Nhận viết luận văn Đại học , thạc sĩ - Zalo: 0917.193.864
Tham khảo bảng giá dịch vụ viết bài tại: vietbaocaothuctap.net
Download luận văn thạc sĩ ngành luật kinh tế với đề tài: Bảo hiểm y tế tự đóng theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng, cho các bạn tham khảo
Luận văn: Bảo hiểm y tế tự đóng theo pháp luật Việt Nam, HAY
1. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
TRẦN THỊ TUYẾT VÂN
BẢO HIỂM Y TẾ TỰ ĐÓNG THEO PHÁP LUẬT
VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN QUẬN SƠN TRÀ,
THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI – 2019
2. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
TRẦN THỊ TUYẾT VÂN
BẢO HIỂM Y TẾ TỰ ĐÓNG THEO PHÁP LUẬT
VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN QUẬN SƠN TRÀ,
THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
Chuyên ngành : Luật Kinh tế
Mã số : 8.38.01.07
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học:
TS. PHẠM THỊ THÚY NGA
HÀ NỘI – 2019
3. LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn “Bảo hiểm y tế tự đóng theo pháp luật
Việt Nam từ thực tiễn quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng” là công trình
nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu trong đề tài này được thu thập và sử
dụng một cách trung thực. Kết quả nghiên cứu được trình bày trong luận văn
này không sao chép của bất cứ luận văn nào và cũng chưa được trình bày hay
công bố ở bất cứ công trình nghiên cứu nào khác trước đây.
Hà Nội, ngày tháng 03 năm 2019
Tác giả luận văn
Trần Thị Tuyết Vân
4. LỜI CẢM ƠN
Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô Học viện Khoa học Xã hội, đặc
biệt là Khoa Luật học đã dạy dỗ và truyền đạt cho tôi những kiến thức quý
báu làm nền tảng cho việc thực hiện luận văn này.
Tôi đặc biệt cám ơn cô giáo TS. Phạm Thị Thúy Nga đã tận tình hướng
dẫn, chỉ bảo để tôi có thể hoàn tất luận văn cao học này.
Tôi cũng xin chân thành cám ơn tất cả bạn bè, đồng nghiệp và những
người đã giúp tôi trả lời bảng câu hỏi khảo sát làm nguồn dữ liệu cho việc
phân tích và cho ra kết quả nghiên cứu của luận văn cao học này.
Cuối cùng, tôi hết lòng biết ơn đến những người thân trong gia đình đã
động viên và tạo động lực để tôi hoàn thành luận văn này một cách tốt đẹp.
Hà Nội, ngày tháng 03 năm 2019
Tác giả luận văn
Trần Thị Tuyết Vân
5. MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ BẢO HIỂM Y TẾ TỰ ĐÓNG
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY............................................. 7
1.1. Khái niệm, đặc điểm bảo hiểm y tế tự đóng theo pháp luật Việt Nam...... 7
1.2. Ý nghĩa của bảo hiểm y tế tự đóng ..........................................................11
1.3. Khái quát pháp luật về bảo hiểm y tế tự đóng ở Việt Nam hiện hành.....12
1.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến bảo hiểm y tế tự đóng..................................24
1.5. Pháp luật bảo hiểm y tế tự đóng của một số nước trên thế giới...............30
Tiểu kết chương 1............................................................................................35
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG THỰC HIỆN PHÁP LUẬT BẢO HIỂM Y
TẾ TỰ ĐÓNG Ở QUẬN SƠN TRÀ, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG..............37
2.1. Đặc điểm về điều kiện tự nhiên, kinh tế, văn hóa, xã hội ảnh hưởng đến
thực hiện pháp luật về bảo hiểm y tế tự đóng ở quận Sơn Trà, thành phố Đà
Nẵng ................................................................................................................37
2.2.Thực hiện pháp luật về bảo hiểm y tế tự đóng tại quận Sơn Trà, thành phố
Đà Nẵng giai đoạn 2014-2018 ........................................................................38
Tiểu kết chương 2............................................................................................55
CHƯƠNG 3. PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP
LUẬT VỀ BẢO HIỂM Y TẾ TỰ ĐÓNG VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ
TỔ CHỨC THỰC HIỆN TẠI QUẬN SƠN TRÀ, THÀNH PHỐ ĐÀ
