SlideShare a Scribd company logo
1 of 182
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
NGUYỄN THỊ LAN
NỮ TRÍ THỨC TRONG CÁC TRƯỜNG CHÍNH TRỊ
TỈNH, THÀNH PHỐ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC
HÀ NỘI - 2017
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
NGUYỄN THỊ LAN
NỮ TRÍ THỨC TRONG CÁC TRƯỜNG CHÍNH TRỊ
TỈNH, THÀNH PHỐ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC
Mã số: 62 22 03 08
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. ĐỖ THỊ THẠCH
HÀ NỘI - 2017
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực,
có nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo quy định.
Tác giả
Nguyễn Thị Lan
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ
TÀI LUẬN ÁN 7
1.1. Những công trình nghiên cứu ở trong nước có liên quan đến đề tài luận án 7
1.2. Những công trình nghiên cứu ở nước ngoài có liên quan đến luận án 22
1.3. Đánh giá những công trình tổng quan và những vấn đề luận án tiếp tục
làm sáng tỏ 26
Chương 2: ĐẶC ĐIỂM, VAI TRÒ VÀ NHỮNG YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN
NỮ TRÍ THỨCTRONG CÁC TRƯỜNG CHÍNH TRỊ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 31
2.1. Quan niệm về nữ trí thức, nữ trí thức trong các trường chính trị ở Việt Nam 31
2.2. Đặc điểm và vai trò của nữ trí thức trong các trường chính trị ở Việt Nam
hiện nay 35
2.3. Những yếu tố tác động đến vai trò của nữ trí thức trong các trường chính trị 55
Chương 3: THỰC TRẠNG THỰC HIỆN VAI TRÒ CỦA NỮ TRÍ THỨC
TRONG CÁC TRƯỜNG CHÍNH TRỊ VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA
HIỆN NAY 68
3.1. Thực trạng thực hiện vai trò của nữ trí thức trong các trường chính trị
hiện nay 68
3.2. Những vấn đề đặt ra đối với phát huy vai trò nữ trí thức trong các trường
chính trị hiện nay 97
Chương 4: QUAN ĐIỂM CƠ BẢN VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM PHÁT
HUY VAI TRÒ NỮ TRÍ THỨC TRONG CÁC TRƯỜNG CHÍNH TRỊ Ở
VIỆT NAM HIỆN NAY 114
4.1. Quan điểm cơ bản phát huy vai trò nữ trí thức trong các trường chính trị ở
Việt Nam hiện nay 114
4.2. Những giải pháp chủ yếu nhằm phát huy vai trò của nữ trí thức trong các
trường chính trị hiện nay 121
4.3. Đề xuất một số khuyến nghị 142
KẾT LUẬN 148
DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN
ĐẾN LUẬN ÁN 151
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 152
PHỤ LỤC 164
DANH MỤC CÁC BẢNG
Trang
Bảng 2.1: Một số trường chính trị có tỷ lệ nữ trí thức thấp trong tổng số
đội ngũ trí thức của nhà trường 41
Bảng 2.2: Một số trường chính trị có số lượng nữ trí thức chiếm tỷ lệ cao
trong tổng số đội ngũ trí thức nhà trường 42
Bảng 2.3: Trình độ học vấn của nữ trí thức ở một số trường chính trị
trong cả nước 45
Bảng 3.1: Chức danh giảng dạy của nữ giảng viên ở một số trường
chính trị 69
Bảng 3.2: Nữ trí thức ở một số trường chính trị tham gia các chương
trình đào tạo, bồi dưỡng 72
Bảng 3.3: Số lượng lớp và chất lượng đào tạo, bồi dưỡng của một số
trường chính trị trong năm học 2015 - 2016 77
Bảng 3.4: Số lượng nữ trí thức tham gia đề tài nghiên cứu khoa học cấp
cơ sở ở một số trường chính trị 81
Bảng 3.5: Số lượng nữ trí thức tham gia đề tài nghiên cứu khoa học cấp
tỉnh, thành phố ở một số trường chính trị từ năm 2008 đến 2015 82
Bảng 3.6: Số lượng nam/nữ trí thức tham gia đề tài nghiên cứu khoa học
cấp tỉnh, thành phố ở một số trường chính trị 84
Bảng 3.7: Số lượng nữ trí thức tham gia Ban chấp hành Đảng bộ ở một
số trường chính trị nhiệm kỳ 2010 - 2015 và 2015 - 2020 91
Bảng 3.8: Số lượng nữ trí thức tham gia Ban Giám hiệu ở một số trường
chính trị hiện nay 92
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài luận án
Ở Việt Nam, hiện nay có 63 trường chính trị tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương (sau đây gọi chung là trường chính trị), được Đảng, Nhà nước
giao thực hiện chức năng, nhiệm vụ là tổ chức đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh
đạo, quản lý của hệ thống chính trị cấp cơ sở, cán bộ, công chức ở địa phương
về lý luận chính trị - hành chính; đường lối, các nghị quyết, chỉ thị của Đảng,
chính sách và pháp luật của Nhà nước; kiến thức và chuyên môn, nghiệp vụ
về công tác xây dựng Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể
chính trị - xã hội; kiến thức về pháp luật và quản lý nhà nước và một số lĩnh
vực khác [17].
Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, cùng với sự phát triển đi lên
của đất nước, trong những năm qua hệ thống các trường chính trị đã không
ngừng phát triển, có nhiều đóng góp tích cực, hiệu quả vào sự nghiệp đào tạo,
bồi dưỡng đội ngũ cán bộ trong hệ thống chính trị ở cơ sở, từng bước đáp ứng
yêu cầu đặt ra của sự nghiệp đổi mới đất nước. Những kết quả đạt được trong
việc thực hiện nhiệm vụ chính trị của các trường chính trị tỉnh, thành phố có
sự đóng góp quyết định của đội ngũ trí thức nói chung và nữ trí thức nói riêng
đang làm việc ở các cơ sở đó.
Là một bộ phận chủ lực trong công tác đào tạo, nghiên cứu khoa học,
lãnh đạo, quản lý trong các trường chính trị, trong những năm qua, được sự
quan tâm của các cấp ủy đảng, chính quyền, nhà trường và sự vươn lên của
bản thân, đội ngũ nữ trí thức các trường chính trị không ngừng phát triển cả
về số lượng, cơ cấu và chất lượng. Họ đã và đang làm việc hăng say, nhiệt
huyết với tinh thần, trách nhiệm cao nhất trong thực hiện nhiệm vụ chuyên
môn. Một số chị đã trở thành nhà giáo ưu tú, giáo viên dạy giỏi toàn quốc; có
chị trở thành nhà quản lý giỏi với cương vị là thủ trưởng đơn vị. Hiện nay, nữ
2
trí thức các trường chính trị tham gia công tác lãnh đạo, quản lý từ cấp khoa,
phòng trở lên chiếm trên 20%, trong đó cán bộ quản lý cấp trường chiếm tỷ lệ
khoảng 8%; tỷ lệ có học hàm, học vị cũng được tăng lên,… Những đóng góp
của các chị góp phần không nhỏ vào thành tích to lớn của các nhà trường
trong công tác đào tạo cán bộ của Đảng, nghiên cứu khoa học cấp cơ sở, qua
đó góp phần khẳng định vị thế, vai trò của nữ trí thức Việt Nam nói chung
trong tiến trình xây dựng đất nước.
Tuy nhiên, từ thực tiễn ở các trường chính trị hiện nay, cho thấy, đội
ngũ nữ trí thức ở đây, chưa thực sự phát huy hết tiềm năng, vai trò; chưa đáp
ứng được yêu cầu khách quan của sự nghiệp đào tạo cán bộ lãnh đạo, quản lý
cấp cơ sở cũng như công tác nghiên cứu khoa học phục vụ phát triển kinh tế -
xã hội địa phương. Tỷ lệ nữ trí thức ở các trường chính trị có trình độ đại học
trở lên chiếm ưu thế tuyệt đối (100%), nhưng càng ở bậc cao, tỷ lệ này càng
thấp đi, thậm chí rất thấp (tiến sỹ chỉ khoảng 2%, chỉ có 12,1% nhà giáo ưu
tú, chưa có nữ giáo sư, phó giáo sư...). Số lượng nữ trí thức người dân tộc
thiểu số chiếm tỷ lệ rất thấp. Phần lớn nữ trí thức có trình độ cao đều đã ở tuổi
cao, nữ trí thức trẻ làm lãnh đạo, quản lý nhà trường còn ít. Trình độ ngoại
ngữ, tin học, kiến thức, kỹ năng, năng lực lãnh đạo, quản lý của một bộ phận
không nhỏ nữ trí thức chưa tương xứng với yêu cầu phân cấp quản lý công
việc ở các trường chính trị hiện nay,…
Bất cập trên do nhiều nguyên nhân, như nhận thức xã hội về vai trò của
nữ trí thức chưa có sự công bằng so với nam trí thức; môi trường, điều kiện
làm việc, cơ chế, chính sách có tính đặc thù cho nữ trí thức trong các trường
chính trị còn hạn chế; do sự tự ty, an phận của một bộ phận không nhỏ nữ trí
thức v.v.. Vì vậy, trước yêu cầu của sự nghiệp đào tạo đội ngũ cán bộ cho cấp
cơ sở, nâng cao chất lượng về chuyên môn, nghiệp vụ, cũng như công tác
nghiên cứu khoa học góp phần phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương,… cần
3
phải phát huy vai trò của toàn thể đội ngũ cán bộ các nhà trường, trong đó có
vai trò quan trọng của đông đảo nữ trí thức các trường chính trị là rất cần
thiết, đòi hỏi phải có các giải pháp toàn diện, động bộ, khả thi.
Tuy nhiên, cho đến nay, ở nước ta chưa có một công trình nào nghiên
cứu cụ thể về nữ trí thức trong các trường chính trị. Đây là một khoảng trống
cần nhận được sự quan tâm của các nhà nghiên cứu, của Đảng, Nhà nước, các
địa phương. Là một giảng viên đang giảng dạy tại trường chính trị, tác giả đã
lựa chọn đề tài “Nữ trí thức trong các trường chính trị tỉnh, thành phố ở
Việt Nam hiện nay” làm đề tài luận án tiến sĩ, chuyên ngành Chủ nghĩa xã
hội khoa học với mong muốn góp phần đề xuất các hướng phát triển đội ngũ
nữ trí thức các trường chính trị đáp ứng yêu cầu đào tạo cán bộ của Đảng,
Nhà nước hiện nay.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1. Mục đích
Trên cơ sở lý luận và thực tiễn về vai trò của nữ trí thức trong các
trường chính trị ở Việt Nam, luận án đề xuất một số quan điểm cơ bản, giải
pháp chủ yếu góp phần phát huy vai trò nữ trí thức trong các trường chính trị
đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ đào tạo cán bộ lãnh đạo, quản lý của hệ thống
chính trị cấp cơ sở hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ
Thứ nhất, làm rõ đặc điểm, vai trò và những yếu tố tác động đến nữ trí
thức trong các trường chính trị ở Việt Nam hiện nay.
Thứ hai, phân tích thực trạng thực hiện vai trò của nữ trí thức trong các
trường chính trị ở Việt Nam hiện nay và những vấn đề đặt ra.
Thứ ba, đề xuất các quan điểm cơ bản, những giải pháp chủ yếu nhằm
phát huy vai trò nữ trí thức trong các trường chính trị ở Việt Nam đáp ứng yêu
4
cầu, nhiệm vụ đào tạo cán bộ lãnh đạo, quản lý của hệ thống chính trị cấp cơ
sở hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Đội ngũ nữ trí thức trong các trường chính trị ở
Việt Nam (vai trò, thực hiện vai trò).
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về không gian: Hiện nay, cả nước có 63 trường chính trị tỉnh, thành
phố trực thuộc Trung ương. Tuy nhiên, trong luận án tác giả đã lựa chọn tiến
hành nghiên cứu, khảo sát nữ trí thức ở 08 trường chính trị đại diện cho các
vùng miền trong cả nước.
Phía Bắc: Trường Chính trị tỉnh Lào Cai, Trường Chính trị tỉnh Phú Thọ,
Trường Chính trị Tô Hiệu thành phố Hải Phòng.
Miền Trung và Tây Nguyên: Trường Chính trị tỉnh Nghệ An, Trường
Chính trị tỉnh Quảng Ngãi, Trường Chính trị tỉnh Đắk Lắk.
Phía Nam: Trường Chính trị tỉnh Tây Ninh và Trường Chính trị thành phố
Cần Thơ.
- Về thời gian: Luận án nghiên cứu nữ trí thức trong các trường chính trị
từ năm 2008 đến nay (Từ khi có Quyết định 184-QĐ/TW, ngày 03/9/2008 của
Ban Chấp hành Trung ương Đảng về Chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy
của các trường chính trị tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương).
- Về nội dung: Nữ trí thức trong các trường chính trị hiện nay tham gia
vào nhiều hoạt động khác nhau của nhà trường từ giảng dạy lý luận chính trị,
nghiên cứu khoa học, lãnh đạo, quản lý, công tác quản trị văn phòng, công tác
tài chính kế toán,… Tuy nhiên, trong giới hạn của luận án, tác giả chỉ tập trung
nghiên cứu vai trò, thực hiện vai trò của nữ trí thức trong các trường chính trị
5
trên 03 lĩnh vực chủ yếu: (1) Hoạt động đào tạo, (2) Hoạt động nghiên cứu
khoa học và (3) Hoạt động lãnh đạo, quản lý của nhà trường.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
Luận án được thực hiện dựa trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về đội
ngũ trí thức, nữ trí thức, vai trò của đội ngũ nữ trí thức.
Luận án tham khảo các kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học ở trong
nước và nước ngoài liên quan đến đối tượng nghiên cứu của luận án.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa
duy vật lịch sử, luận án sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp, thống kê, so
sánh và một số phương pháp liên ngành.
Luận án sử dụng phương pháp điều tra xã hội học, gồm 01 mẫu phiếu
khảo sát, với số lượng: 425 phiếu; phạm vi: 08 trường chính trị tỉnh, thành phố
đã được lựa chọn ở mục phạm vi không gian; đối tượng phiếu khảo sát: 220 nữ
trí thức và 205 nam trí thức là cán bộ giảng viên, chuyên viên, lãnh đạo, quản
lý các cấp của nhà trường; kết quả khảo sát (Phụ lục 7).
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
Một là, luận án góp phần làm rõ đặc điểm, vai trò, điểm mạnh, điểm hạn
chế trong thực hiện vai trò của nữ trí thức trong các trường chính trị hiện nay;
chỉ rõ những vấn đề đặt ra đối với việc phát huy vai trò của nữ trí thức trong
các trường chính trị hiện nay.
Hai là, luận án góp phần đề xuất một số giải pháp, khuyến nghị nhằm
phát huy vai trò của nữ trí thức trong các trường chính trị đáp ứng yêu cầu
trong công tác đào tạo cán bộ cấp cơ sở hiện nay.
6
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
Luận án cung cấp một số cơ sở lý luận, thực tiễn góp phần trong xây
dựng và thực hiện chính sách đối với nữ trí thức trong các trường chính trị nói
riêng, nữ trí thức làm công tác lý luận chính trị nói chung.
Luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong việc nghiên cứu,
giảng dạy và học tập những chuyên đề liên quan đến vấn đề con người, đội
ngũ trí thức, nữ trí thức, phụ nữ và các chuyên ngành khác có liên quan.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục công trình của tác giả đã công
bố liên quan đến luận án, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận án gồm
4 chương, 11 tiết.
7
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN
ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1. NHỮNG CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU Ở TRONG NƯỚC CÓ LIÊN
QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1.1. Những công trình nghiên cứu tiêu biểu về trí thức
Trong những năm qua, các công trình nghiên cứu về trí thức Việt Nam
rất đa dạng, phong phú, tiêu biểu như:
Hoàng Phê trong cuốn Từ điển Tiếng Việt cho rằng, trí thức là “người
chuyên làm việc lao động trí óc và có chuyên môn cần thiết cho hoạt động
nghề nghiệp của mình” [68]. Cách định nghĩa này đã chỉ ra một số đặc
điểm của trí thức, nhưng, cho đến nay, nó đã bị vượt qua, bởi nó chưa nhấn
mạnh được đặc điểm lao động đặc thù của người trí thức là lao động trí óc
sáng tạo, phức tạp, tạo ra những sản phẩm có giá trị đặc biệt về tinh thần,
vật chất.
Với hai công trình Trí thức Việt Nam trước yêu cầu phát triển đất nước
[44] và Trí thức Việt Nam tiến cùng thời đại [45] của Nguyễn Đắc Hưng đã
làm rõ quan niệm về trí thức; vị trí, vai trò của trí thức; những phương hướng
chủ yếu để xây dựng và phát triển đội ngũ trí thức ở nước ta đáp ứng yêu cầu
của thời đại. Trên cơ sở khẳng định nội hàm rất rộng của khái niệm trí thức,
tác giả đã chỉ rõ: Trí thức là những người không chỉ có trình độ học vấn cao
mà điều quan trọng nhất là họ thực sự lao động bằng trí tuệ có tính sáng tạo,
có những cống hiến nhất định hữu ích cho xã hội và phải được xã hội kiểm
định chất lượng thông qua hoạt động thực tiễn [45, tr.16-17]. Đây là sự đổi
mới tư duy về trí thức, từ chỗ coi trọng trình độ chuyên môn được đào tạo đến
chỗ thừa nhận và đòi hỏi năng lực lao động thực tế thông qua sự kiểm định
khách quan của xã hội.
8
Nguyễn An Ninh, Phát huy tiềm năng của trí thức khoa học xã hội và
nhân văn trong công cuộc đổi mới đất nước [67]. Từ những kiến giải về tiềm
năng của trí thức khoa học xã hội và nhân văn trong giai đoạn hiện nay, tác giả
đã đề xuất những giải pháp thiết thực nhằm phát huy tiềm năng của đội ngũ này
góp phần vào quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Trong hai công trình nghiên cứu: Xây dựng và phát huy nguồn lực trí tuệ
Việt Nam phục vụ sự nghiệp chấn hưng đất nước [48] và công trình Nguồn lực
trí tuệ Việt Nam - Lịch sử, hiện trạng và triển vọng [49] của Nguyễn Văn
Khánh đã tập trung luận chứng khoa học về vấn đề trí thức, nguồn lực trí tuệ
với cách tiếp cận liên ngành. Đội ngũ trí thức được tác giả quan niệm là tầng
lớp tinh hoa của nguồn lực trí tuệ Việt Nam. Trên cơ sở khảo sát, đánh giá chất
lượng của nguồn nhân lực này, ông đã đưa ra hệ thống giải pháp có ý nghĩa
thiết thực đối với việc xây dựng và phát huy vai trò của nguồn lực trí tuệ đáp
ứng yêu cầu, đòi hỏi của sự nghiệp chấn hưng đất nước.
Nguyễn Khánh Bật, Trần Thị Huyền, Xây dựng đội ngũ trí thức thời
kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo tư tưởng Hồ Chí Minh [10].
Đây là công trình nghiên cứu mang tính chuyên sâu về trí thức dưới góc độ
tư tưởng Hồ Chí Minh. Nhóm tác giả đã khái quát những nội dung cơ bản
trong tư tưởng Hồ Chí Minh về trí thức, làm rõ sự vận dụng sáng tạo của
Đảng và Nhà nước ta trong công tác xây dựng trí thức đồng thời đánh giá
những đóng góp, hạn chế của đội ngũ này trong cách mạng Việt Nam, trên
có sở đó, đi sâu phân tích những giải pháp xây dựng đội ngũ trí thức ở nước
ta thời kỳ 2011 - 2020 đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước.
Phạm Tất Dong trong đề tài Luận cứ khoa học cho các chính sách
nhằm phát huy năng lực sáng tạo của giới trí thức và sinh viên [15] đã tập
trung phân tích làm rõ cơ sở lý luận, thực tiễn và tính pháp lý của việc
9
hoạch định chính sách, giải pháp hướng vào việc khơi dậy, khai thác, sử
dụng năng lực sáng tạo của giới trí thức và sinh viên trong hoạt động giáo
dục và đào tạo.
Đàm Đức Vượng, Nguyễn Viết Thông, Xây dựng đội ngũ trí thức Việt
Nam giai đoạn 2011- 2020 [122]. Đây là công trình nghiên cứu công phu và
có hệ thống về trí thức. Trên cơ sở đánh giá tổng thể về thực trạng đội ngũ trí
thức Việt Nam, đề tài đi sâu phân tích, kiến nghị những giải pháp nhằm xây
dựng và phát huy nguồn lực trí tuệ trong thời kỳ đổi mới toàn diện đất nước.
Đề tài đã làm rõ thêm nội hàm của khái niệm trí thức trên bình diện rộng.
Không những chỉ ra tính chất lao động trí óc cùng với những yêu cầu về sự
hiểu biết, trình độ, khát vọng dân chủ, công bằng, tự do và kết quả sáng tạo
trong việc truyền bá, phổ biến, ứng dụng vào đời sống xã hội của trí thức,
các tác giả đề tài còn xác định rõ thiên chức, phẩm chất, tính cách của người
trí thức Việt Nam. Đây là tư liệu quan trọng cho tác giả luận án khi nghiên
cứu về đặc điểm của đội ngũ nữ trí thức ở các trường chính trị ở Việt Nam
hiện nay.
Luận án Trí thức Việt Nam trong phát triển kinh tế tri thức [92] của
Nguyễn Công Trí, đã chỉ ra những đặc trưng, tiêu chí cơ bản để xác định trí
thức, vai trò của đội ngũ này trong điều kiện phát triển kinh tế tri thức. Luận
án xác định, trí thức là người lao động trí óc và thường có trình độ học vấn
cao, được đào tạo hoặc tự đào tạo. Tuy nhiên, “giá trị quan trọng nhất của
người trí thức chân chính đó là chân lý và lẽ phải; trí thức là người tự tin và
ngay thẳng, có lòng tự trọng, khả năng hành xử đúng mực và thích ứng cao
với các biến đổi của môi trường tự nhiên, xã hội” [92, tr.30].
Trần Thị Lan trong cuốn Chất lượng lao động của đội ngũ trí thức giáo
dục đại học Việt Nam [55] đã nêu lên cơ sở lý luận về chất lượng lao động
của trí thức giáo dục đại học; đánh giá thực trạng chất lượng lao động của đội
ngũ trí thức giáo dục đại học Việt Nam và đề xuất những giải pháp cơ bản để
10
nâng cao chất lượng lao động của đội ngũ này. Tác giả luận án cho rằng “trí
thức là một tầng lớp xã hội được đặc trưng bởi phương thức lao động trí óc,
sáng tạo. Họ là lực lượng chủ yếu tham gia trực tiếp vào việc phát kiến, giữ
gìn và truyền bá tri thức góp phần thúc đẩy sự phát triển nhận thức khoa học
và sự tiến bộ của xã hội” [55, tr.26].
Tiếp tục làm rõ quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin và sự nhận thức
đúng đắn của Đảng ta trong quan điểm về trí thức, một số bài viết đăng trên
các tạp chí trong thời gian qua đã đề cập đến vấn đề này, tiêu biểu như: Đội
ngũ trí thức trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước [50];
Những bài học từ quan điểm của Lênin về trí thức [51] của Phan Thanh Khôi;
và Suy ngẫm và nhận thức về vấn đề tri thức [6] của Nguyễn Đức Bách…
Đồng thời, nhiều bài viết đã khai thác những khía cạnh mới về chức năng,
nhiệm vụ, chính sách sử dụng, đãi ngộ trí thức và giải pháp phát huy vai trò
của đội ngũ trí thức nhằm đáp ứng đòi hỏi, yêu cầu của quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa, hội nhập, phát triển kinh tế tri thức. Có thể kể đến một số
bài viết như có giá trị khoa học như: Mấy vấn đề cần đổi mới tạo động lực và
điều kiện để trí thức nước ta phát huy tài năng trí tuệ [5] của Nguyễn Đức
Bách và Nhà khoa học và sự sáng tạo trong khoa học xã hội [52] của Phan
Thanh Khôi,…
Bàn về khái niệm trí thức, Dương Trung Quốc, trong bài viết Đảng và
trí thức - một thoáng nhìn lịch sử [69] đã cho rằng, trí thức phải được coi là
một “phẩm chất” nhiều hơn là một tầng lớp. Do tác động của xu thế phát triển
giáo dục đào tạo, khoa học công nghệ và sự phát triển của “kinh tế tri thức”
làm cho nội hàm của khái niệm “trí thức” cần được mở rộng hơn. Học vấn đã
có cơ hội đến với các giai cấp, tầng lớp trong xã hội, mọi lực lượng lao động
xã hội đều phải coi tri thức là một nhu cầu sống còn của mình.
Những công trình nghiên cứu nêu trên đã cung cấp cơ sở lý luận, thực
tiễn quan trọng để tác giả luận án luận chứng về nữ trí thức, về vai trò của đội
11
ngũ nữ trí thức dưới góc độ là một bộ phận của đội ngũ trí thức trong điều
kiện đổi mới, hội nhập, phát triển kinh tế tri thức và công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước.
1.1.2. Những công trình nghiên cứu về phụ nữ, bình đẳng giới và
nữ trí thức
Thứ nhất, những công trình nghiên cứu tiêu biểu về phụ nữ, bình
đẳng giới.
Khi nghiên cứu về phụ nữ, bình đẳng giới ở Việt Nam, các nhà nghiên
cứu đã tiếp cận dưới cả hai góc độ, vị thế, vai trò của phụ nữ trong gia đình
và ngoài xã hội. Một số công trình nghiên cứu về giới, bình đẳng giới ở Việt
Nam đã góp phần nâng cao nhận thức, lý luận và năng lực vận dụng quan
điểm giới, bình đẳng giới vào nghiên cứu những vấn đề đặt ra đối với nữ trí
thức trong các trường chính trị ở Việt Nam hiện nay. Tiêu biểu có thể kể đến
một số công trình như sau:
Cuốn sách Địa vị người phụ nữ trong gia đình nữ trí thức [26] của
Đoàn Thị Bích Điểm đã chỉ ra rằng, vị thế của người phụ nữ ngày càng được
nâng cao trong gia đình so với phụ nữ Việt Nam trong chế độ xã hội cũ. Tuy
nhiên so với nam giới vị thế này vẫn còn kém xa, kể cả trong các gia đình nữ
trí thức. Họ chủ yếu có ưu thế trong việc quyết định những công việc liên
quan đến nội trợ, ít quan trọng hơn như mua thức ăn, quần áo, tiền học cho
con,... Tác giả cũng đã giải thích thực trạng trên là do dựa trên sự phân công
lao động xã hội theo giới. Phụ nữ là lực lượng thường xuyên thực hiện các
công việc nội trợ nên quyết định những công việc này. Đàn ông là trụ cột của
gia đình nên thường lo toan những việc lớn. Điều này đã khẳng định dù có
dân chủ hơn, bình đẳng hơn, các gia đình trong đó có gia đình nữ trí thức vẫn
bị ảnh hưởng bởi các định kiến giới.
Lê Thị Quý trong bài viết Phụ nữ trong đổi mới: Thành tựu và thách
thức [70] cho rằng nhiều nghiên cứu đã luận giải tỷ số chênh lệch giữa nam
12
và nữ với tư cách là lãnh đạo quản lý trong bộ máy nhà nước ở các cấp.
Đồng thời, tác giả bước đầu chỉ ra quan niệm, định kiến giới của một số
cán bộ chính quyền và người dân đối với việc phụ nữ tham gia lãnh đạo.
Nghiên cứu này đã cung cấp một số cơ sở cho đề tài khi nghiên cứu nữ trí
thức tham gia vào lĩnh vực lãnh đạo quản lý trong các trường chính trị ở
Việt Nam hiện nay.
Trong bài viết Chất lượng nguồn nhân lực nữ qua lăng kính giới [30]
của Lưu Song Hà, Phan Thị Thu Hà đã phân tích chất lượng nguồn nhân lực
nữ ở Việt Nam từ những khía cạnh thể lực, trí lực và tâm lực. Từ kết quả
nghiên cứu thực tiễn, nhóm tác giả đã đề xuất một số giải pháp nhằm góp
phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nữ và bình đẳng giới. Nghiên cứu
này góp phần gợi mở cho tác giả luận án về những giải pháp nhằm nâng cao
việc thực hiện vai trò của nữ trí thức các trường chính trị trong việc thực hiện
nhiệm vụ chính trị được giao.
Đỗ Thị Thạch trong bài Tăng cường sự tham gia của phụ nữ trong
công tác lãnh đạo, quản lý ở nước ta hiện nay [79], đã nhấn mạnh ở Việt
Nam, cùng với tiến trình lịch sử của dân tộc, phụ nữ luôn phát huy vai trò
và tỏ rõ khả năng của mình trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, góp phần
tích cực vào sự nghiệp phát triển chung của đất nước. Trong công cuộc đổi
mới hiện nay, vai trò của phụ nữ càng cần phải phát huy hơn bao giờ hết,
nhất là trong lãnh đạo, quản lý, vì phụ nữ vừa có tiềm năng, năng lực, vừa
có truyền thống trong lịch sử, vừa là yêu cầu chung trong sự nghiệp phát
triển đất nước.
Thứ hai, những công trình nghiên cứu về nữ trí thức
Nữ trí thức Việt Nam một bộ phận của trí thức Việt Nam, là bộ phận
tinh hoa của phụ nữ Việt Nam, cùng với đội ngũ trí thức và phụ nữ Việt Nam,
cho đến nay, nhiều nhà khoa học trong nước đã dày công nghiên cứu, bỏ nhiều
tâm huyết để tìm hiểu, đánh giá và tìm ra các giải pháp hữu hiệu nhằm khai thác
13
tiềm năng, phát huy vai trò của đội ngũ nữ trí thức Việt Nam. Tiêu biểu có thể
kể đến một số công trình như sau:
Đỗ Thị Thạch trong công trình Phát huy nguồn lực nữ trí thức Việt
Nam trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa [74] đã làm rõ quan niệm
về trí thức, nữ trí thức. Tác giả, đã phân tích những phẩm chất trí tuệ, cũng
như những yếu tố tác động đến sự phát triển trí tuệ của nữ trí thức; những
đóng góp của họ đối với sự phát triển của gia đình và đất nước, v.v... Từ đó,
tác giả đã đề xuất một số giải pháp nhằm phát huy nguồn lực nữ trí thức Việt
Nam trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đây là công
trình đã có một cách tiếp cận mới, góp phần làm rõ quá trình hình thành và
đặc điểm của nguồn lực nữ trí thức Việt Nam; góp phần quan trọng trong việc
xóa bỏ định kiến giới, khẳng định vai trò to lớn của nguồn lực nữ trí thức đối
với sự phát triển của xã hội, tiến tới thực hiện mục tiêu bình đẳng giới ở nước
ta hiện nay. Công trình là tư liệu nghiên cứu quan trọng cho cách tiếp cận của
luận án.
Trần Thị Minh Đức với công trình Thực trạng nữ trí thức Việt Nam
trong sự nghiệp phát triển đất nước [27] đã đề cập đến cơ sở thực tiễn và
những vấn đề lý luận quan trọng của việc nghiên cứu nữ trí thức Việt Nam
trong phát triển đất nước. Nghiên cứu đã tập trung phân tích đặc điểm, cơ
cấu xã hội của đội ngũ nữ trí thức, vai trò của họ trong một số lĩnh vực tiêu
biểu được coi là thế mạnh. Đồng thời, tác giả cũng chỉ ra vai trò không thể
thay thế của nữ trí thức làm điểm nhấn khác biệt với nam trí thức đó là
chức năng làm vợ, thiên chức làm mẹ. Vai trò "kép” của nữ trí thức vừa là
hạnh phúc vừa là thách thức đối với họ cần phải hội tụ nhiều biện pháp mới
vượt qua.
Khẳng định vai trò to lớn của nữ trí thức đối với sự phát triển của đất
nước, và đưa ra những kiến nghị chính sách đối với Đảng và Nhà nước, tại
14
Hội thảo khoa học của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam và Đại học Quốc gia
Hà Nội Nữ trí thức Việt Nam đối với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước [40] được tổ chức tại thủ đô Hà Nội. Hội thảo đã tập hợp được rất
nhiều quan điểm, bài viết có giá trị nói về những đóng góp to lớn của nữ trí
thức trên mọi lĩnh vực đời sống xã hội trong những năm qua. Đồng thời, nhiều
bài tham luận đã chỉ rõ thách thức đối với nữ trí thức và những rào cản đang
cản trở bước tiến của họ. Theo ý kiến của nhiều tác giả, những thách thức và
các rào cản nảy sinh từ định kiến giới trong xã hội; từ gia đình và bản thân
người phụ nữ. Trên cơ sở đó, nhiều nhà khoa học trong Hội thảo cũng đã đề
ra những giải pháp phát triển nữ trí thức trong tương lai để tiến kịp sự phát
triển của nam giới.
Đề tài nghiên cứu khoa học Vai trò, vị thế của nữ trí thức trong quá
trình công nghiệp hóa ở Việt Nam [95] của Trung tâm Nghiên cứu phụ nữ -
Trường Cán bộ Phụ nữ Trung ương (nay là Học viên Phụ nữ Việt Nam) đã
chỉ rõ, mặc dù so với nam giới, vị thế của phụ nữ còn thấp, kể cả trong gia
đình trí thức, nhưng xu hướng trong gia đình nữ trí thức, mối quan hệ vợ
chồng là mối quan hệ dân chủ, bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau,... Như vậy, sự
hiểu biết, tri thức có vai trò quan trọng trong xây dựng mối quan hệ bình đẳng
giới trong gia đình.
Tại Hội thảo của Liên hiệp các Hội khoa học và Kỹ thuật Việt Nam
Giải pháp nâng cao vai trò của nữ trí thức trong hoạt động khoa học và
công nghệ giai đoạn 2015-2020 [39], các đại biểu đã được nghe 05 báo cáo
của các nhà nghiên cứu, khoa học và các ý kiến đóng góp sôi nổi của nữ trí
thức thuộc Hội Nữ trí thức Việt Nam. Trong đó, báo cáo “Giải pháp phát
huy vai trò của nữ trí thức trong giảng dạy, nghiên cứu lý luận chính trị”
của tác giả Nguyễn Thị Báo đã cung cấp nhiều thông tin, đưa ra nhiều giải
pháp cụ thể để phát huy hơn nữa vai trò của nữ trí thức trong lĩnh vực nghiên
15
cứu, giảng dạy lý luận chính trị. Đây là một tài liệu hữu ích, có giá trị tham
khảo quan trọng cho luận án.
Trong công trình Nữ trí thức với sự nghiệp phát triển đất nước [83] của
Nguyễn Thị Việt Thanh đã tập hợp một số tham luận được thực hiện trong
khuôn khổ đề tài khoa học độc lập cấp Nhà nước “Phát huy vai trò và vị thế
của nguồn nhân lực nữ trí thức trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa
và hội nhập quốc tế”. Các bài tham luận đã mang đến cái nhìn khoa học về
