SlideShare a Scribd company logo
1 of 91
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
LÊ HỒNG NAM
TéI Tæ CHøC §¸NH B¹C THEO LUËT H×NH Sù VIÖT NAM
(trªn c¬ së sè liÖu thùc tiÔn ®Þa bµn thµnh phè §µ N½ng)
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2016
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
LÊ HỒNG NAM
TéI Tæ CHøC §¸NH B¹C
THEO LUËT H×NH Sù VIÖT NAM
(trªn c¬ së sè liÖu thùc tiÔn ®Þa bµn thµnh phè §µ N½ng)
Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 60 38 01 04
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS. TRỊNH TIẾN VIỆT
HÀ NỘI - 2016
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN
Lê Hồng Nam
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các bảng
Danh mục các biểu đồ
Danh mục từ viết tắt
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỘI TỔ CHỨC ĐÁNH
BẠC THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM...................................... 9
1.1. Khái niệm tội tổ chức đánh bạc và sự cần thiết của việc quy
định tội phạm này trong luật hình sự Việt Nam .............................. 9
1.1.1. Khái niệm tội tổ chức đánh bạc trong luật hình sự Việt Nam .............. 9
1.1.2. Sự cần thiết của việc quy định tội tổ chức đánh bạc trong luật
hình sự Việt Nam ................................................................................14
1.2. Khái quát quá trình hình thành và phát triển của luật hình
sự Việt Nam quy định về tội tổ chức đánh bạc...............................15
1.2.1. Giai đoạn từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến trước khi
pháp điển hóa Bộ luật hình sự năm 1985............................................15
1.2.2. Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985 đến nay...........21
1.3. Quy định về tội tổ chức đánh bạc trong pháp luật hình sự
một số nước trên thế giới..................................................................27
1.3.1. Bộ luật hình sự Nhật Bản....................................................................27
1.3.2. Bộ luật hình sự Vương quốc Thụy Điển.............................................29
1.3.3. Bộ luật hình sự Cộng hòa nhân dân Trung Hoa..................................30
Chương 2: QUY ĐỊNH VỀ TỘI TỔ CHỨC ĐÁNH BẠC TRONG
BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VÀ THỰC TIỄN XÉT XỬ
TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG...................................32
2.1. Quy định của luật hình sự Việt Nam về tội tổ chức đánh bạc......32
2.1.1. Các dấu hiệu pháp lý hình sự..............................................................32
2.1.2. Hình phạt.............................................................................................36
2.2. Thực tiễn xét xử tội tổ chức đánh bạc trên địa bàn thành phố
Đà Nẵng..............................................................................................42
2.2.1. Tình hình xét xử..................................................................................43
2.2.2. Một số hạn chế và vướng mắc trong hoạt động xét xử đối với tội
tổ chức đánh bạc..................................................................................51
2.2.3. Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế và vướng mắc trong xét
xử tội tổ chức đánh bạc trên địa bàn thành phố Đà Nẵng...................57
Chương 3: HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ CÁC GIẢI PHÁP NÂNG
CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT
HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ TỘI TỔ CHỨC ĐÁNH BẠC...................60
3.1. Sự cần thiết về việc hoàn thiện và nâng cao hiệu quả áp dụng
các quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam về tội tổ chức
đánh bạc .............................................................................................60
3.2. Kiến nghị hoàn thiện quy định của Bộ luật hình sự về tội tổ
chức đánh bạc và các tội phạm khác có kiên quan........................62
3.2.1. Nhận xét ..............................................................................................62
3.2.2. Nội dung hoàn thiện............................................................................64
3.3. Các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng quy định của Bộ luật
hình sự Việt Nam về tội tổ chức đánh bạc và các tội phạm khác
có liên quan.........................................................................................68
3.3.1. Giải pháp về tổ chức bộ máy ..............................................................68
3.3.2. Giải pháp về chuyên môn nghiệp vụ...................................................69
3.3.3. Giải pháp kinh tế - xã hội....................................................................71
3.3.4. Giải pháp về văn hóa - giáo dục..........................................................73
3.3.5. Một số giải pháp khác .........................................................................74
KẾT LUẬN....................................................................................................77
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................79
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLHS: Bộ luật hình sự
BLTTHS: Bộ luật tố tụng hình sự
ĐTD: Định tội danh
PLHS: Pháp luật hình sự
TAND: Tòa án nhân dân
TNHS: Trách nhiệm hình sự
VKSND: Viện kiểm sát nhân dân
DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu
bảng
Tên bảng Trang
Bảng 2.1: Tổng số vụ án, tổng số bị cáo đưa ra xét xử về tội tổ
chức đánh bạc trên tổng số vụ án, tổng số bị cáo đưa
ra xét xử và trong mối tương quan với các tội về
xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng
trong thời gian từ năm 2011 - 2015 44
Bảng 2.2: Số vụ án, số bị cáo về tội tổ chức đánh bạc trên tổng
số vụ án, số bị cáo trong nhóm các tội về cờ bạc 46
Bảng 2.3: Phân tích hình phạt áp dụng đối với bị cáo phạm tội
tổ chức đánh bạc từ năm 2011 - 2015 48
Bảng 2.4: Phân tích đặc điểm nhân thân đối với bị cáo phạm
tội tổ chức đánh bạc từ năm 2011 - 2015 49
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
Số hiệu
biểu đồ
Tên biểu đồ Trang
Biểu đồ 2.1: Biểu thị sự tăng, giảm về tình hình tội phạm trên địa
bàn thành phố Đà Nẵng từ 2011 - 2015 thông qua
số vụ và số bị cáo 45
Biểu đồ 2.2: Biểu thị về tình hình tội phạm tổ chức đánh bạc
trong nhóm các tội phạm về cờ bạc 46
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Đà Nẵng là trung tâm kinh tế, văn hoá, giáo dục, khoa học và công
nghệ lớn của khu vực miền Trung - Tây Nguyên. Đà Nẵng hiện là một trong
15 đô thị loại 1, đồng thời là một trong 5 thành phố trực thuộc Trung ương ở
Việt Nam. Trong những năm gần đây, Đà Nẵng đã tích cực đầu tư xây dựng
cơ sở hạ tầng, cải thiện môi trường, nâng cao an sinh xã hội và được coi là
“Thành phố đáng sống” của Việt Nam.
Trong quá trình phát triển của thành phố, cùng với việc xây dựng các
khu công nghiệp, bệnh viện, trường học… đã kéo theo một lượng không nhỏ
dân cư từ các tỉnh thành khác đến sinh sống, làm việc và học tập làm cho tình
hình an ninh trật tự trên địa bàn ngày càng diễn biến phức tạp; việc giải tỏa
quy hoạch chỉnh trang đô thị được diễn ra ở nhiều nơi đã làm cho số lượng
người dân có đất bị thu hồi khá lớn, dẫn đến tình trạng mất công ăn việc làm
nhưng chính quyền thành phố chưa có những định hướng trong việc chuyển
đối ngành nghề, tạo công ăn việc làm để ổn định cuộc sống cho nhân dân.
Đây là một trong những nguyên nhân làm cho tình hình tội phạm gia tăng
trong những năm qua trên địa bàn thành phố.
Là một thành phố trẻ đang trên đà phát triển, bên cạnh việc tập trung
xây dựng cơ sở hạ tầng, phát triển kinh tế, xây dựng con người Đà Nẵng có
nếp sống văn hóa - văn minh, Đà Nẵng cũng rất quan tâm đến công tác đấu
tranh phòng chống tội phạm nói chung mà đặc biệt là các tội phạm liên quan
đến cờ bạc, tội tổ chức đánh bạc nói riêng. Qua nghiên cứu thực tiễn, tình
hình tội phạm về tổ chức đánh bạc trong những năm qua trên địa bàn thành
phố Đà Nẵng tuy không gia tăng mạnh về số lượng, nhưng về phương thức tổ
chức, quy mộ hoạt động của tội phạm này thì diễn biến ngày một phức tạp,
2
thể hiện trên các phương diện như: phương thức tổ chức đánh bạc ngày một
tinh vi, đa dạng với một hệ thống chân rết rộng khắp; địa bàn hoạt động được
mở rộng và kể cả việc cấu kết với nước ngoài để tổ chức đánh bạc; lợi nhuận
bất chính của các đối tượng này thu về là khổng lồ. Những vấn đề này đã làm
ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển kinh tế, ảnh hưởng đến tình hình chính trị,
văn hóa, trật tự an toàn xã hội của thành phố và là một trong những nguyên
nhân làm phát sinh nhiều loại tội phạm khác.
Theo số liệu thống kê của TAND thành phố Đà Nẵng trong thời gian
gần đây (tính từ năm 2011 đến năm 2015) TAND cấp quận, huyện của thành
phố Đà Nẵng đã xét xử sơ thẩm 2.759 vụ án hình sự với 4.793 bị cáo, trong
đó số vụ án về các tội liên quan đến cờ bạc là 125 vụ, với 514 bị cáo, số tiền
dùng để đánh bạc lên đến hàng trăm tỷ đồng. Riêng đối với tội tổ chức đánh
bạc, các cơ quan chức năng đã đưa ra xét xử 42 / 2.759 vụ chiếm 1,52%, với
129 / 4.793 bị cáo chiếm 4,77% trong tổng số các vụ án, bị cáo đưa ra xét xử
trong thời gian 05 năm qua.
Nguyên nhân của tình hình trên, một phần là do các yếu tố khách quan,
như tác động của những vấn đề xã hội phức tạp nảy sinh trong cơ chế thị
trường và hội nhập quốc tế; sự xuống cấp về đạo đức xã hội, lối sống thực
dụng, chạy theo đồng tiền, làm ăn chụp giật,... nhưng chủ yếu vẫn là do những
hạn chế, yếu kém trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm, nhất là
phòng ngừa xã hội. Cấp ủy đảng, chính quyền, người đứng đầu cơ quan, tổ
chức ở một số ngành, địa phương chưa thực sự quan tâm chỉ đạo toàn diện
công tác phòng, chống tội phạm, vì vậy, nhiệm vụ phòng, chống tội phạm
chưa được đưa vào chương trình, kế hoạch phát triển theo yêu cầu của Đảng
và Nhà nước. Nhiều cấp, nhiều ngành còn đứng ngoài cuộc hoặc chỉ tham gia
một cách hình thức, chiếu lệ, đối phó. Tổ chức bộ máy, phân công, phân cấp ở
các cơ quan bảo vệ pháp luật và chuyên trách còn bất cập, dẫn đến chồng
3
chéo, trùng lặp. Năng lực tham mưu, quản lý và tổ chức thực hiện cũng như
tinh thần trách nhiệm, thái độ phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân, kiên quyết
tấn công tội phạm của một bộ phận cán bộ cơ quan bảo vệ pháp luật, chiến sĩ
lực lượng chuyên trách còn hạn chế, yếu kém, sa sút. Điều kiện hậu cần - kỹ
thuật bảo đảm cho công tác phòng, chống tội phạm còn nhiều khó khăn, hạn
chế. Chính sách đãi ngộ đối với lực lượng trực tiếp đấu tranh phòng, chống tội
phạm còn chưa phù hợp [39]
Trước những thực trạng đó, việc nghiên cứu các quy định của PLHS
hiện hành về tội tổ chức đánh bạc dưới góc độ thực tiễn tại một địa phương
nhất định, không những có ý nghĩa sâu sắc về mặt lý luận mà còn cả về mặt
thực tiễn áp dụng pháp luật, để từ đó đưa ra giải pháp hoàn thiện pháp luật,
nâng cao hiệu quả của việc áp dụng pháp luật đối với loại tội phạm này. Nhận
thức được điều đó, tôi chọn đề tài: “Tội tổ chức đánh bạc theo luật hình sự
Việt Nam (trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn thành phố Đà Nẵng)” làm
luận văn thạc sĩ luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Trong quá trình làm luận văn, tôi đã tham khảo, nghiên cứu một số tài
liệu là những giáo trình, sách chuyên khảo, những luận văn đã được công bố
và tập trung ở ba nhóm chủ yếu như sau:
a/ GS. TSKH. Lê Cảm (2005), Sách chuyên khảo Sau đại học: Những
vấn đề cơ bản trong khoa học Luật hình sự (Phần chung), Nxb Đại học Quốc
gia Hà Nội, Hà Nội; GS. TSKH. Lê Cảm (2007), Giáo trình luật hình sự Việt
Nam (Phần các tội phạm), Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội; GS.
TSKH. Lê Cảm, PGS. TS. Trịnh Quốc Toản (2011), Định tội danh: Lý luận,
lời giải mẫu và 500 bài tập thực hành, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà
Nội; PGS. TS. Trịnh Quốc Toản (2011), Những vấn đề lý luận và thực tiễn về
hình phạt bổ sung trong luật hình sự Việt Nam, Nxb Đại học Quốc Gia Hà
4
Nội, Hà Nội; Trường Đại học Luật Hà Nội (2004), Giáo trình luật hình sự
Việt Nam, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội; Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà
Nội (2003), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội,
Hà Nội; Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội (2006), Giáo trình Luật tố
tụng hình sự Việt Nam, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội; GS. TSKH.
Đào Trí Úc (1994), Tội phạm học, luật hình sự và tố tụng hình sự Việt Nam,
Nxb Công an nhân dân, Hà Nội; TS. Trịnh Tiến Việt (2013), Tội phạm và
trách nhiệm hình sự, Nxb Chính trị Quốc gia Hà Nội, Hà Nội...
b/ Các luận văn: Vũ Thị Phương Lan (2014), Định tội danh tội đánh
bạc theo luật hình sự Việt Nam trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn thành
phố Hà Nội, Luận văn thạc sĩ Luật học, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà
Nội; Trịnh Công Thương (2015), Các tội liên quan đến cờ bạc theo luật
hình sự Việt Nam trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn địa bàn thành phố Hồ
Chí Minh, Luận văn thạc sĩ Luật học, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà
Nội; Vũ Thị Len (2015), Tội đánh bạc và tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc
trên địa bàn thành phố Đà Nẵng tình hình, nguyên nhân và giải pháp
phòng ngừa, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Học viện khoa học xã hội - Viện
hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam.
c/ GS. TS. Nguyễn Xuân Yêm, TS. Phan Đình Khánh, Nguyễn Thị
Kim Liên (2003), Mại dâm, ma túy, cờ bạc, tội phạm thời hiện đại, Nxb Công
an nhân dân, Hà Nội; ThS. Đinh Văn Quế (2000), Thực tiễn xét xử và pháp
luật hình sự, Nxb Đà Nẵng, Đà Nẵng; ThS. Đinh Văn Quế, một số vần đề về
phạm tội có tổ chức - Cổng thông tin điện tử Tòa án nhân dân tối cao; Dương
Thanh Hiền - Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Quảng Nam, Thành lập Tòa án khu
vực: Nhìn từ thực tiễn; Trần Minh Tơn - Viện chiến lược và khoa học công
nghệ Bộ công an (2014), Quan điểm và giải pháp chiến lược phòng, chống tội
phạm thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; Lê Văn Hưng - Tạp chí
5
Tòa án nhân dân (số 14/2005), Những vướng mắc khi áp dụng Điều 248, 249
Bộ luật hình sự 1999.
Ngoài ra, tôi cũng đã tham khảo một số bài viết được đăng trên các tạp
chí khoa học chuyên ngành, nhận thấy các tác giả thường nghiên cứu một
cách tổng quát các vấn đề pháp lý ở phạm vi rộng hoặc chỉ tập trung nghiên
cứu một vài khía cạnh có liên quan đến nhóm các tội về cờ bạc. Hầu hết chưa
nghiên cứu sâu về tội tổ chức đánh bạc một cách đầy đủ, toàn diện, có tính hệ
thống từ lý luận đến thực tiễn áp dụng pháp luật.
Đồng thời, qua nghiên cứu BLHS năm 2015 được Quốc hội khóa XIII
thông qua tại kỳ họp thứ 10, ngày 27 tháng 11 năm 2015 (có hiệu lực kể từ
ngày 01 tháng 7 năm 2016) thay thế cho BLHS năm 1999, nhận thấy đã có
những sửa đổi, bổ sung quy định về tội tổ chức đánh bạc để khắc phục những
hạn chế của BLHS năm 1999, tuy nhiên vẫn còn những diểm quy định chưa
được chặt chẽ làm cho việc ĐTD, quyết định hình phạt, việc phân hóa TNHS
đối với tội phạm chưa cao, hình phạt chưa đủ sức răng đe, giáo dục đối với tội
phạm. Do đó, việc tiếp tục nghiên cứu để góp phần hoàn thiện các quy định
của BLHS hiện hành và BLHS năm 2015 quy định về tội phạm này vẫn có ý
nghĩa rất lớn cả về mặt lý luận và thực tiễn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của luận văn là nghiên cứu một cách tương đối có hệ thống
về những vấn đề pháp lý, TNHS đối với người phạm tội. Phân tích, đánh giá
thực tiễn xét xử tội tổ chức đánh bạc của TAND các cấp trên địa bàn thành
phố Đà Nẵng trong thời gian từ năm 2011 đến năm 2015, từ đó chỉ ra một số
hạn chế, vướng mắc và đề xuất những giải pháp nhằm hoàn thiện, nâng cao
hiệu quả áp dụng các quy định của BLHS về tội tổ chức đánh bạc và các tội
phạm khác có liên quan.
6
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Từ mục đích nghiên cứu nêu trên, luận văn đặt ra những nhiệm vụ
nghiên cứu cụ thể như sau:
- Nghiên cứu một số vấn đề chung về tội tổ chức đánh bạc theo luật
hình sự Việt Nam
- Quy định về tội tổ chức đánh bạc trong BLHS Việt Nam và thực tiễn
xét xử trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.
- Hoàn thiện pháp luật và các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng quy
định của BLHS Việt Nam về tội tổ chức đánh bạc.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn đúng như tên gọi của nó - Tội tổ
chức đánh bạc theo luật hình sự Việt Nam (trên cơ sở số liệu thực tiễn địa
bàn thành phố Đà Nẵng).
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu dưới góc độ pháp lý hình sự và thực tiễn xét xử
tội tổ chức đánh bạc trên địa bàn thành phố Đà Nẵng, trong thời gian 05 năm
từ 2011 đến 2015.
5. Cơ sở lý luận và các phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm, định hướng của Đảng về chính sách
hình sự. Quan điểm, đường lối xử lý tội phạm nói chung, các tội xâm phạm an
toàn công cộng, trật tự công cộng nói riêng và những luận điểm khoa học
trong các công trình nghiên cứu, sách chuyên khảo, các bài viết trên các tạp
chí chuyên ngành.
7
5.2. Các phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp đặc thù của khoa học luật hình sự
như: phương pháp thống kê, phân tích và tổng hợp số liệu dựa trên những bản
án, quyết định, số liệu thống kê, báo cáo tổng kết của TAND các cấp trên địa
bàn thành phố Đà Nẵng để phân tích và luận giải các vấn đề tương ứng được
nghiên cứu.
6. Ý nghĩa của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần hoàn thiện về mặt lý luận
đối với tội tổ chức đánh bạc trong khoa học luật hình sự Việt Nam, cụ thể:
- Đưa ra khái niệm về tội tổ chức đánh bạc.
- Phân tích khái quát lịch sử hình thành và phát triển của luật hình sự
Việt Nam quy định về tội tổ chức đánh bạc từ năm 1945 đến nay. So sánh với
quy định của luật hình sự một số nước trên thế giới quy định về tội phạm này.
- Nghiên cứu các dấu hiệu pháp lý của tội tổ chức đánh bạc.
- Phân tích thực tiến xét xử trên địa bàn thành phố Đà Nẵng trong giai
đoạn từ năm 2011 đến năm 2015, chỉ ra những hạn chế, vướng mắc và
nguyên nhân nhằm đưa ra những giải pháp hoàn thiện, nâng cao hiệu quả áp
dụng các quy định của BLHS Việt Nam đối với tội tổ chức đánh bạc và các
tội phạm liên quan về đánh bạc.
6.2. Ý nghia thực tiễn
Luận văn là tài liệu tham khảo cho các cơ quan tiến hành tố tụng,
Tòa án các cấp trong việc ĐTD, giải quyết vụ án hình sự được khách quan,
có căn cứ pháp luật. Ngoài ra, luận văn còn là cơ sở để đưa ra các kiến nghị
hoàn thiện PLHS Việt Nam liên quan đến ĐTD đối với tội tổ chức đánh
bạc và nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng, chống tội phạm này. Đặc biệt,
luận văn còn là tài liệu tham khảo cho các sinh viên, học viên cao học và
8
nghiên cứu sinh chuyên ngành Luật hình sự và tố tụng hình sự tại các cơ sở
đào tạo luật trên cả nước.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm ba chương, cụ thể:
Chương 1: Một số vấn đề chung về tội tổ chức đánh bạc theo luật hình
sự Việt Nam
Chương 2: Quy định về tội tổ chức đánh bạc trong BLHS Việt Nam và
thực tiễn xét xử trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.
Chương 3: Hoàn thiện pháp luật và các giải pháp nâng cao hiệu quả áp
dụng quy định của BLHS Việt Nam về tội tổ chức đánh bạc.
9
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỘI TỔ CHỨC ĐÁNH BẠC THEO
LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1. Khái niệm tội tổ chức đánh bạc và sự cần thiết của việc quy
định tội phạm này trong luật hình sự Việt Nam
1.1.1. Khái niệm tội tổ chức đánh bạc trong luật hình sự Việt Nam
“Tội phạm là một hiện tượng xã hội - pháp lý gắn liền với sự ra đời của
nhà nước và pháp luật, cũng như với sự xuất hiện của sỡ hữu tư nhân và sự
phân chia xã hội thành các giai cấp đối kháng” [3, tr. 287]. Vì vậy, để bảo về
đặc quyền của mình, Nhà nước sẽ quy định những hành vi nguy hiểm nào bị
xem là tội phạm và áp dụng TNHS đối với người thực hiện hành vi đó, Điều 8
BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) quy định tội phạm như sau:
Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định
trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự
thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền,
thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị,
chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã
hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm đến tính mạng,
sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền, lợi ích hợp
pháp khác của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự
pháp luật xã hội chủ nghĩa [1, Điều 8].
Với định nghĩa này, tội phạm được các nhà làm luật đề cập đến có bốn
đặc điểm (dấu hiệu) cơ bản: Là hành vi nguy hiểm cho xã hội, do người có
năng lực TNHS thực hiện, có lỗi và trái với PLHS.
Đối với tội tổ chức đánh bạc, do xuất phát đều là các hành vi thuộc về
tệ nạn cờ bạc, có những điểm chung nhất định, hành vi được mô tả trong các
10
tội này gắn bó chặt chẽ với nhau (hành vi khách quan của tội tổ chức đánh bạc
mang tính chất hỗ trợ, tạo điều kiện cho hành vi đánh bạc). Xét trong mối
quan hệ với nhóm tội, một tội cụ thể trong nhóm tội đóng vai trò cái riêng, cái
cụ thể, nhóm tội đóng vai trò cái chung, cái khái quát. Nghiên cứu cái riêng
phải qua cái chung, nghiên cứu cái cụ thể phải đặt trong cái khái quát. Do
vậy, để nghiên cứu khái niệm tội tổ chức đánh bạc nhất thiết phải đặt nó trong
nhóm các tội đánh bạc.
Theo từ điển luật học: “Đánh bạc là (hành vi) tham gia vào trò chơi
được tổ chức bất hợp pháp mà sự được (hoặc thua) kèm theo việc được
(hoặc mất) lợi ích vật chất đáng kể (tiền, hiện vật hoặc các hình thức tài
sản khác)” [44, tr. 227]
Trải qua các thời kỳ, các cơ quan lập pháp nước ta vẫn chưa đi đến
thống nhất trong việc đưa ra một khái niệm hoàn chỉnh các tội phạm liên
quan đến cờ bạc nói chung và tội phạm tổ chức đánh bạc nói riêng, bởi vì
các hành vi về cờ bạc, tổ chức đánh bạc đều là các hiện tượng xã hội, nên nó
phát sinh trong các điều kiện xã hội nhất định, và sẽ tiêu vong trong những
điều kiện xã hội nhất định khác. Ở vào các giai đoạn khác nhau của xã hội,
nó có những phát triển và biểu hiện khác nhau, xem xét ở góc độ pháp lý
hình sự, trong mỗi giai đoạn lịch sử nước ta, các khái niệm này được đề cập
ở các phạm vi khác nhau, tương ứng với điều kiện, nhận thức và cũng nhằm
đáp ứng các mục tiêu khác nhau tương ứng trong từng giai đoạn mà nhà
nước đặt ra cho hệ thống luật.
Với khái niệm về các hành vi cờ bạc được quy định tại Sắc lệnh 168/SL
ngày 14 tháng 4 năm 1948, văn bản PLHS đầu tiên của nhà nước ta được các
nhà làm luật ghi nhận như sau:
Tất cả các trò chơi cờ bạc, dù là có tính cách may rủi hay là
có thể dùng trí khôn để tính nước mà được thua bằng tiền, đều coi
11
là tội đánh bạc; Những cuộc đánh đố nhau bằng tiền, những cuộc xổ
số bằng tiền hay bằng đồ mà không có nhà chức trách có thẩm
quyền cho phép trước cũng đều bị phạt như tội đánh bạc.
Những người nào tổ chức một cuộc đánh bài, đánh bạc, một
trò chơi kể trong Điều 1 không cứ ở một nơi nào, đều bị phạt tù từ
hai năm đến năm năm và phạt bạc từ 10.000đ đến 100.000đ.
Những người nào giúp một người khác tổ chức những cuộc
nói trên, những người chủ nhà trí tình mà để người ta đánh bài
đánh bạc trong nhà mình, không cứ là có thu lợi hay không,
những người quản trị, người làm cái, người lấy hồ, đều bị phạt
như người tổ chức [36, tr. 496].
Quy định này “hành vi tổ chức đánh bạc được áp dụng đối với người
tổ chức ra đám bạc và những người giúp sức để tổ chức ra đám bạc”, phạm
vi chủ thể phạm tội tổ chức đánh bạc ở đây là rất rộng, bởi chỉ cần “tổ chức
một cuộc đánh bài, đánh bạc, một trò chơi” là đủ yếu tố để cấu thành tội
phạm, không nhất thiết phải đạt đến một định lượng, một mức độ nguy hiểm
nhất định đối với xã hội.
Theo Bản tổng kết số 9-NCPL ngày 08 tháng 01 năm 1968 của TAND
tối cao, khái niệm về các hành vi về liên quan đánh bạc được nêu ra như sau:
Hành vi đánh bạc: “Là hành vi chơi có được thua bằng tiền mặt hay
không dùng tiền mặt, nhưng thanh toán với nhau bằng tiền, tuy nhiên phải có
động cơ mục đích sát phạt nhau” [36, tr. 498].
Hành vi tổ chức, chứa gá cờ bạc: “Là gây ra vụ đánh bạc, lôi cuốn
người khác vào vòng phạm pháp để vụ lợi” [36, tr. 498].
Khái niệm này đã nêu lên được hành vi khách quan của tội phạm, là
những hành vi rủ rê, lôi cuốn người khác tham gia đánh bạc và động cơ vụ lợi
là dấu hiệu bắt buộc trong mặt chủ quan của tội phạm, nếu không có yếu tố vụ
lợi thì không bị xem là tội phạm.
12
Sau khi pháp điển hóa BLHS năm 1985, quy đinh về các hành vi liên
quan đến đánh bạc đã được phân hóa cụ thể hơn bằng việc xác định ba tội
phạm trong nhóm này, gồm: đánh bạc, tổ chức đánh bạc và gá bạc. Tội tổ
chức đánh bạc được quy định “Người nào tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc thì
bị phạt…” điều luật quy định một cách chung chung, chưa thể hiện rõ các dấu
hiệu cơ bản của tội phạm.
Còn theo BLHS năm 1999, Điều 249 quy định tội tổ chức đánh bạc
như sau:
Người nào tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc trái phép với quy mô lớn hoặc
đã bị xử phạt hành chính về hành vi quy định tại Điều này và Điều 248 của
Bộ luật này hoặc đã bị kết án về một trong các tội này, chưa được xóa án tích
mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến ba trăm triệu đồng
hoặc phạt tù từ một năm đến năm năm [1, Điều 249].
Với quy định này, hành vi tổ chức đánh bạc được khái niệm “Là hành vi
chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy, cưỡng bức, đe dọa người khác tham gia trò chơi có
được thua bằng tiền hoặc tài sản dưới bất kỳ hình thức nào” [26, tr. 211]. Hay
nói cách khác, hành vi tổ chức đánh bạc là hành vi của chủ thể nhằm rủ rê, lôi
kéo các chủ thể khác thực hiện hành vi đánh bạc trái phép, ở đây động cơ vụ
lợi không còn là dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành đối với tội phạm và tội
phạm có cấu thành về mặt hình thức đó là phải có “quy mô lớn hoặc…”. Có
thể thấy rằng, về kỹ thuật lập pháp điều luật đã quy định chặt chẽ hơn, tuy
nhiên vẫn chưa khái quát đầy đủ các đặc điểm cơ bản trong cấu thành tội
phạm mà PLHS đã quy định.
Khi nghiên cứu về khái niệm tội phạm, theo GS.TSKH. Lê Cảm:
Khái niệm tội phạm phải bao hàm đầy đủ năm đặc điểm (dấu hiệu) trên
cả ba bình diện khách quan, pháp lý và chủ quan. Bình diện khách quan (nội
