao gồm: Tội vi phạm quy định về sử dụng vũ
khí quân dụng; Tội huỷ hoại vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự;
Tội làm mất hoặc vô ý làm hư hỏng vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật
quân sự.
+ Nhóm 7, các tội xâm phạm quan hệ đoàn kết quân, dân bao gồm: Tội
quấy nhiễu nhân dân; Tội lạm dụng nhu cầu quân sự trong khi thực hiện
nhiệm vụ.
Tuy nhiên, cách chia các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân
nhân theo căn cứ này chỉ có tính chất tương đối và để nghiên cứu các tội xâm
phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân trong Bộ luật hình sự năm 1999
(được trình bày ở Chương II của Luận án) một cách có hệ thống. Bởi lẽ, theo
căn cứ nêu trên thì tội vi phạm các quy định về bảo đảm an toàn trong chiến
đấu hoặc trong huấn luyện vừa thuộc nhóm tội xâm phạm chế độ công tác
hàng ngày của quân nhân vừa thuộc nhóm tội xâm phạm chế độ kỷ luật chiến
đấu. Mặt khác, “phạm tội trong chiến đấu” còn được quy định là tình tiết định
khung hình phạt của hầu hết các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của
quân nhân...
Đối tượng tác động của các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của
quân nhân là bộ phận của khách thể của nhóm tội phạm này, bị hành vi phạm
tội tác động đến để gây thiệt hại hoặc đe doạ gây thiệt hại cho những quan hệ
xã hội được Luật hình sự bảo vệ [27, tr. 84]. Đối tượng của tội phạm cụ thể
xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân có thể: là con người như tội
cản trở đồng đội thực hiện nghĩa vụ, trách nhiệm, tội làm nhục, hành hung
34
người chỉ huy hoặc cấp trên (cấp dưới, đồng đội), tội ngược đãi tù binh, hàng
binh; là vũ khí, phương tiện kỹ thuật quân sự như tội huỷ hoại vũ khí quân
dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự, tội làm mất hoặc vô ý làm hư hỏng vũ
khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự; là những công việc cụ thể phải
làm hoặc không được làm như tội chống mệnh lệnh, tội chấp hành không
nghiêm chỉnh mệnh lệnh; là hoạt động bình thường của các đơn vị quân đội
như tội đào ngũ, tội trốn tránh nhiệm vụ, tội vi phạm các quy định về trực
chiến, trực chỉ huy, trực ban, tội vi phạm các quy định về bảo vệ; là bí mật
công tác quân sự, tài liệu bí mật công tác quân sự như tội cố ý làm lộ bí mật
công tác quân sự, tội chiếm đoạt, mua bán hoặc tiêu huỷ tài liệu bí mật công
tác quân sự, tội vô ý làm lộ bí mật công tác quân sự, tội làm mất tài liệu bí
mật công tác quân sự… Trong đó, những công việc cụ thể phải làm hoặc
không được làm và hoạt động bình thường của các đơn vị quân đội có thể nói
chung bằng một cụm từ là “hoạt động theo chức trách của quân nhân và
những người có nghĩa vụ, trách nhiệm như quân nhân”.
Từ những phân tích nêu trên có thể nêu khái niệm đối tượng tác động
của các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân như sau:
Đối tượng tác động của các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của
quân nhân là bộ phận của khách thể của nhóm tội phạm này, bị hành vi phạm
tội tác động đến để gây thiệt hại hoặc đe doạ gây thiệt hại cho những quan hệ
xã hội được Luật hình sự bảo vệ thông qua việc quy định các tội xâm phạm
nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân, bao gồm: hoạt động theo chức trách
của quân nhân và những người có nghĩa vụ, trách nhiệm như quân nhân; vũ
khí, phương tiện kỹ thuật quân sự; bí mật quân sự, tài liệu bí mật quân sự.
- Mặt khách quan của các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của
quân nhân là những biểu hiện của các tội phạm này diễn ra bên ngoài, là
35
những yếu tố thuộc về thế giới khách quan. Tuy nhiên, những biểu hiện ra bên
ngoài của các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân tồn tại ở thế
giới khách quan được thể hiện bởi những dấu hiệu nào, thì còn có nhiều quan
điểm khác nhau. Theo PGS. TS. Prôcôpvich E. V. thì mặt khách quan của các
tội phạm quân sự được thể hiện bởi các hành vi (hành động hoặc không hành
động) nguy hiểm cho xã hội; và nhiều tội phạm cụ thể xâm phạm nghĩa vụ,
trách nhiệm của quân nhân đòi hỏi các dấu hiệu thời gian, địa điểm, thủ đoạn
và hoàn cảnh phạm tội là dấu hiệu định tội hoặc định khung hình phạt [103,
tr. 565]. Theo các tác giả Lê Đức Tiết, Lê Thanh Trung, Nguyễn Hữu Hùng
và Nguyễn Văn Hợp, thì mặt khách quan của các tội xâm phạm nghĩa vụ,
trách nhiệm của quân nhân là sự thể hiện dưới dạng hành vi nhất định (hành
động hoặc không hành động phạm tội)[57, tr. 82]. Còn theo PGS. TS. Trần
Văn Độ và TS. Nguyễn Đức Mai, thì mặt khách quan của các tội xâm phạm
nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân được thể hiện bởi hành vi (hành động
hoặc không hành động) nguy hiểm cho xã hội xâm phạm kỷ luật, sức mạnh
chiến đấu, chế độ phục vụ, chế độ công tác trong quân đội; thời gian, địa
điểm, hoàn cảnh phạm tội [20, tr.394-395, 36, tr. 799- 800].
Như vậy, các nhà khoa học pháp lý hình sự đều thống nhất dấu hiệu về
mặt khách quan của các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân
bao gồm: hành vi nguy hiểm cho xã hội, thời gian, địa điểm, hoàn cảnh phạm
tội. Nghiên cứu các dấu hiệu thuộc mặt khách quan của các tội phạm cụ thể
xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân, chúng tôi thấy:
+ Hành vi khách quan là dấu hiệu bắt buộc thuộc mặt khách quan của
tất cả các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân. Trong luật hình
sự, hành vi được hiểu là những biểu hiện của con người ra bên ngoài thế giới
khách quan dưới những hình thức cụ thể nhằm đạt những mục đích có chủ
định và có mong muốn [30, tr.94]. Theo quy định của Bộ luật hình sự, thì tội
36
phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội và được quy định trong Bộ luật hình
sự. Do vậy, hành vi khách quan của các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm
của quân nhân có các đặc điểm: có tính nguy hiểm cho xã hội; là hoạt động có
ý thức và ý chí; có tính trái pháp luật hình sự. Đối với những hành vi xâm
phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân tuy có dấu hiệu của tội phạm,
nhưng tính chất nguy hiểm cho xã hội không đáng kể, thì không phải là tội
phạm và được xử lý bằng biện pháp kỷ luật quân đội. Việc phân biệt hành vi
phạm tội cụ thể xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân với hành vi
xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân chưa đến mức bị coi là tội
phạm được thực hiện theo Quyết định số 2530/2000/QĐ-BQP ngày
02/11/2000 của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng quy định về xử lý kỷ luật đối với
những hành vi vi phạm chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự.
Hành vi khách quan của các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của
quân nhân có thể được mô tả hoặc chỉ được nêu tên trong điều luật cụ thể của
Chương XXIII “Các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân” Bộ
luật hình sự hiện hành dưới dạng hành động hoặc không hành động. Đa số các
tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân được thực hiện bằng hành
động và không hành động phạm tội. Tuy nhiên, có một số ít tội phạm chỉ
được thực hiện bằng hành động như: Tội làm nhục, hành hung người chỉ huy;
Tội làm nhục, hành hung đồng đội; Tội khai báo hoặc tự nguyện làm việc cho
địch khi bị bắt làm tù binh; Tội báo cáo sai; Tội huỷ hoại vũ khí quân dụng,
phương tiện kỹ thuật quân sự; Tội chiếm đoạt hoặc huỷ hoại chiến lợi phẩm.
Chuẩn bị phạm tội cụ thể xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân
nhân và phạm tội chưa đạt xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân là
những trường hợp chưa thực hiện đến cùng hành vi phạm tội nhưng vẫn phải
chịu trách nhiệm hình sự. Bởi lẽ, về khách quan, người phạm tội đã có hành vi
nguy hiểm cho xã hội và về chủ quan, việc dừng lại ở giai đoạn chuẩn bị hay
37
chưa đạt là do nguyên nhân ngoài ý muốn, còn bản thân người phạm tội vẫn
mong muốn thực hiện tội phạm đến cùng [26, tr.152]. Người chuẩn bị phạm
tội, người phạm tội chưa đạt và người phạm tội hoàn thành xâm phạm nghĩa
vụ, trách nhiệm của quân nhân phải chịu trách nhiệm hình sự về cùng một tội
danh, cùng một khung hình phạt được quy định tại cùng một điều luật của
Chương “Các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân” của Bộ
luật hình sự. Nhưng theo quy định của Bộ luật hình sự, thì mức độ trách
nhiệm hình sự của các trường hợp chuẩm bị phạm tội, phạm tội chưa đạt,
phạm tội hoàn thành xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân không
giống nhau. Bởi lẽ, theo quy định tại các Điều 17 và 18 Bộ luật hình sự, thì:
chỉ người nào chuẩn bị phạm một tội rất nghiêm trọng hoặc một tội đặc biệt
nghiêm trọng xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân mới phải chịu
trách nhiệm hình sự; người phạm tội chưa đạt phải chịu trách nhiệm hình sự
về tội phạm (ít nghiêm trọng, nghiêm trọng, rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm
trọng) chưa đạt.
Và theo quy định tại khoản 2 và 3 Điều 52 Bộ luật hình sự, thì: đối với
trường hợp chuẩn bị phạm tội (rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng)
xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân, thì mức hình phạt cao nhất
được áp dụng là không quá hai mươi năm tù (nếu điều luật được áp dụng có
quy định hình phạt cao nhất là tù chung thân hoặc tử hình) và không quá một
phần hai mức hình phạt mà điều luật quy định (nếu điều luật được áp dụng có
quy định hình phạt cao nhất là tù có thời hạn); đối với trường hợp phạm tội
chưa đạt xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân, thì có thể áp dụng
hình phạt tù chung thân hoặc tử hình trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng
(nếu điều luật được áp dụng có quy định hình phạt cao nhất là tù chung thân
hoặc tử hình) và mức hình không quá ba phần tư mức hình phạt mà điều luật
38
quy định (nếu điều luật được áp dụng có quy định hình phạt cao nhất là tù có
thời hạn).
+ Hậu quả của các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân
là thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra cho khách thể của các tội phạm này.
Thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra cho khách thể của các tội xâm phạm
nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân thể hiện bởi sự biến đổi tình trạng bình
thường của các bộ phận cấu thành khách thể của nhóm tội phạm này. Bất cứ
tội phạm cụ thể nào xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân cũng có
thể gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội và sự biến đổi tình trạng bình thường
của đối tượng tác động [30, tr. 102] của các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách
nhiệm của quân nhân. Nhưng không phải tất cả các cấu thành tội phạm của
các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân đều phản ánh dấu hiệu
“hậu quả nguy hiểm cho xã hội”. Nghiên cứu các tội xâm phạm nghĩa vụ,
trách nhiệm của quân nhân, chúng tôi thấy:
Hậu quả nguy hiểm cho xã hội là dấu hiệu bắt buộc của các tội xâm
phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân có cấu thành vật chất như: Tội
chấp hành không nghiêm chỉnh mệnh lệnh; Tội báo cáo sai; Tội vi phạm các
quy định về trực chiến, trực chỉ huy, trực ban; Tội vi phạm các quy định về bảo
vệ; Tội vi phạm các quy định về bảo đảm an toàn trong chiến đấu hoặc trong
huấn luyện; Tội vi phạm các quy định về sử dụng vũ khí quân dụng; Tội huỷ
hoại vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự; Tội làm mất hoặc vô ý
làm hư hỏng vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự; Tội vi phạm
chính sách đối với thương binh, tử sĩ trong chiến đấu; Tội lạm dụng nhu cầu quân
sự trong khi thực hiện nhiệm vụ. Để truy cứu trách nhiệm hình sự về hầu hết các
tội phạm này, thì hậu quả do hành vi phạm tội gây ra phải là hậu quả nghiêm
trọng. Riêng đối với tội huỷ hoại vũ khí, thì chỉ cần có thiệt hại (vũ khí bị huỷ hoại
hoặc bị mất) là đủ để truy cứu trách nhiệm hình sự; còn trường hợp số lượng vũ
39
khí bị mất hoặc bị huỷ hoại (bị coi là thiệt hại nghiêm trọng) thì bị coi là tình tiết
định khung hình phạt của tội phạm này. Bởi lẽ, theo quy định tại Thông tư liên
tịch số 01/2003/TTLT-TANDTC- VKSNDTC- BCA-BTP-BQP ngày 11/8/2003
của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư
pháp và Bộ Quốc phòng hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XXIII
“Các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân” của Bộ luật hình sự
năm 1999, thì chỉ các trường hợp huỷ hoại hoặc làm mất số lượng vũ khí sau đây
mới bị coi là gây thiệt hại nghiêm trọng: từ 3 đến 10 khẩu súng ngắn, súng
trường, súng tiểu liên; từ 1 đến 5 khẩu súng bộ binh khác như trung liên, đại
liên, súng máy cao xạ 12,7 ly đến 25 ly, súng B40, B41; từ 5 đến 15 quả mìn,
lựu đạn; từ 3 đến 10 quả đạn cối, đạn pháo; từ 300 đến 1.000 viên đạn bộ binh
cỡ 11,43 ly trở xuống; từ 200 đến 600 viên đạn súng máy cao xạ cỡ 12,7 ly
đến 25 ly; từ 10 đến 30 kg thuốc nổ các loại; từ 1.000 đến 3.000 nụ xuỳ hoặc
ống nổ; từ 3.000 đến 10.000 m dây cháy chậm, dây nổ v.v…[61, tr. 7]. Như
vậy, trường hợp gây thiệt hại dưới mức nêu trên thì không bị coi là gây thiệt
hại nghiêm trọng và không bị xử phạt theo quy định tại khoản 2 mà chỉ bị xử
phạt theo quy định tại khoản 1 Điều 334 Bộ luật hình sự.
Tính chất và mức độ của hậu quả do hành vi phạm tội cụ thể xâm phạm
nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân gây ra được xác định bởi: tính chất và
mức độ biến đổi đối tượng tác động của tội phạm; hoặc những đặc điểm (về
chất và lượng) của chính đối tượng tác động đã bị hành vi xâm phạm nghĩa
vụ, trách nhiệm của quân nhân làm biến đổi tình trạng. Tính chất và mức độ
của hậu quả do hành vi phạm tội cụ thể xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của
quân nhân gây ra là căn cứ để chia các tội phạm này thành: tội phạm ít
nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm
đặc biệt nghiêm trọng.
40
Việc chia các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân thành
các tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm
trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng có ý nghĩa rất lớn đối với việc áp
dụng các quy định của Phần chung của Bộ luật hình sự về nguyên tắc xử lý,
tuổi chịu trách nhiệm hình sự, thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự, điều
kiện áp dụng một số loại hình phạt đối với người phạm tội xâm phạm nghĩa
vụ, trách nhiệm của quân nhân…
Vì hậu quả phải do hành vi phạm tội gây ra, tức là có mối quan hệ nhân
quả giữa hành vi nguy hiểm cho xã hội và hậu quả của tội phạm [61, tr. 7].
Cho nên, phải coi mối quan hệ nhân quả giữa hành vi nguy hiểm cho xã hội
và hậu quả của tội phạm cũng là dấu hiệu thuộc mặt khách quan của các tội
xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân (nêu trên) có cấu thành tội
phạm vật chất.
+ Thời gian, địa điểm, hoàn cảnh phạm tội được Bộ luật hình sự quy định
là những tình tiết định tội hoặc định khung hình phạt của một số tội phạm cụ thể
xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân. Trong đó:
Thời gian phạm tội cụ thể xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân
là thời kỳ cụ thể phản ảnh bằng các sự khiện chính trị- quân sự. Các yếu tố thuộc
thời gian phạm tội được quy định tại Chương các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách
nhiệm của quân nhân là “phạm tội trong thời chiến”, “phạm tội trong chiến đấu”.
Phạm tội trong thời chiến là phạm tội trong khoảng thời gian đang có chiến tranh
ở nước ta [61, tr. 7], được quy định là tình tiết định khung hình phạt của tội trốn
tránh nhiệm vụ. Phạm tội trong chiến đấu là phạm tội trong thời gian người phạm
tội đang trực tiếp chiến đấu hoặc phục vụ chiến đấu [61, tr. 6], được quy định: là
tình tiết định tội của tội đầu hàng địch, tội bỏ vị trí chiến đấu và tội vi phạm các
quy định về bảo đảm an toàn trong chiến đấu; là tình tiết định khung của tội
41
chống mệnh lệnh, tội chấp hành không nghiêm chỉnh mệnh lệnh, tội cản trở
đồng đội thực hiện nghĩa vụ, trách nhiệm, tội vi phạm các quy định về trực
chiến, trực chỉ huy, trực ban và tội huỷ hoại vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ
thuật quân sự.
Địa điểm phạm tội cụ thể xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân
được hiểu là khu vực lãnh thổ nhất định mà ở đó có sự kiện phạm tội xảy ra. Tại
Chương “Các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân” của Bộ luật
hình sự quy định “phạm tội trong khu vực có chiến sự”, “phạm tội trong khu vực
đã có lệnh ban bố tình trạng khẩn cấp” là các yếu tố thuộc về địa điểm phạm tội.
Phạm tội trong khu vực có chiến sự là phạm tội trong khu vực đang có các hoạt
động tác chiến giữa ta và địch [61, tr. 6], được quy là tình tiết định khung hình
phạt của tội chống mệnh lệnh, tội chấp hành không nghiêm chỉnh mệnh lệnh,
tội cản trở đồng đội thực hiện nghĩa vụ, trách nhiệm, tội vi phạm các quy định
về sử dụng vũ khí quân dụng, tội huỷ hoại vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ
thuật quân sự, tội quấy nhiễu nhân dân. Phạm tội trong khu vực đã có lệnh ban
bố tình trạng khẩn cấp được quy định là tình tiết định khung hình phạt của tội
quấy nhiễu nhân dân.
Hoàn cảnh phạm tội cụ thể xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân
nhân được hiểu là một trong những điều kiện khách quan mà trong đó tội
phạm xảy ra, được người phạm tội sử dụng để đạt được mục đích phạm tội
của mình hoặc là sự tập trung các tình tiết cho thấy tính nguy hiểm cho xã hội
lớn hay nhỏ của tội phạm hay của người phạm tội [11, tr. 376]. Các yếu tố
thuộc hoàn cảnh phạm tội được quy định tại Chương “Các tội xâm phạm nghĩa
vụ, trách nhiệm của quân nhân” của Bộ luật hình sự là “khi bị bắt làm tù binh”,
“khi thu dọn chiến trường” và “khi thực hiện nhiệm vụ”. Phạm tội “khi bị bắt
làm tù binh” được quy định là tình tiết định tội của tội khai báo hoặc tự
nguyện làm việc cho địch khi bị bắt làm tù binh. Phạm tội “khi thu dọn chiến
Luận văn: Các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân
Luận văn: Các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân
Luận văn: Các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân
Luận văn: Các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân
Luận văn: Các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân
Luận văn: Các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân
Luận văn: Các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân
Luận văn: Các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân
Luận văn: Các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân
Luận văn: Các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân
Luận văn: Các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân
Luận văn: Các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân
Luận văn: Các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân
Luận văn: Các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân
Luận văn: Các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân
Luận văn: Các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân
Luận văn: Các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân
Luận văn: Các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân
Luận văn: Các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân
Luận văn: Các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân
Luận văn: Các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân
Luận văn: Các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân
Luận văn: Các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân
Luận văn: Các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân
Luận văn: Các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân
Luận văn: Các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân
Luận văn: Các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân
Luận văn: Các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân
Luận văn: Các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân
Luận văn: Các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân
Luận văn: Các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân
Luận văn: Các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân
Luận văn: Các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân
Luận văn: Các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân
Luận văn: Các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân
Luận văn: Các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân
Luận văn: Các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân
Luận văn: Các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân
Luận văn: Các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân
Luận văn: Các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân
Luận văn: Các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân
Luận văn: Các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân
Luận văn: Các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân
Luận văn: Các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân
Luận văn: Các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân
Luận văn: Các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân
Luận văn: Các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân
Luận văn: Các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân
Luận văn: Các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân
Luận văn: Các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân
Luận văn: Các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân
Luận văn: Các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân
Luận văn: Các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân
Luận văn: Các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân
Luận văn: Các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân
Luận văn: Các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân
Luận văn: Các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân
Luận văn: Các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân
Luận văn: Các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân
Luận văn: Các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân
Luận văn: Các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân
Luận văn: Các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân
Luận văn: Các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân
Luận văn: Các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân
Luận văn: Các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân
Luận văn: Các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân
Luận văn: Các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân
Luận văn: Các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân
Luận văn: Các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân
Luận văn: Các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân
Luận văn: Các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân
Luận văn: Các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân
Luận văn: Các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân
Luận văn: Các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân
Luận văn: Các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân
Luận văn: Các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân
Luận văn: Các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân
Luận văn: Các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân
Luận văn: Các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân
Luận văn: Các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân
Luận văn: Các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân
Luận văn: Các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân
Luận văn: Các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân
Luận văn: Các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân
Luận văn: Các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân
Luận văn: Các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân
Luận văn: Các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân
Luận văn: Các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân
Luận văn: Các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân
Luận văn: Các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân
Luận văn: Các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân
Luận văn: Các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân
Luận văn: Các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân
Luận văn: Các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân
Luận văn: Các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân
Luận văn: Các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân
Luận văn: Các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân
Luận văn: Các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân
Luận văn: Các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân
Luận văn: Các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân
Luận văn: Các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân
Luận văn: Các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân
Luận văn: Các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân
Luận văn: Các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân
Luận văn: Các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân
Luận văn: Các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân
Luận văn: Các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân
Luận văn: Các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân
Luận văn: Các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân
Luận văn: Các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân
Luận văn: Các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân
Luận văn: Các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân
Luận văn: Các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân
Luận văn: Các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân
Luận văn: Các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân
Luận văn: Các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân
Luận văn: Các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân
Luận văn: Các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân
Luận văn: Các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân
Luận văn: Các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân
Luận văn: Các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân
Luận văn: Các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân
Luận văn: Các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân
Luận văn: Các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân
Luận văn: Các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân
Luận văn: Các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân
Luận văn: Các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân
Luận văn: Các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân
Luận văn: Các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân
Luận văn: Các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân
Luận văn: Các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân
Luận văn: Các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân
Luận văn: Các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân
Luận văn: Các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân
Luận văn: Các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân
Luận văn: Các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân
Luận văn: Các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân
Luận văn: Các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân
Luận văn: Các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân
Luận văn: Các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân
Luận văn: Các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân
Luận văn: Các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân
Luận văn: Các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân
Luận văn: Các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân
Luận văn: Các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân
Luận văn: Các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân
Luận văn: Các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân
Luận văn: Các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân
Luận văn: Các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân
Luận văn: Các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân
Luận văn: Các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân
Luận văn: Các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân
Luận văn: Các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân
Luận văn: Các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân
Luận văn: Các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân
Luận văn: Các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân
Luận văn: Các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân
Luận văn: Các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân
Luận văn: Các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân
Luận văn: Các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân
Luận văn: Các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân
Luận văn: Các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân
Luận văn: Các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân
Luận văn: Các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân
Luận văn: Các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân
Luận văn: Các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân
Luận văn: Các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân
Luận văn: Các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân
Luận văn: Các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân
Luận văn: Các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân
Luận văn: Các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân
Luận văn: Các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân
Luận văn: Các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân
Luận văn: Các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân
Luận văn: Các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân
Luận văn: Các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân
Luận văn: Các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân
Luận văn: Các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân

More Related Content

What's hot

What's hot (20)

Luận văn thạc sĩ luật hình sự và tố tụng hình sự tội tàng trữ trái phép chất ...
Luận văn thạc sĩ luật hình sự và tố tụng hình sự tội tàng trữ trái phép chất ...Luận văn thạc sĩ luật hình sự và tố tụng hình sự tội tàng trữ trái phép chất ...
Luận văn thạc sĩ luật hình sự và tố tụng hình sự tội tàng trữ trái phép chất ...
 
Luận văn: Nguyên tắc suy đoán vô tội trong Luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Nguyên tắc suy đoán vô tội trong Luật tố tụng hình sự, HOTLuận văn: Nguyên tắc suy đoán vô tội trong Luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Nguyên tắc suy đoán vô tội trong Luật tố tụng hình sự, HOT
 
Luận văn: Luật La Mã trong xây dựng chế định vật quyền, HOT
Luận văn: Luật La Mã trong xây dựng chế định vật quyền, HOTLuận văn: Luật La Mã trong xây dựng chế định vật quyền, HOT
Luận văn: Luật La Mã trong xây dựng chế định vật quyền, HOT
 
Luận văn: Biện pháp điều tra theo pháp luật Tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp điều tra theo pháp luật Tố tụng hình sự, HAYLuận văn: Biện pháp điều tra theo pháp luật Tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp điều tra theo pháp luật Tố tụng hình sự, HAY
 
Luận văn: Chủ thể của tội phạm theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Chủ thể của tội phạm theo pháp luật hình sự Việt NamLuận văn: Chủ thể của tội phạm theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Chủ thể của tội phạm theo pháp luật hình sự Việt Nam
 
Luận văn: Các tội xâm hại tình dục trẻ em theo pháp luật, HOT
Luận văn: Các tội xâm hại tình dục trẻ em theo pháp luật, HOTLuận văn: Các tội xâm hại tình dục trẻ em theo pháp luật, HOT
Luận văn: Các tội xâm hại tình dục trẻ em theo pháp luật, HOT
 
Luận văn: Tội cố ý gây thương tích theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội cố ý gây thương tích theo pháp luật hình sự Việt NamLuận văn: Tội cố ý gây thương tích theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội cố ý gây thương tích theo pháp luật hình sự Việt Nam
 
Luận văn: Định tội danh đối với tội cướp tài sản theo luâṭ, HOT
Luận văn: Định tội danh đối với tội cướp tài sản theo luâṭ, HOTLuận văn: Định tội danh đối với tội cướp tài sản theo luâṭ, HOT
Luận văn: Định tội danh đối với tội cướp tài sản theo luâṭ, HOT
 
Luận văn: Thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra, HOT
Luận văn: Thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra, HOTLuận văn: Thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra, HOT
Luận văn: Thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra, HOT
 
Luận văn: Các tội phạm về ma túy trên địa bàn tỉnh Điện Biên
Luận văn: Các tội phạm về ma túy trên địa bàn tỉnh Điện BiênLuận văn: Các tội phạm về ma túy trên địa bàn tỉnh Điện Biên
Luận văn: Các tội phạm về ma túy trên địa bàn tỉnh Điện Biên
 
Luận văn: Định tội danh đối với tội giết người theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Định tội danh đối với tội giết người theo luật hình sự, HOTLuận văn: Định tội danh đối với tội giết người theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Định tội danh đối với tội giết người theo luật hình sự, HOT
 
Luận văn: Tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội theo luật, HOT
Luận văn: Tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội theo luật, HOTLuận văn: Tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội theo luật, HOT
Luận văn: Tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội theo luật, HOT
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm Cao
 
Đề tài: Tội vi phạm an toàn giao thông đường bộ theo Luật, HOT
Đề tài: Tội vi phạm an toàn giao thông đường bộ theo Luật, HOTĐề tài: Tội vi phạm an toàn giao thông đường bộ theo Luật, HOT
Đề tài: Tội vi phạm an toàn giao thông đường bộ theo Luật, HOT
 
Luận văn: Các dấu hiệu của lỗi cố ý và vô ý theo Luật hình sự, HOT
Luận văn: Các dấu hiệu của lỗi cố ý và vô ý theo Luật hình sự, HOTLuận văn: Các dấu hiệu của lỗi cố ý và vô ý theo Luật hình sự, HOT
Luận văn: Các dấu hiệu của lỗi cố ý và vô ý theo Luật hình sự, HOT
 
