Chia sẻ đến cho các bạn sinh viên bài mẫu báo cáo thực tập tại toà án nhân dân huyện thoại sơn hoàn toàn miễn phí. Nếu các bạn sinh viên có nhu cầu muốn tải bài mẫu này vui lòng nhắn tin nhanh qua zalo/telegram : 0934.573.149 để được hỗ trợ tải nhé.
Báo cáo thực tập tại toà án nhân dân huyện thoại sơn
1. TRƯỜNG ĐẠI HỌC AN GIANG
KHOA LUẬT VÀ KHOA HỌC CHÍNH TRỊ
BÁO CÁO THỰC TẬP:
NƠI THỰC TẬP: TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THOẠI SƠN,
TỈNH AN GIANG
ĐỀ TÀI BÁO CÁO THỰC TẬP: PHÁP LUẬT VỀ NGHĨA VỤ
CẤP DƯỠNG CỦA CHA, MẸ ĐỐI VỚI CON KHI LY HÔN.
THỰC TIỄN ÁP DỤNG TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN
THOẠI SƠN, TỈNH AN GIANG
Tham khảo thêm tài liệu tại Luanvantot.com
Dịch Vụ Hỗ Trợ Viết Thuê Tiểu Luận,Báo Cáo,Khoá
Luận, Luận Văn
ZALO/TELEGRAM HỖ TRỢ 0934.573.149
AN GIANG – NĂM: 2022
2. MỤC LỤC
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT ....................................................................................................1
PHẦN MỞ ĐẦU ..........................................................................................................................2
1. Lý do chọn đề tài.................................................................................................................2
2. Mục tiêu nghiên cứu .........................................................................................................3
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu .......................................................................................3
3.1. Đối tượng nghiên cứu........................................................................................................3
3.2. Phạm vi nghiên cứu...........................................................................................................3
4. Phương pháp nghiên cứu..................................................................................................3
5. Ý nghĩa nghiên cứu ...........................................................................................................4
6. Kết cấu đề tài....................................................................................................................4
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGHĨA VỤ CẤP DƯỠNG CỦA CHA,
MẸ ĐỐI VỚI CON KHI LY HÔN..........................................................................................6
1.1. Một số khái niệm..............................................................................................................6
1.1.1. Khái niệm cấp dưỡng....................................................................................................6
1.1.2. Khái niệm nghĩa vụ cấp dưỡng của cha mẹ đối với con khi ly hôn......................7
1.2. Đặc điểm nghĩa vụ cấp dưỡng của cha mẹ đối với con khi ly hôn ........................8
1.3. Ý nghĩa về nghĩa vụ cấp dưỡng của cha mẹ đối với con khi khi ly hôn...............9
CHƯƠNG 2. CĂN CỨ PHÁP LÝ VỀ NGHĨA VỤ CẤP DƯỠNG CỦA CHA MẸ ĐỐI
VỚI CON KHI LY HÔN.........................................................................................................11
2.1. Những điềukiện phát sinh quan hệ cấp dưỡng của cha mẹ đối với conkhi lyhôn
............................................................................................................................................11
2.1.1. Điều kiện chung...........................................................................................................11
2.1.2. Điều kiện riêng.............................................................................................................12
2.2. Mức cấp dưỡng của cha mẹ đối với con khi ly hôn ................................................13
2.3. Phương thức thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng của cha mẹ đối với con khi ly hôn .
............................................................................................................................................14
3. 2
2.4. Thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng của cha mẹ đối với con khi ly hôn.....................15
2.5. Chấm dứt nghĩa vụ cấp dưỡng của cha mẹ đối với con khi ly hôn.....................16
2.6. Cơ chế bảo đảm thực hiện nghĩa cụ cấp dưỡng của cha mẹ đối với con khi ly
hôn ............................................................................................................................................17
CHƯƠNG 3. THỰC TIỄN ÁP DỤNG TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THOẠI
SƠN, TỈNH AN GIANG VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH PHÁP
LUẬT VỀ NGHĨA VỤ CẤP DƯỠNG CỦA CHA MẸ VỚI CON KHI LY HÔN.....19
3.1. Thực tiễnáp dụng các quy định của pháp luật nghĩa vụ cấp dưỡng của cha mẹ
đối với con khi ly hôn tại Tòa án nhân dân huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang............19
3.2. Một số vấn đề khó khăn, vướng mắc trong việc áp dụng các quy định của pháp
luật nghĩa vụ cấp dưỡng của cha mẹ đối với con khi ly hôn............................................20
3.2.1. Vấn đề thời điểm bắt đầu cấp dưỡng nuôi con.......................................................20
3.2.2. Vấn đề tạm ngừng cấp dưỡng ...................................................................................20
3.2.3. Vấn đề thỏa thuận mức cấp dưỡng và ấn định mức cấp dưỡng nuôi con ........21
3.3. Đề xuất kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định pháp luật về nghĩa vụ cấp dưỡng
của cha mẹ đối với con khi ly hôn..........................................................................................21
3.3.1. Về thời điểm bắt đầu cấp dưỡng nuôi con ..............................................................22
3.3.2. Về tạm ngừng cấp dưỡng...........................................................................................22
3.3.3. Vấn đề thỏa thuận mức cấp dưỡng và ấn định mức cấp dưỡng nuôi con ........23
3.4. Kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về cấp dưỡng của cha,
mẹ đối với con khi ly hôn.........................................................................................................23
KẾT LUẬN.................................................................................................................................25
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO..............................................................................26
4. 1
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Từ viết tắt Từ đầy đủ
Luật HNGĐ 2014 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014
BLDS 2015 Bộ luật dân sự năm 2015
NVCD Nghĩa vụ cấp dưỡng
5. 2
PHẦN 2: BÁO CÁO THỰC TẬP
Đề tài: Pháp luật về nghĩa vụ cấp dưỡng của cha, mẹ đối với con khi ly hôn. Thực
tiễn áp dụng tại Tòa án nhân dân huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang
---o0o---
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Gia đình thường được ví như một tế bào của xã hội, có ảnh hưởng và tác động tới sự
phát triển của xã hội đó. Nếu như việc kết hôn là một hiện tượng nhằm xây dựng và hình
thành nên một tế bào gia đình trong xã hội thì ly hôn cũng là một hiện tượng đương nhiên
khi quan hệ hôn nhân tan vỡ. Khi hôn nhân tan vỡ, không chỉ tác động đến mối quan hệ của
người vợ, người chồng mà còn ảnh hưởng và liên quan mật thiết tới người con. Nhằm đảm
bảo quyền và lợi ích hợp pháp, đồng thời hướng tới mục tiêu người con được hưởng đầy
đủ và cơ bản nhất sự quan tâm, chăm sóc về cả vật chất, tinh thần từ phía cha mẹ, giúp
người con có thể phát triển bản thân và hình thành nhân cách theo hướng phù hợp, vấn đề
về cấp dưỡng của cha, mẹ đối với con khi ly hôn đã được đặt ra và trở thành một chế định
pháp lý quan trọng tại nước ta trong hệ thống pháp luật về hôn nhân và gia đình.
Có thể thấy, pháp luật hiện hành được xây dựng theo hướng quy định NVCD thuộc
về người không trực tiếp nuôi con. Như vậy, vai trò của pháp luật là vô cùng quan trọng
trong việc bảo vệ những đứa trẻ, là nguyên tắc cơ bản, kim chỉ nam định hướng trong pháp
luật hôn nhân và gia đình.
Tuy nhiên trên thực tế hiện nay không thiếu những trường hợp người con bị cha mẹ
bỏ mặc sau khi cha mẹ ly hôn, không được quan tâm, chăm sóc, cấp dưỡng đúng trách
nhiệm. Bởi vậy, việc nghiên cứu và tìm hiểu nguyên nhân, đồng thời đề xuất ra phương án
bảo vệ quyền và lợi ích của các bên, đặc biệt là người con trong quan hệ cấp dưỡng càng
trở nên quan trọng và mang ý nghĩa thiết thực.
Xuất phát từ những lý do nêu trên, sau thời gian thực tập tại Tòa án nhân dân huyện
Thoại Sơn, tỉnh An Giang, em đã quyết định lựa chọn đề tài: “Pháp luật về nghĩa vụ cấp
dưỡng giữa cha, mẹ đối với con khi ly hôn. Thực tiễn áp dụng tại Tòa án nhân dân
huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang” làm đề tài nghiên cứu trong bài báo cáo thực tập của
mình.
6. 3
2. Mục tiêu nghiên cứu
Việc lựa chọn nghiên cứu đề tài “Pháp luật về nghĩa vụ cấp dưỡng giữa cha, mẹ
đối với con khi ly hôn. Thực tiễnáp dụng tại Tòa án nhân dân huyện Thoại Sơn, tỉnh
An Giang” nhằm các mục tiêu chính sau đây:
Thứ nhất, phân tích và đưa ra được cái nhìn khái quát cơ bản nhất về các vấn đề lý
luận liên quan đến pháp luật về nghĩa vụ cấp dưỡng giữa cha, mẹ đối với con khi ly hôn
thông qua việc làm rõ về khái niệm, đặc điềm và ý nghĩa của nội dung này.
