Khóa Luận Quyền Bình Đẳng Giữa Vợ Chồng Trong Việc Chia Tài Sản. Mục đích nghiên cứu của đề tài là làm rõ quyền bình đẳng giữa vợ chồng trong các trường hợp chia tài sản của vợ chồng theo pháp luật HN&GĐ Việt Nam và đưa ra những kiến nghị về việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật nhằm đảm bảo cho quyền bình đẳng đó được triệt để tuân thủ trong thực tế.
TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...
Khóa Luận Quyền Bình Đẳng Giữa Vợ Chồng Trong Việc Chia Tài Sản.docx
1. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
Quyền bình đẳng giữa vợ chồng trong việc chia
tài sản theo pháp luật Hôn nhân gia đình hiện
hành
2. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong quá trình xã hội hoá và hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam đang trong
quá trình chuyển đổi và phát triển về mọi mặt của đời sống xã hội. Việt Nam là
một trong những quốc gia luôn coi trọng vấn đề bình đẳng giới và coi đó chính là
mục tiêu mang tính chiến lược nhằm đảm bảo quyền con người nói chung và
quyền bình đẳng giữa các thành viên trong gia đình nói riêng. Đặc biệt là sự bình
đẳng giữa vợ và chồng. Chính vì vậy, trong các văn kiện của Đảng và trong các
văn bản pháp luật của Nhà nước, quyền bình đẳng giữa nam và nữ, giữa vợ và
chồng luôn được quan tâm sâu sắc. Trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình (sau đây
viết tắt là HN&GĐ), nhìn chung, quyền bình đẳng giữa vợ chồng, đặc biệt là quyền
bình đẳng trong việc chia tài sản giữa vợ chồng đã được đề cập khá cụ thể và chi
tiết trong các quy định của pháp luật và ngày càng có xu hướng hoàn thiện hơn.
Điều đó cho thấy sự quan tâm của Đảng, của Nhà nước và của toàn xã hội đến vấn
đề này đồng thời góp phần vào mục tiêu chung là bình đẳng giới của toàn thế giới.
Song các quy định đó vẫn còn nhiều bất cập, chưa hoàn thiện trong từng trường
hợp cụ thể khi chia tài sản của vợ chồng dẫn đến việc chia tài sản còn nhiều sai sót
và chưa đảm bảo quyền bình đẳng cho các bên.
Hơn thế nữa, trong điều kiện kinh tế đang phát triển theo hướng thị trường
hóa hiện nay, khi khối lượng tài sản của công dân tăng lên, nhu cầu riêng cũng
nhiều hơn, ý thức, tâm lý tài sản riêng để phục vụ cho nhu cầu cuộc sống, nghề
nghiệp, sinh hoạt cá nhân được chủ động hình thành và phù hợp với tâm lý dân tộc,
mong muốn tạo lập cho mình một khoản tài sản độc lập không bị phụ thuộc bất cứ
ai kể cả giữa vợ và chồng cùng với tình trạng ly hôn ngày một gia tăng thì việc
chia tài sản giữa vợ chồng là một yêu cầu hợp lý. Và vấn đề phải đảm bảo quyền
bình đẳng giữa vợ chồng là một nhiệm vụ cần thực hiện.
3. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
Trước tình hình thực tế về chia tài sản giữa vợ chồng trong những năm qua
mặc dù đã đạt được những kết quả tốt đẹp, đáp ứng được nhu cầu, nguyện vọng và
đảm bảo quyền lợi cho cả đôi bên thì còn có không ít những trường hợp xảy ra
mâu thuẫn, bất đồng giữa vợ chồng sau khi chia tài sản. Một điều dễ thấy trong các
vụ án về chia tài sản giữa vợ chồng, người vợ thường là người phải chịu thiệt thòi
hơn. Đó là do phong tục tập quán và tư tưởng lạc hậu luôn bảo vệ quyền lợi của
người chồng vốn dĩ đã ăn sâu vào tiềm thức của mọi tầng lớp trong xã hội. Người
phụ nữ còn có thái độ tự ti an phận không muốn tự đòi quyền lợi cho mình. Bên
cạnh đó là công tác tuyên truyền pháp luật vẫn chưa sâu rộng dẫn đến sự hiểu biết
về pháp luật còn quá ít. Chính vì thế vẫn tồn tại sự bất bình đẳng giữa vợ chồng
trong việc chia tài sản.
Tuân thủ và thực hiện nguyên tắc quyền bình đẳng trong việc chia tài sản
giữa vợ chồng là yêu cầu bắt buộc với tất cả các cơ quan, tổ chức và mọi cá nhân
trong xã hội. Làm được điều đó sẽ góp phần xóa bỏ chế độ HN&GĐ phong kiến
lạc hậu đồng thời củng cố và xây dựng chế độ HN&GĐ Xã Hội chủ nghĩa đặc biệt
là bảo vệ quyền lợi chính đáng cho người phụ nữ, giải phóng họ khỏi thân phận lệ
thuộc và bất bình đẳng trong gia đình cũng như trong mọi lĩnh vực của đời sống xã
hội.
Nghiên cứu về quyền bình đẳng giữa vợ chồng trong việc chia tài sản là việc
làm thiết thực và có nhiều ý nghĩa. Xuất phát từ lý do đó tôi chọn đề tài “Quyền
bình đẳng giữa vợ chồng trong việc chia tài sản theo pháp luật Hôn nhân gia
đình hiện hành” làm đề tài cho khóa luận tốt nghiệp của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Qua tìm hiểu các công trình nghiên cứu khoa học về lĩnh vực HN&GĐ đã có
nhiều bài viết về tài sản vợ chồng trên Tạp chí Luật học, Tạp chí Dân chủ và Pháp
luật, Tạp chí Tòa án nhân dân… đề cập đến những khía cạnh khác nhau của tài sản
vợ chồng: Ví như “Quyền sở hữu của vợ chồng theo luật Hôn nhân và gia đình
4. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
2000” (Nguyễn Văn Cừ, Tạp chí Luật học số 4/2000. Tr. 3); “Hậu quả pháp lý của
việc chia tài sản vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân” (Nguyễn Phương Lan, Tạp chí
Luật học số 6/2002)… Ngoài ra cũng đã có những khóa luận tốt nghiệp cử nhân và
luận văn thạc sĩ luật học nghiên cứu về vấn đề tài sản vợ chồng như luận văn tốt
nghiệp cao học luật khóa I của Th¹c sü Hoàng Ngọc Huyên với nội dung “Chế độ
tài sản vợ chồng theo luật Hôn nhân và gia đình” và gần đây nhất là công trình
khoa học “Chế độ tài sản vợ chồng theo luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam”
được thầy giáo Nguyễn Văn Cừ bảo vệ thành công luận án tiến sĩ vào đầu năm
2005. Đây thực sự là những công trình có giá trị về khoa học và thực tiễn, nhưng
những công trình này chủ yếu tập trung đi vào phân tích những khía cạnh chế độ
tài sản của vợ chồng theo luật HN&GĐ hiện hành chứ chưa nghiên cứu dưới góc
độ bình đẳng giới. Chính vì vậy vấn đề “Quyền bình đẳng giữa vợ chồng trong
việc chia tài sản theo pháp luật Hôn nhân và gia đình hiện hành” mặc dù đã được
nghiên cứu và trình bày trong giáo trình Luật HN&GĐ Việt Nam của Trường Đại
Học Luật Hà Nội và trong các giáo trình giảng dạy luật học tại các cơ sở đào tạo
luật học ở nước ta, nhưng việc trình bày đó chỉ dừng lại ở một số vấn đề mang tính
nguyên tắc mà không đi sâu vào giải quyết toàn diện vấn đề liên quan, đặc biệt là
dưới khía cạnh bình đẳng giới.
3. Mục đích, phạm vi nghiên cứu đề tài
Mục đích nghiên cứu của đề tài là làm rõ quyền bình đẳng giữa vợ chồng
trong các trường hợp chia tài sản của vợ chồng theo pháp luật HN&GĐ Việt Nam
và đưa ra những kiến nghị về việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật nhằm đảm bảo
cho quyền bình đẳng đó được triệt để tuân thủ trong thực tế.
Phạm vi nghiên cứu đề tài: Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu những vấn đề
chia tài sản của vợ chồng dưới góc độ bình đẳng giới theo pháp luật Việt Nam. Đề
tài không bao gồm việc nghiên cứu những vấn đề chia tài sản của vợ chồng có yếu
tố nước ngoài.
5. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
4. Phương pháp nghiên cứu
Việc nghiên cứu, đánh giá các vấn đề trong khãa luận nhất quán dựa trên cơ
sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lê Nin về chủ nghĩa duy vật biện chứng
và chủ nghĩa duy vật lịch sử, các quan điểm của Đảng và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Để đạt được mục đích nghiên cứu tác giả có sử dụng kết hợp nhiều phương pháp
như: phân tích, tổng hợp, so sánh…
5. Cơ cấu khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo khóa luận còn có
phần nội dung được cơ cấu thành 3 chương:
Chương I: Khái quát chung về quyền bình đẳng giữa vợ chồng trong việc
chia tài sản.
Chương II: Quyền bình đẳng giữa vợ chồng trong việc chia tài sản theo quy
định của pháp luật hiện hành.
Chương III: Thực tiễn bảo vệ quyền bình đẳng giữa vợ chồng trong việc
chia tài sản và một số giải pháp hoàn thiện pháp luật.
6. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
CHƯƠNG I
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ QUYỀN BÌNH ĐẲNG GIỮA VỢ CHỒNG
TRONG VIỆC CHIA TÀI SẢN
1. Khái niệm chung
1.1. Khái niệm giới, giới tính, bình đẳng giới
1.1.1. Khái niệm giới
“Giới” là phạm trù chỉ mối quan hệ xã hội giữa nam giới và phụ nữ, biểu
hiện cách thức phân định xã hội giữa hai đối tượng này, có liên quan đến các vấn
đề thuộc về thể chế xã hội.
