xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
Luận văn: Pháp luật về đầu tư trong giáo dục đại học ở Việt Nam, HAY
1. 1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
TRẦN DŨNG
PHÁP LUẬT VỀ ĐẦU TƢ TRONG GIÁO DỤC ĐẠI
HỌC Ở VIỆT NAM
Chuyên ngành : Luật Kinh tế
Mã số : 60 38 01 07
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Phạm Hữu Nghị
Hà Nội – 2014
2. 2
LỜI CAM ĐOAN
Em xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng em. Các tài
liệu trích dẫn theo các nguồn công bố. Kết quả nêu trong luận văn là trung
thực và có nguồn trích dẫn rõ ràng.
Người cam đoan
Trần Dũng
3. 3
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ............................................................................................ 2
MỤC LỤC........................................................................................................ 3
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT ............................................................ 6
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 7
CHƢƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐẦU TƢ VÀ PHÁP
LUẬT ĐẦU TƢ TRONG GIÁO DỤC ĐẠI HỌC Ở VIỆT NAM............12
1.1. Giáo dục đại học: Khái niệm, đặc điểm và tính chất ............................12
1.1.1. Khái niệm giáo dục và giáo dục đại học................................... 12
1.1.2. Đặc điểm, tính chất của giáo dục đại học................................. 15
1.2. Đầu tư trong giáo dục đại học Việt Nam: Khái niệm và các yêu cầu đặt
ra ............................................................................................................18
1.2.1. Khái niệm ................................................................................. 18
1.2.2. Đặc điểm, yêu cầu của hoạt động đầu tư trong giáo dục đại học..
............................................................................................... 21
1.3. Những vấn đề lý luận về pháp luật đầu tư trong giáo dục đại học ở Việt
Nam ........................................................................................................... 25
1.3.1. Nhu cầu điều chỉnh pháp luật đối với hoạt động đầu tư trong
giáo dục đại học................................................................................. 25
1.3.2. Các nguyên tắc của pháp luật đầu tư trong giáo dục đại học ... 31
1.3.3. Nội dung điều chỉnh pháp luật đầu tư trong giáo dục đại học ở
Việt Nam ............................................................................................ 35
1.3.4. Nguồn pháp luật điều chỉnh hoạt động đầu tư trong giáo dục đại
học ............................................................................................... 37
1.4. Các yếu tố chi phối pháp luật đầu tư trong giáo dục đại học................43
1.4.1. Yếu tố kinh tế............................................................................ 43
4. 4
1.4.2. Yếu tố chính trị......................................................................... 44
1.4.3. Yếu tố tâm lý xã hội, ý thức xã hội............................................ 45
1.4.4. Yếu tố truyền thống, tập quán xã hội ........................................ 46
1.4.5. Yếu tố hội nhập quốc tế ............................................................ 47
Kết luận chương 1 .............................................................................. 49
CHƢƠNG 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ ĐẦU TƢ TRONG VỰC
GIÁO DỤC ĐẠI HỌC Ở VIỆT NAM ........................................................50
2.1. Các quy định về chủ thể........................................................................50
2.1.1. Về nhà đầu tư ........................................................................... 50
2.1.2. Về cơ quan quản lý nhà nước ................................................... 52
2.2. Các quy định về điều kiện đối với hoạt động đầu tư trong giáo dục....53
2.3. Các quy định về hình thức đầu tư .........................................................62
2.4. Các quy định về thủ tục đầu tư .............................................................66
2.5. Đánh giá pháp luật đầu tư trong giáo dục đại học tại Việt Nam................70
2.5.1. Đánh giá pháp luật đầu tư trong giáo dục đại học ở Việt Nam từ
góc độ bảo đảm các nguyên tắc.......................................................... 70
2.5.2. Những hạn chế, thiếu sót và nguyên nhân................................. 74
Kết luận chương 2:..........................................................................................80
CHƢƠNG 3. ĐỊNH HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP
LUẬT ĐẦU TƢ TRONG GIÁO DỤC ĐẠI HỌC Ở VIỆT NAM............82
3.1. Định hướng hoàn thiện pháp luật đầu tư trong giáo dục đại học ở Việt
Nam ............................................................................................................82
3.1.1. Hoàn thiện pháp luật để bảo đảm thực hiện được chính sách đổi mới
giáo dục nói chung và giáo dục đại học Việt Nam trong thời gian tới ....... 82
3.1.2. Hoàn thiện pháp luật đầu tư trong giáo dục đại học ở Việt Nam
khắc phục những hạn chế, thiếu sót trong giáo dục đại học ở Việt Nam
trong thời gian vừa qua...................................................................... 84
5. 5
3.1.3. Hoàn thiện pháp luật đầu tư trong giáo dục đại học ở Việt Nam
đáp ứng các yêu cầu hội nhập ............................................................ 86
3.2. Các giải pháp hoàn thiện pháp luật và đảm bảo thực hiện pháp luật đầu
tư trong giáo dục đại học ở Việt Nam..........................................................88
3.2.1. Giải pháp chung ....................................................................... 88
3.2.2. Giải pháp cụ thể đối với pháp luật về đầu tư trong giáo dục đại
học ở Việt Nam................................................................................... 90
Kết luận chương 3...........................................................................................94
KẾT LUẬN....................................................................................................95
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................96
6. 6
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
ASEAN Association of Southeast Asian Nations
(Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á)
ĐH, CĐ Đại học, Cao đẳng
GD Giáo dục
GDĐT Giáo dục đào tạo
GDĐH Giáo dục đại học
UBND Ủy ban nhân dân
TP. HCM Thành phố Hồ Chí Minh
VN Việt Nam
7. 7
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Phát triển nguồn nhân lực mà trước hết là nguồn nhân lực có trình độ,
có kỹ năng cao là đòi hỏi tất yếu trong quá trình phát triển kinh tế ở hầu hết
các nước, đặc biệt là các nước đang phát triển. Phát triển giáo dục nói chung,
giáo dục đại học nói riêng là sự lựa chọn cần thiết để đáp ứng đòi hỏi trên.
Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 được
Quốc hội Khóa XIII, kỳ họp thứ 6 thông qua ngày 28 tháng 11 năm 2013;
Luật Giáo dục năm 2005 đã xác định giáo dục là “quốc sách hàng đầu”. Mục
tiêu giáo dục là đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện, có đạo đức,
tri thức, sức khoẻ, thẩm mỹ và nghề nghiệp, trung thành với lý tưởng độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội; hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất
và năng lực của công dân, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc.
Nhà nước ưu tiên đầu tư cho giáo dục; khuyến khích và bảo hộ các
quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân trong nước, người Việt Nam
định cư ở nước ngoài, tổ chức, cá nhân nước ngoài đầu tư cho giáo dục. Ngân
sách nhà nước phải giữ vai trò chủ yếu trong tổng nguồn lực đầu tư cho giáo
dục. Nhà nước thống nhất quản lý hệ thống giáo dục quốc dân về mục tiêu,
chương trình, nội dung, kế hoạch giáo dục, tiêu chuẩn nhà giáo, quy chế thi
cử, hệ thống văn bằng, chứng chỉ; tập trung quản lý chất lượng giáo dục, thực
hiện phân công, phân cấp quản lý giáo dục, tăng cường quyền tự chủ, tự chịu
trách nhiệm của cơ sở giáo dục.
Bên cạnh Luật Giáo dục, Luật Đầu tư 2005 quy định về chính sách về
đầu tư: nhà đầu tư được đầu tư trong các lĩnh vực và ngành, nghề mà pháp
luật không cấm; được tự chủ và quyết định hoạt động đầu tư theo quy định
của pháp luật Việt Nam. Nhà nước đối xử bình đẳng trước pháp luật đối với
8. 8
các nhà đầu tư thuộc mọi thành phần kinh tế, giữa đầu tư trong nước và đầu tư
nước ngoài; khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động đầu tư.
Nhà nước công nhận và bảo hộ quyền sở hữu tài sản, vốn đầu tư, thu nhập và
các quyền, lợi ích hợp pháp khác của nhà đầu tư; thừa nhận sự tồn tại và phát
triển lâu dài của các hoạt động đầu tư. Nhà nước cam kết thực hiện các điều
ước quốc tế liên quan đến đầu tư mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là
thành viên. Nhà nước khuyến khích và có chính sách ưu đãi đối với đầu tư
vào các lĩnh vực, địa bàn ưu đãi đầu tư, hoạt động đầu tư của nhà đầu tư trên
lãnh thổ Việt Nam phải tuân theo quy định của Luật Đầu tư và các quy định
khác của pháp luật có liên quan.
Kể từ ngày gia nhập WTO, đối với dịch vụ giáo dục bậc cao, giáo dục
cho người lớn, các dịch vụ giáo dục khác ngoại trừ dịch vụ giáo dục phổ
thông (chưa cam kết) hoạt động đầu tư trong lĩnh vực giáo dục đã được cở mở,
chúng ta thu hút được rất nhiều nguồn vốn đầu tư trong nước và nước ngoài.
Chính sách của Nhà nước cho phép các nhà đầu tư thành lập liên doanh, cho
phép phía nước ngoài sở hữu đa số vốn trong doanh nghiệp liên doanh. Từ ngày
1/1/2009 sẽ cho phép thành lập cơ sở đào tạo 100% vốn nước ngoài.
Trên thực tế hiện nay, đã có hai mảng pháp luật chủ yếu điều chỉnh các
quan hệ xã hội liên quan đến hoạt động đầu tư giáo dục là mảng pháp luật về
giáo dục và mảng pháp luật đầu tư, nhưng quy phạm pháp luật điều chỉnh các
quan hệ xã hội về đầu tư trong giáo dục còn chung chung, thủ tục còn rườm
rà, thiếu tính đồng bộ, nhất quán, nặng hành chính dẫn đến việc đầu tư diễn ra
một cách manh mún, thiếu kiểm soát về quy mô, chất lượng, hiệu quả thu
được không cao. Tổng nguồn vốn đầu tư trong và ngoài nước trong giáo dục
vẫn thấp, thậm chí có những những hoạt động đầu tư mang tính lừa đảo ảnh
hưởng đến chất lượng các cơ sở giáo dục, người học và niềm tin của các nhà
đầu tư.
9. 9
Chính vì vậy, hoàn thiện hệ thống pháp luật về đầu tư giáo dục đại học
thực sự có vai trò quan trọng để thu hút được nguồn vốn của những nhà đầu
tư, phát triển nguồn nhân lực phục vụ đắc lực cho sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, từng bước tiếp cận với kinh tế tri thức. Nhu
cầu cần có một hệ thống pháp luật về đầu tư giáo dục đồng bộ, thống nhất có
giá trị pháp lý cao sẽ thực sự trở thành đòn bẩy tạo đà cho giáo dục phát triển
là cần thiết.
Các luận cứ trên đây là lý do để tôi lựa chọn vấn đề vấn đề "Pháp luật
về đầu tƣ trong giáo dục đại học ở Việt Nam" làm đề tài cho luận văn tốt
nghiệp thạc sĩ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu
Ở Việt Nam, trong những năm gần đây, vấn đề đầu tư giáo dục đại học
đã thu hút đông đảo các nhà khoa học ở nhiều lĩnh vực kinh tế, quản lý giáo
dục đào tạo nghề, khoa học pháp lý và các doanh nghiệp tham gia bàn thảo.