Luận văn: Tội hiếp dâm trẻ em theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội hiếp dâm trẻ em theo pháp luật hình sự Việt NamLuận văn: Tội hiếp dâm trẻ em theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội hiếp dâm trẻ em theo pháp luật hình sự Việt Nam
 
Luận án: Chủ thể của tội phạm theo pháp luật hình sự, HAY
Luận án: Chủ thể của tội phạm theo pháp luật hình sự, HAYLuận án: Chủ thể của tội phạm theo pháp luật hình sự, HAY
Luận án: Chủ thể của tội phạm theo pháp luật hình sự, HAY
 
Luận án: Thực hành quyền công tố trong tố tụng hình sự, HAY
Luận án: Thực hành quyền công tố trong tố tụng hình sự, HAYLuận án: Thực hành quyền công tố trong tố tụng hình sự, HAY
Luận án: Thực hành quyền công tố trong tố tụng hình sự, HAY
 
Luận văn: Tội nhận hối lộ theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội nhận hối lộ theo luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Tội nhận hối lộ theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội nhận hối lộ theo luật hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Tội giết người trên địa bàn miền Đông Nam Bộ, HOT
Luận văn: Tội giết người trên địa bàn miền Đông Nam Bộ, HOTLuận văn: Tội giết người trên địa bàn miền Đông Nam Bộ, HOT
Luận văn: Tội giết người trên địa bàn miền Đông Nam Bộ, HOT
 

Similar to Luận văn: Các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân

Similar to Luận văn: Các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân (20)

Luận văn: Tổng hợp hình phạt theo pháp luật hình sự việt nam
Luận văn: Tổng hợp hình phạt theo pháp luật hình sự việt namLuận văn: Tổng hợp hình phạt theo pháp luật hình sự việt nam
Luận văn: Tổng hợp hình phạt theo pháp luật hình sự việt nam
 
Luận văn: Miễn trách nhiệm hình sự theo luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Miễn trách nhiệm hình sự theo luật hình sự Việt NamLuận văn: Miễn trách nhiệm hình sự theo luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Miễn trách nhiệm hình sự theo luật hình sự Việt Nam
 
Luận văn: Miễn trách nhiệm hình sự theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Miễn trách nhiệm hình sự theo pháp luật hình sự Việt NamLuận văn: Miễn trách nhiệm hình sự theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Miễn trách nhiệm hình sự theo pháp luật hình sự Việt Nam
 
Luận văn: Chế định án tích trong luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Chế định án tích trong luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Chế định án tích trong luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Chế định án tích trong luật hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Vấn đề về chế định án tích trong luật hình sự, HAY
Luận văn: Vấn đề về chế định án tích trong luật hình sự, HAYLuận văn: Vấn đề về chế định án tích trong luật hình sự, HAY
Luận văn: Vấn đề về chế định án tích trong luật hình sự, HAY
 
Luận văn: Tái phạm nguy hiểm theo luật hình sự tỉnh Bắc Ninh, 9đ
Luận văn: Tái phạm nguy hiểm theo luật hình sự tỉnh Bắc Ninh, 9đLuận văn: Tái phạm nguy hiểm theo luật hình sự tỉnh Bắc Ninh, 9đ
Luận văn: Tái phạm nguy hiểm theo luật hình sự tỉnh Bắc Ninh, 9đ
 
Các tội xâm phạm an toàn giao thông đường bộ theo pháp luật
Các tội xâm phạm an toàn giao thông đường bộ theo pháp luật Các tội xâm phạm an toàn giao thông đường bộ theo pháp luật
Các tội xâm phạm an toàn giao thông đường bộ theo pháp luật
 
Đề tài: Tội phạm chưa hoàn thành theo luật hình sự Việt Nam, HAY
Đề tài: Tội phạm chưa hoàn thành theo luật hình sự Việt Nam, HAYĐề tài: Tội phạm chưa hoàn thành theo luật hình sự Việt Nam, HAY
Đề tài: Tội phạm chưa hoàn thành theo luật hình sự Việt Nam, HAY
 
Luận văn: So sánh đối tượng chứng minh theo luật tố tụng, HOT
Luận văn: So sánh đối tượng chứng minh theo luật tố tụng, HOTLuận văn: So sánh đối tượng chứng minh theo luật tố tụng, HOT
Luận văn: So sánh đối tượng chứng minh theo luật tố tụng, HOT
 
Đề tài: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về chế định thời hiệu theo pháp luậ...
Đề tài: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về chế định thời hiệu theo pháp luậ...Đề tài: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về chế định thời hiệu theo pháp luậ...
Đề tài: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về chế định thời hiệu theo pháp luậ...
 
Luận văn: Thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát
Luận văn: Thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều tra Viện kiểm sátLuận văn: Thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát
Luận văn: Thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát
 
Luận văn: Vấn đề tái phạm theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Vấn đề tái phạm theo luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Vấn đề tái phạm theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Vấn đề tái phạm theo luật hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Các tình tiết loại trừ tính chất tội phạm của hành vi, 9đ
Luận văn: Các tình tiết loại trừ tính chất tội phạm của hành vi, 9đLuận văn: Các tình tiết loại trừ tính chất tội phạm của hành vi, 9đ
Luận văn: Các tình tiết loại trừ tính chất tội phạm của hành vi, 9đ
 
Luận văn: Nguyên tắc trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng
Luận văn: Nguyên tắc trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụngLuận văn: Nguyên tắc trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng
Luận văn: Nguyên tắc trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng
 
Đề tài: Chức năng thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát
Đề tài: Chức năng thực hành quyền công tố của Viện kiểm sátĐề tài: Chức năng thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát
Đề tài: Chức năng thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát
 
Luận văn: Quyền bào chữa của bị cáo là người chưa thành niên
Luận văn: Quyền bào chữa của bị cáo là người chưa thành niênLuận văn: Quyền bào chữa của bị cáo là người chưa thành niên
Luận văn: Quyền bào chữa của bị cáo là người chưa thành niên
 
Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong tố tụng
Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong tố tụngQuyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong tố tụng
Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong tố tụng
 
Luận án: Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên
Luận án: Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niênLuận án: Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên
Luận án: Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên
 
Luận văn: Hình sự hóa trong Bộ luật hình sự Việt Nam năm 2015
Luận văn: Hình sự hóa trong Bộ luật hình sự Việt Nam năm 2015Luận văn: Hình sự hóa trong Bộ luật hình sự Việt Nam năm 2015
Luận văn: Hình sự hóa trong Bộ luật hình sự Việt Nam năm 2015
 
Nâng cao chất lượng pháp luật trong kiểm sát điều tra vụ án hình sự
Nâng cao chất lượng pháp luật trong kiểm sát điều tra vụ án hình sựNâng cao chất lượng pháp luật trong kiểm sát điều tra vụ án hình sự
Nâng cao chất lượng pháp luật trong kiểm sát điều tra vụ án hình sự
 

More from Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864

More from Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864 (20)

Yếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.doc
Yếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.docYếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.doc
Yếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.doc
 
Từ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.doc
Từ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.docTừ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.doc
Từ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.doc
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
 
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
 
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
 
Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...
Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...
Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
 
Tác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.doc
Tác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.docTác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.doc
Tác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.doc
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
 
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
 
Song Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.doc
Song Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.docSong Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.doc
Song Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.doc
 
Ứng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.doc
Ứng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.docỨng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.doc
Ứng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.doc
 
Vai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.doc
Vai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.docVai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.doc
Vai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.doc
 
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
 
Thu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.doc
Thu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.docThu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.doc
Thu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.doc
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
 
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.docTạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
 

Recently uploaded

SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdfSLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
hoangtuansinh1
 
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hànhbài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
dangdinhkien2k4
 
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdfxemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
Xem Số Mệnh
 
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
ChuThNgnFEFPLHN
 

Recently uploaded (20)

SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdfSLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
 
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
 
Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hội
Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hộiTrắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hội
Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hội
 
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢIPHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhhkinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
 
Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................
 
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdfBỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
 
TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...
TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...
TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...
 
Bài giảng môn Truyền thông đa phương tiện
Bài giảng môn Truyền thông đa phương tiệnBài giảng môn Truyền thông đa phương tiện
Bài giảng môn Truyền thông đa phương tiện
 
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
 
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIGIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
 
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hànhbài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
 
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdfxemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
 
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
 
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
 
xemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdf
xemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdfxemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdf
xemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdf
 
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
 
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng ĐồngGiới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
 