Các vai trò giới khác với các vai trò giới tính – mang đặc điểm sinh học.
Những vai trò khác nhau này chịu ảnh hưởng bởi các nhân tố lịch sử, tôn giáo, kinh
tế, văn hóa và chủng tộc. Do vậy, vai trò giới của chúng ta không phải có từ khi
chúng ta được sinh ra mà là những điều chúng ta được dạy dỗ và thu nhận từ khi
còn nhỏ và trong suốt quá trình trưởng thành.
Các vai trò giới là sự hội tụ của những hành vi ứng xử được dạy dỗ về mặt
xã hội, mong muốn về những đặc điểm và năng lực xã hội coi là thuộc về đàn ông
hoặc thuộc về đàn bà (bé trai hay bé gái) trong một xã hội hay một nền văn hóa cụ
thể nào đó. Đó cũng là các mối quan hệ giữa phụ nữ và nam giới: ai nên làm gì, ai
là người ra quyết định, tiếp cận nguồn lực và các lợi ích. Thông thường mọi người
phải chịu rất nhiều áp lực buộc phải tuân thủ các quan niệm xã hội này.
Đặc điểm giới và các mối quan hệ giới là các khía cạnh quan trọng của một
nền văn hóa bởi chúng quyết định lối sống trong một gia đ×nh, ngoài cộng đồng và
nơi làm việc. Điều quan trọng là – các xã hội, các nền văn hóa, vai trò và mối quan
hệ giới liên tục được tái tạo và thay đổi. Nó sẽ thay đổi theo thời gian, chịu tác
động của nhiều nhân tố: xã hội, kinh tế, pháp lý, chính sách và đời sống dân sự.
Trong tiến trình đó, một số giá trị được tái khẳng định như quyền bình đẳng giữa
7. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
vợ chồng, trong khi một số khác bị xem xét lại không còn phù hợp nữa. Và tất
nhiên khi giới đã có sự bình đẳng thì trong quan hệ vợ chồng cũng sẽ có xu hướng
bình đẳng hơn.
1.1.2. Khái niệm giới tính
Giới tính là “những đặc điểm chung phân biệt nam với nữ, giống đực với
giống cái” (1)
“Giới tính là phạm trù chỉ sự khác biệt về mặt sinh học giữa nam giới và
phụ nữ, thể hiện các đặc điểm bẩm sinh mà khi con người sinh ra đã có. Ví dụ,
nam giới có thể làm thụ thai, nữ giới có thể sinh con và cho con bú”(2)
Các đặc điểm giới tính là tự nhiên và là đặc điểm sinh học. Vì vậy, đặc điểm
đó sẽ là thống nhất (ở mọi nơi đều giống nhau) và không thể thay đổi (dù ở châu Á
hay châu Âu chỉ phụ nữ mới có thể sinh con). Từ những đặc điểm là tự nhiên ấy
của giới tính cũng đã ít nhiều chi phối sự bình đẳng giữa nam và nữ, giữa vợ và
chồng nói chung. Bởi lẽ, khi các yếu tố sinh học của giới tính tác động đến quan hệ
vợ chồng thì xét ở một phương diện nào đó người vợ sẽ khó có được sự bình đẳng
với chồng ví dụ vấn đề thể lực. Và khi cần có sự bình đẳng giữa vợ chồng trong
việc chia tài sản thì yếu tố giới tính đã ít nhiều có sự tác động đến.
1.1.3. Khái niệm bình đẳng giới
Bình đẳng giới là sự thừa nhận và coi trọng như nhau các đặc điểm giống và
khác nhau giữa phụ nữ và nam giới. Họ cùng có vị thế ngang nhau và được tôn
trọng như nhau, có điều kiện và cơ hội bình đẳng để tham gia, đóng góp và thụ
hưởng các thành quả phát triển trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
Bình đẳng giới không có nghĩa nam giới và phụ nữ là hoàn toàn giống nhau,
được chia đều nhau quyền lực, quyền năng, nghĩa vụ hoặc trách nhiệm trong mọi
trường hợp, bởi họ không đồng nhất về đặc điểm sinh lý, thể trạng sức khỏe, nhu
1
Viện ngôn ngữ học, từ điển tiếng việt, NXB Đà Nẵng, Trung tâm từ điển học Hà Nội – Đà Nẵng, 2003, Tr.405
2
Ts. Đào Thị Hằng. “Vấn đề bình đẳng giới và những đảm bảo trong pháp luật lao động Việt Nam” – Đặc san về
bình đẳng giới. Tr. 10
8. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
cầu, chức năng xã hội, lợi ích… Bình đẳng giới đòi hỏi sự công bằng, sự nhận biết
và đánh giá đúng những mặt mạnh, mặt yếu của mỗi giới để từ đó có cách xử lý
phù hợp. Nếu nam giới và phụ nữ có điều kiện và năng lực ngang nhau, họ phải
được tạo cơ hội hoặc có trách nhiệm như nhau. Mặt khác, sự khác biệt giữa phụ nữ
và nam giới về các mặt cũng phải được thừa nhận và được tính đến đầy đủ khi
hoạch định và thực hiện các chính sách nhất định nhằm tạo điều kiện và cơ hội đầy
đủ cho các chủ thể; chủ thể yếu hơn phải được ưu tiên hơn để tạo thế cân bằng.
Bình đẳng giới vừa là vấn đề cơ bản về quyền con người, vừa là yêu cầu về sự phát
triển xã hội một cách công bằng, hiệu quả và bền vững.
Nói cách khác, bình đẳng giới là “phụ nữ và nam giới được coi trọng như
nhau, cùng được công nhận và có vị thế bình đẳng”.(3)
Bình đẳng giữa vợ chồng trong việc chia tài sản được xem là một khía cạnh
của bình đẳng giới. Công nhận và bảo vệ quyền bình đẳng về việc chia tài sản giữa
vợ chồng bằng pháp luật là điều kiện tiên quyết để xác lập quyền bình đẳng về
kinh tế giữa vợ và chồng trong thực tiễn. Đây cũng là cơ sở để phụ nữ có thể tiếp
cận, kiểm soát, tham gia và ra quyết định với nguồn lực kinh tế này.
1.2. Khái niệm thời kỳ hôn nhân
Theo Khoản 1 §iều 8 Luật HN&G§ n¨m 2000 thì “Thời kỳ hôn nhân là
khoảng thời gian tồn tại quan hệ vợ chồng, tính từ ngày đăng kí kết hôn đến ngày
chấm dứt hôn nhân”.(4)
Thời kì hôn nhân bắt đầu từ khi vợ chồng kết hôn và kết thúc khi hôn nhân
chấm dứt do vợ chồng ly hôn, do vợ, chồng chết hoặc bị Tòa án tuyên bố là đã
chết. Trong trường hợp vợ chồng ly hôn hoặc vợ, chồng bị Tòa án tuyên bố là đã
chết thì hôn nhân chấm dứt kể từ ngày bản án hoặc quyết định của Tòa án có hiệu
lực pháp luật.
3
Ủy ban quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam. “Giáo trình dành cho giảng viên về lồng ghép giới trong
hoạch định và thực thi chính sách”, Hà Nội 2004. Tr41
4
Luật Hôn nhân và gia đình và các văn bản hướng dẫn thi hành, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.2002. Tr.13.
9. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
Việc xác định thời kỳ hôn nhân trong trường hợp đặc biệt: Nam nữ chung
sống như vợ chồng thì theo Nghị Quyết 35/2000/NQ-QH10 ngày 9/6/2000 của
Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về việc thi hành Luật
HN&G§ và Thông tư liên tịch số 01/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP ngày
3/1/2001 của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Bộ Tư
Pháp hướng dẫn thi hành Nghị Quyết 35/2000 đã quy định như sau:
Quan hệ vợ chồng được xác lập trước ngày 3/1/1987 sau đó họ mới đăng kí
kết hôn thì quan hệ vợ chồng của họ được công nhận là đã xác lập kể từ ngày họ
bắt đầu chung sống với nhau như vợ chồng mµ không phải từ ngày đăng kí kết
hôn.
Nam nữ chung sống như vợ chồng từ sau ngày 1/1/2003 mà không đăng kí
kết hôn thì họ không được công nhận là vợ chồng và không được xác lập thời kỳ
hôn nhân.
Nam nữ chung sống như vợ chồng từ sau ngày 1/1/2003 họ mới đăng kí kết
hôn thì quan hệ vợ chồng của họ chỉ được công nhận là đã xác lập kể từ ngày họ
đăng kí kết hôn. Vµ thời kỳ hôn nhân được bắt đầu kể từ ngày đăng kí kết hôn.
Nam nữ chung sống như vợ chồng bắt đầu từ ngày 1/1/2001 trở đi mà không
đăng kí kết hôn thì pháp luật không công nhận là vợ chồng và thời kỳ hôn nhân
không được xác lập.
Như vậy việc xác định thời kỳ hôn nhân có ý nghĩa rất quan trọng trong việc
giải quyết các vụ kiện liên quan đến quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đặc biệt là
trong việc chia tài sản. §ã lµ mét trong nh÷ng c¬ së đảm bảo quyền bình đẳng và
quyền lợi chính đáng cho cả hai bên.