dung) - tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội(1); Bình diện pháp lý (hình
13
thức) - tội phạm là hành vi trái pháp luật hình sự(2); Bình diện chủ quan - tội
phạm là hành vi do người có năng lực TNHS(3) và đủ tuổi chịu TNHS(4)
thực hiện một cách có lỗi (5) [3, tr. 297].
Ở đây, tuổi chịu TNHS được xem là một dấu hiệu cơ bản trong cấu
thành tội phạm và tôi thống nhất với quan điểm của tác giả đã đề cập đến.
Trên cơ sở khái niệm về tội phạm đã được đề cập ở trên và qua nghiên cứu
những khái niệm về tội tổ chức đánh bạc trong từng giai đoạn lịch sử của
nước ta đã được các nhà làm luật đưa ra, theo tôi khái niệm tội tổ chức đánh
bạc có thể được định nghĩa như sau:
Tổ chức đánh bạc là chủ mưu, cầm đầu, rủ rê, lôi kéo hoặc tạo điều
kiện cần thiết cho người khác tham gia đánh bạc, trái với quy định của PLHS,
gây thiệt hại cho trật tự an toàn công cộng, do người có năng lực TNHS và đủ
tuổi chịu TNHS thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp.
Từ khái niệm này, ta có thể chỉ ra một số đặc điểm cơ bản của tội tổ
chức đánh bạc đó là:
Một là, khách thể mà tội tổ chức đánh bạc xâm phạm đến là trật tự công
cộng. Để có trật tự công cộng, đòi hỏi Nhà nước, các cơ quan, tổ chức và mọi
công dân trong xã hội đều phải có trách nhiệm xây dựng, thực hiện và bảo vệ
các quy tắc của trật tự sinh hoạt chung trên các lĩnh vực khác nhau của đời
sống xã hội. Nếu ai đi ngược lại điều này là xâm phạm đến trật tự công cộng
và sẽ bị xử lý theo quy định của PLHS nếu vi phạm đó có đủ các yếu tố cấu
thành tội phạm.
Hai là, người phạm tội tổ chức đánh bạc là người có hành vi tổ chức
cho người khác thực hiện hành vi đánh bạc trái phép, thông qua các hành vi
khách quan, như: lôi kéo, rủ rê hoặc tạo điều kiện cần thiết cho việc thực hiện
hành vi phạm tội hoặc hành vi vi phạm pháp luật.
Ba là, tội tổ chức đánh bạc do người có đủ năng lực TNHS, đủ tuổi
chịu TNHS và được thực hiện một cách có lỗi cố ý trực tiếp.
14
Bốn là, hành vi tổ chức đánh bạc ở đây khác với phạm tội có tổ chức
theo quy định tại khoản 3 Điều 20 BLHS năm 1999. Bởi đối với hành vi
phạm tội này có thể có trường hợp là phạm tội có tổ chức, nhưng không phải
tất cả các hành vi phạm tội này đều bị coi là phạm tội có tổ chức.
1.1.2. Sự cần thiết của việc quy định tội tổ chức đánh bạc trong luật
hình sự Việt Nam
Ở Việt Nam, hành vi đánh bạc đã xuất hiện lâu đời trong đời sống xã
hội, như một trò chơi giải trí trong những dịp hội hè, lễ tết. Cho nên đánh bạc
thường xuất hiện như một tập quán, một thói quen giao tiếp, giải trí của cộng
đồng. Tuy nhiên, nếu đánh bạc không còn đơn thuần là giải trí mà nhằm mục
đích ăn thua chiếm đoạt tài sản của nhau, hình thành nên xới bạc có chủ xới
phụ trách chung, có người đứng thu tiền hồ của con bạc, có người đứng ra để
bảo kê nhằm thu lợi bất chính, gây ảnh hưởng đến trật tự công cộng là những
hành vi vi phạm pháp luật, cần phải được pháp luật nhà nước điều chỉnh và nó
được xem như một tệ nạn trong xã hội [50, tr. 351].
Tệ nạn xã hội là những hành vi vi phạm pháp luật, là những sai lệch
chuẩn mực xã hội, có tính phổ biến, gây thiệt hại nghiêm trọng trong đời sống
kinh tế - văn hoá - xã hội. Tệ nạn xã hội là một phạm trù bao gồm: Mại dâm,
nghiện hút ma tuý, cờ bạc, người lang thang, văn hoá phẩm đồi trụy [49, tr. 8]
Việc xác định cờ bạc là một tệ nạn, là một trong những mặt tiêu cực
của xã hội, gây ảnh hưởng lớn đến mọi mặt của đời sống tư tưởng, đạo đức,
sức khỏe, kinh tế của đất nước. Vì vậy, để xã hội được ổn định và phát triển
nhà nước phải luôn quan tâm đề ra những giải pháp để đấu tranh, phòng ngừa
và từng bước đẩy lùi chúng.
Hơn thế nữa tội tổ chức đánh bạc cũng như các tội liên quan đến cờ bạc
đều có cùng khách thể của tôi phạm đó là trực tiếp xâm phạm đến là trật tự
công cộng. Việc quy định các tội này là nhằm đấu tranh phòng ngừa tệ nạn cờ
15
bạc trong xã hội, giữ gìn trật tự công cộng, bảo về sự bình yên của mọi gia
đình, tính mạng, sức khỏe và tài sản công dân [34, tr. 31]
Cờ bạc còn có liên quan chặt chẽ và chịu sự tác động qua lại của tội phạm
và tình hình trật tự an toàn xã hội. Cờ bạc là môi trường thuận lợi nuôi dưỡng
các hành vi phạm tội, các vi phạm pháp luật khác hoặc các hiện tượng lộn xộn
trong xã hội. Đội quân cờ bạc được coi là nguồn bổ sung cho các loại tội phạm,
trong nhiều trường hợp còn làm tha hóa cả đội ngũ cán bộ công chức nhà nước.
Sự phát triển của tệ nạn cờ bạc còn trực tiếp thúc đẩy các tội phạm và tệ nạn xã
hội khác phát triển. Có thể nói giữa các tệ nạn xã hội, mại dâm, ma túy, cờ bạc,
tội phạm có liên quan mật thiết, tác động qua lại, thúc đẩy lẫn nhau phát triển.
Với thực tế hiện nay, trong bối cảnh đất nước hội nhập kinh tế quốc tế, do
sự tác động của mặt trái nền kinh tế thị trường, sự phát triển mạnh mẽ trong lĩnh
vực công nghệ thông tin, đã tạo điều kiện cho các đối tượng lợi dụng lập ra
những đường dây tổ chức đánh bạc công nghệ cao, kể cả là việc liên kết với
nước ngoài để tổ chức đánh bạc, làm thất thoát về tài chính, thiệt hại nặng nề cho
nền kinh tế đất nước. Vì vậy, để bảo vệ đặc quyền của giai cấp thống trị, bảo vệ
an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, phòng chống tệ nạn xã hội, phòng chống
tội phạm đòi hỏi Nhà nước phải có các biện pháp xử lý mạnh mẽ đối với tội
phạm nói chung và các tội về cờ bạc, tội tổ chức đánh bạc nói riêng. Muốn như
vậy, việc quy định các hành vi liên quan đến cờ bạc, hành vi tổ chức đánh bạc
vào BLHS để đủ sức răn đe, giáo dục đối với người phạm tội là thật sự cần thiết.
1.2. Khái quát quá trình hình thành và phát triển của luật hình sự
Việt Nam quy định về tội tổ chức đánh bạc
1.2.1. Giai đoạn từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến trước
khi pháp điển hóa Bộ luật hình sự năm 1985
Như đã nêu ở trên, cờ bạc là một hiện tượng xuất hiện rất sớm trong xã
hội loại người nói chung và ở xã hội Việt Nam nói riêng [50, tr. 350]. Về mặt
16
xã hội, cờ bạc là một trò chơi tiêu khiển được biểu hiện một cách trực tiếp
hoặc gián tiếp thông qua nhiều loại hình khác nhau, ngoài ra cờ bạc cũng
được hiểu một cách khác nhau tùy thuộc vào bối cảnh văn hóa, lịch sử cũng
như pháp luật cụ thể của mỗi nước mà xem cờ bạc là hành vi phạm tội hoặc là
hành vi không phạm tội. Ở nước ta, dưới chế độ phong kiến vấn đề cờ bạc đã
được đề cập đến trong các Bộ luật lớn, như Quốc triều hình luật triều Lê, Luật
Gia Long triều Nguyễn.
Trong thời kỳ thực dân Pháp thống trị nước ta, nhằm thực hiện chính
sách nô dịch ngu dân để dễ cai trị và với mục đích làm phai nhòa lý tưởng đấu
tranh dành độc lập của nhân dân ta, đặc biệt là để gây tâm lý tự ty, vong bản,
đầu độc tư tưởng trong thế hệ trẻ, nhà nước Pháp cho phép mở các tụ điểm
hút chích á phiện, các ổ cờ bạc, cũng như cho phép các sòng bạc được mở tự
do trên đất nước và không bị pháp luật nghiêm cấm.
Sau khi cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, nhà nước Việt
Nam dân chủ cộng hòa ra đời. Chính phủ mới được thành lập đã nhận thấy
rõ sự nguy hiểm của các hành vi cờ bạc đối với xã hội và sự phát triển bền
vững của chính quyền mới. Trong thời kỳ này một vấn đề đặt ra gắn liền với
những hành vi cờ bạc là quân dịch và những thành phần thuộc giai cấp bóc
lột lúc bấy giờ chưa bị thủ tiêu, chúng lợi dụng cờ bạc nhằm mục đích phá
hoại, đầu độc bóc lột nhân dân ta, làm cho một bộ phận nhân dân quên đi
nhiệm vụ cách mạng.
Nhận thức rõ tính chất nguy hiểm của các hành vi cờ bạc và để đấu
tranh, xử lý ngăn chặn những hệ lụy nguy hại cho xã hội và an ninh quốc gia.
Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa đã ban hành Sắc lệnh 168/SL ngày 14
tháng 4 năm 1948 về việc ấn định cách trừng trị tội đánh bạc. Đây là văn bản
PLHS đầu tiên được nhà nước ta quy định về các tội cờ bạc, Sắc lệnh này đã
thể hiện đường lối xử lý cứng rắn, thái độ nghiêm khắc của nhà nước đối với
các tội phạm về cờ bạc [36, tr. 496].
17
Sắc lệnh 168/SL quy đinh về các tội cờ bạc:
Điều 1: Tất cả các trò chơi cờ bạc, dù là có tính cách may rủi
hay là có thể dùng trí khôn để tính nước mà được thua bằng tiền,
đều coi là tội đánh bạc và bị phạt như sau.
Những cuộc đánh đố nhau bằng tiền, những cuộc xổ số bằng
tiền hay bằng đồ mà không có nhà chức trách có thẩm quyền cho
phép trước cũng đều bị phạt như tội đánh bạc.
Điều 2: Những người nào tổ chức một cuộc đánh bài, đánh bạc,
một trò chơi kể trong Điều 1 không cứ ở một nơi nào, đều bị phạt tù từ
hai năm đến năm năm và phạt bạc từ 10.000đ đến 100.000đ.
Những người nào giúp một người khác tổ chức những cuộc
nói trên, những người chủ nhà trí tình mà để người ta đánh bài đánh
bạc trong nhà mình, không cứ là có thu lợi hay không, những người
quản trị, người làm cái, người lấy hồ, đều bị phạt như người tổ chức.
Các người làm công khác giúp trực tiếp vào các cuộc chơi
đều bị phạt là tòng phạm.
Những người nào đánh bạc hay dự vào các cuộc chơi nói trên sẽ
bị phạt tù từ một năm đến ba năm và phạt bạc từ 5.000đ đến 50.000đ
Bao nhiêu đồ trần thiết nơi đánh bạc, các dụng cụ dùng vào
việc đánh bạc, tiền nong bắt được trên bàn hay chiếu, đều bị tịch thu.
Ngoài ra, các bị can còn có thể bị quản thúc từ một năm đến
mười năm [36, tr. 496].
Ngoài ra, Điều 4 của Sắc lệnh thể hiện thái độ rất nghiêm khắc của nhà
nước trong việc xử lý những người thực hiện hành vi cờ bạc “Dù rằng Tòa án
có xét xử tình trạng nên giảm, cũng bắt buộc phải áp dụng hình phạt tối thiểu
về tù và tiền, mà không cho bị can hưởng án treo. Nếu có trường hợp tái
phạm, các hình phạt sẽ tăng gấp đôi” [36, tr. 496].
18
Sau khi ban hành, Sắc lệnh đã trở thành cơ sở pháp lý quan trọng cho
công cuộc đấu tranh phòng chống tệ nạn cờ bạc. Qua những quy định của Sắc
lệnh có thể nhận thấy phạm vi chủ thể có thể bị xử lý về tội tổ chức đánh bạc
là rất rộng, hình phạt được áp dụng đối với người vi phạm là rất nặng, đây là
thái độ nghiêm khắc cần thiết của nhà nước trong hoàn cảnh lúc bấy giờ. Tuy
vậy, bên cạnh đó cũng phải thấy kỹ thuật lập pháp chưa được cao là một
nhược điểm của Sắc lệnh, các tội phạm về cờ bạc mới dừng lại ở mức độ liệt
kê, chưa mô tả cụ thể, chưa giải thích thế nào là hành vi tổ chức.
Trong quá trình thực hiện các quy định của Sắc lệnh 168/SL, do có sự
thay đổi về kinh tế - chính trị, miền Bắc công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa
đã căn bản được hoàn thành, xã hội có những biến đổi sâu sắc, vấn đề ngăn
chặn bàn tay của địch và những phần tử bóc lột sử dụng cờ bạc để chống phá
đã không còn được đặt ra nữa, do đó Sắc lệnh 168/SL không còn thực sự
phù hợp. Để khắc phục những điểm hạn chế của Sắc lệnh nhằm phù hợp tình
hình thực tế xã hội lúc bấy giờ, Bộ tư pháp đã ban hành Thông tư 301/VHH-
HS ngày 14 tháng 02 năm 1957 và Thông tư 2098/VHH-HS ngày 31 tháng 5
năm 1957 về việc bài trừ tệ nạn cờ bạc và giải quyết một phần vướng mắc
của Sắc lệnh 168/SL.
Tại thông tư 301/VHH-HS quy định đường lối xử lý các tội liên quan
đến cờ bạc là “lấy giáo dục làm chính” và cũng hướng dẫn các cơ quan tư
pháp đường lối giải quyết vụ án là không nhất thiết phải bắt được quả tang
đánh bạc mới có thể truy tố được, đồng thời Thông tư này cũng xác định chỉ
truy tố đối với các đối tượng:
- Bọn tổ chức, bọn chứa gá, bọn sóc cái, bon hồ lỳ, bọn canh
gác chuyên sống về nghề cờ bạc.
- Bọn con bạc chuyên sống bằng nghề cờ bạc hoặc đã được
cảnh cáo rồi mà vẫn tiếp tục chơi, coi thường pháp luật.
19
Quy định này đã thu hẹp về đối tượng bị xử lý về tội cờ bạc,
tập trung xử lý nghiêm các đối tượng tham gia vào tổ chức, chứa gá
bạc, đối với người đánh bạc chỉ xử lý đối tượng có kèm theo những
đặc điểm về nhân thân thì mới xem xét truy tố [21, tr. 33].
Thông tư 2098/VHH-HS nêu ra cách vận dụng Sắc lệnh 168/SL và xác
định về mức hình phạt, về vấn đề thu tang vật, về vấn đề quản thúc trong xử
lý vụ án [2].
Tiếp theo hai Thông tư này, ngày 08 tháng 01 năm 1968 TAND tối cao
đưa ra Bản tổng kết số 09-NCPL và khái niệm về hành vi tổ chức đánh bạc
được các nhà làm luật ghi nhận như sau:
Tổ chức, chứa gá cờ bạc là gây ra vụ đánh bạc, lôi cuốn người
khác vào vòng phạm pháp để vụ lợi. Do đó, chỉ cần tổ chức chứa gá
một đám bạc là đã cấu thành tội phạm. Động cơ trục lợi ở đây rất
nguy hiểm, nó dẫn đến chứa gá nhiều canh bạc, sát phạt nhau to, kéo
dài, đông người tham gia, để trục lợi được nhiều hơn [36, tr. 497].
Đồng thời, báo cáo đã chỉ ra ranh giới giữa cần thiết và không cần thiết
xử lý hình sự. Đối với các hành vi tổ chức, chứa gá bạc cờ bạc nhưng không
thuộc những trường hợp có động cơ trục lợi, thu hồ, chia hồ, không nguy
hiểm đáng kể cho xã hội, cũng không cần thiết phải xử lý về mặt hình sự. Đây
là những trường hợp chủ nhà vì nể nang tình cảm bạn bè, bà con mà một vài
lần cho người khác đánh bạc hoặc tổ chức đánh bạc trong nhà mình nhưng chỉ
là để tạo cơ hội cùng tham gia, thõa mãn máu cờ bạc của bản thân, trường hợp
này chỉ xử lý về hành vi đánh bạc, còn hành vi tổ chức, chứa gá chỉ để đánh
giá lượng hình. Ngoài ra, văn bản này cũng quy định chỉ xử lý vi cảnh đối với
những hành vi cờ bạc mang tính nhỏ nhặt [36, tr. 497].
Sau ngày giải phóng miền Nam, Hội đồng Chính phủ cách mạng lâm
thời ban hành Sắc luật số 03-SL/76 ngày 15 tháng 3 năm 1976 quy định các
20
tội phạm và hình phạt. Văn bản này ra đời trong hoàn cảnh miền Nam đã hoàn
toàn giải phóng, trật tự cách mạng đã được thiết lập, tình hình trị an xã hội
bước đầu đã có chuyển biến tốt nhưng vẫn còn phức tạp, nhiều loại tội phạm
trong đó có tội phạm về cờ bạc vẫn xảy ra, gây khó khăn cho việc quản lý xã
hội. Vì vậy, những quy định về tội cờ bạc trong Sắc luật 03-SL/76 vẫn thể
hiện thái độ nghiêm khắc của nhà nước đối với các hành vi phạm tội này.
Tại Điều 9 của Sắc luật quy định mức hình phạt đối với tội cờ bạc là từ
ba tháng đến năm năm, trường hợp nghiêm trọng thì bị phạt tù đến mười lăm
năm, trong mọi trường hợp có thể bị phạt tiền đến 1000 đồng Ngân hàng.
Ngoài ra, quy định tại Điều 11 về hình phạt phụ, người phạm tội có thể bị tịch
thu một phần hoặc toàn bộ tài sản, trường hợp phạm tội có tính chất chuyên
nghiệp còn có thể bị phạt quản chế hoặc cấm lưu trú ở một số địa phương từ
một năm đến năm năm sau khi chấp hành xong hình phạt tù. Tuy nhiên, do
hình phạt theo quy định tại Sắc luật 03-SL/76 là quá cao, không phù hợp với
tình hình thực tế ở miền Bắc. Vì vậy, theo tinh thần Chỉ thị 54/TATC ngày 6
thàng 7 năm 1977 giai đoạn này miền Bắc vẫn áp dụng đường lối xét xử được
hướng dẫn tại bản tổng kết số 09-NCPL ngày 8 tháng 1 năm 1968 của TAND
tối cao và Sắc luật 03-SL/76 chỉ áp dụng cho miền Nam [21, tr. 36-37].
Qua nghiên cứu các văn bản PLHS của nước ta trong thời kỳ này, nhận
thấy rằng trong mỗi giai đoạn lịch sử, các hành vi thuộc về cờ bạc đều có thể
bị xử lý hình sự, chỉ khác là ở mức độ nặng hay nhẹ và nhà nước ta đã xác
định hành vi cờ bạc là những hành vi có tính chất nguy hiểm đáng kể xâm hại
đến trật tự an toàn xã hội. Những điểm tiến bộ nổi bật trong các văn bản của
giai đoạn này là đã nêu ra được những khái niệm, phân hóa một cách tương
đối rõ về các hành vi thuộc tội phạm cờ bạc, xác định rõ phạm vi những
trường hợp, những đối tượng bị xử lý về hình sự. Tuy nhiên, do phần lớn
được ban hành trong bối cảnh đất nước đang xảy ra chiến tranh, cũng là giai
21
đoạn đầu tiên trong lịch sử lập pháp hình sự của nhà nước ta, nên các văn bản
này còn gặp phải các hạn chế về kỹ thuật khi xây dựng và ban hành. Điều này
thể hiện rõ ở việc khái niệm về tội phạm chủ yếu mang tính liệt kê, chưa phân
định rõ giữa các hành vi cờ bạc, cách quy định còn rất sơ lược và đặc biệt là
chưa có sự thống nhất giữa hai miền đất nước về đường lối xử lý.
Mặc dù còn những hạn chế nhất định, nhưng phải khẳng định rằng Sắc
lệnh 168/SL, Sắc luật 03-SL/76 cùng các văn bản hướng dẫn thi hành trong
thời gian này là những cơ sở pháp lý quan trọng để đấu tranh phòng chống tội
phạm về cờ bạc, tội tổ chức đánh bạc, thực hiện nhiệm vụ xây dựng, cải tạo
nhà nước trong giai đoạn lịch sử này. Đây cũng là cơ sở để xây dựng những
quy định của PLHS nước ta về tội phạm liên quan đến cờ bạc nói chung và tội
tổ chức đánh bạc nói riêng về sau.
1.2.2. Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985 đến nay
BLHS năm 1985 được ban hành là kết quả của hoạt động pháp điển, là
đạo luật hình sự đầu tiên của nước ta, trong đó quy định tất cả các vấn đề về
tội phạm và hình phạt, nó thay thế cho toàn bộ các văn bản pháp luật đã áp
dụng trước đó. Theo đó, các tội về cờ bạc, tội tổ chức đánh bạc được các nhà
làm luật quy định trong cùng một Điều luật - Điều 200 BLHS:
1. Người nào đánh bạc dưới bất kỳ hình thức nào được thua
bằng tiền hay hiện vật, thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ
đến một năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến ba năm.
2. Người nào tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc thì bị phạt cảnh
cáo, cải tạo không giam giữ đến một năm hoặc bị phạt tù từ sáu
tháng đến ba năm.
Phạm tội trong trường hợp tái phạm nguy hiểm thì bị phạt tù
từ hai năm đến bảy năm [27, Điều 200].
Qua Điều 200 cũng như sự ra đời Phần chung BLHS năm 1985 bao
22
gồm các quy định về tội phạm và hình phạt, chúng ta có thể nhận thấy bước
tiến vượt bậc trong kỹ thuật lập pháp đối với PLHS nói chung và quy định về
các tội cờ bạc nói riêng. Kế thừa quan điểm, nhận thức về tính nguy hiểm cho
xã hội của các hành vi cờ bạc, các nhà làm luật ở đây đã xác định rõ các tội
phạm trong nhóm này, bao gồm: đánh bạc, tổ chức đánh bạc và gá bạc, điều
mà trước đó mới chỉ dừng lại ở việc liệt kê các hành vi phạm tội. Việc đổi
mới này làm cho quy định về các tội cờ bạc và tội tổ chức đánh bạc trở nên
ngắn gon, dễ hiểu và khoa học.
Một điểm đáng chú ý, mặc dù xác định ba tội danh cụ thể, nhưng Bộ
luật lại đặt chúng trong một điều luật duy nhất. Cách quy định này khiến Điều
200 BLHS năm 1985 bên cạnh việc thể hiện được những tiến bộ về kỹ thuật
lập pháp, vẫn còn bộc lộ những hạn chế cần khắc phục, mà cụ thể là các dấu
hiệu cấu thành tội đánh bạc gần như không có điểm chung với các dấu hiệu
cấu thành tội tổ chức đánh bạc và gá bạc, điều luật đã phân định rõ rệt tội
đánh bạc với tổ chức đánh bạc và gá bạc khi quy định chúng ở hai khung hình
phạt khác nhau với từng chế tài cụ thể riêng biệt. Do vậy, việc quy định ba tội
này trong cùng một điều luật chưa đảm bảo được tính khoa học, chưa thể hiện
sự phân hóa cao về TNHS.
Một hạn chế khác là các quy định về cả ba tội đều không chỉ rõ ranh
giới giữa các hành vi cờ bạc là tội phạm và các hành vi cờ bạc là vi phạm
hành chính. Mặc dù quy định của Điều 200 phải được đặt trong mối tương
quan với những quy định chung về tội phạm, cụ thể là khoản 3 Điều 8 BLHS
năm 1985 quy định: “Những hành vi tuy có dấu hiệu của tội phạm nhưng tính
chất nguy hiểm cho xã hội không đáng kể, thì không phải là tội phạm và được
xử lý bằng các biện pháp khác” [27, Điều 8]. Nhưng thế nào là nguy hiểm
không đáng kể thì chưa được giải thích cụ thể, những người áp dụng pháp luật
có thể có quan điểm khác nhau khi xác định ranh giới giữa nguy hiểm đáng kể
và nguy hiểm không đáng kể đối với các hành vi cờ bạc [21, tr. 40].
23
BLHS năm 1985 với những tiến bộ trong kỹ thuật lập pháp, đã góp
phần quan trọng vào công tác đấu tranh phòng chống tội phạm về cờ bạc nói
chung, tội tổ chức đánh bạc nói riêng trong suốt 15 năm có hiệu lực thi hành.
Mặc dù vậy, do cách quy định khái quát, gọn nhẹ, nên chưa thể hiện được
những nội dung cần thiết, tạo nên những vướng mắc trong quá trình áp dụng.
Đây chính là những điểm chưa hợp lý, chưa đáp ứng yêu cầu của thực tiễn, sự
phát triển của xã hội nên yêu cầu sửa đổi là cần thiết và vấn đề này đã được
các nhà làm luật nước ta khắc phục trong BLHS năm 1999.
Trên cơ sở BLHS năm 1985, cũng như những bài học kinh nghiệm từ
thực tiễn đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm trong nhiều thập kỷ qua
của quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc [28] Ngày 21 tháng 12 năm 1999,
Quốc hội khoá X đã thông qua và ban hành BLHS năm 1999, từ khi BLHS
năm 1999 ra đời thì việc xử lý các tội phạm về cờ bạc, tội tổ chức đánh bạc đã
theo một chính sách mới, việc ĐTD, quyết định hình phạt, nguyên tắc xử
phạt, xử lý vật chứng cũng có nhiều điểm mới giúp cho việc cá thể hóa TNHS
ngày càng tiến bộ hơn. Các tội phạm về cờ bạc được các nhà làm luật chia
tách thành hai điều luật độc lập, Điều 248: tội đánh bạc và Điều 249: tội tổ
chức đánh bạc hoặc gá bạc. Tuy nhiên, do cấu tạo điều luật miêu tả những
hành vi khách quan vẫn có nhiều mặt chưa sáng tỏ, nên các cơ quan có thẩm
quyền đã ban hành nhiều văn bản để hướng dẫn áp dụng, như:
- Nghị quyết số 02/2003/NQ - HĐTP ngày 17 tháng 4 năm 2003 của
Hội đồng thẩm phán TAND tối cao, hướng dẫn áp dụng một số quy định của
BLHS 1999.
- Nghị quyết số 01/2006/NQ - HĐTP ngày 12 tháng 5 năm 2006 của
Hội đồng thẩm phán TAND tối cao, hướng dẫn áp dụng một số quy định của
BLHS 1999.
Tại kỳ họp thứ 5, Quốc hội khóa XII đã thông qua Luật số 37/2009/QH12
24
ngày 19 tháng 6 năm 2009 về sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm
1999, theo đó tội tổ chức đánh bạc được quy định như sau:
Điều 249: Tội tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc
1. Người nào tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc trái phép với quy
mô lớn hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi quy định tại Điều
này và Điều 248 của Bộ luật này hoặc đã bị kết án về một trong các
tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ
mười triệu đồng đến ba trăm triệu đồng hoặc phạt tù từ một năm
đến năm năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị
phạt tù từ ba năm đến mười năm:
a) Có tính chất chuyên nghiệp;
b) Thu lợi bất chính lớn, rất lớn hoặc đặc biệt lớn;
c) Tái phạm nguy hiểm.
3. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu
đồng đến một trăm triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ
tài sản [30, Điều 249].
Với qui định này, hành vi tổ chức đánh bạc bị PLHS điều chỉnh là hành
vi “tổ chức đánh bạc trái phép” và phải có “quy mô lớn hoặc đã bị xử phạt
hành chính về hành vi quy định tại Điều này và Điều 248 của Bộ luật này
hoặc đã bị kết án về một trong các tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi
phạm”. Để giải thích tính “quy mô lớn”, Hội đồng thẩm phán TAND tối cao
đã ban hành Nghị quyết số 01/2010/NQ - HĐTP ngày 22 tháng 10 năm 2010,
hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Điều 248, Điều 249 của BLHS để giải
thích những trường hợp thuộc quy mô lớn đối với tội tổ chức đánh bạc.
Về hình phạt, người phạm tội tổ chức đánh bạc có thể bị Tòa án lựa
chọn một trong hai hình phạt chính là phạt tiền từ mười triệu đến ba trăm triệu
25
đồng hoặc phạt tù có thời hạn từ một năm đến năm năm để tuyên án. Đối với
những trường hợp phạm tội có cấu thành tăng nặng thì hình phạt chính được
tuyên với người phạm tội có khung từ ba năm đến mười năm tù. Ngoài ra,
người phạm tội có thể bị Tòa án buộc chấp hành thêm hai hình phạt bổ sung
là phạt tiền từ năm triệu đồng đến một trăm triệu đồng, tịch thu một phần
hoặc toàn bộ tài sản.
Với quy định của BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009), qua
quá trình thi hành đã góp phần rất lớn vào công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ
quốc. Tuy nhiên, trước sự phát triển của xã hội, quá trình hội nhập quốc tế của
đất nước, BLHS năm 1999 đã bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập, nhận thấy được
vấn đề này Quốc hội khóa XIII đã đưa việc sửa đổi BLHS năm 1999 vào
chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của nhiệm kỳ. Tại kỳ họp thứ 10 khóa
XIII, Quốc hội đã biểu quyết thông qua Luật số 100/2015/QH13 ngày 27
tháng 11 năm 2015 ban hành BLHS năm 2015, gồm: ba Phần, 26 Chương,
426 Điều, có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 7 năm 2016. Trong đó, tội tổ
chức đánh bạc được quy định tại Điều 322, mục D: các tội phạm khác xâm
phạm trật tự công cộng; thuộc Chương XXI: các tội xâm phạm an toàn công
cộng, trật tự công cộng:
1. Người nào tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc trái phép thuộc một trong
các trường hợp sau, thì bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 300.000.000 đồng
hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:
a) Tổ chức, sử dụng địa điểm thuộc quyền sở hữu, quản lý
của mình để cho 10 người đánh bạc trở lên trong cùng một lúc hoặc
cho 02 chiếu bạc trở lên mà số tiền hoặc hiện vật dùng đánh bạc trị
giá 5.000.000 đồng trở lên;
b) Tổng số tiền hoặc hiện vật dùng đánh bạc trong cùng một
lần có giá trị 20.000.000 đồng trở lên;
26
c) Tổ chức nơi cầm cố tài sản cho người tham gia đánh bạc;
lắp đặt trang thiết bị phục vụ cho việc đánh bạc; phân công người
canh gác, người phục vụ, sắp đặt lối thoát khi bị vây bắt, sử dụng
phương tiện để trợ giúp cho việc đánh bạc;
d) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc
hành vi quy định tại Điều 321 của Bộ luật này hoặc đã bị kết án về
tội này hoặc tội quy định tại Điều 321 của Bộ luật này, chưa được
xóa án tích mà còn vi phạm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị
phạt tù từ 05 năm đến 10 năm:
a) Có tính chất chuyên nghiệp;
b) Thu lợi bất chính 50.000.000 đồng trở lên;
c) Tái phạm nguy hiểm.
3. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng
đến 100.000.000 đồng hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản [33].
Về cơ bản, Điều 322 quy định về tội tổ chức đánh bạc trong BLHS năm
2015 kế thừa những quy định tại Điều 249 BLHS năm 1999, tuy nhiên có một
số điểm sửa đổi, bổ sung đáng chú ý đó là:
- Về mặt kỹ thuật lập pháp được các nhà làm luật quy định chặt chẽ hơn
thể hiện qua việc đã luật hóa các hành vi phạm tội cụ thể vào trong điều luật,
thay cho việc quy định như trước đây là “quy mô lớn hoặc…”.
- Giá trị tài sản dùng để đánh bạc quy định tại điểm a khoản 1 Điều 322
được điều chỉnh tăng lên là 5.000.000 đồng, thay cho mức 2.000.000 đồng
theo quy định tại Điều 249 BLHS năm 1999.
- Về hình phạt, Điều 322 đã sửa đổi theo hướng tăng nặng hơn so với
hình phạt quy định tại Điều 249, cụ thể: nâng mức phạt tiền tối thiểu hình
phạt chính tại khoản 1 lên 50.000.000 đồng và hình phạt bổ sung tại khoản 3
27
lên 20.000.000 đồng; khung hình phạt tù đối với những trường hợp phạm tội
có cấu thành tăng nặng tại khoản 2 của điều luật là từ 5 năm đến 10 năm.
Có thể thấy rằng, với những sửa đổi, bổ sung của BLHS năm 2015 các
dấu hiệu phạm tội đã được luật hóa, đảm bảo tính khoa học, tạo được sự
thống nhất trong việc áp dụng pháp luật. Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn còn