NẴNG .............................................................................................................56
3.1. Phương hướng hoàn thiện pháp luật về bảo hiểm y tế tự đóng ở Việt
Nam hiện nay..................................................................................................56
3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về bảo hiểm y tế tự đóng ở Việt Nam hiện
nay ...................................................................................................................57
3.3. Giải pháp tổ chức thực hiện pháp luật về bảo hiểm y tế tự đóng ............62
Tiểu kết chương 3...........................................................................................66
KẾT LUẬN....................................................................................................67
TÀI LIỆU THAM KHẢO
6. DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
ASXH: An sinh xã hội
BHYT: Bảo hiểm y tế
BHXH: Bảo hiểm xã hội
7. 1
MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài
Trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước, Đảng và Nhà nước ta
đã đề ra những chủ trương, chính sách để phát triển kinh tế, ổn định đời sống
xã hội. Đặc biệt, các chủ trương, chính sách, pháp luật liên quan đến an sinh
xã hội luôn được Đảng, Nhà nước chú trọng. Sự phát triển kinh tế thị trường
trong những năm qua đã làm cho diện mạo của đất nước có những thay đổi
sâu sắc về kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, an ninh, quốc phòng... Kinh tế
tăng trưởng nhanh, cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực, thu nhập
bình quân đầu người ngày càng tăng cao, đời sống kinh tế - xã hội của nhân
dân từng bước được cải thiện. Bên cạnh việc ban hành các chính sách nhằm
thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm và
coi trọng thực hiện các chính sách xã hội đối với người lao động.
Từ 01/01/2015 Luật Bảo hiểm y tế sửa đổi, bổ sung có hiệu lực đây
được xem là đánh dấu một bước quan trọng của quá trình xây dựng, hoàn
thiện pháp luật về bảo hiểm y tế.
Từ lúc hình thức tham gia BHYT hộ gia đình được thực hiện việc tham
gia BHYT của người dân lao động khi không tham gia BHYT bắt buộc và các
đối tượng được Nhà nước hỗ trợ được tăng lên đáng kể, đây là chính sách
Đảng và Nhà nước ta đưa ra để hướng đến quá trình BHYT toàn dân, theo
như thực hiện Nghị quyết số 21-NQ/TW về “Tăng cường sự lãnh đạo của
Đảng đối với công tác bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế giai đoạn 2012 –
2020”. Bên cạnh việc thực hiện chính sách pháp luật đó có những thuận lợi,
khó khăn nhất định. Điều đáng nói ở đây là việc tham gia BHYT của hộ gia
đình, khi mua thì bắt buộc phải mua toàn bộ số người có trong hộ khẩu, mức
đóng có giảm dần theo số người mua trong hộ khẩu cũng thuận lợi nhưng nếu
rơi vào các trường hợp các hộ gia đình khó khăn không thuộc diện hộ dân
được Nhà nước hỗ trợ tham gia BHYT thì đó lại là điểm yếu của chế độ tham
8. 2
gia bảo hiểm nhưng đến tháng 10/2018 theo nghị định 146/2018-NĐ/CP đại
diện hộ gia đình hoặc thành viên hộ gia đình tham gia BHYT [khoản 7, Điều
9, 15]. Hiện nay tổng số dân tạm trú và thường trú trên địa bàn quận Sơn Trà
có 234.783, số tham gia BHYT được quận quản lý là 114.984 người, ngoài
việc người lao động tham gia BHYT bắt buộc thì số phần trăm chưa tham gia
BHYT hộ gia đình đạt con số rất lớn. Từ đó cho thấy có thể việc người dân
không tham gia BHYT tự đóng (tức là hình thức tham gia BHYT hộ gia đình)
thì khách quan có thể do công tác tuyên truyền vận động, việc thực hiện chính
sách pháp luật của Luật Bảo hiểm y tế chưa đạt hiệu quả cao.
Triển khai thực hiện BHYT hộ gia đình có ý nghĩa rất quan trọng trong
việc tăng tỷ lệ dân số tham gia BHYT để đến năm 2020 có trên 80% dân số
tham gia BHYT, tiến tới thực hiện BHYT toàn dân. Việc lập danh sách hộ gia
đình tham gia BHYT để quản lý đối tượng tham gia BHYT, năm bắt chính xác
tỷ lệ bao phủ người tham gia BHYT trên địa bàn, đồng thời vận động, thu hút,
phát triển đối tượng tham gia BHYT. Mặt khác đây cũng là cuộc thống kê, rà
soát việc cấp trùng thẻ BHYT, tránh gây lãng phí cho ngân sách nhà nước.