1.3. Khái niệm tài sản, quyền sở hữu tài sản của vợ chồng, chia tài sản của vợ
chồng
1.3.1. Khái niệm tài sản
Có nhiều cách định nghĩa về tài sản:
10. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
“Tài sản là của cải vật chất hoặc tinh thần có giá trị đối với chủ sở hữu”(5)
Theo cách định nghĩa này thì tài sản bao gồm những thứ hiện hữu, có giá trị
trực tiếp phục vụ cho đời sống của con người và những giá trị tinh thần không đem
ra đo đếm được. Tài sản luôn có giá trị, đặc biệt đối với người sở hữu nó.
Còn theo Bộ Luật Dân Sự n¨m 2005 quy định: “Tài sản bao gồm vật, tiền,
giấy tờ có giá và các quyền tài sản” (6)
- Vật chính là đối tượng của thế giới vật chất có thể đáp ứng được nhu cầu
nào đó (vật chất) của con người, nằm trong sự chiếm hữu của con người và có đặc
trưng giá trị để con người sử dụng.
- Tiền và giấy tờ có giá được xác định là những loại tài sản có tính chất là
các phương tiện thanh toán có giá trị với con người.
- Quyền tài sản: Đây là những quyền gắn liền với tài sản mà khi thực hiện
các quyền đó chủ sở hữu sẽ có được một tài sản. Đó là các quyền đòi nợ, quyền sử
dụng đất, quyền sở hữu đối với phát minh, sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, nhãn
hiệu hàng hóa. Các quyền này phải giá trị được bằng tiền và có thể chuyển giao
trong giao lưu dân sự.
1.3.2. Khái niệm quyền sở hữu tài sản của vợ chồng
Dưới góc độ pháp lý, tài sản của vợ chồng có thể hiểu là tổng hợp các quy
phạm pháp luật điều chỉnh về vấn đề tài sản vợ chồng bao gồm các quy định về căn
cứ xác lập tài sản vợ chồng, quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đối với tài sản chung,
tài sản riêng, căn cứ thay đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ về tài sản của vợ chồng.
Dưới góc độ pháp luật HN&G§ thì quyền sở hữu tài sản của vợ chồng được
hiểu là quyền sở hữu đối với tài sản chung và quyền sở hữu đối với tài sản riêng
của vợ chồng.
5
Viện ngôn ngữ học, Từ điển tiếng việt 2003, Nxb Đà Nẵng. Trung tâm từ điển học, Hà Nội – Đà Nẵng 2003. Tr.
884
6
Bộ luật dân sự 2005. Điều 163. Tr.83
11. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
Quyền sở hữu đối với tài sản chung của vợ chồng: Tài sản chung của vợ
chồng bao gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra trong thời kỳ hôn nhân, thu nhập do lao
động, hoạt động sản xuất, kinh doanh và những thu nhập hợp pháp khác của vợ
chồng trong thời kỳ hôn nhân. Tài sản được tặng cho chung, được thừa kế chung
hoặc tài sản mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung. Quyền sử dụng đất mà vợ
chồng có sau khi kết hôn cũng là tài sản chung của vợ chồng (Điều 27 Luật
HN&GĐ năm 2000).
Tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất. Vợ chồng có
quyền ngang nhau trong việc sở hữu tài sản chung đó. Như vậy, bình thường chúng
ta không thể xác định được phần tài sản nào là của vợ, phần tài sản nào là của
chồng mà chỉ khi cần phải chia tài sản chung vợ chồng thì mới xác định được phần
tài sản của từng người trong khối tài sản chung ấy. Trong gia đình, vợ chồng là
“đồng sở hữu chủ” đối với tài sản chung nên “vợ chồng đều có quyền vµ nghÜa
vô ngang nhau trong việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung” (Điều 28
Luật Hôn nhân gia đình 2000), nhằm đảm bảo nhu cầu đời sống chung của gia
đình.
Sự “ngang nhau” trong việc sử dụng tài sản chung nhưng không có nghĩa là
tài sản chung đó phải do cả hai vợ chồng cùng chiếm giữ, quản lý. Tài sản chung
của vợ chồng có thể do một bên chiếm hữu, sử dụng và định đoạt theo những điều
kiện mà pháp luật cho phép.
Vợ chồng có quyền và nghĩa vụ ngang nhau trong việc sử dụng tài sản
chung. Đó là sự khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản chung nhưng
phải vì lợi ích của vợ chồng và các thành viên trong gia đình. Vợ chồng phải có
nghĩa vụ sử dụng tài sản chung đúng mục đích luật định. Nếu có sự gian dối trong
việc sử dụng tài sản chung làm ảnh hưởng đến lợi ích của vợ, chồng và gia đình
đều bị coi là trái pháp luật.
12. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
Vợ chồng có quyền ngang nhau trong việc định đoạt tài sản chung. Mọi giao
dịch dân sự liên quan đến tài sản chung có giá trị lớn hoặc dùng tài sản chung để
đầu tư kinh doanh, hoặc tài sản chung là nguồn sống duy nhất của gia đình thì về
nguyên tắc phải có sự thỏa thuận của hai vợ chồng. Đó chính là sự bình đẳng giữa
vợ và chồng trong việc chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản chung.
Quyền sở hữu đối với tài sản riêng của vợ chồng: Tài sản riêng của vợ,
chồng bao gồm tài sản có trước khi kết hôn, tài sản được tặng cho riêng, được thừa
kế riêng trong thời kỳ hôn nhân, tài sản được chia riêng trong thời kỳ hôn nhân, đồ
dùng tư trang cá nhân… (Điều 32 Luật HN&GĐ năm 2000). Vợ, chồng có toàn
quyền trong việc chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản riêng của mình phù hợp
với quy định của pháp luật. Vợ, chồng có quyền tặng, cho, mua bán, trao đổi tài
sản riêng của mình với bất cứ chủ thể nào một cách độc lập và bình đẳng. “Vợ
chồng có quyền nhập hoặc không nhập tài sản riêng vào khối tài sản chung”(7)
.
Quyền “tự định đoạt” của vợ, chồng đối với tài sản riêng của mình chính là
sự bình đẳng mà pháp luật đã thừa nhận và bảo đảm thực hiện. Nó cho phép người
có tài sản riêng nhập hay không nhập tài sản đó vào khối tài sản chung mà không
bên nào có quyền ép buộc bên nào. Mặc dù “Tài sản riêng của vợ, chồng cũng
được sử dụng vào các nhu cầu thiết yếu của gia đình trong trường hợp tài sản
chung không đủ đáp ứng” (Khoản 4 Điều 33 LuËt HN&G§ n¨m 2000) thực chất
đã hạn chế quyền sở hữu tài sản riªng của vợ chồng, nhưng quy định đó không làm
ảnh hưởng đến quyền bình đẳng của vợ chồng trong sở hữu tài sản riêng vì nó
nhằm đảm bảo nhu cầu đời sồng chung của gia đình.
1.3.3. Khái niệm chia tài sản của vợ chồng
Chia tài sản của vợ chồng theo Luật HN&G§ là tổng hợp các quy phạm pháp
luật do Nhà nước ban hành quy định về nguyên tắc phân chia, căn cứ phân chia,
7
Luật Hôn nhân và gia đình 2000 Khoản 2 Điều 32. Nxb Chính tri quốc gia Hà Nội 2002. Tr. 23.
14. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
định quan hệ HN&G§. Đó chính là cơ sở để đảm bảo một gia đình dân chủ, hòa
thuận và hạnh phúc.
Quy định về quyền bình đẳng trong việc chia tài sản của vợ chồng góp phần
thúc đẩy quá trình xã hội hóa theo xu hướng bình đẳng thực sự từ trong gia đình
đến cả xã hội, tiến tới mục tiêu bình đẳng giới trên toàn thế giới.
2.2. Ý nghĩa về xã hội
Từ thực tế cuộc sống cho thấy, do bị ảnh hưởng bởi những tư tưởng lạc hậu,
phong kiến nên vẫn tồn tại trong xã hội sự bất bình đẳng giữa nam và nữ, giữa vợ
và chồng. Sự bất bình đẳng ấy đã đẩy người phụ nữ vào tình trạng lệ thuộc, không
có sự đảm bảo về quyền lợi chính đáng của mình. Quyền bình đẳng giữa vợ và
chồng trong việc chia tài sản được khẳng định và thể hiện là một nhu cầu cấp thiết,
góp phần bảo vệ quyền lợi của người vợ, đẩy lùi tư tưởng lạc hậu phong kiến, xây
dựng chế độ xã hội chủ nghĩa thực sự dân chủ và bình đẳng ở nước ta.
Đặc biệt trong điều kiện kinh tế, xã hội đang phát triển theo hướng thị
trường hóa hiện nay, sự đa dạng hóa các mối quan hệ đã ảnh hưởng không nhỏ tới
vấn đề tài sản của vợ chồng. Đó là, khi họ muốn kinh doanh riêng cần phải sử dụng
một phần tài sản chung mà không muốn ly hôn hay vì một lý do nào khác thì việc
đảm bảo quyền bình đẳng khi chia tài sản giữa vợ chồng là hoàn toàn cần thiết và
phù hợp với thực tiễn.
Quyền bình đẳng giữa vợ và chồng trong việc chia tài sản là một trong
những cơ sở góp phần triển khai các chương trình bình đẳng về giới, tránh bạo lực
trong gia đình như: Hội Liên Hiệp Phụ Nữ Việt Nam đã phát động phong trào “Vì
sự nghiệp giải phóng phụ nữ”, “Vì sự tiến bộ của phụ nữ”. Tất cả những ý nghĩa
xã hội đó đều hướng tới sự bình đẳng giữa vợ chồng, sự bình đẳng trong xã hội –
cái mà xã hội ta đang vươn tới.
15. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
3. Sơ lược sự phát triển của pháp luật Việt Nam về quyền bình đẳng giữa vợ
chồng trong việc chia tài sản
3.1. Quyền bình đẳng giữa vợ và chồng trong việc chia tài sản theo pháp luật
thời kỳ phong kiến
Trong cổ luật Việt Nam – ngay từ thời Lý – Trần (Thế kỉ XI – Thế kỉ XIV)
đã có quy định liên quan đến HN&G§ nhưng sử liệu ghi chép không toàn diện nên
rất khó cho việc tìm hiểu và nghiên cứu. Vì vậy, Bộ Quốc Triều Hình Luật (thường
gọi là Bộ Luật Hồng Đức) ban hành dưới thời Lê (thế kỉ XV) và Hoàng Việt Luật
Lệ (thường gọi là Bộ Luật Gia Long) ban hành dưới thời Nguyễn (năm 1815) ra
đời được coi là hai bộ luật tiêu biểu nhất cho chế độ HN&GĐ phong kiến Việt
Nam.
Chế độ tài sản được thể hiện trong hai bộ luật này là chế độ tài sản cộng
đồng toàn sản. Bao gồm:
- Tài sản người chồng có trước khi kết hôn gọi là phu điền sản.
- Tài sản người vợ mang từ nhà mẹ đẻ về nhà chồng khi kết hôn gọi là thê
điền sản.
- Tài sản vợ chồng cùng nhau tạo ra trong thời gian chung sống gọi là tần tảo
điền sản.
Như vậy tài sản chung của vợ chồng trong thời kì này gọi là tần tảo điền sản.
Trong một số quy định của Bộ Quốc Triều Hình Luật và Hoàng Việt Luật Lệ thì
vợ chồng có thể chia tài sản chung khi một bên chết hoặc khi vợ chồng ly hôn:
Trường hợp vợ chồng ly dị nếu có con chung thì tài sản sẽ để lại nuôi con, người
vợ không có con thì có thể được mang tài sản về nhưng nếu là thời gian sống dài
mà không sinh con. Nhưng nếu phạm vào thất suất sẽ không được mang thê điền
sản về nhà mình.
Đó là sự bất bình đẳng trong việc chia tài sản giữa vợ chồng. Yếu tố lỗi của
người vợ là yếu tố quyết định phần tài sản mà người vợ được mang về khi ly hôn,
16. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
thể hiện sự coi trọng quyền lợi của người chồng mà coi nhẹ vị trí của người vợ.
Người vợ luôn phải chịu thiệt thòi khi chia tài sản chung với chồng
Trong pháp luật phong kiến, sự bất bình đẳng giữa vợ chồng trong việc chia
tài sản là không tránh khỏi bởi ảnh hưởng của tư tưởng nho giáo, người chồng
được coi là chủ gia đình (gia trưởng) còn người vợ thì phải “tứ đức” và tuân theo
thuyết“tam tòng”. Vì vậy vai trò của người phụ nữ rất mờ nhạt, họ hoàn toàn lệ
thuộc vào người chồng nên người chồng có toàn quyền trong việc quản lý, sử dụng
tài sản trong gia đình, kể cả khi tài sản đó là cộng đồng tài sản.
Tuy nhiên, bên cạnh sự bất bình đẳng ấy thì chúng ta còn tìm thấy một số
quy định tiến bộ, thể hiện sự bình đẳng nhằm bảo vệ quyền lợi của người vợ trong
việc chia tài sản giữa vợ chồng. Về nguyên tắc, chỉ vợ chồng được xác định là
những chủ thể trong việc chia tài sản chung. Việc phân định thê điền sản, phu điên
sản và cho phép người vợ khi ly hôn có thể lấy lại thê điên sản được coi là một
bước tiến bộ đặc biệt của pháp luật thời kỳ này, quyền sở hữu tài sản của người vợ
đã được thừa nhận.
Điều 375 Bộ Quốc Triều Hình Luật quy định: “Tài sản của vợ chång làm ra
thì chia làm hai, vợ chồng mỗi người được một phần nếu một trong hai người chết
mà chưa có con”, và khi ly hôn thì người vợ giữ lại tài sản của mình, kể cả những
gì trước đây đã được chồng tặng… Đó là một quan điểm tiến bộ ghi nhận sự bình
đẳng tương đối trong hai bộ luật mang sắc thái Việt Nam thuần túy. Đó cũng là
một sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa hướng nho và phong tục tập quán dân tộc bản
địa. Sự tiến bộ ấy là một trong những cơ sở quan trọng để hình thành nên quyền
bình đẳng giữa vợ chồng trong việc chia tài sản được quy định trong pháp luật hiện
hành.
17. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
3.2. Quyền bình đẳng giữa vợ chồng trong việc chia tài sản theo pháp luật thời
kỳ pháp thuộc
Trước cách mạng tháng 8 năm 1945 Việt Nam là một nước thuộc địa nửa
phong kiến. Với việc duy trì quan hệ sản xuất phong kiến thì nền kinh tế, xã hội
của đất nước luôn ở trình độ lạc hậu đi liền với những hủ tục đã ăn sâu từ nhiều thế
kỷ trước. Thực dân pháp và giai cấp địa chủ phong kiến đã lợi dụng chế độ
HN&GĐ phong kiến đang tồn tại ở nước ta để củng cố nền thống trị của chúng.
Sau khi đề ra chính sách “chia để trị” thực dân pháp đã tiến hành chia nước
ta làm ba miền với ba sự cai quản riêng: Bắc kỳ và Trung kỳ là xứ bảo hộ của
pháp, Nam kỳ là thuộc địa của pháp, cùng với đó thực dân pháp đã cho ban hành
ba bộ dân luật ở ba miền:
- Ở Bắc kỳ theo Bộ Dân Luật 1931
- Ở Trung kỳ theo Bộ Dân Luật 1936
- Ở Nam kỳ theo Tập Giản Yếu 1883
Mặc dù mỗi bộ luật được ban hành để áp dụng riêng cho từng miền nhưng
nội dung của ba bộ luật trên đều toát lên những điểm chung của chế độ HN&G§
Việt Nam thời bấy giờ. Một trong những điểm chung đó là sự bảo vệ quyền lợi của
người chồng “thực hiện nguyên tắc bất bình đẳng giữa vợ với chồng với quan
niệm “thuyền theo lái, gái theo chồng”, “phu xướng phụ tùy” (8)
Tại Điều 112 Dân Luật Bắc Kỳ quy định:
“Khi nào vì sự ly hôn mà thành ra tiêu việc giá thú, nếu người vợ bị ly hôn
đã có con thì được một phần trong tài sản chung, phần ấy sẽ tùy theo kỷ phần của
người vợ đã góp vào hoặc đã tăng thêm cho của chung. Nếu người vợ vì sự gian
thông mà bị ly hôn thì cái phần ấy sẽ bị bớt đi một nửa”.
8
Trường Đại Học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội
2002. Tr.58
18. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
Đây là trường hợp chia tài sản của vợ chồng khi ly hôn nhưng quy định đó
không đảm bảo được quyền lợi của người vợ. Vì khi ly hôn nếu người vợ đã có
con thì được một phần trong tài sản chung và phần ấy được nhiều hay ít tùy thuộc
vào công sức đóng góp trước đó của người vợ là bao nhiêu vào khối tài sản chung
của vợ chồng mà không phải là sự chia đôi, ngang bằng. Mặt khác, yếu tố lỗi của
người vợ là một yếu tố quan trọng để quyết định “kỷ phần” mà người vợ được
mang theo hay không khi ly hôn, Đó là trường hợp nếu người vợ “gian thông”.
Mặc nhiên quy định này hoàn toàn không đề cập đến lỗi của người chồng và điều
đó cũng chính là sự bất bình đẳng mà pháp luật thừa nhận giữa vợ với chồng khi
chia tài sản. Song do điều kiện kinh tế, xã hội còn quá nghèo nàn, dưới ách thống
trị của chế độ thực dân nửa phong kiến và ảnh hưởng của tư tưởng nho giáo luôn
bảo vệ quyền lợi của người người chồng và giai cấp thống trị thì sự bất bình đẳng
với người vợ là điều khó tránh khỏi.
3.3. Quyền bình đẳng giữa vợ chồng trong việc chia tài sản theo pháp luật thời
kỳ từ Cách mạng tháng tám năm 1945 đến nay
3.3.1. Giai đoạn 1945 – 1954
Cách mạng tháng tám thành công, nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời,
đồng thời với đó là sự ra đời của Hiến pháp năm 1946. Với tính chất là đạo luật cơ
bản tạo cơ sở pháp lý để Nhà nước ta ban hành các văn bản pháp luật khác nhau
điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong xã hội, trong đó có các quan hệ về
HN&GĐ.
Điều 9 Hiến pháp năm 1946 quy định: “Đàn bà ngang quyền với đàn ông về
mọi phương diện” nhưng vào thời điểm đất nước đang gặp khó khăn trong tình
trạng “ngàn cân treo sợi tóc” với ba thứ giặc tràn lan thì chúng ta chưa xây dựng
ngay được một văn bản Luật HN&GĐ để thể chế hóa quy định tại Điều 9 Hiến
pháp năm 1946.
19. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
Đến năm 1950, Nhà nước ta đã ban hành sắc lệnh đầu tiên điều chỉnh quan
hệ HN&GĐ, đó là Sắc lệnh 97- SL ngày 22/2/1950 về sửa đổi một số quy lệ và chế
định trong dân luật và Sắc lệnh số 159- SL ngày 17/11/1950 quy định về vấn đề ly
hôn. Một trong những nội dung của hai sắc lệnh này là phản ánh nguyên tắc “nam
nữ bình đẳng” và nguyên tắc “ người chồng và người vợ có địa vị bình đẳng trong
gia đình”.