Các cuộc hội thảo, báo chí thường xuyên đề cập đến vấn đề này. (GS Ngô
Bảo Châu "Đại học Việt Nam làm ngược thế giới" [4]; Giáo sư Phạm Phụ -
Nhà giáo dục tâm huyết - đã chia sẻ cùng phóng viên Quốc tế một số đề xuất
nhằm chấn hưng nền giáo dục nước nhà [29]; Bảng thông kê của Tiến sỹ Vũ
Quang Việt, trong bài "So sánh chương trình giáo dục đại học ở Mỹ và Việt
Nam" đăng trên mạng http://www.ncst.ac.vn/HVGD/ của xemina "Chấn hưng
giáo dục",..). Tuy nhiên, những công trình nghiên cứu, các cuộc hội thảo, các
bài viết chuyên khảo nêu trên tiếp cận nghiên cứu chủ yếu là từ giác độ kinh
tế học và chuyên môn. Một số công trình nghiên cứu tiếp cận dưới giác độ
khoa học pháp lý cũng mới chỉ dừng lại ở việc làm sáng tỏ các yếu tố đơn lẻ
liên quan đến các điều kiện đảm bảo chất lượng hoạt động đầu tư giáo dục,
cũng như chất lượng hoạt động giáo dục hoặc phản ánh kinh nghiệm xây
dựng và điều chỉnh pháp luật về đầu tư và giáo dục của một số nước trên thế
10. 10
giới mà chưa nghiên cứu tổng thể cơ sở lý luận và thực tiễn nhằm nâng cao
hiệu quả pháp luật về đầu tư trong lĩnh vực giáo dục đại học ở Việt Nam.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của việc nghiên cứu đề tài luận văn là làm sáng tỏ những vấn
đề lý luận và thực tiễn của pháp luật về đầu tư trong giáo dục đại học. Từ đó
đề xuất một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về đầu tư trong lĩnh vực này.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm sáng tỏ khái niệm, đặc điểm, yêu cầu của hoạt động đầu tư trong
giáo dục đại học.
- Nghiên cứu đánh giá thực trạng pháp luật về đầu tư giáo dục đại học ở
Việt Nam.
- Đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật về đầu tư trong giáo dục
đại học ở Việt Nam.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các văn bản pháp luật và thực tiễn
của văn bản pháp luật về đầu tư trong giáo dục dại học ở Việt Nam.
Về thời gian, đề tài nghiên cứu trong phạm vi từ năm 2005 đến nay.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Học viên chủ yếu sử dụng phương pháp truyền thống như: Chủ nghĩa
duy vật biện chứng; Chủ nghĩa duy vật lịch sử; phương pháp tổng hợp, so
sách để làm rõ các vấn đề lý luận và thực tế về pháp luật đầu tư trong giáo dục
đại học ở Việt Nam.
Đồng thời học viên sử dụng một số phương pháp nghiên cứu khác như:
Sử dụng phương pháp so sánh để tìm hiểu tính chất của hoạt động đầu tư
trong lĩnh vực giáo dục đại học so với các hoạt động đầu tư khác, kinh
nghiệm của một số quốc gia và bài học rút ra cho pháp luật đầu tư trong vực
11. 11
giáo dục đại học tại Việt Nam. Tác giả luận văn còn sử dụng phương pháp
phân tích các tài liệu thống kê và kết quả nghiên cứu của các đề tài, báo cáo
khoa học hiện có.
6. Ý nghĩa của luận văn
- Thứ nhất, kết quả nghiên cứu của luận văn có thể là tài liệu tham khảo
cho các cơ quan, tổ chức liên quan trong quá trình nghiên cứu hoàn thiện pháp
luật đầu tư trong giáo dục đại học ở Việt Nam.
- Thứ hai, kết quả nghiên cứu của luận văn có giá trị tham khảo trong
các cơ sở đào tạo và nghiên cứu về pháp luật giáo dục.
7. Bố cục luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo luận văn
gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về đầu tư và pháp luật đầu tư trong giáo dục
đại học ở Việt Nam
Chương 2: Thực trạng pháp luật về đầu tư trong giáo dục đại học ở Việt Nam
Chương 3: Định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp về luật đầu tư trong giáo
dục đại học ở Việt Nam.
12. 12
CHƢƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐẦU TƢ VÀ PHÁP LUẬT ĐẦU TƢ
TRONG GIÁO DỤC ĐẠI HỌC Ở VIỆT NAM
1.1. GIÁO DỤC ĐẠI HỌC: KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM VÀ TÍNH CHẤT
1.1.1. Khái niệm giáo dục và giáo dục đại học
Giáo dục được coi là một hiện tượng phổ biến và luôn tồn tại cùng xã
hội loài người. Đã có nhiều quan điểm khác nhau khi trình bày khái niệm về
giáo dục, có thể đưa ra một số khái niệm chung nhất về giáo dục như sau:
Tác giả Kelly theo quan điểm phát triển cho rằng: “Giáo dục là sự phát
triển với nghĩa là phát triển con người, phát triển tối đa mọi khả năng tiềm ẩn
trong mỗi con người làm cho con người có khả năng làm chủ được tình
huống, đương đầu với những thách thức mà mình sẽ gặp phải trong đời một
cách chủ động và sáng tạo”. Theo quan điểm này, giáo dục là quá trình tiếp
diễn liên tục, suốt đời [5].
Savin – một nhà giáo dục học đã định nghĩa rằng: “Theo nghĩa rộng,
khái niệm giáo dục là tất cả quá trình chuẩn bị cho thế hệ đang lớn lên bước
vào cuộc sống, bao gồm cả quá trình dạy học và đào tạo”. Theo khái niệm
này, giáo dục được hiểu là gồm cả giáo dục và đào tạo, tuy nhiên nó chỉ đề
cập đến một mặt: “Quá trình chuẩn bị cho thế hệ đang lớn lên…”. Trên thực
tế thì giáo dục bao gồm tất cả các hoạt động nhằm nâng cao kiến thức, kỹ
năng của con người trong suốt cả cuộc đời[5].
Gillis đã đưa ra khái niệm tổng quát hơn về giáo dục: “Theo nghĩa
rộng, giáo dục là tất cả các dạng học tập của con người, hay hẹp hơn đó là
một quá trình có ở những nới đã được chuyên môn hóa gọi là trường học”.
Giáo dục là một dạng quan trọng nhất của sự phát triển tiềm năng con người
theo những khía cạnh khác nhau. Giáo dục với khái niệm rộng hơn gần giống
13. 13
với nghĩa “nghiên cứu”. Theo đó Gillis cho rằng có ba loại giáo dục là giáo
dục chính quy, giáo dục không chính quy và giáo dục không chính thức [5].
Luật Giáo dục Việt Nam 2005, Điều 4 quy định: Hệ thống giáo dục
quốc dân gồm giáo dục chính quy và giáo dục thường xuyên. Giáo dục
thường xuyên là một hệ thống gồm các loại hình học tập thuộc phạm vi giáo
dục tiếp tục. Do vậy, giáo dục thường xuyên không bao hàm các hình thức
giáo dục chính quy trong hệ giáo dục ban đầu. Nói đến giáo dục thường
xuyên, người ta hiểu rằng đó là giáo dục tiếp tục. Điều 44 quy định giáo dục
thường xuyên giúp mọi người vừa học vừa làm, học liên tục, học suốt đời
nhằm hoàn thiện nhân cách, mở rộng hiểu biết, nâng cao trình độ học vấn,
chuyên môn, nghiệp vụ để cải thiện chất lượng cuộc sống, tìm việc làm, tự tạo
việc làm và thích nghi với đời sống xã hội. Tuy nhiên, sự phân loại này trong
thực tế chỉ là tương đối nhằm để thuận tiện cho việc tổ chức và quản lý trên
cơ sở đa dạng hóa, xã hội hóa cùng bình đẳng thực hiện mục tiêu chung của
giáo dục.
Hệ thống giáo dục quốc dân của Việt Nam bao gồm: Giáo dục mầm
non có nhà trẻ và mẫu giáo; Giáo dục phổ thông có tiểu học, trung học cơ sở,
trung học phổ thông; Giáo dục nghề nghiệp có trung cấp chuyên nghiệp và
dạy nghề; Giáo dục đại học và sau đại học (sau đây gọi chung là giáo dục đại
học) đào tạo trình độ cao đẳng, trình độ đại học, trình độ thạc sĩ, trình độ tiến
sĩ. Như vậy, giáo dục đại học là bộ phận kết nối sau cùng trong hệ thống giáo
dục quốc dân.
Quan niệm về giáo dục đại học được Tổ chức văn hóa, Giáo dục - Xã
hội Liên hợp quốc (UNESCO) đề xuất từ 1968 và được nhiều nước thừa nhận
với tên gọi là “Giáo dục bậc ba”. Nhưng từ sau Hội nghị quốc tế về giáo dục
đại học ở Paris (Pháp) năm 1998 có quan điểm mới: GDĐH ở thế kỷ 21 là
học tập suốt đời và bao gồm tất cả các loại hình học tập, đào tạo hoặc đào tạo
14. 14
cho nghiên cứu ở đình độ sau bậc trung học được cung cấp bởi các viện đại
học hay các tổ chức giáo dục đã được các cấp thẩm quyền công nhận là cơ sở
GDĐH [5].
Theo quan điểm đó, GDĐH còn được coi là giáo dục sau trung học bao
gồm không chỉ GDĐH truyền thống như cao đẳng, đại học mà còn tất cả trình
độ học vấn cung cấp cho những người tốt nghiệp phổ thông trung học. Vậy
GDĐH với quan niệm là giáo dục sau trung học, thực chất là không gian mở
cho đào tạo đại học và học tập suốt đời.
Ở nước ta, theo Điều 38, Mục 4 của Luật Giáo dục năm 2005 quy định
giáo dục đại học bao gồm:
Đào tạo trình độ cao đẳng được thực hiện từ hai đến ba năm học tùy
theo ngành nghề đào tạo đối với người có bằng tốt nghiệp trung học phổ
thông hoặc bằng tốt nghiệp trung cấp; từ một năm rưỡi đến hai năm học đối
với người có bằng tốt nghiệp trung cấp cùng chuyên ngành;
Đào tạo trình độ đại học được thực hiện từ bốn đến sáu năm học tùy theo
ngành nghề đào tạo đối với người có bằng tốt nghiệp trung học phổ thông hoặc
bằng tốt nghiệp trung cấp; từ hai năm rưỡi đến bốn năm học đối với người có
bằng tốt nghiệp trung cấp cùng chuyên ngành; từ một năm rưỡi đến hai năm học
đối với người có bằng tốt nghiệp cao đẳng cùng chuyên ngành;
Đào tạo trình độ thạc sĩ được thực hiện từ một đến hai năm học đối với
người có bằng tốt nghiệp đại học;
Đào tạo trình độ tiến sĩ được thực hiện trong bốn năm học đối với
người có bằng tốt nghiệp đại học, từ hai đến ba năm học đối với người có
bằng thạc sĩ. Trong trường hợp đặc biệt, thời gian đào tạo trình độ tiến sĩ có
thể được kéo dài theo quy định của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo.
Theo điểm 8, Điều 4, Chương I Luật Giáo dục đại học: Đa ̣i ho ̣c là cơ sở
giáo dục đại học bao gồm tổ hợp các trường cao đẳng, trường đại học, viện
15. 15
nghiên cứu khoa học thành viên thuộc các lĩnh vực chuyên môn khác nhau, tổ
chức theo hai cấp, để đào tạo các trình độ của giáo dục đại học [16].
Trình độ và hình thức đào tạo của giáo dục đại học được quy định tại
Điều 6: Các trình độ đào tạo của giáo dục đại học gồm trình độ cao
đẳng, trình độ đại học, trình độ thạc sĩ và trình độ tiến sĩ.
Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo phối hợp với Bộ trưởng, Thủ trưởng
cơ quan ngang bộ quy định cụ thể việc đào tạo trình độ kỹ năng thực hành,
ứng dụng chuyên sâu cho người đã tốt nghiệp đại học ở một số ngành chuyên
môn đặc thù; Các trình độ đào tạo của giáo dục đại học được thực hiện
theo hai hình thứ c là giáo dục chính quy và giáo dục thường xuyên.
Theo đó, các cơ sở giáo dục đại học trong hê ̣thống giáo dục quốc dân
gồm: Trường cao đẳng; Trường đại học, học viện; Đại học vùng, đại học quốc
gia;Viện nghiên cứu khoa học.
1.1.2. Đặc điểm, tính chất của giáo dục đại học
- Giáo dục đại học (GDĐH) là bậc sau cùng trong hệ thống giáo dục và
đào tạo mỗi nước; đào tạo đội ngũ lao động lành nghề, bao gồm các nhà khoa
học, các chuyên gia, kỹ sư và những cán bộ chuyên môn kỹ thuật ở các trình
độ khác nhau.
GDĐH không trực tiếp tham gia vào quá trình sản xuất và vì vậy,
không trực tiếp không tạo ra các sản phẩm vật chất. Tuy nhiên theo phân công
lao động xã hội, GDĐH làm tăng giá trị cho mỗi cá nhân thông qua việc trang
bị cho họ tài khéo léo, sự hiểu biết để làm ra nhiều của cải vật chất hơn cho
bản thân và cho xã hội, gắn liền với sự bảo đảm quyền được sống và được
làm việc với năng suất lao động cao hơn của mỗi người.