Qua hơn 5 năm triển khai thực hiện Bảo hiểm y tế tự đóng đã từng
bước mang lại hiệu quả thiết thực cho người lao động. Tuy nhiên, việc triển
khai BHYT chưa đáp ứng được nhu cầu của người lao động, cũng như định
hướng của Đảng, Nhà nước. Vấn đề đặt ra là làm thế nào để người lao động
nhận thức được sự cần thiết tham gia BHYT; thể chế, chính sách, tổ chức bộ
máy, đội ngũ cán bộ quản lý như thế nào để tạo điều kiện thuận lợi triển khai
thực hiện Bảo hiểm y tế toàn dân, đặc biệt là nhóm đối tượng tham gia BHYT
cuối cùng là hộ gia đình. Xuất phát từ những lý do trên, tôi lựa chọn đề tài
“Bảo hiểm y tế tự đóng theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn quận Sơn Trà,
thành phố Đà Nẵng” làm luận văn thạc sĩ luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Luật Bảo hiểm y tế ra đời năm 2008 cho thấy được sự quan tâm của
9. 3
Đảng và Nhà nước ta, đây là chính sách về an sinh xã hội, đặc biệt liên quan
đến sức khỏe của người dân đến Quốc hội khóa XIII đã ra đời ban hành Luật
số 46/2014/QH13 về “Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Bảo hiểm y
tế” có hiệu lực thi hành từ tháng 01/2009. Một lần nữa cho thấy chính sách
BHYT là chính sách mà Đảng và Nhà nước ta càng muốn hoàn thiện hơn về
chính sách BHYT hướng đến năm 2020 đạt chỉ tiêu trên 80% dân số tham gia
BHYT [trang 3,16].
Để mở rộng và hoàn thiện chế độ chính sách BHYT đã có nhiều công
trình nghiên cứu về vấn đề này. Trong đó phải kể đến đề tài nghiên cứu khoa
học như đề tài cấp bộ: "Thực hiện pháp luật về bảo hiểm y tế ở thành phố Hồ
Chí Minh-thực trạng và giải pháp”(2012) của tác giả Nguyễn Thị Minh
Khanh; “Chính sách bảo hiểm y tế toàn dân của nước ta hiện nay” (2015) của
tác giả Nguyễn Thanh Tùng; “Thực hiện Chính sách khám chữa bệnh từ thực
tiễn thành phố Đà Nẵng” (2016);…Có thể nói các đề tài này chủ yếu tập trung
nghiên cứu các giải pháp mở rộng đối tượng tham gia BHYT và kinh nghiệm
của nước ngoài trong việc thực hiện BHYT.
Về bài viết đăng trên tạp chí khoa học pháp lý chuyên ngành có các bài
viết sau: “cần xác định Bảo hiểm y tế là lưới quan trọng”, Tạp chí Lao động
và xã hội online ngày 19/6/2012; “số người tham gia Bảo hiểm y tế tự đóng
thấp”, Tạp chí Lao động xã hội 2008, Đăng Doanh (2009); “Định hướng hoàn
thiện chính sách Bảo hiểm y tế rang web Bộ Lao động - Thương binh và xã
hội, Tạp chí Lao động xã hội...
3. Mục tiêu nghiên cứu
3.1. Mục tiêu tổng quát
Mục đích của nghiên cứu luận văn là đánh giá thực trạng quy định
pháp luật về BHYT và thực tiễn thực hiện tại quận Sơn Trà, thành phố Đà
Nẵng, trên cơ sở đó đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật và giải pháp
tổ chức thực hiện pháp luật về bảo hiểm y tế tự đóng tại quận Sơn Trà.
10. 4
3.2. Mục tiêu cụ thế
- Đánh giá về BHYT tự đóng theo pháp luật Việt Nam hiện hành.