Thứ hai, nghiên cứu tổng quan các quy định pháp luật hiện hành về ghĩa vụ cấp dưỡng
giữa cha, mẹ đối với con khi ly hôn qua việc xem xét trên tổng hòa các vấn đề về điều kiện
phát sinh nghĩa vụ, mức cấp dưỡng, phương thức cấp dưỡng, thực hiện cấp dưỡng và cơ
chế bảo đảm thực hiện nghĩa vụ.
Thứ ba, đánh giá và chỉ ra được các vấn đề còn vướng mắc, bất cập trong hệ thống
quy phạm pháp luật và thực trạng áp dụng pháp luật hiện hành. Trên cơ sở đó đề xuất các
kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật cũng như nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật hiện
nay.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Trong bài báo cáo này, tác giả tập trung nghiên cứu về đối tượng là vấn đề lý luận và
pháp lý xoay quanh nghĩa vụ cấp dưỡng giữa cha, mẹ đối với con khi ly hôn.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung đi phân tích, nghiên cứu và tìm hiểu về hệ thống pháp luật hiện hành
cùng thực tiễn áp dụng pháp luật tại Việt Nam.
4. Phương pháp nghiên cứu
Quá trình nghiên cứu và hoàn thiện bài báo cáo tốt nghiệp được thực hiện bằng tổng
hòa và kết hợp nhiều phương pháp khác nhau, nhưng đều dựa trên cơ sở phương pháp luận
của chủ nghĩa duy vật cùng đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước hiện nay là nền
tảng. Một số phương pháp tiêu biểu được sử dụng tại bài báo cáo như sau:
- Phương pháp phân tích: đây là phương pháp phân chia những vấn đề chung, khái
quát nhất thành những phần nội dung nhỏ, những bộ phận khác nhau. Thông qua phương
pháp này có thể nghiên cứu sâu sắc hơn, rõ ràng và chi tiết hơn các nội dung đề ra và nhận
7. 4
biết được sự tồn tại của các mối quan hệ, tính phụ thuộc bên trong nội dung đó. Phương
pháp này được áp dụng chủ yếu trong việc tìm hiểu và phân tích quy định pháp luật.
- Phương pháptổng hợp: phương pháp tổng hợp được áp dụng tại bài báo cáo nhằm
liên kết, thống nhất những kết luận thuộc bộ phận nội dung đã được phân tích nhằm đánh
giá khái quát lại toàn bộ vấn đề. Bởi vậy, phương pháp tổng hợp và phương pháp phân tích
luôn song hành với nhau giúp bài viết đưa ra được cái nhìn, nhận thức sâu sắc hơn về tổng
thể vấn đề đưa ra.
- Phương pháp đánh giá: phương pháp đánh giá được sử dụng thông qua việc đưa
nhận thức, quan điểm của chính học viên về vấn đề nghiên cứu để tạo ra cách nhìn, nhận
định khách quan nhất. Chính bởi xuất phát từ quan điểm của học viên nên phương pháp này
được sử dụng tại hầu hết toàn bộ nội dung bài báo cáo, đặc biệt là khi chỉ ra những vướng
mắc, bất cập của quy định pháp luật cùng đề xuất phương án giải quyết vấn đề.
Ngoài ra, một số phương pháp khác như: phương pháp quy nạp, phương pháp liệt
kê, phương pháp so sánh, ... cũng được vận dụng một cách hài hòa, linh hoạt nhằm đạt được
mục đích cuối cùng của bài báo cáo được đề ra.
5. Ý nghĩa nghiên cứu
Mặc dù đề tài được lựa chọn tìm hiểu về vấn đề nghĩa vụ cấp dưỡng giữa cha, mẹ đối
với con khi ly hôn đã được không ít tác giả nghiên cứu và tìm hiểu. Tuy nhiên, nội dung
nghiên cứu đa phần vẫn tập trung đánh giá ở khía cạnh tổng quan mà thiếu sự nhìn nhận
trong quá trình áp dụng vào thực tiễn, đặc biệt là thực tiễn tại một địa phương nhất định.
Chính vì vậy, thông qua việc lựa chọn và nghiên cứu về đề tài này, tác giả hy vọng
bài báo cáo sẽ đóng góp thêm vào tủ tài nguyên một nội dung để tham khảo khi tìm hiểu về
vấn đề nghĩa vụ cấp dưỡng giữa cha, mẹ đối với con khi ly hôn. Đồng thời, với việc tập
trung đánh giá và nghiên cứu về thực tiễn tại Tòa án nhân dân huyện Thoại Sơn, tỉnh An
Giang, tác giả cũng mong rằng bài viết sẽ giúp Tòa án có thêm một góc nhìn khác quan
khác trong việc đánh giá hiệu quả và có thể áp dụng các kiến nghị đề xuất để nâng cao hiệu
quả áp dụng pháp luật về nội dung này.
6. Kết cấu đề tài
Ngoại trừ phần mở đầu và phần kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung bài
báo cáo được chia làm 3 phần chính như sau:
8. 5
Chương 1: Những vấn đề lý luận về nghĩa vụ cấp dưỡng của cha, mẹ đối với con
khi ly hôn.
Chương 2: Căn cứ pháp lý về nghĩa vụ cấp dưỡng của cha mẹ đối với con khi ly
hôn
Chương 3: Thực tiễn áp dụng tại Tòa án nhân dân huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang
và kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định pháp luật về nghĩa vụ cấp dưỡng của cha mẹ với
con khi ly hôn
9. 6
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGHĨA VỤ CẤP DƯỠNG CỦA
CHA, MẸ ĐỐI VỚI CON KHI LY HÔN
1.1. Một số khái niệm
1.1.1. Khái niệm cấp dưỡng
Từ bao đời nay, truyền thống Việt Nam luôn xem trọng gia đình, và ngay trong tư
tưởng xây dựng hệ thống pháp luật cũng thể hiện rõ vị trí của gia đình chính là một trong
những nhân tố quan trọng tạo nên một xã hội hoàn chỉnh. Gia đình không chỉ là nơi gắn kết
của những cá nhân gắn bó với nhau dưới những quan hệ nhất định: nuôi dưỡng, huyết thống,
hôn nhân mà đây còn là nơi tạo dựng và hình thành những tình cảm gắn bó, yêu thương,
đức hy sinh mà người ta gọi đó là tình cảm gia đình. Có thể nói tình cảm, sự chăm sóc, giúp
đỡ và quan tâm lẫn nhau chính là cơ sở để gia đình tồn tại và phát triển, những điều này
hình thành và xuất phát một cách tự nhiên, theo đó trở thành nhu cầu tất yếu không chỉ về
mặt đạo đức hay tình cảm đơn thuần mà còn được pháp luật xác định như một nghĩa vụ.
Trong Hiến pháp hiện hành của nước ta năm 2013 cũng đã ghi nhận điều này với nội dung
cụ thể là:
“Trẻ em được gia đình bảo vệ, chăm sóc và giáo dục; người cao tuổi được gia đình
tôn trọng và chăm sóc” (Điều 37).
Sự quan tâm giữa các thành viên trong gia đình trên thực tế có thể được thể hiện dưới
nhiều hình thức khác nhau, một trong số đó và được pháp luật thừa nhận thành quy định đó
là “cấp dưỡng”. Xét theo khía cạnh ngôn ngữ học, có thể hiểu “cấp” – nghĩa là sự chu cấp
về mặt tài chính, vật chất; “dưỡng” là sự nuôi dưỡng, dưỡng dục. Như vậy, “cấp dưỡng” có
thể hiểu là sự chu cấp về mặt tài chính, vật chất để thực hiện việc nuôi dưỡng, chăm sóc
một ai đó. Như vậy, cấp dưỡng có thể hiểu vừa là quyền, vừa là nghĩa vụ của cá nhân đối
với một cá nhân khác là thành viên trong gia đình.
Căn cứ khoản 24 Điều 3 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014(“Luật HNGĐ 2014”)
đã đưa ra quy định về định nghĩa đối với thuật ngữ này như sau:
“Cấp dưỡng là việc một người có nghĩa vụ đóng góp tiền hoặc tài sản khác để đáp
ứng nhu cầu thiết yếu của người không sống chung với mình mà có quan hệ hôn nhân,
huyết thống hoặc nuôi dưỡng trong trường hợp người đó là người chưa thành niên, người
đã thành niên mà không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình hoặc
người gặp khó khăn, túng thiếu theo quy định của Luật này.”
10. 7
Như vậy, dưới góc nhìn pháp lý, cấp dưỡng là một thuật ngữ pháp lý đề cập đến mối
quan hệ giữa những người không sống chung với nhau nhưng đã hoặc đang có quyền lợi
và nghĩa vụ ràng buộc thông qua một trong ba mối quan hệ trong gia đình: nuôi dưỡng, hôn
nhân và huyết thống.