những vấn đề khác nhau. Nhiều tham luận đã có giá trị khoa học cao khi áp
dụng các phương pháp hiện đại, nghiên cứu nữ trí thức từ góc độ một nguồn
lực lao động quan trọng của đất nước, nhưng lại có những đặc tính riêng về
giới, với những thuận lợi nhưng cũng có nhiều trở ngại, thách thức nảy sinh
khi phải cố gắng dung hòa giữa chức năng của người phụ nữ trong gia đình và
vai trò của một cá thể độc lập trong xã hội. Công trình này đã cung cấp cho
luận án phương pháp tiếp cận khoa học hiện đại khi nghiên cứu, đánh giá nữ
trí thức trong các trường chính trị ở Việt Nam hiện nay.
Nguyễn Đình Tấn trong bài viết Vai trò của nữ trí thức trong quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa [73] đã cho rằng: Nữ trí thức là bộ phận hợp
thành của tầng lớp trí thức (họ mang tất cả những đặc trưng cơ bản của người
trí thức nói chung. Họ là những người có đặc trưng về giới tính là phụ nữ, có
đủ trình độ kiến thức, chuyên môn cần thiết cho hoạt động nghề nghiệp và
làm việc trong lĩnh vực trí óc), có vai trò quan trọng trên mọi mặt của đời
sống xã hội và gia đình; họ là một lực lượng lao động trí tuệ hùng hậu, v.v...
có đóng góp tích cực vào quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Lưu Song Hà trong bài viết Nữ trí thức với gia đình và sự nghiệp [29]
đã đề cập đến vai trò “kép” của phụ nữ, đồng thời cũng đã so sánh vai trò
này đối với nữ trí thức. Bên cạnh nhiều thành công thì nữ trí thức gặp nhiều
khó khăn, thách thức khi phải gánh trên vai nhiều chức phận, những rào cản
16
từ việc thực hiện chức năng này hay chức năng kia làm cho người phụ nữ
nhiều lúc khó vượt qua. Từ việc khẳng định vai trò, trách nhiệm nặng nề hơn
của nữ trí thức, tác giả đề xuất một số giải pháp để thực hiện bình đẳng giới
tốt hơn.
Tiếp tục bàn về nữ trí thức, Lê Tuấn trong bài viết Gỡ bỏ những rào cản
để nữ trí thức phát triển [115] đã khẳng định vai trò của nữ trí thức trong suốt
chiều dài của dân tộc Việt Nam. “Đội ngũ nữ trí thức bằng tài năng, trí tuệ,
cống hiến không mệt mỏi, có đóng góp quan trọng vào sự phát triển ở nhiều
lĩnh vực”. Đồng thời, tác giả cũng khẳng định “mặc dù có những bước trưởng
thành quan trọng, nhưng đội ngũ trí thức vẫn chưa phát triển tương xứng với
tiềm năng của mình, cũng như yêu cầu khách quan của sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước”. Do đó, tác giả đã đề xuất cần có các hoạt động và
hình thức thu hút, tập hợp nữ trí thức. Cách tiếp cận của tác giả là một gợi ý
cho hướng đề xuất giải pháp của luận án.
Đỗ Thị Thạch trong bài viết Đặc điểm của đội ngũ nữ trí thức Việt Nam
trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa [77] đã chỉ rõ những đặc điểm
của đội ngũ nữ trí thức Việt Nam về cơ cấu xã hội, cơ cấu trình độ, cơ cấu
ngành nghề,... Những cơ cấu này đã tác động tích cực, tiêu cực tới vị thế, vai
trò, chất lượng của đội ngũ nữ trí thức hiện nay. Trên cơ sở đó, tác giả đã đề
xuất giải pháp nhằm phát huy mặt tích cực, khắc phục mặt hạn chế xét từ góc
độ cơ cấu đặc điểm của đội ngũ nữ trí thức nước ta hiện nay. Cách tiếp cận
này của tác giả không chỉ đánh giá được sâu, cụ thể đặc điểm của nữ trí thức
Việt Nam, mà còn là một gợi ý phù hợp cho luận án khi phân tích, làm rõ đặc
điểm của nữ trí thức trong các trường chính trị hiện nay.
Tiếp đó, Đỗ Thị Thạch đã đánh giá những phẩm chất cơ bản của nữ
trí thức Việt Nam trước yêu cầu hội nhập quốc tế. Trong bài viết Trí thức
nữ Việt Nam trước yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập
quốc tế [76] tác giả cho rằng, đội ngũ nữ trí thức Việt Nam phải đảm bảo
17
ba phẩm chất cơ bản là phẩm chất chính trị vững vàng, có trí tuệ cao, có
trách nhiệm xã hội. Để phát huy vai trò của nữ trí thức đáp ứng yêu cầu
công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế cần thực hiện đồng bộ
các giải pháp về nhận thức của cá nhân, cộng đồng đối với vai trò của nữ
trí thức, giải pháp về xây dựng chính sách hợp lý, giải pháp xây dựng tổ
chức Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Hội Nữ trí thức đại biểu cho quyền
lợi của nữ trí thức.
Trong bài viết Vai trò, vị thế của nữ trí thức Việt Nam trong phát triển
bền vững [80], Đỗ Thị Thạch đã khẳng định vị thế của nữ trí thức trên các lĩnh
vực của đời sống. Theo tác giả, để phát triển bền vững, việc phát huy vai trò
của nguồn nhân lực chất lượng cao, đặc biệt là đội ngũ trí thức có ý nghĩa
quyết định. Tuy nhiên, tác giả cũng đã chỉ ra rằng, vị thế, vai trò của phụ nữ
nói chung, nhất là nữ trí thức nói riêng vẫn còn nhiều hạn chế, nhất là so với
đồng nghiệp nam giới của nữ trí thức. Vì vậy, trong bài viết này, tác giả đã tập
trung đưa ra những giải pháp cơ bản để phát huy vai trò, vị thế của đội ngũ nữ
trí thức đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước bền vững. Bài viết là một tư liệu
tham khảo rất quan trọng, liên quan trực tiếp đến nội dung mà luận án tiến
hành nghiên cứu.
Tiếp tục bàn về vai trò của đội ngũ nữ trí thức trong phát triển bền vững
đất nước, Phan Thanh Khôi trong bài viết Đội ngũ nữ trí thức trong phát triển
bền vững đất nước [54] đã đưa ra những định hướng lớn như: Xây dựng đội
ngũ nữ trí thức Việt Nam gắn với chiến lược phát triển bền vững đất nước;
xây dựng đội ngũ nữ trí thức Việt Nam phù hợp với đường lối phát triển đội
ngũ trí thức nước ta nói chung và xây dựng đội ngũ nữ trí thức Việt Nam gắn
với chiến lược quốc gia về bình đẳng giới. Có thể nói, những định hướng này,
một mặt, phù hợp sự phát triển khách quan của đội ngũ nữ trí thức, mặt khác,
đáp ứng được yêu cầu xây dựng đội ngũ trí thức Việt Nam nói chung xứng
18
đáng là lực lượng lao động sáng tạo đặc biệt quan trọng trong tiến trình hiện
đại hóa và phát triển bền vững đất nước.
Như vậy, đã có khá nhiều các công trình nghiên cứu về nữ trí thức, vị
thế, vai trò của nữ trí thức và những rào cản đối với nữ trí thức, những giải
pháp, đề xuất để tiếp tục phát huy hơn nữa vai trò của đội ngũ này trong quá
trình phát triển đất nước. Song, một thực tế đặt ra rằng, những khó khăn,
thách thức nào đang là rào cản đối với việc phát huy tối đa vai trò của nữ trí
thức hiện nay, giải pháp nào khắc phục hiệu quả nhất vẫn còn nhiều vấn đề
phải bàn thêm, nhất là những vấn đề về chính sách, về giải quyết những khó
khăn liên quan đến thiên chức người phụ nữ và thực hiện chủ trương bình
đẳng giới. Các công trình khoa học nghiên cứu trên là những cơ sở lý luận, tư
liệu khoa học quý giá cho luận án trong quá trình nghiên cứu, tiếp cận và giải
quyết vấn đề phát huy vai trò của nữ trí thức trong các trường chính trị ở Việt
Nam hiện nay.
1.1.3. Những công trình nghiên cứu tiêu biểu về trường chính trị và
nữ trí thức trong các trường chính trị
Trường chính trị là đơn vị sự nghiệp trực thuộc tỉnh ủy, thành ủy và Ủy
ban nhân dân tỉnh/thành phố, đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp và thường xuyên
của Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Thành ủy đã thực hiện tốt chức năng nhiệm vụ
của mình, góp phần tăng cường và thống nhất sự lãnh đạo, quản lý của các
tỉnh, thành ủy và Ủy ban nhân dân các tỉnh/thành phố đối với công tác đào
tạo, quản lý cán bộ cơ sở.
Một là, những công trình nghiên cứu liên quan về trường chính trị
Nguyễn Văn Sách, Trường Chính trị tỉnh Phú Thọ - 55 năm xây dựng
và phát triển (1957 - 2012) [71]. Cuốn sách đã ghi lại quá trình xây dựng và
phát triển của nhà trường từ năm 1957 đến nay. Suốt 55 năm qua, dưới sự
lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh, cán bộ, công chức, viên chức nói chung và cán bộ
19
nữ trí thức của nhà trường nói riêng đã có nhiều đóng góp vào sự nghiệp đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ của tỉnh qua các thời kỳ cách mạng, góp phần tích cực
vào sự nghiệp xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. Đây là
một tài liệu quan trọng cho luận án khi tiến hành khảo sát thực tiễn tại Trường
Chính trị tỉnh Phú Thọ.
Vụ Các trường chính trị (thuộc Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí
Minh), Báo cáo kết quả đề tài khảo sát, đánh giá kết quả triển khai thực hiện
chương trình, giáo trình Trung cấp Lý luận chính trị - Hành chính và bộ quy
chế, quy định quản lý đào tạo ở các trường chính trị tỉnh, thành phố khu vực
miền núi phía Bắc [120]. Kết quả khảo sát đã tập trung đánh giá những ưu
điểm và những tồn tại cần tiếp tục được quan tâm, giải quyết về khung
chương trình đào tạo, quy chế, quy định đào tạo quản lý của ở các trường
chính trị tỉnh, thành phố khu vực phía Bắc. Đồng thời, báo cáo khảo sát cũng
đã đánh giá tình hình tổ chức cán bộ của các trường chính trị (về số lượng,
chất lượng của đội ngũ cán bộ) miền núi phía Bắc. Đây là tài liệu quan trọng
cho luận án khi nghiên cứu, khảo sát ở các trường chính trị tỉnh thuộc khu vực
miền núi phía Bắc Việt Nam.
Ở khu vực phía Nam, Vụ Các trường chính trị (thuộc Học viện Chính
trị quốc gia Hồ Chí Minh), Báo cáo kết quả đề tài khảo sát, đánh giá kết quả
triển khai thực hiện chương trình, giáo trình Trung cấp Lý luận chính trị -
Hành chính và bộ quy chế, quy định quản lý đào tạo ở các trường chính trị
tỉnh, thành phố khu vực miền Tây Nam Bộ [121]. Kết quả khảo sát đã tập
trung đánh giá những ưu điểm và những tồn tại cần tiếp tục được quan tâm,
giải quyết về khung chương trình đào tạo, quy chế, quy định đào tạo quản lý
của ở các trường chính trị tỉnh, thành phố khu vực miền Tây Nam Bộ. Đồng
thời, báo cáo khảo sát cũng đã đánh giá tình hình tổ chức cán bộ của các
trường chính trị (về số lượng, chất lượng của cán bộ) miền Tây Nam Bộ. Đây
20
là tài liệu quan trọng cho luận án khí nghiên cứu, khảo sát các trường chính trị
tỉnh thuộc khu vực miền Tây Nam Bộ Việt Nam.
Hai là, một số công trình nghiên cứu liên quan đến nữ trí thức trong
các trường chính trị
Trần Thị Minh Ngọc với bài viết Phát huy vai trò của nữ trí thức
trong công tác nghiên cứu, giảng dạy lý luận chính trị tại các trường chính
trị nước ta và một số vấn đề đặt ra trong Kỷ yếu Hội thảo khoa học: Nữ trí
thức Hà Nội trong sự nghiệp phát triển thủ đô [65] đã chỉ ra đặc điểm của
nữ trí thức trong nghiên cứu, giảng dạy lý luận chính trị tại các trường
chính trị, trên cơ sở đó tác giả đi vào phân tích làm rõ thực trạng của đội
ngũ này trong giai đoạn hiện nay. Đồng thời, chỉ rõ những nguyên nhân
chủ quan, khách quan dẫn đến sự hạn chế trong việc phát huy vai trò của
đội ngũ nữ trí thức. Từ đó, tác giả đã đề xuất những giải pháp hữu hiệu có
tính khả thi cao trong việc tiếp tục nâng cao vai trò của đội ngũ nữ trí thức
trong giảng dạy lý luận chính trị tại các trường chính ở nước ta hiện nay.
Vũ Mạnh Hồng trong bài viết Phụ nữ trường chính trị tỉnh Hòa Bình
phát huy tốt vai trò trong sự nghiệp đào tạo, bồi dưỡng cán bộ và nghiên
cứu khoa học [43] đã khẳng định vị trí, vai trò của phụ nữ nhà trường trong
công tác giảng dạy, nghiên cứu khoa học, lãnh đạo quản lý và các hoạt
động khác, đóng góp to lớn vào sự phát triển Trường Chính trị tỉnh Hòa
Bình hiện nay.
Nguyễn Mạnh Hải trong bài viết Chuẩn nghề nghiệp đối với giảng
viên trường chính trị tỉnh [32] đánh giá khái quát đội ngũ giảng viên
trường chính trị đã có nhiều bước phát triển tích cực về số lượng và chất
lượng. Tuy nhiên, chất lượng đội ngũ này còn nhiều hạn chế, bất cập. Do
đó, việc nâng cao chất lượng về mọi mặt, đặc biệt là về phẩm chất chính
trị, đạo đức nghề nghiệp, năng lực chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ này
là đòi hỏi cấp bách.
21
Bài viết Một số suy nghĩ về công tác đào tạo bồi dưỡng đội ngũ giảng
viên ở Trường Chính trị tỉnh Lâm Đồng [90] của Võ Thị Bích Thủy đã đánh
giá những ưu điểm, ưu thế và những điểm chưa được trong công tác đào tạo,
bồi dưỡng đội ngũ giảng viên tại Trường Chính trị tỉnh Lâm Đồng. Trên cơ
sở đó tác giả đã đề xuất những giải pháp để tiếp tục xây dựng đội ngũ giảng
viên nhà trường ngày càng vững mạnh. Bài viết là một tư liệu tham khảo
quan trọng để tác giả luận án có luận cứ thực tiễn khi xem xét, đánh giá thực
trạng đội ngũ nữ trí thức trong hoạt động giảng dạy lý luận chính trị ở các
trường chính trị hiện nay.
Nguyễn Thanh Thuyên trong bài viết Xây dựng đội ngũ giảng viên
trường chính trị đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ [91] đã khẳng định giảng viên
trường chính trị là một bộ phận quan trọng trong đội ngũ trí thức của tỉnh.
Sự đóng góp trí tuệ của đội ngũ này trong việc giảng dạy, nghiên cứu khoa
học, tham gia vào các tổ chức, các diễn đàn của trí thức góp phần quan trọng
xây dựng tỉnh nhà ngày càng phát triển. Theo tác giả, “rất cần có một sự
đánh giá chính xác, công tâm; có sự góp ý chân thành; có sự biểu dương kịp
thời; có những đãi ngộ xứng đáng với sự nỗ lực phấn đấu, cống hiến; sự tôn
vinh thật sự của cộng đồng xã hội cho những đóng góp quan trọng nhưng
thầm lặng của họ”.
Như vậy, qua khảo sát những công trình nghiên cứu liên quan đến
trường chính trị, nữ trí thức trong các trường chính trị chúng tôi nhận thấy,
trong 10 năm trở lại đây, chưa có công trình nghiên cứu trực tiếp về các
trường chính trị ở cấp độ quốc gia, về cơ bản chỉ là tài liệu viết về lịch sử
trường, các bài viết trong Hội thảo khoa học, đăng trên tạp chí, báo Trung
ương, địa phương và nội san của các trường; đặc biệt chưa có một công trình
nào nghiên cứu chuyên biệt về trí thức, nữ trí thức trong các trường chính trị.
Đây chính là khoảng trống, hướng mở mà tác giả luận án muốn góp phần
nghiên cứu.
22
1.2. NHỮNG CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU Ở NƯỚC NGOÀI CÓ LIÊN
QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
Một là, các công trình nghiên cứu về trí thức
Tác giả người Trung Quốc, Ngụ Quý Tăng trong công trình Kinh tế tri
thức xu thế mới của xã hội thế kỷ XXI [72] đã đưa ra một cái nhìn tổng quát về
kinh tế tri thức trong tương lai không xa, từ đó đặt ra sự cấp thiết phải chuẩn
bị hành trang tri thức để có thể tiếp cận và làm việc với nó. Đồng thời, cũng
đã đưa ra các giải pháp để phát triển kinh tế tri thức, trong đó có yêu cầu đối
với trí thức trong phát triển nền kinh tế tri thức. Tuy nhiên, ở công trình này,
tác giả mới chỉ dừng lại với trí thức nói chung mà chưa có điều kiện nêu và
phân tích những giải pháp đặc thù đối với nữ trí thức - một bộ phận quan
trọng và có vai trò lớn trong phát triển kinh tế tri thức.
Cùng với quan điểm trên, trong cuốn sách Tôn trọng trí thức, tôn
trọng nhân tài kế lớn trăm năm chấn hưng đất nước [35] của Thẩm Vinh
Hoa, Ngô Quốc Diệu đã đề cập đến nhiều nội dung quan trọng trong tư
tưởng của Đặng Tiểu Bình; phác họa bức tranh mang tính tổng thể tư tưởng
của Đặng Tiểu Bình về những vấn đề rất cơ bản như: Nhân tài là then chốt
của phát triển, đường lối tổ chức và việc xây dựng đội ngũ cán bộ, tư tưởng
chiến lược về bồi dưỡng và giáo dục nhân tài, về tuyển chọn nhân tài ưu tú,
về sử dụng và bố trí nhân tài, về tạo môi trường cho nhân tài phát triển, về
cải cách chế độ nhân sự trong việc sử dụng nhân tài, v.v… cũng như sự vận
dụng các tư tưởng đó trong chiến lược xây dựng nhân tài ở Trung Quốc. Có
thể nói, đây là một công trình có giá trị tham khảo sâu sắc đối với việc thực
hiện chính sách cán bộ nói chung và chính sách đối với trí thức, nhân tài nói
riêng ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Tuy nhiên, công trình này chưa
đề cập đến đội ngũ nữ trí thức.
Trong tác phẩm Về trí thức Nga [66] đã tập hợp được nhiều bài viết
của các học giả Nga. Trong công trình này, người đọc có thể nhận thấy mặc
23
dù chính kiến của các học giả trí thức Nga là rất đa dạng, có khi đối lập nhau
nhưng đều trên tinh thần học thuật nghiêm túc. Các học giả cho rằng, trí thức
là lực lượng xã hội tương đối đông, có học thức ở một trình độ nhất định và
luôn ý thức được vai trò của mình trong sự phát triển của xã hội. Nhìn
chung, các bài viết được tiếp cận dưới nhiều góc độ khác nhau đã cung cấp
cho người đọc bức tranh về trí thức Nga nói chung, nữ trí thức Nga nói riêng
trong thời kỳ trước Cách mạng tháng Mười (1917) của nước Liên Xô và thời
kỳ “hậu Xô Viết”.
Jennifer Lewington, Biết trọng dụng người tài, Canada vượt lên trước
bầy sói [47]. Tác giả đã chỉ ra rằng, nhờ có chiến lược sử dụng nhân tài quốc
gia đúng đắn, đất nước Canada đã vượt qua được tình trạng chảy máu nhân tài
vào giữa những năm 1990 của thế kỷ XX. Không những thế, hiện nay Canada
là một quốc gia thu hút được hàng triệu nhân tài từ nhiều quốc gia trên thế giới.
Do đó, ngày nay, Canada trở thành quốc gia có sự phát triển mạnh, sánh ngang
với nước láng giềng Hoa Kỳ, nhất là về lĩnh vực giáo dục đào tạo và nghiên
cứu khoa học.
Điểm cốt lõi trong các công trình nghiên cứu này, các tác giả đã chỉ rõ
khái niệm trí thức, đặc thù về tính cách của người trí thức, vai trò của trí thức
qua các giai đoạn lịch sử, chính sách sử dụng nhân tài, trí thức ở một số quốc
gia, v.v... Đây cũng là cơ sở lý luận để tác giả luận án vận dụng luận giải những
nội dung chủ yếu của luận án có tính bao quát, toàn diện và phù hợp hơn với xu
thế chung của thế giới.
Hai là, các công trình nghiên cứu về phụ nữ, bình đẳng giới
Cuốn sách của Barbara Kllerman, Deborah L.Rode, Phụ nữ và Quyền
lãnh đạo [9] đã tập trung nghiên cứu sự phát triển của phụ nữ ở nhiều quốc gia
với những thống kê, phân tích cụ thể, cung cấp cái nhìn toàn diện về các chức
24
vụ lãnh đạo còn ít ỏi của phụ nữ hiện nay, lý do của thực trạng này và những
biện pháp có thể thực hiện để thay đổi thực trạng ấy. Xã hội chúng ta đã có
tiến bộ to lớn trong nhiều thập kỷ qua trong việc mở rộng các cơ hội lãnh đạo
cho phụ nữ.
Tổ chức UNIFEM (United Nations Development Fun Women - Quỹ
Phát triển Phụ nữ của Liên Hợp quốc) trong cuốn sách Gender and
Accountability (Giới và Trách nhiệm giải trình) [116] đã chỉ ra những nỗ lực
của thế giới trong việc xóa bỏ bất bình đẳng giới và thực hiện lồng ghép giới
nhằm đáp ứng tốt hơn quyền lợi cho phụ nữ, góp phần làm thay đổi cách mà
chúng ta vẫn nghĩ về trách nhiệm giải trình đối với vấn đề giới ở một số lĩnh
vực khác nhau của đời sống.
Công trình khoa học của UNIFEM, Đảm bảo các Mục tiêu phát triển
thiên niên kỷ phục vụ toàn thể nhân dân: Các phương pháp tiếp cận đáp
ứng Giới dựa trên các quyền con người [117] được xây dựng nhằm hỗ trợ
các nhà hoạch định chính sách, các nhà lập kế hoạch và các nhà thực hành
thuộc khu vực Chính phủ và xã hội dân sự để phát triển, thực hiện và giám
sát các chiến lược để đạt mục tiêu cho tất cả mọi phụ nữ và nam giới, trẻ
em gái và trẻ em trai theo cách thức phù hợp với các mục tiêu toàn cầu và
các chỉ số trên cơ sở đặc điểm của bối cảnh quốc gia, dân tộc và địa
phương cụ thể.
UN Women (Cơ quan phụ nữ Liên Hợp Quốc), Pháp luật của chúng
ta có thể thúc đẩy bình đẳng giới, Sổ tay nghiên cứu rà soát pháp luật dựa
trên công ước CEDEW [118] tài liệu này được xây dựng dựa trên kinh
nghiệm của các nước Đông Nam Á nhưng lại có khả năng áp dụng ra toàn
cầu. Tài liệu có nội dung hướng dẫn rà soát luật pháp nhằm đánh giá luật
có phân biệt đối xử với phụ nữ hay không. Đây là một tài liệu có giá trị
tham khảo cho tác giả luận án trong quá trình nghiên cứu tác động của
25
chính sách pháp luật Việt Nam đến đội ngũ nữ trí thức ở các trường chính
trị hiện nay.
UN Women, Suy nghĩ về bình đẳng giới và quyền con người trong công
tác đánh giá [119]. Báo cáo đã miêu tả thách thức hiện nay trong công tác đánh
giá về bình đẳng giới và quyền con người của phụ nữ. Đây là cơ sở cho việc
nghiên cứu cũng như khảo sát giữa các chuyên gia và các nhà thực tiễn trong
việc thúc đẩy bình đẳng giới và tăng quyền cho phụ nữ.
The World Development Report (Ngân hàng phát triển thế giới),
Gender Equality and Development - Báo cáo phát triển toàn cầu: Bình đẳng
giới và phát triển [64]. Báo cáo đã phân tích những nội dung chính như vai
trò của bình đẳng giới trong sự phát triển chung và cho kinh tế. Báo cáo tập
trung vào bốn ưu tiên chính: Giảm chênh lệch về giới trong phát triển con
người; thu ngắn khoảng cách về giới trong việc tiếp cận các cơ hội kinh
tế; thu hẹp sự khác biệt về giới tại nơi làm việc cũng như trong việc bày tỏ ý
kiến của người dân; giảm thiểu dần sự mất cân bằng giới tính trong sinh sản
ở các thế hệ sau.
Deborah Chatsis trong bài viết Chính sách công và sự trao quyền cho phụ
nữ: Bài học từ Canada [14] đã đưa ra một bức tranh về việc đảm bảo sự đại diện
đầy đủ của phụ nữ trong các cấp chính quyền ở Canada, nhất là sự đóng góp
ngày càng nhiều của phụ nữ vào khu vực nhà nước. Đồng thời, tác giả bài viết
cũng đã đưa ra một số bài học kinh nghiệm thực tế từ Canada trong các nỗ lực
thúc đẩy sự trao quyền cho phụ nữ. Bài viết giúp cho tác giả luận án có cơ sở để
đánh giá sự khách quan, đa chiều về thực tiễn vai trò của nữ trí thức trong các
trường chính trị trong vai trò là người lãnh đạo, quản lý.
Những những tài liệu của một số cá nhân và tổ chức nước ngoài là
nguồn tư liệu cung cấp cơ sở lý luận để tác giả luận án luận giải về nữ trí thức
trong các trường chính trị ở Việt Nam hiện nay.
26
1.3. ĐÁNH GIÁ NHỮNG CÔNG TRÌNH TỔNG QUAN VÀ NHỮNG VẤN
ĐỀ LUẬN ÁN TIẾP TỤC LÀM SÁNG TỎ
1.3.1. Những giá trị cần tham khảo và những “khoảng trống” chưa
tiếp cận trong các công trình tổng quan
Thông qua tổng quan tình hình nghiên cứu những vấn đề liên quan đến
đề tài luận án, tác giả khái quát một số giá trị chủ yếu của các công trình tổng
quan, luận án cần kế thừa và phát triển:
Thứ nhất, các công trình nghiên cứu đã hệ thống hóa một số cách tiếp
cận về trí thức, trí thức Việt Nam trên nhiều bình diện đa dạng và phong phú:
Từ quan niệm, định nghĩa về trí thức, cho đến nhận thức, đánh giá vai trò của
đội ngũ trí thức trong các lĩnh vực của đời sống xã hội,… Các công trình còn
luận bàn việc phát huy vai trò của đội ngũ trí thức Việt Nam trong thời kỳ
công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.
Thứ hai, các công trình, bài viết của các tác giả đã đóng góp quan trọng
về mặt lý luận và thực tiễn, luận giải những vấn đề về phụ nữ, vai trò của phụ
nữ trong gia đình và xã hội, thuận lợi, khó khăn của họ khi thực hiện vai trò
“kép” này.
Thứ ba, các công trình nghiên cứu, các bài viết đã phân tích làm rõ vị
trí, vai trò quan trọng của đội ngũ trí thức nói chung, nữ trí thức nói riêng - bộ
phận tinh tuý nhất của nguồn nhân lực trong phát triển đất nước.
Thứ tư, các nhà khoa học Việt Nam đã bước đầu đưa ra quan niệm nữ
trí thức ở những góc độ nhất định: Định tính, định lượng; làm rõ vai trò quan
trọng của nữ trí thức là lực lượng xung kích đi đầu trong sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức, hội nhập quốc tế,
phát triển bền vững của đất nước.
Thứ năm, các tác giả đã phân tích làm rõ thực trạng (thành tựu và hạn
chế) của việc phát huy đội ngũ nữ trí thức, phát triển (đào tạo, sử dụng, quản
27
lý) đội ngũ trí thức, nữ trí thức; đồng thời nhiều tác giả cũng chỉ ra nguyên
nhân cơ bản, những rào cản dẫn đến những hạn chế, yếu kém đó.
Thứ sáu, một số học giả đã đưa ra những giải pháp nhằm phát triển đội
ngũ trí thức, nữ trí thức. Đặc biệt, có một số tác giả đã làm rõ thực trạng
nguồn lực của Việt Nam, trong đó có nguồn lực nữ trí thức trong những năm
qua, đưa ra những dự báo về nhu cầu, xu thế, giải pháp phát triển nguồn lực
nữ trí thức.
Thứ bảy, một số công trình khoa học đã nêu và phân tích chính sách
của Đảng, Nhà nước về phát triển nữ trí thức nhằm phát huy hiệu quả nguồn
lực này, từng bước thực hiện bình đẳng giới.
Thứ tám, một số học giả bước đầu đã có những bài viết, công trình
nghiên cứu về trường chính trị, công tác giảng dạy lý luận chính trị ở trường
chính trị và một số bài viết liên quan trực tiếp đến đội ngũ giảng viên ở trường
chính trị.
Bên cạnh những giá trị to lớn về mặt khoa học mà các công trình
nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án đã đạt được, vẫn còn những “khoảng
trống” chưa nghiên cứu như sau:
Một là, chưa có công trình nghiên cứu khoa học chuyên sâu về nữ trí
thức trong các trường chính trị ở Việt Nam, nhất là dưới góc độ chính trị - xã
hội. Đã có một vài bài viết liên quan đến nữ trí thức các trường chính trị, song
chưa đi sâu làm rõ nhằm khẳng định việc phát huy vai trò của nữ trí thức
trong các trường chính trị là một yêu cầu bức thiết của sự nghiệp đào tạo cán
bộ, lãnh đạo, quản lý trong hệ thống chính trị cấp cơ sở hiện nay.
Hai là, trong thời gian qua, những công trình khoa học đã đề xuất nhiều
giải pháp phát triển nữ trí thức nói chung. Tuy nhiên, các giải pháp vẫn chưa
có tính hệ thống, toàn diện, nhất là còn chưa thật sâu sắc về quan điểm giới, từ
đó có thể áp dụng vào thực tiễn một cách có hiệu quả trong các trường chính
28
trị hiện nay, tránh tình trạng “lãng phí chất xám”, ảnh hưởng đến ngân sách
đào tạo của các cá nhân, gia đình, Nhà nước. Đặc biệt, phải có những giải
pháp mang tính trọng tâm, trọng điểm, có tính chuyên biệt, tạo bước đột phá
để đẩy mạnh việc phát huy vai trò của nữ trí thức trong các trường chính trị
hướng tới mục tiêu nâng cao chất lượng công tác đào tạo, bồi dưỡng của nhà
trường, góp phần phát huy toàn diện vai trò của nữ trí thức Việt Nam trong
mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
1.3.2. Những vấn đề luận án tiếp tục làm sáng tỏ
Một là, làm rõ một số vấn đề chung về đội ngũ nữ trí thức các trường
chính trị, gồm:
- Đặc điểm cơ bản của nữ trí thức trong các trường chính trị về nguồn
đào tạo, số lượng và nhóm tuổi, về trình độ học vấn, môi trường công tác,
tính chất nghề nghiệp.
- Vai trò của nữ trí thức trong các trường chính trị tham gia các nhiệm
vụ chính trị cơ bản của nhà trường: Hoạt động đào tạo lý luận chính trị, hoạt
động nghiên cứu khoa học và hoạt động lãnh đạo, quản lý.
- Những yếu tố tác động đến vai trò của nữ trí thức trong các trường
chính trị, như: Công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri
thức, bảo vệ tài nguyên môi trường; kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa; văn hóa truyền thống Việt Nam; công tác lý luận chính trị và đào tạo lý
luận chính trị của Đảng hiện nay.
Hai là, luận án phân tích thực trạng thực hiện vai trò và những vấn đề
đặt ra đối với nữ trí thức trong các trường chính trị hiện nay.
- Trên cơ sở đặc điểm, vai trò của nữ trí thức trong các trường chính
trị, tác giả luận án đã tập trung làm rõ những thành tựu, hạn chế trong thực
hiện vai trò của nữ trí thức trong các trường chính trị trên các lĩnh vực đào
tạo lý luận chính trị, nghiên cứu khoa học, lãnh đạo, quản lý.
29
- Phân tích, chỉ rõ những vấn đề đặt ra đối với nữ trí thức trong các
trường chính trị cần tiếp tục nghiên cứu và giải quyết như: Vấn đề nhận thức,
cơ chế, chính sách của Đảng, Nhà nước, địa phương, bản thân đội ngũ nữ trí
thức về trình độ, năng lực, tâm lý…
Ba là, từ thực trạng và vấn đề đặt ra trong thực hiện vai trò của nữ trí
thức trong các trường chính trị ở Việt Nam, luận án đã nêu lên những quan
điểm chỉ đạo và đề xuất những giải pháp cơ bản: Giải pháp nâng cao nhận
thức của xã hội về vai trò của đội ngũ nữ trí thức trong các trường chính trị;
giải pháp về nâng cao trình độ, năng lực cho nữ trí thức trong các trường
chính trị đáp ứng với yêu cầu nhiệm vụ hiện nay; giải pháp nâng cao chất
lượng cuộc sống, tạo động lực phát huy vai trò của nữ trí thức trong các
trường chính trị; giải pháp đảm bảo cho nữ trí thức giải quyết hài hòa
chức năng “kép”, gia đình và sự nghiệp.
Kết luận chương 1
Có thể nói, đội ngũ nữ trí thức Việt Nam đóng vai trò quan trọng đối với
quá trình phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta giai đoạn hiện nay. Tổng hợp và
phân tích những công trình tiêu biểu liên quan đến đề tài luận án cho thấy, các
học giả, các nhà nghiên cứu đã tập trung luận bàn về: Trí thức, vai trò của trí
thức Việt Nam trong quá trình phát triển đất nước; phụ nữ và cách thức giải
quyết vấn đề bình đẳng giới. Đồng thời, các công trình nghiên cứu, các bài
viết tập trung làm rõ về nữ trí thức và vai trò của nữ trí thức đối với sự phát
triển của đất nước. Nhiều công trình nghiên cứu đã đề xuất những giải pháp,
cách thức nhằm phát huy vai trò của nữ trí thức Việt Nam trong bối cảnh toàn
cầu hóa, hội nhập quốc tế.
Đối với các trường chính trị và nữ trí thức trong các trường chính trị,
các bài viết của một số học giả mới chỉ bước đầu đánh giá về công tác đào
30
tạo, bồi dưỡng ở trường chính trị và đội ngũ giảng viên, nữ giảng viên trong
công tác đào tạo, nghiên cứu khoa học; chưa có nhiều bài viết, công trình
nghiên cứu khoa học đánh giá trực tiếp về nữ trí thức, phát huy vai trò của nữ
trí thức trong các trường chính trị hiện nay.
Ở góc độ chính trị - xã hội, dưới những hình thức thể hiện khác nhau
(những công trình đã in thành sách, đề tài nghiên cứu khoa học, luận án tiến
sỹ, các bài viết đăng trên các tạp chí khoa học...), các công trình đã làm sáng
tỏ cả về mặt lý luận và thực tiễn, đạt những giá trị khoa học và thực tiễn sâu
sắc khi đánh giá về đội ngũ trí thức, nữ trí thức, vai trò của trí thức, nữ trí
thức, về phụ nữ và vấn đề bình đẳng giới. Nhiều bài viết đã cung cấp cách
tiếp cận, những gợi mở đối với nghiên cứu phát huy vai trò của nữ trí thức