những hạn chế nhất định, như việc quy định tội tổ chức đánh bạc, gá bạc vào
chung một điều luật dẫn đến việc phân hóa TNHS đối với tội phạm không
cao; việc ĐTD và quyết định hình phạt gặp những vướng mắc trong quá trình
áp dụng pháp luật; việc quy định hình phạt tiền làm hình phạt chính nên
không đảm bảo tính răn đe, giáo dục và phòng ngừa tội phạm.
1.3. Quy định về tội tổ chức đánh bạc trong pháp luật hình sự một
số nước trên thế giới
PLHS của một số nước trên thế giới hiện nay tồn tại hai quan điểm
pháp lý khác nhau trong quá trình xây dựng pháp luật về hành vi đánh bạc nói
chung và hành vi tổ chức đánh bạc nói riêng.
Thứ nhất, phần lớn các nước trên thế giới tổ chức quản lý các hoạt
động giải trí nói chung, cờ bạc nói riêng bằng pháp luật. Nhiều nước tư bản
chủ nghĩa cho phép tổ chức các dịch vụ đánh bạc để thu hút khách du lịch,
phục vụ tiêu khiển và thu lợi nhuận kinh tế… Nhóm nước thứ hai cấm cờ bạc
dưới mọi hình thức, chủ yếu các nước xã hội chủ nghĩa, trong đó có Việt
Nam. Trong pháp luật hình sự, hành chính của các nước này các hành vi đánh
bạc, gá bạc, tổ chức đánh bạc là bất hợp pháp và bị truy cứu trách nhiệm hình
sự hoặc hành chính [50, tr. 350].
Để cụ thể hơn, chúng ta vào đi nghiên cứu PLHS của một số nước trên
thế giới quy định về loại tội phạm này.
1.3.1. Bộ luật hình sự Nhật Bản
Theo BLHS Nhật Bản ban hành ngày 01 tháng 10 năm 1908 được sửa
28
đổi, bổ sung ngày 24 tháng 6 năm 2011 đã dành hẳn một chương để quy định
tội liên quan về đánh bạc và vé số. Chương 23, BLHS Nhật Bản quy định:
Điều 185: Đánh bạc
Người nào đánh bạc thì bị phạt tiền dưới 50 vạn Yên hoặc phạt tiền
mức nhẹ. Tuy nhiên, không hạn chế trong những trường hợp cá cược vật dùng
để giải trí nhất thời.
Điều 186: Đánh bạc nhiều lần và tổ chức nơi đánh bạc, vv...
1. Người nào đánh bạc nhiều lần thì bị phạt tù dưới 3 năm.
2. Người nào mở sòng bạc hoặc tập trung con bạc nhằm mục
đích lợi nhuận thì bị phạt tù trên 3 tháng đến dưới 5 năm.
Điều 187: Bán vé số bất hợp pháp, vv…
1. Người nào bán vé số bất hợp pháp thì bị phạt tù dưới 2
năm hoặc bị phạt tiền trên 150 vạn Yên.
2. Người nào làm môi giới bán vé số bất hợp pháp thì bị phạt
tù dưới 1 năm hoặc bị phạt tiền đến dưới 100 vạn Yên.
3. Ngoài trường hợp được quy định tại 2 khoản trên người
nào biếu nhận vé số bất hợp pháp thì bị phạt tiền dưới 20 vạn Yên
hoặc bị phạt tiền mức nhẹ [16, tr.147- 148].
Có thể nhận thấy PLHS Nhật Bản quy định rất rõ chế tài hình sự đối
với các tội đánh bạc thể hiện qua việc đã dành hẳn một chương riêng để quy
định về các tội này. Điều này cho thấy pháp luật Nhật Bản cũng coi việc tham
gia đánh bạc, tổ chức đánh bạc là hành vi bất hợp pháp làm ảnh hưởng
nghiêm trọng tới trật tự, an toàn công cộng. So với quy định về tội tổ chức
đánh bạc trong BLHS nước ta, BLHS Nhật Bản không quy định về mặt khách
quan của tội phạm là phải có “quy mô lớn hoặc đã bị xử phạt hành chính, đã
bị kết án”, mà chỉ cần người nào có hành vi như điều luật đã nêu, nhằm mục
đích vụ lợi thì sẽ bị xem là tội phạm.
29
Về hình phạt, BLHS Nhật Bản không quy định hình phạt tiền là hình
phạt chính và hình phạt tù có mức cao nhất là 05 năm, trong khi đó BLHS
Việt Nam quy định hình phạt tiền là một trong những hình phạt chính và hình
phạt tù có mức tối đa là 10 năm. Bên cạnh đó, BLHS Nhật Bản không quy
định hình phạt bổ sung đối với tội tổ chức đánh bạc, trong khi tại khoản 3
Điều 249 BLHS Việt Nam thì người phạm tội có thể bị áp dụng hình phạt bổ
sung là phạt tiền từ 5.000.000đ đến 100.000.000đ, tịch thu một phần hoặc
toàn bộ tài sản.
1.3.2. Bộ luật hình sự Vương quốc Thụy Điển
Đối với pháp luật Vương quốc Thụy Điển hiện hành, BLHS năm 1962,
sữa đổi bổ sung các năm 1999, 2005, 2009. Tội tổ chức đánh bạc được quy
định tại chương 16: Các tội xâm phạm trật tự công cộng.
Điều 14: Người nào tổ chức một cách bất hợp pháp cho công
chúng trò chơi hoặc các hoạt động tương tự mà kết quả của nó hoàn
toàn hoặc phần lớn phụ thuộc vào sự may rủi và xét bản chất của
hoạt động, số lượng tiền đặt cược và các tình tiết khác thì đó là hoạt
động có hại hoặc đem lại thu nhập đáng kể cho người tổ chức thì bị
phạt tiền hoặc phạt tù đến hai năm về tội đánh bạc bất hợp pháp.
Hình phạt này cũng áp dụng đối với người nào cho phép đánh bạc
trong căn hộ hoặc ở nơi khác mà người đó mở công khai.
Điều 14a: Tội phạm quy định tại đoạn 1 Điều 14 trong trường
hợp nghiêm trọng thì bị phạt tù từ sáu tháng đến bốn năm về tội
đánh bạc bất hợp pháp trong trường hợp nghiêm trọng.
Để xác định tính chất nghiêm trọng của tội phạm cần đặc biệt
cân nhắc xem hành vi đó có phải là hoạt động chuyên nghiệp không,
số lượng tiền có lớn không hoặc những tình tiết khác thể hiện hành vi
có mang tính chất đặc biệt nguy hiểm hay không [41, tr. 152-153].
30
BLHS Thụy Điển ghi nhận hành vi tổ chức đánh bạc là một trong các
tội đánh bạc bất hợp pháp và được quy định tại hai điều luật, trong đó Điều
14a tương tự như khoản 2 Điều 249 BLHS Việt Nam quy định về định khung
tăng nặng TNHS đối với người tội phạm. Theo quy định của BLHS Thụy
Điển có thể thấy rằng không phải mọi hành vi tổ chức đánh bạc đều bị xem là
tội phạm, bởi chỉ “người nào tổ chức một cách bất hợp pháp cho công
chúng…” thì mới bị xem là tội phạm, có nghĩa là việc “tổ chức đánh bạc hợp
pháp” sẽ không bị xem là tội phạm, đồng thời dấu hiệu khách quan của tội
phạm ở đây có cấu thành về mặt hình thức.
Về hình phạt, tương tự quy định hình phạt của PLHS Việt Nam hình
phạt chính đối với tội phạm này là phạt tiền hoặc phạt tù, tuy nhiên tội
phạm có cấu thành tăng nặng thì hình phạt về tội tổ chức đánh bạc theo quy
định của PLHS Thụy Điển nhẹ hơn, khung hình phạt tối đa là đến 4 tù,
trong khi đó quy định về khung hình phạt tối đa của BLHS Việt Nam về tội
này là 10 năm tù.
1.3.3. Bộ luật hình sự Cộng hòa nhân dân Trung Hoa
BLHS Cộng hòa nhân dân Trung Hoa được thông qua ngày 01 tháng 7
năm 1979 có hiệu lực ngày 01 tháng 01 năm 1980 (sửa đổi bổ sung các năm
1997, 1999, 2001, 2002, 2005), tội tổ chức đánh bạc được quy định tại Điều
303 thuộc mục 1: Tội gây rối trật tự công cộng thuộc Chương VI: Tội phạm
trật tự, quản lý xã hội.
Điều 303: “Người nào lấy việc tụ tập đánh bạc, mở sòng bạc làm mục
đích kinh doanh kiếm lời hoặc lấy việc đánh bạc làm nghiệp thì bị phạt tù đến
03 năm, cải tạo lao động, quản chế và bị phạt tiền” [14, tr. 187].
Theo BLHS Trung Quốc, các tội liên quan về cờ bạc được quy định
chung trong một mục của điều luật và bị xem là một trong nhóm tội gây rối
trật tự công cộng. So với quy định về tội tổ chức đánh bạc trong BLHS của
31
Việt Nam, thì quy định về tội tổ chức đánh bạc trong BLHS Trung Quốc khá
ngắn gọn, điều luật không quy định mức định lượng để truy cứu trách nhiệm
hình sự, hành vi khách quan cấu thành tội tổ chức đánh bạc khá rõ và ở đây
mục đích vụ lợi được xem là dấu hiệu bắt buộc đối với tội phạm.
Về khung hình phạt đối với tội tổ chức đánh bạc, BLHS Trung Quốc
quy định người phạm tội bị phạt tù đến 3 năm, cải tạo lao động, quản chế và
bị phạt tiền. So với khung hình phạt quy định trong Điều 249 BLHS Việt
Nam thì chế tài tối đa đối với người phạm tội tổ chức đánh bạc trong luật hình
sự Trung Quốc nhẹ hơn, bởi theo quy định của BLHS nước ta, mức hình phạt
tối đa đối với tội phạm này là 10 năm tù, trong khi đó quy định của BLHS
Trung Hoa có khung hình phạt cao nhất là 03 năm tù.
32
Chương 2
QUY ĐỊNH VỀ TỘI TỔ CHỨC ĐÁNH BẠC TRONG BỘ LUẬT
HÌNH SỰ VIỆT NAM VÀ THỰC TIỄN XÉT XỬ TRÊN ĐỊA BÀN
THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
2.1. Quy định của luật hình sự Việt Nam về tội tổ chức đánh bạc
2.1.1. Các dấu hiệu pháp lý hình sự
Các dấu hiệu pháp lý hình sự là cơ sở, là những điều kiện cần thiết để
xem xét một hành vi nào đó của chủ thể đã thực hiện có phải là tội phạm hay
không phải tội phạm. Dấu hiệu pháp lý hình sự của tội phạm bao gồm: khách
thể của tội phạm, mặt khách quan của tội phạm, chủ thể của tội phạm, mặt
chủ quan của tội phạm.
* Khách thể của tội tổ chức đánh bạc
Khách thể của tội phạm là các quan hệ xã hội được BLHS xác lập và
bảo vệ, bị tội phạm xâm hại bằng cách gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại
trong một chừng mực nhất định. Bất kỳ tội phạm nào cũng xâm phạm đến ít
nhất một khách thể được BLHS xác lập và bảo vệ [46, tr. 98].
Theo đó, khách thể của tội tổ chức đánh bạc là các quan hệ xã hội trong
lĩnh vực quản lý trật tự công cộng bị các hành vi phạm tội tổ chức đánh bạc
xâm phạm đến. Trật tự công cộng là những hoạt động bình thường của xã hội,
là sự hoạt động của mọi người ở những nơi công cộng. Sự hoạt động bình
thường được hiểu là trước khi có sự xâm phạm của tội phạm thì mọi hoạt
động của con người được diễn ra theo nề nếp quy cách, tức là trong khu vực
cộng đồng đó mọi quan hệ xã hội đều ở trạng thái ổn định. Khi có sự tác động
của tội phạm các quan hệ xã hội bị xâm hại, hoạt động bình thường bị phá vỡ
bằng việc vi phạm quy tắc sống lành mạnh, ảnh hưởng trực tiếp đến khu vực
công cộng nơi đó, xâm phạm đến quyền và lợi ích của cả cộng đồng. Như
33
vậy, có thể khẳng định rằng khách thể mà tội phạm tổ chức đánh bạc xâm
phạm đến chính là trật tự nếp sống văn minh của xã hội.
* Mặt khách quan của tội tổ chức đánh bạc
Mặt khách quan của tội phạm là mặt bên ngoài của tội phạm hay là
những dấu hiệu của tội phạm biểu hiện ra ngoài thế giới khách quan, gồm các
dấu hiệu: hành vi nguy hiểm cho xã hội, hậu quả nguy hiểm cho xã hội, mối
quan hệ giữa hành vi nguy hiểm và hậu quả nguy hiểm cho xã hội, thời gian,
địa điểm phạm tội, phương pháp, thủ đoạn phạm tội, công cụ, phương tiện
phạm tội và hoàn cảnh phạm tội [46, tr. 98].
Hành vi nguy hiểm cho xã hội là dấu hiệu khách quan hay còn gọi là
hành vi khách quan, có tính chất bắt buộc của tất cả cấu thành tội phạm. Hành
vi khách quan là biểu hiện cơ bản và quan trọng nhất trong mặt khách quan
của tội phạm, nó giữ vai trò quyết định và chi phối những yếu tố khác của mặt
khách quan.
Hành vi khách quan bao gồm những biểu hiện của con người ra thế
giới khách quan và biểu hiện đó phải được ý thức kiểm soát và ý chí điều
khiển, đó chính là kết quả hoạt động của ý chí. Hành vi khách quan có 3
đặc điểm như sau:
- Hành vi khách quan của tội phạm có tính nguy hiểm cho xã hội.
- Hành vi khách quan của tội phạm là hoạt động có ý thức và ý chí.
- Hành vi khách quan của tội phạm là hành vi trái PLHS.
Bất cứ một loại tội phạm nào cũng đều phải có hành vi khách quan,
không có hành vi khách quan thì không có tội phạm.
Tội tổ chức đánh bạc là có cấu thành tội phạm hình thức, do vậy dấu
hiệu của mặt khách quan chỉ được đặc trưng bởi hành vi khách quan là hành
vi tổ chức đánh bạc. Cụ thể, hành vi tổ chức đánh bạc là hành vi kích động, rủ
rê, lôi kéo người khác cùng tham gia đánh bạc, đó là việc dùng lời nói, hành
34
động của mình tác động vào ý chí của người khác để họ tự nguyện một phần
hoặc toàn bộ vào việc tham gia đánh bạc. Trong loại tội này, người tổ chức
đánh bạc có thể đồng thời là người tham gia đánh bạc. Nếu trong trường hợp
vừa kích động, rủ rê, lôi kéo các con bạc khác tham gia vừa trực tiếp tham gia
đánh bạc thì sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về cả hai tội đánh bạc và tổ
chức đánh bạc.
Dấu hiệu của mặt khách quan của tội phạm luôn được sử dụng để phân
biệt tội phạm với các vi phạm pháp luật khác. Khi xem xét mặt khách quan
của tội tổ chức đánh bạc chúng ta cần phải dựa vào những dấu hiệu cụ thể và
chỉ truy cứu TNHS về tội này khi có một trong những tình tiết sau: “có quy
mô lớn; đã bị xử lý hành chính; đã bị kết án”. Ở đây cần chú ý trường hợp tổ
chức đánh bạc với quy mô nhỏ, chưa bị xử phạt hành chính hay chưa bị kết án
về một trong các tội này thì không bị xem là tội phạm.
* Chủ thể của tội tổ chức đánh bạc
Chủ thể của tội phạm là con người cụ thể đang sống đã thực hiện tội
phạm đạt độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự và có năng lực trách nhiệm hình
sự [46, tr. 99].
Điều 249 BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) quy định:
“Người nào tổ chức đánh bạc trái phép với quy mô lớn …”, ta có thể nhận
thấy toàn bộ phần giả định “người nào” có nghĩa là bất kỳ ai mà có năng lực
TNHS và đạt độ tuổi pháp luật quy định cũng đều có thể trở thành chủ thể của
tội tổ chức đánh bạc.
Thực tế cho thấy rằng, bất kỳ người nào trong mọi thành phần xã hội
cũng có thể tham gia thực hiện hành vi tổ chức đánh bạc. Vì vậy, chủ thể của
tội tổ chức đánh bạc là rất rộng, bởi nó không có một số giới hạn bổ sung
như: giới tính, nghề nghiệp, địa vị xã hội, thái độ chính trị, giai tầng xã hội và
hơn nữa lại rất đa dạng, phức tạp về mục đích, động cơ phạm tội [34, tr. 29].
35
Tuy nhiên, chỉ người có đủ điều kiện để có lỗi và trở thành chủ thể của
tội phạm phải là người có năng lực TNHS và đạt được độ tuổi theo luật định.
Năng lực TNHS là năng lực nhận thức được ý nghĩa xã hội của hành vi
thực hiện và năng lực điều khiển được hành vi theo đòi hỏi tất yếu của xã hội,
tức là khả năng kiềm chế được hành vi nguy hiểm cho xã hội đã thực hiện và
khả năng lựa chọn xử sự khác không nguy hiểm cho xã hội.
Theo đó, nguời thực hiện hành vi tổ chức đánh bạc được xác định là có
năng lực TNHS tại thời điểm thực hiện hành vi nếu ở thời điểm đó họ nhận
thức được tính chất nguy hiểm cho xã hội (tính xâm phạm đến trật tự công
cộng) của hành vi mà họ thực hiện, đồng thời có khả năng điều khiển được
hành vi đó theo hướng phù hợp với đòi hỏi của xã hội (không thực hiện hành
vi tổ chức đánh bạc).
Những trường hợp không thỏa mãn các dấu hiệu nêu trên được xác
định là người không có năng lực TNHS. Đây là những trường hợp mà người
thực hiện hành vi tổ này mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác mà người
thực hiện hành vi tổ chức đánh bạc không nhận thức được ý nghĩa xã hội của
hành vi, hoặc tuy họ nhận thức được điều này nhưng không có khả năng điều
khiển hành vi của bản thân theo hướng đáp ứng các đòi hỏi của xã hội. Trong
các trường hợp này, người có các biểu hiện hình thức của hành vi tổ chức
đánh bạc không được coi là chủ thể của tội phạm.
Bên cạnh điều kiện trên, chủ thể tội tổ chức đánh bạc còn phải đáp ứng
được điều kiện về độ tuổi luật định. Điều 12 BLHS năm 1999 qui định:
1. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự
về mọi tội phạm.
2. Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi phải
chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc
tội phạm đặc biệt nghiêm trọng [28, Điều 12].
36
Theo Điều 249 hình phạt đối với người phạm tội tổ chức đánh bạc được
chia thành hai khung: tại khoản 1 hành vi này có thể bị xử phạt với mức cao
nhất của khung hình phạt là 05 năm tù, hành vi theo mô tả của khoản này (cấu
thành cơ bản) là tội phạm nghiêm trọng, do đó độ tuổi chịu TNHS là từ đủ 16
tuổi trở lên; tại khoản 2 mức hình phạt cao nhất có thể áp dụng là 10 năm tù,
hành vi nguy hiểm cho xã hội thuộc khoản này (cấu thành tăng nặng) là tội
phạm rất nghiêm trọng, do đó tuổi chịu TNHS là từ đủ 14 tuổi trở lên.
* Mặt chủ quan của tội tổ chức đánh bạc
Tội phạm là một thể thống nhất giữa mặt khách quan và mặt chủ quan.
Mặt chủ quan của tội phạm là mặt bên trong của tội phạm, là trạng thái tâm lý
của chủ thể khi thực hiện hành vi phạm tội, bao gồm các dấu hiệu lỗi, động cơ
phạm tội và mục đích phạm tội [46, tr. 99].
Xét về mặt hình thức, lỗi được hiểu là thái độ tâm lý của con người đối
với hành vi nguy hiểm cho xã hội của mình và đối với hậu quả của hành vi đó
gây ra được biểu hiện dưới hình thức cố ý hoặc vô ý.
Tội tổ chức đánh bạc, chủ thể luôn có ý thức hành vi sẽ gây thiệt hại
cho xã hội trong khi có đủ điều kiện lựa chọn cách xử sự khác phù hợp với
đòi hỏi của xã hội. Người phạm tội luôn nhận thức được hành vi của mình là
nguy hiểm cho xã hội, nhận thức được tính trái pháp luật, xâm phạm tới trật
tự xã hội nhưng vẫn tìm cách thực hiện. Mặt khác, hậu quả của hành vi này là
vụ đánh bạc được diễn ra trên thực tế, gây hại đến trật tự chung của xã hội,
việc đã nhận thức được tính nguy hiểm của hành vi mà vẫn quyết định thực
hiện cho thấy thái độ mong muốn hậu quả xảy ra trên thực tế của người phạm
tội. Do đó, mặt chủ quan của tội phạm này được thực hiện do lỗi cố ý, động
cơ phạm tội là tư lợi và mục đích là nhằm thu lợi bất chính.
2.1.2. Hình phạt
Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước, do
37
Tòa án quyết định trong bản án kết tội có hiệu lực pháp luật đối với người bị
kết án để tước bỏ hay hạn chế quyền, tự do của người đó nhằm giáo dục, cải
tạo và phòng ngừa tội phạm [46, tr. 310].
Đối với tội tổ chức đánh bạc, Điều 249 BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ
sung năm 2009) quy định hai khung hình phạt bao gồm khung cơ bản và
khung tăng nặng, cụ thể:
1) Khung cơ bản:
Người nào tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc trái phép với quy
mô lớn hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi quy định tại Điều
này và Điều 248 của Bộ luật này hoặc đã bị kết án về một trong các
tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ
mười triệu đồng đến ba trăm triệu đồng hoặc phạt tù từ một năm
đến năm năm [30, Điều 249].
Khi xác định các tình tiết là yếu tố định tội để áp dụng khung hình phạt
này cần chú ý:
a) Người phạm tội tổ chức đánh bạc “với quy mô lớn”, đây là một
trong những tình tiết định khung cấu thành cơ bản của tội tổ chức đánh bạc và
cũng là tình tiết để phân định ranh giới giữa tội phạm và vi phạm hành chính
đối với hành vi tổ chức đánh bạc. Để xác định rõ các tình tiết này, Nghị quyết
số 01/2010/NQ - HĐTP ngày 22 tháng 10 năm 2010 của Hội đồng thẩm phán
TAND tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Điều 248, Điều 249
của BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009), Điều 2 quy định một trong
các trường hợp sau là “quy mô lớn”:
a. Tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc trong cùng một lúc cho từ
mười người đánh bạc trở lên hoặc cho từ hai chiếu bạc trở lên mà số
tiền hoặc hiện vật dùng đánh bạc có giá trị từ 2.000.000 đồng đến
dưới 50.000.000 đồng;
38
b. Có tổ chức nơi cầm cố tài sản cho người tham gia đánh
bạc; có lắp đặt trang thiết bị phục vụ cho việc đánh bạc; khi đánh
bạc có phân công người canh gác, người phục vụ, có sắp đặt lối
thoát khi bị vây bắt, sử dụng phương tiện như ô tô, xe máy, xe đạp,
điện thoại … để trợ giúp cho việc đánh bạc;
c. Tổng số tiền hoặc hiện vật dung đánh bạc trong cùng một
lúc có giá trị từ 20.000.000 đồng trở lên [20, Điều 2].
b) Người phạm tội “đã bị xử phạt hành chính về các hành vi đánh bạc,
tổ chức đánh bạc hay gá bạc, hoặc đã bị kết án về một trong các tội này, chưa
được xóa án tích mà còn vi phạm”.
Thứ nhất, căn cứ vào yếu tố “đã bị xử phạt hành chính” về hành vi
đánh bạc, tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc. Khi hành vi tổ chức đánh bạc thỏa
mãn dấu hiệu này thì mặc dù không đạt đuợc tới một quy mô nhất định về mặt
định lượng, hành vi vẫn thể hiện được mức độ nguy hại cao cho xã hội và do
đó được coi là tội phạm, bị xử lý theo PLHS mà không được coi là vi phạm
hành chính, bị xử lý theo pháp luật hành chính.
Tuy nhiên, chúng ta cần hiểu rằng chỉ được áp dụng yếu tố này khi
hành vi bị xử lý hành chính đó chưa bị xóa bỏ, nghĩa là vẫn còn trong thời hạn
đang bị xử phạt hành chính. Theo Điều 7 Luật xử lý vi phạm hành chính năm
2013 quy định:
Cá nhân, tổ chức bị xử phạt vi phạm hành chính nếu trong
thời hạn 06 tháng, kể từ ngày chấp hành xong quyết định xử phạt
cảnh cáo hoặc 01 năm, kể từ ngày chấp hành xong quyết định xử
phạt hành chính khác hoặc từ ngày hết hiệu lực thi hành quyết định
xử phạt vi phạm hành chính mà không tái phạm thì được coi là chưa
bị xử phạt vi phạm hành chính [1, Điều 7].
Cần chú ý ở đây, thời điểm dùng làm mốc tính thời hạn là ngày thi
39
hành xong hoặc là ngày hết hiệu lực thi hành quyết định xử phạt, không phải
là ngày ra quyết định đó và chấp hành xong quyết định được hiểu là đã chấp
hành xong hình thức xử phạt chính và các hình thức xử phạt bổ sung, các biện
pháp khác nếu có.
Thứ hai, căn cứ vào yếu tố “đã bị kết án” về các tội đánh bạc, tổ
chức đánh bạc hoặc gá bạc nhưng chưa được xóa án tích mà còn vi phạm.
Theo qui định của Bộ luật hình sự, một người đã bị kết án, sau khi đã chấp
hành xong bản án hoặc từ khi hết thời hiệu thi hành bản án, nếu đã qua thời
hạn theo qui định mà không phạm tội mới thì được xóa án tích, tức là coi
như chưa bị kết án.
Như vậy, một người đã bị kết án nhưng chưa được xóa án tích sẽ bị xử
lý nghiêm khắc hơn so với người chưa có tiền án nếu cùng thực hiện một
hành vi như nhau. Hành vi tổ chức đánh bạc do người đã bị kết án về một
trong các tội cờ bạc có tính nguy hiểm cao hơn hẳn so với cùng hành vi đó
nhưng người phạm tội chưa có tiền án, hoặc có nhưng về các tội ngoài cờ bạc.
Do vậy mà khi thỏa mãn dấu hiệu này, hành vi tổ chức đánh bạc không những
được coi là tội phạm mà có thể là một trong những tình tiết cấu thành tăng
nặng với mức xử lý nghiêm khắc hơn.
2) Khung tăng nặng: „Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau
đây, thì bị phạt tù từ ba năm đến mười năm”.
a) “Phạm tội có tính chất chuyên nghiệp”, đây một trong những tình
tiết định khung hình phạt tăng nặng về tội tổ chức đánh bạc. Tình tiết phạm
tội có tính chuyên nghiệp là một trong các tình tiết tăng nặng được quy định
tại Điều 48 BLHS năm 1999. Điều kiện áp dụng tình tiết này được quy định
tại điểm 5 Nghị quyết 01/2006/NQ - HĐTP ngày 12 tháng 5 năm 2006 của
Hội đồng thẩm phán TAND tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của
BLHS năm 1999, chỉ áp dụng tình tiết phạm tội có tính chất chuyên nghiệp
khi có đầy đủ các điều kiện sau đây:
40
a. Cố ý phạm tội từ năm lần trở lên về cùng một tội phạm
không phân biệt đã bị truy cứu trách nhiệm hình sự hay chưa bị
truy cứu trách nhiệm hình sự, nếu chưa hết thời hiệu truy cứu
trách nhiệm hình sự hoặc chưa được xóa án tích.
b. Người phạm tội đều lấy các lần phạm tội làm nghề sinh
sống và lấy kết quả của việc phạm tội làm nguồn sống chính [19].
b) Tình tiết “thu lợi bất chính lớn, rất lớn, đặc biệt lớn”, thu lợi bất
chính đối với tội tổ chức đánh bạc chính là tiền hoặc hiện vật thu được từ các
hoạt động tổ chức ra vụ đánh bạc như tiền hoa hồng, tiền thưởng nhờ việc ghi
đề, thống kê, thu gom phơi đề và giao tiền cho chủ đề; tiền hoa hồng từ việc
ghi các phơi cá độ bóng đá cho thầu cá độ bóng đá, từ các hoạt động cho vay,
cầm cố tại sòng bạc, từ việc tổ chức đưa đón, giữ xe, ăn uống …
Tuy không có khái niệm về thu lợi bất chính, song để thống nhất trong
việc đánh giá mang tình định lượng về tình tiết này, theo quy định tại khoản 3
Điều 2 Nghị quyết 01/2010/NQ - HĐTP ngày 22 tháng 10 năm 2010 của Hội
đồng thẩm phán TAND tối cao, quy định thu lợi bất chính lớn, rất lớn, đặc
biệt lớn, như sau:
a. Thu lợi bất chính từ 10.000.000 đồng đến dưới 30.000.000
đồng là thu lợi bất chính lớn.
b. Thu lợi bất chính từ 30.000.000 đồng đến dưới 90.000.000
đồng là thu lợi bất chính rất lớn.
c. Thu lợi bất chính từ 90.000.000 đồng trở lên là thu lợi bất
chính đặc biệt lớn [20].
c) Phạm tội thuộc trường hợp “tái phạm nguy hiểm”, đây là một tình tiết
tăng nặng TNHS được qui định tại điểm g khoản 1 Điều 48 BLHS năm 1999.
Luận văn: Tội tổ chức đánh bạc theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội tổ chức đánh bạc theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội tổ chức đánh bạc theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội tổ chức đánh bạc theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội tổ chức đánh bạc theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội tổ chức đánh bạc theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội tổ chức đánh bạc theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội tổ chức đánh bạc theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội tổ chức đánh bạc theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội tổ chức đánh bạc theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội tổ chức đánh bạc theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội tổ chức đánh bạc theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội tổ chức đánh bạc theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội tổ chức đánh bạc theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội tổ chức đánh bạc theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội tổ chức đánh bạc theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội tổ chức đánh bạc theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội tổ chức đánh bạc theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội tổ chức đánh bạc theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội tổ chức đánh bạc theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội tổ chức đánh bạc theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội tổ chức đánh bạc theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội tổ chức đánh bạc theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội tổ chức đánh bạc theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội tổ chức đánh bạc theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội tổ chức đánh bạc theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội tổ chức đánh bạc theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội tổ chức đánh bạc theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội tổ chức đánh bạc theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội tổ chức đánh bạc theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội tổ chức đánh bạc theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội tổ chức đánh bạc theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội tổ chức đánh bạc theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội tổ chức đánh bạc theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội tổ chức đánh bạc theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội tổ chức đánh bạc theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội tổ chức đánh bạc theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội tổ chức đánh bạc theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội tổ chức đánh bạc theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội tổ chức đánh bạc theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội tổ chức đánh bạc theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội tổ chức đánh bạc theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội tổ chức đánh bạc theo luật hình sự Việt Nam, HOT