1.1.2. Khái niệm nghĩa vụ cấp dưỡng của cha mẹ đối với con khi ly hôn
“NVCD của cha mẹ đối với con” thực chất được hình thành và phát sinh dựa trên bản
chất về việc “cha, mẹ có nghĩa vụ và quyền ngang nhau, cùng chăm sóc, nuôi dưỡng”1 đối
với con. Có thể nói, theo tinh thần của pháp luật Hôn nhân và gia đình, việc nuôi dưỡng
con cái chính là trách nhiệm mà không căn cứ vào việc có hay không quan hệ hôn nhân còn
tồn tại của cha và mẹ. Bởi vậy, ngay cả khi ly hôn, cha mẹ không còn chung sống với nhau
và quan hệ hôn nhân cũng đã chấm dứt nhưng cả cha và mẹ vẫn cần phải cùng nhau có
trách nhiệm, nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng con của mình.
Khi cha mẹ ly hôn, con phải lựa chọn việc chung sống với một trong hai người, bởi
vậy việc trực tiếp thực hiện trách nhiệm này chỉ có thể thuộc về cha hoặc mẹ, người còn lại
sẽ thực hiện trách nhiệm thông qua quy định tại khoản 2 Điều 82 Luật HNGĐ 2014 về
NVCD: “Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con” sau khi ly hôn.
Nghĩa vụ này một lần nữa được khẳng định và quy định chi tiết tiết tại Điều 110 Luật
HNGĐ: “Cha, mẹ có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con chưa thành niên, con đã thành niên
không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình trong trường hợp không
sống chung với con hoặc sống chung với con nhưng vi phạm nghĩa vụ nuôi dưỡng con”.
Như vậy, dựa trên tinh thần xây dựng quy định pháp luật Hôn nhân và gia đình có thể
rút ra khái niệm về “nghĩa vụ cấp dưỡng của cha mẹ đối với con khi ly hôn” như sau:
“Nghĩa vụ cấp dưỡng của cha mẹ đối với con khi ly hôn được hiểu là việc cha mẹ thực
hiện đóng góp tiền, hoặc tài sản khác để góp phần nuôi dưỡng và đáp ứng nhu cầu thiết
yếu của con chưa thành niên, con đã thành niên không có khả năng lao động và không có
tài sản để tự nuôi mình trong trường hợp sau khi ly hôn, cha hoặc mẹ không trực tiếp nuôi
con”.
Theo đó, từ phần nội dung trên đây và xuyên suốt nội dung bài báo cáo này, khi nhắc
đến “NVCD của cha mẹ đối với con khi ly hôn” thì sẽ được hiểu với ý nghĩa như trên.
1 Khoản 1 Điều 71 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.
11. 8
1.2. Đặc điểm nghĩa vụ cấp dưỡng của cha mẹ đối với con khi ly hôn
Với bản chất là một nghĩa vụ của cha mẹ đối với con được pháp luật ghi nhận, NVCD
của cha mẹ đối với con khi ly hôn mang những đặc trưng, đặc điểm riêng biệt nhất định
như sau:
Thứ nhất, cơ sở phát sinh của NVCD giữa cha mẹ đối với con dựa trên quan hệ nuôi
dưỡng hoặc huyết thống.
Quan hệ nuôi dưỡng được hiểu là quan hệ phát sinh giữa “cha mẹ nuôi” và “con
nuôi”, trong khi quan hệ huyết thống là phát sinh giữa “cha mẹ đẻ” và “con đẻ”. Trong ba
cơ sở hình thành gia đình thì nuôi dưỡng và huyết thống là hai cơ sở biểu hiện cho mối
quan hệ giữa cha mẹ và con, ông bà và cháu,... hay nói cách khác là những mối quan hệ mà
không phải vợ chồng. Đặc biệt khi xét đến quan hệ cha mẹ con, nuôi dưỡng và huyết thống
chính là gốc rễ, là cái nôi để tạo dựng và phát triển. Có thể nói, quan hệ cấp dưỡng là sự
tồn tại một cách tự nhiên, trong đó bao hàm cả yếu tố về mặt tình cảm của con người và
đạo đức xã hội.
Nói một cách khác, phải có sự hình thành mối quan hệ cha mẹ con mới tồn tại quan
hệ cấp dưỡng giữa cha mẹ với con. Mà cội nguồn của mối quan hệ giữa cha mẹ với con
chính là quan hệ nuôi dưỡng hoặc quan hệ huyết thống. Do vậy, quan hệ cấp dưỡng cũng
đồng thời phát sinh từ cơ sở của hai mối quan hệ này.
Thứ hai, NVCD của cha mẹ với con khi ly hôn là nghĩa vụ có tính nhân thân.
Nghĩa vụ có tính nhân thân được hiểu là nghĩa vụ được chỉ định và áp dụng cho một
chủ thể nhất định, không thể thay thế hay chuyển giao. Tính nhân thân trong quan hệ cấp
dưỡng giữa cha mẹ con được thể hiện cả ở người có NVCD là “cha mẹ” và người được
nhận cấp dưỡng là “con”.
Trước hết, về tính “không thể chuyển giao”, NVCD được xác định cho cha hoặc mẹ
khi ly hôn, bởi vậy, cha hoặc mẹ không thể chuyển nghĩa vụ này sang một chủ thể thứ ba
khác. Ngược lại, con được hưởng quyền được cấp dưỡng, và người con cũng không thể
chuyển quyền này sang một chủ thể khác (ví dụ: bạn của con) để người đó được hưởng.
Mặt khác, xét về tính “không thể thay thế”, tính chất này được hiểu là hoạt động cấp
dưỡng không thể thực hiện thay thế bằng một hoạt động khác, mặc dù vẫn cho người có
nghĩa vụ thực hiện và người có quyền nhận. Nghĩa là, bên có NVCD không thể thay thế
12. 9
NVCD bằng một nghĩa vụ khác để bù trừ hay trao đổi với việc thực hiện NVCD đã được
xác định.
Thứ ba, NVCD của cha mẹ với con khi ly hôn mang tính chất về mặt tài sản.
Bên cạnh tính nhân thân, “tài sản” cũng là một trong những tính chất đặc trưng của
NVCD. Cũng như đã được nêu ra tại khái niệm trong phần đầu của bài báo cáo, “NVCD
được thực hiện thông qua việc đóng góp tiền hoặc tài sản”, tức là sử dụng vật chất để thực
hiện nghĩa vụ, chu cấp bằng tài sản. Như vậy, vì không thể ở bên cạnh con, việc cha mẹ cấp
dưỡng cho con thông qua tài sản cũng là một cách thức thực tế, phù hợp để giúp trẻ được
phát triển bình thường.
1.3. Ý nghĩa về nghĩa vụ cấp dưỡng của cha mẹ đối với con khi khi ly hôn
Là một trong những nội dung pháp lý được áp dụng thường xuyên trong pháp luật
dân sự, đặc biệt là hôn nhân và gia đình, NVCD của cha mẹ đối với con khi ly hôn mang
những ý nghĩa quan trọng, những tác động tích cực đến tư tưởng, suy nghĩ của mỗi cá nhân,
dân tộc và toàn xã hội.
Thứ nhất, NVCD của cha mẹ đối với con khi ly hôn là một trong những nguyên
nhân góp phần nâng cao tính trách nhiệm của cha mẹ trong việc chăm sóc con cái. Theo
đó, khi người cha hoặc mẹ không ở cùng con sau khi ly hôn có nghĩa vụ thanh toán khoản
cấp dưỡng thì người đó cũng cần phải có ý thức hơn trong việc phát triển bản thân để có
thể thực hiện đầy đủ, hoàn chỉnh NVCD được ban hành. Không chỉ với cha mẹ, NVCD còn
đồng thời là cơ sở cần thiết để hỗ trợ, đảm bảo khả năng tài chính trong việc nuôi con, giúp
con có đầy đủ điều kiện học tập và phát triển tốt ngay cả sau khi cha mẹ đã ly hôn.
Thứ hai, cấp dưỡng là một trong những cách thức góp phần vun đắp, khẳng định và
duy trì truyền thống tốt đẹp của dân tộc:
Theo truyền thống đạo đức của dân ta, tình phụ tử hay tình mẫu tử luôn mang ý
nghĩa thiêng liêng, cao cả, in sâu trong bản chất và tâm trí của mỗi con người. Thông qua
việc ghi nhận quy phạm pháp luật về “NVCD của cha mẹ với con khi ly hôn” là đang tiếp
tục gắn kết, phát huy tình cảm đó trên phương diện pháp lý. Việc cấp dưỡng giúp cha mẹ
có cơ hội được tiếp tục thực hiện quyền và đảm bảo chịu trách nhiệm chăm sóc, nuôi dưỡng
con, đồng thời giúp con có thể cảm nhận và thấu hiểu được phần nào tình cảm này ngay cả
trong điều kiện không được sinh sống cùng cả cha và mẹ.
13. 10
Thứ ba, cấp dưỡng là cầu nối duy trì, gắn kết mối quan hệ giữa cha mẹ với con khi
ly hôn.