Theo Manuel (1991), GDĐH có 3 chức năng quan trọng. Trước hết, nó
bao gồm các nền văn hóa và tri thức nhân loại; tái tạo hoặc phản biện ý thức
hệ chi phối của quốc gia. Thứ hai, nó lựa chọn những người ưu tú giới thiệu
16. 16
cho đất nước và cuối cùng, nó sáng tạo ra kho tàng tri thức mới. GDĐH
không chỉ tái tạo ra một lực lượng lao động có năng lực sáng tạo, biết chắt
lọc và áp dụng các tri thức thu được từ kết quả của các công trình nghiên
cứu khoa học vào sản xuất và đời sống cho toàn bộ các thành viên trong xã
hội; góp phần xóa bỏ khoảng cách thu nhập giữa người giàu và người nghèo
thông qua việc trang bị cho người học những tri thức và kỹ năng cần thiết để
kiếm sống.
GDĐH có vai trò đặc biệt quan trọng cho sự phồn thịnh của một nền
kinh tế hiện đại – nền “kinh tế tri thức”, được dự báo sẽ ngày càng có ý nghĩa
quyết định đến sự thịnh vượng của nhân loại trong tương lai. Liên hợp quốc
xác định giáo dục nói chung, GDĐH nói riêng là quyền con người, là phương
tiện phát triển riêng của mỗi cá nhân, phương tiện xây dựng nền văn hóa, chia
sẻ truyền thống và cung cấp sức mạnh cho xã hội nói chung và là một phương
tiện tích lũy tài sản và khả năng cạnh tranh của cá nhân và xã hội.
Như vậy, về mặt nhận thức tính chất của GDĐH có thể nêu ra hai thuộc
tính về mặt kinh tế và mặt xã hội:
- GDĐH vừa thực hiện chức năng phúc lợi vừa thực hiện chức năng
dịch vụ
Dưới góc độ xã hội, đối với nước ta hay bất kỳ quốc gia nào, xuất phát
từ truyền thống ham hiểu biết, hiếu học của mỗi dân tộc chính sách công bằng
xã hội được trong giáo dục cụ thể hóa trong Hiến pháp, Luật và các văn bản
dưới luật, mọi người đều có quyền được học tập, nhà nước khuyến khích và
tạo mọi điều kiện để người dân tham gia vào quá trình học tập. Xem xét trên
góc độ này lĩnh vực giáo dục đã thực hiện chức năng phúc lợi, giáo dục đảm
bảo quyền được học tập của mọi người.
Dưới góc độ lý thuyết kinh tế, sản phẩm GDĐH được thực hiện dưới
hình thức cung cấp sức lao động của các giáo sư, giảng viên cho người học và
17. 17
người học mua sức lao động của người dạy bằng phí, học phí hoặc đóng thuế
để nhà nước trả công, trả lương cho họ. Dựa trên phân công lao động xã hội
trong nền sản xuất hàng hóa, loại lao động giảng dạy của các giáo sư, giảng
viên không sản xuất ra tư bản.
Theo K. Marx , đó là loại lao động phi sản xuất và khi trao đổi nó được
mua bán như một dịch vụ và hàng hóa thông thường. K.Marx viết: “Trong
trường hợp tiền trực tiếp được trao đổi lấy loại lao động sản xuất không sản
xuất ra tư bản, do đó là lao động phi sản xuất thì lao động ấy được mua như
một dịch vụ. Biểu hiện ấy nói chung chẳng qua là giá trị sử dụng đặc biệt mà
lao động ấy cung cấp, giống như mọi hàng hóa khác”.
GDĐH là loại sản phẩm đặc biệt vì giá cả dịch vụ biến động không
theo một tỉ lệ nhất định với năng suất lao động. Đối với một sản phẩm bất
kỳ, khi lợi ích xã hội lớn hơn lợi ích cá nhân và do đó để khuyến khích tiêu
dùng xã hội, nhà nước cần có sự bù đắp cho chi phí cá nhân.Việc bù đắp
thuộc trách nhiệm của nhà nước hoặc của ai đó theo nguyên tắc không vì
mục tiêu lợi nhuận. Sản phẩm dịch vụ GDĐH không bị tác động bởi năng
xuất lao động.
- GDĐH là sản phẩm mang lại lợi ích cho cá nhân và xã hội
GDĐH có những đặc điểm riêng biệt khi so sánh với các loại sản phẩm
dịch vụ khác. Sản phẩm dịch vụ GDĐH là những người công dân có ích với
chính mình, có trách nhiệm với gia đình, xã hội và quốc gia. Người mua sản
phẩm GDĐH không chỉ mang lại lợi ích cho cá nhân mà còn cho cả xã hội và
lợi ích xã hội luôn luôn lớn hơn lợi ích cá nhân. Tổng lợi ích xã hội sẽ tăng
lên nếu như loại sản phẩm này được sản xuất nhiều hơn.
GDĐH là một loại sản phẩm dịch vụ có đầy đủ các tính chất kinh tế
giống như các loại sản phẩm hàng hóa và dịch vụ khác, nhưng nó không thích
hợp với việc mua bán hàng hóa.
18. 18
1.2. Đầu tƣ trong giáo dục đại học Việt Nam: Khái niệm và các yêu cầu
đặt ra
1.2.1. Khái niệm
Khái niệm đầu tư
“Đầu tư” không còn là khái niệm xa lạ hay trừu tượng, tuy nhiên trên
thế giới không có khái niệm “đầu tư” duy nhất và bất biến. WTO – Tổ chức
thương mại thế giới là mô hình tối cao của hội nhập cũng không quy đình gì
về vấn đề đầu tư. Nhiều vòng đàm phán không giải quyết được bất đồng xung
quanh khái niệm “đầu tư” nên mặc dù có ý định soạn thảo Hiệp ước đa
phương tiện về các vấn đề đầu tư vào năm 1978 nhưng OECD – Tổ chức hợp
tác và phát triển kinh tế - cũng không thành công. Pháp luật các nước trên thế
giới có các cách nhìn nhận khái niệm “đầu tư” khác nhau.
Theo từ điển Tiếng Việt của Viện ngôn ngữ học (NXB Đà Nẵng 2003,
tr301) khái niệm đầu tư là việc “bỏ nhân lực, vật lực, tài lực vào công việc gì,
trên cơ sở tính toán hiệu quả kinh tế xã hội”. Trong kinh tế học, đầu tư là hoạt
động được hiểu là hoạt động sử dụng các nguồn lực hiện tại nhằm đem lại cho
nền kinh tế xã hội những kết quả trong tương lai lớn hơn những nguồn lực đã
sử dụng để đạt được những kết quả đó.
Theo quan điểm của các nhà luật học, hoạt động đầu tư là việc nhà đầu
tư bỏ vốn, tài sản theo các hình thức và cách thức do pháp luật quy định để
thực hiện nhằm mục đích lợi nhuận hoặc mục đích kinh tế xã hội khác. Hoạt
động đầu tư có thể có tính chất kinh doanh (thương mại) hoặc phi thương mại.
Trong khoa học pháp lý cũng như thực tiễn sử dụng chính sách, pháp luật về
đầu tư, hoạt động đầu tư chủ yếu được đề cập là hoạt động đầu tư kinh doanh,
theo Black’s Law bản chất là sự chi phí của cải vật chất nhằm mục đích làm
tăng giá trị tài sản hay tìm kiếm lợi nhuận.
19. 19
Trước khi Luật Đầu tư 2005 ra đời, khái niệm đầu tư trong kinh doanh
chưa được định nghĩa thống nhất trong các văn bản pháp luật. Hoạt động đầu
tư được điều chỉnh bởi Luật khuyến khích đầu tư trong nước và đầu tư trực
tiếp nước ngoài. Luật đầu tư 2005 với phạm vi điều chỉnh là hoạt động đầu tư
nhằm mục đích kinh doanh đã đưa ra định nghĩa: “Đầu tư là việc nhà đầu tư
bỏ vốn bằng các tài sản hữu hình hoặc vô hình để hình thành tài sản tiến
hành các hoạt động đầu tư theo quy định của Luật này và các quy định khác
của pháp luật có liên quan”[14]. Luật đầu tư thống nhất và có phân biệt về
thuật ngữ giữa đầu tư và hoạt động đầu tư, theo đó hoạt động đầu tư được
hiểu là hoạt động của các nhà đầu tư trong quá trình đầu tư bao gồm các khâu
chuẩn bị đầu tư, thực hiện và quản lý dự án đầu tư.
Dưới góc độ điều chỉnh các hoạt động đầu tư nhằm mục đích kinh
doanh, có thể thấy hoạt động đầu tư theo quy định của Luật đầu tư 2005 chính
là một bộ phận của hoạt động thương mại, phù hợp với khái niệm của Luật
thương mại (Khoản 1 Điều 3). Hoạt động đầu tư có những đặc điểm của hoạt
động thương mại nói chung đó chính là mục đích lợi nhuận, đồng thời hoạt
động đầu tư cũng có mối liên hệ mật thiết với các hoạt động thương mại khác
nhau như mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ thương mại,… Tuy nhiên,
hoạt động đầu tư là hoạt động có tính chất tạo lập, là sự bỏ vốn, tài sản…
nhằm hình thành cơ sở vật chất, kỹ thuật cũng như các điều kiện khác để thực
hiện hoạt động tìm kiếm lợi nhuận.
Khái niệm đầu tư trong giáo dục đại học
Hoạt động đầu tư trong giáo dục nói chung và đầu tư trong giáo dục đại
học nói riêng là một hoạt động đầu tư đặc thù, là một bộ phận của hoạt động
đầu tư nói chung, chủ yếu liên quan đến sự điều chỉnh của Luật Đầu tư 2005,
Luật Giáo dục 2005 và Luật Giáo dục đại học 2012.
20. 20
Điều 5, Luật Đầu tư 2005 quy định về áp dụng pháp luật đầu tư, điều
ước quốc tế, pháp luật nước ngoài và tập quán đầu tư quốc tế: Hoạt động đầu
tư của nhà đầu tư trên lãnh thổ Việt Nam phải tuân theo quy định của Luật
này và các quy định khác của pháp luật có liên quan; Hoạt động đầu tư đặc
thù được quy định trong luật khác thì áp dụng quy định của luật đó; Trường
hợp điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên
có quy định khác với quy định của Luật này thì áp dụng theo quy định của
điều ước quốc tế đó; Đối với hoạt động đầu tư nước ngoài, trong trường hợp
pháp luật Việt Nam chưa có quy định, các bên có thể thỏa thuận trong hợp
đồng việc áp dụng pháp luật nước ngoài và tập quán đầu tư quốc tế nếu việc
áp dụng pháp luật nước ngoài và tập quán đầu tư quốc tế đó không trái với
nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam [14]. Cũng theo Luật đầu tư
2005“Phát triển sự nghiệp giáo dục, đào tạo” được quy định là lĩnh vực ưu
đãi đầu tư (Điều 27) và là lĩnh vực đầu tư có điều kiện (Điều 29). Theo Luật
giáo dục 2005, “phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu”(Điều 9); “Đầu
tư cho giáo dục là đầu tư phát triển” (Điều 13); “Chính sách của Nhà nước
về phát triển giáo dục đại học” (Điều 12 Luật Giáo dục đại học 2012).
Giáo dục là loại hình dịch vụ đặc biệt, việc đầu tư cho giáo dục được
quy định theo hướng thống nhất, đồng bộ giữa Luật đầu tư và Luật giáo dục,
là hoạt động chịu sự điều chỉnh của Luật đầu tư nhưng hoạt động đầu tư trong
lĩnh vực giáo dục lại được thực hiện theo quy định của hệ thống pháp luật
chuyên ngành.
Đầu tư cho giáo dục là lĩnh vực đầu tư có điều kiện và được ưu đãi đầu
tư. Hoạt động cho giáo dục có những đặc điểm cơ bản của hoạt động đầu tư
nói chung, đều là sự hy sinh nguồn lực trong hiện tại để tiến hành những hoạt
động trong môi trường giáo dục nhằm thu được những kết quả trong tương lai
và kết quả thu được từ hoạt động đó phải lớn hơn những nguồn lực đã bỏ ra.