More Related Content

What's hot

What's hot (20)

Đề tài: Tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấm
Đề tài: Tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấmĐề tài: Tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấm
Đề tài: Tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấm
 
Tội mua bán trái phép chất ma túy theo pháp luật hình sự, 9đ
Tội mua bán trái phép chất ma túy theo pháp luật hình sự, 9đTội mua bán trái phép chất ma túy theo pháp luật hình sự, 9đ
Tội mua bán trái phép chất ma túy theo pháp luật hình sự, 9đ
 
Luận văn: Tội cướp tài sản theo pháp luật hình sự tại TPHCM, 9đ
Luận văn: Tội cướp tài sản theo pháp luật hình sự tại TPHCM, 9đLuận văn: Tội cướp tài sản theo pháp luật hình sự tại TPHCM, 9đ
Luận văn: Tội cướp tài sản theo pháp luật hình sự tại TPHCM, 9đ
 
Đề tài: Định tội danh đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, HAY
Đề tài: Định tội danh đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, HAYĐề tài: Định tội danh đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, HAY
Đề tài: Định tội danh đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, HAY
 
Luận văn: Tội mua bán người, mua bán trẻ em tại tỉnh Hà Giang
Luận văn: Tội mua bán người, mua bán trẻ em tại tỉnh Hà GiangLuận văn: Tội mua bán người, mua bán trẻ em tại tỉnh Hà Giang
Luận văn: Tội mua bán người, mua bán trẻ em tại tỉnh Hà Giang
 
Luận văn: Tội buôn lậu trong Luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội buôn lậu trong Luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Tội buôn lậu trong Luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội buôn lậu trong Luật hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Tội mua bán người theo quy định của pháp luật hình sự
Luận văn: Tội mua bán người theo quy định của pháp luật hình sựLuận văn: Tội mua bán người theo quy định của pháp luật hình sự
Luận văn: Tội mua bán người theo quy định của pháp luật hình sự
 
Luận văn: Tội trộm cắp tài sản theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội trộm cắp tài sản theo luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Tội trộm cắp tài sản theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội trộm cắp tài sản theo luật hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Tội tổ chức đánh bạc theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội tổ chức đánh bạc theo luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Tội tổ chức đánh bạc theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội tổ chức đánh bạc theo luật hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép ma túy, HOT
Luận văn: Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép ma túy, HOTLuận văn: Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép ma túy, HOT
Luận văn: Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép ma túy, HOT
 
Luận văn: Định tội danh đối với tội Mua bán trái phép chất ma tuý
Luận văn: Định tội danh đối với tội Mua bán trái phép chất ma tuýLuận văn: Định tội danh đối với tội Mua bán trái phép chất ma tuý
Luận văn: Định tội danh đối với tội Mua bán trái phép chất ma tuý
 
Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong bảo vệ quyền con người
 Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong bảo vệ quyền con người Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong bảo vệ quyền con người
Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong bảo vệ quyền con người
 
Luận văn: Quản lý nhà nước về phòng,chống ma túy, tỉnh Phú Yên
Luận văn: Quản lý nhà nước về phòng,chống ma túy, tỉnh Phú YênLuận văn: Quản lý nhà nước về phòng,chống ma túy, tỉnh Phú Yên
Luận văn: Quản lý nhà nước về phòng,chống ma túy, tỉnh Phú Yên
 
Luận văn: Thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra, HOT
Luận văn: Thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra, HOTLuận văn: Thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra, HOT
Luận văn: Thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra, HOT
 
Luận văn: Phòng ngừa các tội xâm phạm sở hữu tại Tp Hà Nội
Luận văn: Phòng ngừa các tội xâm phạm sở hữu tại Tp Hà NộiLuận văn: Phòng ngừa các tội xâm phạm sở hữu tại Tp Hà Nội
Luận văn: Phòng ngừa các tội xâm phạm sở hữu tại Tp Hà Nội
 
Đề tài: Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập, HOT
Đề tài: Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập, HOTĐề tài: Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập, HOT
Đề tài: Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập, HOT
 
Luận văn: Tội trộm cắp tài sản theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội trộm cắp tài sản theo luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Tội trộm cắp tài sản theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội trộm cắp tài sản theo luật hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Tội mua bán người theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội mua bán người theo luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Tội mua bán người theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội mua bán người theo luật hình sự Việt Nam, HOT
 
Tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy theo Luật hình sự, HOT
Tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy theo Luật hình sự, HOTTội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy theo Luật hình sự, HOT
Tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy theo Luật hình sự, HOT
 
Luận văn: Tội mua bán người theo luật hình sự Việt Nam, HAY
Luận văn: Tội mua bán người theo luật hình sự Việt Nam, HAYLuận văn: Tội mua bán người theo luật hình sự Việt Nam, HAY
Luận văn: Tội mua bán người theo luật hình sự Việt Nam, HAY
 

Similar to Luận văn: Tội tổ chức đánh bạc theo luật hình sự Việt Nam, HOT

Similar to Luận văn: Tội tổ chức đánh bạc theo luật hình sự Việt Nam, HOT (20)

Luận văn: Các tội phạm về cờ bạc theo pháp luật tại TP Đà Nẵng
Luận văn: Các tội phạm về cờ bạc theo pháp luật tại TP Đà NẵngLuận văn: Các tội phạm về cờ bạc theo pháp luật tại TP Đà Nẵng
Luận văn: Các tội phạm về cờ bạc theo pháp luật tại TP Đà Nẵng
 
Luận văn: Các tội phạm về cờ bạc theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Các tội phạm về cờ bạc theo pháp luật hình sự Việt NamLuận văn: Các tội phạm về cờ bạc theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Các tội phạm về cờ bạc theo pháp luật hình sự Việt Nam
 
Tội tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc theo pháp luật tại Đà Nẵng, 9đ
Tội tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc theo pháp luật tại Đà Nẵng, 9đTội tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc theo pháp luật tại Đà Nẵng, 9đ
Tội tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc theo pháp luật tại Đà Nẵng, 9đ
 
Luận văn: Các tội phạm về cờ bạc theo luật thực tiễn tỉnh Hà Tĩnh
Luận văn: Các tội phạm về cờ bạc theo luật thực tiễn tỉnh Hà TĩnhLuận văn: Các tội phạm về cờ bạc theo luật thực tiễn tỉnh Hà Tĩnh
Luận văn: Các tội phạm về cờ bạc theo luật thực tiễn tỉnh Hà Tĩnh
 
Luận văn: Phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản tại Đồng Nai
Luận văn: Phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản tại Đồng NaiLuận văn: Phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản tại Đồng Nai
Luận văn: Phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản tại Đồng Nai
 
Luận văn: Định tội danh đối với tội đánh bạc theo Luật, HAY, 9đ
Luận văn: Định tội danh đối với tội đánh bạc theo Luật, HAY, 9đLuận văn: Định tội danh đối với tội đánh bạc theo Luật, HAY, 9đ
Luận văn: Định tội danh đối với tội đánh bạc theo Luật, HAY, 9đ
 
Luận văn: Phòng ngừa tội cướp giật tài sản tại quận Thủ Đức, 9đ
Luận văn: Phòng ngừa tội cướp giật tài sản tại quận Thủ Đức, 9đLuận văn: Phòng ngừa tội cướp giật tài sản tại quận Thủ Đức, 9đ
Luận văn: Phòng ngừa tội cướp giật tài sản tại quận Thủ Đức, 9đ
 
Luận văn: Các tội phạm về cờ bạc theo pháp luật Hình sự Việt Nam
Luận văn: Các tội phạm về cờ bạc theo pháp luật Hình sự Việt NamLuận văn: Các tội phạm về cờ bạc theo pháp luật Hình sự Việt Nam
Luận văn: Các tội phạm về cờ bạc theo pháp luật Hình sự Việt Nam
 
Luận văn: Định tội danh tội trộm cắp tài sản theo luật hình sự, 9đ
Luận văn: Định tội danh tội trộm cắp tài sản theo luật hình sự, 9đLuận văn: Định tội danh tội trộm cắp tài sản theo luật hình sự, 9đ
Luận văn: Định tội danh tội trộm cắp tài sản theo luật hình sự, 9đ
 
Luận văn: Dấu hiệu định lượng trong Luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Dấu hiệu định lượng trong Luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Dấu hiệu định lượng trong Luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Dấu hiệu định lượng trong Luật hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Tội cướp tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội cướp tài sản theo pháp luật hình sự Việt NamLuận văn: Tội cướp tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội cướp tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam
 
Luận văn: Phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản, 9 ĐIỂM
Luận văn: Phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản, 9 ĐIỂMLuận văn: Phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản, 9 ĐIỂM
Luận văn: Phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản, 9 ĐIỂM
 
Luận văn: Tội đánh bạc trong luật hình sự Việt Nam tại Tuyên Quang
Luận văn: Tội đánh bạc trong luật hình sự Việt Nam tại Tuyên QuangLuận văn: Tội đánh bạc trong luật hình sự Việt Nam tại Tuyên Quang
Luận văn: Tội đánh bạc trong luật hình sự Việt Nam tại Tuyên Quang
 
Luận văn: Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, HOT
Luận văn: Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, HOTLuận văn: Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, HOT
Luận văn: Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, HOT
 
Luận văn: Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, HOT
Luận văn: Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, HOTLuận văn: Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, HOT
Luận văn: Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, HOT
 
Luận văn: Các tội phạm tình dục trong Luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Các tội phạm tình dục trong Luật hình sự Việt NamLuận văn: Các tội phạm tình dục trong Luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Các tội phạm tình dục trong Luật hình sự Việt Nam
 
Luận văn: Các tội phạm tình dục trong Luật hình sự, HOT
Luận văn: Các tội phạm tình dục trong Luật hình sự, HOTLuận văn: Các tội phạm tình dục trong Luật hình sự, HOT
Luận văn: Các tội phạm tình dục trong Luật hình sự, HOT
 
Luận văn: Các tội phạm tình dục trong Luật hình sự Việt Nam, 9đ
Luận văn: Các tội phạm tình dục trong Luật hình sự Việt Nam, 9đLuận văn: Các tội phạm tình dục trong Luật hình sự Việt Nam, 9đ
Luận văn: Các tội phạm tình dục trong Luật hình sự Việt Nam, 9đ
 
Luận văn: Độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự theo Luật Hình sự
Luận văn: Độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự theo Luật Hình sựLuận văn: Độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự theo Luật Hình sự
Luận văn: Độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự theo Luật Hình sự
 