Khi cha mẹ ly hôn, con cái sẽ không được sinh sống cùng với cả cha và mẹ, điều đó
trở thành thiếu sót và sự thiếu hụt lớn đối với những người con. Mối quan hệ giữa cha hoặc
mẹ khi không ở cùng con, không có sự chăm sóc, quan tâm kịp thời cũng vì thế mà xa cách
hơn. Cấp dưỡng khi đó như một cách thức để cha mẹ có thể bù đắp phần nào hậu quả của
ly hôn, giúp người concó thể cảm nhận được sự hiện diện của người cha hoặc mẹ khi không
được ở bên cạnh, đồng thời không có cảm giác bị bỏ rơi. Sợi dây liên kết giữa cha mẹ với
con khi cha mẹ ly hôn cũng vì thế mà khó bị đứt gãy hơn.
Thứ tư, cấp dưỡng có ý nghĩa trong việc giáo dục lối sống, đạo đức hay tư tưởng
trong xã hội.
Cấp dưỡng mặc dù mang bản chất là quy phạm pháp luật nhưng đồng thời thể hiện
và là một phần đại diện cho các quy tắc đạo đức trong xã hội. Thông qua việc quy định về
NVCD của cha mẹ đối với con đồng thời như một lời nhắc nhở đối với những người làm
cha, làm mẹ về lối sống đạo đức, tư tưởng hướng tới gia đình, đặc biệt là thực hiện nghĩa
vụ của một người làm cha mẹ trong việc bảo vệ, bao bọc cho con của mình.
14. 11
CHƯƠNG 2. CĂN CỨ PHÁP LÝ VỀ NGHĨA VỤ CẤP DƯỠNG CỦA CHA MẸ
ĐỐI VỚI CON KHI LY HÔN
2.1. Những điều kiện phát sinh quan hệ cấp dưỡng của cha mẹ đối với con khi lyhôn
2.1.1. Điều kiện chung
Mặc dù nghĩa vụ nuôi dưỡng của cha mẹ với con là một nghĩa vụ mang bản chất tự
nhiên và cấp dưỡng đồng thời được chuyển hoá và hình thành từ nghĩa vụ nuôi dưỡng này.
Tuy nhiên, NVCD theo quy định pháp luật hiện hành chỉ phát sinh khi thoả mãn những
điều kiện chung nhất định:
Thứ nhất, tồntại quan hệ huyết thống hoặc quan hệ nuôi dưỡng giữa người cấp dưỡng
và người được cấp dưỡng.
Quan hệ huyết thống về bản chất thể hiện mối quan hệ về sinh học giữa cha mẹ với
con, căn cứ trên sự kiện sinh để của người phụ nữ để xác lập. Cha mẹ trực tiếp sinh ra con
chính là người có chung huyết thống với con, vì vậy cha mẹ phải có nghĩa vụ chăm sóc,
nuôi dưỡng và giáo dục con của mình.
Mặt khác, với quan hệ nuôi dưỡng, đây là quan hệ mà mặc dù con không phải trực
tiếp do cha mẹ sinh ra nhưng cũng có công nuôi dưỡng suốt quãng thời gian đến khi con
lớn. Quan hệ này có thể xuất phát từ việc nhận con nuôi hoặc con của cha dượng, mẹ kế.
Trong trường hợp này dù không phải quan hệ huyết thống nhưng người cha và mẹ vẫn phải
có nghĩa vụ chăm sóc, giáo dục con.
Thứ hai, người có NVCD và người được cấp dưỡng không chung sống với nhau.
Khi cha hoặc mẹ chung sống trực tiếp với con thì thông qua sự chăm sóc, nuôi dưỡng
thường ngày, nghĩa vụ của cha mẹ với con có thể được thực hiện bởi những hành động đó,
ở giai đoạn này nghĩa vụ của cha mẹ với con là nghĩa vụ nuôi dưỡng. NVCD chỉ bắt đầu
hình thành khi cha mẹ là người có nghĩa vụ nuôi dưỡng nhưng không thể thực hiện nuôi
dưỡng cho con vì rất nhiều lý do. Trong đó có lý do ly hôn, cha mẹ không sống chung cùng
nhau vì vậy con chỉ được sống cùng cha hoặc mẹ, người còn lại không sống cùng con sẽ có
trách nhiệm và nghĩa vụ chu cấp cho con một khoản tiền cụ thể hoặc tài sản như đồ ăn, thức
uống, quần áo,... nhằm đáp ứng được cho con nhu cầu thiết yếu hằng ngày.
Có thể nhận thấy “không chung sống” chính là một điều kiện then chốt để hình thành
quan hệ cấp dưỡng giữa cha mẹ với con. Tuy nhiên, cũng cần làm rõ rằng đây là điều kiện
liên quan đến trường hợp cha mẹ ly hôn mà không phải nói chung với trường hợp cha mẹ
15. 12
có NVCD cho con. Bởi lẽ, Luật HNGĐ 2014 không chỉ ghi nhận trường hợp không sống
chung mà còn có thể bởi cả lý do “cha hoặc mẹ sống chung với con nhưng vi phạm nghĩa
vụ nuôi dưỡng”2
2.1.2. Điều kiện riêng
Bên cạnh những điều kiện chung được nêu ở trên, NVCD của cha mẹ với con khi ly
hôn còn cần phải đáp ứng những điều kiện riêng nhất định để có thể phát sinh trên thực tế.
Thứ nhất, đối với người được cấp dưỡng là con.
Căn cứ theo quy định tại Điều 110 Luật HNGĐ 2014, không phải trong mọi trường
hợp khi cha mẹ ly hôn thì đều phải có NVCD cho con, mà nghĩa vụ này chỉ phát sinh khi
người con, tức người được cấp dưỡng thuộc những trường hợp nhất định sau: “con chưa
thành niên, con đã thành niên không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi
mình”.
Theo đó, Bộ luật Dân sự 2015 (“BLDS 2015”) quy định người chưa thành niên là
“người chưa đủ mười tám tuổi”. Có thể nói, trong độ tuổi này, khả năng nhận thức của con
còn chưa hoàn thiện, vẫn chưa có đủ kinh nghiệm sống, khả năng lao động còn hạn chế
hoặc thậm chí chưa có khả năng lao động để tự nuôi sống mình. Bởi vậy, việc trao quyền
cho các em được đón nhận tình cảm, sự chăm sóc, giáo dục và nuôi dưỡng từ cha mẹ là
thực sự cần thiết. Bởi vậy, ngay cả khi cha hoặc mẹ không chung sống với con, không trực
tiếp thực hiện nghĩa vụ nuôi dưỡng con thì vẫn cần thiết phải có NVCD cho con.
Mặt khác, với “con đã thành niên không có khả năng lao động và không có tài sản để
tự nuôi mình” lại là trường hợp người con đã đáp ứng về độ tuổi sinh học để trở nên độc
lập tuy nhiên khả năng nhận thức hay về đặc điểm thể chất không giống như người bình
thường đã khiến họ không còn khả năng lao động để nuôi sống mình, đồng thời bản thân
họ cũng không có tài sản riêng. Cũng cần làm rõ rằng, điều kiện không có tài sản ở đây
không có nghĩa rằng người được cấp dưỡng hoàn toàn không có tài sản nào mà được hiểu
đó là những tài sản không sinh lợi ích hoặc có thể sản sinh lợi ích nhưng không đủ để đảm
bảo và đáp ứng được những nhu cầu thiết yếu của người con. Khi đó, cha mẹ sẽ vẫn có
trách nhiệm cấp dưỡng cho con.
Thứ hai, đối với người có NVCD.
2 Điều 110 Luật Hôn nhân và gia đình 2014.
16. 13
Căn cứ theo quy định tại Điều 117 Luật HNGĐ 2014, NVCD của cha mẹ được thực
hiện khi đảm bảo người có NVCD “có khả năng thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng”. Trên thực
tế pháp luật hiện hành không quy định rõ hay giải thích cụ thể thế nào là “có khả năng thực
hiện NVCD”, mặc dù nội dung này đã được ghi nhận tại Nghị định 70/2001/NĐ-CP khi
hướng dẫn chi tiết đối với Luật HNGĐ cũ nhưng tại Luật mới lại bỏ đi. Theo quy định tại
khoản 1 Điều 16 Nghị định 70/2001/NĐ-CP thì được hiểu: “Người có khả năng thực tế để
thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng là người có thu nhập thường xuyên hoặc tuy không có thu
nhập thường xuyên nhưng còn tài sản sau khi đã trừ đi chi phí thông thường cần thiết cho
cuộc sống của người đó”. Nói một cách khác, việc đánh giá khả năng thực tế này có thể
phụ thuộc vào hai yếu tố chính đó là thu nhập và tài sản hiện có. Trong trường hợp này, cha
mẹ cần phải thỏa thuận với con về việc tạm dừng thực hiện NVCD hoặc nếu không được
thì sẽ thực hiện theo quyết định của Tòa án. Cần hiểu rằng, khả năng thực hiện nghĩa vụ
này chỉ mang tính chất thời điểm, bởi vậy trong trường hợp sau một thời gian cha mẹ đã có
đủ khả năng thì vẫn phải tiếp tục thực hiện NVCD này.