trong các trường chính trị, song cho đến nay chưa có công trình khoa học nào
từ cấp độ luận án trở lên trực tiếp nghiên cứu về đối tượng nữ trí thức trong
các trường chính trị ở Việt Nam.
Qua các công trình đã tổng quan trên, một mặt, tác giả kế thừa có chọn
lọc những kết quả nghiên cứu phục vụ cho mục đích luận án của mình, mặt
khác, giúp cho tác giả nhận thức rõ hơn những khía cạnh mà các công trình
trước đó chưa đề cập, chưa nghiên cứu hoặc mới chỉ làm rõ ở những góc độ
khoa học khác nhau. Đây chính là những gợi mở để tác giả xây dựng những
hướng nghiên cứu trong luận án của mình.
31
Chương 2
ĐẶC ĐIỂM, VAI TRÒ VÀ NHỮNG YẾU TỐ TÁC ĐỘNG
ĐẾN NỮ TRÍ THỨC TRONG CÁC TRƯỜNG CHÍNH TRỊ
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1. QUAN NIỆM VỀ NỮ TRÍ THỨC, NỮ TRÍ THỨC TRONG CÁC TRƯỜNG
CHÍNH TRỊ Ở VIỆT NAM
2.1.1. Quan niệm về nữ trí thức Việt Nam
Thứ nhất, quan niệm về trí thức
Thuật ngữ “trí thức” được sử dụng rộng rãi trên thế giới, có nguồn gốc
xuất phát từ tiếng Latinh: Intelligentia (sự thông minh, sự hiểu biết). Bàn về
khái niệm trí thức, các nhà nghiên cứu trong nước và quốc tế đã đưa ra những
cách hiểu, định nghĩa khác nhau.
Giới nghiên cứu ở nước ta cũng đưa ra nhiều định nghĩa về trí thức, tuy
nhiên, để trả lời câu hỏi: Ai là trí thức? đa số đều thống nhất cho rằng, trí thức
có những đặc điểm tạo nên sự khác biệt với các nhóm xã hội khác trong xã
hội. Họ là tầng lớp đặc biệt, vì ở họ hội tụ những đặc điểm có tính chất
chuyên biệt riêng có, như: Trình độ học vấn cao, chuyên môn sâu; là người có
phẩm chất đạo đức tốt, có lương tâm; lao động mang tính sáng tạo và rất phức
tạp. Trong đó, giá trị quan trọng nhất trong lao động của trí thức là những sản
phẩm trí tuệ mà họ làm ra [74, tr.15]. Những đặc điểm này đã được nhấn
mạnh trong Nghị quyết số 27-NQ/T.Ư ngày 27 tháng 8 năm 2009 của Đảng.
Theo đó: “Trí thức là những người lao động trí óc, có trình độ học vấn cao về
lĩnh vực chuyên môn nhất định, có năng lực tư duy độc lập, sáng tạo, truyền
bá và làm giàu tri thức, tạo ra những sản phẩm tinh thần và vật chất có giá trị
đối với xã hội” [21, tr.81].
Thứ hai, quan niệm về nữ trí thức
Nữ trí thức là một bộ phận quan trọng trong đội ngũ trí thức cả nước và
là một bộ phận tiêu biểu của phụ nữ Việt Nam. Họ mang đầy đủ những phẩm
32
chất cần có của đội ngũ trí thức, đồng thời họ cũng hội tụ cả những phẩm chất
tốt đẹp đặc trưng của phụ nữ Việt Nam.
Khi bàn về nữ trí thức, có ý kiến cho rằng, các quan niệm về trí thức
hiện nay nói chung không có sự phân biệt về giới tính (nam - nữ). Do vậy, khi
định nghĩa về trí thức có thể ứng dụng để nhận diện cả nam trí thức và nữ trí
thức. Tuy nhiên, theo tác giả luận án quan niệm này mới chỉ cho thấy đặc
điểm của nữ trí thức dưới góc độ là một người trí thức, nhưng chưa chỉ ra
được nét đặc thù riêng của họ so với nam trí thức nhìn từ góc độ giới.
Quan niệm khác lại cho rằng: “Nữ trí thức là những người có trình độ
cử nhân trở lên, làm công việc liên quan đến hoạt động trí tuệ và có tính sáng
tạo, tạo ra những sản phẩm tinh thần và vật chất có giá trị cho xã hội” [86].
Ở mỗi góc độ khác nhau, có những định nghĩa, quan niệm khác nhau về
nữ trí thức. Trên cơ sở tiếp cận những quan niệm của một số học giả, tác giả
luận án nhận thấy có những điểm chung, thống nhất giữa những nhà nghiên
cứu khi định nghĩa về nữ trí thức như:
Một là, nữ trí thức là bộ phận hợp thành của đội ngũ trí thức. Xét về
bản chất ở họ hội tụ đầy đủ những đặc trưng cơ bản của đội ngũ trí thức nói
chung như: Lao động trí óc, có năng lực tư duy độc lập sáng tạo, có trình độ
học vấn cao về lĩnh vực chuyên môn nhất định,...
Hai là, nữ trí thức là một bộ phận tinh hoa của giới nữ. Họ là lực lượng
tiêu biểu cho giới nữ. Ở họ hội tụ những phẩm chất tốt đẹp đặc trưng của phụ
nữ (đức tính cần cù, chịu thương chịu khó, khéo léo, đảm đang,…). Vì vậy "tư
cách trí thức và tư cách nữ gắn bó hữu cơ trong mỗi nữ trí thức nước ta” [74,
tr.20]. Hai đặc điểm trên đã chỉ rõ nữ trí thức vừa là người trí thức, vừa là phụ
nữ, có những điểm đặc thù phân biệt với những người trí thức nói chung.
Như vậy, nữ trí thức là những người có trình độ học vấn cao, đang làm
việc trên các lĩnh vực cơ bản của đời sống xã hội. Họ lao động trí óc là chủ
33
yếu có tính chất sáng tạo và phức tạp tạo ra những sản phẩm tinh thần, vật
chất có giá trị cho xã hội. Nữ trí thức, nhìn từ chiều cạnh giáo dục, họ là
những người có học vấn và trình độ chuyên môn kỹ thuật cao, giỏi kỹ năng,
giàu kinh nghiệm. Họ là một bộ phận quan trọng trong đội ngũ trí thức cả
nước. Nhìn từ chiều cạnh giới tính, họ vừa là bộ phận tiêu biểu về trí tuệ của
phụ nữ Việt Nam, đồng thời là những người vợ, người mẹ, người thầy đầu
tiên của con người, có vai trò vô cùng quan trọng đối với sự nghiệp trồng
người và xây dựng gia đình bền vững.
2.1.2. Quan niệm về nữ trí thức trong các trường chính trị ở Việt Nam
Nữ trí thức trong các trường chính trị hiện nay là một bộ phận của nữ
trí thức Việt Nam, là những người lao động trí óc, có năng lực tư duy độc lập,
sáng tạo; có trình độ học vấn cao; có bản lĩnh chính trị vững vàng, đang trực
tiếp tham gia truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường
lối, các nghị quyết, chỉ thị của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước,
kiến thức và chuyên môn, nghiệp vụ về công tác xây dựng Đảng, chính
quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội, kiến thức về
pháp luật và quản lý nhà nước và một số lĩnh vực khác cho cán bộ trong hệ
thống chính trị cấp cơ sở trên toàn quốc hiện nay.
Là một bộ phận của nữ trí thức Việt Nam nhưng do sự phân công lao
động xã hội, cơ cấu nghề nghiệp, nữ trí thức trong các trường chính trị vừa có
những đặc điểm chung của nữ trí thức cả nước, vừa có nét riêng mang tính
đặc thù của môi trường công tác, cụ thể:
Thứ nhất, cũng giống như nữ trí thức Việt Nam, nữ trí thức trong các
trường chính trị là những người lao động trí óc, có năng lực tư duy độc lập,
sáng tạo; có trình độ học vấn cao. Tuy nhiên, chuyên ngành được đào tạo
chuyên sâu của đội ngũ này chủ yếu là các ngành khoa học xã hội và nhân
34
văn, lĩnh vực chính trị - xã hội (Triết học, Kinh tế chính trị, Chủ nghĩa xã hội
khoa học, Luật học, Xây dựng Đảng, Lịch sử Đảng, Khoa học hành chính,…).
Thứ hai, do xuất phát từ yêu cầu của thực tiễn công việc đảm nhận, nữ
trí thức trong các trường chính trị thường được đào tạo có hệ thống về trình
độ lý luận (từ Trung cấp lý luận chính trị, Cao cấp lý luận chính trị và Cử
nhân chính trị). Đồng thời, đội ngũ này cũng có khả năng góp phần định
hướng trực tiếp cho công tác lý luận của Đảng trong phạm vi hệ thống chính
trị cấp cơ sở.
Thứ ba, ngoài những chuẩn mực đạo đức, nghề nghiệp của nữ trí thức
nói chung, nữ trí thức trong các trường chính trị phải luôn được nhấn mạnh về
bản lĩnh chính trị vững vàng, trung thành với sự nghiệp cách mạng của Đảng,
của nhân dân, có “tâm” với nghề giáo. Bởi lẽ, lực lượng này đang trực tiếp
thực hiện công tác “huấn luyện” cán bộ của Đảng ở cấp cơ sở về lý luận chính
trị - hành chính, đường lối, các nghị quyết, chỉ thị của Đảng, chính sách và
pháp luật của Nhà nước, kiến thức và chuyên môn, nghiệp vụ về công tác xây
dựng Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội,
kiến thức về pháp luật và quản lý nhà nước và một số lĩnh vực khác.
Thứ tư, nữ trí thức trong các trường chính trị chủ yếu hoạt động trên
các lĩnh vực: Hoạt động đào tạo (giảng dạy, bồi dưỡng), nghiên cứu khoa học
và lãnh đạo, quản lý. Đối tượng đào tạo của họ là cán bộ lãnh đạo, quản lý của
Đảng, chính quyền, đoàn thể nhân dân cấp cơ sở (xã, phường, thị trấn và các
đơn vị tương đương); trưởng, phó phòng, ban, ngành, đoàn thể cấp huyện và
tương đương; trưởng, phó phòng của sở, ban, ngành, đoàn thể cấp tỉnh và
tương đương; cán bộ dự nguồn các chức danh trên; cán bộ, công chức cấp cơ
sở và một số đối tượng. Trình độ họ tham gia đào tạo là trung cấp lý luận
chính trị - hành chính và bồi dưỡng, cập nhật kiến thức, kỹ năng lãnh đạo,
chuyên môn, nghiệp vụ,… cho các đối tượng trên [20].
35
2.2. ĐẶC ĐIỂM VÀ VAI TRÒ CỦA NỮ TRÍ THỨC TRONG CÁC TRƯỜNG
CHÍNH TRỊ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
2.2.1. Chức năng, nhiệm vụ của các trường chính trị
Ngày 05 tháng 09 năm 1994 Ban Bí thư Trung ương Đảng đã ban hành
Quyết định số 88-QĐ/TW về việc thành lập trường chính trị cấp tỉnh, thành
phố trực thuộc Trung ương để tăng cường và thống nhất sự lãnh đạo, quản lý
của các tỉnh, thành ủy và ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố đối với công tác
đào tạo, bồi dưỡng cán bộ. Trường chính trị tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương được thành lập trên cơ sở hợp nhất trường đảng và trường hành chính
hoặc trường quản lý nhà nước của tỉnh, thành phố, gọi chung là trường chính
trị tỉnh, thành phố.
Căn cứ vào Điều lệ Đảng, căn cứ Quy chế làm việc của Ban Chấp hành
Trung ương, Bộ Chính trị và Ban Bí thư khóa X, Nghị quyết Hội nghị lần thứ
tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa X) về đổi mới, kiện toàn tổ chức
bộ máy các cơ quan Đảng, định hướng về đổi mới tổ chức bộ máy Nhà nước,
Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội, Ban Chấp hành Trung
ương Đảng đã ban hành Quyết định số 184-QĐ/TW ngày 03/9/2008 về “chức
năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy của trường chính trị tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương”. Quyết định nêu rõ:
Về vị trí, “Trường chính trị tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương là
đơn vị sự nghiệp trực thuộc tỉnh ủy, thành ủy và ủy ban nhân dân tỉnh, thành
phố, đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp và thường xuyên của ban thường vụ tỉnh
ủy, thành ủy” [20]. Theo đó, trường chính trị có vị trí như một ban, ngành
cấp tỉnh, thành phố, giống như các sở, ban, ngành khác của tỉnh, thành phố.
Nhà trường có con dấu và tài khoản riêng để hoạt động. Tỉnh ủy, thành ủy
quyết định bộ máy biên chế, chính sách đối với cán bộ và học viên của
trường; lãnh đạo, chỉ đạo nội dung, quy hoạch, kế hoạch đào tạo bồi dưỡng
36
cán bộ. Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố quản lý hướng dẫn quy chế đào tạo,
kế hoạch ngân sách, kinh phí đào tạo, cơ sở vật chất và các nhu cầu hoạt
động khác của nhà trường. Về nghiệp vụ, trường chính trị chịu sự chỉ đạo,
hướng dẫn về nghiệp vụ của Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ
Chí Minh (nay là Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh).
Về chức năng,
Trường chính trị tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có chức
năng tổ chức đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý của hệ
thống chính trị cấp cơ sở, cán bộ, công chức ở địa phương về lý
luận chính trị - hành chính; đường lối, các nghị quyết, chỉ thị của
Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước; kiến thức và chuyên
môn, nghiệp vụ về công tác xây dựng Đảng, chính quyền, Mặt trận
Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội; kiến thức về pháp luật và
quản lý nhà nước và một số lĩnh vực khác [20].
Tại Điều 2 của Quyết định số 184-QĐ/TW đã nêu rõ nhiệm vụ của các
trường chính trị như sau:
Một là, trường có nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý
của Đảng, chính quyền, đoàn thể nhân dân cấp cơ sở (xã, phường, thị trấn và
các đơn vị tương đương); trưởng, phó phòng, ban, ngành, đoàn thể cấp huyện
và tương đương; trưởng, phó phòng của sở, ban, ngành, đoàn thể cấp tỉnh và
tương đương; cán bộ dự nguồn các chức danh trên; cán bộ, công chức cấp cơ
sở và một số đối tượng khác về chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh; về đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước; về nghị
quyết, chỉ thị của Đảng và Nhà nước và một số lĩnh vực khác.
Hai là, trường có nhiệm vụ đào tạo Trung cấp Lý luận chính trị - Hành
chính cho cán bộ lãnh đạo, quản lý của hệ thống chính trị cấp cơ sở; cán bộ,
công chức, viên chức ở địa phương.
37
Ba là, bồi dưỡng, cập nhật kiến thức, kỹ năng lãnh đạo, chuyên môn,
nghiệp vụ cho các chức danh cán bộ lãnh đạo, quản lý; cán bộ chuyên môn,
nghiệp vụ của các tổ chức đảng, chính quyền, đoàn thể nhân dân cấp cơ sở.
Bốn là, có nhiệm vụ bồi dưỡng, cập nhật kiến thức cho đại biểu hội
đồng nhân dân cấp xã, cấp huyện.
Năm là, đào tạo tiền công vụ đối với công chức dự bị; bồi dưỡng
chuyên viên và các chức danh tương đương.
Sáu là, trường chính trị phối hợp với ban Tuyên giáo tỉnh ủy, thành ủy
trực thuộc Trung ương hướng dẫn và bồi dưỡng nghiệp vụ, phương pháp giảng
dạy cho đội ngũ giảng viên của trung tâm bồi dưỡng chính trị cấp huyện.
Bảy là, tổ chức nghiên cứu khoa học phục vụ giảng dạy, học tập và
tổng kết kinh nghiệm thực tiễn ở địa phương, cơ sở.
Tám là, có nhiệm vụ mở các lớp đào tạo, bồi dưỡng ngoài các đối
tượng đã nêu trên theo chỉ đạo của cấp ủy, chính quyền địa phương.
Theo quy định của Ban Bí thư Trung ương Đảng, trong công tác đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý và cán bộ, công chức cấp cơ sở các trường
chính trị cần bám sát chức năng, nhiệm vụ để có thể mở rộng quy mô đào tạo,
quán triệt tốt quan điểm cơ bản của Đảng trong công tác đào tạo cán bộ; thực
hiện hiệu quả việc đa dạng hóa chương trình đào tạo, hình thức đào tạo, bồi
dưỡng, đổi mới nội dung chương trình theo hướng thiết thực.
Cũng tại Điều 3 của Quyết định 184-QĐ/TW ngày 03 tháng 9 năm
2008 của Ban Bí thư Trung ương Đảng khóa X, quy định rõ về cơ cấu tổ chức
bộ máy của các trường chính trị có Ban Giám hiệu (gồm Hiệu trưởng và các
Phó Hiệu trưởng); 04 khoa (Khoa Lý luận Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, Khoa Xây dựng Đảng, Khoa Dân vận, Khoa Nhà nước và pháp luật) và
03 phòng chức năng (Phòng Đào tạo, Phòng Nghiên cứu khoa học - Thông tin
- Tư liệu và Phòng Tổ chức - Hành chính - Quản trị) [20].
38
Trên cơ sở về tổ chức bộ máy, nhiệm vụ chính trị thực hiện, Ban
thường vụ các tỉnh ủy, thành ủy xem xét, quyết định cụ thể số biên chế cho
trường với định khung biên chế chung không quá 60 cán bộ, công chức, viên
chức, người lao động. Riêng thành phố Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, tỉnh
Thanh Hoá, tỉnh Nghệ An, tuỳ theo quy mô có thể nhiều hơn nhưng không
quá 90 người. Trong tổng số biên chế, cán bộ giảng dạy và nghiên cứu phải
chiếm từ 2/3 trở lên.
Ngoài số biên chế theo quy định, trường chính trị được thực hiện chế
độ giảng viên kiêm nhiệm.
Các trường chính trị ở Việt Nam hiện nay đều là những đơn vị có
truyền thống bề dày lịch sử; nơi đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ lý luận
chính trị cho nhiều thế hệ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp ở cơ sở. Cùng với
quá trình trưởng thành và phát triển của nhà trường, đội ngũ trí thức của 63
trường chính trị cũng không ngừng lớn mạnh cả về số lượng và chất lượng,
ngày càng đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp giáo dục, đào tạo, trong đó nữ
trí thức là lực lượng nòng cốt không thể thiếu.
2.2.2. Đặc điểm của nữ trí thức trong các trường chính trị
2.2.2.1. Về nguồn đào tạo
Trong hệ thống các trường chính trị hiện nay, theo thống kê chưa đầy
đủ, đội ngũ nữ trí thức chiếm khoảng 43% tổng số trí thức của cả hệ thống.
Trong đó, có khoảng 13% nữ trí thức được đào tạo, trưởng thành trước thời
kỳ đổi mới và 87% nữ trí thức được đào tạo, trưởng thành trong thời kỳ đổi
mới đất nước [120].
Thực tiễn nguồn đào tạo của đội ngũ nữ trí thức ở các trường chính
trị đã góp phần khẳng định tính đúng đắn, phù hợp trong tư duy của Đảng
về giải phóng và phát huy vai trò của phụ nữ trong sự nghiệp cách mạng.
Hiện nay, nữ trí thức Việt Nam nói chung, nữ trí thức trong các trường
39
chính trị nói riêng đã có những điều kiện thuận lợi nhiều hơn so với thời kỳ
trước. Họ ngày càng được bình đẳng so với nam giới trong thực hiện nhiệm
vụ đào tạo, nghiên cứu khoa học, lãnh đạo, quản lý và các hoạt động khác.
Về cơ bản họ đã được công bằng so với nam giới trong đóng góp và hưởng
thụ. Họ ngày càng được Đảng và Nhà nước, lãnh đạo các địa phương quan
tâm hơn, được đào tạo chính quy, cơ bản và có hệ thống, được bồi dưỡng
về chuyên môn, nghiệp vụ, đáp ứng ngày càng cao yêu cầu thực tiễn của
công việc chuyên môn.
Qua khảo sát cho thấy, nữ trí thức trong các trường chính trị được đào
tạo trong nước là chủ yếu và chiếm số lượng lớn. Chẳng hạn, Trường Chính
trị tỉnh Nghệ An có 34 nữ trí thức (từ đại học trở lên) đều đào tạo ở trong
nước [56]. Trường Chính trị tỉnh Phú Thọ hiện nay có 48 nữ trí thức, trong đó
trình độ đại học: 09, thạc sỹ: 39 (trong đó có 01 nghiên cứu sinh) đều đào tạo
trong nước [103].
Ở các trường chính trị, nữ trí thức được đào tạo trong nước chiếm phần
đông cũng đang là một lợi thế lớn, góp phần thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị
mà Học viện Chính trị quốc Gia Hồ Chí Minh và các tỉnh ủy, ủy ban nhân dân
tỉnh, thành ủy, ủy ban nhân dân thành phố giao. Vì, ưu thế nổi bật của bộ
phận này là được trang bị lập trường tư tưởng chính trị vững vàng, có kiến
thức nhất định về lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin; được đào tạo chuyên sâu
trong lĩnh vực chuyên môn làm việc, hiểu sâu, rõ hơn tình hình thực tiễn của
đất nước, địa phương,... những phẩm chất này rất cần đối với môi trường công
tác đặc thù tính đảng ở các trường chính trị hiện nay.
Ngoài ra, có một bộ phận nhỏ nữ trí thức trong các trường chính trị
được đào tạo ở nước ngoài (trình độ đại học, trên đại học). Ưu thế của bộ
phận này là họ có năng lực thực hành khá; được tiếp xúc với nền khoa học
tiên tiến, nền văn hóa, giá trị truyền thống của nhiều quốc gia, dân tộc; có
40
trình độ ngoại ngữ tốt; phương pháp, tác phong làm việc khá khoa học; tiếp
cận và sử dụng thành thạo công nghệ thông tin, mức độ vận dụng các
phương pháp giảng dạy tích cực có tính hiệu quả cao,... điều này là rất cần
thiết với yêu cầu sự nghiệp đào tạo, nghiên cứu khoa học, tham gia lãnh đạo,
quản lý trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế hiện nay. Tuy nhiên, ở
các trường chính trị, số lượng nữ trí thức được đào tạo ở nước ngoài chiếm tỷ
lệ thấp (khoảng 2,7% trong tổng số nữ trí thức của 63 trường), thấp hơn nhiều
so với các đơn vị hành chính sự nghiệp, các sở, ban, ngành, các trường cao
đẳng, đại học đặt trên địa bàn tỉnh, thành phố. Hầu hết các trường chính trị
chưa có nữ trí thức được đào tạo ở nước ngoài. Hiện nay, ở Trường Chính trị
Tô Hiệu thành phố Hải Phòng, có 02 tiến sĩ trong tổng số 32 nữ trí thức,
trong đó có 01 tiến sĩ được đào tạo ở nước ngoài (Trung Quốc) [109]. Đây
cũng là vấn đề cần được quan tâm trong tạo nguồn nữ trí thức ở các trường
chính trị trong thời gian tới.
Nhìn chung, nữ trí thức trong các trường chính trị dù được đào tạo từ
nguồn nào, đều có những điểm mạnh, yếu khác nhau về tác phong, phong
cách làm việc, về tư duy, về trình độ ngoại ngữ, khả năng sử dụng công nghệ
thông tin, về năng lực giảng dạy, khả năng giải quyết công việc, khả năng
nghiên cứu khoa học, lãnh đạo, quản lý,... Trong quá trình phát triển của các
trường chính trị, đòi hỏi đội ngũ này cần có sự hợp tác, giúp đỡ nhau để phát
huy những điểm mạnh, khắc phục những hạn chế, cùng nhau phát huy sức
mạnh tổng hợp của giới nữ, nữ trí thức trong sự nghiệp đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ lãnh đạo, quản lý của Đảng, chính quyền và đoàn thể cấp cơ sở.
2.2.2.2. Về số lượng và nhóm tuổi
Một là: Theo số liệu thống kê chưa đầy đủ, trong tất cả 63 trường chính trị
trong cả nước, tỷ lệ nữ trí thức so với nam trí thức cũng không thấp hơn nhiều,
chiếm khoảng 43% trong tổng số đội ngũ trí thức của các trường chính trị.
Luận án: Nữ trí thức trong các trường chính trị tỉnh TP ở Việt Nam
Luận án: Nữ trí thức trong các trường chính trị tỉnh TP ở Việt Nam
Luận án: Nữ trí thức trong các trường chính trị tỉnh TP ở Việt Nam
Luận án: Nữ trí thức trong các trường chính trị tỉnh TP ở Việt Nam
Luận án: Nữ trí thức trong các trường chính trị tỉnh TP ở Việt Nam
Luận án: Nữ trí thức trong các trường chính trị tỉnh TP ở Việt Nam
Luận án: Nữ trí thức trong các trường chính trị tỉnh TP ở Việt Nam
Luận án: Nữ trí thức trong các trường chính trị tỉnh TP ở Việt Nam
Luận án: Nữ trí thức trong các trường chính trị tỉnh TP ở Việt Nam
Luận án: Nữ trí thức trong các trường chính trị tỉnh TP ở Việt Nam
Luận án: Nữ trí thức trong các trường chính trị tỉnh TP ở Việt Nam
Luận án: Nữ trí thức trong các trường chính trị tỉnh TP ở Việt Nam
Luận án: Nữ trí thức trong các trường chính trị tỉnh TP ở Việt Nam
Luận án: Nữ trí thức trong các trường chính trị tỉnh TP ở Việt Nam
Luận án: Nữ trí thức trong các trường chính trị tỉnh TP ở Việt Nam
Luận án: Nữ trí thức trong các trường chính trị tỉnh TP ở Việt Nam
Luận án: Nữ trí thức trong các trường chính trị tỉnh TP ở Việt Nam
Luận án: Nữ trí thức trong các trường chính trị tỉnh TP ở Việt Nam
Luận án: Nữ trí thức trong các trường chính trị tỉnh TP ở Việt Nam
Luận án: Nữ trí thức trong các trường chính trị tỉnh TP ở Việt Nam
Luận án: Nữ trí thức trong các trường chính trị tỉnh TP ở Việt Nam
Luận án: Nữ trí thức trong các trường chính trị tỉnh TP ở Việt Nam
Luận án: Nữ trí thức trong các trường chính trị tỉnh TP ở Việt Nam
Luận án: Nữ trí thức trong các trường chính trị tỉnh TP ở Việt Nam
Luận án: Nữ trí thức trong các trường chính trị tỉnh TP ở Việt Nam
Luận án: Nữ trí thức trong các trường chính trị tỉnh TP ở Việt Nam
Luận án: Nữ trí thức trong các trường chính trị tỉnh TP ở Việt Nam
Luận án: Nữ trí thức trong các trường chính trị tỉnh TP ở Việt Nam
Luận án: Nữ trí thức trong các trường chính trị tỉnh TP ở Việt Nam
Luận án: Nữ trí thức trong các trường chính trị tỉnh TP ở Việt Nam
Luận án: Nữ trí thức trong các trường chính trị tỉnh TP ở Việt Nam
Luận án: Nữ trí thức trong các trường chính trị tỉnh TP ở Việt Nam
Luận án: Nữ trí thức trong các trường chính trị tỉnh TP ở Việt Nam
Luận án: Nữ trí thức trong các trường chính trị tỉnh TP ở Việt Nam
Luận án: Nữ trí thức trong các trường chính trị tỉnh TP ở Việt Nam
Luận án: Nữ trí thức trong các trường chính trị tỉnh TP ở Việt Nam
Luận án: Nữ trí thức trong các trường chính trị tỉnh TP ở Việt Nam
Luận án: Nữ trí thức trong các trường chính trị tỉnh TP ở Việt Nam
Luận án: Nữ trí thức trong các trường chính trị tỉnh TP ở Việt Nam
Luận án: Nữ trí thức trong các trường chính trị tỉnh TP ở Việt Nam
Luận án: Nữ trí thức trong các trường chính trị tỉnh TP ở Việt Nam
Luận án: Nữ trí thức trong các trường chính trị tỉnh TP ở Việt Nam
Luận án: Nữ trí thức trong các trường chính trị tỉnh TP ở Việt Nam
Luận án: Nữ trí thức trong các trường chính trị tỉnh TP ở Việt Nam
Luận án: Nữ trí thức trong các trường chính trị tỉnh TP ở Việt Nam
Luận án: Nữ trí thức trong các trường chính trị tỉnh TP ở Việt Nam
Luận án: Nữ trí thức trong các trường chính trị tỉnh TP ở Việt Nam
Luận án: Nữ trí thức trong các trường chính trị tỉnh TP ở Việt Nam
Luận án: Nữ trí thức trong các trường chính trị tỉnh TP ở Việt Nam
Luận án: Nữ trí thức trong các trường chính trị tỉnh TP ở Việt Nam
Luận án: Nữ trí thức trong các trường chính trị tỉnh TP ở Việt Nam
Luận án: Nữ trí thức trong các trường chính trị tỉnh TP ở Việt Nam
Luận án: Nữ trí thức trong các trường chính trị tỉnh TP ở Việt Nam
Luận án: Nữ trí thức trong các trường chính trị tỉnh TP ở Việt Nam
Luận án: Nữ trí thức trong các trường chính trị tỉnh TP ở Việt Nam
Luận án: Nữ trí thức trong các trường chính trị tỉnh TP ở Việt Nam
Luận án: Nữ trí thức trong các trường chính trị tỉnh TP ở Việt Nam
Luận án: Nữ trí thức trong các trường chính trị tỉnh TP ở Việt Nam
Luận án: Nữ trí thức trong các trường chính trị tỉnh TP ở Việt Nam
Luận án: Nữ trí thức trong các trường chính trị tỉnh TP ở Việt Nam
Luận án: Nữ trí thức trong các trường chính trị tỉnh TP ở Việt Nam
Luận án: Nữ trí thức trong các trường chính trị tỉnh TP ở Việt Nam
Luận án: Nữ trí thức trong các trường chính trị tỉnh TP ở Việt Nam
Luận án: Nữ trí thức trong các trường chính trị tỉnh TP ở Việt Nam
Luận án: Nữ trí thức trong các trường chính trị tỉnh TP ở Việt Nam
Luận án: Nữ trí thức trong các trường chính trị tỉnh TP ở Việt Nam
Luận án: Nữ trí thức trong các trường chính trị tỉnh TP ở Việt Nam
Luận án: Nữ trí thức trong các trường chính trị tỉnh TP ở Việt Nam
Luận án: Nữ trí thức trong các trường chính trị tỉnh TP ở Việt Nam
Luận án: Nữ trí thức trong các trường chính trị tỉnh TP ở Việt Nam
Luận án: Nữ trí thức trong các trường chính trị tỉnh TP ở Việt Nam
Luận án: Nữ trí thức trong các trường chính trị tỉnh TP ở Việt Nam
Luận án: Nữ trí thức trong các trường chính trị tỉnh TP ở Việt Nam
Luận án: Nữ trí thức trong các trường chính trị tỉnh TP ở Việt Nam
Luận án: Nữ trí thức trong các trường chính trị tỉnh TP ở Việt Nam
Luận án: Nữ trí thức trong các trường chính trị tỉnh TP ở Việt Nam
Luận án: Nữ trí thức trong các trường chính trị tỉnh TP ở Việt Nam
Luận án: Nữ trí thức trong các trường chính trị tỉnh TP ở Việt Nam
Luận án: Nữ trí thức trong các trường chính trị tỉnh TP ở Việt Nam
Luận án: Nữ trí thức trong các trường chính trị tỉnh TP ở Việt Nam
Luận án: Nữ trí thức trong các trường chính trị tỉnh TP ở Việt Nam
Luận án: Nữ trí thức trong các trường chính trị tỉnh TP ở Việt Nam
Luận án: Nữ trí thức trong các trường chính trị tỉnh TP ở Việt Nam
Luận án: Nữ trí thức trong các trường chính trị tỉnh TP ở Việt Nam
Luận án: Nữ trí thức trong các trường chính trị tỉnh TP ở Việt Nam
Luận án: Nữ trí thức trong các trường chính trị tỉnh TP ở Việt Nam
Luận án: Nữ trí thức trong các trường chính trị tỉnh TP ở Việt Nam
Luận án: Nữ trí thức trong các trường chính trị tỉnh TP ở Việt Nam
Luận án: Nữ trí thức trong các trường chính trị tỉnh TP ở Việt Nam
Luận án: Nữ trí thức trong các trường chính trị tỉnh TP ở Việt Nam
Luận án: Nữ trí thức trong các trường chính trị tỉnh TP ở Việt Nam
Luận án: Nữ trí thức trong các trường chính trị tỉnh TP ở Việt Nam
Luận án: Nữ trí thức trong các trường chính trị tỉnh TP ở Việt Nam
Luận án: Nữ trí thức trong các trường chính trị tỉnh TP ở Việt Nam
Luận án: Nữ trí thức trong các trường chính trị tỉnh TP ở Việt Nam
Luận án: Nữ trí thức trong các trường chính trị tỉnh TP ở Việt Nam
Luận án: Nữ trí thức trong các trường chính trị tỉnh TP ở Việt Nam
Luận án: Nữ trí thức trong các trường chính trị tỉnh TP ở Việt Nam
Luận án: Nữ trí thức trong các trường chính trị tỉnh TP ở Việt Nam
Luận án: Nữ trí thức trong các trường chính trị tỉnh TP ở Việt Nam
Luận án: Nữ trí thức trong các trường chính trị tỉnh TP ở Việt Nam
Luận án: Nữ trí thức trong các trường chính trị tỉnh TP ở Việt Nam
Luận án: Nữ trí thức trong các trường chính trị tỉnh TP ở Việt Nam
Luận án: Nữ trí thức trong các trường chính trị tỉnh TP ở Việt Nam
Luận án: Nữ trí thức trong các trường chính trị tỉnh TP ở Việt Nam
Luận án: Nữ trí thức trong các trường chính trị tỉnh TP ở Việt Nam
Luận án: Nữ trí thức trong các trường chính trị tỉnh TP ở Việt Nam
Luận án: Nữ trí thức trong các trường chính trị tỉnh TP ở Việt Nam
Luận án: Nữ trí thức trong các trường chính trị tỉnh TP ở Việt Nam
Luận án: Nữ trí thức trong các trường chính trị tỉnh TP ở Việt Nam
Luận án: Nữ trí thức trong các trường chính trị tỉnh TP ở Việt Nam
Luận án: Nữ trí thức trong các trường chính trị tỉnh TP ở Việt Nam
Luận án: Nữ trí thức trong các trường chính trị tỉnh TP ở Việt Nam
Luận án: Nữ trí thức trong các trường chính trị tỉnh TP ở Việt Nam
Luận án: Nữ trí thức trong các trường chính trị tỉnh TP ở Việt Nam
Luận án: Nữ trí thức trong các trường chính trị tỉnh TP ở Việt Nam
Luận án: Nữ trí thức trong các trường chính trị tỉnh TP ở Việt Nam
Luận án: Nữ trí thức trong các trường chính trị tỉnh TP ở Việt Nam
Luận án: Nữ trí thức trong các trường chính trị tỉnh TP ở Việt Nam
Luận án: Nữ trí thức trong các trường chính trị tỉnh TP ở Việt Nam
Luận án: Nữ trí thức trong các trường chính trị tỉnh TP ở Việt Nam
Luận án: Nữ trí thức trong các trường chính trị tỉnh TP ở Việt Nam
Luận án: Nữ trí thức trong các trường chính trị tỉnh TP ở Việt Nam
Luận án: Nữ trí thức trong các trường chính trị tỉnh TP ở Việt Nam
Luận án: Nữ trí thức trong các trường chính trị tỉnh TP ở Việt Nam
Luận án: Nữ trí thức trong các trường chính trị tỉnh TP ở Việt Nam
Luận án: Nữ trí thức trong các trường chính trị tỉnh TP ở Việt Nam
Luận án: Nữ trí thức trong các trường chính trị tỉnh TP ở Việt Nam
Luận án: Nữ trí thức trong các trường chính trị tỉnh TP ở Việt Nam
Luận án: Nữ trí thức trong các trường chính trị tỉnh TP ở Việt Nam
Luận án: Nữ trí thức trong các trường chính trị tỉnh TP ở Việt Nam
Luận án: Nữ trí thức trong các trường chính trị tỉnh TP ở Việt Nam
Luận án: Nữ trí thức trong các trường chính trị tỉnh TP ở Việt Nam
Luận án: Nữ trí thức trong các trường chính trị tỉnh TP ở Việt Nam
Luận án: Nữ trí thức trong các trường chính trị tỉnh TP ở Việt Nam
Luận án: Nữ trí thức trong các trường chính trị tỉnh TP ở Việt Nam
Luận án: Nữ trí thức trong các trường chính trị tỉnh TP ở Việt Nam