Điều kiện của tình hình các tội xâm phạm sở hữu tỉnh Đồng Nai, 9đ
Điều kiện của tình hình các tội xâm phạm sở hữu tỉnh Đồng Nai, 9đĐiều kiện của tình hình các tội xâm phạm sở hữu tỉnh Đồng Nai, 9đ
Điều kiện của tình hình các tội xâm phạm sở hữu tỉnh Đồng Nai, 9đ
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620

Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới NhấtDịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm CaoDịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620 (20)

Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 Điểm
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 ĐiểmDanh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 Điểm
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 Điểm
 
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý Tưởng
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý TưởngDanh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý Tưởng
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý Tưởng
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên GiỏiDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên Giỏi
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá GiỏiDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá GiỏiDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
 

Recently uploaded

Hướng dẫn viết tiểu luận cuối khóa lớp bồi dưỡng chức danh biên tập viên hạng 3
Hướng dẫn viết tiểu luận cuối khóa lớp bồi dưỡng chức danh biên tập viên hạng 3Hướng dẫn viết tiểu luận cuối khóa lớp bồi dưỡng chức danh biên tập viên hạng 3
Hướng dẫn viết tiểu luận cuối khóa lớp bồi dưỡng chức danh biên tập viên hạng 3lamluanvan.net Viết thuê luận văn
 
Chương 6: Dân tộc - Chủ nghĩa xã hội khoa học
Chương 6: Dân tộc - Chủ nghĩa xã hội khoa họcChương 6: Dân tộc - Chủ nghĩa xã hội khoa học
Chương 6: Dân tộc - Chủ nghĩa xã hội khoa họchelenafalet
 
Tiểu luận tổng quan về Mối quan hệ giữa chu kỳ kinh tế và đầu tư trong nền ki...
Tiểu luận tổng quan về Mối quan hệ giữa chu kỳ kinh tế và đầu tư trong nền ki...Tiểu luận tổng quan về Mối quan hệ giữa chu kỳ kinh tế và đầu tư trong nền ki...
Tiểu luận tổng quan về Mối quan hệ giữa chu kỳ kinh tế và đầu tư trong nền ki...lamluanvan.net Viết thuê luận văn
 
PHIẾU KHẢO SÁT MỨC ĐỘ HÀI LÒNG VỀ CHẤT LƯỢNG DỊCH VỤ VẬN CHUYỂN HÀNG KHÁCH BẰ...
PHIẾU KHẢO SÁT MỨC ĐỘ HÀI LÒNG VỀ CHẤT LƯỢNG DỊCH VỤ VẬN CHUYỂN HÀNG KHÁCH BẰ...PHIẾU KHẢO SÁT MỨC ĐỘ HÀI LÒNG VỀ CHẤT LƯỢNG DỊCH VỤ VẬN CHUYỂN HÀNG KHÁCH BẰ...
PHIẾU KHẢO SÁT MỨC ĐỘ HÀI LÒNG VỀ CHẤT LƯỢNG DỊCH VỤ VẬN CHUYỂN HÀNG KHÁCH BẰ...lamluanvan.net Viết thuê luận văn
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
các nội dung phòng chống xâm hại tình dục ở trẻ em
các nội dung phòng chống xâm hại tình dục ở trẻ emcác nội dung phòng chống xâm hại tình dục ở trẻ em
các nội dung phòng chống xâm hại tình dục ở trẻ emTrangNhung96
 
Tử Vi Là Gì Học Luận Giải Tử Vi Và Luận Đoán Vận Hạn
Tử Vi Là Gì Học Luận Giải Tử Vi Và Luận Đoán Vận HạnTử Vi Là Gì Học Luận Giải Tử Vi Và Luận Đoán Vận Hạn
Tử Vi Là Gì Học Luận Giải Tử Vi Và Luận Đoán Vận HạnKabala
 
20 ĐỀ DỰ ĐOÁN - PHÁT TRIỂN ĐỀ MINH HỌA BGD KỲ THI TỐT NGHIỆP THPT NĂM 2024 MÔ...
20 ĐỀ DỰ ĐOÁN - PHÁT TRIỂN ĐỀ MINH HỌA BGD KỲ THI TỐT NGHIỆP THPT NĂM 2024 MÔ...20 ĐỀ DỰ ĐOÁN - PHÁT TRIỂN ĐỀ MINH HỌA BGD KỲ THI TỐT NGHIỆP THPT NĂM 2024 MÔ...
20 ĐỀ DỰ ĐOÁN - PHÁT TRIỂN ĐỀ MINH HỌA BGD KỲ THI TỐT NGHIỆP THPT NĂM 2024 MÔ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Xem sim phong thủy luận Hung - Cát số điện thoại chính xác nhất.pdf
Xem sim phong thủy luận Hung - Cát số điện thoại chính xác nhất.pdfXem sim phong thủy luận Hung - Cát số điện thoại chính xác nhất.pdf
Xem sim phong thủy luận Hung - Cát số điện thoại chính xác nhất.pdfXem Số Mệnh
 
Giáo trình xây dựng thực đơn. Ths Hoang Ngoc Hien.pdf
Giáo trình xây dựng thực đơn. Ths Hoang Ngoc Hien.pdfGiáo trình xây dựng thực đơn. Ths Hoang Ngoc Hien.pdf
Giáo trình xây dựng thực đơn. Ths Hoang Ngoc Hien.pdf4pdx29gsr9
 
Luận văn 2024 Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả công tác quản lý hành...
Luận văn 2024 Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả công tác quản lý hành...Luận văn 2024 Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả công tác quản lý hành...
Luận văn 2024 Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả công tác quản lý hành...lamluanvan.net Viết thuê luận văn
 
22 ĐỀ THI THỬ TUYỂN SINH TIẾNG ANH VÀO 10 SỞ GD – ĐT THÁI BÌNH NĂM HỌC 2023-2...
22 ĐỀ THI THỬ TUYỂN SINH TIẾNG ANH VÀO 10 SỞ GD – ĐT THÁI BÌNH NĂM HỌC 2023-2...22 ĐỀ THI THỬ TUYỂN SINH TIẾNG ANH VÀO 10 SỞ GD – ĐT THÁI BÌNH NĂM HỌC 2023-2...
22 ĐỀ THI THỬ TUYỂN SINH TIẾNG ANH VÀO 10 SỞ GD – ĐT THÁI BÌNH NĂM HỌC 2023-2...Nguyen Thanh Tu Collection
 
xemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdf
xemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdfxemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdf
xemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdfXem Số Mệnh
 
ĐỀ SỐ 1 Của sở giáo dục đào tạo tỉnh NA.pdf
ĐỀ SỐ 1 Của sở giáo dục đào tạo tỉnh NA.pdfĐỀ SỐ 1 Của sở giáo dục đào tạo tỉnh NA.pdf
ĐỀ SỐ 1 Của sở giáo dục đào tạo tỉnh NA.pdflevanthu03031984
 
xemsomenh.com-Vòng Lộc Tồn - Vòng Bác Sĩ và Cách An Trong Vòng Lộc Tồn.pdf
xemsomenh.com-Vòng Lộc Tồn - Vòng Bác Sĩ và Cách An Trong Vòng Lộc Tồn.pdfxemsomenh.com-Vòng Lộc Tồn - Vòng Bác Sĩ và Cách An Trong Vòng Lộc Tồn.pdf
xemsomenh.com-Vòng Lộc Tồn - Vòng Bác Sĩ và Cách An Trong Vòng Lộc Tồn.pdfXem Số Mệnh
 
Giáo trình nhập môn lập trình - Đặng Bình Phương
Giáo trình nhập môn lập trình - Đặng Bình PhươngGiáo trình nhập môn lập trình - Đặng Bình Phương
Giáo trình nhập môn lập trình - Đặng Bình Phươnghazzthuan
 
TUYỂN TẬP ĐỀ THI GIỮA KÌ, CUỐI KÌ 2 MÔN VẬT LÍ LỚP 11 THEO HÌNH THỨC THI MỚI ...
TUYỂN TẬP ĐỀ THI GIỮA KÌ, CUỐI KÌ 2 MÔN VẬT LÍ LỚP 11 THEO HÌNH THỨC THI MỚI ...TUYỂN TẬP ĐỀ THI GIỮA KÌ, CUỐI KÌ 2 MÔN VẬT LÍ LỚP 11 THEO HÌNH THỨC THI MỚI ...
TUYỂN TẬP ĐỀ THI GIỮA KÌ, CUỐI KÌ 2 MÔN VẬT LÍ LỚP 11 THEO HÌNH THỨC THI MỚI ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
C6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoi
C6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoiC6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoi
C6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoidnghia2002
 

Recently uploaded (20)

Hướng dẫn viết tiểu luận cuối khóa lớp bồi dưỡng chức danh biên tập viên hạng 3
Hướng dẫn viết tiểu luận cuối khóa lớp bồi dưỡng chức danh biên tập viên hạng 3Hướng dẫn viết tiểu luận cuối khóa lớp bồi dưỡng chức danh biên tập viên hạng 3
Hướng dẫn viết tiểu luận cuối khóa lớp bồi dưỡng chức danh biên tập viên hạng 3
 
Chương 6: Dân tộc - Chủ nghĩa xã hội khoa học
Chương 6: Dân tộc - Chủ nghĩa xã hội khoa họcChương 6: Dân tộc - Chủ nghĩa xã hội khoa học
Chương 6: Dân tộc - Chủ nghĩa xã hội khoa học
 
Tiểu luận tổng quan về Mối quan hệ giữa chu kỳ kinh tế và đầu tư trong nền ki...
Tiểu luận tổng quan về Mối quan hệ giữa chu kỳ kinh tế và đầu tư trong nền ki...Tiểu luận tổng quan về Mối quan hệ giữa chu kỳ kinh tế và đầu tư trong nền ki...
Tiểu luận tổng quan về Mối quan hệ giữa chu kỳ kinh tế và đầu tư trong nền ki...
 
PHIẾU KHẢO SÁT MỨC ĐỘ HÀI LÒNG VỀ CHẤT LƯỢNG DỊCH VỤ VẬN CHUYỂN HÀNG KHÁCH BẰ...
PHIẾU KHẢO SÁT MỨC ĐỘ HÀI LÒNG VỀ CHẤT LƯỢNG DỊCH VỤ VẬN CHUYỂN HÀNG KHÁCH BẰ...PHIẾU KHẢO SÁT MỨC ĐỘ HÀI LÒNG VỀ CHẤT LƯỢNG DỊCH VỤ VẬN CHUYỂN HÀNG KHÁCH BẰ...
PHIẾU KHẢO SÁT MỨC ĐỘ HÀI LÒNG VỀ CHẤT LƯỢNG DỊCH VỤ VẬN CHUYỂN HÀNG KHÁCH BẰ...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
các nội dung phòng chống xâm hại tình dục ở trẻ em
các nội dung phòng chống xâm hại tình dục ở trẻ emcác nội dung phòng chống xâm hại tình dục ở trẻ em
các nội dung phòng chống xâm hại tình dục ở trẻ em
 
Tử Vi Là Gì Học Luận Giải Tử Vi Và Luận Đoán Vận Hạn
Tử Vi Là Gì Học Luận Giải Tử Vi Và Luận Đoán Vận HạnTử Vi Là Gì Học Luận Giải Tử Vi Và Luận Đoán Vận Hạn
Tử Vi Là Gì Học Luận Giải Tử Vi Và Luận Đoán Vận Hạn
 
20 ĐỀ DỰ ĐOÁN - PHÁT TRIỂN ĐỀ MINH HỌA BGD KỲ THI TỐT NGHIỆP THPT NĂM 2024 MÔ...
20 ĐỀ DỰ ĐOÁN - PHÁT TRIỂN ĐỀ MINH HỌA BGD KỲ THI TỐT NGHIỆP THPT NĂM 2024 MÔ...20 ĐỀ DỰ ĐOÁN - PHÁT TRIỂN ĐỀ MINH HỌA BGD KỲ THI TỐT NGHIỆP THPT NĂM 2024 MÔ...
20 ĐỀ DỰ ĐOÁN - PHÁT TRIỂN ĐỀ MINH HỌA BGD KỲ THI TỐT NGHIỆP THPT NĂM 2024 MÔ...
 
Xem sim phong thủy luận Hung - Cát số điện thoại chính xác nhất.pdf
Xem sim phong thủy luận Hung - Cát số điện thoại chính xác nhất.pdfXem sim phong thủy luận Hung - Cát số điện thoại chính xác nhất.pdf
Xem sim phong thủy luận Hung - Cát số điện thoại chính xác nhất.pdf
 
Giáo trình xây dựng thực đơn. Ths Hoang Ngoc Hien.pdf
Giáo trình xây dựng thực đơn. Ths Hoang Ngoc Hien.pdfGiáo trình xây dựng thực đơn. Ths Hoang Ngoc Hien.pdf
Giáo trình xây dựng thực đơn. Ths Hoang Ngoc Hien.pdf
 
Luận văn 2024 Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả công tác quản lý hành...
Luận văn 2024 Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả công tác quản lý hành...Luận văn 2024 Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả công tác quản lý hành...
Luận văn 2024 Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả công tác quản lý hành...
 
22 ĐỀ THI THỬ TUYỂN SINH TIẾNG ANH VÀO 10 SỞ GD – ĐT THÁI BÌNH NĂM HỌC 2023-2...
22 ĐỀ THI THỬ TUYỂN SINH TIẾNG ANH VÀO 10 SỞ GD – ĐT THÁI BÌNH NĂM HỌC 2023-2...22 ĐỀ THI THỬ TUYỂN SINH TIẾNG ANH VÀO 10 SỞ GD – ĐT THÁI BÌNH NĂM HỌC 2023-2...
22 ĐỀ THI THỬ TUYỂN SINH TIẾNG ANH VÀO 10 SỞ GD – ĐT THÁI BÌNH NĂM HỌC 2023-2...
 
xemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdf
xemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdfxemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdf
xemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdf
 
ĐỀ SỐ 1 Của sở giáo dục đào tạo tỉnh NA.pdf
ĐỀ SỐ 1 Của sở giáo dục đào tạo tỉnh NA.pdfĐỀ SỐ 1 Của sở giáo dục đào tạo tỉnh NA.pdf
ĐỀ SỐ 1 Của sở giáo dục đào tạo tỉnh NA.pdf
 
TIỂU LUẬN MÔN PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
TIỂU LUẬN MÔN PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌCTIỂU LUẬN MÔN PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
TIỂU LUẬN MÔN PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
 
xemsomenh.com-Vòng Lộc Tồn - Vòng Bác Sĩ và Cách An Trong Vòng Lộc Tồn.pdf
xemsomenh.com-Vòng Lộc Tồn - Vòng Bác Sĩ và Cách An Trong Vòng Lộc Tồn.pdfxemsomenh.com-Vòng Lộc Tồn - Vòng Bác Sĩ và Cách An Trong Vòng Lộc Tồn.pdf
xemsomenh.com-Vòng Lộc Tồn - Vòng Bác Sĩ và Cách An Trong Vòng Lộc Tồn.pdf
 
Giáo trình nhập môn lập trình - Đặng Bình Phương
Giáo trình nhập môn lập trình - Đặng Bình PhươngGiáo trình nhập môn lập trình - Đặng Bình Phương
Giáo trình nhập môn lập trình - Đặng Bình Phương
 
TUYỂN TẬP ĐỀ THI GIỮA KÌ, CUỐI KÌ 2 MÔN VẬT LÍ LỚP 11 THEO HÌNH THỨC THI MỚI ...
TUYỂN TẬP ĐỀ THI GIỮA KÌ, CUỐI KÌ 2 MÔN VẬT LÍ LỚP 11 THEO HÌNH THỨC THI MỚI ...TUYỂN TẬP ĐỀ THI GIỮA KÌ, CUỐI KÌ 2 MÔN VẬT LÍ LỚP 11 THEO HÌNH THỨC THI MỚI ...
TUYỂN TẬP ĐỀ THI GIỮA KÌ, CUỐI KÌ 2 MÔN VẬT LÍ LỚP 11 THEO HÌNH THỨC THI MỚI ...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
C6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoi
C6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoiC6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoi
C6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoi
 