2.2. Mức cấp dưỡng của cha mẹ đối với con khi ly hôn
Mức cấp dưỡng chính là thực tế số lượng người được cấp dưỡng được nhận từ người
cấp dưỡng. Chính bởi vậy, theo quy định tại Điều 116 Luật HNGĐ 2014, mức cấp dưỡng
được xác định dựa trên sự kết hợp và tổng hòa của nhiều yếu tố, điều kiện khác nhau.
Thứ nhất, căn cứ vào thu nhập, khả năng thực tế của người có NVCD. Thu nhập của
người có NVCD được hiểu là thu nhập thực tế, bao gồm tiền lương, các khoản thu nhập
khác ngoài tiền lương, hay thậm chí là những thu nhập khác không xuất phát từ việc lao
động của họ mà theo pháp luật quy định như được thừa kế hay tặng cho. Bên cạnh thu nhập
thực tế, khả năng thực tế của người có NVCD cũng là yếu tố cần được quan tâm. Khả năng
ở đây có thể xem xét cả về thu nhập, sức khỏe hay điều kiện thực tế của cha mẹ. Quy định
này đã thể hiện rõ tính nhân văn của pháp luật, theo đó nghĩa vụ thực hiện không phải hoàn
toàn bắt buộc mà còn dựa trên sự ổn định và đồng thời đảm bảo điều kiện phù hợp của
người có NVCD để sau khi thực hiện nghĩa vụ bản thân cuộc sống của họ vẫn được đảm
bảo theo điều kiện thiết yếu nhất.
Thứ hai, căn cứ vào nhu cầu thiết yếu của người được cấp dưỡng.
Theo quy định tại khoản 20 Điều 3 Luật HNGĐ 2014,nhu cầu thiết yếu của một người
là “ nhu cầu sinh hoạt thông thường về ăn, mặc, ở, học tập, khám bệnh, chữa bệnh và nhu
cầu sinh hoạt thông thường khác không thể thiếu cho cuộc sống của mỗi người”. Nói một
17. 14
cách khác, nhu cầu thiết yếu là nhu cầu tối thiểu, cần thiết, bắt buộc phải có của mỗi người
để đảm bảo họ có thể được sinh hoạt và phát triển bình thường. Mặc dù là nhu cầu thiết yếu
đối với mỗi con người, tuy nhiên phụ thuộc vào từng đứa trẻ hay môi trường sống mà nhu
cầu thiết yếu lại có sự khác biệt nhất định và cần được tính toán để đảm bảo sự phù hợp. Ví
dụ, trẻ ở thành thị thì chi phí sinh hoạt hay học tập bao giờ cũng đắt hơn trẻ ở nông thôn.
Hay trẻ có bệnh, thường xuyên bị bệnh thì cũng cần chi phí để khám chữa bệnh thường
xuyên và nhiều hơn đứa trẻ bình thường.
Thứ ba, căn cứ vào sự thỏa thuận giữa người có NVCD và người cấp dưỡng hoặc
người giám hộ của người được cấp dưỡng.
Mặc dù căn cứ trên hai điều kiện cụ thể là điều kiện của người có NVCD và nhu cầu
thiết yếu của người được cấp dưỡng, tuy nhiên đây chỉ là cơ sở gốc để thỏa thuận, tức mức
tối thiểu cần đáp ứng phải thỏa mãn điều kiện như trên. Pháp luật vẫn cho phép và ghi nhận
sự thỏa thuận của hai bên căn cứ trên hai cơ sở đã được nêu. Theo đó, trên cơ sở thống nhất
của cả hai, mức cấp dưỡng được đưa ra sẽ được xác định là mức cấp dưỡng sau cùng. Tuy
nhiên với trường hợp các bên không thể thỏa thuận được thì có thể yêu cầu Tòa án có thẩm
quyền giải quyết.
2.3. Phương thức thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng của cha mẹ đối với con khi ly hôn
Cũng như mức cấp dưỡng, phương thức thực hiện NVCD của cha mẹ đối với con khi
cha mẹ ly hôn cũng dựa trên sự thỏa thuận và thống nhất bởi các bên và chỉ khi không thể
thống nhất thì mới tiến tới yêu cầu Tòa án giải quyết. Theo quy định tại Điều 117 Luật
HNGĐ 2014, việc thực hiện cấp dưỡng cho con khi cha mẹ ly hôn có thể theo một trong
hai phương thức:
Thứ nhất, thực hiện NVCD theo định kỳ. Định kỳ ở đây có thể được lựa chọn là
“hàng tháng, hàng quý, nửa năm hoặc hàng năm”. Đây là phương thức thường được các
bên lựa chọn khi thực hiện NVCD, bởi lẽ phương thức này vừa phù hợp với người có
NVCD, có thể chi trả định kỳ với mức cấp dưỡng không quá lớn, thỏa mãn với thu nhập
thực tế của họ. Đồng thời phương thức này cũng hướng tới mục tiêu đáp ứng nhu cầu thiết
yếu của người được cấp dưỡng một cách trọn vẹn nhất. Bởi lẽ, khi chia nhỏ kỳ cấp dưỡng
sẽ giúp xác định và việc sử dụng tiền cấp dưỡng vào việc nuôi dưỡng, chăm sóc đứa trẻ
được đều đặn, chính xác hơn, tránh trường hợp vì nhận một khoản tiền quá lớn trong một
thời điểm dẫn tới việc sử dụng khoản tiền cấp dưỡng không đúng mục đích làm ảnh hưởng
tới khoảng thời gian sau này.
18. 15
Thứ hai, thực hiện NVCD một lần. NVCD một lần được hiểu là việc người cha hoặc
mẹ không sống chung với con đưa một khoản tiền hoặc tài sản nhất định trong một lần để
thực hiện cho NVCD cho con sau khi ly hôn. Mặc dù là cấp dưỡng một lần nhưng mức cấp
dưỡng vẫn phải đảm bảo phù hợp với các điều kiện và dựa trên cơ sở đã được phân tích ở
những mục trên. Phương thức này thường ít được các bên lựa chọn bởi lẽ mức trợ cấp để
chi trả cho cả quá trình được đưa trong một lần dẫn tới con số thường rất lớn và không phải
ai cũng có điều kiện để thực hiện. Đồng thời việc thực hiện cấp dưỡng trong một lần có thể
làm giảm hoặc không hướng tới mục tiêu gắn kết cha mẹ và con sau khi ly hôn. Bởi lẽ cha
mẹ chỉ thực hiện một lần sẽ dẫn tới thực tế nhiều người nhận thức bản thân đã hết trách
nhiệm với con mà tự cho phép mình lơ là, bỏ bê và không quan tâm tới sự trưởng thành của
con sau này.
2.4. Thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng của cha mẹ đối với con khi ly hôn
Liên quan đến việc thực hiện NVCD có nhiều nội dung xoay quanh được pháp luật
điều chỉnh.
Thứ nhất, về hình thức cấp dưỡng.
Theo quy định tại khoản 24 Điều 3 Luật HNGĐ 2014, hình thức cấp dưỡng nói chung
và cấp dưỡng giữa cha mẹ với con khi ly hôn có thể thực hiện qua tiền hoặc tài sản khác.
Căn cứ theo quy định tại khoản 1 Điều 105 BLDS 2015, “tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá
và quyền tài sản”. Như vậy, bên cạnh tiền, người thực hiện NVCD có thể thực hiện nghĩa
vụ thông qua hình thức là “vật, giấy tờ có giá hoặc quyền tài sản”. Bên cạnh đó, “tiền hoặc
tài sản khác khi cấp dưỡng phải được giao tại nơi cư trú của người cấp dưỡng, trừ trường
hợp có thỏa thuận khác giữa các bên, áp dụng chung về địa điểm thực hiện nghĩa vụ”3.
Việc cấp dưỡng theo hình thức nào sẽ căn cứ trên sự thỏa thuận của các bên hoặc do Tòa
án có thẩm quyền giải quyết nếu các bên không thỏa thuận được.
Thứ hai, về thay đổi chế độ cấp dưỡng.
Mặc dù chế độ cấp dưỡng (phương thức cấp dưỡng, mức cấp dưỡng) đều đã được các
bên thỏa thuận và quyết định ngay từ thời điểm ban đầu khi phát sinh NVCD, tuy nhiên với
sự thay đổi hằng ngày của xã hội thì chế độ cấp dưỡng cũng có thể thay đổi nhằm đảm bảo
phù hợp với thực tế. Sự thay đổi ở đây có thể xuất phát từ hoàn cảnh của người có NVCD,
nhu cầu của người được cấp dưỡng,...