More Related Content

What's hot

Nâng cao hiệu quả giáo dục lý luận chính trị cho cán bộ cấp cơ sở huyện nho q...
Nâng cao hiệu quả giáo dục lý luận chính trị cho cán bộ cấp cơ sở huyện nho q...Nâng cao hiệu quả giáo dục lý luận chính trị cho cán bộ cấp cơ sở huyện nho q...
Nâng cao hiệu quả giáo dục lý luận chính trị cho cán bộ cấp cơ sở huyện nho q...jackjohn45
 
Đổi mới phương pháp giáo dục LLCT cho sinh viên các trường đại học khu vực t...
 Đổi mới phương pháp giáo dục LLCT cho sinh viên các trường đại học khu vực t... Đổi mới phương pháp giáo dục LLCT cho sinh viên các trường đại học khu vực t...
Đổi mới phương pháp giáo dục LLCT cho sinh viên các trường đại học khu vực t...hieu anh
 

What's hot (14)

Luận văn: Nâng cao hiệu quả công tác tuyên giáo của Đảng bộ, HOT
Luận văn: Nâng cao hiệu quả công tác tuyên giáo của Đảng bộ, HOTLuận văn: Nâng cao hiệu quả công tác tuyên giáo của Đảng bộ, HOT
Luận văn: Nâng cao hiệu quả công tác tuyên giáo của Đảng bộ, HOT
 
Dự đoán tiềm năng phát triển của giảng viên dựa trên đặc tính nghiệp vụ
Dự đoán tiềm năng phát triển của giảng viên dựa trên đặc tính nghiệp vụDự đoán tiềm năng phát triển của giảng viên dựa trên đặc tính nghiệp vụ
Dự đoán tiềm năng phát triển của giảng viên dựa trên đặc tính nghiệp vụ
 
Luận văn: Chất lượng giáo dục lý luận chính trị cho học viên ở các trung tâm
Luận văn: Chất lượng giáo dục lý luận chính trị cho học viên ở các trung tâmLuận văn: Chất lượng giáo dục lý luận chính trị cho học viên ở các trung tâm
Luận văn: Chất lượng giáo dục lý luận chính trị cho học viên ở các trung tâm
 
Nâng cao hiệu quả giáo dục lý luận chính trị cho cán bộ cấp cơ sở huyện nho q...
Nâng cao hiệu quả giáo dục lý luận chính trị cho cán bộ cấp cơ sở huyện nho q...Nâng cao hiệu quả giáo dục lý luận chính trị cho cán bộ cấp cơ sở huyện nho q...
Nâng cao hiệu quả giáo dục lý luận chính trị cho cán bộ cấp cơ sở huyện nho q...
 