Luận văn: Tội tổ chức đánh bạc theo luật hình sự Việt Nam, HOT

  • 1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT LÊ HỒNG NAM TéI Tæ CHøC §¸NH B¹C THEO LUËT H×NH Sù VIÖT NAM (trªn c¬ së sè liÖu thùc tiÔn ®Þa bµn thµnh phè §µ N½ng) LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2016
  • 2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT LÊ HỒNG NAM TéI Tæ CHøC §¸NH B¹C THEO LUËT H×NH Sù VIÖT NAM (trªn c¬ së sè liÖu thùc tiÔn ®Þa bµn thµnh phè §µ N½ng) Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số: 60 38 01 04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS. TRỊNH TIẾN VIỆT HÀ NỘI - 2016
  • 3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƯỜI CAM ĐOAN Lê Hồng Nam
  • 4. MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các bảng Danh mục các biểu đồ Danh mục từ viết tắt MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỘI TỔ CHỨC ĐÁNH BẠC THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM...................................... 9 1.1. Khái niệm tội tổ chức đánh bạc và sự cần thiết của việc quy định tội phạm này trong luật hình sự Việt Nam .............................. 9 1.1.1. Khái niệm tội tổ chức đánh bạc trong luật hình sự Việt Nam .............. 9 1.1.2. Sự cần thiết của việc quy định tội tổ chức đánh bạc trong luật hình sự Việt Nam ................................................................................14 1.2. Khái quát quá trình hình thành và phát triển của luật hình sự Việt Nam quy định về tội tổ chức đánh bạc...............................15 1.2.1. Giai đoạn từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến trước khi pháp điển hóa Bộ luật hình sự năm 1985............................................15 1.2.2. Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985 đến nay...........21 1.3. Quy định về tội tổ chức đánh bạc trong pháp luật hình sự một số nước trên thế giới..................................................................27 1.3.1. Bộ luật hình sự Nhật Bản....................................................................27 1.3.2. Bộ luật hình sự Vương quốc Thụy Điển.............................................29 1.3.3. Bộ luật hình sự Cộng hòa nhân dân Trung Hoa..................................30 Chương 2: QUY ĐỊNH VỀ TỘI TỔ CHỨC ĐÁNH BẠC TRONG BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VÀ THỰC TIỄN XÉT XỬ TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG...................................32 2.1. Quy định của luật hình sự Việt Nam về tội tổ chức đánh bạc......32
  • 5. 2.1.1. Các dấu hiệu pháp lý hình sự..............................................................32 2.1.2. Hình phạt.............................................................................................36 2.2. Thực tiễn xét xử tội tổ chức đánh bạc trên địa bàn thành phố Đà Nẵng..............................................................................................42 2.2.1. Tình hình xét xử..................................................................................43 2.2.2. Một số hạn chế và vướng mắc trong hoạt động xét xử đối với tội tổ chức đánh bạc..................................................................................51 2.2.3. Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế và vướng mắc trong xét xử tội tổ chức đánh bạc trên địa bàn thành phố Đà Nẵng...................57 Chương 3: HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ TỘI TỔ CHỨC ĐÁNH BẠC...................60 3.1. Sự cần thiết về việc hoàn thiện và nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam về tội tổ chức đánh bạc .............................................................................................60 3.2. Kiến nghị hoàn thiện quy định của Bộ luật hình sự về tội tổ chức đánh bạc và các tội phạm khác có kiên quan........................62 3.2.1. Nhận xét ..............................................................................................62 3.2.2. Nội dung hoàn thiện............................................................................64 3.3. Các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam về tội tổ chức đánh bạc và các tội phạm khác có liên quan.........................................................................................68 3.3.1. Giải pháp về tổ chức bộ máy ..............................................................68 3.3.2. Giải pháp về chuyên môn nghiệp vụ...................................................69 3.3.3. Giải pháp kinh tế - xã hội....................................................................71 3.3.4. Giải pháp về văn hóa - giáo dục..........................................................73 3.3.5. Một số giải pháp khác .........................................................................74 KẾT LUẬN....................................................................................................77 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................79
  • 6. DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT BLHS: Bộ luật hình sự BLTTHS: Bộ luật tố tụng hình sự ĐTD: Định tội danh PLHS: Pháp luật hình sự TAND: Tòa án nhân dân TNHS: Trách nhiệm hình sự VKSND: Viện kiểm sát nhân dân
  • 7. DANH MỤC CÁC BẢNG Số hiệu bảng Tên bảng Trang Bảng 2.1: Tổng số vụ án, tổng số bị cáo đưa ra xét xử về tội tổ chức đánh bạc trên tổng số vụ án, tổng số bị cáo đưa ra xét xử và trong mối tương quan với các tội về xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng trong thời gian từ năm 2011 - 2015 44 Bảng 2.2: Số vụ án, số bị cáo về tội tổ chức đánh bạc trên tổng số vụ án, số bị cáo trong nhóm các tội về cờ bạc 46 Bảng 2.3: Phân tích hình phạt áp dụng đối với bị cáo phạm tội tổ chức đánh bạc từ năm 2011 - 2015 48 Bảng 2.4: Phân tích đặc điểm nhân thân đối với bị cáo phạm tội tổ chức đánh bạc từ năm 2011 - 2015 49
  • 8. DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ Số hiệu biểu đồ Tên biểu đồ Trang Biểu đồ 2.1: Biểu thị sự tăng, giảm về tình hình tội phạm trên địa bàn thành phố Đà Nẵng từ 2011 - 2015 thông qua số vụ và số bị cáo 45 Biểu đồ 2.2: Biểu thị về tình hình tội phạm tổ chức đánh bạc trong nhóm các tội phạm về cờ bạc 46
  • 9. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài Đà Nẵng là trung tâm kinh tế, văn hoá, giáo dục, khoa học và công nghệ lớn của khu vực miền Trung - Tây Nguyên. Đà Nẵng hiện là một trong 15 đô thị loại 1, đồng thời là một trong 5 thành phố trực thuộc Trung ương ở Việt Nam. Trong những năm gần đây, Đà Nẵng đã tích cực đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, cải thiện môi trường, nâng cao an sinh xã hội và được coi là “Thành phố đáng sống” của Việt Nam. Trong quá trình phát triển của thành phố, cùng với việc xây dựng các khu công nghiệp, bệnh viện, trường học… đã kéo theo một lượng không nhỏ dân cư từ các tỉnh thành khác đến sinh sống, làm việc và học tập làm cho tình hình an ninh trật tự trên địa bàn ngày càng diễn biến phức tạp; việc giải tỏa quy hoạch chỉnh trang đô thị được diễn ra ở nhiều nơi đã làm cho số lượng người dân có đất bị thu hồi khá lớn, dẫn đến tình trạng mất công ăn việc làm nhưng chính quyền thành phố chưa có những định hướng trong việc chuyển đối ngành nghề, tạo công ăn việc làm để ổn định cuộc sống cho nhân dân. Đây là một trong những nguyên nhân làm cho tình hình tội phạm gia tăng trong những năm qua trên địa bàn thành phố. Là một thành phố trẻ đang trên đà phát triển, bên cạnh việc tập trung xây dựng cơ sở hạ tầng, phát triển kinh tế, xây dựng con người Đà Nẵng có nếp sống văn hóa - văn minh, Đà Nẵng cũng rất quan tâm đến công tác đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung mà đặc biệt là các tội phạm liên quan đến cờ bạc, tội tổ chức đánh bạc nói riêng. Qua nghiên cứu thực tiễn, tình hình tội phạm về tổ chức đánh bạc trong những năm qua trên địa bàn thành phố Đà Nẵng tuy không gia tăng mạnh về số lượng, nhưng về phương thức tổ chức, quy mộ hoạt động của tội phạm này thì diễn biến ngày một phức tạp,
  • 10. 2 thể hiện trên các phương diện như: phương thức tổ chức đánh bạc ngày một tinh vi, đa dạng với một hệ thống chân rết rộng khắp; địa bàn hoạt động được mở rộng và kể cả việc cấu kết với nước ngoài để tổ chức đánh bạc; lợi nhuận bất chính của các đối tượng này thu về là khổng lồ. Những vấn đề này đã làm ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển kinh tế, ảnh hưởng đến tình hình chính trị, văn hóa, trật tự an toàn xã hội của thành phố và là một trong những nguyên nhân làm phát sinh nhiều loại tội phạm khác. Theo số liệu thống kê của TAND thành phố Đà Nẵng trong thời gian gần đây (tính từ năm 2011 đến năm 2015) TAND cấp quận, huyện của thành phố Đà Nẵng đã xét xử sơ thẩm 2.759 vụ án hình sự với 4.793 bị cáo, trong đó số vụ án về các tội liên quan đến cờ bạc là 125 vụ, với 514 bị cáo, số tiền dùng để đánh bạc lên đến hàng trăm tỷ đồng. Riêng đối với tội tổ chức đánh bạc, các cơ quan chức năng đã đưa ra xét xử 42 / 2.759 vụ chiếm 1,52%, với 129 / 4.793 bị cáo chiếm 4,77% trong tổng số các vụ án, bị cáo đưa ra xét xử trong thời gian 05 năm qua. Nguyên nhân của tình hình trên, một phần là do các yếu tố khách quan, như tác động của những vấn đề xã hội phức tạp nảy sinh trong cơ chế thị trường và hội nhập quốc tế; sự xuống cấp về đạo đức xã hội, lối sống thực dụng, chạy theo đồng tiền, làm ăn chụp giật,... nhưng chủ yếu vẫn là do những hạn chế, yếu kém trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm, nhất là phòng ngừa xã hội. Cấp ủy đảng, chính quyền, người đứng đầu cơ quan, tổ chức ở một số ngành, địa phương chưa thực sự quan tâm chỉ đạo toàn diện công tác phòng, chống tội phạm, vì vậy, nhiệm vụ phòng, chống tội phạm chưa được đưa vào chương trình, kế hoạch phát triển theo yêu cầu của Đảng và Nhà nước. Nhiều cấp, nhiều ngành còn đứng ngoài cuộc hoặc chỉ tham gia một cách hình thức, chiếu lệ, đối phó. Tổ chức bộ máy, phân công, phân cấp ở các cơ quan bảo vệ pháp luật và chuyên trách còn bất cập, dẫn đến chồng
  • 11. 3 chéo, trùng lặp. Năng lực tham mưu, quản lý và tổ chức thực hiện cũng như tinh thần trách nhiệm, thái độ phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân, kiên quyết tấn công tội phạm của một bộ phận cán bộ cơ quan bảo vệ pháp luật, chiến sĩ lực lượng chuyên trách còn hạn chế, yếu kém, sa sút. Điều kiện hậu cần - kỹ thuật bảo đảm cho công tác phòng, chống tội phạm còn nhiều khó khăn, hạn chế. Chính sách đãi ngộ đối với lực lượng trực tiếp đấu tranh phòng, chống tội phạm còn chưa phù hợp [39] Trước những thực trạng đó, việc nghiên cứu các quy định của PLHS hiện hành về tội tổ chức đánh bạc dưới góc độ thực tiễn tại một địa phương nhất định, không những có ý nghĩa sâu sắc về mặt lý luận mà còn cả về mặt thực tiễn áp dụng pháp luật, để từ đó đưa ra giải pháp hoàn thiện pháp luật, nâng cao hiệu quả của việc áp dụng pháp luật đối với loại tội phạm này. Nhận thức được điều đó, tôi chọn đề tài: “Tội tổ chức đánh bạc theo luật hình sự Việt Nam (trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn thành phố Đà Nẵng)” làm luận văn thạc sĩ luật học của mình. 2. Tình hình nghiên cứu Trong quá trình làm luận văn, tôi đã tham khảo, nghiên cứu một số tài liệu là những giáo trình, sách chuyên khảo, những luận văn đã được công bố và tập trung ở ba nhóm chủ yếu như sau: a/ GS. TSKH. Lê Cảm (2005), Sách chuyên khảo Sau đại học: Những vấn đề cơ bản trong khoa học Luật hình sự (Phần chung), Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội; GS. TSKH. Lê Cảm (2007), Giáo trình luật hình sự Việt Nam (Phần các tội phạm), Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội; GS. TSKH. Lê Cảm, PGS. TS. Trịnh Quốc Toản (2011), Định tội danh: Lý luận, lời giải mẫu và 500 bài tập thực hành, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội; PGS. TS. Trịnh Quốc Toản (2011), Những vấn đề lý luận và thực tiễn về hình phạt bổ sung trong luật hình sự Việt Nam, Nxb Đại học Quốc Gia Hà
  • 12. 4 Nội, Hà Nội; Trường Đại học Luật Hà Nội (2004), Giáo trình luật hình sự Việt Nam, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội; Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội (2003), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội; Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội (2006), Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội; GS. TSKH. Đào Trí Úc (1994), Tội phạm học, luật hình sự và tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội; TS. Trịnh Tiến Việt (2013), Tội phạm và trách nhiệm hình sự, Nxb Chính trị Quốc gia Hà Nội, Hà Nội... b/ Các luận văn: Vũ Thị Phương Lan (2014), Định tội danh tội đánh bạc theo luật hình sự Việt Nam trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn thành phố Hà Nội, Luận văn thạc sĩ Luật học, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội; Trịnh Công Thương (2015), Các tội liên quan đến cờ bạc theo luật hình sự Việt Nam trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn địa bàn thành phố Hồ Chí Minh, Luận văn thạc sĩ Luật học, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội; Vũ Thị Len (2015), Tội đánh bạc và tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc trên địa bàn thành phố Đà Nẵng tình hình, nguyên nhân và giải pháp phòng ngừa, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Học viện khoa học xã hội - Viện hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam. c/ GS. TS. Nguyễn Xuân Yêm, TS. Phan Đình Khánh, Nguyễn Thị Kim Liên (2003), Mại dâm, ma túy, cờ bạc, tội phạm thời hiện đại, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội; ThS. Đinh Văn Quế (2000), Thực tiễn xét xử và pháp luật hình sự, Nxb Đà Nẵng, Đà Nẵng; ThS. Đinh Văn Quế, một số vần đề về phạm tội có tổ chức - Cổng thông tin điện tử Tòa án nhân dân tối cao; Dương Thanh Hiền - Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Quảng Nam, Thành lập Tòa án khu vực: Nhìn từ thực tiễn; Trần Minh Tơn - Viện chiến lược và khoa học công nghệ Bộ công an (2014), Quan điểm và giải pháp chiến lược phòng, chống tội phạm thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; Lê Văn Hưng - Tạp chí
  • 13. 5 Tòa án nhân dân (số 14/2005), Những vướng mắc khi áp dụng Điều 248, 249 Bộ luật hình sự 1999. Ngoài ra, tôi cũng đã tham khảo một số bài viết được đăng trên các tạp chí khoa học chuyên ngành, nhận thấy các tác giả thường nghiên cứu một cách tổng quát các vấn đề pháp lý ở phạm vi rộng hoặc chỉ tập trung nghiên cứu một vài khía cạnh có liên quan đến nhóm các tội về cờ bạc. Hầu hết chưa nghiên cứu sâu về tội tổ chức đánh bạc một cách đầy đủ, toàn diện, có tính hệ thống từ lý luận đến thực tiễn áp dụng pháp luật. Đồng thời, qua nghiên cứu BLHS năm 2015 được Quốc hội khóa XIII thông qua tại kỳ họp thứ 10, ngày 27 tháng 11 năm 2015 (có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 7 năm 2016) thay thế cho BLHS năm 1999, nhận thấy đã có những sửa đổi, bổ sung quy định về tội tổ chức đánh bạc để khắc phục những hạn chế của BLHS năm 1999, tuy nhiên vẫn còn những diểm quy định chưa được chặt chẽ làm cho việc ĐTD, quyết định hình phạt, việc phân hóa TNHS đối với tội phạm chưa cao, hình phạt chưa đủ sức răng đe, giáo dục đối với tội phạm. Do đó, việc tiếp tục nghiên cứu để góp phần hoàn thiện các quy định của BLHS hiện hành và BLHS năm 2015 quy định về tội phạm này vẫn có ý nghĩa rất lớn cả về mặt lý luận và thực tiễn. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Mục đích của luận văn là nghiên cứu một cách tương đối có hệ thống về những vấn đề pháp lý, TNHS đối với người phạm tội. Phân tích, đánh giá thực tiễn xét xử tội tổ chức đánh bạc của TAND các cấp trên địa bàn thành phố Đà Nẵng trong thời gian từ năm 2011 đến năm 2015, từ đó chỉ ra một số hạn chế, vướng mắc và đề xuất những giải pháp nhằm hoàn thiện, nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của BLHS về tội tổ chức đánh bạc và các tội phạm khác có liên quan.
  • 14. 6 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Từ mục đích nghiên cứu nêu trên, luận văn đặt ra những nhiệm vụ nghiên cứu cụ thể như sau: - Nghiên cứu một số vấn đề chung về tội tổ chức đánh bạc theo luật hình sự Việt Nam - Quy định về tội tổ chức đánh bạc trong BLHS Việt Nam và thực tiễn xét xử trên địa bàn thành phố Đà Nẵng. - Hoàn thiện pháp luật và các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng quy định của BLHS Việt Nam về tội tổ chức đánh bạc. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn đúng như tên gọi của nó - Tội tổ chức đánh bạc theo luật hình sự Việt Nam (trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn thành phố Đà Nẵng). 4.2. Phạm vi nghiên cứu Luận văn nghiên cứu dưới góc độ pháp lý hình sự và thực tiễn xét xử tội tổ chức đánh bạc trên địa bàn thành phố Đà Nẵng, trong thời gian 05 năm từ 2011 đến 2015. 5. Cơ sở lý luận và các phương pháp nghiên cứu 5.1. Cơ sở lý luận Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm, định hướng của Đảng về chính sách hình sự. Quan điểm, đường lối xử lý tội phạm nói chung, các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng nói riêng và những luận điểm khoa học trong các công trình nghiên cứu, sách chuyên khảo, các bài viết trên các tạp chí chuyên ngành.
  • 15. 7 5.2. Các phương pháp nghiên cứu Luận văn sử dụng các phương pháp đặc thù của khoa học luật hình sự như: phương pháp thống kê, phân tích và tổng hợp số liệu dựa trên những bản án, quyết định, số liệu thống kê, báo cáo tổng kết của TAND các cấp trên địa bàn thành phố Đà Nẵng để phân tích và luận giải các vấn đề tương ứng được nghiên cứu. 6. Ý nghĩa của luận văn 6.1. Ý nghĩa lý luận Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần hoàn thiện về mặt lý luận đối với tội tổ chức đánh bạc trong khoa học luật hình sự Việt Nam, cụ thể: - Đưa ra khái niệm về tội tổ chức đánh bạc. - Phân tích khái quát lịch sử hình thành và phát triển của luật hình sự Việt Nam quy định về tội tổ chức đánh bạc từ năm 1945 đến nay. So sánh với quy định của luật hình sự một số nước trên thế giới quy định về tội phạm này. - Nghiên cứu các dấu hiệu pháp lý của tội tổ chức đánh bạc. - Phân tích thực tiến xét xử trên địa bàn thành phố Đà Nẵng trong giai đoạn từ năm 2011 đến năm 2015, chỉ ra những hạn chế, vướng mắc và nguyên nhân nhằm đưa ra những giải pháp hoàn thiện, nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của BLHS Việt Nam đối với tội tổ chức đánh bạc và các tội phạm liên quan về đánh bạc. 6.2. Ý nghia thực tiễn Luận văn là tài liệu tham khảo cho các cơ quan tiến hành tố tụng, Tòa án các cấp trong việc ĐTD, giải quyết vụ án hình sự được khách quan, có căn cứ pháp luật. Ngoài ra, luận văn còn là cơ sở để đưa ra các kiến nghị hoàn thiện PLHS Việt Nam liên quan đến ĐTD đối với tội tổ chức đánh bạc và nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng, chống tội phạm này. Đặc biệt, luận văn còn là tài liệu tham khảo cho các sinh viên, học viên cao học và
  • 16. 8 nghiên cứu sinh chuyên ngành Luật hình sự và tố tụng hình sự tại các cơ sở đào tạo luật trên cả nước. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm ba chương, cụ thể: Chương 1: Một số vấn đề chung về tội tổ chức đánh bạc theo luật hình sự Việt Nam Chương 2: Quy định về tội tổ chức đánh bạc trong BLHS Việt Nam và thực tiễn xét xử trên địa bàn thành phố Đà Nẵng. Chương 3: Hoàn thiện pháp luật và các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng quy định của BLHS Việt Nam về tội tổ chức đánh bạc.
  • 17. 9 Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỘI TỔ CHỨC ĐÁNH BẠC THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM 1.1. Khái niệm tội tổ chức đánh bạc và sự cần thiết của việc quy định tội phạm này trong luật hình sự Việt Nam 1.1.1. Khái niệm tội tổ chức đánh bạc trong luật hình sự Việt Nam “Tội phạm là một hiện tượng xã hội - pháp lý gắn liền với sự ra đời của nhà nước và pháp luật, cũng như với sự xuất hiện của sỡ hữu tư nhân và sự phân chia xã hội thành các giai cấp đối kháng” [3, tr. 287]. Vì vậy, để bảo về đặc quyền của mình, Nhà nước sẽ quy định những hành vi nguy hiểm nào bị xem là tội phạm và áp dụng TNHS đối với người thực hiện hành vi đó, Điều 8 BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) quy định tội phạm như sau: Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền, lợi ích hợp pháp khác của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa [1, Điều 8]. Với định nghĩa này, tội phạm được các nhà làm luật đề cập đến có bốn đặc điểm (dấu hiệu) cơ bản: Là hành vi nguy hiểm cho xã hội, do người có năng lực TNHS thực hiện, có lỗi và trái với PLHS. Đối với tội tổ chức đánh bạc, do xuất phát đều là các hành vi thuộc về tệ nạn cờ bạc, có những điểm chung nhất định, hành vi được mô tả trong các
  • 18. 10 tội này gắn bó chặt chẽ với nhau (hành vi khách quan của tội tổ chức đánh bạc mang tính chất hỗ trợ, tạo điều kiện cho hành vi đánh bạc). Xét trong mối quan hệ với nhóm tội, một tội cụ thể trong nhóm tội đóng vai trò cái riêng, cái cụ thể, nhóm tội đóng vai trò cái chung, cái khái quát. Nghiên cứu cái riêng phải qua cái chung, nghiên cứu cái cụ thể phải đặt trong cái khái quát. Do vậy, để nghiên cứu khái niệm tội tổ chức đánh bạc nhất thiết phải đặt nó trong nhóm các tội đánh bạc. Theo từ điển luật học: “Đánh bạc là (hành vi) tham gia vào trò chơi được tổ chức bất hợp pháp mà sự được (hoặc thua) kèm theo việc được (hoặc mất) lợi ích vật chất đáng kể (tiền, hiện vật hoặc các hình thức tài sản khác)” [44, tr. 227] Trải qua các thời kỳ, các cơ quan lập pháp nước ta vẫn chưa đi đến thống nhất trong việc đưa ra một khái niệm hoàn chỉnh các tội phạm liên quan đến cờ bạc nói chung và tội phạm tổ chức đánh bạc nói riêng, bởi vì các hành vi về cờ bạc, tổ chức đánh bạc đều là các hiện tượng xã hội, nên nó phát sinh trong các điều kiện xã hội nhất định, và sẽ tiêu vong trong những điều kiện xã hội nhất định khác. Ở vào các giai đoạn khác nhau của xã hội, nó có những phát triển và biểu hiện khác nhau, xem xét ở góc độ pháp lý hình sự, trong mỗi giai đoạn lịch sử nước ta, các khái niệm này được đề cập ở các phạm vi khác nhau, tương ứng với điều kiện, nhận thức và cũng nhằm đáp ứng các mục tiêu khác nhau tương ứng trong từng giai đoạn mà nhà nước đặt ra cho hệ thống luật. Với khái niệm về các hành vi cờ bạc được quy định tại Sắc lệnh 168/SL ngày 14 tháng 4 năm 1948, văn bản PLHS đầu tiên của nhà nước ta được các nhà làm luật ghi nhận như sau: Tất cả các trò chơi cờ bạc, dù là có tính cách may rủi hay là có thể dùng trí khôn để tính nước mà được thua bằng tiền, đều coi
  • 19. 11 là tội đánh bạc; Những cuộc đánh đố nhau bằng tiền, những cuộc xổ số bằng tiền hay bằng đồ mà không có nhà chức trách có thẩm quyền cho phép trước cũng đều bị phạt như tội đánh bạc. Những người nào tổ chức một cuộc đánh bài, đánh bạc, một trò chơi kể trong Điều 1 không cứ ở một nơi nào, đều bị phạt tù từ hai năm đến năm năm và phạt bạc từ 10.000đ đến 100.000đ. Những người nào giúp một người khác tổ chức những cuộc nói trên, những người chủ nhà trí tình mà để người ta đánh bài đánh bạc trong nhà mình, không cứ là có thu lợi hay không, những người quản trị, người làm cái, người lấy hồ, đều bị phạt như người tổ chức [36, tr. 496]. Quy định này “hành vi tổ chức đánh bạc được áp dụng đối với người tổ chức ra đám bạc và những người giúp sức để tổ chức ra đám bạc”, phạm vi chủ thể phạm tội tổ chức đánh bạc ở đây là rất rộng, bởi chỉ cần “tổ chức một cuộc đánh bài, đánh bạc, một trò chơi” là đủ yếu tố để cấu thành tội phạm, không nhất thiết phải đạt đến một định lượng, một mức độ nguy hiểm nhất định đối với xã hội. Theo Bản tổng kết số 9-NCPL ngày 08 tháng 01 năm 1968 của TAND tối cao, khái niệm về các hành vi về liên quan đánh bạc được nêu ra như sau: Hành vi đánh bạc: “Là hành vi chơi có được thua bằng tiền mặt hay không dùng tiền mặt, nhưng thanh toán với nhau bằng tiền, tuy nhiên phải có động cơ mục đích sát phạt nhau” [36, tr. 498]. Hành vi tổ chức, chứa gá cờ bạc: “Là gây ra vụ đánh bạc, lôi cuốn người khác vào vòng phạm pháp để vụ lợi” [36, tr. 498]. Khái niệm này đã nêu lên được hành vi khách quan của tội phạm, là những hành vi rủ rê, lôi cuốn người khác tham gia đánh bạc và động cơ vụ lợi là dấu hiệu bắt buộc trong mặt chủ quan của tội phạm, nếu không có yếu tố vụ lợi thì không bị xem là tội phạm.
  • 20. 12 Sau khi pháp điển hóa BLHS năm 1985, quy đinh về các hành vi liên quan đến đánh bạc đã được phân hóa cụ thể hơn bằng việc xác định ba tội phạm trong nhóm này, gồm: đánh bạc, tổ chức đánh bạc và gá bạc. Tội tổ chức đánh bạc được quy định “Người nào tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc thì bị phạt…” điều luật quy định một cách chung chung, chưa thể hiện rõ các dấu hiệu cơ bản của tội phạm. Còn theo BLHS năm 1999, Điều 249 quy định tội tổ chức đánh bạc như sau: Người nào tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc trái phép với quy mô lớn hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi quy định tại Điều này và Điều 248 của Bộ luật này hoặc đã bị kết án về một trong các tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến ba trăm triệu đồng hoặc phạt tù từ một năm đến năm năm [1, Điều 249]. Với quy định này, hành vi tổ chức đánh bạc được khái niệm “Là hành vi chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy, cưỡng bức, đe dọa người khác tham gia trò chơi có được thua bằng tiền hoặc tài sản dưới bất kỳ hình thức nào” [26, tr. 211]. Hay nói cách khác, hành vi tổ chức đánh bạc là hành vi của chủ thể nhằm rủ rê, lôi kéo các chủ thể khác thực hiện hành vi đánh bạc trái phép, ở đây động cơ vụ lợi không còn là dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành đối với tội phạm và tội phạm có cấu thành về mặt hình thức đó là phải có “quy mô lớn hoặc…”. Có thể thấy rằng, về kỹ thuật lập pháp điều luật đã quy định chặt chẽ hơn, tuy nhiên vẫn chưa khái quát đầy đủ các đặc điểm cơ bản trong cấu thành tội phạm mà PLHS đã quy định. Khi nghiên cứu về khái niệm tội phạm, theo GS.TSKH. Lê Cảm: Khái niệm tội phạm phải bao hàm đầy đủ năm đặc điểm (dấu hiệu) trên cả ba bình diện khách quan, pháp lý và chủ quan. Bình diện khách quan (nội dung) - tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội(1); Bình diện pháp lý (hình