Rõ ràng đây là những quy định mới và tiến bộ trong pháp luật về HN&GĐ
đã góp phần đáng kể vào việc xóa bỏ chế độ HN&GĐ phong kiến lạc hậu, góp
phần vào sự nghiệp giải phóng phụ nữ khỏi chế độ đó, thúc đẩy sự phát triển của
xã hội Việt Nam trong thời kỳ Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Tuy nhiên cả
hai sắc lệnh này vẫn chưa thể hiện đầy đủ và chặt chẽ về chế độ tài sản cũng như
vấn đề chia tài sản giữa vợ chồng nên quyền bình đẳng giữa vợ chồng trong việc
chia tài sản cũng chưa được thể hiện một cách rõ nét.
3.3.2. Giai đoạn 1954 – 1975
Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của nhân dân ta đã thắng lợi (n¨m
1954) nhưng đất nước ta vẫn tạm thời bị chia cắt làm hai miền với hai chế độ chính
trị khác biệt. Miền bắc được giải phóng, bước vào thời kỳ quá độ xây dựng chủ
nghĩa xã hội. Miền nam tiếp tục cuộc Cách mạng dân tộc, dân chủ, đấu tranh thống
nhất nước nhà. Chính sự khác biệt đó làm cho hệ thống pháp luật điều chỉnh hai
miền cũng khác nhau.
Ở miền Bắc, chế độ HN&G§ phong kiến lạc hậu vẫn còn ảnh hưởng sâu sắc
trong đời sống nhân dân nên cần phải xóa bỏ triệt để những tàn tích đó, xây dựng
chế độ HN&GĐ xã hội chủ nghĩa. Cùng với việc ban hành Hiến pháp năm 1959
vào 31/12/1959 Quốc hội khóa I đã chính thức thông qua dự luật HN&GĐ ngày
29/12/1959. Một trong những nguyên tắc cơ bản được đề ra đó là nguyên tắc nam
nữ bình đẳng, bảo vệ quyền lợi của người phụ nữ trong gia đình.
20. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
Vấn đề chia tài sản giữa vợ chồng trong Luật HN&GĐ năm 1959 đã có sự
quy định cụ thể hơn so với các văn bản pháp luật về HN&GĐ trước đó. Ví dụ “Khi
ly hôn, việc chia tài sản sẽ căn cứ vào sự đóng góp công sức vào của mỗi bên, vào
tình hình tài sản và tình trạng cụ thể của gia đình. Lao động trong gia đình được
kể như lao động sản xuất. Khi chia phải bảo vệ quyền lợi của người vợ, của con
cái và lợi ích của việc sản xuất”. (Điều 29 Luật HN&GĐ năm 1959). Nhưng luật
không quy định chi tiết về cách chia tài sản giữa vợ chồng như thế nào và sự bình
đẳng ở đây còn mờ nhạt, không rõ ràng. Tuy nhiên đó vẫn là công cụ pháp lý của
Nhà nước ta phục vụ lợi ích của nhân dân lao động, là cơ sở mới để từng bước xây
dựng quyền bình đẳng giữa vợ chồng trong hệ thèng pháp luật HN&GĐ nước ta.
Việc căn cứ vào công sức đóng góp mà luật HN&GĐ năm 1959 đề cập đến cũng
chưa thể hiện sự bình đẳng của vợ chồng trong việc chia tài sản khi ly hôn. §ång
thêi còng không hề đề cập đến nguyên tắc chia đôi tài sản của vợ chồng khi ly hôn.
Cã thể do Luật HN&GĐ năm 1959 quy định tài sản chung của vợ chồng là tài sản
có trước và sau khi cưới nên khi ly hôn phải chia theo công sức đóng góp để đảm
bảo quyền và lợi ích của mỗi bên vợ chồng, phần nào tránh được việc kết hôn vì
mục đích kinh tế. Tuy nhiên, điều này cũng cho thấy việc quy định về vấn đề tài
sản của vợ chồng theo Luật HN&GĐ năm 1959 là chưa hoàn toàn phù hợp, chưa
thể hiện được triệt để nguyên tắc vợ chồng bình đẳng, đặc biệt là bình đẳng trong
việc chia tài sản của vợ chồng.
Ở miền Nam, sau năm 1954 Đế Quốc Mỹ đã thay chân thực dân Pháp thực
hiện âm mưu chia cắt lâu dài đất nước ta, tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược kiểu
mới. Các văn bản pháp luật HN&G§ do Nhà nước tay sai phản động của ngụy
quyền Sài Gòn ban hành như:
- Luật Gia đình ngày 2/1/1959 (Luật số 1-59) dưới chế độ Ngô Đình Diệm.
- Sắc luật 15/64 ngày 23/7/1964 về Giá thú, tử hệ và tài sản cộng đồng.
- Bộ dân luật 20/12/1972 dưới chế độ Nguyễn Văn Thiệu.
21. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
Cả ba văn bản pháp luật này tuy đã hủy bỏ chế độ đa thê song vẫn duy trì
quyền gia trưởng của người chồng. Những quy định về chế độ tài sản cũng chỉ
nghiêng về bảo vệ quyền lợi cho người chồng. Người vợ có toàn quyền quản lý tài
sản khi người chồng không thể bày tỏ ý chí được vì thất tung hoặc đi xa vắng. Tuy
về mặt quản lý tài sản thì người vợ không được bình đẳng như người chồng nhưng
khi ly hôn hoặc ly thân thì người vợ sẽ được nhận lại phần tài sản riêng của họ
(Điều 204, Dân Luật Sài Gòn). Và ngay cả trong khi hôn nhân đang tồn tại thì cả
vợ và chồng đều có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết chế độ biệt sản, nhưng đều
phải có lý do theo luật định và phải được Tòa án công nhận bằng một án biệt sản.
(Điều 165 - Dân Luật Sài Gòn).
Như vậy, vấn đề chia tài sản giữa vợ chồng đã được đề cập đến trong những
văn bản pháp luật này nhưng cũng còn rất khái quát, mờ nhạt, chưa thể hiện được
quyền bình đẳng giữa vợ chồng thậm chí vẫn là sự bất bình đẳng vốn đã tồn tại lâu
đời ở nước ta.
3.3.3. Giai đoạn 1975 – 2000
Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước thắng lợi (30/4/1975), cả nước thống
nhất đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Với tình hình mới đó thì việc áp dụng Luật
HN&GĐ năm 1959 có một số điều không phù hợp nữa. Vì vậy ngày 29/12/1986
Dự Luật HN&GĐ mới đã được Quốc hội Khóa VII kỳ họp thứ 12 thông qua. Luật
HN&GĐ năm 1986 được xây dựng và thực hiện trên các nguyên tắc tiến bộ. Và
một trong những sự tiến bộ đó là nguyên tắc vợ chồng bình đẳng mà nhất là bình
đẳng trong việc chia tài sản giữa vợ chồng.
Theo luật này, việc chia tài sản giữa vợ chồng được quy định tại các §iều 17,
18, 42 mà nội dung là sự ghi nhận việc thanh toán tài sản chung của vợ chồng
trong các trường hợp luật định, quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đối với tài sản đó.
Việc chia tài sản chung của vợ chồng khi hôn nhân đang tồn tại là quy định mới
của Luật HN&G§ n¨m 1986 so với Luật HN&GĐ năm 1959. Điều 18 Luật
22. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
HN&GĐ năm 1986 đã quy định: “Khi hôn nhân tồn tại, nếu một bên có yêu cầu và
có lý do chính đáng thì có thể chia tài sản chung của vợ chồng …”
Như vậy phải có yêu cầu của một bên vợ, chồng và có lý do chính đáng thì
Tòa án mới giải quyết việc chia tài sản chung của vợ chồng khi hôn nhân đang tồn
tại. Khi nhận được đơn của vợ, chồng, Tòa án phải xem xét xem lý do chia tài sản
chung của vợ chồng đã là “lý do chính đáng” chưa. Nếu là lý do chính đáng thì
Tòa án phải xác minh xem thực tế có đúng như vậy không hoặc đó chỉ là hình thức
để vợ chồng trốn tránh nghĩa vụ về tài sản …
Nghị quyết 01/NQ- HĐTP 20/1/1988 hướng dẫn:
“Lý do chính đáng: vợ chồng tính tình không hợp nhưng con cái đã lớn nên
không muốn ly hôn mà chỉ muốn ở riêng, do đó một bên hoặc cả hai bên xin chia
tài sản thì tài sản được chia như khi xử về ly hôn”.
Việc quy định về chia tài sản chung khi hôn nhân đang tồn tại là rất “cô
đọng”. Hướng dẫn của Nghị quyết 01 chưa đầy đủ, mới chỉ đưa ra một lý do chính
đáng. Điều ấy không tránh khỏi sự vân dụng tùy tiện của các cơ quan Tòa án gây
sai sót và không đảm bảo quyền lợi cho các bên.
Tuy nhiên so với Luật HN&G§ n¨m 1959 thì Luật HN&G§ n¨m 1986 đã quy
định chi tiết và rõ ràng hơn về quyền bình đẳng giữa vợ chồng trong việc chia tài
sản. Thể hiện ở quy định sự “chia đôi” tài sản của vợ chồng khi ly hôn và việc
chia tài sản, sử dụng, quản lý tài sản khi một bên vợ chồng chết. Điều đó đã khẳng
định đường lối của Đảng và Nhà nước trong việc giải phóng người phụ nữ, là cơ sở
pháp lý để Luật HN&G§ n¨m 2000 tiếp tục kế thừa, phát triển và đảm bảo quyền
bình đẳng giữa vợ chồng trong việc chia tài sản được thực hiện trong thực tế đời
sống hiện nay.