21. 21
Nguồn lực hi sinh có thể là tiền, là tài nguyên thiên nhiên, là sức lao
động và trí tuệ. Những kết quả đạt được có thể là sự tăng thêm các tài sản
chính (tiền vốn); tài sản trí tuệ (trình độ chuyên môn, quản lý, khoa học,…) và
nguồn nhân lực có đủ điều kiện làm việc với năng suất lao động cao hơn trong
nền sản xuất xã hội. Những kết quả này không chỉ người đầu tư mà cả xã hội
được thụ hưởng. Chẳng hạn, một trường học được xây dựng, tài sản vật chất
của người đầu tư trực tiếp tăng thêm, đồng thời xã hội cũng được hưởng thành
quả của hoạt động đầu tư này.
Hoạt động đầu tư cho giáo dục không chỉ đem lại kết quả cho nhà đầu
tư mà còn cả nền kinh tế-xã hội được thụ hưởng chính là đầu tư phát triển.
Còn các loại đầu tư chỉ trực tiếp làm tăng tài sản chính của người đầu tư, tác
động gián tiếp làm tăng tài sản của nền kinh tế thông qua đóng góp tài chính
tích lũy của các hoạt động đầu tư này cho đầu tư phát triển, cung cấp vốn cho
hoạt động đầu tư phát triển và thúc đẩy quá trình lưu thông, phân phối do kết
quả của hoạt động đầu tư phát triển tạo ra thì đó là đầu tư tài chính và đầu tư
thương mại.
Như vậy, đầu tư cho GDĐH là một bộ phận của đầu tư nói chung, đều
mang lại những lợi ích tăng thêm cho nhà đầu tư và góp phần mang lại cho xã
hội những giá trị quan trọng như nâng cao dân trí, đào tạo nguồn nhân lực, bồi
dưỡng nhân tài.
1.2.2. Đặc điểm, yêu cầu của hoạt động đầu tƣ trong giáo dục đại học
- Đầu tư cho giáo dục đại học là đầu tư phát triển
Đầu tư phát triển là bộ phận cơ bản của đầu tư. Là việc chi dùng trong
hiện tại để tiến hành các hoạt động nhằm tăng thêm hoặc tạo ra những tài sản
vật chất (nhà xưởng, thiết bị…) và tài sản trí tuệ (tri thức, kỹ năng…) vì mục
tiêu phát triển.
22. 22
Đầu tư phát triển đòi hỏi phải có nhiều loại nguồn lực. Với xu hướng
phát triển hiện tại, nguồn lực đầu tư có thể đến từ nhà nước, cũng có thể do tổ
chức cá nhân trong và ngoài nước bỏ ra. Phạm vi đầu tư của các nhà đầu tư
ngoài nhà nước mở rộng theo lộ trình xã hội hóa giáo dục. Hoạt động đầu tư
có hiệu quả cao là kết quả của việc huy động tích cực nguồn lực đầu tư trong
xã hội. Đa số đầu tư nguồn lực nhằm mục đích sinh lời, cũng có chủ đầu tư vì
tâm huyết với sự học, vì trách nhiệm với xã hội.
Đối tượng của đầu tư trong giáo dục là tập hợp các yếu tố được chủ đầu
tư bỏ vốn thực hiện nhằm đạt được những mục tiêu nhất định. Theo quan
điểm của phân công lao động xã hội thì đây là đầu tư theo ngành. Dưới góc độ
tính chất đầu tư thì đầu tư trong lĩnh vực giáo dục nói chung và GDĐH nói
riêng thì yêu cầu đặt ra đối với đầu tư trong giáo dục đại học phải đảm bảo
tính chất phi lợi nhuận (mục tiêu lợi nhuận không phải là tuyệt đối). Trên góc
độ xem xét sự quan trọng, đầu tư trong lĩnh vực giáo dục có đối tượng được
khuyến khích đầu tư.
Kết quả của đầu tư cho GDĐH là sự tăng thêm về tài sản trí tuệ (trình
độ văn hóa, chuyên môn, khoa học kỹ thuật…), tài sản vật chất (trường học,
trang thiết bị…) và tài sản vô hình (phát minh, sáng chế, công trình khoa
học…). Các kết quả của hoạt động đầu tư cho GDĐH góp phần làm tăng thêm
những giá trị và chất lượng cho xã hội. Đặc thù của kết quả đầu tư cho GDĐH
so với các hoạt động đầu tư khác chính là tương quan so sách kết quả kinh tế
xã hội thu được với chi phí chi ra để đạt kết quả đó. Kết quả và hiệu quả đầu
tư phát triển cần được xem xét trên cả phương diện đối với chủ đầu tư và xã
hội, đảm bảo hài hòa giữa các lợi ích, khuyến khích vai trò chủ động của chủ
đầu tư, vai trò quản lý, kiểm tra, giám sát của cơ quan nhà nước các cấp. Đầu
tư trong GDĐH tuy không trực tiếp tạo ra tài sản cố định và tài sản lưu động
23. 23
như các hoạt động đầu tư khác nhưng lại rất quan trọng để nâng cao chất lược
cuộc sống và vì mục tiêu phát triển.
Mục đích của hoạt động đầu tư cho GDĐH là vì sự phát triển bền vững,
lợi ích quốc gia, cộng đồng và của nhà đầu tư.
Đầu tư cho GDĐH thường được thực hiện bởi một chủ đầu tư nhất
định. Xác định rõ chủ đầu tư có ý nghĩa quan trọng trong quá trình quản lý
đầu tư nói chung và vốn đầu tư nói riêng. Chủ đầu tư là cá nhân, tổ chức kinh
tế, tổ chức chính trị-xã hội, cộng đồng dân cư, nhà đầu tư nước ngoài,…
Hoạt động đầu tư trong GDĐH là một quá trình, diễn ra trong thời kỳ
dài và tồn tại vấn đề “độ trễ về thời gian”. Đó là sự không trùng hợp giữ thời
gian đầu tư với thời gian vận hành các kết quả đầu tư. Đầu tư hiện tại nhưng
kết quả đầu tư thường thu được trong tương lai xa.
Nội dung đầu tư trong GDĐH được quy định trong pháp luật về đầu tư
và pháp luật về giáo dục. Bao gồm các hình thức đầu tư, điều kiện đầu tư,
quyền và nghĩa vụ của nhà đầu tư; trình tự, thủ tục và triển khai dự án đầu tư;
bảo đảm khuyến khích và ưu đãi đầu tư; quản lý nhà nước về đầu tư.
- Đầu tư cho GDĐH là hoạt động đầu tư đặc thù
+ Giáo dục nói chung và GDĐH nói riêng là một loại hình dịch vụ đặc
biệt. Nói như vậy không có nghĩa là hạ thấp vai trò và tính cao đẹp của giáo
dục. Coi giáo dục là một loại dịch vụ đào tạo nguồn lực cho đất nước có nghĩa
là đã đặt giáo dục vào vị trí hàng đầu, vị trí tạo tiền đề, tạo động lực cho mọi
sự phát triển. Trên thực tế không một ngành nào là không cần đến nhân lực,
không thừa hưởng kết quả đào tạo của giáo dục. Một kết quả của GDĐH sẽ đi
liền với kết quả cộng hưởng của những ngành kinh tế, xã hội. Một xã hội đi
lên bằng những chương trình được hoạch định một cách khoa học, phù hợp
với nhu cầu khách quan của cuộc sống, phù hợp với xu thế của thời đại thì
24. 24
giáo dục phải là một bộ phận khăng khít hữu cơ, phải là hoạt động tiền đề của
mọi hoạt động.
Giáo dục vừa là một ngành hoàn chỉnh, hoạt động với tinh thần chủ
động, sáng tạo theo mục tiêu nhiệm vụ của chính phủ giao cho nhưng cũng lại
vừa là một bộ phận chủ chốt trong hệ thống tổng thể của đất nước với tư cách
là một loại dịch vụ quan trọng, hoạt động theo cơ chế thị trường.
GDĐH là một lĩnh vực đặc thù, khác với lĩnh vực kinh tế, trong đó đối
tượng là con người chứ không phải là hàng hóa hay lợi nhuận, do đó cần phải
khẳng định một số quan điểm và phải có những giải pháp hết sức cụ thể. Sẽ
còn rất nhiều ý kiến bàn luận xung quanh vấn đề này, vì đây vẫn là vấn đề
nhạy cảm nhưng cũng phải thống nhất rằng giáo dục không phải là thị trường
nhưng giáo dục có nhiệm vụ cung ứng dịch vụ học tập cho xã hội, bản thân nó
cũng có tính cạnh tranh, có sự đầu tư để đạt những lợi ích cho cả nhà đầu tư
và cho xã hội. Bởi lẽ chúng ta không nên né tránh khái niệm dịch vụ trong
giáo dục đào tạo mà nên coi đó là cơ hội nâng cao chất lượng giáo dục, mang
lại những giá trị cao quý cho xã hội nhất là con người được đào tạo bài bản có
tri thức.
Giáo dục nói chung và GDĐH nói riêng vẫn phải là sự nghiệp của nhà
nước chăm lo cho nhân dân chứ không được hiểu xã hội hóa giáo dục là
chuyển tất cả các hoạt động giáo dục đào tạo cho các thành phần “phi nhà
nước” tổ chức và quản lý. Vai trò của xã hội hóa là chấm dứt một số hoạt
động bao cấp không cần thiết trong giáo dục, cung cấp các tiện nghi tốt hơn
cho một bộ phận nhân dân có điều kiện tài chính cao hơn, làm nhẹ gánh nặng
ngân sách nhà nước để tập trung nguồn lực cho đại bộ phận người dân còn
khó khăn.
+ Hoạt động đầu tư cho giáo dục nói chung và GDĐH nói riêng là hoạt
động đầu tư có điều kiện và được hưởng ưu đãi đầu tư.
25. 25
Theo Luật đầu tư 2005 về ưu đãi đầu tư giáo dục nói chung và GDĐH
nói riêng được coi là ngành nghề được khuyến khích trên cơ sở có chọn lọc
giữa các ngành trong toàn xã hội. Nhà nước dành cho GDĐH một cơ chế ưu
tiên, tạo điều kiện để thu hút, sử dụng hiệu quả các nguồn vốn đầu tư, đáp ứng
nhu cầu hội nhập kinh tế quốc tế. Những quy định về ưu đãi đầu tư được ghi
nhận cả trong pháp luật về đầu tư và pháp luật về giáo dục, tạo nên một khung
pháp lý chung cho các nhà đầu tư trên cơ sở không phân biệt giữa đầu tư
trong nước và đầu tư nước ngoài. Nội dung của ưu đãi đầu tư trong lĩnh vực
GDĐH bao gồm ưu đãi về tài chính, về đất đai cho xây dựng trường học, ưu
đãi về thuế thu nhập; đảm bảo về cân đối ngoại tệ đối với các cơ sở giáo dục
có vốn đầu tư nước ngoài.
Về điều kiện đầu tư, gồm điều kiện đối với chủ thể đầu tư, điều kiện
thành lập và hoạt động của cơ sở giáo dục, điều kiện về vốn đầu tư và cơ sở
vật chất,…Tuy trên thực tế chúng ta hướng tới mục đích đảm bảo đối xử công
bằng giữa nhà đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài nhưng trong lĩnh vực
GDĐH là lĩnh vực đầu tư đặc biệt, vẫn có sự phân biệt nhất định giữa hai loại
chủ thể đầu tư này.
1.3. Những vấn đề lý luận về pháp luật đầu tƣ trong giáo dục đại học ở
Việt Nam
1.3.1. Nhu cầu điều chỉnh pháp luật đối với hoạt động đầu tư trong giáo
dục đại học
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, cạnh tranh được xem là một quy
luật tất yếu, là nền tảng phát triển. Cung và cầu thị trường đóng vai trò nền
tảng trong phát triển, phân phối và sử dụng các nguồn lực xã hội.
Quan điểm của các nhà đầu tư là chi phí cực tiểu và đạt lợi ích tối đa cả
về phương diện cá nhân và xã hội, được lấy làm thước đo cho việc tính toán,
26. 26
xem xét và đưa ra quyết định đầu tư một ngành, nghề hay lĩnh vực đào tạo cụ
thể nào đó.