3 Phạm Thị Thi (2014), “Nghĩa vụ cấp dưỡng của cha mẹ đối với con khi ly hôn – lý luận và thực tiễn”, Luận văn tốt
nghiệp cử nhân luật Trường Đại học Cần Thơ, tr.37
19. 16
Theo quy định tại Điều 117, Luật HNGĐ 2014 đã cho phép phương thức cấp dưỡng
được thay đổi hoặc tạm ngừng việc cấp dưỡng trong trường hợp “người có nghĩa vụ cấp
dưỡng lâm vào tình trạng khó khăn về kinh tế mà không có khả năng thực hiện nghĩa vụ
cấp dưỡng”. Sự thay đổi này xuất phát từ sự thỏa thuận của các bên hoặc theo quyết định
của Tòa án nếu không thỏa thuận thành công.
Mặt khác, theo quy định tại khoản 2 Điều 116, mức cấp dưỡng cũng đồng thời có thể
thay đổi trong trường hợp “có lý do chính đáng”. Trên thực tế, bởi pháp luật không có quy
định cụ thể nên lý do chính đáng có thể hiểu là lý do có tính phù hợp và hợp lý với thực tế
như: khả năng thu nhập thực tế của người có NVCD, mức sống thiết yếu của người được
cấp dưỡng thay đổi do thay đổi môi trường hoặc phát sinh vấn đề khác,...
2.5. Chấm dứt nghĩa vụ cấp dưỡng của cha mẹ đối với con khi ly hôn
Với những cơ sở về việc phát sinh NVCD của pháp luật được đặt ra, có thể thấy rằng,
NVCD của cha mẹ đối với con khi ly hôn có thể sẽ không tồn tại mãi. Theo đó, nghĩa vụ
này sẽ chấm dứt khi những cơ sở này không cònthỏa mãn hay tồn tại. Các trường hợp chấm
dứt NVCD giữa cha mẹ với con khi cha mẹ ly hôn được Luật HNGĐ quy định cụ thể tại
Điều 118, theo đó bao gồm một số trường hợp sau đây:
Một là, “người được cấp dưỡng đã thành niên và có khả năng lao động hoặc có tài
sản để tự nuôi mình”.
Theo nội dung đã phân tích, NVCD chỉ được đặt ra khi người được cấp dưỡng là
người “chưa thành niên hoặc đã thành niên nhưng không có khả năng lao động và không
có tài sản để tự nuôi mình”. Như vậy, khi những cơ sở này kết thúc thì đồng thời NVCD
của cha mẹ với con cũng chấm dứt. Bởi lẽ, khi đó người được cấp dưỡng đã có khả năng
tự kiếm thu nhập để nuôi bản thân mà không phải phụ thuộc vào cha mẹ.
Hai là, “người được cấp dưỡng được nhận làm con nuôi”.
Trong trường hợp này, khi người được cấp dưỡng được nhận làm con nuôi họ sẽ
đương nhiên theo cách hiểu của pháp luật được cha mẹ nuôi chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo
dục. Nói cách khác, khi đó quyền và nghĩa vụ của cha mẹ nuôi với con nuôi cũng tương tự
như cha mẹ đẻ với con đẻ. Theo Luật Nuôi con nuôi năm 2010, vấn đề này cũng đã được
pháp luật thừa nhận tại Điều 24: “Kể từ ngày giao nhận con nuôi, giữa cha mẹ nuôi và con
nuôi có đầy đủ các quyền, nghĩa vụ của cha mẹ và con”. Khi đó, người con đồng thời đã
20. 17
được đón nhận sự chăm sóc từ cha mẹ, hay nói cách khác, khi đó NVCD của cha mẹ với
con khi ly hôn sẽ chấm dứt.
Ba là, “người cấp dưỡng đã trực tiếp nuôi dưỡng người được cấp dưỡng”.
Trong trường hợp người được cấp dưỡng trực tiếpđược người cấp dưỡng nuôi dưỡng,
tức là khi này người được cấp dưỡng và người cấp dưỡng đã sống chung với nhau. Khi đó,
quan hệ cấp dưỡng đã được chuyển đổi thành quan hệ nuôi dưỡng và đồng nghĩa với quan
hệ cấp dưỡng chấm dứt.
Bốn là, “người cấp dưỡng hoặc người được cấp dưỡng chết”.
Xuất phát từ bản chất NVCD là một nghĩa vụ có tính chất nhân thân, tức gắn liền với
người có NVCD và người được cấp dưỡng. Do đó, khi một trong hai bên chết, NVCD
không thể được chuyển giao cho chủ thể khác, tức cũng đồng thời hiểu là NVCD chấm dứt.
Năm là, “trường hợp khác theo quy định của luật”.
Theo đó, trường hợp này được pháp luật quy định như một dự liệu để áp dụng khi có
những thay đổi hay ghi nhận khác của luật mà pháp luật hiện tại chưa dự liệu được dẫn tới
chấm dứt quan hệ cấp dưỡng.
2.6. Cơ chế bảo đảm thực hiện nghĩa cụ cấp dưỡng của cha mẹ đối với con khi lyhôn
Với ý nghĩa và tầm quan trọng của NVCD của cha mẹ với con khi ly hôn trong thực
tế cuộc sống và đặc biệt với sự phát triển của người con, việc thực thi nghĩa vụ này trong
thực tế càng cần được bảo đảm. Trên thực tế, không thể tránh khỏi những trường hợp người
cha hoặc mẹ có NVCD cho con nhưng không thực hiện nghĩa vụ này, điều này tạo ra sự
thiệt thòi về sự phát triển của người con. Những cơ chế để đảm bảo quyền lợi hợp pháp của
người con trong quan hệ cấp dưỡng cũng vì thế hình thành.
Căn cứ theo Điều 119 Luật HNGĐ 2014, cơ chế này được xây dựng và hiểu rằng
NVCD được đảm bảo thông qua việc “buộc người có NVCD” phải thực hiện NVCD. Theo
đó việc “buộc” này phát sinh theo yêu cầu của người chủ thể có liên quan được xác định
bao gồm:
“(i) Người được cấp dưỡng, cha, mẹ hoặc giám hộ của người đó”;
“(ii) Cá nhân, cơ quan tổ chức (người thân thích; cơ quan quản lý nhà nước về trẻ em;
cơ quan quản lý nhà nước về gia đình; Hội liên hiệp phụ nữ)”;
21. 18
“(iii) Cá nhân, cơ quan, tổ chức khác khi phát hiện hành vi trốn tránh thực hiện nghĩa
vụ cấp dưỡng”.
Như vậy có thể thấy chủ thể có quyền yêu cầu ở đây rất rộng và gần như không có sự
giới hạn. Đồng thời việc yêu cầu được thực hiện và đưa lên Tòa án nhân dân có thẩm quyền.
Tòa án cũng đồng thời là người có thẩm quyền giải quyết và yêu cầu người có NVCD thực
hiện nghĩa vụ của mình.
Không những vậy, người có NVCD mà trốn tránh nghĩa vụ này còn có thể bị xử phạt
hành chính theo quy định. Cụ thể tại điểm b khoản 1 Điều 57 Nghị định số 144/2022/NĐ-
CP, khi một người “từ chối hoặc trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng, chăm sóc con sau ly hôn
theo quy định của pháp luật”có thể bị phạt tiền “từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng”.
Hoặc thậm chí là trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 186 và Điều 380 Bộ luật Hình
sự 2015, cụ thể là khi: “Làm cho người được cấp dưỡng lâm vào tình trạng nguy hiểm đến
tính mạng, sức khỏe (ốm đau, bệnh tật...); Hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi này
mà còn vi phạm”. Mức phạt đưa ra có thể từ 3 tháng đến 2 năm tù.
22. 19
CHƯƠNG 3. THỰC TIỄN ÁP DỤNG TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THOẠI
SƠN, TỈNH AN GIANG VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH
PHÁP LUẬT VỀ NGHĨA VỤ CẤP DƯỠNG CỦA CHA MẸ VỚI CON KHI LY
HÔN
3.1. Thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật nghĩa vụ cấp dưỡng của cha mẹ
đối với con khi ly hôn tại Tòa án nhân dân huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang
Là một trong những cơ quan thuộc hệ thống tư pháp tại Việt Nam, Tòa án nhân dân
huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang cũng chịu trách nhiệm và có thẩm quyền trong việc giải
quyết các vụ việc dân sự về ly hôn có nội dung liên quan đến cấp dưỡng giữa cha mẹ đối
với con khi ly hôn. Qua nhìn nhận thực tế tại đây thấy được rằng, tình trạng ly hôn giữa các
cặp vợ chồng đang có xu hướng ngày càng tăng. Theo đó, chỉ trong quý 3 của năm 2022
tại đây đã thụ lý mới tới 153 vụ việc về ly hôn, tăng lên 22 vụ so với quý 2 và 15 vụ so với
quý 1 của năm. Trong đó, phần lớn trong những vụ ly hôn giữa vợ chồng thì sẽ giải quyết
cùng luôn với vấn đề cấp dưỡng của cha mẹ với con sau khi ly hôn.