3.3.4. Giai đoạn từ năm 2000 đến nay
Sau hơn 10 năm thực hiện Luật HN&GĐ năm 1986, bước đầu quyền bình
đẳng giữa vợ chồng đã được khẳng định và thực thi. Tuy nhiên thực tiễn áp dụng
23. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
Luật HN&GĐ năm 1986 cho thấy những quy định còn mang tính khái quát, định
khung, chưa cụ thể. Việc áp dụng luật để giải quyết các tranh chấp từ các quan hệ
HN&GĐ đặc biệt là vấn đề chia tài sản vợ chồng gặp nhiều vướng mắc. Tình hình
đó đòi hỏi Nhà nước ta phải sửa đổi, bổ sung Luật HN&GĐ năm 1986 một cách
toàn diện. Theo đó, Quốc hội khóa X kỳ họp thứ 7 chính thức thông qua dự luật
HN&GĐ năm 2000 vào ngày 9/6/2000.
Luật HN&G§ năm 2000 tiếp tục kế thừa và phát triển hệ thống pháp luật
HN&GĐ, nguyên tắc “vợ chồng bình đẳng” tiếp tục được khẳng định là nguyên
tắc cơ bản của Luật. Theo Luật này, việc chia tài sản của vợ chồng được quy định
ở các Điều 29, 30, 31, 32, 95. Ngoài sù ghi nhận việc chia tài sản của vợ chồng khi
ly hôn thì Luật còn quy định cả việc chia tài sản vợ chồng khi hôn nhân đang tồn
tại cũng như khi một bên vợ, chồng chết hoặc bị Tòa án tuyên bố là đã chết. Hơn
thế cách chia mà Luật HN&GĐ năm 1986 áp dụng còn quá chung chung, chưa cụ
thể nguyên tắc chia đôi tài sản cũng như phương thức chia tài sản khi một bên vợ,
chồng chết và khi vợ chồng ly hôn. Bởi vậy, quyền bình đẳng giữa vợ chồng trong
việc chia tài sản theo Luật HN&GĐ năm 2000 quy định là phù hợp với thực tế, đáp
ứng được nhu cầu, tâm lý của mỗi cá nhân trong xã hội. Đã góp phần xóa bỏ những
phong tục tập quán lạc hậu của xã hội phong kiến Việt Nam, xóa bỏ quyền gia
trưởng, bảo vệ quyền bình đẳng cho phụ nữ cũng như bảo vệ quyền bình đẳng cho
cả hai vợ chồng khi chia tài sản trong thời đại kinh tế hội nhập như ngày nay.
Tóm lại, theo từng giai đoạn lịch sử, để phù hợp với sự nghiệp Cách mạng
của đất nước, phù hợp với tình hình phát triển của nền kinh tế và thực tiễn các quan
hệ HN&GĐ, Nhà nước ta đã kịp thời ban hành các văn bản pháp luật về HN&GĐ,
đặc biệt là các quy định bảo vệ quyền bình đẳng giữa vợ chồng trong việc chia tài
sản. Đó là công cụ pháp lý của Nhà nước ta nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của nhân dân lao động trong xã hội nói chung và bảo vệ quyền bình đẳng
24. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
trong việc chia tài sản giữa vợ chồng nói riêng. Góp phần xây dựng đất nước vững
mạnh, phát triển phồn vinh và những gia đình ấm no, bình đẳng và hạnh phúc.
CHƯƠNG II
QUYỀN BÌNH ĐẲNG GIỮA VỢ CHỒNG TRONG VIỆC CHIA TÀI SẢN
THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH
1. Nguyên tắc chung về quyền bình đẳng giữa vợ chồng trong việc chia tài sản
1.1. Nguyên tắc hiến định
1.1.1. Mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật
25. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
Điều 52 Hiến pháp năm 1992 đã quy định: “Mọi công dân đều bình đẳng
trước pháp luật”(9)
. Theo nguyên tắc này thì mỗi công dân bình đẳng trong quá
trình thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình. Bất cứ công dân nào, không phân biệt
người đó là ai, thành phần xã hội như thế nào, tình trạng tài sản ra sao, nắm giữ
chức vụ gì trong bộ máy nhà nước, theo tín ngưỡng tôn giáo nào đều có quyền và
nghĩa vụ như nhau. Luật pháp Nhà nước không thừa nhận bất kỳ một sự đặc quyền,
đặc lợi của bất kỳ một đối tượng, tầng lớp nào(10)
. Bình đẳng trước pháp luật còn
bao hàm cả nội dung bình đẳng nam nữ, bình đẳng vợ chồng. Đó là một trong
những tiêu chuẩn cơ bản để đánh giá mức độ tiến bộ của một xã hội là mức độ giải
phóng phụ nữ, giải phóng vị trí lệ thuộc của người vợ trong gia đình.
1.1.2. Công dân có quyền tự do kinh doanh theo quy định của pháp luật
Xuất phát từ Điều 57 Hiến Pháp năm 1992 công nhận: “Công dân có quyền
tự do kinh doanh theo quy định của pháp luật”. Cụ thể hóa quyền này, Bé Luật
Dân sự, Luật Doanh Nghiệp và một số văn bản pháp luật khác đã quy định cho các
chủ thể khi tham gia vào hoạt động kinh doanh có các quyền như: “thành lập
doanh nghiệp, lựa chọn ngành nghề, hình thức đầu tư, kinh doanh những ngành
nghề mà pháp luật không cấm”. Nền kinh tế thị trường mở ra nhiều cơ hội làm
giàu cho nhiều người, nhưng với sự vận động và những quy luật riêng thì kinh tế
thị trường đòi hỏi những người tham gia phải nắm bắt các cơ hội, nhạy bén với thị
trường và phải chủ động về vốn, có như vậy mới tồn tại được. Do vậy, việc quy
định của pháp luật HN&G§ về quyền bình đẳng trong việc chia tài sản của vợ
chồng để vợ chồng chủ động hơn trong việc tham gia hoạt động đầu tư, kinh doanh
là hoàn toàn phù hợp với những quy định của Hiến pháp, làm cho các quyền của
công dân được thùc thi trong cuộc sống.
1.1.3. Nguyên tắc nam nữ bình đẳng trong mọi lĩnh vực của xã hội
9
Hiến Pháp nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 (sửa đổi), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2004,
Tr.32.
10
Trường Đại Học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật Hiến Pháp Việt Nam, Nxb Công An Nhân Dân 2004. Tr.283.
26. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
Điều 63 Hiến pháp n¨m 1992 quy định: “Công dân nữ và nam có quyền
ngang nhau về mọi mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và gia đình”. Đây là sự
ghi nhận quyền bình đẳng về giới, với tư cách là công dân của nước Việt Nam xã
hội chủ nghĩa, phụ nữ và nam giới đều bình đẳng trước pháp luật.
Ghi nhận và bảo đảm thực hiện quyền bình đẳng giữa vợ chồng là vấn đề
luôn được Đảng và Nhà nước quan tâm. Điều 64 Hiến Pháp n¨m 1992 đã thể hiện
rõ điều đó: “Gia đình là tế bào của xã hội, nhà nước bảo hộ hôn nhân và gia đình
theo nguyên tắc tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng…”.
HN&G§ luôn là một vấn đề được sự quan tâm đặc biệt của một quốc gia nếu quốc
gia đó muốn ổn định và phát triển. Và vÊn ®Ò phải làm sao đảm bảo được quyền
bình đẳng cho các cặp vợ chồng trong mọi lĩnh vực mà đặc biệt là trong việc chia
tài sản vợ chồng là một nhiệm vụ cần phải thực hiện như Hiến pháp đã quy định.
1.2. Nguyên tắc chung của Luật Dân Sự
1.2.1. Nguyên tắc bình đẳng
Tại Điều 5 Bộ Luật Dân Sự năm 2005 đã ghi nhận trong quan hệ dân sự các
chủ thể đều bình đẳng, không được lấy bất cứ lý do nào về sự khác biệt để đối xử
không bình đẳng. Các chủ thể bình đẳng về năng lực pháp luật, về hình thức sở
hữu khi giao kết hợp đồng dân sự, đều được hưởng các quyền và phải gánh vác
những nghĩa vụ như nhau. Điều 8 Bộ luật này cũng quy định, trong quan hệ vợ
chồng, vợ, chồng là những chủ thể độc lập khi tham gia bất kỳ một giao dịch hợp
pháp mà bên kia không có quyền ngăn cản, các bên luôn phải tôn trọng quyền bình
đẳng đó. Có như vậy, thì gia đình mới hạnh phúc và xã hội mới phát triển được.
Mặt khác, các chủ thể phải luôn tôn trọng lợi ích của nhà nước, lợi ích công cộng,
quyền và lợi ích hợp pháp của người khác (Điều 10 Bộ Luật Dân Sự năm 2005).
Có nghĩa rằng, quyền bình đẳng luôn nằm trong khuôn khổ pháp luật. Quyền bình
đẳng của vợ chồng trong việc chia tài sản luôn được tôn trọng phát huy, luôn
27. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
hướng tới sự đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của các chủ thể, và trong một chừng
mực có thể, bảo vệ lợi ích chung của gia đình và xã hội.
1.2.2. Nguyên tắc quyền bình đẳng của vợ chồng
Điều 40 Bộ Luật Dân Sự năm 2005 quy định: “Vợ chồng bình đẳng với
nhau, có quyền, nghĩa vụ ngang nhau về mọi mặt trong gia đình và trong quan hệ
dân sự, cùng nhau xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc, bền
vững”(11)
. Quy định đó đã thể hiện sự bình đẳng về mọi mặt giữa vợ chồng trong
gia đình, cũng như phải có sự bình đẳng trong việc chia tài sản của vợ chồng. Có
như vậy thì mới xây dựng được một gia đình no ấm, tiến bộ, hạnh phúc và bền
vững. Đồng thời hạn chế được các mâu thuẫn phát sinh trong đời sống vợ chồng và
đảm bảo quyền lợi chính đáng cho các bên.