Luận văn: Các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân

  • 1. Đại học Quốc gia Hà nội Khoa luật Nguyễn Mai Bộ Các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân- một số vấn đề lý luận và thực tiễn Chuyên ngành: Luật hình sự Mã số: 62 38 40 01 Luận án tiến sĩ luật học Hà nội- 2010
  • 2. Mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Các quy định của Bộ luật hình sự về các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân với tư cách là một chế định của pháp luật hình sự Việt Nam bao gồm những quy phạm pháp luật quy định về tội phạm và chế tài đối với hành vi vi phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân là công cụ pháp lý quan trọng của công tác đấu tranh phòng chống tội phạm và vi phạm kỷ luật trong Quân đội. Cho nên, các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân là đối tượng nghiên cứu của khoa học pháp lý hình sự. Các quy định pháp luật hình sự của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam về các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân đã được hình thành từ năm 1946 và ngày càng được hoàn thiện. Việc ban hành Bộ luật hình sự năm 1985 là một bước tiến quan trọng của Luật hình sự nói chung và chế định các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân nói riêng. Bộ luật hình sự năm 1985 đã quy định “Các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân” thành một chương độc lập. Sau khi ban hành Bộ luật hình sự, các cơ quan hữu quan đã ban hành nhiều văn bản hướng dẫn áp dụng tạo cơ sở pháp lý cho việc điều tra, truy tố, xét xử các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân, bảo đảm đúng người, đúng tội và đúng pháp luật. Tuy nhiên, một số quy định của Bộ luật hình sự về các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân chưa chặt chẽ, thiếu tính khoa học và không bảo đảm tính lôgích với các quy định khác của Bộ luật hình sự. Việc hướng dẫn thống nhất nhận thức và áp dụng các quy định nêu trên của Bộ luật hình sự chưa được đầy đủ, kịp thời. Mặc dù, Bộ luật hình sự năm 1985 đã được sửa đổi bổ sung nhiều lần với các mức độ khác nhau, trong đó có lần sửa đổi cơ bản là ban hành Bộ luật hình sự năm 1999, nhưng những bất cập trong các
  • 3. 2 quy định của Bộ luật hình sự về các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân vẫn chưa được khắc phục triệt để. Cá biệt có quy định của Bộ luật hình sự như quy định về tội vắng mặt trái phép được huỷ bỏ, quy định về tội đào ngũ sau khi được sửa đổi đã tạo ra nhiều bất cập, không bảo đảm cho việc đấu tranh phòng chống các tội phạm này. Thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân cho thấy, số lượng vụ án về các tội phạm này chưa có chiều hướng giảm và diễn biến tội phạm càng trở nên phức tạp. Có nhiều trường hợp, hành vi vi phạm nghĩa vụ trách nhiệm của quân nhân đã vượt ra ngoài phạm vi điều chỉnh của chế định các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân trong luật hình sự Việt Nam. Các cơ quan tiến hành tố tụng trong Quân đội đã có nhiều cố gắng trong việc áp dụng quy định của Bộ luật hình sự về các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân, giảm bớt tình trạng sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật. Mặc dù vậy, việc áp dụng pháp luật hình sự để giải quyết các vụ án về các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân vẫn còn bộc lộ nhiều hạn chế: để lọt tội phạm; một số trường hợp định tội danh chưa chính xác hoặc có nhiều quan điểm khác nhau do quy định không rõ ràng của Bộ luật hình sự hoặc do nhận thức thiếu thống nhất các quy định của pháp luật. Để đáp ứng kịp thời các yêu cầu cải cách tư pháp, đấu tranh phòng chống các hành vi xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân, góp phần xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam theo hướng cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, việc tiếp tục nghiên cứu các quy định của pháp luật hình sự về các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân một cách có hệ thống về mặt lý luận, chỉ ra những hạn chế, vướng mắc, bất cập trong thực tiễn áp dụng; trên cơ sở đó đưa ra những căn cứ khoa học nhằm
  • 4. 3 hoàn thiện pháp luật hình sự về các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân là một việc làm cần thiết của khoa học luật hình sự hiện nay. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Mặc dù các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân được quy định trong Bộ luật hình sự từ năm 1985 nhưng cho đến nay chưa có một luận án thạc sỹ hay luận án tiến sỹ nào nghiên cứ đề tài này. Trong khoa học pháp lý hình sự, các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân đã được một số tác giả trong nước nghiên cứu ở các cấp độ và mức độ khác nhau. ở cấp độ giáo trình, có: giáo trình Luật hình sự Việt Nam của trường Đại học Luật Hà Nội, giáo trình Luật hình sự của Khoa luật trực thuộc Đại học quốc gia Hà Nội, giáo trình Luật hình sự của trường Đại học luật trực thuộc Đại học quốc gia thành phố Hồ Chí Minh... Trong các giáo trình Luật hình sự nêu trên, các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân mới chỉ được đề cập ở mức độ cơ bản. ở cấp độ bình luận khoa học, phân tích chuyên sâu, có: Chương “Các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân” của PGS. TS Trần Văn Độ trong Bình luận khoa học Bộ luật hình sự của Viện nghiên cứu khoa học pháp lý Bộ Tư pháp năm 2000; Chương “Các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân” của TS. Nguyễn Đức Mai trong Bình luận khoa học Bộ luật hình sự của Nhà xuất bản Công an nhân dân năm 2000; sách chuyên khảo “ Tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân” của tập thể tác giả Lê Đức Tiết, Lê Tranh Trung, Nguyễn Hữu Hùng, Nguyễn Văn Hợp do Nhà xuất bản pháp lý phát hành năm 1987. Trong các cuốn bình luận khoa học Bộ luật hình sự và cuốn sách chuyên khảo nêu trên, các tác giả mới chỉ dừng lại ở việc phân tích, giải thích (trong đó, sách chuyên khảo phân tích sâu hơn) các quy định của Bộ luật hình sự về các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân làm cơ sở cho việc nhận thức và áp dụng pháp luật trong công tác điều tra, truy tố, xét xử các tội phạm này.
  • 5. 4 Ngoài những công trình nghiên cứu nêu trên, còn có một số bài viết đăng trên các tạp chí như: Về cấu thành tội đào ngũ theo quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 và thực tiễn áp dụng của ThS. Nguyễn Văn Trượng đăng trên Tạp chí Toà án nhân dân số 12 năm 2000; Những vướng mắc từ thực tiễn xử lý tội đào ngũ của Lê Văn Sua đăng trên tạp chí Toà án nhân dân số 9 năm 2002; Bàn về tội đào ngũ quy định tại Điều 325 Bộ luật hình sự năm 1999 của ThS. Bùi Quang Thạch và CN. Trương Hùng Biện đăng trên Tạp chí Kiểm sát số 24 năm 2006. Các giả của những bài tạp chí nêu trên mới chỉ nghiên cứu một tội phạm cụ thể (tội đào ngũ) trong Chương các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân. Tác giả cũng đã nghiên cứu và công bố một số cuốn sách chuyên khảo về các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân như: cuốn Tìm hiểu các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân năm 1998; cuốn Các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân năm 2006; và một số bài tạp chí như: áp dụng hình phạt quản chế đối với quân nhân phạm tội đăng trên Tạp chí Toà án nhân dân số 12 năm 1993, Tội đào ngũ đăng trên Tạp chí Toà án nhân dân số 6 năm 1995 và Tước danh hiệu quân nhân đối với các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân đăng trên Tạp chí Toà án nhân dân số 3 năm 1998. Trong cuốn “Các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân”, Nghiên cứu sinh đã chứng minh, làm rõ các đặc điểm của các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm hình sự của quân nhân theo quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam trên cơ sở phân tích các đặc điểm của khái niệm tội phạm được đề cập tại Điều 8 Bộ luật hình sự. Đồng thời, phân tích bình luận về từng tội phạm cụ thể xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân. Nhìn chung, việc nghiên cứu các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân của các tác giả trong nước tuy đã đạt được những thành quả nhất định nhưng với những kết quả nêu trên, thì có thể nói việc nghiên cứu
  • 6. 5 các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân vẫn còn là một khoảng trống trong khoa học luật hình sự Việt Nam. Điều này cho thấy sự cần thiết phải nghiên cứu sâu hơn, toàn diện hơn cả về lý luận và thực tiễn áp dụng các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân để từng bước hoàn thiện quy định của Bộ luật hình sự về các tội phạm này. Đó cũng chính là lý do chúng tôi chọn đề tài “Các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân- một số vấn đề lý luận và thực tiễn” làm đề tài nghiên cứu sinh của mình. Về tình hình nghiên cứu các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân ở nước ngoài, do khả năng và điều kiện hạn chế nên chúng tôi chỉ nắm được một số thông tin về các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân được đề cập trong: cuốn Bình luận khoa học Luật về trách nhiệm hình sự của các tội quân sự năm 1986 của GS. TS. Axmetina X. M., GS. TS. Ter-Akopop, PGS.TS. Procovich E. V. và Giáo trình luật hình sự của nhà xuất bản Pháp lý Matxcơva năm 1988. Trong đó, GS. TS. Axmetina X. M đã phân tích rất kỹ đặc điểm của các tội phạm quân sự theo quy định của Bộ luật hình sự Liên bang Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Xô viết Nga. Kết quả nghiên cứu của GS. TS. Axmetina X. M có thể kế thừa và phát triển để xây dựng khái niệm các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân theo quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam. Do có nhiều khó khăn trong việc tiếp cận, phân tích, đánh giá pháp luật nước ngoài nên trong luận án này chúng tôi chỉ phân tích số quy định về các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân trong Bộ luật hình sự của một số nước đã được dịch ra tiếng Việt mang tích chất thông tin khoa học. Các kết quả nêu trên cho thấy, trong khoa học luật hình sự nói chung và khoa học luật hình sự Việt Nam nói riêng đã có một hệ thống lý luận về các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân. Kế thừa và phát triển
  • 7. 6 những kết quả nghiên cứu của khoa học luật hình sự trước đây để nghiên cứu, xây dựng khái niệm các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân là việc làm cần thiết. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài Mục đích của luận án là nghiên cứu: thừa kế và phát triển lý luận về các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân; đề xuất những giải pháp hoàn thiện quy định của Bộ luật hình sự về các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân. Để đạt được các mục đích nêu trên, luận án đề ra các nhiệm vụ: - Nghiên cứu những vấn đề lý luận về các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân như: sự cần thiết phải quy định trách nhiệm hình sự đối với các hành vi xâm phạm, nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân; khái niệm các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân; cơ sở trách nhiệm hình sự và các hình thức trách nhiệm hình sự của các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiêm của quân nhân; - Xem xét, đánh giá tính khoa học, tích pháp lý những quy định của Bộ luật hình sự hiện hành về các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiêm của quân nhân; - Thực tiễn áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự về các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử các tội phạm này. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
  • 8. 7 Đối tượng nghiên cứu của luận án là những quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân và thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử các vụ án hình sự về loại tội phạm này. Phạm vi nghiên cứu của luận án là các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân trong pháp luật hình sự của Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, có sự so sánh đối chiếu với pháp luật hình sự của một số nước trên thế giới; thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử các vụ án về các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân từ khi Cách mạng tháng Tám thành công cho tới nay. 5. Phương pháp nghiên cứu Luận án được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng cộng sản và Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam về xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam theo hướng cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại. Đồng thời, tác giả sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: hệ thống, lịch sử, so sánh luật học, thống kê, phân tích, tổng hợp và phương pháp chuyên gia... 6. ý nghĩa của việc nghiên cứu và những đóng góp mới của luận án Việc nghiên cứu đề tài “Các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân – một số vấn đề lý luận và thực tiễn” có ý nghĩa rất lớn đối với việc: tuyên truyền giáo dục pháp luật cho quân nhân trong Quân đội nhân dân Việt Nam và các đối tượng liên quan; áp dụng pháp luật hình sự trong việc truy cứu trách nhiệm hình sự các hành vi nguy hiểm cho xã hội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân; hoàn thiện pháp luật hình sự về các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân theo tinh thần cải cách tư
  • 9. 8 pháp; và giúp sinh viên các khoa luật chuyên ngành hình sự nghiên cứu sâu hơn về các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân. Đề tài là công trình khoa học đầu tiên ở cấp độ tiến sỹ nghiên cứu toàn diện, hệ thống về các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân trong pháp luật hình sự Việt Nam. Những đóng góp mới của luận án là: - Luận án chứng minh sự cần thiết phải quy định trách nhiệm hình sự của các hành vi xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân; - Luận án đưa ra các khái niệm khoa học về: các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân; cơ sở trách nhiệm hình sự của các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân; các yếu tố cấu thành tội phạm (khái niệm khách thể, chủ thể, mặt khách quan và mặt chủ quan) của các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân; - Luận án nêu các hình thức trách nhiệm hình sự của các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân; - Luận án phân tích và chứng minh những bất cập trong các quy định của Bộ luật hình sự hiện hành về các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân và thực tiễn áp dụng chúng trong việc truy cứu trách nhiệm hình sự hành vi xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân; - Luận án đã kiến nghị sửa đổi, bổ sung nhiều quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 về các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp. 7. Cơ cấu của luận án Cơ cấu của luận án, ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận án có ba chương:
  • 10. 9 Chương 1. Những vấn đề lý luận chung về các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân. Chương 2. Các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân theo quy định của pháp luật hình sự Việt Nam. Chương 3. Thực tiễn áp dụng và những kiến nghị hoàn thiện Bộ luật hình sự Việt Nam về các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân. Chương 1 Những vấn đề lý luận chung về Các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân 1.1. Nhận thức chung về Các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân 1.1.1. Sự cần thiết phải quy định trách nhiệm hình sự đối với các hành vi xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân Những hành vi vi phạm kỷ luật quân đội bao gồm hành vi vi phạm pháp luật Nhà nước và hành vi vi phạm Điều lệnh Quân đội, có mức độ nguy hiểm khác nhau cần được xử lý bởi các hình thức khác nhau. Trong đó có hành vi bị xử lý hình sự, có hành vi bị xử lý kỷ luật. Những hành vi vi phạm kỷ luật quân đội bị xử lý hình sự là những hành vi có tính nguy hiểm cao cho xã hội, vì gây thiệt hại hoặc có khả năng gây thiệt hại cho các quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ. Căn cứ vào tính chất các quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ có thể chia những hành vi vi phạm kỷ luật quân đội bị xử lý hình sự thành: những hành vi phạm các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm
  • 11. 10 của quân nhân; và những hành vi phạm tội hình sự chung. Trong đó, những hành vi phạm các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân là những hành vi do quân nhân và những người có nghĩa vụ, trách nhiệm như quân nhân thực hiện, xâm phạm quan hệ xã hội trong lĩnh vực quân sự. Trách nhiệm hình sự của các hành vi này là trách nhiệm hình sự của các hành vi xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân. Trong khoa học luật hình sự Việt Nam chưa có định nghĩa nào về trách nhiệm hình sự của các hành vi xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân. Nhưng xuất phát từ việc phân tích các định nghĩa khoa học về trách nhiệm hình sự [10, tr.9, 33, tr.126, 41, tr.14, 95, tr.49, 96, tr.45] và quy định của Bộ luật hình sự về các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân, chúng tôi nêu khái niệm trách nhiệm hình sự của các hành vi xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân như sau: Trách nhiệm hình sự của các hành vi xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân là trách nhiệm pháp lý hình sự mà người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân phải chịu sự tác động của hoạt động truy cứu trách nhiệm hình sự, chịu bị kết tội, chịu biện pháp cưỡng chế, chịu mang án tích do Toà án áp dụng tuỳ thuộc vào tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi mà người đó đã thực hiện. Việc quy định trách nhiệm hình sự đối với hành vi xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân xuất phát từ các lý do sau đây: Thứ nhất, xuất phát từ quan điểm của Chủ nghĩa Mác- Lênin về xây dựng quân đội cách mạng là “Trong quân đội cần có kỷ luật nghiêm khắc nhất”[100, tr 240] và sự nguy hại lớn nhất đối với kỷ luật quân đội và chế độ phục vụ trong quân đội là tội phạm mà trách nhiệm hình sự của nó được thể hiện trong văn bản pháp luật hình sự [101, tr. 563].
  • 12. 11 Thứ hai, Luật hình sự là một ngành trong hệ thống pháp luật Việt Nam, bao gồm hệ thống những quy phạm pháp luật, xác định những hành vi nguy hiểm cho xã hội (trong đó có hành vi xâm phạm nghĩa vụ trách nhiệm của quân nhân) là tội phạm; quy định loại và mức hình phạt áp dụng đối với từng tội phạm cụ thể. Luật hình sự là công cụ quan trọng để bảo vệ những thành quả cách mạng, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, đấu tranh chống và phòng ngừa mọi hành vi phạm tội, góp phần hoàn thành hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa Việt Nam [93, tr.288]. Thứ ba, để bảo đảm nguyên tắc công bằng “ở việc không thoát khỏi trách nhiệm và sự tương xứng của trách nhiệm đối với hành vi vi phạm” [96, tr.45]. Thứ tư, để làm cơ sở cho việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với hành vi xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân theo nguyên tắc “Chỉ người nào phạm một tội đã được Bộ luật hình sự quy định mới phải chịu trách nhiệm hình sự [45, tr.15].” Thứ năm, Bộ luật hình sự thể hiện tinh thần chủ động phòng ngừa và kiên quyết đấu tranh chống mọi tội phạm và thông qua hình phạt để răn đe, giáo dục, cảm hoá, cải tạo người phạm tội trở thành người lương thiện; qua đó, bồi dưỡng cho mọi công dân tinh thần, ý thức làm chủ xã hội, ý thức tuân theo pháp luật, chủ động tham gia phòng ngừa tội phạm [45, tr.14]. Thứ sáu, chỉ những hành vi nguy hiểm cho quan hệ xã hội tồn tại trong quân đội, do chủ thể đặc biệt (là quân nhân và những người có nghĩa vụ, trách nhiệm như quân nhân) thực hiện bằng hành động hoặc không hành động (vi phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân) gây thiệt hại cho sức mạnh, trình
  • 13. 12 độ sẵn sàng chiến đấu và chế độ phục vụ trong quân đội (sẽ được trình bày tại Mục 1.2 của Luận án) mới bị quy định là tội phạm cụ thể xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân. Đó là những hành vi đã từng xảy ra nhiều trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ hoặc chưa từng xảy ra nhưng việc quy định trách nhiệm hình sự đối với nó có ý nghĩa giáo dục ý thức pháp luật và phòng ngừa tội phạm. Mặt khác, Bộ luật hình sự Việt Nam là văn bản quy phạm pháp luật áp dụng cho cả thời bình và thời chiến. Do vậy, Cơ quan lập pháp của Nhà nước ta chỉ quy định: 28 tội phạm cụ thể xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân trong Bộ luật hình sự năm 1985 và 27 tội phạm cụ thể xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân trong Bộ luật hình sự năm 1999. Việc quy định trách nhiệm hình sự đối với các hành vi xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân có ý nghĩa rất lớn đối với việc bảo vệ sức mạnh của Quân đội. Bởi lẽ, các yếu tố tạo nên sức mạnh của Quân đội bao gồm lực lượng, con người, vũ khí, phương tiện kỹ thuật, trang bị, tính tổ chức và kỷ luật… Khả năng kinh tế của đất nước ta không cho phép duy trì một số lượng quân thường trực rất lớn, trang bị thật nhiều vũ khí, phương tiện kỹ thuật hiện đại. Cho nên, cùng với việc xây dựng Quân đội từng bước hiện đại, đổi mới tổ chức lực lượng, đổi mới huấn luyện và đào tạo nhằm nâng cao chất lượng huấn luyện, cần tăng cường tính tổ chức và tính kỷ luật của Quân đội đáp ứng yêu cầu tác chiến trong điều kiện chiến tranh hiện đại [54, tr.3] như yêu cầu của V.I. Lênin “trong quân đội cần có kỷ luật nghiêm khắc nhất”[100, tr.240]. Về ý nghĩa pháp lý, thì: Thứ nhất, việc quy định trách nhiệm hình sự đối với các hành vi xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân là cơ sở pháp lý để xử lý người
  • 14. 13 thực hiện hành vi vi phạm pháp luật xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân. Thứ hai, thông qua việc “quy định trong luật” về các hình thức cưỡng chế đối với người thực hiện hành vi phạm một trong các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân sẽ tác động đến ý thức của quân nhân. Từ đó tác động tới tâm lý quân nhân và những người có nghĩa vụ, trách nhiệm như quân nhân, tạo hiệu quả trong cảnh báo và răn đe nếu ai đó thực hiện hành vi xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân. Thứ ba, việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm một trong các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân là thông điệp cụ thể, trực quan “Nhà nước làm thật chứ không chỉ tuyên bố trong luật”. Thứ tư, cùng với việc áp dụng hình phạt, Toà án còn áp dụng biện pháp tư pháp buộc người phạm tội cụ thể xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân bồi thường thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra như: phạm tội huỷ hoại vũ khí, phương tiện kỹ thuật quân sự thì phải bồi thường giá trị vũ khí, phương tiện kỹ thuật quân sự bị huỷ hoại; phạm tội hành hung đồng đội gây thương tích phải bồi thường toàn bộ chi phí hợp lý mà bệnh viện quân y đã bỏ ra cứu chữa, điều trị cho nạn nhân… Tất cả các khoản bồi thường nêu trên đều được đưa vào ngân sách quốc phòng để bù đắp lại những thiệt hại do hành vi xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân gây ra. Như vậy, việc quy định trách nhiệm hình sự đối với hành vi xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân không chỉ có ý nghĩa về lý luận, thực tiễn mà còn mang tính cấp thiết để bảo đảm sức mạnh chiến đấu của Quân đội nhân dân Việt Nam. 1.1.2. Khái niệm các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân
  • 15. 14 Khi quy định trách nhiệm hình sự cũng như nghiên cứu về các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân, vấn đề cơ bản và đầu tiên cần được giải quyết là phải đưa ra khái niệm các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân. Trước đây và hiện nay, các nước trên thế giới có một số khuynh hướng: Một là, không quy định các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân trong Bộ luật hình sự như Bộ luật hình sự của nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa (được ban hành ngày 01/7/1979), Bộ luật hình sự Cộng hoà Pháp (Luật số 92-683 ngày 23/7/1992 sửa đổi các quy định chung của Bộ luật hình sự), Bộ luật hình sự Tây úc…; Hai là, có quy định các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân trong Bộ luật hình sự nhưng không nêu định nghĩa các tội phạm này như Bộ luật hình sự của Vương quốc Thuỵ Điển, Bộ luật hình sự nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam…; Ba là, có quy định các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân và có nêu định nghĩa các tội phạm này trong Bộ luật hình sự như Bộ luật hình sự Liên bang Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Xô viết Nga (trước đây) và Liên bang Nga (ngày nay), Bộ luật hình sự Cộng hoà nhân dân Trung Hoa (được ban hành ngày 01/10/1997)… Các nước theo xu hướng thứ ba tuy có định nghĩa các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân trong Bộ luật hình sự của mình, nhưng mỗi nước lại có một cách định nghĩa khác nhau. Trong Bộ luật hình sự Liên bang Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Xô viết Nga năm 1960 được sửa đổi, bổ sung năm 1984, các tội phạm quân sự được định nghĩa tại Điều 237 là “những tội phạm được quy định trong Bộ luật hình sự xâm phạm chế độ phục vụ quân đội, do quân nhân cũng như những người có nghĩa vụ quân sự trong thời gian
  • 16. 15 tập trung huấn luyện hoặc kiểm tra sẵn sàng chiến đấu thực hiện” [101, tr.128]. Trong Bộ luật hình sự Liên bang Nga năm 1996, các tội xâm phạm chế độ phục vụ trong quân đội được định nghĩa tại Điều 331 là “những tội phạm được quy định tại Chương này xâm phạm trật tự phục vụ trong quân đội, do quân nhân, những người được trưng tập hoặc phục vụ trong lực lượng vũ trang Liên bang Nga theo hợp đồng, quân nhân dự bị trong thời gian tập trung huấn luyện thực hiện”[35, tr.143]. Trong Bộ luật hình sự nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa năm 1997, tại Điều 420 quy định “Quân nhân có hành vi vi phạm chức trách gây nguy hại lợi ích quân sự quốc gia thì sẽ là phạm tội vi phạm chức trách quân nhân bị xử phạt theo quy định của pháp luật [15, tr.67].” Phân tích các định nghĩa nêu trên về các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân, chúng tôi thấy: Quy định tại Điều 237 Bộ luật hình sự Liên bang Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Xô viết Nga và Điều 331 Bộ luật hình sự Liên bang Nga mới chỉ nêu được khách thể loại của các tội phạm quân sự (là chế độ phục vụ quân đội) và người phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm này (là quân nhân, người được trưng tập hoặc phục vụ trong lực lượng vũ trang theo hợp đồng, quân nhân dự bị trong thời gian tập trung huấn luyện) mà chưa nêu được các tội phạm quân sự có tính nguy hiểm cho xã hội cũng như tính có lỗi của loại tội phạm này. Trong khi đó tại Điều 7 Bộ luật hình sự Liên bang Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Xô viết Nga lại đưa ra khái niệm “Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong pháp luật hình sự, xâm phạm….[35, tr.71]; và tại Điều 14 Bộ luật hình sự Liên bang Nga định nghĩa “Tội phạm là hành vi có lỗi, nguy hiểm cho xã hội bị áp dụng hình phạt theo quy định của Bộ luật hình sự”. Mặt khác về hình thức ngôn ngữ, tại các điều luật nêu trên dùng thuật ngữ “các tội quân sự là những tội phạm…; các tội xâm phạm chế độ
  • 17. 16 phục vụ trong quân đội là những tội phạm…” là không khoa học. Như vậy, các khái niệm về các tội phạm quân sự được các nhà lập pháp Liên bang Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Xô viết Nga và Liên bang Nga quy định không bảo đảm tính lôgích hình thức giữa quy định tại Phần chung và Phần các tội phạm của Bộ luật hình sự. Tại Điều 420 Bộ luật hình sự nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa năm 1997 cũng chỉ nêu được tội xâm phạm chức trách quân nhân là hành vi vi phạm chức trách gây nguy hại cho lợi ích quân sự quốc gia và chủ thể của các tội xâm phạm chức trách quân nhâ là quân nhân, mà chưa nêu được tính “được quy định trong Bộ luật hình sự” và chưa liệt kê được đầy đủ chủ thể của loại tội phạm này. Mặc dù, tại Chương IX Bộ luật hình sự này lại quy định từng tội phạm cụ thể xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân (từ Điều 421 đến Điều 448); tại Điều 450 lại nêu “Chương này được áp dụng cho những học viên trong quân đội, binh sỹ, cán bộ, sỹ quan Quân giải phóng nhân dân Trung Hoa và những học viên, binh sỹ, cán bộ, sỹ quan của bộ đội lực lượng vũ trang và cả những sỹ quan dự bị và những nhân viên khác”[15, tr.71]. Việt Nam tuy theo xu hướng thứ hai (có quy định các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân trong Bộ luật hình sự nhưng không nêu định nghĩa tội phạm này), nhưng trong khoa học pháp lý hình sự cũng có một số cách định nghĩa khác nhau về các tội xâm phạm nghĩa vụ trách nhiệm của quân nhân. Cách định nghĩa thứ nhất cho rằng, các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân là loại tội xảy ra trong lĩnh vực hoạt động quân sự của Quân đội [93, tr. 458]. Cách định nghĩa thứ hai cho rằng, “Tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiện của quân nhân được Bộ luật hình sự nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy định tại Chương XI, do quân nhân tại ngũ, quân nhân dự bị trong thời gian tập trung huấn luyện, công dân được
  • 18. 17 trưng tập vào phục vụ trong quân đội, dân quân tự vệ phối thuộc chiến đấu với quân đội, những người khác được quy định thuộc lực lượng vũ trang gây ra và xâm hại đến việc duy trì, củng cố, phát triển trình độ sẵn sàng chiến đấu và sức mạnh của quân đội”[58, tr. 33]. Cách định nghĩa thứ ba cho rằng, “Tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiện của quân nhân là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự được quy định tại Điều 249 Bộ luật hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân [6, tr.21]”. Cách định nghĩa thứ tư cho rằng, “Tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiện của quân nhân là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự, do những người có năng lực trách nhiệm hình sự được quy định tại Điều 315 Bộ luật hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân”[6, tr.61]. Phân tích các cách định nghĩa nêu trên, chúng tôi thấy: Cách định nghĩa thứ nhất mới chỉ nêu được lĩnh vực xảy ra các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân mà chưa trả lời được câu hỏi “Các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân là gì? được quy định ở đâu? do ai thực hiện? có lỗi hay không?”. Cách định nghĩa thứ hai cũng chỉ mới nêu được khách thể loại và chủ thể của các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân. Cách định nghĩa thứ ba tuy có đầy đủ hơn nhưng cũng như cách định nghĩa thứ hai lại không chặt chẽ về thuật ngữ pháp lý vì trong Bộ luật hình sự Việt Nam không có “Tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiện của quân nhân” mà chỉ có “Các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiện của quân nhân”. Quy định tại Điều 249 Bộ luật hình sự năm 1985 về những người phải chịu trách nhiệm hình sự về các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân bao gồm: “Quân nhân tại ngũ, quân nhân dự bị trong thời gian tập trung huấn luyện, công dân đươc trưng tập vào phục vụ trong quân đội, dân