Hiệu quả giáo dục lý luận chính trị cho cán bộ cấp cơ sở huyện Nho Quan
Hiệu quả giáo dục lý luận chính trị cho cán bộ cấp cơ sở huyện Nho QuanHiệu quả giáo dục lý luận chính trị cho cán bộ cấp cơ sở huyện Nho Quan
Hiệu quả giáo dục lý luận chính trị cho cán bộ cấp cơ sở huyện Nho Quan
 
Đề tài: Phát triển đảng viên trong thanh niên ở huyện Ba Vì, HAY
Đề tài: Phát triển đảng viên trong thanh niên ở huyện Ba Vì, HAYĐề tài: Phát triển đảng viên trong thanh niên ở huyện Ba Vì, HAY
Đề tài: Phát triển đảng viên trong thanh niên ở huyện Ba Vì, HAY
 
Công tác phát triển đảng viên trong sinh viên ở Đảng bộ Trường Đại học Sư phạ...
Công tác phát triển đảng viên trong sinh viên ở Đảng bộ Trường Đại học Sư phạ...Công tác phát triển đảng viên trong sinh viên ở Đảng bộ Trường Đại học Sư phạ...
Công tác phát triển đảng viên trong sinh viên ở Đảng bộ Trường Đại học Sư phạ...
 
Nâng cao hiệu quả giáo dục lý luận chính trị của Trung tâm chính trị
Nâng cao hiệu quả giáo dục lý luận chính trị của Trung tâm chính trịNâng cao hiệu quả giáo dục lý luận chính trị của Trung tâm chính trị
Nâng cao hiệu quả giáo dục lý luận chính trị của Trung tâm chính trị
 
Luận văn: Công tác phát triển đảng viên trong sinh viên ở các trường cao đẳng...
Luận văn: Công tác phát triển đảng viên trong sinh viên ở các trường cao đẳng...Luận văn: Công tác phát triển đảng viên trong sinh viên ở các trường cao đẳng...
Luận văn: Công tác phát triển đảng viên trong sinh viên ở các trường cao đẳng...
 
xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã ở Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay
 xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã ở Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay  xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã ở Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay
xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã ở Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay
 
Luận văn: Văn hóa chính trị đối với đội ngũ cán bộ huyện Ba Vì
Luận văn: Văn hóa chính trị đối với đội ngũ cán bộ huyện Ba VìLuận văn: Văn hóa chính trị đối với đội ngũ cán bộ huyện Ba Vì
Luận văn: Văn hóa chính trị đối với đội ngũ cán bộ huyện Ba Vì
 
Luận án: Quản lý đội ngũ giảng viên trường chính trị cấp tỉnh, HAY
Luận án: Quản lý đội ngũ giảng viên trường chính trị cấp tỉnh, HAYLuận án: Quản lý đội ngũ giảng viên trường chính trị cấp tỉnh, HAY
Luận án: Quản lý đội ngũ giảng viên trường chính trị cấp tỉnh, HAY
 
Đổi mới phương pháp giáo dục LLCT cho sinh viên các trường đại học khu vực t...
 Đổi mới phương pháp giáo dục LLCT cho sinh viên các trường đại học khu vực t... Đổi mới phương pháp giáo dục LLCT cho sinh viên các trường đại học khu vực t...
Đổi mới phương pháp giáo dục LLCT cho sinh viên các trường đại học khu vực t...
 
Nâng cao chất lượng giáo dục chính trị cho hạ sĩ quan, chiến sĩ Công an thành...
Nâng cao chất lượng giáo dục chính trị cho hạ sĩ quan, chiến sĩ Công an thành...Nâng cao chất lượng giáo dục chính trị cho hạ sĩ quan, chiến sĩ Công an thành...
Nâng cao chất lượng giáo dục chính trị cho hạ sĩ quan, chiến sĩ Công an thành...
 

Similar to Luận án: Nữ trí thức trong các trường chính trị tỉnh TP ở Việt Nam

Tạo nguồn nữ công chức lãnh đạo, quản lý ở Bộ Nội vụ hiện nay
Tạo nguồn nữ công chức lãnh đạo, quản lý ở Bộ Nội vụ hiện nayTạo nguồn nữ công chức lãnh đạo, quản lý ở Bộ Nội vụ hiện nay
Tạo nguồn nữ công chức lãnh đạo, quản lý ở Bộ Nội vụ hiện nayluanvantrust
 
LV: Đổi mới phương thức lãnh đạo của đảng uỷ phường đối với hệ thống chính tr...
LV: Đổi mới phương thức lãnh đạo của đảng uỷ phường đối với hệ thống chính tr...LV: Đổi mới phương thức lãnh đạo của đảng uỷ phường đối với hệ thống chính tr...
LV: Đổi mới phương thức lãnh đạo của đảng uỷ phường đối với hệ thống chính tr...Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562
 
Đề tài chất lượng đào tạo, bồi dưỡng của các Trung tâm Bồi đưỡng Chính trị cấ...
Đề tài chất lượng đào tạo, bồi dưỡng của các Trung tâm Bồi đưỡng Chính trị cấ...Đề tài chất lượng đào tạo, bồi dưỡng của các Trung tâm Bồi đưỡng Chính trị cấ...
Đề tài chất lượng đào tạo, bồi dưỡng của các Trung tâm Bồi đưỡng Chính trị cấ...HanaTiti
 
Luận văn HAY: Chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp phường ở quận Gò Vấp
Luận văn HAY: Chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp phường ở quận Gò VấpLuận văn HAY: Chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp phường ở quận Gò Vấp
Luận văn HAY: Chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp phường ở quận Gò VấpDịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562
 

Similar to Luận án: Nữ trí thức trong các trường chính trị tỉnh TP ở Việt Nam (20)

Phát triển ý thức chính trị của sinh viên Học viện Công nghệ Bưu chính - Viễn...
Phát triển ý thức chính trị của sinh viên Học viện Công nghệ Bưu chính - Viễn...Phát triển ý thức chính trị của sinh viên Học viện Công nghệ Bưu chính - Viễn...
Phát triển ý thức chính trị của sinh viên Học viện Công nghệ Bưu chính - Viễn...
 
Đề tài: Phát triển ý thức chính trị của sinh viên Học viện Viễn thông
Đề tài: Phát triển ý thức chính trị của sinh viên Học viện Viễn thôngĐề tài: Phát triển ý thức chính trị của sinh viên Học viện Viễn thông
Đề tài: Phát triển ý thức chính trị của sinh viên Học viện Viễn thông
 
Phát triển ý thức chính trị của sinh viên Học viện Công nghệ, HAY
Phát triển ý thức chính trị của sinh viên Học viện Công nghệ, HAYPhát triển ý thức chính trị của sinh viên Học viện Công nghệ, HAY
Phát triển ý thức chính trị của sinh viên Học viện Công nghệ, HAY
 
Tạo nguồn nữ công chức lãnh đạo, quản lý ở Bộ Nội vụ hiện nay
Tạo nguồn nữ công chức lãnh đạo, quản lý ở Bộ Nội vụ hiện nayTạo nguồn nữ công chức lãnh đạo, quản lý ở Bộ Nội vụ hiện nay
Tạo nguồn nữ công chức lãnh đạo, quản lý ở Bộ Nội vụ hiện nay
 
Luận văn: Nâng cao hiệu quả giáo dục ý thức chính trị cho sinh viên
Luận văn: Nâng cao hiệu quả giáo dục ý thức chính trị cho sinh viênLuận văn: Nâng cao hiệu quả giáo dục ý thức chính trị cho sinh viên
Luận văn: Nâng cao hiệu quả giáo dục ý thức chính trị cho sinh viên
 
Luận án: Phụ nữ tham gia quản lý hệ thống chính trị cấp trung ương
Luận án: Phụ nữ tham gia quản lý hệ thống chính trị cấp trung ươngLuận án: Phụ nữ tham gia quản lý hệ thống chính trị cấp trung ương
Luận án: Phụ nữ tham gia quản lý hệ thống chính trị cấp trung ương
 
LV: Đổi mới phương thức lãnh đạo của đảng uỷ phường đối với hệ thống chính tr...
LV: Đổi mới phương thức lãnh đạo của đảng uỷ phường đối với hệ thống chính tr...LV: Đổi mới phương thức lãnh đạo của đảng uỷ phường đối với hệ thống chính tr...
LV: Đổi mới phương thức lãnh đạo của đảng uỷ phường đối với hệ thống chính tr...
 
Đề tài: Phương thức lãnh đạo của đảng ủy phường đối với chính trị
Đề tài: Phương thức lãnh đạo của đảng ủy phường đối với chính trịĐề tài: Phương thức lãnh đạo của đảng ủy phường đối với chính trị
Đề tài: Phương thức lãnh đạo của đảng ủy phường đối với chính trị
 
Luận văn: Chất lượng đội ngũ bí thư đảng uỷ xã ở TP Hà Nội, 9đ
Luận văn: Chất lượng đội ngũ bí thư đảng uỷ xã ở TP Hà Nội, 9đLuận văn: Chất lượng đội ngũ bí thư đảng uỷ xã ở TP Hà Nội, 9đ
Luận văn: Chất lượng đội ngũ bí thư đảng uỷ xã ở TP Hà Nội, 9đ
 
Quản lý quá trình giáo dục kỹ năng sống cho học sinh trung học cơ sở...
Quản lý quá trình giáo dục kỹ năng sống cho học sinh trung học cơ sở...Quản lý quá trình giáo dục kỹ năng sống cho học sinh trung học cơ sở...
Quản lý quá trình giáo dục kỹ năng sống cho học sinh trung học cơ sở...
 
Đề tài: Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh THCS tại TPHCM, HOT
Đề tài: Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh THCS tại TPHCM, HOTĐề tài: Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh THCS tại TPHCM, HOT
Đề tài: Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh THCS tại TPHCM, HOT
 
Đề tài chất lượng đào tạo, bồi dưỡng của các Trung tâm Bồi đưỡng Chính trị cấ...
Đề tài chất lượng đào tạo, bồi dưỡng của các Trung tâm Bồi đưỡng Chính trị cấ...Đề tài chất lượng đào tạo, bồi dưỡng của các Trung tâm Bồi đưỡng Chính trị cấ...
Đề tài chất lượng đào tạo, bồi dưỡng của các Trung tâm Bồi đưỡng Chính trị cấ...
 
Luận văn: Chất lượng dạy học lý luận chính trị ở Trường Cán bộ
Luận văn: Chất lượng dạy học lý luận chính trị ở Trường Cán bộLuận văn: Chất lượng dạy học lý luận chính trị ở Trường Cán bộ
Luận văn: Chất lượng dạy học lý luận chính trị ở Trường Cán bộ
 
Luận văn HAY: Chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp phường ở quận Gò Vấp
Luận văn HAY: Chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp phường ở quận Gò VấpLuận văn HAY: Chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp phường ở quận Gò Vấp
Luận văn HAY: Chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp phường ở quận Gò Vấp
 
Đề tài: Tạo nguồn nữ công chức lãnh đạo, quản lý Bộ Nội vụ, HOT
Đề tài: Tạo nguồn nữ công chức lãnh đạo, quản lý Bộ Nội vụ, HOTĐề tài: Tạo nguồn nữ công chức lãnh đạo, quản lý Bộ Nội vụ, HOT
Đề tài: Tạo nguồn nữ công chức lãnh đạo, quản lý Bộ Nội vụ, HOT
 
Luận văn: Tạo nguồn nữ công chức lãnh đạo, quản lý ở Bộ Nội vụ
Luận văn: Tạo nguồn nữ công chức lãnh đạo, quản lý ở Bộ Nội vụLuận văn: Tạo nguồn nữ công chức lãnh đạo, quản lý ở Bộ Nội vụ
Luận văn: Tạo nguồn nữ công chức lãnh đạo, quản lý ở Bộ Nội vụ
 
Luận văn: Đổi mới phương thức lãnh đạo của đảng ủy phường, 9đ
Luận văn: Đổi mới phương thức lãnh đạo của đảng ủy phường, 9đLuận văn: Đổi mới phương thức lãnh đạo của đảng ủy phường, 9đ
Luận văn: Đổi mới phương thức lãnh đạo của đảng ủy phường, 9đ
 
Luận văn: Quản lý giáo dục kỹ năng sống cho học sinh THCS
Luận văn: Quản lý giáo dục kỹ năng sống cho học sinh THCSLuận văn: Quản lý giáo dục kỹ năng sống cho học sinh THCS
Luận văn: Quản lý giáo dục kỹ năng sống cho học sinh THCS
 
Luận văn: Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã TPHCM, 9đ
Luận văn: Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã TPHCM, 9đLuận văn: Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã TPHCM, 9đ
Luận văn: Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã TPHCM, 9đ
 
La01.021 thông tin chính trị xã hội với việc ra quyết định của đội ngũ cán ...
La01.021 thông tin chính trị   xã hội với việc ra quyết định của đội ngũ cán ...La01.021 thông tin chính trị   xã hội với việc ra quyết định của đội ngũ cán ...
La01.021 thông tin chính trị xã hội với việc ra quyết định của đội ngũ cán ...
 

More from Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864

Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.docTạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.docDịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 

More from Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864 (20)

Yếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.doc
Yếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.docYếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.doc
Yếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.doc
 
Từ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.doc
Từ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.docTừ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.doc
Từ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.doc
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
 
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
 
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
 
Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...
Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...
Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
 
Tác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.doc
Tác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.docTác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.doc
Tác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.doc
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
 
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
 
Song Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.doc
Song Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.docSong Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.doc
Song Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.doc
 
Ứng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.doc
Ứng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.docỨng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.doc
Ứng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.doc
 
Vai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.doc
Vai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.docVai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.doc
Vai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.doc
 
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
 
Thu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.doc
Thu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.docThu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.doc
Thu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.doc
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
 
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.docTạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
 

Recently uploaded

BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdfSơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdftohoanggiabao81
 
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdfNQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdfNguyễn Đăng Quang
 
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...hoangtuansinh1
 
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxTrích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxnhungdt08102004
 
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxChàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxendkay31
 
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhvanhathvc
 
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...ThunTrn734461
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líKiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líDr K-OGN
 
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...Nguyen Thanh Tu Collection
 
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfhoangtuansinh1
 
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoabài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa2353020138
 

Recently uploaded (19)

BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdfSơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
 
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdfNQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
 
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
 
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
 
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxTrích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
 
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxChàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
 
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
 
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
 
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líKiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
 
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
 
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
 
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoabài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
 