1.3. Nguyên tắc vợ chồng bình đẳng theo Luật HN&GĐ năm 2000
Nguyên tắc vợ chồng bình đẳng đã được quy định tại Điều 19 Luật HN&GĐ
năm 2000: “Vợ chồng bình đẳng với nhau, có nghĩa vụ và quyền ngang nhau về
mọi mặt trong gia đình”. Có nghĩa vợ chồng không chỉ được bình đẳng trong quan
hệ nhân thân mà còn được bình đẳng trong quan hệ tài sản: chiếm hữu, sử dụng,
định đoạt cũng như phân chia tài sản. Đây là nguyên tắc cơ bản của Luật HN&GĐ,
đã được Luật HN&GĐ năm 2000 kế thừa và tiếp tục phát triển ngày một hoàn
thiện hơn trên cơ sở của Hiến Pháp năm 1992 cũng như của Bộ Luật Dân Sự và
các Luật HN&GĐ trước đó. Nghiên cứu về quyền bình đẳng giữa vợ chồng trong
việc chia tài sản chính là sự cụ thể hóa nguyên tắc chung về quyền bình đẳng giữa
vợ chồng.
2. Quyền bình đẳng giữa vợ chồng trong các trường hợp chia tài sản
11
Bộ Luật Dân Sự, Nxb Chính Trị Quốc Gia Hà Nội, 2006. Tr.24
28. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
2.1. Quyền bình đẳng giữa vợ chồng khi chia tài sản chung trong thời kỳ hôn
nhân
2.1.1. Căn cứ chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân
Dưới góc độ bình đẳng thì việc chia tài sản của vợ chồng trong thời kỳ hôn
nhân là hoàn toàn cần thiết khi nền kinh tế của đất nước đang phát triển mạnh mẽ
như hiện nay. Vai trò của người đàn ông trong gia đình cũng không còn chiếm
được vị trí gia trưởng như trước nữa, giữa phụ nữ và đàn ông có quyền ngang nhau
và được nhà nước thừa nhận, bảo vệ. Khi người vợ hay người chồng muốn đầu tư
kinh doanh riêng mà không muốn ảnh hưởng đến người khác cũng như để tránh
những rủi ro tiềm ẩn như phá sản và những hậu quả của phá sản trong kinh doanh
thì việc đảm bảo quyền bình đẳng khi chia tài sản chung của vợ chồng trong thời
kỳ hôn nhân là hoàn toàn cần thiết. Đồng thời có những trường hợp mâu thuẫn gia
đình không thể hòa giải được nhưng do vợ chồng đã tuổi cao mà không muốn ly
hôn vì ngại dư luận nên giải pháp chia tài sản chung của vợ chồng là phù hợp nhất.
Hoặc trường hợp người vợ, hay người chồng phải thực hiện nghĩa vụ dân sự riêng
như trả nợ, cấp dưỡng, bồi thường thiệt hại… mà bản thân người đó lại không đủ
tài sản riêng để thực hiện nghĩa vụ này thì việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn
nhân cũng là một giải pháp. Chính vì vậy cần thiết phải quy định về các vần đề liên
quan đến quyền bình đẳng giữa vợ chồng khi chia tài sản trong thời kỳ hôn nhân
nhằm đảm bảo được các quyền năng về tài sản của mỗi người và giúp cho cuộc
sống gia đình bền vững, hôn nhân đạt được mục đích.
Tại Khoản 1 Điều 29 Luật HN&G§ n¨m 2000 quy định:
“Khi hôn nhân tồn tại trong trường hợp vợ chồng đầu tư kinh doanh riêng,
thực hiện nghĩa vụ dân sự riêng hoặc có lý do chính đáng khác thì vợ chồng có thể
thỏa thuận chia tài sản chung, việc chia tài sản chung phải lập thành văn bản, nếu
không thỏa thuận được thì có quyền yêu cầu tòa án giải quyết”.
29. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
Như vậy, theo quy định trên thì vợ chồng có quyền chia tài sản chung khi
hôn nhân đang tồn tại khi có các căn cứ sau:
+ Vợ, chồng đầu tư kinh doanh riêng:
Xuất phát từ việc tôn trọng quyền tự do kinh doanh của các cá nhân, nếu một
trong hai vợ chồng muốn đầu tư kinh doanh riêng thì có thể chia tài sản chung của
vợ chồng, tạo điều kiện cho vợ, chồng có tài sản riêng làm vốn đầu tư kinh doanh.
Mặt khác, quy định này còn nhằm bảo vệ lợi ích của gia đình, bảo đảm cuộc sống
ổn định của các thành viên trong gia đình tránh khỏi những ảnh hưởng tiêu cực của
hoạt động đầu tư kinh doanh gây ra. Vợ chồng có quyền yêu cầu chia tài sản chung
trong trường hợp này mà không bên nào được cản trở bên nào, khẳng định sự bình
đẳng cũng như phải đảm bảo được sự ngang bằng nhau khi chia tài sản chung giữa
vợ chồng.
+ Vợ, chồng phải thực hiện nghĩa vụ dân sự riêng:
Nếu vợ, chồng phải thực hiện nghĩa vụ dân sự riêng mà họ không có tài sản
hoặc tài sản riêng không đủ để thực hiện nghĩa vụ dân sự riêng thì vợ chồng có thể
chia tài sản chung để giúp người có nghĩa vụ thực hiện nghĩa vụ của mình. Việc
chia tài sản chung trong trường hợp này là hoàn toàn phù hợp để đảm bảo quyền
lợi của vợ chồng và người thứ ba có liên quan đến nghĩa vụ tài sản riêng mà một
trong hai vợ, chồng phải thực hiện nghĩa vụ đó.
+ Có lý do chính đáng khác:
Hiện nay chưa có một văn bản pháp luật của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền hướng dẫn thế nào là lý do chính đáng. Nếu như Nghị Quyết số 01/NQ-
HĐTP ngày 20/1/1988 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng
dẫn áp dụng một số quy định của Luật HN&G§ năm 1986 quy định tại Mục 3
Khoản b: “trong khi hôn nhân còn tồn tại, điều 18 cho phép chia tài sản của vợ
chồng nếu có lý do chính đáng (như: vợ chồng tính tình không hợp nhưng con cái
đã lớn nên không muốn ly hôn mà chỉ muốn ở riêng)”. Lý do có thể được xem là
30. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
chính đáng phải không trái pháp luật, phong tục tập quán, hơn nữa còn phải xuất
phát từ lợi ích gia đình, lợi ích của vợ chồng hoặc của người thứ ba. Tuy nhiên, vì
chưa có một văn bản cụ thể hướng dẫn thế nào là lý do chính đáng nên sẽ không
tránh khỏi sai sót khi áp dụng căn cứ này. Mặt khác, luật hiện hành không có quy
định về vấn đề cơ quan nào có thẩm quyền xem xét, thẩm định thế nào là một lý do
chính đáng để vợ chồng được chia tài sản trong thời kỳ hôn nhân. Từ đó, dễ dẫn
đến trên thực tế vợ chồng tự do thoả thuận, đưa ra một lý do bất kỳ để chia tài sản,
do đó, tính chất cộng đồng hôn nhân bị đe doạ, chế độ tài sản chung của vợ chồng
cũng bị biến dạng… Có thể thấy rằng, việc quy định chia tài sản của vợ chồng
trong thời kỳ hôn nhân là thể hiện quyền bình đẳng của vợ chồng nhưng nhất thiết
phải có những cơ chế điều chỉnh hợp lý để đảm bảo quyền bỡnh đẳng và các quyền
lợi hợp phỏp khỏc của cỏc bờn cũng như quyền và lợi ích hợp pháp của các thành
viên khác trong gia đình, các chủ thể khác có liên quan…
Tuy nhiên trong những trường hợp vợ chồng thỏa thuận chia tài sản chung
để nhằm trốn tránh nghĩa vụ về tài sản thì không được pháp luật công nhận. Ví dụ
nhiều trường hợp các quan chức đã tham ô tài sản của nhà nước sau đó vì sợ bị kê
khai tài sản trước pháp luật nên đã thỏa thuận chia tài sản chung với vợ nhằm giảm
bớt khối tài sản thuộc về mình. Vì vậy việc chia tài sản chung này không được
pháp luật công nhận.
2.1.2. Phương thức chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân
Theo quy định tại Khoản 1 Điều 29 Luật HN&GĐ năm 2000 thì vợ chồng
có thể thỏa thuận về việc chia tài sản chung và thỏa thuận đó phải lập thành văn
bản. Như vậy quyền bình đẳng thể hiện ở sự thỏa thuận của vợ chồng trong việc
định đoạt tài sản chung và việc vợ chồng có thể thỏa thuận chia một phần hay toàn
bộ tài sản chung tùy theo nhu cầu và mục đích của mỗi bên. Tuy nhiên Luật
HN&GĐ năm 2000 không đưa ra phương thức chia tài sản chung trong thời kỳ hôn
nhân một cách cụ thể nên vợ chồng không thỏa thuận được theo pháp luật. Vì vậy
31. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
cần phải có những quy định cụ thể hơn về cách chia và nên chia tài sản chung của
vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân như chia tài sản của vợ chồng khi ly hôn. Đó là
chia đôi tài sản để đảm bảo được sự bình đẳng và các quyền lợi hợp pháp khác cho
các bên.