  • 19. 18 quan tự vệ phối thuộc chiến đấu với quân đội, những người khác được quy định là lực lượng vũ trang” là chưa chính xác. Bởi lẽ, theo quy định của pháp luật, thì Lực lượng vũ trang Việt Nam bao gồm Quân đội nhân dân, Công an nhân dân, Dân quân tự vệ [48. tr.12]. Trong đó hành vi xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của Công an nhân dân do sỹ quan, hạ sỹ quan, công nhân, viên chức Công an nhân dân chỉ có thể xâm phạm sức mạnh của Công an nhân dân chứ không thể xâm phạm sức mạnh của Quân đội. Cho nên, nội dung được nêu trong cách định nghĩa thứ hai và thứ ba cũng không bảo đảm chính xác về phạm vi khái niệm. Cách định nghĩa thứ tư cũng không chính xác về thuật ngữ pháp lý vì đó là định nghĩa về “Tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân”, một tội danh không được quy định trong Bộ luật hình sự hiện hành. Mặc dù nội dung đề cập trong khái niệm này là một số dấu hiệu của các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân như: hành vi có tính nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự, do những người có năng lực trách nhiệm hình sự được quy định tại Điều 315 Bộ luật hình sự thực hiện một cách có lỗi, xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân. Như vậy, trong khoa học pháp lý hình sự Việt Nam chưa có định nghĩa đầy đủ, chính xác và bảo đảm tính lôgích với quy định tại Điều 8 Bộ luật hình sự về các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân. Theo chúng tôi, các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân là một loại tội phạm được quy định trong Bộ luật hình sự. Do vậy, khái niệm các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân cũng bao gồm các những dấu hiệu chung của khái niệm tội phạm. Nghĩa là các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân cũng là những hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân Quân đội nhân dân Việt Nam. Trên cơ sở pháp lý quy định tại khoản 1 Điều 8
  • 20. 19 Bộ luật hình sự hiện hành, các quan điểm khoa học về các đặc điểm của tội phạm nói chung [11, tr.297, 21, tr.59, 28, tr.38, 56, tr.5-6, 95, tr.78-84] và của các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân nói riêng [7, tr. 13-22, 99, tr. 13-22], chúng tôi cho rằng các dấu hiệu chung của các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân bao gồm: các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân là những hành vi nguy hiểm cho xã hội; các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân là những hành vi được quy định trong Bộ luật hình sự; các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân là hành vi do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện; các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân là những hành vi có lỗi; các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân là những hành vi phải chịu hình phạt. Các dấu hiệu nêu trên được thể hiện trong cấu thành tội phạm của các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân. Nghiên cứu các dấu hiệu của các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân (thông qua việc nghiên cứu cấu thành tội phạm sẽ được trình bày ở Tiểu mục 1.2.2), đối chiếu với quy định của Bộ luật hình sự một số nước (đã trình bày ở phần trên) và của Bộ luật hình sự Việt Nam, chúng tôi thấy: So với các tội phạm được quy định tại các chương khác của Bộ luật hình sự, thì các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân có hai điểm khác nhau cơ bản thể hiện ở hai yếu tố cấu thành tội phạm là khách thể và chủ thể của tội phạm. Khách thể của các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân là những quan hệ xã hội chỉ tồn tại trong quân đội. Đó là quan hệ giữa đơn vị quân đội với quân nhân trong đơn vị, công dân được trưng tập vào phục vụ trong đơn vị và dân quân, tự vệ phối thuộc với đơn vị trong chiến đấu hoặc phục vụ chiến đấu; quan hệ giữa các quân nhân với nhau và quan hệ giữa quân nhân với những người không phải là quân nhân trong quá trình phối thuộc chiến đấu, phục vụ chiến đấu, tập trung huấn luyện,
  • 21. 20 trưng tập vào phục vụ trong quân đội. Chủ thể của các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân là những người được quy định tại Điều 315 Bộ luật hình sự. Hai yếu tố còn lại là mặt khách quan và mặt chủ quan tuy có một số điểm khác nhau về tính chất và được thể hiện trong từng điều luật quy định về các tội phạm cụ thể nhưng nói chung là giống nhau. Do đó, nếu một người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội nhưng (hành vi và con người đó) không được quy định tại Chương XXIII Bộ luật hình sự năm 1999, thì chỉ có thể dẫn đến một trong hai hậu quả pháp lý sau đây: Thứ nhất, nếu hành vi đó không đủ yếu tố cấu thành tội phạm hoặc tuy có dấu hiệu của tội phạm nhưng tính chất nguy hiểm cho xã hội không đáng kể, thì đó là hành vi vi phạm kỷ luật được xử lý theo quy định của Điều lệnh quản lý bộ đội. Thứ hai, nếu hành vi đó có đủ yếu tố cấu thành tội phạm, thì người thực hiện hành vi đó bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội tương ứng được quy định tại các chương khác (không phải là Chương XXIII) Phần các tội phạm Bộ luật hình sự. Do vậy, có thể kết luận đặc điểm đặc thù của các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân được thể hiện ở hai yếu tố cấu thành tội phạm là khách thể và chủ thể của tội phạm. Từ cách đặt vấn đề, trên cơ sở phân tích các đấu hiệu của các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân và các định nghĩa khác nhau về các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân; chúng tôi nêu khái niệm các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân như sau: Các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân là những hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định tại Chương XXIII Bộ luật hình sự, do những người sau đây có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố
  • 22. 21 ý hoặc vô ý, xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân: quân nhân tại ngũ; quân nhân dự bị trong thời gian tập trung huấn luyện; công dân được trưng tập vào phục vụ trong quân đội; dân quân, tự vệ phối thuộc với quân đội trong chiến đấu hoặc phục vụ chiến đấu. Khái niệm các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân nêu trên vừa thể hiện các dấu hiệu chung của khái niệm tội phạm được quy định tại Điều 8 Bộ luật hình sự vừa thể hiện các dấu hiệu đặc thù (là cơ sở để quy định) các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân thành một nhóm tội phạm riêng, một phần trong thể thống nhất của Bộ luật hình sự Việt Nam. 1.2. cơ sở Trách nhiệm hình sự của các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân 1.2.1. Khái niệm cơ sở trách nhiệm hình sự của các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân Khi bàn về cơ sở trách nhiệm hình sự, trong khoa học luật hình sự của Liên Xô trước đây và Liên bang Nga hiện nay, về mặt nội dung có các quan điểm coi cơ sở của trách nhiệm hình sự là: lỗi; cấu thành tội phạm; tội phạm; hành vi có các dấu hiệu của cấu thành tội phạm; mối quan hệ nhân quả; việc thực hiện tội phạm- hành vi xử sự trái pháp luật cụ thể của con người; hành vi (bằng hành động hoặc không hành động) nguy hiểm cho xã hội, có tính chất lỗi, trái pháp luật, tức là tội phạm mà các dấu hiệu của nó có trong điều tương ứng của Phần riêng Bộ luật hình sự; khi có cấu thành tội phạm trong hành vi nguy hiểm cho xã hội; việc xác định cấu thành tội phạm trong hành vi của người có tội v.v…[11, tr.628]. Trong khoa học luật hình sự Việt Nam cũng có các quan điểm khác nhau về cơ sở trách nhiệm hình sự. GS. TSKH Đào Trí úc cho rằng, cơ sở của trách nhiệm hình sự là “sự hiện diện của tất cả những dấu hiệu do luật định về tội phạm”[95, tr.43]; PGS. TS. Trần Văn Độ cho rằng, cơ
  • 23. 22 sở của trách nhiệm hình sự là “tội phạm (tức hành vi nguy hiểm cho xã hội chứa đựng các yếu tố của cấu thành tội phạm)” [18, tr.182]; GS. TS. Đỗ Ngọc Quang cho rằng, cơ sở của trách nhiệm hình sự là “hành vi của một người khi thoả mãn các dấu hiệu cấu thành tội phạm được quy định trong luật hình sự”[40, tr.18]; GS. TS. Nguyễn Ngọc Hoà cho rằng, “cấu thành tội phạm trong luật hình sự được coi là cơ sở pháp lý và sự thoả mãn cấu thành tội phạm là điều kiện cần và đủ của trách nhiệm hình sự”[29, tr.9-10]. Trên cơ sở khoa học và cơ sở pháp lý quy định tại Điều 2 Bộ luật hình sự hiện hành “Chỉ người nào phạm một tội đã được Bộ luật hình sự quy định mới phải chịu trách nhiệm hình sự”[45, tr.15]. Từ kết quả của việc phân tích các quan điểm của các nhà khoa học pháp lý hình sự về cơ sở của trách nhiệm hình sự, chúng tôi đồng tình với quan điểm cho rằng, tội phạm (tức hành vi nguy hiểm cho xã hội chứa đựng các yếu tố của cấu thành tội phạm) là cơ sở của trách nhiệm hình sự. Vậy cơ sở trách nhiệm hình sự của các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân là gì? Để giải đáp câu hỏi này, chúng tôi đồng tình với GS. TSKH Lê Cảm là về mặt phương pháp luật cần phải hiểu cơ sở trách nhiệm hình sự của các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân trên cả ba bình diện: về mặt nội dung (khách quan); về mặt hình thức; và về mặt quy phạm [11, tr.626]. Trong đó: - Về nội dung, không phải tất cả những hành vi nguy hiểm cho xã hội do quân nhân và những người có nghĩa vụ, trách nhiệm như quân nhân thực hiện mà luật hình sự quy định là tội phạm thì đều là những tội phạm cụ thể xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân. Bởi lẽ, quân nhân vừa có các quyền và nghĩa vụ công dân vừa có nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân. Cho nên, mặc dù bị luật hình sự quy định là tội phạm nhưng những hành vi nguy hiểm cho xã hội do quân nhân và những người có nghĩa vụ, trách nhiệm như
  • 24. 23 quân nhân thực hiện xâm phạm nghĩa vụ công dân không bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội phạm cụ thể xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân mà bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội phạm khác. Ví dụ: Hành vi giết người, cướp tài sản, tham ô tài sản, buôn lậu…do quân nhân và những người có nghĩa vụ, trách nhiệm như quân nhân thực hiện là những hành vi xâm phạm nghĩa vụ công dân. Cho nên, những hành vi đó không bị coi là phạm tội cụ thể xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân mà bị coi là phạm tội giết người, tội cướp tài sản, tội tham ô tài sản, tội buôn lậu… Còn những hành vi nguy hiểm cho xã hội do quân nhân và những người có nghĩa vụ, trách nhiệm như quân nhân thực hiện xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân mà luật hình sự quy định là tội phạm thì đều là tội phạm cụ thể xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân. Ví dụ: Hành vi chống mệnh lệnh, đào ngũ, đầu hàng địch…do quân nhân và những người có nghĩa vụ, trách nhiệm như quân nhân thực hiện là những hành vi xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân. Cho nên, những hành vi đó bị coi là phạm tội cụ thể xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân như tội chống mệnh lệnh, tội đào ngũ, tội đầu hàng địch… Từ những lập luận nêu trên, về mặt nội dung có thể đưa ra khái niệm cơ sở khách quan của trách nhiệm hình sự của các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân như sau: Cơ sở trách nhiệm hình sự của các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân là việc thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội mà luật hình sự quy định là tội phạm cụ thể xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân. - Về mặt hình thức, thì xuất phát từ việc phân tích khái niệm cơ sở hình thức của trách nhiệm hình sự của các nhà khoa học, chúng tôi đồng tình với
  • 25. 24 quan điểm của GS.TSKH Lê Cảm [11, tr.632] cho rằng, cơ sở hình thức của trách nhiệm hình sự của các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân là căn cứ chung, có tính chất bắt buộc và do pháp luật quy định. Bởi lẽ, hành vi khách quan của mỗi tội phạm cụ thể xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm do pháp luật hình sự quy định là căn cứ chung, yêu cầu bắt buộc đối với việc truy cứu trách nhiệm hình sự những hành vi cụ thể xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân thoả mãn những dấu hiệu được mô tả trong pháp luật hình sự. Ví dụ: Hành vi đi khỏi đơn vị, nơi công tác, nơi điều trị, điều dưỡng, hành vi không trở lại đơn vị sau khi đi phép, đi công tác, đi điều trị, điều đưỡng và hành vi không đến đơn vị mới (khi được chuyển đơn vị), không đến nơi công tác, nơi điều trị, điều dưỡng đều là những biểu hiện cụ thể của hành vi đào ngũ. Như vậy, “đào ngũ” là căn cứ chung do pháp luật hình sự quy định và chỉ có thể dựa vào đó mà có thể đặt vấn đề truy cứu trách nhiệm hình sự các hành vi nêu trên về tội đào ngũ. Vì vậy, có thể khái niệm cơ sở hình thức của trách nhiệm hình sự của các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân như sau: Cơ sở trách nhiệm hình sự của các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân là căn cứ chung, có tính chất bắt buộc và do luật hình sự quy định mà cơ quan Nhà nước có thẩm quyền phải dựa vào đó để truy cứu trách nhiệm hình sự người đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân bị luật hình sự cấm. - Về mặt quy phạm, trên cơ sở pháp lý quy định tại Điều 2 Bộ luật hình sự hiện hành, chúng tôi cho rằng chỉ hành vi có đầy đủ các yếu tố cấu thành một tội phạm cụ thể xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân được ghi nhận tại Chương XXIII “Các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm hình sự
  • 26. 25 của quân nhân” Bộ luật hình sự mới bị truy cứu trách nhiệm hình sự về loại tội phạm này. Cho nên, có thể đưa ra khái niệm cơ sở pháp lý của trách nhiệm hình sự của các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân như sau: Cơ sở trách nhiệm hình sự của các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân là cấu thành tội phạm các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân được ghi nhận trong luật hình sự. 1.2.2. Cấu thành tội phạm của các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân Cấu thành tội phạm của các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân là kết quả của sự phản ánh các tội phạm này trong luật hình sự, bao gồm các yếu tố khách thể, chủ thể, mặt khách quan và mặt chủ quan của các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân. - Khách thể của các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân là khách thể loại của tội phạm, tức là khách thể của một nhóm tội phạm trong Bộ luật hình sự. Khi nghiên cứu về khách thể của tội phạm, thì đa số các nhà khoa học luật hình sự cho rằng, khách thể của tội phạm là các quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ và bị tội phạm xâm hại [11, tr.343, 18, tr.184, 29, tr.46, 95, tr.79]. Nhưng khi bàn về khách thể của các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân, còn có nhiều quan điểm khác nhau. Trong khoa học luật hình sự nước ngoài có một số quan điểm khác nhau về khách thể của các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân: GS. TS. Axmetsina X. M. cho rằng, khách thể loại của tất cả các tội phạm quân sự là trật tự phục vụ quân đội được quy định trong Lực lượng vũ trang [99, tr. 14]. PGS. TS. Prôcôpvich E. V. cho rằng, khách thể loại của các tội phạm quân sự là trật tự phục vụ quân đội - là tổng thể các quan hệ xã hội