Luận án: Nữ trí thức trong các trường chính trị tỉnh TP ở Việt Nam

  • 1. HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH NGUYỄN THỊ LAN NỮ TRÍ THỨC TRONG CÁC TRƯỜNG CHÍNH TRỊ TỈNH, THÀNH PHỐ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY LUẬN ÁN TIẾN SĨ CHUYÊN NGÀNH: CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC HÀ NỘI - 2017
  • 2. HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH NGUYỄN THỊ LAN NỮ TRÍ THỨC TRONG CÁC TRƯỜNG CHÍNH TRỊ TỈNH, THÀNH PHỐ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY LUẬN ÁN TIẾN SĨ CHUYÊN NGÀNH: CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC Mã số: 62 22 03 08 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. ĐỖ THỊ THẠCH HÀ NỘI - 2017
  • 3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo quy định. Tác giả Nguyễn Thị Lan
  • 4. MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU 1 Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 7 1.1. Những công trình nghiên cứu ở trong nước có liên quan đến đề tài luận án 7 1.2. Những công trình nghiên cứu ở nước ngoài có liên quan đến luận án 22 1.3. Đánh giá những công trình tổng quan và những vấn đề luận án tiếp tục làm sáng tỏ 26 Chương 2: ĐẶC ĐIỂM, VAI TRÒ VÀ NHỮNG YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN NỮ TRÍ THỨCTRONG CÁC TRƯỜNG CHÍNH TRỊ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 31 2.1. Quan niệm về nữ trí thức, nữ trí thức trong các trường chính trị ở Việt Nam 31 2.2. Đặc điểm và vai trò của nữ trí thức trong các trường chính trị ở Việt Nam hiện nay 35 2.3. Những yếu tố tác động đến vai trò của nữ trí thức trong các trường chính trị 55 Chương 3: THỰC TRẠNG THỰC HIỆN VAI TRÒ CỦA NỮ TRÍ THỨC TRONG CÁC TRƯỜNG CHÍNH TRỊ VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA HIỆN NAY 68 3.1. Thực trạng thực hiện vai trò của nữ trí thức trong các trường chính trị hiện nay 68 3.2. Những vấn đề đặt ra đối với phát huy vai trò nữ trí thức trong các trường chính trị hiện nay 97 Chương 4: QUAN ĐIỂM CƠ BẢN VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM PHÁT HUY VAI TRÒ NỮ TRÍ THỨC TRONG CÁC TRƯỜNG CHÍNH TRỊ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 114 4.1. Quan điểm cơ bản phát huy vai trò nữ trí thức trong các trường chính trị ở Việt Nam hiện nay 114 4.2. Những giải pháp chủ yếu nhằm phát huy vai trò của nữ trí thức trong các trường chính trị hiện nay 121 4.3. Đề xuất một số khuyến nghị 142 KẾT LUẬN 148 DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN 151 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 152 PHỤ LỤC 164
  • 5. DANH MỤC CÁC BẢNG Trang Bảng 2.1: Một số trường chính trị có tỷ lệ nữ trí thức thấp trong tổng số đội ngũ trí thức của nhà trường 41 Bảng 2.2: Một số trường chính trị có số lượng nữ trí thức chiếm tỷ lệ cao trong tổng số đội ngũ trí thức nhà trường 42 Bảng 2.3: Trình độ học vấn của nữ trí thức ở một số trường chính trị trong cả nước 45 Bảng 3.1: Chức danh giảng dạy của nữ giảng viên ở một số trường chính trị 69 Bảng 3.2: Nữ trí thức ở một số trường chính trị tham gia các chương trình đào tạo, bồi dưỡng 72 Bảng 3.3: Số lượng lớp và chất lượng đào tạo, bồi dưỡng của một số trường chính trị trong năm học 2015 - 2016 77 Bảng 3.4: Số lượng nữ trí thức tham gia đề tài nghiên cứu khoa học cấp cơ sở ở một số trường chính trị 81 Bảng 3.5: Số lượng nữ trí thức tham gia đề tài nghiên cứu khoa học cấp tỉnh, thành phố ở một số trường chính trị từ năm 2008 đến 2015 82 Bảng 3.6: Số lượng nam/nữ trí thức tham gia đề tài nghiên cứu khoa học cấp tỉnh, thành phố ở một số trường chính trị 84 Bảng 3.7: Số lượng nữ trí thức tham gia Ban chấp hành Đảng bộ ở một số trường chính trị nhiệm kỳ 2010 - 2015 và 2015 - 2020 91 Bảng 3.8: Số lượng nữ trí thức tham gia Ban Giám hiệu ở một số trường chính trị hiện nay 92
  • 6. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài luận án Ở Việt Nam, hiện nay có 63 trường chính trị tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (sau đây gọi chung là trường chính trị), được Đảng, Nhà nước giao thực hiện chức năng, nhiệm vụ là tổ chức đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý của hệ thống chính trị cấp cơ sở, cán bộ, công chức ở địa phương về lý luận chính trị - hành chính; đường lối, các nghị quyết, chỉ thị của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước; kiến thức và chuyên môn, nghiệp vụ về công tác xây dựng Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội; kiến thức về pháp luật và quản lý nhà nước và một số lĩnh vực khác [17]. Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, cùng với sự phát triển đi lên của đất nước, trong những năm qua hệ thống các trường chính trị đã không ngừng phát triển, có nhiều đóng góp tích cực, hiệu quả vào sự nghiệp đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ trong hệ thống chính trị ở cơ sở, từng bước đáp ứng yêu cầu đặt ra của sự nghiệp đổi mới đất nước. Những kết quả đạt được trong việc thực hiện nhiệm vụ chính trị của các trường chính trị tỉnh, thành phố có sự đóng góp quyết định của đội ngũ trí thức nói chung và nữ trí thức nói riêng đang làm việc ở các cơ sở đó. Là một bộ phận chủ lực trong công tác đào tạo, nghiên cứu khoa học, lãnh đạo, quản lý trong các trường chính trị, trong những năm qua, được sự quan tâm của các cấp ủy đảng, chính quyền, nhà trường và sự vươn lên của bản thân, đội ngũ nữ trí thức các trường chính trị không ngừng phát triển cả về số lượng, cơ cấu và chất lượng. Họ đã và đang làm việc hăng say, nhiệt huyết với tinh thần, trách nhiệm cao nhất trong thực hiện nhiệm vụ chuyên môn. Một số chị đã trở thành nhà giáo ưu tú, giáo viên dạy giỏi toàn quốc; có chị trở thành nhà quản lý giỏi với cương vị là thủ trưởng đơn vị. Hiện nay, nữ
  • 7. 2 trí thức các trường chính trị tham gia công tác lãnh đạo, quản lý từ cấp khoa, phòng trở lên chiếm trên 20%, trong đó cán bộ quản lý cấp trường chiếm tỷ lệ khoảng 8%; tỷ lệ có học hàm, học vị cũng được tăng lên,… Những đóng góp của các chị góp phần không nhỏ vào thành tích to lớn của các nhà trường trong công tác đào tạo cán bộ của Đảng, nghiên cứu khoa học cấp cơ sở, qua đó góp phần khẳng định vị thế, vai trò của nữ trí thức Việt Nam nói chung trong tiến trình xây dựng đất nước. Tuy nhiên, từ thực tiễn ở các trường chính trị hiện nay, cho thấy, đội ngũ nữ trí thức ở đây, chưa thực sự phát huy hết tiềm năng, vai trò; chưa đáp ứng được yêu cầu khách quan của sự nghiệp đào tạo cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp cơ sở cũng như công tác nghiên cứu khoa học phục vụ phát triển kinh tế - xã hội địa phương. Tỷ lệ nữ trí thức ở các trường chính trị có trình độ đại học trở lên chiếm ưu thế tuyệt đối (100%), nhưng càng ở bậc cao, tỷ lệ này càng thấp đi, thậm chí rất thấp (tiến sỹ chỉ khoảng 2%, chỉ có 12,1% nhà giáo ưu tú, chưa có nữ giáo sư, phó giáo sư...). Số lượng nữ trí thức người dân tộc thiểu số chiếm tỷ lệ rất thấp. Phần lớn nữ trí thức có trình độ cao đều đã ở tuổi cao, nữ trí thức trẻ làm lãnh đạo, quản lý nhà trường còn ít. Trình độ ngoại ngữ, tin học, kiến thức, kỹ năng, năng lực lãnh đạo, quản lý của một bộ phận không nhỏ nữ trí thức chưa tương xứng với yêu cầu phân cấp quản lý công việc ở các trường chính trị hiện nay,… Bất cập trên do nhiều nguyên nhân, như nhận thức xã hội về vai trò của nữ trí thức chưa có sự công bằng so với nam trí thức; môi trường, điều kiện làm việc, cơ chế, chính sách có tính đặc thù cho nữ trí thức trong các trường chính trị còn hạn chế; do sự tự ty, an phận của một bộ phận không nhỏ nữ trí thức v.v.. Vì vậy, trước yêu cầu của sự nghiệp đào tạo đội ngũ cán bộ cho cấp cơ sở, nâng cao chất lượng về chuyên môn, nghiệp vụ, cũng như công tác nghiên cứu khoa học góp phần phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương,… cần
  • 8. 3 phải phát huy vai trò của toàn thể đội ngũ cán bộ các nhà trường, trong đó có vai trò quan trọng của đông đảo nữ trí thức các trường chính trị là rất cần thiết, đòi hỏi phải có các giải pháp toàn diện, động bộ, khả thi. Tuy nhiên, cho đến nay, ở nước ta chưa có một công trình nào nghiên cứu cụ thể về nữ trí thức trong các trường chính trị. Đây là một khoảng trống cần nhận được sự quan tâm của các nhà nghiên cứu, của Đảng, Nhà nước, các địa phương. Là một giảng viên đang giảng dạy tại trường chính trị, tác giả đã lựa chọn đề tài “Nữ trí thức trong các trường chính trị tỉnh, thành phố ở Việt Nam hiện nay” làm đề tài luận án tiến sĩ, chuyên ngành Chủ nghĩa xã hội khoa học với mong muốn góp phần đề xuất các hướng phát triển đội ngũ nữ trí thức các trường chính trị đáp ứng yêu cầu đào tạo cán bộ của Đảng, Nhà nước hiện nay. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án 2.1. Mục đích Trên cơ sở lý luận và thực tiễn về vai trò của nữ trí thức trong các trường chính trị ở Việt Nam, luận án đề xuất một số quan điểm cơ bản, giải pháp chủ yếu góp phần phát huy vai trò nữ trí thức trong các trường chính trị đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ đào tạo cán bộ lãnh đạo, quản lý của hệ thống chính trị cấp cơ sở hiện nay. 2.2. Nhiệm vụ Thứ nhất, làm rõ đặc điểm, vai trò và những yếu tố tác động đến nữ trí thức trong các trường chính trị ở Việt Nam hiện nay. Thứ hai, phân tích thực trạng thực hiện vai trò của nữ trí thức trong các trường chính trị ở Việt Nam hiện nay và những vấn đề đặt ra. Thứ ba, đề xuất các quan điểm cơ bản, những giải pháp chủ yếu nhằm phát huy vai trò nữ trí thức trong các trường chính trị ở Việt Nam đáp ứng yêu
  • 9. 4 cầu, nhiệm vụ đào tạo cán bộ lãnh đạo, quản lý của hệ thống chính trị cấp cơ sở hiện nay. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu: Đội ngũ nữ trí thức trong các trường chính trị ở Việt Nam (vai trò, thực hiện vai trò). 3.2. Phạm vi nghiên cứu - Về không gian: Hiện nay, cả nước có 63 trường chính trị tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Tuy nhiên, trong luận án tác giả đã lựa chọn tiến hành nghiên cứu, khảo sát nữ trí thức ở 08 trường chính trị đại diện cho các vùng miền trong cả nước. Phía Bắc: Trường Chính trị tỉnh Lào Cai, Trường Chính trị tỉnh Phú Thọ, Trường Chính trị Tô Hiệu thành phố Hải Phòng. Miền Trung và Tây Nguyên: Trường Chính trị tỉnh Nghệ An, Trường Chính trị tỉnh Quảng Ngãi, Trường Chính trị tỉnh Đắk Lắk. Phía Nam: Trường Chính trị tỉnh Tây Ninh và Trường Chính trị thành phố Cần Thơ. - Về thời gian: Luận án nghiên cứu nữ trí thức trong các trường chính trị từ năm 2008 đến nay (Từ khi có Quyết định 184-QĐ/TW, ngày 03/9/2008 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về Chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy của các trường chính trị tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương). - Về nội dung: Nữ trí thức trong các trường chính trị hiện nay tham gia vào nhiều hoạt động khác nhau của nhà trường từ giảng dạy lý luận chính trị, nghiên cứu khoa học, lãnh đạo, quản lý, công tác quản trị văn phòng, công tác tài chính kế toán,… Tuy nhiên, trong giới hạn của luận án, tác giả chỉ tập trung nghiên cứu vai trò, thực hiện vai trò của nữ trí thức trong các trường chính trị
  • 10. 5 trên 03 lĩnh vực chủ yếu: (1) Hoạt động đào tạo, (2) Hoạt động nghiên cứu khoa học và (3) Hoạt động lãnh đạo, quản lý của nhà trường. 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 4.1. Cơ sở lý luận Luận án được thực hiện dựa trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về đội ngũ trí thức, nữ trí thức, vai trò của đội ngũ nữ trí thức. Luận án tham khảo các kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học ở trong nước và nước ngoài liên quan đến đối tượng nghiên cứu của luận án. 4.2. Phương pháp nghiên cứu Trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử, luận án sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh và một số phương pháp liên ngành. Luận án sử dụng phương pháp điều tra xã hội học, gồm 01 mẫu phiếu khảo sát, với số lượng: 425 phiếu; phạm vi: 08 trường chính trị tỉnh, thành phố đã được lựa chọn ở mục phạm vi không gian; đối tượng phiếu khảo sát: 220 nữ trí thức và 205 nam trí thức là cán bộ giảng viên, chuyên viên, lãnh đạo, quản lý các cấp của nhà trường; kết quả khảo sát (Phụ lục 7). 5. Đóng góp mới về khoa học của luận án Một là, luận án góp phần làm rõ đặc điểm, vai trò, điểm mạnh, điểm hạn chế trong thực hiện vai trò của nữ trí thức trong các trường chính trị hiện nay; chỉ rõ những vấn đề đặt ra đối với việc phát huy vai trò của nữ trí thức trong các trường chính trị hiện nay. Hai là, luận án góp phần đề xuất một số giải pháp, khuyến nghị nhằm phát huy vai trò của nữ trí thức trong các trường chính trị đáp ứng yêu cầu trong công tác đào tạo cán bộ cấp cơ sở hiện nay.
  • 11. 6 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án Luận án cung cấp một số cơ sở lý luận, thực tiễn góp phần trong xây dựng và thực hiện chính sách đối với nữ trí thức trong các trường chính trị nói riêng, nữ trí thức làm công tác lý luận chính trị nói chung. Luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong việc nghiên cứu, giảng dạy và học tập những chuyên đề liên quan đến vấn đề con người, đội ngũ trí thức, nữ trí thức, phụ nữ và các chuyên ngành khác có liên quan. 7. Kết cấu của luận án Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục công trình của tác giả đã công bố liên quan đến luận án, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận án gồm 4 chương, 11 tiết.
  • 12. 7 Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 1.1. NHỮNG CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU Ở TRONG NƯỚC CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 1.1.1. Những công trình nghiên cứu tiêu biểu về trí thức Trong những năm qua, các công trình nghiên cứu về trí thức Việt Nam rất đa dạng, phong phú, tiêu biểu như: Hoàng Phê trong cuốn Từ điển Tiếng Việt cho rằng, trí thức là “người chuyên làm việc lao động trí óc và có chuyên môn cần thiết cho hoạt động nghề nghiệp của mình” [68]. Cách định nghĩa này đã chỉ ra một số đặc điểm của trí thức, nhưng, cho đến nay, nó đã bị vượt qua, bởi nó chưa nhấn mạnh được đặc điểm lao động đặc thù của người trí thức là lao động trí óc sáng tạo, phức tạp, tạo ra những sản phẩm có giá trị đặc biệt về tinh thần, vật chất. Với hai công trình Trí thức Việt Nam trước yêu cầu phát triển đất nước [44] và Trí thức Việt Nam tiến cùng thời đại [45] của Nguyễn Đắc Hưng đã làm rõ quan niệm về trí thức; vị trí, vai trò của trí thức; những phương hướng chủ yếu để xây dựng và phát triển đội ngũ trí thức ở nước ta đáp ứng yêu cầu của thời đại. Trên cơ sở khẳng định nội hàm rất rộng của khái niệm trí thức, tác giả đã chỉ rõ: Trí thức là những người không chỉ có trình độ học vấn cao mà điều quan trọng nhất là họ thực sự lao động bằng trí tuệ có tính sáng tạo, có những cống hiến nhất định hữu ích cho xã hội và phải được xã hội kiểm định chất lượng thông qua hoạt động thực tiễn [45, tr.16-17]. Đây là sự đổi mới tư duy về trí thức, từ chỗ coi trọng trình độ chuyên môn được đào tạo đến chỗ thừa nhận và đòi hỏi năng lực lao động thực tế thông qua sự kiểm định khách quan của xã hội.
  • 13. 8 Nguyễn An Ninh, Phát huy tiềm năng của trí thức khoa học xã hội và nhân văn trong công cuộc đổi mới đất nước [67]. Từ những kiến giải về tiềm năng của trí thức khoa học xã hội và nhân văn trong giai đoạn hiện nay, tác giả đã đề xuất những giải pháp thiết thực nhằm phát huy tiềm năng của đội ngũ này góp phần vào quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Trong hai công trình nghiên cứu: Xây dựng và phát huy nguồn lực trí tuệ Việt Nam phục vụ sự nghiệp chấn hưng đất nước [48] và công trình Nguồn lực trí tuệ Việt Nam - Lịch sử, hiện trạng và triển vọng [49] của Nguyễn Văn Khánh đã tập trung luận chứng khoa học về vấn đề trí thức, nguồn lực trí tuệ với cách tiếp cận liên ngành. Đội ngũ trí thức được tác giả quan niệm là tầng lớp tinh hoa của nguồn lực trí tuệ Việt Nam. Trên cơ sở khảo sát, đánh giá chất lượng của nguồn nhân lực này, ông đã đưa ra hệ thống giải pháp có ý nghĩa thiết thực đối với việc xây dựng và phát huy vai trò của nguồn lực trí tuệ đáp ứng yêu cầu, đòi hỏi của sự nghiệp chấn hưng đất nước. Nguyễn Khánh Bật, Trần Thị Huyền, Xây dựng đội ngũ trí thức thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo tư tưởng Hồ Chí Minh [10]. Đây là công trình nghiên cứu mang tính chuyên sâu về trí thức dưới góc độ tư tưởng Hồ Chí Minh. Nhóm tác giả đã khái quát những nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về trí thức, làm rõ sự vận dụng sáng tạo của Đảng và Nhà nước ta trong công tác xây dựng trí thức đồng thời đánh giá những đóng góp, hạn chế của đội ngũ này trong cách mạng Việt Nam, trên có sở đó, đi sâu phân tích những giải pháp xây dựng đội ngũ trí thức ở nước ta thời kỳ 2011 - 2020 đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Phạm Tất Dong trong đề tài Luận cứ khoa học cho các chính sách nhằm phát huy năng lực sáng tạo của giới trí thức và sinh viên [15] đã tập trung phân tích làm rõ cơ sở lý luận, thực tiễn và tính pháp lý của việc
  • 14. 9 hoạch định chính sách, giải pháp hướng vào việc khơi dậy, khai thác, sử dụng năng lực sáng tạo của giới trí thức và sinh viên trong hoạt động giáo dục và đào tạo. Đàm Đức Vượng, Nguyễn Viết Thông, Xây dựng đội ngũ trí thức Việt Nam giai đoạn 2011- 2020 [122]. Đây là công trình nghiên cứu công phu và có hệ thống về trí thức. Trên cơ sở đánh giá tổng thể về thực trạng đội ngũ trí thức Việt Nam, đề tài đi sâu phân tích, kiến nghị những giải pháp nhằm xây dựng và phát huy nguồn lực trí tuệ trong thời kỳ đổi mới toàn diện đất nước. Đề tài đã làm rõ thêm nội hàm của khái niệm trí thức trên bình diện rộng. Không những chỉ ra tính chất lao động trí óc cùng với những yêu cầu về sự hiểu biết, trình độ, khát vọng dân chủ, công bằng, tự do và kết quả sáng tạo trong việc truyền bá, phổ biến, ứng dụng vào đời sống xã hội của trí thức, các tác giả đề tài còn xác định rõ thiên chức, phẩm chất, tính cách của người trí thức Việt Nam. Đây là tư liệu quan trọng cho tác giả luận án khi nghiên cứu về đặc điểm của đội ngũ nữ trí thức ở các trường chính trị ở Việt Nam hiện nay. Luận án Trí thức Việt Nam trong phát triển kinh tế tri thức [92] của Nguyễn Công Trí, đã chỉ ra những đặc trưng, tiêu chí cơ bản để xác định trí thức, vai trò của đội ngũ này trong điều kiện phát triển kinh tế tri thức. Luận án xác định, trí thức là người lao động trí óc và thường có trình độ học vấn cao, được đào tạo hoặc tự đào tạo. Tuy nhiên, “giá trị quan trọng nhất của người trí thức chân chính đó là chân lý và lẽ phải; trí thức là người tự tin và ngay thẳng, có lòng tự trọng, khả năng hành xử đúng mực và thích ứng cao với các biến đổi của môi trường tự nhiên, xã hội” [92, tr.30]. Trần Thị Lan trong cuốn Chất lượng lao động của đội ngũ trí thức giáo dục đại học Việt Nam [55] đã nêu lên cơ sở lý luận về chất lượng lao động của trí thức giáo dục đại học; đánh giá thực trạng chất lượng lao động của đội ngũ trí thức giáo dục đại học Việt Nam và đề xuất những giải pháp cơ bản để
  • 15. 10 nâng cao chất lượng lao động của đội ngũ này. Tác giả luận án cho rằng “trí thức là một tầng lớp xã hội được đặc trưng bởi phương thức lao động trí óc, sáng tạo. Họ là lực lượng chủ yếu tham gia trực tiếp vào việc phát kiến, giữ gìn và truyền bá tri thức góp phần thúc đẩy sự phát triển nhận thức khoa học và sự tiến bộ của xã hội” [55, tr.26]. Tiếp tục làm rõ quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin và sự nhận thức đúng đắn của Đảng ta trong quan điểm về trí thức, một số bài viết đăng trên các tạp chí trong thời gian qua đã đề cập đến vấn đề này, tiêu biểu như: Đội ngũ trí thức trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước [50]; Những bài học từ quan điểm của Lênin về trí thức [51] của Phan Thanh Khôi; và Suy ngẫm và nhận thức về vấn đề tri thức [6] của Nguyễn Đức Bách… Đồng thời, nhiều bài viết đã khai thác những khía cạnh mới về chức năng, nhiệm vụ, chính sách sử dụng, đãi ngộ trí thức và giải pháp phát huy vai trò của đội ngũ trí thức nhằm đáp ứng đòi hỏi, yêu cầu của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập, phát triển kinh tế tri thức. Có thể kể đến một số bài viết như có giá trị khoa học như: Mấy vấn đề cần đổi mới tạo động lực và điều kiện để trí thức nước ta phát huy tài năng trí tuệ [5] của Nguyễn Đức Bách và Nhà khoa học và sự sáng tạo trong khoa học xã hội [52] của Phan Thanh Khôi,… Bàn về khái niệm trí thức, Dương Trung Quốc, trong bài viết Đảng và trí thức - một thoáng nhìn lịch sử [69] đã cho rằng, trí thức phải được coi là một “phẩm chất” nhiều hơn là một tầng lớp. Do tác động của xu thế phát triển giáo dục đào tạo, khoa học công nghệ và sự phát triển của “kinh tế tri thức” làm cho nội hàm của khái niệm “trí thức” cần được mở rộng hơn. Học vấn đã có cơ hội đến với các giai cấp, tầng lớp trong xã hội, mọi lực lượng lao động xã hội đều phải coi tri thức là một nhu cầu sống còn của mình. Những công trình nghiên cứu nêu trên đã cung cấp cơ sở lý luận, thực tiễn quan trọng để tác giả luận án luận chứng về nữ trí thức, về vai trò của đội
  • 16. 11 ngũ nữ trí thức dưới góc độ là một bộ phận của đội ngũ trí thức trong điều kiện đổi mới, hội nhập, phát triển kinh tế tri thức và công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. 1.1.2. Những công trình nghiên cứu về phụ nữ, bình đẳng giới và nữ trí thức Thứ nhất, những công trình nghiên cứu tiêu biểu về phụ nữ, bình đẳng giới. Khi nghiên cứu về phụ nữ, bình đẳng giới ở Việt Nam, các nhà nghiên cứu đã tiếp cận dưới cả hai góc độ, vị thế, vai trò của phụ nữ trong gia đình và ngoài xã hội. Một số công trình nghiên cứu về giới, bình đẳng giới ở Việt Nam đã góp phần nâng cao nhận thức, lý luận và năng lực vận dụng quan điểm giới, bình đẳng giới vào nghiên cứu những vấn đề đặt ra đối với nữ trí thức trong các trường chính trị ở Việt Nam hiện nay. Tiêu biểu có thể kể đến một số công trình như sau: Cuốn sách Địa vị người phụ nữ trong gia đình nữ trí thức [26] của Đoàn Thị Bích Điểm đã chỉ ra rằng, vị thế của người phụ nữ ngày càng được nâng cao trong gia đình so với phụ nữ Việt Nam trong chế độ xã hội cũ. Tuy nhiên so với nam giới vị thế này vẫn còn kém xa, kể cả trong các gia đình nữ trí thức. Họ chủ yếu có ưu thế trong việc quyết định những công việc liên quan đến nội trợ, ít quan trọng hơn như mua thức ăn, quần áo, tiền học cho con,... Tác giả cũng đã giải thích thực trạng trên là do dựa trên sự phân công lao động xã hội theo giới. Phụ nữ là lực lượng thường xuyên thực hiện các công việc nội trợ nên quyết định những công việc này. Đàn ông là trụ cột của gia đình nên thường lo toan những việc lớn. Điều này đã khẳng định dù có dân chủ hơn, bình đẳng hơn, các gia đình trong đó có gia đình nữ trí thức vẫn bị ảnh hưởng bởi các định kiến giới. Lê Thị Quý trong bài viết Phụ nữ trong đổi mới: Thành tựu và thách thức [70] cho rằng nhiều nghiên cứu đã luận giải tỷ số chênh lệch giữa nam
  • 17. 12 và nữ với tư cách là lãnh đạo quản lý trong bộ máy nhà nước ở các cấp. Đồng thời, tác giả bước đầu chỉ ra quan niệm, định kiến giới của một số cán bộ chính quyền và người dân đối với việc phụ nữ tham gia lãnh đạo. Nghiên cứu này đã cung cấp một số cơ sở cho đề tài khi nghiên cứu nữ trí thức tham gia vào lĩnh vực lãnh đạo quản lý trong các trường chính trị ở Việt Nam hiện nay. Trong bài viết Chất lượng nguồn nhân lực nữ qua lăng kính giới [30] của Lưu Song Hà, Phan Thị Thu Hà đã phân tích chất lượng nguồn nhân lực nữ ở Việt Nam từ những khía cạnh thể lực, trí lực và tâm lực. Từ kết quả nghiên cứu thực tiễn, nhóm tác giả đã đề xuất một số giải pháp nhằm góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nữ và bình đẳng giới. Nghiên cứu này góp phần gợi mở cho tác giả luận án về những giải pháp nhằm nâng cao việc thực hiện vai trò của nữ trí thức các trường chính trị trong việc thực hiện nhiệm vụ chính trị được giao. Đỗ Thị Thạch trong bài Tăng cường sự tham gia của phụ nữ trong công tác lãnh đạo, quản lý ở nước ta hiện nay [79], đã nhấn mạnh ở Việt Nam, cùng với tiến trình lịch sử của dân tộc, phụ nữ luôn phát huy vai trò và tỏ rõ khả năng của mình trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, góp phần tích cực vào sự nghiệp phát triển chung của đất nước. Trong công cuộc đổi mới hiện nay, vai trò của phụ nữ càng cần phải phát huy hơn bao giờ hết, nhất là trong lãnh đạo, quản lý, vì phụ nữ vừa có tiềm năng, năng lực, vừa có truyền thống trong lịch sử, vừa là yêu cầu chung trong sự nghiệp phát triển đất nước. Thứ hai, những công trình nghiên cứu về nữ trí thức Nữ trí thức Việt Nam một bộ phận của trí thức Việt Nam, là bộ phận tinh hoa của phụ nữ Việt Nam, cùng với đội ngũ trí thức và phụ nữ Việt Nam, cho đến nay, nhiều nhà khoa học trong nước đã dày công nghiên cứu, bỏ nhiều tâm huyết để tìm hiểu, đánh giá và tìm ra các giải pháp hữu hiệu nhằm khai thác
  • 18. 13 tiềm năng, phát huy vai trò của đội ngũ nữ trí thức Việt Nam. Tiêu biểu có thể kể đến một số công trình như sau: Đỗ Thị Thạch trong công trình Phát huy nguồn lực nữ trí thức Việt Nam trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa [74] đã làm rõ quan niệm về trí thức, nữ trí thức. Tác giả, đã phân tích những phẩm chất trí tuệ, cũng như những yếu tố tác động đến sự phát triển trí tuệ của nữ trí thức; những đóng góp của họ đối với sự phát triển của gia đình và đất nước, v.v... Từ đó, tác giả đã đề xuất một số giải pháp nhằm phát huy nguồn lực nữ trí thức Việt Nam trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đây là công trình đã có một cách tiếp cận mới, góp phần làm rõ quá trình hình thành và đặc điểm của nguồn lực nữ trí thức Việt Nam; góp phần quan trọng trong việc xóa bỏ định kiến giới, khẳng định vai trò to lớn của nguồn lực nữ trí thức đối với sự phát triển của xã hội, tiến tới thực hiện mục tiêu bình đẳng giới ở nước ta hiện nay. Công trình là tư liệu nghiên cứu quan trọng cho cách tiếp cận của luận án. Trần Thị Minh Đức với công trình Thực trạng nữ trí thức Việt Nam trong sự nghiệp phát triển đất nước [27] đã đề cập đến cơ sở thực tiễn và những vấn đề lý luận quan trọng của việc nghiên cứu nữ trí thức Việt Nam trong phát triển đất nước. Nghiên cứu đã tập trung phân tích đặc điểm, cơ cấu xã hội của đội ngũ nữ trí thức, vai trò của họ trong một số lĩnh vực tiêu biểu được coi là thế mạnh. Đồng thời, tác giả cũng chỉ ra vai trò không thể thay thế của nữ trí thức làm điểm nhấn khác biệt với nam trí thức đó là chức năng làm vợ, thiên chức làm mẹ. Vai trò "kép” của nữ trí thức vừa là hạnh phúc vừa là thách thức đối với họ cần phải hội tụ nhiều biện pháp mới vượt qua. Khẳng định vai trò to lớn của nữ trí thức đối với sự phát triển của đất nước, và đưa ra những kiến nghị chính sách đối với Đảng và Nhà nước, tại