  • 21. 13 thức) - tội phạm là hành vi trái pháp luật hình sự(2); Bình diện chủ quan - tội phạm là hành vi do người có năng lực TNHS(3) và đủ tuổi chịu TNHS(4) thực hiện một cách có lỗi (5) [3, tr. 297]. Ở đây, tuổi chịu TNHS được xem là một dấu hiệu cơ bản trong cấu thành tội phạm và tôi thống nhất với quan điểm của tác giả đã đề cập đến. Trên cơ sở khái niệm về tội phạm đã được đề cập ở trên và qua nghiên cứu những khái niệm về tội tổ chức đánh bạc trong từng giai đoạn lịch sử của nước ta đã được các nhà làm luật đưa ra, theo tôi khái niệm tội tổ chức đánh bạc có thể được định nghĩa như sau: Tổ chức đánh bạc là chủ mưu, cầm đầu, rủ rê, lôi kéo hoặc tạo điều kiện cần thiết cho người khác tham gia đánh bạc, trái với quy định của PLHS, gây thiệt hại cho trật tự an toàn công cộng, do người có năng lực TNHS và đủ tuổi chịu TNHS thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp. Từ khái niệm này, ta có thể chỉ ra một số đặc điểm cơ bản của tội tổ chức đánh bạc đó là: Một là, khách thể mà tội tổ chức đánh bạc xâm phạm đến là trật tự công cộng. Để có trật tự công cộng, đòi hỏi Nhà nước, các cơ quan, tổ chức và mọi công dân trong xã hội đều phải có trách nhiệm xây dựng, thực hiện và bảo vệ các quy tắc của trật tự sinh hoạt chung trên các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội. Nếu ai đi ngược lại điều này là xâm phạm đến trật tự công cộng và sẽ bị xử lý theo quy định của PLHS nếu vi phạm đó có đủ các yếu tố cấu thành tội phạm. Hai là, người phạm tội tổ chức đánh bạc là người có hành vi tổ chức cho người khác thực hiện hành vi đánh bạc trái phép, thông qua các hành vi khách quan, như: lôi kéo, rủ rê hoặc tạo điều kiện cần thiết cho việc thực hiện hành vi phạm tội hoặc hành vi vi phạm pháp luật. Ba là, tội tổ chức đánh bạc do người có đủ năng lực TNHS, đủ tuổi chịu TNHS và được thực hiện một cách có lỗi cố ý trực tiếp.
  • 22. 14 Bốn là, hành vi tổ chức đánh bạc ở đây khác với phạm tội có tổ chức theo quy định tại khoản 3 Điều 20 BLHS năm 1999. Bởi đối với hành vi phạm tội này có thể có trường hợp là phạm tội có tổ chức, nhưng không phải tất cả các hành vi phạm tội này đều bị coi là phạm tội có tổ chức. 1.1.2. Sự cần thiết của việc quy định tội tổ chức đánh bạc trong luật hình sự Việt Nam Ở Việt Nam, hành vi đánh bạc đã xuất hiện lâu đời trong đời sống xã hội, như một trò chơi giải trí trong những dịp hội hè, lễ tết. Cho nên đánh bạc thường xuất hiện như một tập quán, một thói quen giao tiếp, giải trí của cộng đồng. Tuy nhiên, nếu đánh bạc không còn đơn thuần là giải trí mà nhằm mục đích ăn thua chiếm đoạt tài sản của nhau, hình thành nên xới bạc có chủ xới phụ trách chung, có người đứng thu tiền hồ của con bạc, có người đứng ra để bảo kê nhằm thu lợi bất chính, gây ảnh hưởng đến trật tự công cộng là những hành vi vi phạm pháp luật, cần phải được pháp luật nhà nước điều chỉnh và nó được xem như một tệ nạn trong xã hội [50, tr. 351]. Tệ nạn xã hội là những hành vi vi phạm pháp luật, là những sai lệch chuẩn mực xã hội, có tính phổ biến, gây thiệt hại nghiêm trọng trong đời sống kinh tế - văn hoá - xã hội. Tệ nạn xã hội là một phạm trù bao gồm: Mại dâm, nghiện hút ma tuý, cờ bạc, người lang thang, văn hoá phẩm đồi trụy [49, tr. 8] Việc xác định cờ bạc là một tệ nạn, là một trong những mặt tiêu cực của xã hội, gây ảnh hưởng lớn đến mọi mặt của đời sống tư tưởng, đạo đức, sức khỏe, kinh tế của đất nước. Vì vậy, để xã hội được ổn định và phát triển nhà nước phải luôn quan tâm đề ra những giải pháp để đấu tranh, phòng ngừa và từng bước đẩy lùi chúng. Hơn thế nữa tội tổ chức đánh bạc cũng như các tội liên quan đến cờ bạc đều có cùng khách thể của tôi phạm đó là trực tiếp xâm phạm đến là trật tự công cộng. Việc quy định các tội này là nhằm đấu tranh phòng ngừa tệ nạn cờ
  • 23. 15 bạc trong xã hội, giữ gìn trật tự công cộng, bảo về sự bình yên của mọi gia đình, tính mạng, sức khỏe và tài sản công dân [34, tr. 31] Cờ bạc còn có liên quan chặt chẽ và chịu sự tác động qua lại của tội phạm và tình hình trật tự an toàn xã hội. Cờ bạc là môi trường thuận lợi nuôi dưỡng các hành vi phạm tội, các vi phạm pháp luật khác hoặc các hiện tượng lộn xộn trong xã hội. Đội quân cờ bạc được coi là nguồn bổ sung cho các loại tội phạm, trong nhiều trường hợp còn làm tha hóa cả đội ngũ cán bộ công chức nhà nước. Sự phát triển của tệ nạn cờ bạc còn trực tiếp thúc đẩy các tội phạm và tệ nạn xã hội khác phát triển. Có thể nói giữa các tệ nạn xã hội, mại dâm, ma túy, cờ bạc, tội phạm có liên quan mật thiết, tác động qua lại, thúc đẩy lẫn nhau phát triển. Với thực tế hiện nay, trong bối cảnh đất nước hội nhập kinh tế quốc tế, do sự tác động của mặt trái nền kinh tế thị trường, sự phát triển mạnh mẽ trong lĩnh vực công nghệ thông tin, đã tạo điều kiện cho các đối tượng lợi dụng lập ra những đường dây tổ chức đánh bạc công nghệ cao, kể cả là việc liên kết với nước ngoài để tổ chức đánh bạc, làm thất thoát về tài chính, thiệt hại nặng nề cho nền kinh tế đất nước. Vì vậy, để bảo vệ đặc quyền của giai cấp thống trị, bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, phòng chống tệ nạn xã hội, phòng chống tội phạm đòi hỏi Nhà nước phải có các biện pháp xử lý mạnh mẽ đối với tội phạm nói chung và các tội về cờ bạc, tội tổ chức đánh bạc nói riêng. Muốn như vậy, việc quy định các hành vi liên quan đến cờ bạc, hành vi tổ chức đánh bạc vào BLHS để đủ sức răn đe, giáo dục đối với người phạm tội là thật sự cần thiết. 1.2. Khái quát quá trình hình thành và phát triển của luật hình sự Việt Nam quy định về tội tổ chức đánh bạc 1.2.1. Giai đoạn từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến trước khi pháp điển hóa Bộ luật hình sự năm 1985 Như đã nêu ở trên, cờ bạc là một hiện tượng xuất hiện rất sớm trong xã hội loại người nói chung và ở xã hội Việt Nam nói riêng [50, tr. 350]. Về mặt
  • 24. 16 xã hội, cờ bạc là một trò chơi tiêu khiển được biểu hiện một cách trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua nhiều loại hình khác nhau, ngoài ra cờ bạc cũng được hiểu một cách khác nhau tùy thuộc vào bối cảnh văn hóa, lịch sử cũng như pháp luật cụ thể của mỗi nước mà xem cờ bạc là hành vi phạm tội hoặc là hành vi không phạm tội. Ở nước ta, dưới chế độ phong kiến vấn đề cờ bạc đã được đề cập đến trong các Bộ luật lớn, như Quốc triều hình luật triều Lê, Luật Gia Long triều Nguyễn. Trong thời kỳ thực dân Pháp thống trị nước ta, nhằm thực hiện chính sách nô dịch ngu dân để dễ cai trị và với mục đích làm phai nhòa lý tưởng đấu tranh dành độc lập của nhân dân ta, đặc biệt là để gây tâm lý tự ty, vong bản, đầu độc tư tưởng trong thế hệ trẻ, nhà nước Pháp cho phép mở các tụ điểm hút chích á phiện, các ổ cờ bạc, cũng như cho phép các sòng bạc được mở tự do trên đất nước và không bị pháp luật nghiêm cấm. Sau khi cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời. Chính phủ mới được thành lập đã nhận thấy rõ sự nguy hiểm của các hành vi cờ bạc đối với xã hội và sự phát triển bền vững của chính quyền mới. Trong thời kỳ này một vấn đề đặt ra gắn liền với những hành vi cờ bạc là quân dịch và những thành phần thuộc giai cấp bóc lột lúc bấy giờ chưa bị thủ tiêu, chúng lợi dụng cờ bạc nhằm mục đích phá hoại, đầu độc bóc lột nhân dân ta, làm cho một bộ phận nhân dân quên đi nhiệm vụ cách mạng. Nhận thức rõ tính chất nguy hiểm của các hành vi cờ bạc và để đấu tranh, xử lý ngăn chặn những hệ lụy nguy hại cho xã hội và an ninh quốc gia. Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa đã ban hành Sắc lệnh 168/SL ngày 14 tháng 4 năm 1948 về việc ấn định cách trừng trị tội đánh bạc. Đây là văn bản PLHS đầu tiên được nhà nước ta quy định về các tội cờ bạc, Sắc lệnh này đã thể hiện đường lối xử lý cứng rắn, thái độ nghiêm khắc của nhà nước đối với các tội phạm về cờ bạc [36, tr. 496].
  • 25. 17 Sắc lệnh 168/SL quy đinh về các tội cờ bạc: Điều 1: Tất cả các trò chơi cờ bạc, dù là có tính cách may rủi hay là có thể dùng trí khôn để tính nước mà được thua bằng tiền, đều coi là tội đánh bạc và bị phạt như sau. Những cuộc đánh đố nhau bằng tiền, những cuộc xổ số bằng tiền hay bằng đồ mà không có nhà chức trách có thẩm quyền cho phép trước cũng đều bị phạt như tội đánh bạc. Điều 2: Những người nào tổ chức một cuộc đánh bài, đánh bạc, một trò chơi kể trong Điều 1 không cứ ở một nơi nào, đều bị phạt tù từ hai năm đến năm năm và phạt bạc từ 10.000đ đến 100.000đ. Những người nào giúp một người khác tổ chức những cuộc nói trên, những người chủ nhà trí tình mà để người ta đánh bài đánh bạc trong nhà mình, không cứ là có thu lợi hay không, những người quản trị, người làm cái, người lấy hồ, đều bị phạt như người tổ chức. Các người làm công khác giúp trực tiếp vào các cuộc chơi đều bị phạt là tòng phạm. Những người nào đánh bạc hay dự vào các cuộc chơi nói trên sẽ bị phạt tù từ một năm đến ba năm và phạt bạc từ 5.000đ đến 50.000đ Bao nhiêu đồ trần thiết nơi đánh bạc, các dụng cụ dùng vào việc đánh bạc, tiền nong bắt được trên bàn hay chiếu, đều bị tịch thu. Ngoài ra, các bị can còn có thể bị quản thúc từ một năm đến mười năm [36, tr. 496]. Ngoài ra, Điều 4 của Sắc lệnh thể hiện thái độ rất nghiêm khắc của nhà nước trong việc xử lý những người thực hiện hành vi cờ bạc “Dù rằng Tòa án có xét xử tình trạng nên giảm, cũng bắt buộc phải áp dụng hình phạt tối thiểu về tù và tiền, mà không cho bị can hưởng án treo. Nếu có trường hợp tái phạm, các hình phạt sẽ tăng gấp đôi” [36, tr. 496].
  • 26. 18 Sau khi ban hành, Sắc lệnh đã trở thành cơ sở pháp lý quan trọng cho công cuộc đấu tranh phòng chống tệ nạn cờ bạc. Qua những quy định của Sắc lệnh có thể nhận thấy phạm vi chủ thể có thể bị xử lý về tội tổ chức đánh bạc là rất rộng, hình phạt được áp dụng đối với người vi phạm là rất nặng, đây là thái độ nghiêm khắc cần thiết của nhà nước trong hoàn cảnh lúc bấy giờ. Tuy vậy, bên cạnh đó cũng phải thấy kỹ thuật lập pháp chưa được cao là một nhược điểm của Sắc lệnh, các tội phạm về cờ bạc mới dừng lại ở mức độ liệt kê, chưa mô tả cụ thể, chưa giải thích thế nào là hành vi tổ chức. Trong quá trình thực hiện các quy định của Sắc lệnh 168/SL, do có sự thay đổi về kinh tế - chính trị, miền Bắc công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa đã căn bản được hoàn thành, xã hội có những biến đổi sâu sắc, vấn đề ngăn chặn bàn tay của địch và những phần tử bóc lột sử dụng cờ bạc để chống phá đã không còn được đặt ra nữa, do đó Sắc lệnh 168/SL không còn thực sự phù hợp. Để khắc phục những điểm hạn chế của Sắc lệnh nhằm phù hợp tình hình thực tế xã hội lúc bấy giờ, Bộ tư pháp đã ban hành Thông tư 301/VHH- HS ngày 14 tháng 02 năm 1957 và Thông tư 2098/VHH-HS ngày 31 tháng 5 năm 1957 về việc bài trừ tệ nạn cờ bạc và giải quyết một phần vướng mắc của Sắc lệnh 168/SL. Tại thông tư 301/VHH-HS quy định đường lối xử lý các tội liên quan đến cờ bạc là “lấy giáo dục làm chính” và cũng hướng dẫn các cơ quan tư pháp đường lối giải quyết vụ án là không nhất thiết phải bắt được quả tang đánh bạc mới có thể truy tố được, đồng thời Thông tư này cũng xác định chỉ truy tố đối với các đối tượng: - Bọn tổ chức, bọn chứa gá, bọn sóc cái, bon hồ lỳ, bọn canh gác chuyên sống về nghề cờ bạc. - Bọn con bạc chuyên sống bằng nghề cờ bạc hoặc đã được cảnh cáo rồi mà vẫn tiếp tục chơi, coi thường pháp luật.
  • 27. 19 Quy định này đã thu hẹp về đối tượng bị xử lý về tội cờ bạc, tập trung xử lý nghiêm các đối tượng tham gia vào tổ chức, chứa gá bạc, đối với người đánh bạc chỉ xử lý đối tượng có kèm theo những đặc điểm về nhân thân thì mới xem xét truy tố [21, tr. 33]. Thông tư 2098/VHH-HS nêu ra cách vận dụng Sắc lệnh 168/SL và xác định về mức hình phạt, về vấn đề thu tang vật, về vấn đề quản thúc trong xử lý vụ án [2]. Tiếp theo hai Thông tư này, ngày 08 tháng 01 năm 1968 TAND tối cao đưa ra Bản tổng kết số 09-NCPL và khái niệm về hành vi tổ chức đánh bạc được các nhà làm luật ghi nhận như sau: Tổ chức, chứa gá cờ bạc là gây ra vụ đánh bạc, lôi cuốn người khác vào vòng phạm pháp để vụ lợi. Do đó, chỉ cần tổ chức chứa gá một đám bạc là đã cấu thành tội phạm. Động cơ trục lợi ở đây rất nguy hiểm, nó dẫn đến chứa gá nhiều canh bạc, sát phạt nhau to, kéo dài, đông người tham gia, để trục lợi được nhiều hơn [36, tr. 497]. Đồng thời, báo cáo đã chỉ ra ranh giới giữa cần thiết và không cần thiết xử lý hình sự. Đối với các hành vi tổ chức, chứa gá bạc cờ bạc nhưng không thuộc những trường hợp có động cơ trục lợi, thu hồ, chia hồ, không nguy hiểm đáng kể cho xã hội, cũng không cần thiết phải xử lý về mặt hình sự. Đây là những trường hợp chủ nhà vì nể nang tình cảm bạn bè, bà con mà một vài lần cho người khác đánh bạc hoặc tổ chức đánh bạc trong nhà mình nhưng chỉ là để tạo cơ hội cùng tham gia, thõa mãn máu cờ bạc của bản thân, trường hợp này chỉ xử lý về hành vi đánh bạc, còn hành vi tổ chức, chứa gá chỉ để đánh giá lượng hình. Ngoài ra, văn bản này cũng quy định chỉ xử lý vi cảnh đối với những hành vi cờ bạc mang tính nhỏ nhặt [36, tr. 497]. Sau ngày giải phóng miền Nam, Hội đồng Chính phủ cách mạng lâm thời ban hành Sắc luật số 03-SL/76 ngày 15 tháng 3 năm 1976 quy định các
  • 28. 20 tội phạm và hình phạt. Văn bản này ra đời trong hoàn cảnh miền Nam đã hoàn toàn giải phóng, trật tự cách mạng đã được thiết lập, tình hình trị an xã hội bước đầu đã có chuyển biến tốt nhưng vẫn còn phức tạp, nhiều loại tội phạm trong đó có tội phạm về cờ bạc vẫn xảy ra, gây khó khăn cho việc quản lý xã hội. Vì vậy, những quy định về tội cờ bạc trong Sắc luật 03-SL/76 vẫn thể hiện thái độ nghiêm khắc của nhà nước đối với các hành vi phạm tội này. Tại Điều 9 của Sắc luật quy định mức hình phạt đối với tội cờ bạc là từ ba tháng đến năm năm, trường hợp nghiêm trọng thì bị phạt tù đến mười lăm năm, trong mọi trường hợp có thể bị phạt tiền đến 1000 đồng Ngân hàng. Ngoài ra, quy định tại Điều 11 về hình phạt phụ, người phạm tội có thể bị tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản, trường hợp phạm tội có tính chất chuyên nghiệp còn có thể bị phạt quản chế hoặc cấm lưu trú ở một số địa phương từ một năm đến năm năm sau khi chấp hành xong hình phạt tù. Tuy nhiên, do hình phạt theo quy định tại Sắc luật 03-SL/76 là quá cao, không phù hợp với tình hình thực tế ở miền Bắc. Vì vậy, theo tinh thần Chỉ thị 54/TATC ngày 6 thàng 7 năm 1977 giai đoạn này miền Bắc vẫn áp dụng đường lối xét xử được hướng dẫn tại bản tổng kết số 09-NCPL ngày 8 tháng 1 năm 1968 của TAND tối cao và Sắc luật 03-SL/76 chỉ áp dụng cho miền Nam [21, tr. 36-37]. Qua nghiên cứu các văn bản PLHS của nước ta trong thời kỳ này, nhận thấy rằng trong mỗi giai đoạn lịch sử, các hành vi thuộc về cờ bạc đều có thể bị xử lý hình sự, chỉ khác là ở mức độ nặng hay nhẹ và nhà nước ta đã xác định hành vi cờ bạc là những hành vi có tính chất nguy hiểm đáng kể xâm hại đến trật tự an toàn xã hội. Những điểm tiến bộ nổi bật trong các văn bản của giai đoạn này là đã nêu ra được những khái niệm, phân hóa một cách tương đối rõ về các hành vi thuộc tội phạm cờ bạc, xác định rõ phạm vi những trường hợp, những đối tượng bị xử lý về hình sự. Tuy nhiên, do phần lớn được ban hành trong bối cảnh đất nước đang xảy ra chiến tranh, cũng là giai
  • 29. 21 đoạn đầu tiên trong lịch sử lập pháp hình sự của nhà nước ta, nên các văn bản này còn gặp phải các hạn chế về kỹ thuật khi xây dựng và ban hành. Điều này thể hiện rõ ở việc khái niệm về tội phạm chủ yếu mang tính liệt kê, chưa phân định rõ giữa các hành vi cờ bạc, cách quy định còn rất sơ lược và đặc biệt là chưa có sự thống nhất giữa hai miền đất nước về đường lối xử lý. Mặc dù còn những hạn chế nhất định, nhưng phải khẳng định rằng Sắc lệnh 168/SL, Sắc luật 03-SL/76 cùng các văn bản hướng dẫn thi hành trong thời gian này là những cơ sở pháp lý quan trọng để đấu tranh phòng chống tội phạm về cờ bạc, tội tổ chức đánh bạc, thực hiện nhiệm vụ xây dựng, cải tạo nhà nước trong giai đoạn lịch sử này. Đây cũng là cơ sở để xây dựng những quy định của PLHS nước ta về tội phạm liên quan đến cờ bạc nói chung và tội tổ chức đánh bạc nói riêng về sau. 1.2.2. Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985 đến nay BLHS năm 1985 được ban hành là kết quả của hoạt động pháp điển, là đạo luật hình sự đầu tiên của nước ta, trong đó quy định tất cả các vấn đề về tội phạm và hình phạt, nó thay thế cho toàn bộ các văn bản pháp luật đã áp dụng trước đó. Theo đó, các tội về cờ bạc, tội tổ chức đánh bạc được các nhà làm luật quy định trong cùng một Điều luật - Điều 200 BLHS: 1. Người nào đánh bạc dưới bất kỳ hình thức nào được thua bằng tiền hay hiện vật, thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến một năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến ba năm. 2. Người nào tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến một năm hoặc bị phạt tù từ sáu tháng đến ba năm. Phạm tội trong trường hợp tái phạm nguy hiểm thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm [27, Điều 200]. Qua Điều 200 cũng như sự ra đời Phần chung BLHS năm 1985 bao
  • 30. 22 gồm các quy định về tội phạm và hình phạt, chúng ta có thể nhận thấy bước tiến vượt bậc trong kỹ thuật lập pháp đối với PLHS nói chung và quy định về các tội cờ bạc nói riêng. Kế thừa quan điểm, nhận thức về tính nguy hiểm cho xã hội của các hành vi cờ bạc, các nhà làm luật ở đây đã xác định rõ các tội phạm trong nhóm này, bao gồm: đánh bạc, tổ chức đánh bạc và gá bạc, điều mà trước đó mới chỉ dừng lại ở việc liệt kê các hành vi phạm tội. Việc đổi mới này làm cho quy định về các tội cờ bạc và tội tổ chức đánh bạc trở nên ngắn gon, dễ hiểu và khoa học. Một điểm đáng chú ý, mặc dù xác định ba tội danh cụ thể, nhưng Bộ luật lại đặt chúng trong một điều luật duy nhất. Cách quy định này khiến Điều 200 BLHS năm 1985 bên cạnh việc thể hiện được những tiến bộ về kỹ thuật lập pháp, vẫn còn bộc lộ những hạn chế cần khắc phục, mà cụ thể là các dấu hiệu cấu thành tội đánh bạc gần như không có điểm chung với các dấu hiệu cấu thành tội tổ chức đánh bạc và gá bạc, điều luật đã phân định rõ rệt tội đánh bạc với tổ chức đánh bạc và gá bạc khi quy định chúng ở hai khung hình phạt khác nhau với từng chế tài cụ thể riêng biệt. Do vậy, việc quy định ba tội này trong cùng một điều luật chưa đảm bảo được tính khoa học, chưa thể hiện sự phân hóa cao về TNHS. Một hạn chế khác là các quy định về cả ba tội đều không chỉ rõ ranh giới giữa các hành vi cờ bạc là tội phạm và các hành vi cờ bạc là vi phạm hành chính. Mặc dù quy định của Điều 200 phải được đặt trong mối tương quan với những quy định chung về tội phạm, cụ thể là khoản 3 Điều 8 BLHS năm 1985 quy định: “Những hành vi tuy có dấu hiệu của tội phạm nhưng tính chất nguy hiểm cho xã hội không đáng kể, thì không phải là tội phạm và được xử lý bằng các biện pháp khác” [27, Điều 8]. Nhưng thế nào là nguy hiểm không đáng kể thì chưa được giải thích cụ thể, những người áp dụng pháp luật có thể có quan điểm khác nhau khi xác định ranh giới giữa nguy hiểm đáng kể và nguy hiểm không đáng kể đối với các hành vi cờ bạc [21, tr. 40].
  • 31. 23 BLHS năm 1985 với những tiến bộ trong kỹ thuật lập pháp, đã góp phần quan trọng vào công tác đấu tranh phòng chống tội phạm về cờ bạc nói chung, tội tổ chức đánh bạc nói riêng trong suốt 15 năm có hiệu lực thi hành. Mặc dù vậy, do cách quy định khái quát, gọn nhẹ, nên chưa thể hiện được những nội dung cần thiết, tạo nên những vướng mắc trong quá trình áp dụng. Đây chính là những điểm chưa hợp lý, chưa đáp ứng yêu cầu của thực tiễn, sự phát triển của xã hội nên yêu cầu sửa đổi là cần thiết và vấn đề này đã được các nhà làm luật nước ta khắc phục trong BLHS năm 1999. Trên cơ sở BLHS năm 1985, cũng như những bài học kinh nghiệm từ thực tiễn đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm trong nhiều thập kỷ qua của quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc [28] Ngày 21 tháng 12 năm 1999, Quốc hội khoá X đã thông qua và ban hành BLHS năm 1999, từ khi BLHS năm 1999 ra đời thì việc xử lý các tội phạm về cờ bạc, tội tổ chức đánh bạc đã theo một chính sách mới, việc ĐTD, quyết định hình phạt, nguyên tắc xử phạt, xử lý vật chứng cũng có nhiều điểm mới giúp cho việc cá thể hóa TNHS ngày càng tiến bộ hơn. Các tội phạm về cờ bạc được các nhà làm luật chia tách thành hai điều luật độc lập, Điều 248: tội đánh bạc và Điều 249: tội tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc. Tuy nhiên, do cấu tạo điều luật miêu tả những hành vi khách quan vẫn có nhiều mặt chưa sáng tỏ, nên các cơ quan có thẩm quyền đã ban hành nhiều văn bản để hướng dẫn áp dụng, như: - Nghị quyết số 02/2003/NQ - HĐTP ngày 17 tháng 4 năm 2003 của Hội đồng thẩm phán TAND tối cao, hướng dẫn áp dụng một số quy định của BLHS 1999. - Nghị quyết số 01/2006/NQ - HĐTP ngày 12 tháng 5 năm 2006 của Hội đồng thẩm phán TAND tối cao, hướng dẫn áp dụng một số quy định của BLHS 1999. Tại kỳ họp thứ 5, Quốc hội khóa XII đã thông qua Luật số 37/2009/QH12
  • 32. 24 ngày 19 tháng 6 năm 2009 về sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm 1999, theo đó tội tổ chức đánh bạc được quy định như sau: Điều 249: Tội tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc 1. Người nào tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc trái phép với quy mô lớn hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi quy định tại Điều này và Điều 248 của Bộ luật này hoặc đã bị kết án về một trong các tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến ba trăm triệu đồng hoặc phạt tù từ một năm đến năm năm. 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ ba năm đến mười năm: a) Có tính chất chuyên nghiệp; b) Thu lợi bất chính lớn, rất lớn hoặc đặc biệt lớn; c) Tái phạm nguy hiểm. 3. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến một trăm triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản [30, Điều 249]. Với qui định này, hành vi tổ chức đánh bạc bị PLHS điều chỉnh là hành vi “tổ chức đánh bạc trái phép” và phải có “quy mô lớn hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi quy định tại Điều này và Điều 248 của Bộ luật này hoặc đã bị kết án về một trong các tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm”. Để giải thích tính “quy mô lớn”, Hội đồng thẩm phán TAND tối cao đã ban hành Nghị quyết số 01/2010/NQ - HĐTP ngày 22 tháng 10 năm 2010, hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Điều 248, Điều 249 của BLHS để giải thích những trường hợp thuộc quy mô lớn đối với tội tổ chức đánh bạc. Về hình phạt, người phạm tội tổ chức đánh bạc có thể bị Tòa án lựa chọn một trong hai hình phạt chính là phạt tiền từ mười triệu đến ba trăm triệu
  • 33. 25 đồng hoặc phạt tù có thời hạn từ một năm đến năm năm để tuyên án. Đối với những trường hợp phạm tội có cấu thành tăng nặng thì hình phạt chính được tuyên với người phạm tội có khung từ ba năm đến mười năm tù. Ngoài ra, người phạm tội có thể bị Tòa án buộc chấp hành thêm hai hình phạt bổ sung là phạt tiền từ năm triệu đồng đến một trăm triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. Với quy định của BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009), qua quá trình thi hành đã góp phần rất lớn vào công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Tuy nhiên, trước sự phát triển của xã hội, quá trình hội nhập quốc tế của đất nước, BLHS năm 1999 đã bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập, nhận thấy được vấn đề này Quốc hội khóa XIII đã đưa việc sửa đổi BLHS năm 1999 vào chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của nhiệm kỳ. Tại kỳ họp thứ 10 khóa XIII, Quốc hội đã biểu quyết thông qua Luật số 100/2015/QH13 ngày 27 tháng 11 năm 2015 ban hành BLHS năm 2015, gồm: ba Phần, 26 Chương, 426 Điều, có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 7 năm 2016. Trong đó, tội tổ chức đánh bạc được quy định tại Điều 322, mục D: các tội phạm khác xâm phạm trật tự công cộng; thuộc Chương XXI: các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng: 1. Người nào tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc trái phép thuộc một trong các trường hợp sau, thì bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 300.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm: a) Tổ chức, sử dụng địa điểm thuộc quyền sở hữu, quản lý của mình để cho 10 người đánh bạc trở lên trong cùng một lúc hoặc cho 02 chiếu bạc trở lên mà số tiền hoặc hiện vật dùng đánh bạc trị giá 5.000.000 đồng trở lên; b) Tổng số tiền hoặc hiện vật dùng đánh bạc trong cùng một lần có giá trị 20.000.000 đồng trở lên;