  • 27. 26 bảo đảm cho Lực lượng vũ trang (nói chung) thực hiện chức năng của mình một cách bình thường và các bộ phận của nó (nói riêng) thực hiện tốt nhiệm vụ của mình [101, tr. 564]. GS. TS. Ter- Akôpôb A. A. thì cho rằng, khách thể loại của các tội xâm phạm chế độ phục vụ quân sự là trật tự phục vụ quân đội - là các quan hệ xã hội tồn tại trong Lực lượng vũ trang bảo đảm cho chúng thực hiện thắng lợi nhiệm vụ bảo vệ nhà nước [104, tr. 330]. Còn các nhà lập pháp nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa, thì cho rằng khách thể của tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân là lợi ích quân sự quốc gia [15, tr. 67]. Phân tích các quan điểm nêu trên, chúng tôi thấy dù được định nghĩa theo cách nào, thì nội dung cốt lõi của khách thể loại của các tội phạm quân sự hay các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân cũng là chế độ phục vụ trong quân đội và sức mạnh của quân đội trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình. Trong khoa học luật hình sự Việt Nam cũng có một số quan điểm khác nhau về khách thể của các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân. Quan điểm thứ nhất cho rằng, “các quy định của pháp luật Nhà nước, của điều lệnh, điều lệ của quân đội về chức năng, nhiệm vụ, cơ quan, tổ chức, quân đội, trách nhiệm, nghĩa vụ của quân nhân, các chế độ, quy tắc, nội quy, quy định về trình tự, thủ tục công tác của quân nhân làm cơ sở pháp lý phục vụ cho việc xây dựng, củng cố, phát triển sức mạnh tổng hợp của quân đội đều là khách thể loại của các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân”[57, tr. 82]. Quan điểm thứ hai cho rằng, “khách thể của các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân là các quan hệ xã hội tồn tại trong quân đội giữa các quân nhân và giữa họ với những người không phải là quân nhân trong khi thực hiện nhiệm vụ quân sự, huấn luyện quân sự, phối thuộc chiến đấu hoặc phục vụ chiến đấu”[7, tr. 61- 62]. Quan điểm thứ ba
  • 28. 27 cho rằng, “khách thể của các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân chính là sức mạnh, khả năng sẵn sàng chiến đấu của quân đội và chế độ phục vụ trong quân đội”[36, tr. 798]. Quan điểm thứ tư cho rằng,“khách thể loại của các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân là sức mạnh, trình độ sẵn sàng chiến đấu và chế độ phục vụ trong quân đội”[20, tr. 393- 394]. Nghiên cứu các quan điểm nêu trên, chúng tôi thấy: các quy định của pháp luật Nhà nước, của điều lệnh, điều lệ quân đội chỉ là hình thức biểu hiện của các quy phạm pháp luật và quy phạm hành chính quân sự mà nội dung của nó là quy định về tổ chức, chức năng, nhiệm vụ của quân đội; nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân tại ngũ, quân nhân dự bị trong thời gian tập trung huấn luyện, công dân được trưng tập vào phục vụ trong quân đội, dân quân, tự vệ phối thuộc với quân đội trong chiến đấu hoặc phục vụ chiến đấu; các chế độ, quy tắc, nội quy, quy định về trình tự, thủ tục công tác của các đối tượng nêu trên. Do vậy, các quy định của pháp luật Nhà nước, của điều lệnh, điều lệ của quân đội không thể là khách thể loại của các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân. Cách định nghĩa thứ hai về khách thể của các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân là cách nói thổng quát theo giáo trình và mới chỉ dừng lại ở việc nêu môi trường tồn tại các quan hệ xã hội bị các tội phạm này xâm hại và quan hệ đó là quan hệ giữa quân nhân với nhau và giữa họ với những người không phải là quân nhân trong khi thực hiện nhiệm vụ quân sự, huấn luyện quân sự, phối thuộc chiến đấu hoặc phục vụ chiến đấu mà chưa nêu được quan hệ xã hội bị các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân xâm phạm còn là quan hệ giữa đơn vị quân đội với những người là chủ thể của các tội phạm này. Bởi lẽ, khách thể trực tiếp của các tội chống mệnh lệnh, tội chấp hành không nghiêm chỉnh mệnh lệnh, tội bỏ vị trí chiến đấu, tội đào ngũ, tội trốn tránh nhiệm vụ... là quan hệ xã hội giữa đơn vị quân đội mà
  • 29. 28 những người phải chịu trách nhiệm hình sự về các tội phạm này thuộc biên chế, được trưng tập, phối thuộc chiến đấu hoặc phục vụ chiến đấu với họ. Cách định nghĩa thứ ba và thứ tư gần giống hệt nhau và đều xuất phát từ bản chất pháp lý, nội dung của các quan hệ xã hội bị các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân xâm phạm. Từ cách đặt vấn đề, nghiên cứu các định nghĩa khác nhau cũng như nghiên cứu bản chất khách thể của các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân, chúng tôi có thể khái niệm (về hình thức) khách thể loại của các tội xâm phạm nghĩa vụ trách nhiệm của quân nhân như sau: Khách thể loại của các tội xâm phạm nghĩa vụ trách nhiệm của quân nhân là các quan hệ xã hội tồn tại trong quân đội giữa: đơn vị quân đội với quân nhân trong đơn vị, công dân được trưng tập vào phục vụ trong đơn vị và dân quân, tự vệ phối thuộc với đơn vị trong chiến đấu hoặc phục vụ chiến đấu; quân nhân, công dân (được trưng tập vào phục vụ trong quân đội) và dân quan, tự vệ (phối thuộc với quân đội trong chiến đấu hoặc phục vụ chiến đấu) với nhau. Khách thể của các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân có tính đặc biệt. Tính chất đặc biệt của khách thể các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân thể hiện ở chỗ quan hệ xã hội cùng tính chất bị xâm phạm, nhưng xâm phạm quan hệ đó trong quân đội, đối với quân nhân và những người có nghĩa vụ, trách nhiệm như quân nhân lại tỏ ra nguy hiểm hơn cho xã hội và cần phải đấu tranh phòng chống những hành vi xâm phạm các quan hệ này một cách cao hơn. Cho nên, hành vi xâm phạm quan hệ đó trong quân đội bị coi là phạm tội và được quy định thành tội phạm riêng với chế tài nghiêm khắc hơn; còn hành vi xâm phạm quan hệ đó ngoài quân đội thì không phải là tội phạm mà chỉ bị xử lý kỷ luật. Ví dụ:
  • 30. 29 Ví dụ 1: Xâm phạm quan hệ chỉ huy, phục tùng trong quân đội có tính nguy hiểm cao hơn xâm phạm quan hệ chỉ huy, phục tùng trong các cơ quan, tổ chức ngoài quân đội. Bởi lẽ, xâm phạm các quan hệ chỉ huy, phục tùng bởi hành vi chống mệnh lệnh, chấp hành không nhiêm chỉnh lệnh ảnh hưởng rất lớn đến việc hoàn thành nhiệm vụ của đơn vị, thậm chí phải đổ máu, thiệt hại về người, về của, không giữu được khu vực đóng quân… Cho nên hành vi chống mệnh lệnh, chấp hành không nghiêm chỉnh lệnh do quân nhân và những người có nghĩa vụ, trách nhiệm như quân nhân thực hiện bị coi là phạm tội hình sự; còn hành vi chống lệnh, chấp hành không nhiêm chỉnh lệnh của cán bộ, công chức không bị coi là phạm tội hình sự. Ví dụ 2: Xâm phạm chế độ, quy định về bảo đảm bí mật công tác quân sự, đặc biệt là bí mật quân sự về phòng thủ, kế hoạch chiến đấu là yêu cầu sống còn của hoạt động quân sự có thể gây thiệt hại rất lớn, đôi khi dẫn tới việc thất bại trong chiến đấu và tổ chức chiến đấu, thậm chí có thể bị trả giá bằng tính mạng, vũ khí, trang bị kỹ thuật. Do vậy, xâm phạm chế độ, quy định về bảo đảm bí mật công tác quân sự bởi các hành vi cố ý hoặc vô ý làm lộ bí mật công tác quân sự, chiếm đoạt, mua bán, tiêu huỷ hoặc làm mất tài liệu bí mật công tác quân sự đều bị coi là phạm tội. Còn xâm phạm chế độ, quy định về bảo đảm bí mật công tác bởi các hành vi cố ý hoặc vô ý làm lộ bí mật công tác, chiếm đoạt, mua bán, tiêu huỷ hoặc làm mất tài liệu bí mật công tác (không thuộc bí mật Nhà nước) do cán bộ, công chức thực hiện không bị coi là phạm tội… Nội dung những quan hệ xã hội nêu trên được quy định trong Luật nghĩa vụ quân sự, Luật về sỹ quan quân đội nhân dân Việt nam, Pháp lệnh bộ đội biên phòng, Pháp lệnh về dân quân tự vệ, Pháp lệnh về lực lượng dự bị động viên, Điều lệnh quản lý bộ đội, Điều lệ quân nhân chuyên nghiệp... Nghiên cứu nội dung quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ thông qua việc
  • 31. 30 quy định các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân chúng tôi thấy: Nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân, công dân được trưng tập vào phục vụ trong quân đội, dân quân, tự vệ khi phối thuộc với đơn vị quân đội chiến đấu hoặc phục vụ chiến đấu như: nghĩa vụ chấp hành mệnh lệnh của người chỉ huy hoặc cấp trên; nghĩa vụ chấp hành kỷ luật chiến đấu; nghĩa vụ phải có mặt tại đơn vị để sẵn sàng nhận và thực hiện nhiệm vụ… là khách thể loại của các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân. Bởi lẽ, theo quy định tại Chương XXIII Bộ luật hình sự, thì xâm phạm các nghĩa vụ nêu trên bị coi là phạm tội chống mệnh lệnh, tội chấp hành không nghiêm chỉnh mệnh lệnh, tội đầu hàng địch, tội bỏ vị trí chiến đấu, tội đào ngũ, tội trốn tránh nhiệm vụ… Theo quy định tại các điều từ Điều 319 đến 321 Bộ luật hình sự, thì hành vi xâm phạm sức khoẻ (chưa đến mức bị coi là phạm tội xâm phạm sức khoẻ của người khác), danh dự, nhân phẩm của quân nhân và những người có nghĩa vụ, trách nhiệm như quân nhân bị coi là phạm tội cụ thể xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân. Theo hướng dẫn của các cơ quan có thẩm quyền về các tình tiết định tội, định khung hình phạt (gây hậu quả nghiêm trọng, rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng)[61, tr. 6-7] của các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân, thì tính mạng, sức khoẻ (của quân nhân và những người có nghĩa vụ, trách nhiệm như quân nhân) và quan hệ sở hữu tài sản cũng được coi là khách thể của một số tội phạm cụ thể xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân. Như vậy, tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm (của quân nhân và những người có nghĩa vụ, trách nhiệm như quân nhân), tài sản của Nhà nước và công dân chỉ bị xâm phạm bởi một số tội phạm cụ thể xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân. Cho nên, tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm (của quân nhân và những người có
  • 32. 31 nghĩa vụ, trách nhiệm như quân nhân), tài sản của Nhà nước và công dân không phải là khách thể loại của các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân. Trên cơ sở những phân tích nội dung các quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ thông qua việc quy định các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân, chúng tôi nêu khái niệm (về nội dung) khách thể loại của các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân như sau: Khách thể loại của các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân là các quan hệ xã hội tồn tại trong quân đội, bao gồm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân và những người có nghĩa vụ, trách nhiêm như quân nhân. Khách thể trực tiếp của các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân là quan hệ xã hội cụ thể bị tội phạm cụ thể (xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân) trực tiếp gây thiệt hại hoặc đe doạ gây hại. Bất cứ tội phạm cụ thể nào xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân cũng có khách thể trực tiếp. Nghiên cứu các tội phạm cụ thể xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân, chúng tôi thấy khách thể trực tiếp của loại tội phạm này là quan hệ xã hội về: chỉ huy, phục tùng; đoàn kết nội bộ quân đội; kỷ luật luật chiến đấu; chế độ phục vụ quân sự tại ngũ; chế độ công tác hàng ngày của quân nhân và những người có nghĩa vụ, trách nhiệm như quân nhân; chế độ, quy tắc bảo quản, sử dụng vũ khí, phương tiện kỹ thuật quân sự; và quan hệ đoàn kết quân dân. Trong đó, mỗi quan hệ xã hội là khách thể trực tiếp của một nhóm tội phạm cụ thể xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân. Ví dụ: quan hệ chỉ huy, phục tùng là khách thể trực tiếp của tội chống mệnh lệnh, tội chấp hành không nghiêm chỉnh mệnh lệnh và tội cản trở đồng đội thực hiện nghĩa vụ, trách nhiệm; quan hệ đoàn kết quân dân là khách thể trực tiếp
  • 33. 32 của tội quấy nhiễu nhân dân, tội lạm dụng nhu cầu quân sự trong khi thực hiện nhiệm vụ… Việc xác định khách thể trực tiếp của các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân là căn cứ để chia những hành vi nguy hiểm cho xã hội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân thành những nhóm tội phạm khác nhau. Căn cứ vào khách thể trực tiếp, có thể chia các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân thành bảy nhóm sau đây: + Nhóm 1, các tội xâm phạm quan hệ chỉ huy, phục tùng bao gồm: Tội chống mệnh lệnh; Tội chấp hành không nghiêm chỉnh mệnh lệnh; Tội cản trở đồng đội thực hiện nghĩa vụ, trách nhiệm. + Nhóm 2, các tội xâm phạm quan hệ đoàn kết nội bộ quân đội bao gồm: Tội làm nhục, hành hung người chỉ huy hoặc cấp trên; Tội làm nhục hoặc dùng nhục hình đối với cấp dưới; Tội làm nhục, hành hung đồng đội. + Nhóm 3, các tội xâm phạm chế độ kỷ luật chiến đấu bao gồm: Tội đầu hàng địch; Tội khai báo hoặc tự nguyện làm việc cho địch khi bị bắt làm tù binh; Tội bỏ vị trí chiến đấu; Tội vi phạm chính sách đối với thương binh, tử sỹ trong chiến đấu; Tội chiếm đoạt hoặc huỷ hoại chiến lợi phẩm; Tội ngược đãi tù binh, hàng binh. + Nhóm 4, các tội xâm phạm chế độ thực hiện nghĩa vụ quân sự tại ngũ bao gồm: Tội đào ngũ; Tội trốn tránh nhiệm vụ. + Nhóm 5, các tội xâm phạm chế độ công tác hàng ngày của quân nhân bao gồm: Tội cố ý làm lộ bí mật công tác quân sự; Tội chiếm đoạt, mua bán hoặc tiêu huỷ tài liệu bí mật công tác quân sự; Tội vô ý làm lộ bí mật công tác quân sự; Tội làm mất tài liệu bí mật công tác quân sự; Tội báo cáo sai; Tội vi phạm các quy định về trực chiến, trực chỉ huy, trực ban; Tội vi phạm các quy
  • 34. 33 định về bảo vệ; Tội vi phạm các quy định về bảo đảm an toàn trong chiến đấu hoặc trong huấn luyện. + Nhóm 6, các tội xâm phạm chế độ, quy tắc bảo quản, sử dụng vũ khí, phương tiện kỹ thuật quân sự bao gồm: Tội vi phạm quy định về sử dụng vũ khí quân dụng; Tội huỷ hoại vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự; Tội làm mất hoặc vô ý làm hư hỏng vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự. + Nhóm 7, các tội xâm phạm quan hệ đoàn kết quân, dân bao gồm: Tội quấy nhiễu nhân dân; Tội lạm dụng nhu cầu quân sự trong khi thực hiện nhiệm vụ. Tuy nhiên, cách chia các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân theo căn cứ này chỉ có tính chất tương đối và để nghiên cứu các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân trong Bộ luật hình sự năm 1999 (được trình bày ở Chương II của Luận án) một cách có hệ thống. Bởi lẽ, theo căn cứ nêu trên thì tội vi phạm các quy định về bảo đảm an toàn trong chiến đấu hoặc trong huấn luyện vừa thuộc nhóm tội xâm phạm chế độ công tác hàng ngày của quân nhân vừa thuộc nhóm tội xâm phạm chế độ kỷ luật chiến đấu. Mặt khác, “phạm tội trong chiến đấu” còn được quy định là tình tiết định khung hình phạt của hầu hết các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân... Đối tượng tác động của các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân là bộ phận của khách thể của nhóm tội phạm này, bị hành vi phạm tội tác động đến để gây thiệt hại hoặc đe doạ gây thiệt hại cho những quan hệ xã hội được Luật hình sự bảo vệ [27, tr. 84]. Đối tượng của tội phạm cụ thể xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân có thể: là con người như tội cản trở đồng đội thực hiện nghĩa vụ, trách nhiệm, tội làm nhục, hành hung