Trường hợp vợ chồng không thể thỏa thuận được thì có thể yêu cầu tòa án
giải quyết. Quyền yêu cầu này là quyền độc lập và bình đẳng như nhau giữa vợ và
chồng, do vợ, chồng tự quyết định. Tuy nhiên điều luật cũng không quy định rõ tòa
án sẽ áp dụng nguyên tắc nào khi giải quyết. Vì vậy, cần phải có văn bản hướng
dẫn cụ thể về vấn đề này, tạo cơ sở pháp lý cho các tòa khi giải quyết việc chia tài
sản chung trong thời kỳ hôn nhân. Trước mắt để đáp ứng nhu cầu thực tế, tòa án sẽ
giải quyết nh theo tinh thần của Điều 18 Luật HN&GĐ năm 1986 là chia theo
nguyên tắc chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn.
Bên cạnh việc tôn trọng quyền tự định đoạt tài sản chung của vợ chồng, Luật
HN&GĐ năm 2000 đã dự liệu đến trường hợp vợ chồng lạm quyền của mình trong
việc chia tài sản chung có thể gây hậu quả xấu, xâm phạm đến lợi ích hợp pháp
khác được pháp luật bảo vệ. Vì vậy khoản 2 Điều 29 Luật HN&GĐ năm 2000 quy
định: “Việc chia tài sản chung của vợ chồng nhằm trốn tránh thực hiện nghĩa vụ
về tài sản không được pháp luật công nhận”.
2.1.3. Hậu quả pháp lý của việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân
+ Quan hệ nhân thân:
Việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân không làm chấm dứt quan hệ
vợ chồng trước pháp luật, do đó giữa hai bên vẫn tồn tại mọi quyền và nghĩa vụ
của vợ chồng như nghĩa vụ chăm sóc, nghĩa vụ yêu thương giúp đỡ nhau, nghĩa vụ
chung thủy và có quyền chung sống với nhau tại một nơi… Vì vậy, việc chia tài
sản chung trong thời kỳ hôn nhân không có nghĩa là gián tiếp quy định về ly thân.
Sau khi chia tài sản chung, vợ chồng có ở riêng hay không là tùy thuộc vào đời
sống cụ thể của vợ chồng, do vợ, chồng tự quyết định. Đây cũng là một yếu tố thể
32. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
hiện quyền bình đẳng giữa vợ chồng khi vợ chồng tự quyết định việc tiếp tục sống
chung hay sống riêng của mình. Tuy nhiên đa số các trường hợp sau khi chia tài
sản chung, vợ chồng vẫn chung sống bình thường với nhau, cùng nhau chăm lo đời
sống chung của gia đình phù hợp với tình cảm và nguyện vọng của bản thân.
+ Quan hệ tài sản:
Theo quy định tại Điều 30 Luật HN&G§ n¨m 2000: “Trong trường hợp chia
tài sản chung của vợ chồng thì hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản đã được chia
thuộc sở hữu riêng của mỗi người, phần tài sản còn lại không chia vẫn thuộc sở
hữu chung của vợ chồng”.
Tiếp sau đó Điều 8 Nghị định 70/2001/NĐ-CP ngày 03/10/2001 của Chính
phủ quy định chi tiết thi hành Luật HN&G§ n¨m 2000 như sau:
“Hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản đã được chia thì thuộc sở hữu riêng
của mỗi người, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác. Hoa lợi, lợi tức phát
sinh từ phần tài sản chung còn lại vẫn thuộc sở hữu chung của vợ chồng. Thu nhập
do lao động, hoạt động sản xuất kinh doanh và những thu nhập hợp pháp khác của
mỗi bên sau khi chia tài sản chung là tài sản riêng của vợ, chồng, trừ trường hợp
vợ chồng có thỏa thuận khác”
Như vậy, việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân sẽ dẫn
đến tình trạng vợ chồng bị phân chia và tách biệt về tài sản. Phần tài sản chung đã
chia sẽ thuộc về mỗi người, nếu họ chia toàn bộ khối tài sản chung và sẽ không còn
tài sản chung. Nếu họ chia một phần tài sản chung thì phần còn lại vẫn là tài sản
chung của vợ chồng. Cả hai người vẫn có quyền đối với phần tài sản chung không
chia, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản chung đã chia này vẫn thuộc quyền sở hữu
của hai vợ chồng. Đối với phần tài sản chung đã chia thì hoa lợi, lợi tức phát sinh
thuộc quyền sở hữu của mỗi người trừ trường hợp có thỏa thuận khác (Khoản 1
Điều 8 Nghị định 70/2001/NĐ-CP ngày 03/10/2001).
33. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
Ngoại trừ những tài sản chung được chia đã được luật quy đÞnh thuộc về ai
thì luật còn quy định vÒ tài sản riêng của vợ chồng. Căn cứ vào Khoản 2 Điều 8
Nghị định số 70/2001/NĐ-CP ngày 03/10/2001 quy định chi tiết thi hành Luật
HN&GĐ năm 2000, sau khi đã chia một phần hoặc chia toàn bộ tài sản chung, thì
những thu nhập do lao động, do hoạt động sản xuất kinh doanh và những thu nhập
hợp pháp khác của mỗi bên là tài sản riêng của vợ, chồng, trừ trường hợp vợ chồng
có thỏa thuận khác. Đây là quy định mới so với Luật HN&G§ n¨m 1986, song việc
quy định này có mâu thuẫn với những quy định của Luật HN&GĐ năm 2000 hay
không? và có đảm bảo quyền bình đẳng của vợ chồng hay không? Theo Điều 27
Luật HN&GĐ năm 2000 thì: “Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ,
chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất kinh doanh và những thu
nhập hợp pháp khác của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân”. Khi có sự kiện chia tài
sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân thì những thu nhập về tài sản lại
trở thành tài sản riêng trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác. Như vậy chế
độ tài sản chung của vợ chồng có thể dần dần dẫn đến chế độ tự thỏa thuận. Có thể
coi hậu quả pháp lý trên của việc chia tài sản trong thời kỳ hôn nhân là một trường
hợp ngoại lệ khi xác định tài sản chung của vợ chồng. Việc quy định hậu quả pháp
lý như vậy, ở một góc độ nào đó, cũng đảm bảo quyền bình đẳng giữa vợ chồng,
bởi trong một quan hệ, đặc biệt là quan hệ pháp luật HN&GĐ thì quyền thường
gằn liền với nghĩa vụ và trách nhiệm. Khi chia tài sản trong thời kỳ hôn nhân, đặc
biệt là chia tài sản để đầu tư kinh doanh riêng thì việc xác định hậu quả như vậy là
tương đối phù hợp. Các bên tự do thực hiện quyền đối với tài sản và phải tự chịu
trách nhiệm khi có rủi ro, thiệt hại xảy ra…
Pháp luật nên chỉ cho phép chia tài sản chung của vợ chồng khi hôn nhân tồn
tại trong những trường hợp thật sự cần thiết vì lợi ích của gia đình, hoặc lợi ích của
người thứ ba, và cần phải xác định một cách kỹ lưỡng lý do chia tài sản. Nếu áp
dụng việc chia tài sản chung giữa vợ chồng khi hôn nhân tồn tại một cách rộng rãi
34. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
dễ phá vỡ thể chế gia đình, ảnh hưởng không tốt tới tính cộng đồng trong quan hệ
hôn nhân. Cho dù, việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân là
đòi hỏi khách quan, nhằm đáp ứng những yêu cầu của vợ chồng trong việc quản lý,
sử dụng, định đoạt tài sản chung một cách có hiệu quả.
2.1.4. Thời điểm có hiệu lực của việc chia tài sản chung
Theo Điều 7 Nghị Định 70/2001/NĐ-CP ngày 3/10/2001 của Chính Phủ quy
định :
- Nếu văn bản thỏa thuận chia tài sản chung của vợ chồng không xác định rõ
thời điểm có hiệu lực của việc chia tài sản, thì hiệu lực được tính từ ngày, tháng,
năm lập văn bản.
- Nếu văn bản thoả thuận đó được công chứng hoặc chứng thực theo yêu cầu
của vợ chồng, thì hiệu lực được tính từ ngày xác định trong văn bản thỏa thuận.
Nếu văn bản không xác định ngày có hiệu lực đó thì hiệu lực được tính từ ngày văn
bản đó được công chứng, chứng thực.
- Trường hợp văn bản thỏa thuận phải công chứng, chứng thực theo quy
định của pháp luật, thì hiệu lực được tính từ ngày văn bản đó được công chứng,
chứng thực.
- Trường hợp Tòa án cho chia tài sản chung khi vợ, chồng không tự thỏa
thuận được mà cả hai bên hoặc một trong hai bên có yêu cầu Tòa án giải quyết, thì
việc chia tài sản chung của vợ chồng có hiệu lực kể từ ngày quyết định cho chia tài
sản chung của Tòa án có hiệu lực pháp luật.
2.1.5. Khôi phục chế độ tài sản chung của vợ chồng
Do việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân có thể xuất
phát từ những lý do khác nhau nên việc chia tài sản chung trong trường hợp này
nhiều khi không phải là vĩnh viễn. Có những cặp vợ chồng sau khi đã chia tài sản
chung rồi nhưng vì một lý do nào đó mà họ muốn được chấm dứt việc chia tài sản
chung. Để giải quyết tình trạng đó Nghị Định 70 của Chính Phủ đã quy định chi
35. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
tiết tại Điều 9 và Điều 10. Về hình thức việc khôi phục chế độ tài sản chung của vợ
chồng bắt buộc phải bằng văn bản như văn bản thỏa thuận chia tài sản chung, phải
có chữ ký của cả hai vợ chồng vào văn bản. Và vợ chồng cũng có quyền tự thỏa
thuận khi khôi phục chế độ tài sản chung. Điều đó còng thể hiện và đảm bảo quyền
bình đẳng của vợ chồng.
2.2. Quyền bình đẳng giữa vợ chồng trong trường hợp chia tài sản khi vợ
chồng ly hôn
2.2.1. Nguyên tắc chia tài sản khi ly hôn