Môi trường pháp luật với khung pháp lý hoàn chỉnh và hệ thống các
văn bản pháp quy minh bạch điều chỉnh các mặt hoạt động của thị trường dịch
vụ sản phẩm GDĐH sẽ bảo đảm và giúp cho thị trường này hoạt động an
toàn, bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp cho các chủ thể tham gia thị
trường. Hệ thống pháp luật đầy đủ sẽ hạn chế một cách hữu hiệu sự nảy sinh
các hiện tượng bất công trong xã hội nói chung, trong lĩnh vực GDĐH nói
riêng. Chỉ có dựa trên một hệ thống công cụ pháp luật đầy đủ và vững chắc,
nhà nước mới có thể điều tiết xã hội thực hiện phân phối lại những kết quả
hoạt động kinh tế theo hướng bảo đảm công bằng xã hội cho các nhóm lợi ích
bình đẳng trước cơ hội nhập học. Chỉ có một hệ thống luật pháp vững chắc thì
nhà nước mới có thể xây dựng được cơ chế, chính sách tạo môi trường cạnh
tranh lành mạnh, công khai, minh bạch, có trật tự, kỷ cương cho các chủ thể
tham gia quản lý, điều hành các hoạt động GDĐH để huy động và phát huy
các nguồn lực xã hội phát triển GDĐH.
Nghiên cứu các nước trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng,
khi những người nghèo không có cơ hội và điều kiện tiếp cận GDĐH, nhà
nước thông qua các chính sách phát triển điều chỉnh lại mức độ thụ hưởng các
giá trị định hướng trong các mối quan hệ xã hội giữa các thành viên trong
cộng đồng, cả về phương diện vật chất, cũng như về phương diện tinhh thần.
Nhà nước sử dụng công cụ pháp luật đầu tư trong lĩnh vực GDĐH để tác
động, can thiệp vào quá trình vận động của hệ thông GDĐH nhằm loại bỏ,
hoặc hạn chế những ảnh hưởng xấu của kinh tế thị trường, bảo vệ lợi ích công
cộng của GDĐH.
Thông qua hệ thống pháp luật đầu tư trong lĩnh vực GDĐH, nhà nước
định hướng cho GDĐH phát triển theo đúng mục tiêu và tạo lòng tin cho các
27. 27
nhà đầu tư trong và ngoài nước đầu tư phát triển GDĐH, đồng thời nó còn là
cơ sở tạo ra một sân chơi bình đẳng, cho các nhà đầu tư trong toàn xã hội
tham gia phát triển GDĐH. Thực tế của các nước phát triển chỉ ra rằng,
GDĐH chỉ có thể phát triển bền vững, lành mạnh và đúng định hướng dựa
trên nền tảng của một hệ thống thể chế, pháp luật đầy đủ, ổn định. Với ý
nghĩa đó, việc hoàn chỉnh, bổ sung hệ thống văn bản pháp luật, các quy phạm
pháp luật đầu tư GDĐH ở cấp độ vĩ mô cần được tiến hành thường xuyên để
theo kịp với quá trình phát triển kinh tế-xã hội. Hệ thống thể chế mới càng
phải tăng cường chức năng quản lý vĩ mô của nhà nước, đồng thời nâng cao
quyền chủ động cho các cơ sở đào tạo. Nhà nước chỉ nên thể hiện vai trò,
chức năng của người trọng tài điều khiển hơn là trực tiếp tham gia.
Tuy nhiên hiện nay, việc chi đầu tư cho giáo dục từ ngân sách nhà nước
quá lớn, đứng trước bối cảnh suy thoái kinh tế, việc xã hội hóa đầu tư cho
giáo dục đại học là cần thiết, để đáp ứng các yêu cầu nâng cao cả về số lượng
và chất lượng đào tạo, đảm bảo tính công bằng trong giáo dục đào tạo, vừa
giảm bớt gánh nặng chi từ ngân sách, vừa khuyến khích được các nhà đầu tư
trong và ngoài nước, các nhà hảo tâm, và của chính người học.
Ngoài ra, khi hội nhập vào khu vực ASEAN và thế giới, muốn tồn tại
và phát triển bắt buộc chúng ta phải có sức mạnh cạnh tranh. Muốn có sức
mạnh cạnh tranh cao và dài hơi, bắt buộc chúng ta phải đầu tư mạnh mẽ vào
giáo dục, nhất là giáo dục đại học và phải bắt đầu ngay tức thì để có chất
lượng ngày càng cao.
Theo Báo cáo của Bộ Giáo dục và Đào tạo (Số: 760 /BC-BGDĐT)
ngày 29 tháng 10 năm 2009 cả nước có 376 trường, đến nay trên cả nước
chúng ta đã có trên 412 trường ĐH và CĐ. Hầu hết các tỉnh thành chúng ta
đều có trường ĐH, CĐ. Từ quy mô như trên chúng ta có thể khẳng định, công
tác xã hội hoá giáo dục ngày càng được đẩy mạnh, nguồn lực trong xã hội đầu
28. 28
tư cho giáo dục được huy động ngày càng nhiều. Sự phân bố các cơ sở giáo
dục đại học đã dần rộng khắp trên phạm vi cả nước. Điều này là hết sức quan
trọng trong việc đào tạo nguồn nhân lực tại chỗ có chất lượng nhằm đáp ứng
yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa của từng địa phương và
cả nước.
Ngày 15/5, Phó Giám đốc Đại học Quốc gia Hà Nội Nguyễn Hữu Đức
cho biết theo Bảng xếp hạng QS (Quacquarelli Symond) vừa công bố kết quả
xếp hạng các trường đại học châu Á năm 2014, lần đầu tiên, Việt Nam có ba
cơ sở giáo dục đại học được lọt vào danh sách năm nay gồm Đại học Quốc
gia Hà Nội, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh và Đại học Bách khoa
Hà Nội. Về xếp hạng, Đại học Quốc gia Hà Nội thuộc nhóm 161-170, Đại học
Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh thuộc nhóm 191-200 và Trường Đại học
Bách khoa Hà Nội thuộc nhóm 251-300. Hai năm trước đây, Việt Nam chỉ
mới có Đại học Quốc gia Hà Nội xếp trong nhóm 201-250 [11]. Tuy nhiên, ở
nước ta, các đại học lớn vẫn chưa được đứng trong bảng xếp hạng 150 trường đại
học tốp đầu châu Á, trong khi nhiều trường đại học của các nước láng giềng như
Philippin, Inđônêsia đã có mặt. Đặc biệt, theo Bảng xếp hạng QS năm 2014, tốp
những cơ sở giáo dục đại học hàng đầu của châu Á là Đại học Quốc gia
Singapore (NUS), tiếp đến là Viện Khoa học Công nghệ Tiên tiến Hàn Quốc
(KAIST), Đại học Hong Kong, Đại học Quốc gia Seoul (Hàn Quốc), Đại học
Khoa học và Công nghệ Hong Kong, Đại học Công nghệ Nanyang (NTU -
Singapore), Đại học Bắc Kinh (Trung Quốc), Đại học Khoa học và Công
nghệ Pohang (POSTECH - Hàn Quốc) và thứ 10 là Đại học Tokyo (Nhật
Bản)[11].
Theo Giáo sư Hoàng Tụy, trên Tuổi trẻ Online (ngày 25/10/2007): “…
Có lẽ chỉ 15 - 20% số tiến sĩ có trình độ thật sự tương xứng với bằng cấp đó
trên quốc tế. Tương tự, cũng chỉ 15 - 20% số giáo sư, phó giáo sư có trình độ
29. 29
thật sự tương xứng. Còn lại không chỉ thấp, mà có đến hơn một phần ba thấp
đến tệ hại, nhiều người không đứng nổi trong phạm trù “dạy đại học”, dù ở
mức thấp. Rất nhiều tiến sĩ của ta trình độ không hơn gì cử nhân ở các nước,
rất đông phó giáo sư của ta không so sánh nổi với trợ giảng mới ra trường của
họ” . Bài viết của tác giả Chi Mai, trên vietnam.net ngày 3/3/2014: “24.000
tiến sỹ Việt Nam đang làm gì?” đã đưa ra số liệu thống kê mới nhất của Bộ
GD-ĐT, tính đến năm 2013 Việt Nam có khoảng 24.300 tiến sỹ, trong đó có
633 tiến sĩ là giảng viên các trường cao đẳng, 8.519 tiến sĩ là giảng viên các
trường đại học, còn khoảng 15.000 tiến sĩ đang làm việc ở những đâu? Bài
viết cũng chỉ ra đích danh một số tên dỹ rởm “bị lộ” hiện nay đang làm việc ở
đâu [17].
Mặt khác theo Báo cáo của Bộ Giáo dục và Đào tạo, ngân sách Nhà
nước cấp cho các trường đại học thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ
tăng hằng năm (năm 2006: hơn 259,5 tỷ, năm 2008: hơn 264 tỷ đồng, năm
2011: 151,200 tỷ đồng, năm 2012: 170.349 tỷ đồng). Tuy nhiên, nguồn thu
từ hoạt động khoa học và công nghệ của các trường đại học từ năm 2006 đến
năm 2008 còn rất thấp, chỉ chiếm 3,92% trong tổng nguồn tài chính của các
trường đại học. Thực tế vẫn chưa có một thống kê nào đánh giá cụ thể tỷ lệ
các đề tài nghiên cứu được đưa vào áp dụng, nhưng theo các chuyên gia
nhận định, có khoảng 60% kết quả nghiên cứu khoa học được đưa vào ứng
dụng, nghĩa là còn 40% kết quả nghiên cứu phải “trùm mền”. Các nhà khoa
học không biết giới sản xuất đang cần gì ở họ, còn các doanh nghiệp cũng
chẳng hiểu công nghệ mình cần trong nước đã có hay chưa và không thể chủ
động đưa ra yêu cầu của mình. Hậu quả là doanh nghiệp tìm đến với công
nghệ nước ngoài, nhà khoa học nghiên cứu theo sở thích và chuyện kết quả
nghiên cứu “trùm mền” chẳng có gì là khó hiểu[45].
30. 30
Tại “Đối thoại giáo dục VN: Cải cách giáo dục ĐH” diễn ra trong hai
ngày 31/7 và 1/8/2014, là chủ đề được lựa chọn cho hội thảo do Nhóm đối
thoại giáo dục phối hợp với Lãnh sự quán Hoa Kỳ tổ chức tại Trung tâm Hoa
Kỳ (TP.HCM). Tại đối thoại GS Ngô Bảo Châu và gần 100 học giả, các giáo
sư và đại diện các trường ĐH trong và ngoài nước đều nhất chí giáo dục ĐH
trong nước đã và đang tụt hậu ngay trong khu vực [4]. Theo PGS.TS Phan
Thanh Bình, giám đốc ĐHQG TP.HCM, Việt Nam đang xếp trong nhóm các
nước tụt hậu về giáo dục trong ASEAN[11].
Ngoài ra, vấn đề đang được các nhà quản lý giáo dục, các chuyên gia,
các nhà đầu tư và của người dân quan tâm, đó chính là câu chuyện “phi lợi
nhuận” trong giáo dục đại học.
Xin được trích dẫn một phần trong bài viết của tác giả Thuận Nhiên
được báo Diễn đàn doanh nghiệp đăng ngày 9/8/2014 với nhan đề: “Đầu tư
giáo dụcnhìntừtrườngĐHHoaSen:Mậpmờlợinhuận-philợinhuận”.
“Có DN phi lợi nhuận?
Trường Đại học Hoa Sen được thành lập năm 2006 với tên gọi Trường
Cao đẳng Bán công Hoa Sen. Tiền thân của trường là cơ sở đào tạo nghiệp
vụ tin học và quản lí Hoa Sen, có mặt kể từ năm 1991. Khi thành lập, Hoa
Sen hoạt động theo tôn chỉ là môi trường tư thục hoạt động không vì mục tiêu
lợi nhuận, trực thuộc UBND TP HCM và có cơ chế tự chủ tài chính. Theo quy
định của Luật Giáo dục Đại học có hiệu lực từ năm 2013, các trường đại học
tư thục sẽ được tổ chức theo mô hình DN, tức có cổ đông và đại hội đồng cổ
đông quyết định các chính sách lớn của nhà trường, bầu ra hội đồng quản trị,
ban kiểm soát, và hội đồng quản trị bầu ra ban giám hiệu. Nói một cách khác
ở một khía cạnh nào đó, ĐH Hoa Sen còn chịu quy định của Luật Đầu tư và
Luật DN, Luật Chứng khoán, khi Trường vừa hoạt động trong một lĩnh vực
đặc thù vừa như một DN, dù là DN…“phi lợi nhuận”.