Với các vụ việc có nội dung cấp dưỡng được giải quyết tại Tòa án nhân dân huyện
Thoại Sơn, phần lớn các bên đềucó sự thống nhất về mức cấp dưỡng hay phương thức thực
hiện cấp dưỡng. Trường hợp chưa thống nhất thì cũng được Tòa án giải quyết một cách phù
hợp căn cứ trên những cơ sở được pháp luật quy định. Đa phần sau khi kết thúc việc tranh
chấp, rất ít và gần như không có trường hợp nào phát sinh yêu cầu xét xử lại theo thủ tục
phúc thẩm.
Tuy nhiên, thực tế tiếp nhận tại Tòa án cũng có những trường hợp mặc dù các bên đã
thống nhất về việc cấp dưỡng trong vụ việc ly hôn, tuy nhiên sau đó vì điều kiện thay đổi
dẫn tới có yêu cầu về việc thay đổi chế độ cấp dưỡng và được thực hiện thành một vụ việc
riêng lẻ, tách biệt với vụ việc ly hôn trước đó. Đơn cử có thể xem xét một vụ việc như sau:
Căn cứ theo bản án số 06/2018/HNGĐ-ST ngày 12/01/2018 của Tòa án nhân dân
huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang về hôn nhân gia đình – Yêu cầu cấp dưỡng nuôi con sau
khi ly hôn, theo đó, nội dung vụ việc phát sinh như sau:
Chị Mai Thị Thoa và anh mai Canh kết hôn năm 2005 và có đăng ký kết hôn theo quy
định. Trong quá trình sinh sống, hai anh chị đã có với nhau hai người con chung là Mai Thị
Cẩm (sinh năm 1991) và Mai Thị Cẩm Tiên (sinh năm 2005). Đến năm 2016 hai vợ chồng
phát sinh mâu thuẫn nên ly hôn, tại bản án số 14/2017 ngày 16/02/2017 của Tòa án nhân
dân huyện Thoại Sơn đã xét xử theo đó chấp thuận yêu cầu ly hôn của hai người, chị Thoa
23. 20
sẽ là người trực tiếp chăm sóc và nuôi dưỡng Mai Thị Cẩm Tiên, anh Mai Canh không phải
cấp dưỡng. Tuy nhiên đến thời điểm khởi kiện, chị Thoa vì việc nuôi con khó khăn nên yêu
cầu anh Mai Canh phải cấp dưỡng cho con đến khi con trưởng thành theo quy định.
Tòa án nhân dân huyện Thoại Sơn đã căn cứ trên quy định tại Điều 82 và Điều 83 của
Luật HNGĐ đồng thời dựa trên quy định về việc cho phép thay đổi chế độ cấp dưỡng chấp
thuận yêu cầu của chị Thoa và quyết định anh Mai Canh phải cấp dưỡng cho cháu Tiên đến
khi cháu trưởng thành. Việc cấp dưỡng được thực hiện theo phương thức định kỳ hàng
tháng.
Theo bản án này có thể thấy rằng, trên thực tế, việc áp dụng pháp luật về cấp dưỡng
hay thay đổi chế độ cấp dưỡng nói chung và tại Tòa án nhân dân huyện Thoại Sơn đều đã
được áp dụng theo quy định pháp luật một cách linh hoạt và phù hợp. Nội dung bản án có
hướng tới quyền lợi chính đáng và hợp pháp của con (cháu Mai Tiên khi đó mới 13 tuổi).
3.2. Một số vấn đề khó khăn, vướng mắc trong việc áp dụng các quy định của pháp
luật nghĩa vụ cấp dưỡng của cha mẹ đối với con khi ly hôn
3.2.1. Vấn đề thời điểm bắt đầu cấp dưỡng nuôi con
Tại quy định pháp luật hiện hành, cụ thể tại Luật HNGĐ hiện nay không có quy định
rõ ràng về vấn đề liên quan đến thời điểm NVCD bắt đầu. Trong khi đó, thời điểm bắt đầu
cấp dưỡng là một trong những nội dung quan trọng liên quan và ảnh hưởng đến quyền lợi
của con. Chính vì vậy, với thực tế hiện tại, khi xét xử việc xác định thời điểm bắt đầu vẫn
dựa trên phần lớn ý chí của mỗi thẩm phán và thường theo ba xu hướng: thời điểm bắt đầu
kể từ khi bản án ly hôn của cha mẹ cho hiệu lực pháp luật; thời điểm bắt đầu kể từ khi Tòa
tuyên án; thời điểm bắt đầu kể từ khi người được cấp dưỡng hoặc người giám hộ của người
được cấp dưỡng có yêu cầu thi hành án. Rõ ràng, với quy định và cách hiểu không thống
nhất như hiện nay dẫn tới quy định pháp luật không thực sự phát huy hiệu quả trong việc
áp dụng trên thực tế.
3.2.2. Vấn đề tạm ngừng cấp dưỡng
Trong quy định pháp luật về vấn đề tạm ngừng cấp dưỡng hiện nay vẫn còn hai bất
cập, vướng mắc ảnh hưởng đến công tác thực hiện và áp dụng pháp luật vào quá trình giải
quyết của Tòa án.
Trước hết, về cách hiểu đối với nội dung “lâm vào tình trạng khó khăn về kinh tế”.
24. 21
Đây được xem là một căn cứ để cho phép tạm ngừng NVCD của người có NVCD với
người được cấp dưỡng khi người có nghĩa vụ “lâm vào trình trạng khó khăn về kinh tế”.
Tuy nhiên, nội dung này lại không giải thích cụ thể, rõ ràng về cách hiểu như thế nào là lâm
vào tình trạng khó khăn về kinh tế, đó là khi người có nghĩa vụ phá sản hay khi người có
nghĩa vụ không còn tài sản trong người hay chỉ là khi bản thân người có nghĩa vụ không
đáp ứng được những nhu cầu thiết yếu cho bản thân.
Với quy định không rõ ràng này đã ảnh hưởng nhiều tới hiệu quả trong công tác xét
xử và giải quyết tại Tòa án liên quan đến nội dung này. Theo đó, tại mỗi thời điểm, mỗi nơi
lại có những cách lựa chọn khác nhau, trong khi đó quy định này lại ảnh hưởng trực tiếp
không chỉ tới quyền và lợi ích của người được cấp dưỡng mà còn ảnh hưởng tới khả năng
sinh sống của người có NVCD.
Bên cạnh vấn đề về cách hiểu, nội dung về thời hạn tạm dừng cấp dưỡng cũng là một
vấn đề còn bị bỏ ngỏ tại quy định pháp luật về cấp dưỡng.
Mặc dù pháp luật quy định là tạm dừng, tức có thể tiếp tục nhưng lại không nêu rõ
việc tiếp tục thực hiện được áp dụng vào thời điểm nào, trong bao lâu hay tới sự kiện pháp
lý nào. Đây thực sự là một thiếu sót cần phải xem xét và đáng được quan tâm, đó là căn cứ
để người được cấp dưỡng bảo vệ quyền lợi chính đáng của bản thân mình, đồng thời gia
tăng trách nhiệm đối với NVCD của người có nghĩa vụ.
3.2.3. Vấn đề thỏa thuận mức cấp dưỡng và ấn định mức cấp dưỡng nuôi con
Theo quy định của pháp luật hiện hành, mức cấp dưỡng hiện tại được căn cứ dựa trên
“khả năng của người có NVCD” và “nhu cầu thiết yếu của người được cấp dưỡng”. Tuy
nhiên, có thể nhận thấy rằng, hai thuật ngữ này hoàn toàn mang giá giá trị định tính và
không có bất kỳ mức xác định phù hợp hay hướng dẫn cụ thể nào. Điều này đồng thời dẫn
tới cách xác định mang tính cảm tính và thiếu thống nhất, hơn hết còn có thể ảnh hưởng tới
thực tế mức độ đáp ứng và phù hợp với người có nghĩa vụ và người được cấp dưỡng.
3.3. Đề xuất kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định pháp luật về nghĩa vụ cấp dưỡng
của cha mẹ đối với con khi ly hôn
Xuất phát từ những quan điểm về vướng mắc, khó khăn còntồn tại trong hệ thống quy
định pháp luật hiện hành liên quan đến việc cấp dưỡng của cha mẹ với con khi ly hôn đã
được nêu ở trên, bài báo cáo đồng thời có đề xuất một số kiến nghị nhằm hoàn thiện quy
định pháp luật về nội dung này như sau:
25. 22
3.3.1. Về thời điểm bắt đầu cấp dưỡng nuôi con
Pháp luật cần thiết phải ban hành văn bản quy định, hướng dẫn thi hành về việc xác
định thời điểm bắt đầu NVCD nuôi con khi cha mẹ ly hôn. Thời điểm này có thể được xác
định căn cứ hoặc tổng hợp bởi các quan điểm sau đây:
Thứ nhất, thời điểm bắt đầu cấp dưỡng là khi Tòa án có quyết định thuận tình ly hôn
đối với việc ly hôn của cha mẹ.
Thứ hai, thời điểm bắt đầu cấp dưỡng là ngày tuyên án sơ thẩm mà không phụ thuộc
vào việc bản án có bị kháng cáo lại hay không.