  • 35. 34 người chỉ huy hoặc cấp trên (cấp dưới, đồng đội), tội ngược đãi tù binh, hàng binh; là vũ khí, phương tiện kỹ thuật quân sự như tội huỷ hoại vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự, tội làm mất hoặc vô ý làm hư hỏng vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự; là những công việc cụ thể phải làm hoặc không được làm như tội chống mệnh lệnh, tội chấp hành không nghiêm chỉnh mệnh lệnh; là hoạt động bình thường của các đơn vị quân đội như tội đào ngũ, tội trốn tránh nhiệm vụ, tội vi phạm các quy định về trực chiến, trực chỉ huy, trực ban, tội vi phạm các quy định về bảo vệ; là bí mật công tác quân sự, tài liệu bí mật công tác quân sự như tội cố ý làm lộ bí mật công tác quân sự, tội chiếm đoạt, mua bán hoặc tiêu huỷ tài liệu bí mật công tác quân sự, tội vô ý làm lộ bí mật công tác quân sự, tội làm mất tài liệu bí mật công tác quân sự… Trong đó, những công việc cụ thể phải làm hoặc không được làm và hoạt động bình thường của các đơn vị quân đội có thể nói chung bằng một cụm từ là “hoạt động theo chức trách của quân nhân và những người có nghĩa vụ, trách nhiệm như quân nhân”. Từ những phân tích nêu trên có thể nêu khái niệm đối tượng tác động của các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân như sau: Đối tượng tác động của các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân là bộ phận của khách thể của nhóm tội phạm này, bị hành vi phạm tội tác động đến để gây thiệt hại hoặc đe doạ gây thiệt hại cho những quan hệ xã hội được Luật hình sự bảo vệ thông qua việc quy định các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân, bao gồm: hoạt động theo chức trách của quân nhân và những người có nghĩa vụ, trách nhiệm như quân nhân; vũ khí, phương tiện kỹ thuật quân sự; bí mật quân sự, tài liệu bí mật quân sự. - Mặt khách quan của các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân là những biểu hiện của các tội phạm này diễn ra bên ngoài, là
  • 36. 35 những yếu tố thuộc về thế giới khách quan. Tuy nhiên, những biểu hiện ra bên ngoài của các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân tồn tại ở thế giới khách quan được thể hiện bởi những dấu hiệu nào, thì còn có nhiều quan điểm khác nhau. Theo PGS. TS. Prôcôpvich E. V. thì mặt khách quan của các tội phạm quân sự được thể hiện bởi các hành vi (hành động hoặc không hành động) nguy hiểm cho xã hội; và nhiều tội phạm cụ thể xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân đòi hỏi các dấu hiệu thời gian, địa điểm, thủ đoạn và hoàn cảnh phạm tội là dấu hiệu định tội hoặc định khung hình phạt [103, tr. 565]. Theo các tác giả Lê Đức Tiết, Lê Thanh Trung, Nguyễn Hữu Hùng và Nguyễn Văn Hợp, thì mặt khách quan của các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân là sự thể hiện dưới dạng hành vi nhất định (hành động hoặc không hành động phạm tội)[57, tr. 82]. Còn theo PGS. TS. Trần Văn Độ và TS. Nguyễn Đức Mai, thì mặt khách quan của các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân được thể hiện bởi hành vi (hành động hoặc không hành động) nguy hiểm cho xã hội xâm phạm kỷ luật, sức mạnh chiến đấu, chế độ phục vụ, chế độ công tác trong quân đội; thời gian, địa điểm, hoàn cảnh phạm tội [20, tr.394-395, 36, tr. 799- 800]. Như vậy, các nhà khoa học pháp lý hình sự đều thống nhất dấu hiệu về mặt khách quan của các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân bao gồm: hành vi nguy hiểm cho xã hội, thời gian, địa điểm, hoàn cảnh phạm tội. Nghiên cứu các dấu hiệu thuộc mặt khách quan của các tội phạm cụ thể xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân, chúng tôi thấy: + Hành vi khách quan là dấu hiệu bắt buộc thuộc mặt khách quan của tất cả các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân. Trong luật hình sự, hành vi được hiểu là những biểu hiện của con người ra bên ngoài thế giới khách quan dưới những hình thức cụ thể nhằm đạt những mục đích có chủ định và có mong muốn [30, tr.94]. Theo quy định của Bộ luật hình sự, thì tội
  • 37. 36 phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội và được quy định trong Bộ luật hình sự. Do vậy, hành vi khách quan của các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân có các đặc điểm: có tính nguy hiểm cho xã hội; là hoạt động có ý thức và ý chí; có tính trái pháp luật hình sự. Đối với những hành vi xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân tuy có dấu hiệu của tội phạm, nhưng tính chất nguy hiểm cho xã hội không đáng kể, thì không phải là tội phạm và được xử lý bằng biện pháp kỷ luật quân đội. Việc phân biệt hành vi phạm tội cụ thể xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân với hành vi xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân chưa đến mức bị coi là tội phạm được thực hiện theo Quyết định số 2530/2000/QĐ-BQP ngày 02/11/2000 của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng quy định về xử lý kỷ luật đối với những hành vi vi phạm chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự. Hành vi khách quan của các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân có thể được mô tả hoặc chỉ được nêu tên trong điều luật cụ thể của Chương XXIII “Các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân” Bộ luật hình sự hiện hành dưới dạng hành động hoặc không hành động. Đa số các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân được thực hiện bằng hành động và không hành động phạm tội. Tuy nhiên, có một số ít tội phạm chỉ được thực hiện bằng hành động như: Tội làm nhục, hành hung người chỉ huy; Tội làm nhục, hành hung đồng đội; Tội khai báo hoặc tự nguyện làm việc cho địch khi bị bắt làm tù binh; Tội báo cáo sai; Tội huỷ hoại vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự; Tội chiếm đoạt hoặc huỷ hoại chiến lợi phẩm. Chuẩn bị phạm tội cụ thể xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân và phạm tội chưa đạt xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân là những trường hợp chưa thực hiện đến cùng hành vi phạm tội nhưng vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự. Bởi lẽ, về khách quan, người phạm tội đã có hành vi nguy hiểm cho xã hội và về chủ quan, việc dừng lại ở giai đoạn chuẩn bị hay
  • 38. 37 chưa đạt là do nguyên nhân ngoài ý muốn, còn bản thân người phạm tội vẫn mong muốn thực hiện tội phạm đến cùng [26, tr.152]. Người chuẩn bị phạm tội, người phạm tội chưa đạt và người phạm tội hoàn thành xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân phải chịu trách nhiệm hình sự về cùng một tội danh, cùng một khung hình phạt được quy định tại cùng một điều luật của Chương “Các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân” của Bộ luật hình sự. Nhưng theo quy định của Bộ luật hình sự, thì mức độ trách nhiệm hình sự của các trường hợp chuẩm bị phạm tội, phạm tội chưa đạt, phạm tội hoàn thành xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân không giống nhau. Bởi lẽ, theo quy định tại các Điều 17 và 18 Bộ luật hình sự, thì: chỉ người nào chuẩn bị phạm một tội rất nghiêm trọng hoặc một tội đặc biệt nghiêm trọng xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân mới phải chịu trách nhiệm hình sự; người phạm tội chưa đạt phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm (ít nghiêm trọng, nghiêm trọng, rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng) chưa đạt. Và theo quy định tại khoản 2 và 3 Điều 52 Bộ luật hình sự, thì: đối với trường hợp chuẩn bị phạm tội (rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng) xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân, thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng là không quá hai mươi năm tù (nếu điều luật được áp dụng có quy định hình phạt cao nhất là tù chung thân hoặc tử hình) và không quá một phần hai mức hình phạt mà điều luật quy định (nếu điều luật được áp dụng có quy định hình phạt cao nhất là tù có thời hạn); đối với trường hợp phạm tội chưa đạt xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân, thì có thể áp dụng hình phạt tù chung thân hoặc tử hình trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng (nếu điều luật được áp dụng có quy định hình phạt cao nhất là tù chung thân hoặc tử hình) và mức hình không quá ba phần tư mức hình phạt mà điều luật
  • 39. 38 quy định (nếu điều luật được áp dụng có quy định hình phạt cao nhất là tù có thời hạn). + Hậu quả của các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân là thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra cho khách thể của các tội phạm này. Thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra cho khách thể của các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân thể hiện bởi sự biến đổi tình trạng bình thường của các bộ phận cấu thành khách thể của nhóm tội phạm này. Bất cứ tội phạm cụ thể nào xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân cũng có thể gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội và sự biến đổi tình trạng bình thường của đối tượng tác động [30, tr. 102] của các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân. Nhưng không phải tất cả các cấu thành tội phạm của các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân đều phản ánh dấu hiệu “hậu quả nguy hiểm cho xã hội”. Nghiên cứu các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân, chúng tôi thấy: Hậu quả nguy hiểm cho xã hội là dấu hiệu bắt buộc của các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân có cấu thành vật chất như: Tội chấp hành không nghiêm chỉnh mệnh lệnh; Tội báo cáo sai; Tội vi phạm các quy định về trực chiến, trực chỉ huy, trực ban; Tội vi phạm các quy định về bảo vệ; Tội vi phạm các quy định về bảo đảm an toàn trong chiến đấu hoặc trong huấn luyện; Tội vi phạm các quy định về sử dụng vũ khí quân dụng; Tội huỷ hoại vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự; Tội làm mất hoặc vô ý làm hư hỏng vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự; Tội vi phạm chính sách đối với thương binh, tử sĩ trong chiến đấu; Tội lạm dụng nhu cầu quân sự trong khi thực hiện nhiệm vụ. Để truy cứu trách nhiệm hình sự về hầu hết các tội phạm này, thì hậu quả do hành vi phạm tội gây ra phải là hậu quả nghiêm trọng. Riêng đối với tội huỷ hoại vũ khí, thì chỉ cần có thiệt hại (vũ khí bị huỷ hoại hoặc bị mất) là đủ để truy cứu trách nhiệm hình sự; còn trường hợp số lượng vũ
  • 40. 39 khí bị mất hoặc bị huỷ hoại (bị coi là thiệt hại nghiêm trọng) thì bị coi là tình tiết định khung hình phạt của tội phạm này. Bởi lẽ, theo quy định tại Thông tư liên tịch số 01/2003/TTLT-TANDTC- VKSNDTC- BCA-BTP-BQP ngày 11/8/2003 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp và Bộ Quốc phòng hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XXIII “Các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân” của Bộ luật hình sự năm 1999, thì chỉ các trường hợp huỷ hoại hoặc làm mất số lượng vũ khí sau đây mới bị coi là gây thiệt hại nghiêm trọng: từ 3 đến 10 khẩu súng ngắn, súng trường, súng tiểu liên; từ 1 đến 5 khẩu súng bộ binh khác như trung liên, đại liên, súng máy cao xạ 12,7 ly đến 25 ly, súng B40, B41; từ 5 đến 15 quả mìn, lựu đạn; từ 3 đến 10 quả đạn cối, đạn pháo; từ 300 đến 1.000 viên đạn bộ binh cỡ 11,43 ly trở xuống; từ 200 đến 600 viên đạn súng máy cao xạ cỡ 12,7 ly đến 25 ly; từ 10 đến 30 kg thuốc nổ các loại; từ 1.000 đến 3.000 nụ xuỳ hoặc ống nổ; từ 3.000 đến 10.000 m dây cháy chậm, dây nổ v.v…[61, tr. 7]. Như vậy, trường hợp gây thiệt hại dưới mức nêu trên thì không bị coi là gây thiệt hại nghiêm trọng và không bị xử phạt theo quy định tại khoản 2 mà chỉ bị xử phạt theo quy định tại khoản 1 Điều 334 Bộ luật hình sự. Tính chất và mức độ của hậu quả do hành vi phạm tội cụ thể xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân gây ra được xác định bởi: tính chất và mức độ biến đổi đối tượng tác động của tội phạm; hoặc những đặc điểm (về chất và lượng) của chính đối tượng tác động đã bị hành vi xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân làm biến đổi tình trạng. Tính chất và mức độ của hậu quả do hành vi phạm tội cụ thể xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân gây ra là căn cứ để chia các tội phạm này thành: tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
  • 41. 40 Việc chia các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân thành các tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng có ý nghĩa rất lớn đối với việc áp dụng các quy định của Phần chung của Bộ luật hình sự về nguyên tắc xử lý, tuổi chịu trách nhiệm hình sự, thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự, điều kiện áp dụng một số loại hình phạt đối với người phạm tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân… Vì hậu quả phải do hành vi phạm tội gây ra, tức là có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi nguy hiểm cho xã hội và hậu quả của tội phạm [61, tr. 7]. Cho nên, phải coi mối quan hệ nhân quả giữa hành vi nguy hiểm cho xã hội và hậu quả của tội phạm cũng là dấu hiệu thuộc mặt khách quan của các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân (nêu trên) có cấu thành tội phạm vật chất. + Thời gian, địa điểm, hoàn cảnh phạm tội được Bộ luật hình sự quy định là những tình tiết định tội hoặc định khung hình phạt của một số tội phạm cụ thể xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân. Trong đó: Thời gian phạm tội cụ thể xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân là thời kỳ cụ thể phản ảnh bằng các sự khiện chính trị- quân sự. Các yếu tố thuộc thời gian phạm tội được quy định tại Chương các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân là “phạm tội trong thời chiến”, “phạm tội trong chiến đấu”. Phạm tội trong thời chiến là phạm tội trong khoảng thời gian đang có chiến tranh ở nước ta [61, tr. 7], được quy định là tình tiết định khung hình phạt của tội trốn tránh nhiệm vụ. Phạm tội trong chiến đấu là phạm tội trong thời gian người phạm tội đang trực tiếp chiến đấu hoặc phục vụ chiến đấu [61, tr. 6], được quy định: là tình tiết định tội của tội đầu hàng địch, tội bỏ vị trí chiến đấu và tội vi phạm các quy định về bảo đảm an toàn trong chiến đấu; là tình tiết định khung của tội
  • 42. 41 chống mệnh lệnh, tội chấp hành không nghiêm chỉnh mệnh lệnh, tội cản trở đồng đội thực hiện nghĩa vụ, trách nhiệm, tội vi phạm các quy định về trực chiến, trực chỉ huy, trực ban và tội huỷ hoại vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự. Địa điểm phạm tội cụ thể xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân được hiểu là khu vực lãnh thổ nhất định mà ở đó có sự kiện phạm tội xảy ra. Tại Chương “Các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân” của Bộ luật hình sự quy định “phạm tội trong khu vực có chiến sự”, “phạm tội trong khu vực đã có lệnh ban bố tình trạng khẩn cấp” là các yếu tố thuộc về địa điểm phạm tội. Phạm tội trong khu vực có chiến sự là phạm tội trong khu vực đang có các hoạt động tác chiến giữa ta và địch [61, tr. 6], được quy là tình tiết định khung hình phạt của tội chống mệnh lệnh, tội chấp hành không nghiêm chỉnh mệnh lệnh, tội cản trở đồng đội thực hiện nghĩa vụ, trách nhiệm, tội vi phạm các quy định về sử dụng vũ khí quân dụng, tội huỷ hoại vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự, tội quấy nhiễu nhân dân. Phạm tội trong khu vực đã có lệnh ban bố tình trạng khẩn cấp được quy định là tình tiết định khung hình phạt của tội quấy nhiễu nhân dân. Hoàn cảnh phạm tội cụ thể xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân được hiểu là một trong những điều kiện khách quan mà trong đó tội phạm xảy ra, được người phạm tội sử dụng để đạt được mục đích phạm tội của mình hoặc là sự tập trung các tình tiết cho thấy tính nguy hiểm cho xã hội lớn hay nhỏ của tội phạm hay của người phạm tội [11, tr. 376]. Các yếu tố thuộc hoàn cảnh phạm tội được quy định tại Chương “Các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân” của Bộ luật hình sự là “khi bị bắt làm tù binh”, “khi thu dọn chiến trường” và “khi thực hiện nhiệm vụ”. Phạm tội “khi bị bắt làm tù binh” được quy định là tình tiết định tội của tội khai báo hoặc tự nguyện làm việc cho địch khi bị bắt làm tù binh. Phạm tội “khi thu dọn chiến