31. 31
Sự bất nhất ngay từ ban đầu của các quy định pháp lí và chịu sự chi
phối của nhiều Luật khác nhau khiến hoạt động của Hoa Sen dễ bị xáo trộn,
càng dễ bị rơi vào trường hợp sao nhãng mục tiêu ban đầu là hoạt động phi
lợi nhuận. Trên thực tế Trường được cơ quan chủ quản địa phương hỗ trợ
nhiều chính sách và ưu đãi, song thay vì đầu tư toàn phần cho các hạng mục
phát triển giáo dục, khoa học, công nghệ, Trường đã mở ra một số các công
ty dựa trên cổ phần vốn góp của mình để thực hiện các thu chi tài chính trái
quy định, trong đó có thu vượt học phí của sinh viên – một sai phạm hoàn
toàn không đáng có ở một Trường mang danh không vì mục tiêu lợi nhuận -
ngoại trừ mục đích rất đáng hoan nghênh của Trường là liên kết mở thêm
chương trình để đa dạng hóa nội dung đào tạo đáp ứng nhu cầu của sinh
viên”[27].
Như vậy, xuất phát từ lý luận và thực tiễn pháp luật đầu tư trong giáo
dục đại học có ý nghĩa quan trọng trong thể hiện vai trò, định hướng mục tiêu
phát triển của Đảng và Nhà nước, góp phần hoàn thiện và đổi mới giáo dục
đại học; đảm bảo tính khách quan, công bằng, dân chủ cho các nhà đầu tư; là
yếu tố quan trọng trong việc phát huy vai trò của các trường đại học, cao đẳng
trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; và cũng là cơ sở
pháp lý cho việc hội nhập quốc tế về giáo dục đại học. Việc điều chỉnh các
quy định của pháp luật về đầu tư trong giáo dục đại học để giải quyêt những
vấn đề mang tính hệ thống và cụ thể như hiện nay là cần thiết.
1.3.2. Các nguyên tắc của pháp luật đầu tƣ trong giáo dục đại học
- Nguyên tắc phi lợi nhuận
Khái niệm “đại học phi lợi nhuận” đã được nhắc đến nhiều lần trong
hơn 20 năm trở lại đây – kể từ khi đại học ngoài công lập đầu tiên ra đời năm
1989, đến năm 2012 khi Luật Giáo dục đại học được ban hành, khái niệm
“phi lợi nhuận” mới được “thể chế hoá” và định nghĩa cụ thể lần đầu tiên.
32. 32
Mục 7 điều 4 của Luật Giáo dục đại học 2012 giải thích: Cơ sở giáo
dục đại học tư thục và cơ sở giáo dục đại học có vốn đầu tư nước ngoài hoạt
động không lợi nhuận là cơ sở giáo dục đại học mà phần lợi nhuận tích lũy
hằng năm là tài sản chung không chia, để tái đầu tư phát triển cơ sở giáo dục
đại học, các cổ đông hoặc các thành viên góp vốn không hưởng lợi tức hoặc
hưởng lợi tức hằng năm không vượt quá lãi suất trái phiếu Chính phủ [16].
Điều 20 Luật Giáo dục 2005 và khoản 3 điều 11 của Luật GDĐH 2013
đều ghi rõ việc cấm lợi dụng các hoạt động giáo dục vì mục đích vụ lợi.
Điều 6, Nghị định số 141 ngày ngày 24 tháng 10 năm 2013 của Chính
phủ quy định “Cơ sở giáo dục đại học tư thục và cơ sở giáo dục đại học có
vốn đầu tư nước ngoài hoạt động không vì lợi nhuận” [25].
Theo quan điểm của giáo sư Trần Văn Thọ trên báo tuổi trẻ ngày
7/8/2014 “Những người có vốn muốn kinh doanh nên tránh xa lĩnh vực giáo
dục và nhà nước phải có cơ chế để những người đó không kinh doanh được
trong giáo dục”[43].
Xuất phát từ đặc điểm, yêu cầu của đầu tư giáo dục nói chung, và giáo
dục đại học nói riêng là đầu tư phát triển, đầu tư mang tính đặt thù riêng,
không giống như đầu tư trong các lĩnh vực khác. Nguyên tắc phi lợi nhuận
cần phải thực hiện đúng với chủ chương của Đảng, chính sách pháp luật của
Nhà nước.
- Nguyên tắc công bằng, dân chủ
Nhà nước thực hiện chính sách ưu đãi hoặc hỗ trợ có điều kiện, có thời
hạn đối với việc đào tạo một số ngành nghề quan trọng, thiết yếu, một số mục
tiêu, một số địa bàn, không phân biệt thành phần kinh tế. Xóa bỏ độc quyền
và đặc quyền của các trường đại học công lập và bảo đảm cho các trường đại
học công lập được thật sự tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong hoạt động đào tạo,
33. 33
cạnh tranh và chấp nhận rủ ro. Gắn trách nhiệm, quyền hạn và lợi ích của cán
bộ giảng dạy, quản lý với kết quả học động của trường đại học.
Nhà nước tạo ra một môi trường pháp luật phù hợp đòi hỏi phải xóa bỏ
mọi sự phân biệt đối xử theo hình thức sở hữu. Mọi công dân có quyền tự do
đầu tư thành lập các cơ sở đào tạo đại học và đào tạo những lĩnh vực, ngành
nghề, địa bàn mà pháp luật không cấm; có quyền bất khả xâm phạm về quyền
sở hữu tài sản hợp pháp; có quyền bình đẳng trong đầu tư, kinh doanh, tiếp
cận các cơ hội và các nguồn lực phát triển cũng nhưng trong cung cấp và tiếp
cận thông tin.
Chính sách phát triển GDĐH phải tối đa hóa được tất cả các lợi ích. Nó
vừa thừa nhận một cách tự nhiên và tôn trọng các lợi ích cá nhân với những
mục tiêu kinh tế độc lập và địa vị pháp lý bình đẳng. Giữ gìn nguyên tắc công
bằng xã hội; đảm bảo tính đa dạng của hệ thống; đảm bảo chất lượng đào tạo.
- Nguyên tắc công khai minh bạch
Vốn đầu tư cho giáo dục đại học của các nước đang phát triển nói
chung, Việt Nam nói riêng được hình thành từ hai nguồn cơ bản là vốn trong
nước và vốn nước ngoài. Trong đó vốn trong nước bao gồm vốn tích lũy từ
ngân sách nhà nước (vốn ngân sách nhà nước), vốn tự tạo của trường, vốn của
dân cư. Vốn ngoài nước được hình thành chủ yếu từ viện trợ phát triển chính
thức.
Luật giáo dục Việt Nam đã ghi rõ vốn đầu tư cho giáo dục ở Việt Nam
được hình thành từ các nguồn sau:
+ Nguồn ngân sách nhà nước,
+ Học phí, tiền đóng góp xây dựng trường học, các khoản thu từ hoạt
động tư vấn, chuyển giao công nghệ, sản xuất kinh doanh của các cơ sở giáo
dục, các khoản tài trợ khác của các tổ chức, cá nhân trong nước và ngoài nước
theo quy định của pháp luật.
34. 34
Trên thực tê, vốn ngân sách được hình thành dựa trên sự đóng góp của
nhân dân thông qua thuế, nhà nhàng năm nhà nước ta phải bỏ ra hàng ngàn tỷ
đồng đầu tư ngân sách cho giáo dục đại học [45]. Vì vậy yêu cầu tiên quyết để
thực hiện mục tiêu giáo dục, đầu tư tài chính cho giáo dục đại học cần phải
được công khai, minh bạch.
Nguyên tắc này đã được cụ thể hóa rất rõ trong các văn bản pháp luật
của Nhà nước ta hiện nay.
Luật Ngân sách Nhà nước hiện hành đã quy định Ngân sách Nhà nước
được quản lý thống nhất theo nguyên tắc tập trung dân chủ, công khai, minh
bạch, có phân công, phân cấp quản lý, gắn quyền hạn với trách nhiệm.
Điều 66, Luật Giáo dục đại học 2012 quy định về quản lý tài chính của
cơ sở giáo dục đại học “Cơ sở giáo dục đại học thực hiện chế độ tài chính, kế
toán, kiểm toán, thuế và công khai tài chính theo quy định của pháp luật”[16].
Điều 102, Luật Giáo dục năm 2005 quy định về ngân sách chi cho giáo
dục “Ngân sách nhà nước chi cho giáo dục phải được phân bổ theo nguyên tắc
công khai, tập trung dân chủ; căn cứ vào quy mô giáo dục, điều kiện phát
triển kinh tế - xã hội của từng vùng; thể hiện được chính sách ưu tiên của Nhà
nước đối với giáo dục phổ cập, phát triển giáo dục ở vùng dân tộc thiểu số và
vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn” [15].
- Nguyên tắc phòng ngửa rủi ro
Đầu tư cho giáo dục khác với các đầu tư khác, đầu tư cho giáo dục
mang lại lợi ích cho cá nhân và xã hội. Lợi ích của một khoản đầu tư cho giáo
dục được đo bằng khoản thu nhập bổ sung trung bình cho những người tốt
nghiệp ở bậc học cao hơn so với những người tốt nghiệp ở bậc học thấp hơn,
trong khi khống chế các yếu tố xác định thu nhập khác. Chi phí đầu tư cho
giáo dục bao gồm các chi phí trực tiếp – đối với cá nhân, bao gồm tất cả các
chi tiêu liên quan đến việc đi học và đối với xã hội, chi phí đầy đủ của các
35. 35
nguồn lực cung cấp dịch vụ giáo dục bao gồm những khoản chi phí trợ cấp
mà các cá nhân hoặc gia đình của các cá nhân đó không phải trả, cộng với chi
phí trung bình phải từ bỏ do việc đầu tư này. Sinh viên còn phải chịu chi phí
cơ hội vì mất cơ hội việc làm trong thời gian theo học. Mặt khác, đầu tư cho
giáo dục là đầu tư mang tính dài hạn, trung bình một khóa học của sinh viên
từ 3,5 đến 4 năm, nên nhà đầu tư cần phải tính toán kỹ về nguồn vốn đầu tư.
Khắc phục vấn đề đang diễn ra ở ĐH Hoa Sen hiện nay, việc điều chỉnh
pháp luật phải tính toán được các yếu tố có thể xảy ra, phòng ngừa những rủi
ro, làm ảnh hưởng đến mục tiêu phát triển giáo dục đào tạo, ảnh hưởng đến
quyền lợi của các nhà đầu tư, đến người học.
1.3.3. Nội dung điều chỉnh pháp luật đầu tư trong giáo dục đại học ở Việt
Nam
- Quy định về chủ thể đầu tư
Quan hệ đầu tư nói chung cũng như quan hệ đầu tư trong lĩnh vực giáo
dục đề có tính xác định về cơ cấu chủ thể. Pháp luật quy định những chủ thể
được tham gia quan hệ pháp luật đầu tư trong lĩnh vực giáo dục xuất phát tính
chất của hoạt động đầu tư, để bảo vệ lợi ích của cá nhân, tổ chức và của toàn
xã hội. Các chủ thể đáp ứng được các điều kiện do pháp luật quy định để tham
gia quan hệ đầu tư được coi là có năng lực pháp luật đầu tư. Hai nhóm chủ thể
cơ bản của hoạt động đầu tư trong lĩnh vực giáo dục đại học gồm nhà đầu tư
và cơ quản lý nhà nước về đầu tư.
- Quy định về điều kiện đối với hoạt động đầu tư trong giáo dục đại
học
Một trong những đặc điểm đặc thù của hoạt động đầu tư trong GDĐH
đó là “điều kiện đầu tư”. Nó thuộc phạm vi nghiên cứu của đề tài bao gồm
điều kiện đối với nhà đầu tư; hình thức đầu tư; thành lập tổ chức kinh tế; điều
36. 36
kiện về vốn và cơ sở vật chất; điều kiện về chương trình giáo dục; mở cưa thị
trường đối với hoạt động đầu tư nước ngoài và rất nhiều điều kiện khác nữa.