Thứ ba, thời điểm bắt đầu cấp dưỡng là khi cha và mẹ bắt đầu không sống chung với
nhau. Tức là khi xác định cấp dưỡng, cần phải có sự trả hoàn trong trường hợp quyết định
của Tòa án được ban hành sau thời điểm cha và mẹ không cùng chung sống.
Thực tế quan điểm thứ ba được đưa ra xuất phát từ thực tế nhiều gia đình phát sinh
mâu thuẫn, thậm chí dẫn tới bạo lực gia đình và khiến cha hoặc mẹ phải dẫn con đi nơi khác
sinh sống. Tuy nhiên trong khoảng thời gian này thực tế quyền lợi của con vẫn cần phải
được đảm bảo.
3.3.2. Về tạm ngừng cấp dưỡng
Đối với vấn đề tạm ngừng cấp dưỡng có hai vấn đề được đưa ra kiến nghị, cụ thể:
Thứ nhất, pháp luật cần phải có quy định giải thích cụ thể cách hiểu về “lâm vào tình
trạng khó khăn về kinh tế”. Theo đó, hướng giải thích có thể căn cứ theo quan điểm sau
đây: người lâm vào tình trạng khó khăn về kinh tế là “người có khó khăn về kinh tế là người
không có thu nhập hoặc có thu nhập nhưng mức thu nhập thấp và với mức thu nhập đó
không thể đảm bảo và lo cho cuộc sống của người được cấp dưỡng. Đồng thời, họ cũng
không có tài sản giá trị hoặc có tài sản nhưng sau khi bán đi cũng không thể có khả năng
thực hiện trách nhiệm cấp dưỡng của mình”4. Đây là một quan điểm khá phù hợp, bởi theo
đó, sự khó khăn vừa được căn cứ trên mức thu nhập vừa được căn cứ theo khả năng đảm
bảo cuộc sống của chính người có nghĩa vụ. Bên cạnh đó, nội dung cũng đã có sự đề cập
và nhắc đến vấn đề tài sản hiện hữu, tức bao quát được và có thể đánh giá chính xác tình
trạng kinh tế của người có NVCD.
4 Phạm Thị Thi (2014), “Nghĩa vụ cấp dưỡng của cha mẹ đối với con khi ly hôn – lý luận và thực tiễn”, Luận văn tốt
nghiệp cử nhân luật Trường Đại học Cần Thơ, tr.54.
26. 23
Thứ hai, pháp luật cần bổ sung quy định về việc xác định cụ thể thời hạn tạm ngừng
cấp dưỡng. Theo đó, tác giả kiến nghị thời hạn này được xác định theo một thời điểm cụ
thể mà việc tạm ngừng cấp dưỡng chấm dứt thay vì khoảng thời gian nhất định là bao nhiêu
năm hay bao nhiêu tháng. Thời điểm này có thể căn cứ trên đặc điểm tình trạng khó khăn
về kinh tế của người có NVCD đã hết, đồng thời cũng phải đưa ra nội dung nhằm giải thích
như thế nào được hiểu là đã hết tình trạng khó khăn về kinh tế.
3.3.3. Vấn đề thỏa thuận mức cấp dưỡng và ấn định mức cấp dưỡng nuôi con
Liên quan đến cơ sở để các bên thỏa thuận hay để Tòa án ấn định mức cấp dưỡng nuôi
con, cần thiết pháp luật phải quy định cụ thể, có căn cứ xác định rõ ràng, mang tính định
lượng hơn. Theo đó, việc xác định mức cấp dưỡng có thể căn cứ trên tỷ lệ đối với mức thu
nhập của người có nghĩa vụ hoặc theo mức lương tối thiểu vùng của người được cấp dưỡng
sinh sống. Để làm rõ, quy định này cũng cần giải thích đây là mức tối thiểu để xác định
mức cấp dưỡng, theo đó, tùy thuộc vào thực tế hoàn cảnh, việc xác định có thể tăng lên phù
hợp theo thực tiễn. Ví dụ người cha hoặc mẹ không sống chung với con có điều kiện kinh
tế tốt đồng thời người con trước đó đã được sống trong điều kiện kinh tế dư dả thì mức cấp
dưỡng cũng cần có sự linh hoạt thay đổi cho phù hợp.
3.4. Kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về cấp dưỡng của cha, mẹ
đối với con khi ly hôn
Bên cạnh vấn đề về hoàn thiện quy định pháp luật thì việc nâng cao hiệu quả áp dụng
pháp luật cũng cần phải được xem trọng để phát huy giá trị của pháp luật trong đời sống
thực tế. Theo đó, trong phạm vi bài báo cáo này, tác giả có đề xuất một số kiến nghị như
sau:
Một là, nâng cao trình độ các cán bộ, đặc biệt là đội ngũ thẩm phán về vấn đề giải
quyết cấp dưỡng của cha mẹ với con khi ly hôn thông qua các lớp bồi dưỡng hay đào tạo
nghiệp vụ. Đặc biệt, cần chú trọng đào tạo tới đội ngũ cán bộ ở những vùng miền núi, vận
động cán bộ lên địa phương công tác để tăng chất lượng giải quyết tại những vùng này.
Hai là, tích cực tuyên truyền, giáo dục pháp luật trong quần chúng nhân dân để đưa
đến cách nhìn và nhận thức đúng đắn của người dân về NVCD của cha mẹ với con khi cha
mẹ ly hôn. Qua đó, tạo ra được sự đồng tình, ủng hộ trong nhân dân khi áp dụng pháp luật.
Việc tuyên truyền, giáo dục có thể được thực hiện qua báo, đài hay truyền hình với những
chương trình pháp luật hay giáo dục gia đình. Ngoài ra, các cơ quan có thể tổ chức những
27. 24
chương trình giáo dục pháp luật bằng cách đi tới tận từng địa phương, đặc biệt là những địa
phương có khó khăn trong việc tiếp cận pháp luật để phổ biến, tư vấn và hỗ trợ họ.
28. 25
KẾT LUẬN
Là một trong những nội dung quan trọng tại hệ thống pháp luật về Hôn nhân và gia
đình, NVCD của cha mẹ với con khi cha mẹ ly hôn như một sự thể chế hóa trong nguyên
tắc bảo vệ quyền lợi của trẻ em. Nhìn chung quy định pháp luật hiện hành của nước ta về
vấn đề này đã có sự hoàn thiện và thay đổi tích cực qua thời gian, so với những quy định
tại Luật Hôn nhân và gia đình 2000. Qua đó, các quy định đã đưa ra rõ ràng, chi tiết và phù
hợp với thực tiễn thực hiện hơn. Đồng thời nội dung pháp luật hiện hành cũng bao quát
điều chỉnh hầu khắp các vấn đề xoay quanh việc áp dụng quy định về cấp dưỡng trong thực
tế nhằm đảm bảo hiệu quả của nghĩa vụ này trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của người con khi cha mẹ ly hôn.
Tuy nhiên, thông qua thực tế đánh giá tại Tòa án nhân dân huyện Thoại Sơn, tỉnh An
Giang nói riêng và xem xét trênthực tiễn áp dụng pháp luật hiện hành trênthực tế nói chung
có thể thấy rằng pháp luật vẫn còn bỏ ngỏ một số vấn đề pháp lý hay vẫn tồn tại những
vướng mắc trong quy định tạo ra bất cập khó khăn trong công tác áp dụng pháp luật. Những
vấn đề này đặt ra yêu cầu cần nhanh chóng và kịp thời giải quyết để tạo thuận lợi và phát
huy hiệu quả của pháp luật trong đời sống.
Căn cứ trên cơ sở những khó khăn hay thuận lợi còn tồn tại, bài báo cáo cũng đề xuất
và kiến nghị một số nội dung nhằm hoàn thiện quy định pháp luật hiện hành, đồng thời tăng
hiệu quả áp dụng pháp luật trong thực tiễn. Qua đó, hướng tới mục tiêu xây dựng hệ thống
pháp luật hôn nhân và gia đình thực sự trở thành một nền tảng, cơ sở pháp lý vững chắc
trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người có NVCD cũng như người được cấp
dưỡng. Đồng thời, đây cũng là cơ sở hướng tới việc xây dựng xã hội về gia đình văn minh,
tiến bộ.
29. 26
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Chính phủ (2022),Nghị định 144/2022/NĐ-CPquy định về xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội; phòng, chống tệ nạn xã hội; phòng cháy,
chữa cháy; cứu nạn, cứu hộ; phòng, chống bạo lực gia đình.
2. Chính phủ (2001),Nghị định 70/2001/NĐ-CPvề việc hướng dẫn chi tiết Luật Hôn nhân
và gia đình.
3. Phạm Thị Thi (2014), “Nghĩa vụ cấp dưỡng của cha mẹ đối với con khi ly hôn – lý luận
và thực tiễn”, Luận văn tốt nghiệp cử nhân luật Trường Đại học Cần Thơ.
4. Quốc hội (2015), Bộ luật Dân sự.
5. Quốc hội (2015), Bộ luật Hình sự.
6. Quốc hội (2014), Luật Hôn nhân và gia đình.
7. Quốc hội (2010), Luật Nuôi con nuôi.