  • 19. 14 Hội thảo khoa học của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam và Đại học Quốc gia Hà Nội Nữ trí thức Việt Nam đối với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước [40] được tổ chức tại thủ đô Hà Nội. Hội thảo đã tập hợp được rất nhiều quan điểm, bài viết có giá trị nói về những đóng góp to lớn của nữ trí thức trên mọi lĩnh vực đời sống xã hội trong những năm qua. Đồng thời, nhiều bài tham luận đã chỉ rõ thách thức đối với nữ trí thức và những rào cản đang cản trở bước tiến của họ. Theo ý kiến của nhiều tác giả, những thách thức và các rào cản nảy sinh từ định kiến giới trong xã hội; từ gia đình và bản thân người phụ nữ. Trên cơ sở đó, nhiều nhà khoa học trong Hội thảo cũng đã đề ra những giải pháp phát triển nữ trí thức trong tương lai để tiến kịp sự phát triển của nam giới. Đề tài nghiên cứu khoa học Vai trò, vị thế của nữ trí thức trong quá trình công nghiệp hóa ở Việt Nam [95] của Trung tâm Nghiên cứu phụ nữ - Trường Cán bộ Phụ nữ Trung ương (nay là Học viên Phụ nữ Việt Nam) đã chỉ rõ, mặc dù so với nam giới, vị thế của phụ nữ còn thấp, kể cả trong gia đình trí thức, nhưng xu hướng trong gia đình nữ trí thức, mối quan hệ vợ chồng là mối quan hệ dân chủ, bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau,... Như vậy, sự hiểu biết, tri thức có vai trò quan trọng trong xây dựng mối quan hệ bình đẳng giới trong gia đình. Tại Hội thảo của Liên hiệp các Hội khoa học và Kỹ thuật Việt Nam Giải pháp nâng cao vai trò của nữ trí thức trong hoạt động khoa học và công nghệ giai đoạn 2015-2020 [39], các đại biểu đã được nghe 05 báo cáo của các nhà nghiên cứu, khoa học và các ý kiến đóng góp sôi nổi của nữ trí thức thuộc Hội Nữ trí thức Việt Nam. Trong đó, báo cáo “Giải pháp phát huy vai trò của nữ trí thức trong giảng dạy, nghiên cứu lý luận chính trị” của tác giả Nguyễn Thị Báo đã cung cấp nhiều thông tin, đưa ra nhiều giải pháp cụ thể để phát huy hơn nữa vai trò của nữ trí thức trong lĩnh vực nghiên
  • 20. 15 cứu, giảng dạy lý luận chính trị. Đây là một tài liệu hữu ích, có giá trị tham khảo quan trọng cho luận án. Trong công trình Nữ trí thức với sự nghiệp phát triển đất nước [83] của Nguyễn Thị Việt Thanh đã tập hợp một số tham luận được thực hiện trong khuôn khổ đề tài khoa học độc lập cấp Nhà nước “Phát huy vai trò và vị thế của nguồn nhân lực nữ trí thức trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế”. Các bài tham luận đã mang đến cái nhìn khoa học về những vấn đề khác nhau. Nhiều tham luận đã có giá trị khoa học cao khi áp dụng các phương pháp hiện đại, nghiên cứu nữ trí thức từ góc độ một nguồn lực lao động quan trọng của đất nước, nhưng lại có những đặc tính riêng về giới, với những thuận lợi nhưng cũng có nhiều trở ngại, thách thức nảy sinh khi phải cố gắng dung hòa giữa chức năng của người phụ nữ trong gia đình và vai trò của một cá thể độc lập trong xã hội. Công trình này đã cung cấp cho luận án phương pháp tiếp cận khoa học hiện đại khi nghiên cứu, đánh giá nữ trí thức trong các trường chính trị ở Việt Nam hiện nay. Nguyễn Đình Tấn trong bài viết Vai trò của nữ trí thức trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa [73] đã cho rằng: Nữ trí thức là bộ phận hợp thành của tầng lớp trí thức (họ mang tất cả những đặc trưng cơ bản của người trí thức nói chung. Họ là những người có đặc trưng về giới tính là phụ nữ, có đủ trình độ kiến thức, chuyên môn cần thiết cho hoạt động nghề nghiệp và làm việc trong lĩnh vực trí óc), có vai trò quan trọng trên mọi mặt của đời sống xã hội và gia đình; họ là một lực lượng lao động trí tuệ hùng hậu, v.v... có đóng góp tích cực vào quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Lưu Song Hà trong bài viết Nữ trí thức với gia đình và sự nghiệp [29] đã đề cập đến vai trò “kép” của phụ nữ, đồng thời cũng đã so sánh vai trò này đối với nữ trí thức. Bên cạnh nhiều thành công thì nữ trí thức gặp nhiều khó khăn, thách thức khi phải gánh trên vai nhiều chức phận, những rào cản
  • 21. 16 từ việc thực hiện chức năng này hay chức năng kia làm cho người phụ nữ nhiều lúc khó vượt qua. Từ việc khẳng định vai trò, trách nhiệm nặng nề hơn của nữ trí thức, tác giả đề xuất một số giải pháp để thực hiện bình đẳng giới tốt hơn. Tiếp tục bàn về nữ trí thức, Lê Tuấn trong bài viết Gỡ bỏ những rào cản để nữ trí thức phát triển [115] đã khẳng định vai trò của nữ trí thức trong suốt chiều dài của dân tộc Việt Nam. “Đội ngũ nữ trí thức bằng tài năng, trí tuệ, cống hiến không mệt mỏi, có đóng góp quan trọng vào sự phát triển ở nhiều lĩnh vực”. Đồng thời, tác giả cũng khẳng định “mặc dù có những bước trưởng thành quan trọng, nhưng đội ngũ trí thức vẫn chưa phát triển tương xứng với tiềm năng của mình, cũng như yêu cầu khách quan của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”. Do đó, tác giả đã đề xuất cần có các hoạt động và hình thức thu hút, tập hợp nữ trí thức. Cách tiếp cận của tác giả là một gợi ý cho hướng đề xuất giải pháp của luận án. Đỗ Thị Thạch trong bài viết Đặc điểm của đội ngũ nữ trí thức Việt Nam trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa [77] đã chỉ rõ những đặc điểm của đội ngũ nữ trí thức Việt Nam về cơ cấu xã hội, cơ cấu trình độ, cơ cấu ngành nghề,... Những cơ cấu này đã tác động tích cực, tiêu cực tới vị thế, vai trò, chất lượng của đội ngũ nữ trí thức hiện nay. Trên cơ sở đó, tác giả đã đề xuất giải pháp nhằm phát huy mặt tích cực, khắc phục mặt hạn chế xét từ góc độ cơ cấu đặc điểm của đội ngũ nữ trí thức nước ta hiện nay. Cách tiếp cận này của tác giả không chỉ đánh giá được sâu, cụ thể đặc điểm của nữ trí thức Việt Nam, mà còn là một gợi ý phù hợp cho luận án khi phân tích, làm rõ đặc điểm của nữ trí thức trong các trường chính trị hiện nay. Tiếp đó, Đỗ Thị Thạch đã đánh giá những phẩm chất cơ bản của nữ trí thức Việt Nam trước yêu cầu hội nhập quốc tế. Trong bài viết Trí thức nữ Việt Nam trước yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế [76] tác giả cho rằng, đội ngũ nữ trí thức Việt Nam phải đảm bảo
  • 22. 17 ba phẩm chất cơ bản là phẩm chất chính trị vững vàng, có trí tuệ cao, có trách nhiệm xã hội. Để phát huy vai trò của nữ trí thức đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế cần thực hiện đồng bộ các giải pháp về nhận thức của cá nhân, cộng đồng đối với vai trò của nữ trí thức, giải pháp về xây dựng chính sách hợp lý, giải pháp xây dựng tổ chức Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Hội Nữ trí thức đại biểu cho quyền lợi của nữ trí thức. Trong bài viết Vai trò, vị thế của nữ trí thức Việt Nam trong phát triển bền vững [80], Đỗ Thị Thạch đã khẳng định vị thế của nữ trí thức trên các lĩnh vực của đời sống. Theo tác giả, để phát triển bền vững, việc phát huy vai trò của nguồn nhân lực chất lượng cao, đặc biệt là đội ngũ trí thức có ý nghĩa quyết định. Tuy nhiên, tác giả cũng đã chỉ ra rằng, vị thế, vai trò của phụ nữ nói chung, nhất là nữ trí thức nói riêng vẫn còn nhiều hạn chế, nhất là so với đồng nghiệp nam giới của nữ trí thức. Vì vậy, trong bài viết này, tác giả đã tập trung đưa ra những giải pháp cơ bản để phát huy vai trò, vị thế của đội ngũ nữ trí thức đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước bền vững. Bài viết là một tư liệu tham khảo rất quan trọng, liên quan trực tiếp đến nội dung mà luận án tiến hành nghiên cứu. Tiếp tục bàn về vai trò của đội ngũ nữ trí thức trong phát triển bền vững đất nước, Phan Thanh Khôi trong bài viết Đội ngũ nữ trí thức trong phát triển bền vững đất nước [54] đã đưa ra những định hướng lớn như: Xây dựng đội ngũ nữ trí thức Việt Nam gắn với chiến lược phát triển bền vững đất nước; xây dựng đội ngũ nữ trí thức Việt Nam phù hợp với đường lối phát triển đội ngũ trí thức nước ta nói chung và xây dựng đội ngũ nữ trí thức Việt Nam gắn với chiến lược quốc gia về bình đẳng giới. Có thể nói, những định hướng này, một mặt, phù hợp sự phát triển khách quan của đội ngũ nữ trí thức, mặt khác, đáp ứng được yêu cầu xây dựng đội ngũ trí thức Việt Nam nói chung xứng
  • 23. 18 đáng là lực lượng lao động sáng tạo đặc biệt quan trọng trong tiến trình hiện đại hóa và phát triển bền vững đất nước. Như vậy, đã có khá nhiều các công trình nghiên cứu về nữ trí thức, vị thế, vai trò của nữ trí thức và những rào cản đối với nữ trí thức, những giải pháp, đề xuất để tiếp tục phát huy hơn nữa vai trò của đội ngũ này trong quá trình phát triển đất nước. Song, một thực tế đặt ra rằng, những khó khăn, thách thức nào đang là rào cản đối với việc phát huy tối đa vai trò của nữ trí thức hiện nay, giải pháp nào khắc phục hiệu quả nhất vẫn còn nhiều vấn đề phải bàn thêm, nhất là những vấn đề về chính sách, về giải quyết những khó khăn liên quan đến thiên chức người phụ nữ và thực hiện chủ trương bình đẳng giới. Các công trình khoa học nghiên cứu trên là những cơ sở lý luận, tư liệu khoa học quý giá cho luận án trong quá trình nghiên cứu, tiếp cận và giải quyết vấn đề phát huy vai trò của nữ trí thức trong các trường chính trị ở Việt Nam hiện nay. 1.1.3. Những công trình nghiên cứu tiêu biểu về trường chính trị và nữ trí thức trong các trường chính trị Trường chính trị là đơn vị sự nghiệp trực thuộc tỉnh ủy, thành ủy và Ủy ban nhân dân tỉnh/thành phố, đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp và thường xuyên của Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Thành ủy đã thực hiện tốt chức năng nhiệm vụ của mình, góp phần tăng cường và thống nhất sự lãnh đạo, quản lý của các tỉnh, thành ủy và Ủy ban nhân dân các tỉnh/thành phố đối với công tác đào tạo, quản lý cán bộ cơ sở. Một là, những công trình nghiên cứu liên quan về trường chính trị Nguyễn Văn Sách, Trường Chính trị tỉnh Phú Thọ - 55 năm xây dựng và phát triển (1957 - 2012) [71]. Cuốn sách đã ghi lại quá trình xây dựng và phát triển của nhà trường từ năm 1957 đến nay. Suốt 55 năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh, cán bộ, công chức, viên chức nói chung và cán bộ
  • 24. 19 nữ trí thức của nhà trường nói riêng đã có nhiều đóng góp vào sự nghiệp đào tạo, bồi dưỡng cán bộ của tỉnh qua các thời kỳ cách mạng, góp phần tích cực vào sự nghiệp xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. Đây là một tài liệu quan trọng cho luận án khi tiến hành khảo sát thực tiễn tại Trường Chính trị tỉnh Phú Thọ. Vụ Các trường chính trị (thuộc Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh), Báo cáo kết quả đề tài khảo sát, đánh giá kết quả triển khai thực hiện chương trình, giáo trình Trung cấp Lý luận chính trị - Hành chính và bộ quy chế, quy định quản lý đào tạo ở các trường chính trị tỉnh, thành phố khu vực miền núi phía Bắc [120]. Kết quả khảo sát đã tập trung đánh giá những ưu điểm và những tồn tại cần tiếp tục được quan tâm, giải quyết về khung chương trình đào tạo, quy chế, quy định đào tạo quản lý của ở các trường chính trị tỉnh, thành phố khu vực phía Bắc. Đồng thời, báo cáo khảo sát cũng đã đánh giá tình hình tổ chức cán bộ của các trường chính trị (về số lượng, chất lượng của đội ngũ cán bộ) miền núi phía Bắc. Đây là tài liệu quan trọng cho luận án khi nghiên cứu, khảo sát ở các trường chính trị tỉnh thuộc khu vực miền núi phía Bắc Việt Nam. Ở khu vực phía Nam, Vụ Các trường chính trị (thuộc Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh), Báo cáo kết quả đề tài khảo sát, đánh giá kết quả triển khai thực hiện chương trình, giáo trình Trung cấp Lý luận chính trị - Hành chính và bộ quy chế, quy định quản lý đào tạo ở các trường chính trị tỉnh, thành phố khu vực miền Tây Nam Bộ [121]. Kết quả khảo sát đã tập trung đánh giá những ưu điểm và những tồn tại cần tiếp tục được quan tâm, giải quyết về khung chương trình đào tạo, quy chế, quy định đào tạo quản lý của ở các trường chính trị tỉnh, thành phố khu vực miền Tây Nam Bộ. Đồng thời, báo cáo khảo sát cũng đã đánh giá tình hình tổ chức cán bộ của các trường chính trị (về số lượng, chất lượng của cán bộ) miền Tây Nam Bộ. Đây
  • 25. 20 là tài liệu quan trọng cho luận án khí nghiên cứu, khảo sát các trường chính trị tỉnh thuộc khu vực miền Tây Nam Bộ Việt Nam. Hai là, một số công trình nghiên cứu liên quan đến nữ trí thức trong các trường chính trị Trần Thị Minh Ngọc với bài viết Phát huy vai trò của nữ trí thức trong công tác nghiên cứu, giảng dạy lý luận chính trị tại các trường chính trị nước ta và một số vấn đề đặt ra trong Kỷ yếu Hội thảo khoa học: Nữ trí thức Hà Nội trong sự nghiệp phát triển thủ đô [65] đã chỉ ra đặc điểm của nữ trí thức trong nghiên cứu, giảng dạy lý luận chính trị tại các trường chính trị, trên cơ sở đó tác giả đi vào phân tích làm rõ thực trạng của đội ngũ này trong giai đoạn hiện nay. Đồng thời, chỉ rõ những nguyên nhân chủ quan, khách quan dẫn đến sự hạn chế trong việc phát huy vai trò của đội ngũ nữ trí thức. Từ đó, tác giả đã đề xuất những giải pháp hữu hiệu có tính khả thi cao trong việc tiếp tục nâng cao vai trò của đội ngũ nữ trí thức trong giảng dạy lý luận chính trị tại các trường chính ở nước ta hiện nay. Vũ Mạnh Hồng trong bài viết Phụ nữ trường chính trị tỉnh Hòa Bình phát huy tốt vai trò trong sự nghiệp đào tạo, bồi dưỡng cán bộ và nghiên cứu khoa học [43] đã khẳng định vị trí, vai trò của phụ nữ nhà trường trong công tác giảng dạy, nghiên cứu khoa học, lãnh đạo quản lý và các hoạt động khác, đóng góp to lớn vào sự phát triển Trường Chính trị tỉnh Hòa Bình hiện nay. Nguyễn Mạnh Hải trong bài viết Chuẩn nghề nghiệp đối với giảng viên trường chính trị tỉnh [32] đánh giá khái quát đội ngũ giảng viên trường chính trị đã có nhiều bước phát triển tích cực về số lượng và chất lượng. Tuy nhiên, chất lượng đội ngũ này còn nhiều hạn chế, bất cập. Do đó, việc nâng cao chất lượng về mọi mặt, đặc biệt là về phẩm chất chính trị, đạo đức nghề nghiệp, năng lực chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ này là đòi hỏi cấp bách.
  • 26. 21 Bài viết Một số suy nghĩ về công tác đào tạo bồi dưỡng đội ngũ giảng viên ở Trường Chính trị tỉnh Lâm Đồng [90] của Võ Thị Bích Thủy đã đánh giá những ưu điểm, ưu thế và những điểm chưa được trong công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ giảng viên tại Trường Chính trị tỉnh Lâm Đồng. Trên cơ sở đó tác giả đã đề xuất những giải pháp để tiếp tục xây dựng đội ngũ giảng viên nhà trường ngày càng vững mạnh. Bài viết là một tư liệu tham khảo quan trọng để tác giả luận án có luận cứ thực tiễn khi xem xét, đánh giá thực trạng đội ngũ nữ trí thức trong hoạt động giảng dạy lý luận chính trị ở các trường chính trị hiện nay. Nguyễn Thanh Thuyên trong bài viết Xây dựng đội ngũ giảng viên trường chính trị đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ [91] đã khẳng định giảng viên trường chính trị là một bộ phận quan trọng trong đội ngũ trí thức của tỉnh. Sự đóng góp trí tuệ của đội ngũ này trong việc giảng dạy, nghiên cứu khoa học, tham gia vào các tổ chức, các diễn đàn của trí thức góp phần quan trọng xây dựng tỉnh nhà ngày càng phát triển. Theo tác giả, “rất cần có một sự đánh giá chính xác, công tâm; có sự góp ý chân thành; có sự biểu dương kịp thời; có những đãi ngộ xứng đáng với sự nỗ lực phấn đấu, cống hiến; sự tôn vinh thật sự của cộng đồng xã hội cho những đóng góp quan trọng nhưng thầm lặng của họ”. Như vậy, qua khảo sát những công trình nghiên cứu liên quan đến trường chính trị, nữ trí thức trong các trường chính trị chúng tôi nhận thấy, trong 10 năm trở lại đây, chưa có công trình nghiên cứu trực tiếp về các trường chính trị ở cấp độ quốc gia, về cơ bản chỉ là tài liệu viết về lịch sử trường, các bài viết trong Hội thảo khoa học, đăng trên tạp chí, báo Trung ương, địa phương và nội san của các trường; đặc biệt chưa có một công trình nào nghiên cứu chuyên biệt về trí thức, nữ trí thức trong các trường chính trị. Đây chính là khoảng trống, hướng mở mà tác giả luận án muốn góp phần nghiên cứu.
  • 27. 22 1.2. NHỮNG CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU Ở NƯỚC NGOÀI CÓ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN Một là, các công trình nghiên cứu về trí thức Tác giả người Trung Quốc, Ngụ Quý Tăng trong công trình Kinh tế tri thức xu thế mới của xã hội thế kỷ XXI [72] đã đưa ra một cái nhìn tổng quát về kinh tế tri thức trong tương lai không xa, từ đó đặt ra sự cấp thiết phải chuẩn bị hành trang tri thức để có thể tiếp cận và làm việc với nó. Đồng thời, cũng đã đưa ra các giải pháp để phát triển kinh tế tri thức, trong đó có yêu cầu đối với trí thức trong phát triển nền kinh tế tri thức. Tuy nhiên, ở công trình này, tác giả mới chỉ dừng lại với trí thức nói chung mà chưa có điều kiện nêu và phân tích những giải pháp đặc thù đối với nữ trí thức - một bộ phận quan trọng và có vai trò lớn trong phát triển kinh tế tri thức. Cùng với quan điểm trên, trong cuốn sách Tôn trọng trí thức, tôn trọng nhân tài kế lớn trăm năm chấn hưng đất nước [35] của Thẩm Vinh Hoa, Ngô Quốc Diệu đã đề cập đến nhiều nội dung quan trọng trong tư tưởng của Đặng Tiểu Bình; phác họa bức tranh mang tính tổng thể tư tưởng của Đặng Tiểu Bình về những vấn đề rất cơ bản như: Nhân tài là then chốt của phát triển, đường lối tổ chức và việc xây dựng đội ngũ cán bộ, tư tưởng chiến lược về bồi dưỡng và giáo dục nhân tài, về tuyển chọn nhân tài ưu tú, về sử dụng và bố trí nhân tài, về tạo môi trường cho nhân tài phát triển, về cải cách chế độ nhân sự trong việc sử dụng nhân tài, v.v… cũng như sự vận dụng các tư tưởng đó trong chiến lược xây dựng nhân tài ở Trung Quốc. Có thể nói, đây là một công trình có giá trị tham khảo sâu sắc đối với việc thực hiện chính sách cán bộ nói chung và chính sách đối với trí thức, nhân tài nói riêng ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Tuy nhiên, công trình này chưa đề cập đến đội ngũ nữ trí thức. Trong tác phẩm Về trí thức Nga [66] đã tập hợp được nhiều bài viết của các học giả Nga. Trong công trình này, người đọc có thể nhận thấy mặc
  • 28. 23 dù chính kiến của các học giả trí thức Nga là rất đa dạng, có khi đối lập nhau nhưng đều trên tinh thần học thuật nghiêm túc. Các học giả cho rằng, trí thức là lực lượng xã hội tương đối đông, có học thức ở một trình độ nhất định và luôn ý thức được vai trò của mình trong sự phát triển của xã hội. Nhìn chung, các bài viết được tiếp cận dưới nhiều góc độ khác nhau đã cung cấp cho người đọc bức tranh về trí thức Nga nói chung, nữ trí thức Nga nói riêng trong thời kỳ trước Cách mạng tháng Mười (1917) của nước Liên Xô và thời kỳ “hậu Xô Viết”. Jennifer Lewington, Biết trọng dụng người tài, Canada vượt lên trước bầy sói [47]. Tác giả đã chỉ ra rằng, nhờ có chiến lược sử dụng nhân tài quốc gia đúng đắn, đất nước Canada đã vượt qua được tình trạng chảy máu nhân tài vào giữa những năm 1990 của thế kỷ XX. Không những thế, hiện nay Canada là một quốc gia thu hút được hàng triệu nhân tài từ nhiều quốc gia trên thế giới. Do đó, ngày nay, Canada trở thành quốc gia có sự phát triển mạnh, sánh ngang với nước láng giềng Hoa Kỳ, nhất là về lĩnh vực giáo dục đào tạo và nghiên cứu khoa học. Điểm cốt lõi trong các công trình nghiên cứu này, các tác giả đã chỉ rõ khái niệm trí thức, đặc thù về tính cách của người trí thức, vai trò của trí thức qua các giai đoạn lịch sử, chính sách sử dụng nhân tài, trí thức ở một số quốc gia, v.v... Đây cũng là cơ sở lý luận để tác giả luận án vận dụng luận giải những nội dung chủ yếu của luận án có tính bao quát, toàn diện và phù hợp hơn với xu thế chung của thế giới. Hai là, các công trình nghiên cứu về phụ nữ, bình đẳng giới Cuốn sách của Barbara Kllerman, Deborah L.Rode, Phụ nữ và Quyền lãnh đạo [9] đã tập trung nghiên cứu sự phát triển của phụ nữ ở nhiều quốc gia với những thống kê, phân tích cụ thể, cung cấp cái nhìn toàn diện về các chức
  • 29. 24 vụ lãnh đạo còn ít ỏi của phụ nữ hiện nay, lý do của thực trạng này và những biện pháp có thể thực hiện để thay đổi thực trạng ấy. Xã hội chúng ta đã có tiến bộ to lớn trong nhiều thập kỷ qua trong việc mở rộng các cơ hội lãnh đạo cho phụ nữ. Tổ chức UNIFEM (United Nations Development Fun Women - Quỹ Phát triển Phụ nữ của Liên Hợp quốc) trong cuốn sách Gender and Accountability (Giới và Trách nhiệm giải trình) [116] đã chỉ ra những nỗ lực của thế giới trong việc xóa bỏ bất bình đẳng giới và thực hiện lồng ghép giới nhằm đáp ứng tốt hơn quyền lợi cho phụ nữ, góp phần làm thay đổi cách mà chúng ta vẫn nghĩ về trách nhiệm giải trình đối với vấn đề giới ở một số lĩnh vực khác nhau của đời sống. Công trình khoa học của UNIFEM, Đảm bảo các Mục tiêu phát triển thiên niên kỷ phục vụ toàn thể nhân dân: Các phương pháp tiếp cận đáp ứng Giới dựa trên các quyền con người [117] được xây dựng nhằm hỗ trợ các nhà hoạch định chính sách, các nhà lập kế hoạch và các nhà thực hành thuộc khu vực Chính phủ và xã hội dân sự để phát triển, thực hiện và giám sát các chiến lược để đạt mục tiêu cho tất cả mọi phụ nữ và nam giới, trẻ em gái và trẻ em trai theo cách thức phù hợp với các mục tiêu toàn cầu và các chỉ số trên cơ sở đặc điểm của bối cảnh quốc gia, dân tộc và địa phương cụ thể. UN Women (Cơ quan phụ nữ Liên Hợp Quốc), Pháp luật của chúng ta có thể thúc đẩy bình đẳng giới, Sổ tay nghiên cứu rà soát pháp luật dựa trên công ước CEDEW [118] tài liệu này được xây dựng dựa trên kinh nghiệm của các nước Đông Nam Á nhưng lại có khả năng áp dụng ra toàn cầu. Tài liệu có nội dung hướng dẫn rà soát luật pháp nhằm đánh giá luật có phân biệt đối xử với phụ nữ hay không. Đây là một tài liệu có giá trị tham khảo cho tác giả luận án trong quá trình nghiên cứu tác động của
  • 30. 25 chính sách pháp luật Việt Nam đến đội ngũ nữ trí thức ở các trường chính trị hiện nay. UN Women, Suy nghĩ về bình đẳng giới và quyền con người trong công tác đánh giá [119]. Báo cáo đã miêu tả thách thức hiện nay trong công tác đánh giá về bình đẳng giới và quyền con người của phụ nữ. Đây là cơ sở cho việc nghiên cứu cũng như khảo sát giữa các chuyên gia và các nhà thực tiễn trong việc thúc đẩy bình đẳng giới và tăng quyền cho phụ nữ. The World Development Report (Ngân hàng phát triển thế giới), Gender Equality and Development - Báo cáo phát triển toàn cầu: Bình đẳng giới và phát triển [64]. Báo cáo đã phân tích những nội dung chính như vai trò của bình đẳng giới trong sự phát triển chung và cho kinh tế. Báo cáo tập trung vào bốn ưu tiên chính: Giảm chênh lệch về giới trong phát triển con người; thu ngắn khoảng cách về giới trong việc tiếp cận các cơ hội kinh tế; thu hẹp sự khác biệt về giới tại nơi làm việc cũng như trong việc bày tỏ ý kiến của người dân; giảm thiểu dần sự mất cân bằng giới tính trong sinh sản ở các thế hệ sau. Deborah Chatsis trong bài viết Chính sách công và sự trao quyền cho phụ nữ: Bài học từ Canada [14] đã đưa ra một bức tranh về việc đảm bảo sự đại diện đầy đủ của phụ nữ trong các cấp chính quyền ở Canada, nhất là sự đóng góp ngày càng nhiều của phụ nữ vào khu vực nhà nước. Đồng thời, tác giả bài viết cũng đã đưa ra một số bài học kinh nghiệm thực tế từ Canada trong các nỗ lực thúc đẩy sự trao quyền cho phụ nữ. Bài viết giúp cho tác giả luận án có cơ sở để đánh giá sự khách quan, đa chiều về thực tiễn vai trò của nữ trí thức trong các trường chính trị trong vai trò là người lãnh đạo, quản lý. Những những tài liệu của một số cá nhân và tổ chức nước ngoài là nguồn tư liệu cung cấp cơ sở lý luận để tác giả luận án luận giải về nữ trí thức trong các trường chính trị ở Việt Nam hiện nay.
  • 31. 26 1.3. ĐÁNH GIÁ NHỮNG CÔNG TRÌNH TỔNG QUAN VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ LUẬN ÁN TIẾP TỤC LÀM SÁNG TỎ 1.3.1. Những giá trị cần tham khảo và những “khoảng trống” chưa tiếp cận trong các công trình tổng quan Thông qua tổng quan tình hình nghiên cứu những vấn đề liên quan đến đề tài luận án, tác giả khái quát một số giá trị chủ yếu của các công trình tổng quan, luận án cần kế thừa và phát triển: Thứ nhất, các công trình nghiên cứu đã hệ thống hóa một số cách tiếp cận về trí thức, trí thức Việt Nam trên nhiều bình diện đa dạng và phong phú: Từ quan niệm, định nghĩa về trí thức, cho đến nhận thức, đánh giá vai trò của đội ngũ trí thức trong các lĩnh vực của đời sống xã hội,… Các công trình còn luận bàn việc phát huy vai trò của đội ngũ trí thức Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Thứ hai, các công trình, bài viết của các tác giả đã đóng góp quan trọng về mặt lý luận và thực tiễn, luận giải những vấn đề về phụ nữ, vai trò của phụ nữ trong gia đình và xã hội, thuận lợi, khó khăn của họ khi thực hiện vai trò “kép” này. Thứ ba, các công trình nghiên cứu, các bài viết đã phân tích làm rõ vị trí, vai trò quan trọng của đội ngũ trí thức nói chung, nữ trí thức nói riêng - bộ phận tinh tuý nhất của nguồn nhân lực trong phát triển đất nước. Thứ tư, các nhà khoa học Việt Nam đã bước đầu đưa ra quan niệm nữ trí thức ở những góc độ nhất định: Định tính, định lượng; làm rõ vai trò quan trọng của nữ trí thức là lực lượng xung kích đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức, hội nhập quốc tế, phát triển bền vững của đất nước. Thứ năm, các tác giả đã phân tích làm rõ thực trạng (thành tựu và hạn chế) của việc phát huy đội ngũ nữ trí thức, phát triển (đào tạo, sử dụng, quản