Pháp luật hiện hành quy định về điều kiện đầu tư trong giáo dục đại học
theo hướng phân chia chủ thể đầu tư giữa nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư
nước ngoài. Ngoài ra, pháp luật quy định về điều kiện đầu tư căn cứ vào thực
tế hoạt động đầu tư và cam kết quốc tế trong các Điều ước quốc tế mà Việt
Nam là thành viên.
- Quy định về hình thức đầu tư
Hình thức đầu tư là một vấn đề quan trọng, là cách tiến hành hoạt động
đầu tư sinh lợi của các nhà đầu tư theo quy định của pháp luật, không những thể
hiện quyền lợi của nhà đầu tư mà còn nói lên thái độ của nhà nước đối với nhà
đầu tư trong mỗi thời kỳ phát triển. Kết hợp tìm hiểu luật đầu tư và phạm vi đầu
tư trong GDĐH để thấy được nhà nước đang tạo cơ hội cho nhà đầu tư được tiến
hành các hoạt động đầu tư dưới những hình thức khác nhau.
Các quy định về hình thức đầu tư trong Luật đầu tư 2005 thể hiện một
bước tiến rất lớn trong việc bảo đảm tính công bằng, bình đẳng, không phân
biệt đối xử giữa các nhà đầu tư, cũng như bảo đảm tính toàn diện, thống nhất
cho pháp luật đầu tư của Việt Nam, góp phần đưa pháp luật đầu tư của Việt
Nam tiến gần hơn tới mức tiêu chuẩn của sự phù hợp xu hướng hội nhập.
Theo quy định của pháp luật, hình thức đầu tư mà các nhà đầu tư được phép
tiến hành bao gồm hình thức đầu tư trực tiếp và hình thức đầu tư gián tiếp.
Đầu tư trực tiếp là hình thưc đầu tư do nhà đầu tư bỏ vốn và tham gia hoạt
động quản lý (Khoản 2 Điều 3 Luật đầu tư), thể hiện qua các hình thức cụ thể:
thành lập tổ chức kinh tế 100% vốn nhà đầu tư nước ngoài; thành lập tổ chức
kinh tế liên doanh; ký kết hợp đồng BOT, BTO, BT, BCC; đầu tư phát triển
kinh doanh; mua cổ phần hoặc sát nhập doanh nghiệp, mua lại doanh nghiệp.
Đầu tư gián tiếp là đầu tư thông qua việc mua cổ phần, cổ phiếu, trái phiếu,
37. 37
các giấy tờ có giá, quỹ đầu tư chứng khoán và thông qua các chế định tài
chính trung gian khác mà nhà đầu tư không trực tiếp tham gia quản lý hoạt
động đầu tư [14].
Trong điều kiện và môi trường GDĐH, hình thức đầu tư là cách thức
mà pháp luật cho phép các nhà đầu tư sử dụng nguồn lực đầu tư, liên kết và
thụ hưởng kết quả đầu tư.
- Quy định về thủ tục đầu tư
Theo quy định của Luật đầu tư 2005 thì thủ tục đầu tư được quy định
khá đơn giản và thuận tiện cho các nhà đầu tư. Theo đó dự án đầu tư được
phân chia thành hai loại: đăng ký đầu tư và thẩm tra đầu tư. Đầu tư trong
GDĐH là lĩnh vực đầu tư có điều kiện nên các dự án đầu tư phải tiến hành thủ
tục thẩm tra đầu tư theo quy định chung. Dự án thuộc diện thẩm tra áp dụng
chung cho cả đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài. Nội dung thẩm tra bao
gồm các nội dung: Sự phù hợp quy hoạch kết cấu hạ tầng, quy hoạch sử dụng
đất, quy hoạch xây dựng; Nhu cầu sử dụng đất: tiến độ thực hiện dự án; Giải
pháp về môi trường. Đối với dự án thuộc danh mục đầu tư có điều kiện thì nội
dung thẩm tra chính là thẩm tra các điều kiện mà dự án phải đáp ứng.
1.3.4. Nguồn pháp luật điều chỉnh hoạt động đầu tư trong giáo dục đại học
Pháp luật đầu tư cho giáo dục nói chung và pháp luật đầu tư cho
GDĐH chỉ thực sự được xây dựng sau khi Hội nghị lần thứ 4 Ban chấp hành
trung ương Đảng khóa VIII (họp từ ngày 22 đến ngày 29 tháng 12 năm 1997)
chính thức đưa “xã hội hóa giáo dục” vào đời sống. Theo tinh thần của Nghị
quyết Đại hội toàn quốc lần thứ VIII của Đảng, Chính phủ đã ban hành Nghị
quyết số 90/CP ngày 21 tháng 8 năm 1997 về phương hướng xã hội hóa các
hoạt động giáo dục, y tế, văn hóa và nghị định số 73/1999/NĐ-CP ngày 19
tháng 8 năm 1999 về chính sách khuyến khích xã hội hóa đối với các hoạt
động trong lĩnh vực giáo dục, y tế, văn hóa và Nghị định 73, Chính phủ đã
quyết định ban hành Nghị quyết 05/2005/NQ-CP về đẩy mạnh và nâng cao
38. 38
chất lượng xã hội hóa trong các lĩnh vực nói trên trong đó có giáo dục nhằm
thống nhất hơn nữa về nhận thức và chủ trương, có cơ chế, chính sách cụ thể,
có giải pháp bước đi thích hợp. Luật Giáo dục số 11/1998/QH10 (đã hết hiệu
lực), đã ghi nhận “xã hội hóa giáo dục” tại Điều 12, coi giáo dục là sự nghiệp
của nhà nước và toàn dân. Như vậy chủ trương xã hội hóa giáo dục đã đi dần
vào đời sống, được pháp luật ghi nhận và đã trở thành một khái niệm quen
thuộc. Theo cách hiểu chung nhất thì chính là khuyến khích sự tham gia rộng
rãi của nhân dân, của toàn xã hội vào sự phát triển sự nghiệp giáo dục, mở
rộng các nguồn đầu tư, khai thác tiềm năng, nhân lực, vật lực, tài lực trong và
ngoài nước, phát huy và sử dụng hiệu quả nguồn lực này để phát triển giáo
dục. Thực hiện xã hội hóa nhằm hai mục tiêu lớn; thứ nhất là phát triển tiềm
năng trí tuệ và vật chất trong nhân dân, hhhuy động toàn xã hội chăm lo sự
nghiệp giáo dục; thứ hai là tạo điều kiện để toàn xã hội, đặc biệt là các đối
tượng chính sách, người nghèo được thụ hưởng thành quả giáo dục ở mức độ
ngày càng cao.
Xã hội hóa giáo dục có ý nghĩa là nhà nước nó phải tạo ra không gian
xã hội, luật pháp và chính trị cho việc hình thành một khu vực giáo dục mà ở
đó ai cũng có quyền đóng góp vì sự nghiệp giáo dục, thực hiện sự cạnh tranh
về chất lượng giáo dục, tức là giáo dục phải thuộc về xã hội.
Tuy còn nhiều cách hiểu khác nhau về chủ trương này nhưng đây thực
sự là nền tảng cho các quy định pháp luật về đầu tư trong lĩnh vực giáo dục
phát triển và hoàn thiện.
Hiến pháp năm 1992 và Nghị quyết số 51/2001/QH10 ngày
25/12/2001 của Quốc Hội về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 quy định tại điều 36.
“Nhà nước thống nhất quản lý hệ thống giáo dục quốc dân về mục tiêu,
chương trình, nội dung, kế hoạch giáo dục, tiêu chuẩn giáo viên, quy chế thi
cử và hệ thống văn bằng.
39. 39
Nhà nước phát triển cân đối hệ thống giáo dục: Giáo dục mầm mon, giáo dục
phổ thông, giáo dục nghề nghiệp, giáo dục đại học và sau đại học, phổ cập
giáo dục tiểu học, xóa mù chữ; phát triển các hình thức trường quốc lập, dân
lập và các hình thức giáo dục khác.
Nhà nước ưu tiên đầu tư cho giáo dục, khuyến khích các nguồn đầu tư
khác…”[9].
Hiến pháp năm 2013 quy định tại Điều 39 khẳng định quyền và nghĩa
vụ học tập của người dân và Điều 61 thể hiện sự quan tâm của Nhà nước đối
với việc phát triển giáo dục và đào tạo, coi giáo dục và đào tạo là quốc sách
hàng đầu; đã khái quát được hệ thống giáo dục quốc dân bao gồm các cấp
học, các loại hình nhà trường; phát triển giáo dục đồng đều giữa các vùng
miền, ưu tiên những vùng ở miền núi, hải đảo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số
và vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn; quan tâm đến đối
tượng là người khuyết tập và người nghèo. Ngoài ra, xã hội hóa giáo dục cũng
ưu tiên thực hiện nhằm huy động được những nguồn lực khác trong xã hội
đầu tư cho giáo dục và đào tạo [10].
Trong pháp luật đầu tư, giáo dục nói chung và giáo dục đại học nói
riêng được quy định là lĩnh vực được ưu đãi đầu tư từ rất sớm (Khoản 2, Điều
15 Luật khuyến khích đầu tư trong nước – sửa đổi năm 1998 – đã hết hiệu
lực). Cùng thời điểm đó, Luật Giáo dục số 11/1998/QH10 quy định về xã hội
hóa giáo dục và đầu tư cho giáo dục trên cơ sở phù hợp với chủ trương của
Đảng và pháp luật về đầu tư.
Điều 12 Luật Giáo dục 1998 quy định Đầu tư cho giáo dục là đầu tư
phát triển.
Nhà nước ưu tiên đầu tư và khuyến khích tổ chức, cá nhân trong nước,
người Việt Nam định cư ở nước ngoài, tổ chức, cá nhân nước ngoài đầu tư
cho giáo dục.
40. 40
Ngân sách nhà nước phải giữ vai trò chủ yếu trong tổng nguồn lực đầu
tư cho giáo dục”.
Có thể thấy, các văn bản pháp luật đầu tư và pháp luật về giáo dục đã
bước đầu quy định về hoạt động đầu tư trong lĩnh vực giáo dục nói chung và
giáo dục đại học nói riêng là hoạt động quan trọng và được khuyến khích, ưu
đãi.
Luật đầu tư 2005 ra đời là kết quả của quá phát triển các quy định pháp
luật về đầu tư. Luật đầu tư 2005 thay thế Luật khuyến khích đầu tư trong nước
và Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Theo Luật đầu tư 2005 thì “phát
triển sự nghiệp giáo dục đào tạo” là lĩnh vực ưu đãi đầu tư (Khoản 6 – Điều
27), và là lĩnh vực đầu tư có điều kiện (Điểm h – Khoản 1 – Điều 29). Cùng
năm 2005, Luật Giáo dục mới ra đời, quán triệt tinh thần phát triển giáo dục là
quốc sách hàng đầu (Điều 9), Luật Giáo dục 2005 quy định về đầu tư cho giáo
dục tại Điều 13 như sau:“ Đầu tư cho giáo dục là đầu tư phát triển. Nhà nước
ưu tiên đầu tư cho giáo dục; khuyến khích và bảo hộ các quyền, lợi ích hợp
pháp của tổ chức, cá nhân trong nước, người Việt Nam định cư ở nước ngoài,
tổ chức cá nhân nước ngoài đầu tư cho giáo dục. Ngân sách nhà nước giữ vai
trò chủ yếu trong tổng nguồn lực đầu tư cho giáo dục”[15].
Mục 2, Chương VII Luật Giáo dục 2005 cũng quy định về đầu tư cho
giáo dục, từ Điều 101 đến Điều 106. Các quy định này thể hiện chính sách
phát triển giáo dục là ưu tiên hàng đầu, huy động nguồn lực từ ngân sách nhà
nước, từ sự đóng góp, đầu tư từ những tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước
cùng chung tay vì sự nghiệp giáo dục nước nhà.