  • 34. 26 c) Tổ chức nơi cầm cố tài sản cho người tham gia đánh bạc; lắp đặt trang thiết bị phục vụ cho việc đánh bạc; phân công người canh gác, người phục vụ, sắp đặt lối thoát khi bị vây bắt, sử dụng phương tiện để trợ giúp cho việc đánh bạc; d) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc hành vi quy định tại Điều 321 của Bộ luật này hoặc đã bị kết án về tội này hoặc tội quy định tại Điều 321 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm. 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm: a) Có tính chất chuyên nghiệp; b) Thu lợi bất chính 50.000.000 đồng trở lên; c) Tái phạm nguy hiểm. 3. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản [33]. Về cơ bản, Điều 322 quy định về tội tổ chức đánh bạc trong BLHS năm 2015 kế thừa những quy định tại Điều 249 BLHS năm 1999, tuy nhiên có một số điểm sửa đổi, bổ sung đáng chú ý đó là: - Về mặt kỹ thuật lập pháp được các nhà làm luật quy định chặt chẽ hơn thể hiện qua việc đã luật hóa các hành vi phạm tội cụ thể vào trong điều luật, thay cho việc quy định như trước đây là “quy mô lớn hoặc…”. - Giá trị tài sản dùng để đánh bạc quy định tại điểm a khoản 1 Điều 322 được điều chỉnh tăng lên là 5.000.000 đồng, thay cho mức 2.000.000 đồng theo quy định tại Điều 249 BLHS năm 1999. - Về hình phạt, Điều 322 đã sửa đổi theo hướng tăng nặng hơn so với hình phạt quy định tại Điều 249, cụ thể: nâng mức phạt tiền tối thiểu hình phạt chính tại khoản 1 lên 50.000.000 đồng và hình phạt bổ sung tại khoản 3
  • 35. 27 lên 20.000.000 đồng; khung hình phạt tù đối với những trường hợp phạm tội có cấu thành tăng nặng tại khoản 2 của điều luật là từ 5 năm đến 10 năm. Có thể thấy rằng, với những sửa đổi, bổ sung của BLHS năm 2015 các dấu hiệu phạm tội đã được luật hóa, đảm bảo tính khoa học, tạo được sự thống nhất trong việc áp dụng pháp luật. Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn còn những hạn chế nhất định, như việc quy định tội tổ chức đánh bạc, gá bạc vào chung một điều luật dẫn đến việc phân hóa TNHS đối với tội phạm không cao; việc ĐTD và quyết định hình phạt gặp những vướng mắc trong quá trình áp dụng pháp luật; việc quy định hình phạt tiền làm hình phạt chính nên không đảm bảo tính răn đe, giáo dục và phòng ngừa tội phạm. 1.3. Quy định về tội tổ chức đánh bạc trong pháp luật hình sự một số nước trên thế giới PLHS của một số nước trên thế giới hiện nay tồn tại hai quan điểm pháp lý khác nhau trong quá trình xây dựng pháp luật về hành vi đánh bạc nói chung và hành vi tổ chức đánh bạc nói riêng. Thứ nhất, phần lớn các nước trên thế giới tổ chức quản lý các hoạt động giải trí nói chung, cờ bạc nói riêng bằng pháp luật. Nhiều nước tư bản chủ nghĩa cho phép tổ chức các dịch vụ đánh bạc để thu hút khách du lịch, phục vụ tiêu khiển và thu lợi nhuận kinh tế… Nhóm nước thứ hai cấm cờ bạc dưới mọi hình thức, chủ yếu các nước xã hội chủ nghĩa, trong đó có Việt Nam. Trong pháp luật hình sự, hành chính của các nước này các hành vi đánh bạc, gá bạc, tổ chức đánh bạc là bất hợp pháp và bị truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc hành chính [50, tr. 350]. Để cụ thể hơn, chúng ta vào đi nghiên cứu PLHS của một số nước trên thế giới quy định về loại tội phạm này. 1.3.1. Bộ luật hình sự Nhật Bản Theo BLHS Nhật Bản ban hành ngày 01 tháng 10 năm 1908 được sửa
  • 36. 28 đổi, bổ sung ngày 24 tháng 6 năm 2011 đã dành hẳn một chương để quy định tội liên quan về đánh bạc và vé số. Chương 23, BLHS Nhật Bản quy định: Điều 185: Đánh bạc Người nào đánh bạc thì bị phạt tiền dưới 50 vạn Yên hoặc phạt tiền mức nhẹ. Tuy nhiên, không hạn chế trong những trường hợp cá cược vật dùng để giải trí nhất thời. Điều 186: Đánh bạc nhiều lần và tổ chức nơi đánh bạc, vv... 1. Người nào đánh bạc nhiều lần thì bị phạt tù dưới 3 năm. 2. Người nào mở sòng bạc hoặc tập trung con bạc nhằm mục đích lợi nhuận thì bị phạt tù trên 3 tháng đến dưới 5 năm. Điều 187: Bán vé số bất hợp pháp, vv… 1. Người nào bán vé số bất hợp pháp thì bị phạt tù dưới 2 năm hoặc bị phạt tiền trên 150 vạn Yên. 2. Người nào làm môi giới bán vé số bất hợp pháp thì bị phạt tù dưới 1 năm hoặc bị phạt tiền đến dưới 100 vạn Yên. 3. Ngoài trường hợp được quy định tại 2 khoản trên người nào biếu nhận vé số bất hợp pháp thì bị phạt tiền dưới 20 vạn Yên hoặc bị phạt tiền mức nhẹ [16, tr.147- 148]. Có thể nhận thấy PLHS Nhật Bản quy định rất rõ chế tài hình sự đối với các tội đánh bạc thể hiện qua việc đã dành hẳn một chương riêng để quy định về các tội này. Điều này cho thấy pháp luật Nhật Bản cũng coi việc tham gia đánh bạc, tổ chức đánh bạc là hành vi bất hợp pháp làm ảnh hưởng nghiêm trọng tới trật tự, an toàn công cộng. So với quy định về tội tổ chức đánh bạc trong BLHS nước ta, BLHS Nhật Bản không quy định về mặt khách quan của tội phạm là phải có “quy mô lớn hoặc đã bị xử phạt hành chính, đã bị kết án”, mà chỉ cần người nào có hành vi như điều luật đã nêu, nhằm mục đích vụ lợi thì sẽ bị xem là tội phạm.
  • 37. 29 Về hình phạt, BLHS Nhật Bản không quy định hình phạt tiền là hình phạt chính và hình phạt tù có mức cao nhất là 05 năm, trong khi đó BLHS Việt Nam quy định hình phạt tiền là một trong những hình phạt chính và hình phạt tù có mức tối đa là 10 năm. Bên cạnh đó, BLHS Nhật Bản không quy định hình phạt bổ sung đối với tội tổ chức đánh bạc, trong khi tại khoản 3 Điều 249 BLHS Việt Nam thì người phạm tội có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền từ 5.000.000đ đến 100.000.000đ, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. 1.3.2. Bộ luật hình sự Vương quốc Thụy Điển Đối với pháp luật Vương quốc Thụy Điển hiện hành, BLHS năm 1962, sữa đổi bổ sung các năm 1999, 2005, 2009. Tội tổ chức đánh bạc được quy định tại chương 16: Các tội xâm phạm trật tự công cộng. Điều 14: Người nào tổ chức một cách bất hợp pháp cho công chúng trò chơi hoặc các hoạt động tương tự mà kết quả của nó hoàn toàn hoặc phần lớn phụ thuộc vào sự may rủi và xét bản chất của hoạt động, số lượng tiền đặt cược và các tình tiết khác thì đó là hoạt động có hại hoặc đem lại thu nhập đáng kể cho người tổ chức thì bị phạt tiền hoặc phạt tù đến hai năm về tội đánh bạc bất hợp pháp. Hình phạt này cũng áp dụng đối với người nào cho phép đánh bạc trong căn hộ hoặc ở nơi khác mà người đó mở công khai. Điều 14a: Tội phạm quy định tại đoạn 1 Điều 14 trong trường hợp nghiêm trọng thì bị phạt tù từ sáu tháng đến bốn năm về tội đánh bạc bất hợp pháp trong trường hợp nghiêm trọng. Để xác định tính chất nghiêm trọng của tội phạm cần đặc biệt cân nhắc xem hành vi đó có phải là hoạt động chuyên nghiệp không, số lượng tiền có lớn không hoặc những tình tiết khác thể hiện hành vi có mang tính chất đặc biệt nguy hiểm hay không [41, tr. 152-153].
  • 38. 30 BLHS Thụy Điển ghi nhận hành vi tổ chức đánh bạc là một trong các tội đánh bạc bất hợp pháp và được quy định tại hai điều luật, trong đó Điều 14a tương tự như khoản 2 Điều 249 BLHS Việt Nam quy định về định khung tăng nặng TNHS đối với người tội phạm. Theo quy định của BLHS Thụy Điển có thể thấy rằng không phải mọi hành vi tổ chức đánh bạc đều bị xem là tội phạm, bởi chỉ “người nào tổ chức một cách bất hợp pháp cho công chúng…” thì mới bị xem là tội phạm, có nghĩa là việc “tổ chức đánh bạc hợp pháp” sẽ không bị xem là tội phạm, đồng thời dấu hiệu khách quan của tội phạm ở đây có cấu thành về mặt hình thức. Về hình phạt, tương tự quy định hình phạt của PLHS Việt Nam hình phạt chính đối với tội phạm này là phạt tiền hoặc phạt tù, tuy nhiên tội phạm có cấu thành tăng nặng thì hình phạt về tội tổ chức đánh bạc theo quy định của PLHS Thụy Điển nhẹ hơn, khung hình phạt tối đa là đến 4 tù, trong khi đó quy định về khung hình phạt tối đa của BLHS Việt Nam về tội này là 10 năm tù. 1.3.3. Bộ luật hình sự Cộng hòa nhân dân Trung Hoa BLHS Cộng hòa nhân dân Trung Hoa được thông qua ngày 01 tháng 7 năm 1979 có hiệu lực ngày 01 tháng 01 năm 1980 (sửa đổi bổ sung các năm 1997, 1999, 2001, 2002, 2005), tội tổ chức đánh bạc được quy định tại Điều 303 thuộc mục 1: Tội gây rối trật tự công cộng thuộc Chương VI: Tội phạm trật tự, quản lý xã hội. Điều 303: “Người nào lấy việc tụ tập đánh bạc, mở sòng bạc làm mục đích kinh doanh kiếm lời hoặc lấy việc đánh bạc làm nghiệp thì bị phạt tù đến 03 năm, cải tạo lao động, quản chế và bị phạt tiền” [14, tr. 187]. Theo BLHS Trung Quốc, các tội liên quan về cờ bạc được quy định chung trong một mục của điều luật và bị xem là một trong nhóm tội gây rối trật tự công cộng. So với quy định về tội tổ chức đánh bạc trong BLHS của
  • 39. 31 Việt Nam, thì quy định về tội tổ chức đánh bạc trong BLHS Trung Quốc khá ngắn gọn, điều luật không quy định mức định lượng để truy cứu trách nhiệm hình sự, hành vi khách quan cấu thành tội tổ chức đánh bạc khá rõ và ở đây mục đích vụ lợi được xem là dấu hiệu bắt buộc đối với tội phạm. Về khung hình phạt đối với tội tổ chức đánh bạc, BLHS Trung Quốc quy định người phạm tội bị phạt tù đến 3 năm, cải tạo lao động, quản chế và bị phạt tiền. So với khung hình phạt quy định trong Điều 249 BLHS Việt Nam thì chế tài tối đa đối với người phạm tội tổ chức đánh bạc trong luật hình sự Trung Quốc nhẹ hơn, bởi theo quy định của BLHS nước ta, mức hình phạt tối đa đối với tội phạm này là 10 năm tù, trong khi đó quy định của BLHS Trung Hoa có khung hình phạt cao nhất là 03 năm tù.
  • 40. 32 Chương 2 QUY ĐỊNH VỀ TỘI TỔ CHỨC ĐÁNH BẠC TRONG BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VÀ THỰC TIỄN XÉT XỬ TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG 2.1. Quy định của luật hình sự Việt Nam về tội tổ chức đánh bạc 2.1.1. Các dấu hiệu pháp lý hình sự Các dấu hiệu pháp lý hình sự là cơ sở, là những điều kiện cần thiết để xem xét một hành vi nào đó của chủ thể đã thực hiện có phải là tội phạm hay không phải tội phạm. Dấu hiệu pháp lý hình sự của tội phạm bao gồm: khách thể của tội phạm, mặt khách quan của tội phạm, chủ thể của tội phạm, mặt chủ quan của tội phạm. * Khách thể của tội tổ chức đánh bạc Khách thể của tội phạm là các quan hệ xã hội được BLHS xác lập và bảo vệ, bị tội phạm xâm hại bằng cách gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại trong một chừng mực nhất định. Bất kỳ tội phạm nào cũng xâm phạm đến ít nhất một khách thể được BLHS xác lập và bảo vệ [46, tr. 98]. Theo đó, khách thể của tội tổ chức đánh bạc là các quan hệ xã hội trong lĩnh vực quản lý trật tự công cộng bị các hành vi phạm tội tổ chức đánh bạc xâm phạm đến. Trật tự công cộng là những hoạt động bình thường của xã hội, là sự hoạt động của mọi người ở những nơi công cộng. Sự hoạt động bình thường được hiểu là trước khi có sự xâm phạm của tội phạm thì mọi hoạt động của con người được diễn ra theo nề nếp quy cách, tức là trong khu vực cộng đồng đó mọi quan hệ xã hội đều ở trạng thái ổn định. Khi có sự tác động của tội phạm các quan hệ xã hội bị xâm hại, hoạt động bình thường bị phá vỡ bằng việc vi phạm quy tắc sống lành mạnh, ảnh hưởng trực tiếp đến khu vực công cộng nơi đó, xâm phạm đến quyền và lợi ích của cả cộng đồng. Như
  • 41. 33 vậy, có thể khẳng định rằng khách thể mà tội phạm tổ chức đánh bạc xâm phạm đến chính là trật tự nếp sống văn minh của xã hội. * Mặt khách quan của tội tổ chức đánh bạc Mặt khách quan của tội phạm là mặt bên ngoài của tội phạm hay là những dấu hiệu của tội phạm biểu hiện ra ngoài thế giới khách quan, gồm các dấu hiệu: hành vi nguy hiểm cho xã hội, hậu quả nguy hiểm cho xã hội, mối quan hệ giữa hành vi nguy hiểm và hậu quả nguy hiểm cho xã hội, thời gian, địa điểm phạm tội, phương pháp, thủ đoạn phạm tội, công cụ, phương tiện phạm tội và hoàn cảnh phạm tội [46, tr. 98]. Hành vi nguy hiểm cho xã hội là dấu hiệu khách quan hay còn gọi là hành vi khách quan, có tính chất bắt buộc của tất cả cấu thành tội phạm. Hành vi khách quan là biểu hiện cơ bản và quan trọng nhất trong mặt khách quan của tội phạm, nó giữ vai trò quyết định và chi phối những yếu tố khác của mặt khách quan. Hành vi khách quan bao gồm những biểu hiện của con người ra thế giới khách quan và biểu hiện đó phải được ý thức kiểm soát và ý chí điều khiển, đó chính là kết quả hoạt động của ý chí. Hành vi khách quan có 3 đặc điểm như sau: - Hành vi khách quan của tội phạm có tính nguy hiểm cho xã hội. - Hành vi khách quan của tội phạm là hoạt động có ý thức và ý chí. - Hành vi khách quan của tội phạm là hành vi trái PLHS. Bất cứ một loại tội phạm nào cũng đều phải có hành vi khách quan, không có hành vi khách quan thì không có tội phạm. Tội tổ chức đánh bạc là có cấu thành tội phạm hình thức, do vậy dấu hiệu của mặt khách quan chỉ được đặc trưng bởi hành vi khách quan là hành vi tổ chức đánh bạc. Cụ thể, hành vi tổ chức đánh bạc là hành vi kích động, rủ rê, lôi kéo người khác cùng tham gia đánh bạc, đó là việc dùng lời nói, hành
  • 42. 34 động của mình tác động vào ý chí của người khác để họ tự nguyện một phần hoặc toàn bộ vào việc tham gia đánh bạc. Trong loại tội này, người tổ chức đánh bạc có thể đồng thời là người tham gia đánh bạc. Nếu trong trường hợp vừa kích động, rủ rê, lôi kéo các con bạc khác tham gia vừa trực tiếp tham gia đánh bạc thì sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về cả hai tội đánh bạc và tổ chức đánh bạc. Dấu hiệu của mặt khách quan của tội phạm luôn được sử dụng để phân biệt tội phạm với các vi phạm pháp luật khác. Khi xem xét mặt khách quan của tội tổ chức đánh bạc chúng ta cần phải dựa vào những dấu hiệu cụ thể và chỉ truy cứu TNHS về tội này khi có một trong những tình tiết sau: “có quy mô lớn; đã bị xử lý hành chính; đã bị kết án”. Ở đây cần chú ý trường hợp tổ chức đánh bạc với quy mô nhỏ, chưa bị xử phạt hành chính hay chưa bị kết án về một trong các tội này thì không bị xem là tội phạm. * Chủ thể của tội tổ chức đánh bạc Chủ thể của tội phạm là con người cụ thể đang sống đã thực hiện tội phạm đạt độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự và có năng lực trách nhiệm hình sự [46, tr. 99]. Điều 249 BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) quy định: “Người nào tổ chức đánh bạc trái phép với quy mô lớn …”, ta có thể nhận thấy toàn bộ phần giả định “người nào” có nghĩa là bất kỳ ai mà có năng lực TNHS và đạt độ tuổi pháp luật quy định cũng đều có thể trở thành chủ thể của tội tổ chức đánh bạc. Thực tế cho thấy rằng, bất kỳ người nào trong mọi thành phần xã hội cũng có thể tham gia thực hiện hành vi tổ chức đánh bạc. Vì vậy, chủ thể của tội tổ chức đánh bạc là rất rộng, bởi nó không có một số giới hạn bổ sung như: giới tính, nghề nghiệp, địa vị xã hội, thái độ chính trị, giai tầng xã hội và hơn nữa lại rất đa dạng, phức tạp về mục đích, động cơ phạm tội [34, tr. 29].
  • 43. 35 Tuy nhiên, chỉ người có đủ điều kiện để có lỗi và trở thành chủ thể của tội phạm phải là người có năng lực TNHS và đạt được độ tuổi theo luật định. Năng lực TNHS là năng lực nhận thức được ý nghĩa xã hội của hành vi thực hiện và năng lực điều khiển được hành vi theo đòi hỏi tất yếu của xã hội, tức là khả năng kiềm chế được hành vi nguy hiểm cho xã hội đã thực hiện và khả năng lựa chọn xử sự khác không nguy hiểm cho xã hội. Theo đó, nguời thực hiện hành vi tổ chức đánh bạc được xác định là có năng lực TNHS tại thời điểm thực hiện hành vi nếu ở thời điểm đó họ nhận thức được tính chất nguy hiểm cho xã hội (tính xâm phạm đến trật tự công cộng) của hành vi mà họ thực hiện, đồng thời có khả năng điều khiển được hành vi đó theo hướng phù hợp với đòi hỏi của xã hội (không thực hiện hành vi tổ chức đánh bạc). Những trường hợp không thỏa mãn các dấu hiệu nêu trên được xác định là người không có năng lực TNHS. Đây là những trường hợp mà người thực hiện hành vi tổ này mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác mà người thực hiện hành vi tổ chức đánh bạc không nhận thức được ý nghĩa xã hội của hành vi, hoặc tuy họ nhận thức được điều này nhưng không có khả năng điều khiển hành vi của bản thân theo hướng đáp ứng các đòi hỏi của xã hội. Trong các trường hợp này, người có các biểu hiện hình thức của hành vi tổ chức đánh bạc không được coi là chủ thể của tội phạm. Bên cạnh điều kiện trên, chủ thể tội tổ chức đánh bạc còn phải đáp ứng được điều kiện về độ tuổi luật định. Điều 12 BLHS năm 1999 qui định: 1. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm. 2. Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng [28, Điều 12].
  • 44. 36 Theo Điều 249 hình phạt đối với người phạm tội tổ chức đánh bạc được chia thành hai khung: tại khoản 1 hành vi này có thể bị xử phạt với mức cao nhất của khung hình phạt là 05 năm tù, hành vi theo mô tả của khoản này (cấu thành cơ bản) là tội phạm nghiêm trọng, do đó độ tuổi chịu TNHS là từ đủ 16 tuổi trở lên; tại khoản 2 mức hình phạt cao nhất có thể áp dụng là 10 năm tù, hành vi nguy hiểm cho xã hội thuộc khoản này (cấu thành tăng nặng) là tội phạm rất nghiêm trọng, do đó tuổi chịu TNHS là từ đủ 14 tuổi trở lên. * Mặt chủ quan của tội tổ chức đánh bạc Tội phạm là một thể thống nhất giữa mặt khách quan và mặt chủ quan. Mặt chủ quan của tội phạm là mặt bên trong của tội phạm, là trạng thái tâm lý của chủ thể khi thực hiện hành vi phạm tội, bao gồm các dấu hiệu lỗi, động cơ phạm tội và mục đích phạm tội [46, tr. 99]. Xét về mặt hình thức, lỗi được hiểu là thái độ tâm lý của con người đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội của mình và đối với hậu quả của hành vi đó gây ra được biểu hiện dưới hình thức cố ý hoặc vô ý. Tội tổ chức đánh bạc, chủ thể luôn có ý thức hành vi sẽ gây thiệt hại cho xã hội trong khi có đủ điều kiện lựa chọn cách xử sự khác phù hợp với đòi hỏi của xã hội. Người phạm tội luôn nhận thức được hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, nhận thức được tính trái pháp luật, xâm phạm tới trật tự xã hội nhưng vẫn tìm cách thực hiện. Mặt khác, hậu quả của hành vi này là vụ đánh bạc được diễn ra trên thực tế, gây hại đến trật tự chung của xã hội, việc đã nhận thức được tính nguy hiểm của hành vi mà vẫn quyết định thực hiện cho thấy thái độ mong muốn hậu quả xảy ra trên thực tế của người phạm tội. Do đó, mặt chủ quan của tội phạm này được thực hiện do lỗi cố ý, động cơ phạm tội là tư lợi và mục đích là nhằm thu lợi bất chính. 2.1.2. Hình phạt Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước, do
  • 45. 37 Tòa án quyết định trong bản án kết tội có hiệu lực pháp luật đối với người bị kết án để tước bỏ hay hạn chế quyền, tự do của người đó nhằm giáo dục, cải tạo và phòng ngừa tội phạm [46, tr. 310]. Đối với tội tổ chức đánh bạc, Điều 249 BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) quy định hai khung hình phạt bao gồm khung cơ bản và khung tăng nặng, cụ thể: 1) Khung cơ bản: Người nào tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc trái phép với quy mô lớn hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi quy định tại Điều này và Điều 248 của Bộ luật này hoặc đã bị kết án về một trong các tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến ba trăm triệu đồng hoặc phạt tù từ một năm đến năm năm [30, Điều 249]. Khi xác định các tình tiết là yếu tố định tội để áp dụng khung hình phạt này cần chú ý: a) Người phạm tội tổ chức đánh bạc “với quy mô lớn”, đây là một trong những tình tiết định khung cấu thành cơ bản của tội tổ chức đánh bạc và cũng là tình tiết để phân định ranh giới giữa tội phạm và vi phạm hành chính đối với hành vi tổ chức đánh bạc. Để xác định rõ các tình tiết này, Nghị quyết số 01/2010/NQ - HĐTP ngày 22 tháng 10 năm 2010 của Hội đồng thẩm phán TAND tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Điều 248, Điều 249 của BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009), Điều 2 quy định một trong các trường hợp sau là “quy mô lớn”: a. Tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc trong cùng một lúc cho từ mười người đánh bạc trở lên hoặc cho từ hai chiếu bạc trở lên mà số tiền hoặc hiện vật dùng đánh bạc có giá trị từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng;
  • 46. 38 b. Có tổ chức nơi cầm cố tài sản cho người tham gia đánh bạc; có lắp đặt trang thiết bị phục vụ cho việc đánh bạc; khi đánh bạc có phân công người canh gác, người phục vụ, có sắp đặt lối thoát khi bị vây bắt, sử dụng phương tiện như ô tô, xe máy, xe đạp, điện thoại … để trợ giúp cho việc đánh bạc; c. Tổng số tiền hoặc hiện vật dung đánh bạc trong cùng một lúc có giá trị từ 20.000.000 đồng trở lên [20, Điều 2]. b) Người phạm tội “đã bị xử phạt hành chính về các hành vi đánh bạc, tổ chức đánh bạc hay gá bạc, hoặc đã bị kết án về một trong các tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm”. Thứ nhất, căn cứ vào yếu tố “đã bị xử phạt hành chính” về hành vi đánh bạc, tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc. Khi hành vi tổ chức đánh bạc thỏa mãn dấu hiệu này thì mặc dù không đạt đuợc tới một quy mô nhất định về mặt định lượng, hành vi vẫn thể hiện được mức độ nguy hại cao cho xã hội và do đó được coi là tội phạm, bị xử lý theo PLHS mà không được coi là vi phạm hành chính, bị xử lý theo pháp luật hành chính. Tuy nhiên, chúng ta cần hiểu rằng chỉ được áp dụng yếu tố này khi hành vi bị xử lý hành chính đó chưa bị xóa bỏ, nghĩa là vẫn còn trong thời hạn đang bị xử phạt hành chính. Theo Điều 7 Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2013 quy định: Cá nhân, tổ chức bị xử phạt vi phạm hành chính nếu trong thời hạn 06 tháng, kể từ ngày chấp hành xong quyết định xử phạt cảnh cáo hoặc 01 năm, kể từ ngày chấp hành xong quyết định xử phạt hành chính khác hoặc từ ngày hết hiệu lực thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính mà không tái phạm thì được coi là chưa bị xử phạt vi phạm hành chính [1, Điều 7]. Cần chú ý ở đây, thời điểm dùng làm mốc tính thời hạn là ngày thi
  • 47. 39 hành xong hoặc là ngày hết hiệu lực thi hành quyết định xử phạt, không phải là ngày ra quyết định đó và chấp hành xong quyết định được hiểu là đã chấp hành xong hình thức xử phạt chính và các hình thức xử phạt bổ sung, các biện pháp khác nếu có. Thứ hai, căn cứ vào yếu tố “đã bị kết án” về các tội đánh bạc, tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc nhưng chưa được xóa án tích mà còn vi phạm. Theo qui định của Bộ luật hình sự, một người đã bị kết án, sau khi đã chấp hành xong bản án hoặc từ khi hết thời hiệu thi hành bản án, nếu đã qua thời hạn theo qui định mà không phạm tội mới thì được xóa án tích, tức là coi như chưa bị kết án. Như vậy, một người đã bị kết án nhưng chưa được xóa án tích sẽ bị xử lý nghiêm khắc hơn so với người chưa có tiền án nếu cùng thực hiện một hành vi như nhau. Hành vi tổ chức đánh bạc do người đã bị kết án về một trong các tội cờ bạc có tính nguy hiểm cao hơn hẳn so với cùng hành vi đó nhưng người phạm tội chưa có tiền án, hoặc có nhưng về các tội ngoài cờ bạc. Do vậy mà khi thỏa mãn dấu hiệu này, hành vi tổ chức đánh bạc không những được coi là tội phạm mà có thể là một trong những tình tiết cấu thành tăng nặng với mức xử lý nghiêm khắc hơn. 2) Khung tăng nặng: „Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ ba năm đến mười năm”. a) “Phạm tội có tính chất chuyên nghiệp”, đây một trong những tình tiết định khung hình phạt tăng nặng về tội tổ chức đánh bạc. Tình tiết phạm tội có tính chuyên nghiệp là một trong các tình tiết tăng nặng được quy định tại Điều 48 BLHS năm 1999. Điều kiện áp dụng tình tiết này được quy định tại điểm 5 Nghị quyết 01/2006/NQ - HĐTP ngày 12 tháng 5 năm 2006 của Hội đồng thẩm phán TAND tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của BLHS năm 1999, chỉ áp dụng tình tiết phạm tội có tính chất chuyên nghiệp khi có đầy đủ các điều kiện sau đây:
  • 48. 40 a. Cố ý phạm tội từ năm lần trở lên về cùng một tội phạm không phân biệt đã bị truy cứu trách nhiệm hình sự hay chưa bị truy cứu trách nhiệm hình sự, nếu chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc chưa được xóa án tích. b. Người phạm tội đều lấy các lần phạm tội làm nghề sinh sống và lấy kết quả của việc phạm tội làm nguồn sống chính [19]. b) Tình tiết “thu lợi bất chính lớn, rất lớn, đặc biệt lớn”, thu lợi bất chính đối với tội tổ chức đánh bạc chính là tiền hoặc hiện vật thu được từ các hoạt động tổ chức ra vụ đánh bạc như tiền hoa hồng, tiền thưởng nhờ việc ghi đề, thống kê, thu gom phơi đề và giao tiền cho chủ đề; tiền hoa hồng từ việc ghi các phơi cá độ bóng đá cho thầu cá độ bóng đá, từ các hoạt động cho vay, cầm cố tại sòng bạc, từ việc tổ chức đưa đón, giữ xe, ăn uống … Tuy không có khái niệm về thu lợi bất chính, song để thống nhất trong việc đánh giá mang tình định lượng về tình tiết này, theo quy định tại khoản 3 Điều 2 Nghị quyết 01/2010/NQ - HĐTP ngày 22 tháng 10 năm 2010 của Hội đồng thẩm phán TAND tối cao, quy định thu lợi bất chính lớn, rất lớn, đặc biệt lớn, như sau: a. Thu lợi bất chính từ 10.000.000 đồng đến dưới 30.000.000 đồng là thu lợi bất chính lớn. b. Thu lợi bất chính từ 30.000.000 đồng đến dưới 90.000.000 đồng là thu lợi bất chính rất lớn. c. Thu lợi bất chính từ 90.000.000 đồng trở lên là thu lợi bất chính đặc biệt lớn [20]. c) Phạm tội thuộc trường hợp “tái phạm nguy hiểm”, đây là một tình tiết tăng nặng TNHS được qui định tại điểm g khoản 1 Điều 48 BLHS năm 1999.