  • 32. 27 lý) đội ngũ trí thức, nữ trí thức; đồng thời nhiều tác giả cũng chỉ ra nguyên nhân cơ bản, những rào cản dẫn đến những hạn chế, yếu kém đó. Thứ sáu, một số học giả đã đưa ra những giải pháp nhằm phát triển đội ngũ trí thức, nữ trí thức. Đặc biệt, có một số tác giả đã làm rõ thực trạng nguồn lực của Việt Nam, trong đó có nguồn lực nữ trí thức trong những năm qua, đưa ra những dự báo về nhu cầu, xu thế, giải pháp phát triển nguồn lực nữ trí thức. Thứ bảy, một số công trình khoa học đã nêu và phân tích chính sách của Đảng, Nhà nước về phát triển nữ trí thức nhằm phát huy hiệu quả nguồn lực này, từng bước thực hiện bình đẳng giới. Thứ tám, một số học giả bước đầu đã có những bài viết, công trình nghiên cứu về trường chính trị, công tác giảng dạy lý luận chính trị ở trường chính trị và một số bài viết liên quan trực tiếp đến đội ngũ giảng viên ở trường chính trị. Bên cạnh những giá trị to lớn về mặt khoa học mà các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án đã đạt được, vẫn còn những “khoảng trống” chưa nghiên cứu như sau: Một là, chưa có công trình nghiên cứu khoa học chuyên sâu về nữ trí thức trong các trường chính trị ở Việt Nam, nhất là dưới góc độ chính trị - xã hội. Đã có một vài bài viết liên quan đến nữ trí thức các trường chính trị, song chưa đi sâu làm rõ nhằm khẳng định việc phát huy vai trò của nữ trí thức trong các trường chính trị là một yêu cầu bức thiết của sự nghiệp đào tạo cán bộ, lãnh đạo, quản lý trong hệ thống chính trị cấp cơ sở hiện nay. Hai là, trong thời gian qua, những công trình khoa học đã đề xuất nhiều giải pháp phát triển nữ trí thức nói chung. Tuy nhiên, các giải pháp vẫn chưa có tính hệ thống, toàn diện, nhất là còn chưa thật sâu sắc về quan điểm giới, từ đó có thể áp dụng vào thực tiễn một cách có hiệu quả trong các trường chính
  • 33. 28 trị hiện nay, tránh tình trạng “lãng phí chất xám”, ảnh hưởng đến ngân sách đào tạo của các cá nhân, gia đình, Nhà nước. Đặc biệt, phải có những giải pháp mang tính trọng tâm, trọng điểm, có tính chuyên biệt, tạo bước đột phá để đẩy mạnh việc phát huy vai trò của nữ trí thức trong các trường chính trị hướng tới mục tiêu nâng cao chất lượng công tác đào tạo, bồi dưỡng của nhà trường, góp phần phát huy toàn diện vai trò của nữ trí thức Việt Nam trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. 1.3.2. Những vấn đề luận án tiếp tục làm sáng tỏ Một là, làm rõ một số vấn đề chung về đội ngũ nữ trí thức các trường chính trị, gồm: - Đặc điểm cơ bản của nữ trí thức trong các trường chính trị về nguồn đào tạo, số lượng và nhóm tuổi, về trình độ học vấn, môi trường công tác, tính chất nghề nghiệp. - Vai trò của nữ trí thức trong các trường chính trị tham gia các nhiệm vụ chính trị cơ bản của nhà trường: Hoạt động đào tạo lý luận chính trị, hoạt động nghiên cứu khoa học và hoạt động lãnh đạo, quản lý. - Những yếu tố tác động đến vai trò của nữ trí thức trong các trường chính trị, như: Công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên môi trường; kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; văn hóa truyền thống Việt Nam; công tác lý luận chính trị và đào tạo lý luận chính trị của Đảng hiện nay. Hai là, luận án phân tích thực trạng thực hiện vai trò và những vấn đề đặt ra đối với nữ trí thức trong các trường chính trị hiện nay. - Trên cơ sở đặc điểm, vai trò của nữ trí thức trong các trường chính trị, tác giả luận án đã tập trung làm rõ những thành tựu, hạn chế trong thực hiện vai trò của nữ trí thức trong các trường chính trị trên các lĩnh vực đào tạo lý luận chính trị, nghiên cứu khoa học, lãnh đạo, quản lý.
  • 34. 29 - Phân tích, chỉ rõ những vấn đề đặt ra đối với nữ trí thức trong các trường chính trị cần tiếp tục nghiên cứu và giải quyết như: Vấn đề nhận thức, cơ chế, chính sách của Đảng, Nhà nước, địa phương, bản thân đội ngũ nữ trí thức về trình độ, năng lực, tâm lý… Ba là, từ thực trạng và vấn đề đặt ra trong thực hiện vai trò của nữ trí thức trong các trường chính trị ở Việt Nam, luận án đã nêu lên những quan điểm chỉ đạo và đề xuất những giải pháp cơ bản: Giải pháp nâng cao nhận thức của xã hội về vai trò của đội ngũ nữ trí thức trong các trường chính trị; giải pháp về nâng cao trình độ, năng lực cho nữ trí thức trong các trường chính trị đáp ứng với yêu cầu nhiệm vụ hiện nay; giải pháp nâng cao chất lượng cuộc sống, tạo động lực phát huy vai trò của nữ trí thức trong các trường chính trị; giải pháp đảm bảo cho nữ trí thức giải quyết hài hòa chức năng “kép”, gia đình và sự nghiệp. Kết luận chương 1 Có thể nói, đội ngũ nữ trí thức Việt Nam đóng vai trò quan trọng đối với quá trình phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta giai đoạn hiện nay. Tổng hợp và phân tích những công trình tiêu biểu liên quan đến đề tài luận án cho thấy, các học giả, các nhà nghiên cứu đã tập trung luận bàn về: Trí thức, vai trò của trí thức Việt Nam trong quá trình phát triển đất nước; phụ nữ và cách thức giải quyết vấn đề bình đẳng giới. Đồng thời, các công trình nghiên cứu, các bài viết tập trung làm rõ về nữ trí thức và vai trò của nữ trí thức đối với sự phát triển của đất nước. Nhiều công trình nghiên cứu đã đề xuất những giải pháp, cách thức nhằm phát huy vai trò của nữ trí thức Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế. Đối với các trường chính trị và nữ trí thức trong các trường chính trị, các bài viết của một số học giả mới chỉ bước đầu đánh giá về công tác đào
  • 35. 30 tạo, bồi dưỡng ở trường chính trị và đội ngũ giảng viên, nữ giảng viên trong công tác đào tạo, nghiên cứu khoa học; chưa có nhiều bài viết, công trình nghiên cứu khoa học đánh giá trực tiếp về nữ trí thức, phát huy vai trò của nữ trí thức trong các trường chính trị hiện nay. Ở góc độ chính trị - xã hội, dưới những hình thức thể hiện khác nhau (những công trình đã in thành sách, đề tài nghiên cứu khoa học, luận án tiến sỹ, các bài viết đăng trên các tạp chí khoa học...), các công trình đã làm sáng tỏ cả về mặt lý luận và thực tiễn, đạt những giá trị khoa học và thực tiễn sâu sắc khi đánh giá về đội ngũ trí thức, nữ trí thức, vai trò của trí thức, nữ trí thức, về phụ nữ và vấn đề bình đẳng giới. Nhiều bài viết đã cung cấp cách tiếp cận, những gợi mở đối với nghiên cứu phát huy vai trò của nữ trí thức trong các trường chính trị, song cho đến nay chưa có công trình khoa học nào từ cấp độ luận án trở lên trực tiếp nghiên cứu về đối tượng nữ trí thức trong các trường chính trị ở Việt Nam. Qua các công trình đã tổng quan trên, một mặt, tác giả kế thừa có chọn lọc những kết quả nghiên cứu phục vụ cho mục đích luận án của mình, mặt khác, giúp cho tác giả nhận thức rõ hơn những khía cạnh mà các công trình trước đó chưa đề cập, chưa nghiên cứu hoặc mới chỉ làm rõ ở những góc độ khoa học khác nhau. Đây chính là những gợi mở để tác giả xây dựng những hướng nghiên cứu trong luận án của mình.
  • 36. 31 Chương 2 ĐẶC ĐIỂM, VAI TRÒ VÀ NHỮNG YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN NỮ TRÍ THỨC TRONG CÁC TRƯỜNG CHÍNH TRỊ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 2.1. QUAN NIỆM VỀ NỮ TRÍ THỨC, NỮ TRÍ THỨC TRONG CÁC TRƯỜNG CHÍNH TRỊ Ở VIỆT NAM 2.1.1. Quan niệm về nữ trí thức Việt Nam Thứ nhất, quan niệm về trí thức Thuật ngữ “trí thức” được sử dụng rộng rãi trên thế giới, có nguồn gốc xuất phát từ tiếng Latinh: Intelligentia (sự thông minh, sự hiểu biết). Bàn về khái niệm trí thức, các nhà nghiên cứu trong nước và quốc tế đã đưa ra những cách hiểu, định nghĩa khác nhau. Giới nghiên cứu ở nước ta cũng đưa ra nhiều định nghĩa về trí thức, tuy nhiên, để trả lời câu hỏi: Ai là trí thức? đa số đều thống nhất cho rằng, trí thức có những đặc điểm tạo nên sự khác biệt với các nhóm xã hội khác trong xã hội. Họ là tầng lớp đặc biệt, vì ở họ hội tụ những đặc điểm có tính chất chuyên biệt riêng có, như: Trình độ học vấn cao, chuyên môn sâu; là người có phẩm chất đạo đức tốt, có lương tâm; lao động mang tính sáng tạo và rất phức tạp. Trong đó, giá trị quan trọng nhất trong lao động của trí thức là những sản phẩm trí tuệ mà họ làm ra [74, tr.15]. Những đặc điểm này đã được nhấn mạnh trong Nghị quyết số 27-NQ/T.Ư ngày 27 tháng 8 năm 2009 của Đảng. Theo đó: “Trí thức là những người lao động trí óc, có trình độ học vấn cao về lĩnh vực chuyên môn nhất định, có năng lực tư duy độc lập, sáng tạo, truyền bá và làm giàu tri thức, tạo ra những sản phẩm tinh thần và vật chất có giá trị đối với xã hội” [21, tr.81]. Thứ hai, quan niệm về nữ trí thức Nữ trí thức là một bộ phận quan trọng trong đội ngũ trí thức cả nước và là một bộ phận tiêu biểu của phụ nữ Việt Nam. Họ mang đầy đủ những phẩm
  • 37. 32 chất cần có của đội ngũ trí thức, đồng thời họ cũng hội tụ cả những phẩm chất tốt đẹp đặc trưng của phụ nữ Việt Nam. Khi bàn về nữ trí thức, có ý kiến cho rằng, các quan niệm về trí thức hiện nay nói chung không có sự phân biệt về giới tính (nam - nữ). Do vậy, khi định nghĩa về trí thức có thể ứng dụng để nhận diện cả nam trí thức và nữ trí thức. Tuy nhiên, theo tác giả luận án quan niệm này mới chỉ cho thấy đặc điểm của nữ trí thức dưới góc độ là một người trí thức, nhưng chưa chỉ ra được nét đặc thù riêng của họ so với nam trí thức nhìn từ góc độ giới. Quan niệm khác lại cho rằng: “Nữ trí thức là những người có trình độ cử nhân trở lên, làm công việc liên quan đến hoạt động trí tuệ và có tính sáng tạo, tạo ra những sản phẩm tinh thần và vật chất có giá trị cho xã hội” [86]. Ở mỗi góc độ khác nhau, có những định nghĩa, quan niệm khác nhau về nữ trí thức. Trên cơ sở tiếp cận những quan niệm của một số học giả, tác giả luận án nhận thấy có những điểm chung, thống nhất giữa những nhà nghiên cứu khi định nghĩa về nữ trí thức như: Một là, nữ trí thức là bộ phận hợp thành của đội ngũ trí thức. Xét về bản chất ở họ hội tụ đầy đủ những đặc trưng cơ bản của đội ngũ trí thức nói chung như: Lao động trí óc, có năng lực tư duy độc lập sáng tạo, có trình độ học vấn cao về lĩnh vực chuyên môn nhất định,... Hai là, nữ trí thức là một bộ phận tinh hoa của giới nữ. Họ là lực lượng tiêu biểu cho giới nữ. Ở họ hội tụ những phẩm chất tốt đẹp đặc trưng của phụ nữ (đức tính cần cù, chịu thương chịu khó, khéo léo, đảm đang,…). Vì vậy "tư cách trí thức và tư cách nữ gắn bó hữu cơ trong mỗi nữ trí thức nước ta” [74, tr.20]. Hai đặc điểm trên đã chỉ rõ nữ trí thức vừa là người trí thức, vừa là phụ nữ, có những điểm đặc thù phân biệt với những người trí thức nói chung. Như vậy, nữ trí thức là những người có trình độ học vấn cao, đang làm việc trên các lĩnh vực cơ bản của đời sống xã hội. Họ lao động trí óc là chủ
  • 38. 33 yếu có tính chất sáng tạo và phức tạp tạo ra những sản phẩm tinh thần, vật chất có giá trị cho xã hội. Nữ trí thức, nhìn từ chiều cạnh giáo dục, họ là những người có học vấn và trình độ chuyên môn kỹ thuật cao, giỏi kỹ năng, giàu kinh nghiệm. Họ là một bộ phận quan trọng trong đội ngũ trí thức cả nước. Nhìn từ chiều cạnh giới tính, họ vừa là bộ phận tiêu biểu về trí tuệ của phụ nữ Việt Nam, đồng thời là những người vợ, người mẹ, người thầy đầu tiên của con người, có vai trò vô cùng quan trọng đối với sự nghiệp trồng người và xây dựng gia đình bền vững. 2.1.2. Quan niệm về nữ trí thức trong các trường chính trị ở Việt Nam Nữ trí thức trong các trường chính trị hiện nay là một bộ phận của nữ trí thức Việt Nam, là những người lao động trí óc, có năng lực tư duy độc lập, sáng tạo; có trình độ học vấn cao; có bản lĩnh chính trị vững vàng, đang trực tiếp tham gia truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, các nghị quyết, chỉ thị của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước, kiến thức và chuyên môn, nghiệp vụ về công tác xây dựng Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội, kiến thức về pháp luật và quản lý nhà nước và một số lĩnh vực khác cho cán bộ trong hệ thống chính trị cấp cơ sở trên toàn quốc hiện nay. Là một bộ phận của nữ trí thức Việt Nam nhưng do sự phân công lao động xã hội, cơ cấu nghề nghiệp, nữ trí thức trong các trường chính trị vừa có những đặc điểm chung của nữ trí thức cả nước, vừa có nét riêng mang tính đặc thù của môi trường công tác, cụ thể: Thứ nhất, cũng giống như nữ trí thức Việt Nam, nữ trí thức trong các trường chính trị là những người lao động trí óc, có năng lực tư duy độc lập, sáng tạo; có trình độ học vấn cao. Tuy nhiên, chuyên ngành được đào tạo chuyên sâu của đội ngũ này chủ yếu là các ngành khoa học xã hội và nhân
  • 39. 34 văn, lĩnh vực chính trị - xã hội (Triết học, Kinh tế chính trị, Chủ nghĩa xã hội khoa học, Luật học, Xây dựng Đảng, Lịch sử Đảng, Khoa học hành chính,…). Thứ hai, do xuất phát từ yêu cầu của thực tiễn công việc đảm nhận, nữ trí thức trong các trường chính trị thường được đào tạo có hệ thống về trình độ lý luận (từ Trung cấp lý luận chính trị, Cao cấp lý luận chính trị và Cử nhân chính trị). Đồng thời, đội ngũ này cũng có khả năng góp phần định hướng trực tiếp cho công tác lý luận của Đảng trong phạm vi hệ thống chính trị cấp cơ sở. Thứ ba, ngoài những chuẩn mực đạo đức, nghề nghiệp của nữ trí thức nói chung, nữ trí thức trong các trường chính trị phải luôn được nhấn mạnh về bản lĩnh chính trị vững vàng, trung thành với sự nghiệp cách mạng của Đảng, của nhân dân, có “tâm” với nghề giáo. Bởi lẽ, lực lượng này đang trực tiếp thực hiện công tác “huấn luyện” cán bộ của Đảng ở cấp cơ sở về lý luận chính trị - hành chính, đường lối, các nghị quyết, chỉ thị của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước, kiến thức và chuyên môn, nghiệp vụ về công tác xây dựng Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội, kiến thức về pháp luật và quản lý nhà nước và một số lĩnh vực khác. Thứ tư, nữ trí thức trong các trường chính trị chủ yếu hoạt động trên các lĩnh vực: Hoạt động đào tạo (giảng dạy, bồi dưỡng), nghiên cứu khoa học và lãnh đạo, quản lý. Đối tượng đào tạo của họ là cán bộ lãnh đạo, quản lý của Đảng, chính quyền, đoàn thể nhân dân cấp cơ sở (xã, phường, thị trấn và các đơn vị tương đương); trưởng, phó phòng, ban, ngành, đoàn thể cấp huyện và tương đương; trưởng, phó phòng của sở, ban, ngành, đoàn thể cấp tỉnh và tương đương; cán bộ dự nguồn các chức danh trên; cán bộ, công chức cấp cơ sở và một số đối tượng. Trình độ họ tham gia đào tạo là trung cấp lý luận chính trị - hành chính và bồi dưỡng, cập nhật kiến thức, kỹ năng lãnh đạo, chuyên môn, nghiệp vụ,… cho các đối tượng trên [20].
  • 40. 35 2.2. ĐẶC ĐIỂM VÀ VAI TRÒ CỦA NỮ TRÍ THỨC TRONG CÁC TRƯỜNG CHÍNH TRỊ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 2.2.1. Chức năng, nhiệm vụ của các trường chính trị Ngày 05 tháng 09 năm 1994 Ban Bí thư Trung ương Đảng đã ban hành Quyết định số 88-QĐ/TW về việc thành lập trường chính trị cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương để tăng cường và thống nhất sự lãnh đạo, quản lý của các tỉnh, thành ủy và ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố đối với công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ. Trường chính trị tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương được thành lập trên cơ sở hợp nhất trường đảng và trường hành chính hoặc trường quản lý nhà nước của tỉnh, thành phố, gọi chung là trường chính trị tỉnh, thành phố. Căn cứ vào Điều lệ Đảng, căn cứ Quy chế làm việc của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị và Ban Bí thư khóa X, Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa X) về đổi mới, kiện toàn tổ chức bộ máy các cơ quan Đảng, định hướng về đổi mới tổ chức bộ máy Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã ban hành Quyết định số 184-QĐ/TW ngày 03/9/2008 về “chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy của trường chính trị tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương”. Quyết định nêu rõ: Về vị trí, “Trường chính trị tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương là đơn vị sự nghiệp trực thuộc tỉnh ủy, thành ủy và ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố, đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp và thường xuyên của ban thường vụ tỉnh ủy, thành ủy” [20]. Theo đó, trường chính trị có vị trí như một ban, ngành cấp tỉnh, thành phố, giống như các sở, ban, ngành khác của tỉnh, thành phố. Nhà trường có con dấu và tài khoản riêng để hoạt động. Tỉnh ủy, thành ủy quyết định bộ máy biên chế, chính sách đối với cán bộ và học viên của trường; lãnh đạo, chỉ đạo nội dung, quy hoạch, kế hoạch đào tạo bồi dưỡng
  • 41. 36 cán bộ. Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố quản lý hướng dẫn quy chế đào tạo, kế hoạch ngân sách, kinh phí đào tạo, cơ sở vật chất và các nhu cầu hoạt động khác của nhà trường. Về nghiệp vụ, trường chính trị chịu sự chỉ đạo, hướng dẫn về nghiệp vụ của Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh (nay là Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh). Về chức năng, Trường chính trị tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có chức năng tổ chức đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý của hệ thống chính trị cấp cơ sở, cán bộ, công chức ở địa phương về lý luận chính trị - hành chính; đường lối, các nghị quyết, chỉ thị của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước; kiến thức và chuyên môn, nghiệp vụ về công tác xây dựng Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội; kiến thức về pháp luật và quản lý nhà nước và một số lĩnh vực khác [20]. Tại Điều 2 của Quyết định số 184-QĐ/TW đã nêu rõ nhiệm vụ của các trường chính trị như sau: Một là, trường có nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý của Đảng, chính quyền, đoàn thể nhân dân cấp cơ sở (xã, phường, thị trấn và các đơn vị tương đương); trưởng, phó phòng, ban, ngành, đoàn thể cấp huyện và tương đương; trưởng, phó phòng của sở, ban, ngành, đoàn thể cấp tỉnh và tương đương; cán bộ dự nguồn các chức danh trên; cán bộ, công chức cấp cơ sở và một số đối tượng khác về chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; về đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước; về nghị quyết, chỉ thị của Đảng và Nhà nước và một số lĩnh vực khác. Hai là, trường có nhiệm vụ đào tạo Trung cấp Lý luận chính trị - Hành chính cho cán bộ lãnh đạo, quản lý của hệ thống chính trị cấp cơ sở; cán bộ, công chức, viên chức ở địa phương.
  • 42. 37 Ba là, bồi dưỡng, cập nhật kiến thức, kỹ năng lãnh đạo, chuyên môn, nghiệp vụ cho các chức danh cán bộ lãnh đạo, quản lý; cán bộ chuyên môn, nghiệp vụ của các tổ chức đảng, chính quyền, đoàn thể nhân dân cấp cơ sở. Bốn là, có nhiệm vụ bồi dưỡng, cập nhật kiến thức cho đại biểu hội đồng nhân dân cấp xã, cấp huyện. Năm là, đào tạo tiền công vụ đối với công chức dự bị; bồi dưỡng chuyên viên và các chức danh tương đương. Sáu là, trường chính trị phối hợp với ban Tuyên giáo tỉnh ủy, thành ủy trực thuộc Trung ương hướng dẫn và bồi dưỡng nghiệp vụ, phương pháp giảng dạy cho đội ngũ giảng viên của trung tâm bồi dưỡng chính trị cấp huyện. Bảy là, tổ chức nghiên cứu khoa học phục vụ giảng dạy, học tập và tổng kết kinh nghiệm thực tiễn ở địa phương, cơ sở. Tám là, có nhiệm vụ mở các lớp đào tạo, bồi dưỡng ngoài các đối tượng đã nêu trên theo chỉ đạo của cấp ủy, chính quyền địa phương. Theo quy định của Ban Bí thư Trung ương Đảng, trong công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý và cán bộ, công chức cấp cơ sở các trường chính trị cần bám sát chức năng, nhiệm vụ để có thể mở rộng quy mô đào tạo, quán triệt tốt quan điểm cơ bản của Đảng trong công tác đào tạo cán bộ; thực hiện hiệu quả việc đa dạng hóa chương trình đào tạo, hình thức đào tạo, bồi dưỡng, đổi mới nội dung chương trình theo hướng thiết thực. Cũng tại Điều 3 của Quyết định 184-QĐ/TW ngày 03 tháng 9 năm 2008 của Ban Bí thư Trung ương Đảng khóa X, quy định rõ về cơ cấu tổ chức bộ máy của các trường chính trị có Ban Giám hiệu (gồm Hiệu trưởng và các Phó Hiệu trưởng); 04 khoa (Khoa Lý luận Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Khoa Xây dựng Đảng, Khoa Dân vận, Khoa Nhà nước và pháp luật) và 03 phòng chức năng (Phòng Đào tạo, Phòng Nghiên cứu khoa học - Thông tin - Tư liệu và Phòng Tổ chức - Hành chính - Quản trị) [20].
  • 43. 38 Trên cơ sở về tổ chức bộ máy, nhiệm vụ chính trị thực hiện, Ban thường vụ các tỉnh ủy, thành ủy xem xét, quyết định cụ thể số biên chế cho trường với định khung biên chế chung không quá 60 cán bộ, công chức, viên chức, người lao động. Riêng thành phố Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, tỉnh Thanh Hoá, tỉnh Nghệ An, tuỳ theo quy mô có thể nhiều hơn nhưng không quá 90 người. Trong tổng số biên chế, cán bộ giảng dạy và nghiên cứu phải chiếm từ 2/3 trở lên. Ngoài số biên chế theo quy định, trường chính trị được thực hiện chế độ giảng viên kiêm nhiệm. Các trường chính trị ở Việt Nam hiện nay đều là những đơn vị có truyền thống bề dày lịch sử; nơi đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ lý luận chính trị cho nhiều thế hệ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp ở cơ sở. Cùng với quá trình trưởng thành và phát triển của nhà trường, đội ngũ trí thức của 63 trường chính trị cũng không ngừng lớn mạnh cả về số lượng và chất lượng, ngày càng đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp giáo dục, đào tạo, trong đó nữ trí thức là lực lượng nòng cốt không thể thiếu. 2.2.2. Đặc điểm của nữ trí thức trong các trường chính trị 2.2.2.1. Về nguồn đào tạo Trong hệ thống các trường chính trị hiện nay, theo thống kê chưa đầy đủ, đội ngũ nữ trí thức chiếm khoảng 43% tổng số trí thức của cả hệ thống. Trong đó, có khoảng 13% nữ trí thức được đào tạo, trưởng thành trước thời kỳ đổi mới và 87% nữ trí thức được đào tạo, trưởng thành trong thời kỳ đổi mới đất nước [120]. Thực tiễn nguồn đào tạo của đội ngũ nữ trí thức ở các trường chính trị đã góp phần khẳng định tính đúng đắn, phù hợp trong tư duy của Đảng về giải phóng và phát huy vai trò của phụ nữ trong sự nghiệp cách mạng. Hiện nay, nữ trí thức Việt Nam nói chung, nữ trí thức trong các trường
  • 44. 39 chính trị nói riêng đã có những điều kiện thuận lợi nhiều hơn so với thời kỳ trước. Họ ngày càng được bình đẳng so với nam giới trong thực hiện nhiệm vụ đào tạo, nghiên cứu khoa học, lãnh đạo, quản lý và các hoạt động khác. Về cơ bản họ đã được công bằng so với nam giới trong đóng góp và hưởng thụ. Họ ngày càng được Đảng và Nhà nước, lãnh đạo các địa phương quan tâm hơn, được đào tạo chính quy, cơ bản và có hệ thống, được bồi dưỡng về chuyên môn, nghiệp vụ, đáp ứng ngày càng cao yêu cầu thực tiễn của công việc chuyên môn. Qua khảo sát cho thấy, nữ trí thức trong các trường chính trị được đào tạo trong nước là chủ yếu và chiếm số lượng lớn. Chẳng hạn, Trường Chính trị tỉnh Nghệ An có 34 nữ trí thức (từ đại học trở lên) đều đào tạo ở trong nước [56]. Trường Chính trị tỉnh Phú Thọ hiện nay có 48 nữ trí thức, trong đó trình độ đại học: 09, thạc sỹ: 39 (trong đó có 01 nghiên cứu sinh) đều đào tạo trong nước [103]. Ở các trường chính trị, nữ trí thức được đào tạo trong nước chiếm phần đông cũng đang là một lợi thế lớn, góp phần thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị mà Học viện Chính trị quốc Gia Hồ Chí Minh và các tỉnh ủy, ủy ban nhân dân tỉnh, thành ủy, ủy ban nhân dân thành phố giao. Vì, ưu thế nổi bật của bộ phận này là được trang bị lập trường tư tưởng chính trị vững vàng, có kiến thức nhất định về lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin; được đào tạo chuyên sâu trong lĩnh vực chuyên môn làm việc, hiểu sâu, rõ hơn tình hình thực tiễn của đất nước, địa phương,... những phẩm chất này rất cần đối với môi trường công tác đặc thù tính đảng ở các trường chính trị hiện nay. Ngoài ra, có một bộ phận nhỏ nữ trí thức trong các trường chính trị được đào tạo ở nước ngoài (trình độ đại học, trên đại học). Ưu thế của bộ phận này là họ có năng lực thực hành khá; được tiếp xúc với nền khoa học tiên tiến, nền văn hóa, giá trị truyền thống của nhiều quốc gia, dân tộc; có
  • 45. 40 trình độ ngoại ngữ tốt; phương pháp, tác phong làm việc khá khoa học; tiếp cận và sử dụng thành thạo công nghệ thông tin, mức độ vận dụng các phương pháp giảng dạy tích cực có tính hiệu quả cao,... điều này là rất cần thiết với yêu cầu sự nghiệp đào tạo, nghiên cứu khoa học, tham gia lãnh đạo, quản lý trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế hiện nay. Tuy nhiên, ở các trường chính trị, số lượng nữ trí thức được đào tạo ở nước ngoài chiếm tỷ lệ thấp (khoảng 2,7% trong tổng số nữ trí thức của 63 trường), thấp hơn nhiều so với các đơn vị hành chính sự nghiệp, các sở, ban, ngành, các trường cao đẳng, đại học đặt trên địa bàn tỉnh, thành phố. Hầu hết các trường chính trị chưa có nữ trí thức được đào tạo ở nước ngoài. Hiện nay, ở Trường Chính trị Tô Hiệu thành phố Hải Phòng, có 02 tiến sĩ trong tổng số 32 nữ trí thức, trong đó có 01 tiến sĩ được đào tạo ở nước ngoài (Trung Quốc) [109]. Đây cũng là vấn đề cần được quan tâm trong tạo nguồn nữ trí thức ở các trường chính trị trong thời gian tới. Nhìn chung, nữ trí thức trong các trường chính trị dù được đào tạo từ nguồn nào, đều có những điểm mạnh, yếu khác nhau về tác phong, phong cách làm việc, về tư duy, về trình độ ngoại ngữ, khả năng sử dụng công nghệ thông tin, về năng lực giảng dạy, khả năng giải quyết công việc, khả năng nghiên cứu khoa học, lãnh đạo, quản lý,... Trong quá trình phát triển của các trường chính trị, đòi hỏi đội ngũ này cần có sự hợp tác, giúp đỡ nhau để phát huy những điểm mạnh, khắc phục những hạn chế, cùng nhau phát huy sức mạnh tổng hợp của giới nữ, nữ trí thức trong sự nghiệp đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý của Đảng, chính quyền và đoàn thể cấp cơ sở. 2.2.2.2. Về số lượng và nhóm tuổi Một là: Theo số liệu thống kê chưa đầy đủ, trong tất cả 63 trường chính trị trong cả nước, tỷ lệ nữ trí thức so với nam trí thức cũng không thấp hơn nhiều, chiếm khoảng 43% trong tổng số đội ngũ trí thức của các trường chính trị.