Mục 3, Chương VII Luật Giáo dục 2005 (từ Điều 107 đến Điều 110)
quy định về hợp tác quốc tế về giáo dục, với tinh thần mở rộng, phát triển hợp
tác quốc tế về giáo dục theo nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền quốc gia,
bình đẳng và các bên cùng có lợi. Theo quy định của mùa này thì tổ chức, cá
nhân nước ngoài, tổ chức quốc tế, người Việt Nam định cư ở nước ngoài được
41. 41
nhà nước Việt Nam khuyến khích, tạo điều kiện đầu tư về giáo dục đại học ở
Việt Nam, được bảo hộ quyền và lợi ích hợp pháp theo quy định của pháp luật
Việt Nam, điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên.
Trong Luật đầu tư và Luật Giáo dục đều căn cứ vào vai trò, chức năng
của Chính phủ, giao cho chính phủ việc quy định chi tiết các vấn đề về hợp
tác đầu tư trong giáo dục nói chung và giáo dục đại học nói riêng của các nhà
đầu tư trên lãnh thổ Việt Nam. Thời gian qua, chính phủ với nhiệm vụ của
mình đã có những hoạt động tích cực, hiệu quả trong việc ban hành những
văn bản dưới luật, hướng dẫn cụ thể việc thực hiện hoạt động đầu tư trong
lĩnh vực giáo dục đại học. Trong hệ thống các văn bản dưới luật, cũng có rất
nhiều văn bản do Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Kế hoạch và Đầu tư ban hành,
cụ thể hóa quy định về đầu tư trong Luật Đầu tư 2005 và Luật giáo dục 2005.
Luật Giáo dục đại học 2012 (GDĐH) Việt Nam, được ban hành và có
hiệu lực từ 1-1-2013, đã xác định rõ chủ trương của Nhà nước về xây dựng
một hệ thống GDĐH có tính chất đa dạng, với những loại trường khác nhau
nhằm thực hiện những sứ mạng khác nhau và đáp ứng những nhu cầu khác
nhau của xã hội. Trong ba loại trường ĐH (nghiên cứu, ứng dụng và thực
hành), trường ĐH nghiên cứu có vai trò đặc biệt trong việc duy trì sự ưu tú,
tạo ra những kiến thức mới, ý tưởng mới, sáng tạo mới nhằm dẫn dắt tiến bộ
xã hội cũng như thúc đẩy sự giàu mạnh của quốc gia. Do vai trò đặc biệt đó,
trường ĐH nghiên cứu cần có những đặc quyền, không chỉ về nguồn lực, mà
còn là một môi trường hỗ trợ nhằm bảo đảm cho nó thực hiện được những
nhiệm vụ trọng yếu của mình.
Căn cứ Luật Giáo dục đại học ngày 18 tháng 6 năm 2012, chính thức có hiệu
lực năm 2013 (Điều 64) quy định rõ về nguồn tài chính của các cơ sở giáo dục
đại học bao gồm ngân sách nhà nước; học phí và lệ phí tuyển sinh; thu từ các
hoạt động đào tạo, khoa học công nghệ, sản xuất, kinh doanh và dịch vụ; Tài
trợ, viện trợ, quà biếu, tặng, cho của các cá nhân, tổ chức trong nước và nước
42. 42
ngoài; Đầu tư của các tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài; Nguồn thu
hợp pháp khác theo quy định của pháp luật[16].
Nghị định 141/2013/NĐ-CP ngày 24 tháng 10 năm 2013 Quy định chi
tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật giáo dục đại học.
Nghị định của chính phủ số 06/2000 ngày 06/03/2000 về việc hợp tác đầu tư
nước ngoài trong lĩnh vực khám chữa bệnh, giáo dục đào tạo, nghiên cứu
khoa học.
Căn cứ Nghị định số 75/2006/NĐ-CP ngày 02 tháng 8 năm 2006 của
Chính phủ Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Giáo
dục và Nghị định số 31/2011/NĐ-CP ngày 11 tháng 5 năm 2011 của Chính
phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 75/2006/NĐ-CP ngày 02
tháng 8 năm 2006 của Chính phủ Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một
số điều của Luật Giáo dục [21];
Thông tư liên tịch Bộ giáo dục và Đào tạo – Bộ kế hoạch và Đầu tư số
14/2005/TTLT – Bộ Giáo dục và Đào tạo – Bộ Khoa học và Công nghệ ngày
14 tháng 04 năm 2005 hướng dẫn một số điều của Nghị định số 06/2000/NĐ-
CP ngày 06/03/2000 của chính phủ về việc hợp tác đầu tư với nước ngoài
trong lĩnh vực khám chữa bệnh, giáo dục đào tạo, nghiên cứu khoa học.
Đối với việc thu hút đâu tư trong nước, Bộ Giáo dục và Đào tạo ban
hành những văn bản quy định về quy chế tổ chức và hoạt động của các cơ sở
giáo dục ngoài quốc dân. Việc tổ chức và thành lập các cơ sở giáo dục có vốn
đầu tư nước ngoài ngân sách nhà nước này hoạt động theo quy chế riêng, theo
điều lệ tương ứng với cấp học và bậc học.
Quyết định số 14/2005/QĐ-TTg ngày 17 tháng 01 năm 2005 của Thủ
tướng chính phủ về việc ban hành Quy chế tổ chức và hoạt động của trường
đại học tư thục [33].
43. 43
Quyết định số 58/2010/QĐ-TTg ngày 22 tháng 9 năm 2010 của Thủ
tướng Chính phủ về việc ban hành Điều lệ Trường đại học [34].
Từ những văn bản quy quạm pháp luật trên, hoạt động góp vốn thành
lập các cơ sở giáo dục nói chung và các cơ sở giáo dục đại học nói riêng của
các nhà đầu tư trong nước chủ yếu được quy định chi tiết ở các bản quy chế,
điều lệ. Hoạt động đầu tư của nhà đầu tư nước ngoài chủ yếu điều chỉnh của
các quy định về hợp tác quốc tế trong Luật giáo dục và các văn bản hướng
dẫn. Trong hệ thống các văn bản quy phạp pháp luật về hoạt động đầu tư
trong lĩnh vực giáo dục không thể không kể đến những điều ước quốc tế,
những bản cam kết mà Việt Nam đã ra nhập. Tiêu biểu nhất là Biểu cam kết
cụ thể về thuwong mại dịch vụ - là kết quả đàm phám quan trọng giữa Cộng
hòa xã hội Việt Nam với các thành viên WTO và là phụ lục của Nghị định thư
gia nhập WTO của Việt Nam. Biểu cam kết dịch vụ gồm 3 phần: Cam kết
chung, cam kết cụ thể và danh mục các biện pháp miễn trừ đối xử tối huệ
quốc (MFN) [3].
1.4. Các yếu tố chi phối pháp luật đầu tƣ trong giáo dục đại học
1.4.1. Yếu tố kinh tế
Sự phát triển khoa học công nghệ làm thay đổi cơ cấu kinh tế, cơ cấu
ngành nghề của lực lượng lao động trong xã hội. Những thay đổi này đòi hỏi
ngành giáo dục nói chung và giáo dục đại học nói riêng phải luôn điều chỉnh
chương trình đào tạo, cơ cấu ngành nghề và cơ cấu trình độ, hình thức tổ chức
đào tạo, phương pháp giảng dạy sao cho phù hợp với yêu cầu của nền kinh tế
tri thức đang hình thành. Một khi phương tiện internet đã trở nên thông dụng,
mọi thứ đều có thể trình diễn trên internet thì giáo dục từ xa là một hình thức
học tập phổ biến cho tất cả mọi người.
Sự thay đổi nhanh chóng của kinh tế, xã hội, công nghệ, các trường đại
học phải điều chỉnh vai trò của mình như là trung tâm nâng cao tri thức để đáp
44. 44
ứng nhu cầu nhận thức của mỗi quốc gia. Vai trò truyền thống của các trường
đại học như là người canh giữ tri thức của nhân loại hay là người truyền thụ
những kiến thức thu nhận được sẽ không còn phát huy được trong thời đại
ngày nay. Nhiệm vụ của các trường đại học không chỉ đơn thuần là đào tạo
nhân lực mà điều quan trọng hơn là đào tạo được các nhà chuyên gia giỏi và
thích ứng nhanh, có khả năng làm chủ và điều khiển được các tình huống thay
đổi đáp ứng được nhu cầu của xã hội.
Kinh tế hàng hóa phát triển, thị trường là động được hình thành, Người
đi học và người sử dụng lao động có khả năng thu được lợi ích khi tham gia
thị trường lao động. Vì vậy họ phải chia sẻ kinh phí cho hoạt động giáo dục
đào tạo. Đó là cơ hội cho giáo dục đại học có thêm nguồn lực để phát triển.
Như vậy cả người học lẫn người sử dụng đều phải đối mặt với bài toán chi phí
– lợi ích. Tất cả điều đó ảnh hưởng đến quyết định động cơ học tập, việc lựa
chọn ngành nghề, tác động đến quan hệ trong nhà trường và ngoài xã hội.
Trong bối cảnh này quyền tự chủ của các trường đại học và việc đảm
bảo tự do học thuật phải được tôn trọng. Đây là điều cần thiết để cho các cơ
sở giáo dục có thể hoàn thành sứ mệnh của mình, cho hệ thống giáo dục đại
học hoạt động có hiệu quả, tăng cường khả năng thay đổi và đón trước. Ở cấp
quốc gia, số lượng ngày càng nhiều cơ sở đào tạo hết sức đa dạng cần thiết để
đáp ứng các xu hướng đang thay đổi về nhu cầu, sẽ không thể quản lý đúng
đắn được chúng nếu không có các cơ chế mềm rẻo, một mức độ phân quyền
nhất định. Chính những yếu tốt này ảnh tác động, hưởng đến việc xây dựng
và thực hiện pháp luật đầu tư trong lĩnh vực giáo dục đại học ở Việt Nam.
1.4.2. Yếu tố chính trị
Cũng như trong các lĩnh vực đầu tư khác, pháp luật đầu tư GDĐH tồn
tại và phát triển song hành với bộ máy cai trị khi xã hội có sự không bình
đẳng trong việc phân chia quyền sở hữu dẫn đến xuất hiện các nhóm lợi ích
45. 45
khác nhau và là sản phẩm của con người. Vì vậy nó luôn luôn chịu ảnh hưởng
của các nhân tố bên ngoài hoặc tác nhân môi trường gián tiếp chứa đựng
những tư tưởng, động cơ chính trị, năng lực tri thức, ham muốn lợi ích vật
chất và tình cảm của con người thông qua bộ máy cai trị và những người làm
ra chính sách. Trong xã hội có giai cấp, giáo dục được sử dụng công cụ của
giai cấp cầm quyền nhằm duy trì quyền lợi của mình thông qua mục đích, nội
dung và phương pháp giáo dục.
Đảng và Nhà nước ta xác định giáo dục đào tạo cùng với khoa học
công nghệ là quốc sách hàng đầu. Đường lối chính sách của Đảng và Nhà
nước đều hướng tới đáp ứng mục tiêu giáo dục nước nhà. Cụ thể đó là việc
chi ngân sách nhà nước hàng năm là nguồn cung cấp tài chính cơ bản để
duy trì định hướng sự phát triển hệ thống giáo dục đào tạo quốc dân theo
đúng đường lối, chủ chương của Đảng và Nhà nước. Từ năm 2001 đến nay
Nhà nước đã dành nguồn ngân sách đầu tư đáng kể cho giáo dục nói chung
và giáo dục đại học nói riêng. Tỷ trọng chi ngân sách nhà nước cho giáo
dục đào tạo trong tổng chi ngân sách nhà nước tăng dần theo hướng năm
sau cao hơn năm trước.
Đảng và Nhà nước quán triệt quan điểm ưu tiên đầu tư cho giáo dục,
đặc biệt là giáo dục ở khu vực khó khăn, vùng dân tộc thiểu số của Việt Nam,
đồng thời thực hiện chính sách xã hội hóa mạnh hơn ở khu vực đào tạo.
1.4.3. Yếu tố tâm lý xã hội, ý thức xã hội
Đảng và nhà nước ta đã có chủ trương rất đúng đắn: “Giáo dục là quốc
sách hàng đầu” và cũng đã có những biện pháp cụ thể cải cách giáo dục. Tại
sao ngành giáo dục vẫn loay hoay lúng túng, chưa đáp ứng yêu cầu ngày càng
cao của xã hội đối với giáo dục? Tại sao khi ta cởi trói cho nông dân và cho
các nhà doanh nghiệp, thì nông nghiệp và doanh nghiệp phát triển? Tại sao