- Đánh giá thực trạng thực hiện pháp luật BHYT tự đóng trên địa bàn
quận Sơn Trà từ năm 2014 cho đến nay khi thực hiện chính sách đó. Chỉ ra
những điểm thuận lợi, khó khăn và nguyên nhân của những khó khăn, vướng
mắc đó.
- Xác định các phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về
BHYT tự đóng và giải pháp tổ chức thực hiện BHYT tự đóng trên địa bàn
quận Sơn Trà hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu quy định pháp luật Việt Nam hiện hành về BHYT
tự đóng, thực chất chính là BHYT hộ gia đình.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu các quy định pháp luật hiện hành về BHYT tự đóng
trong phạm vi quận Sơn Trà trong khoảng thời gian giai đoạn 2014 đến nay.
Do thời gian nghiên cứu hạn chế, luận văn không nghiên cứu về khiếu
nại, tố cáo, thanh tra, xử lý vi phạm và giải quyết tranh chấp liên quan BHYT
tự đóng
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác-
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm, chủ trương, chính sách của
Đảng, pháp luật của Nhà nước về Bảo hiểm y tế nói chung và Bảo hiểm y tế
tự đóng nói riêng.
Ngoài ra, luận văn còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa
học truyền thống như: phương pháp so sánh, phân tích, tổng hợp, diễn giải, ...
những phương pháp trên không sử dụng độc lập mà đan xen và kết hợp với
nhau để làm cơ sở khoa học cho việc nghiên cứu đề tài.
11. 5
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Về phương diện lý luận, luận văn đã nêu ra các cơ sở pháp lý về
BHYT:
Một, luận văn đã trình bày cơ sở pháp lý và có hệ thống những vấn đề
lý luận về BHYT, BHYT tự đóng và pháp luật BHYT tự đóng. Trong đó, luận
văn đã trình bày rõ ràng khái niệm, ý nghĩa, đặc điểm của BHYT từ nhiều góc
độ quan niệm của Luật BHYT.
Hai, luận văn là làm rõ thực trạng pháp luật về BHYT nói chung và
BHYT tự đóng nói riêng ở quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng thông qua việc
trình bày, đánh giá hệ thống quy định pháp luật và thực tiễn thực hiện BHYT
tự đóng hiện nay của quận Sơn Trà.
Ba, xác định được phương hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật
BHYT tự đóng và giải pháp nhằm hoàn thiện tổ chức thực hiện pháp luật về
BHYT tự đóng trên địa bàn quận Sơn Trà trong thời gian tới.
Luận văn cung cấp những kiến thức, cơ sở pháp lý, thông tinvà đề
xuất có giá trị tham khảo về mặt lý luận, thực tiễn với việc hoàn thiện khuôn
khổ pháp luật và cơ chếđảm bảothực thi BHYT tự đóng của công dân không
chỉ ở quận Sơn Trà ở các quận trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.
Về phương diện thực tiễn:
Luận văn sẽ giúp cho việc thực hiện chế độ chính sách pháp luật về
BHYT tự đóng hoàn thiện hơn trong những năm sắp tới.
Giúp cho các hộ gia đình tham gia BHYT tự đóng hiểu rõ chính sách
cả Đảng và Nhà nước ta giúp cho việc bảo vệ, bảo đảm cho người dân về sức
khỏe, quyền lợi khi tham gia BHYT tự đóng.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục,
nội dung của Luận văn gồm có 3 chương:
Chương 1: Khái quát chung về BHYT tự đóng theo pháp luật Việt Nam
12. 6
hiện nay.
Chương 2: Thực trạng thực hiện BHYT tự đóng tại quận Sơn Trà,
thành phố Đà Nẵng.
Chương 3: Phương hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật về bảo hiểm
y tế tự đóng và giải pháp tổ chức thực hiện tại quận Sơn Trà, thành phố Đà
Nẵng.
13. 7
CHƯƠNG 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ BẢO HIỂM Y TẾ TỰ ĐÓNG
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY
1.1. Khái niệm, đặc điểm bảo hiểm y tế tự đóng theo pháp luật Việt Nam
Khái niệm BHYT tự đóng
Bảo hiểm y tế là hình thức bảo hiểm y tế bắt buộc được áp dụng với các
đối tượng theo quy định của Luật này để chăm sóc sức khỏe, không vì mục
đích lợi nhuận do Nhà nước tổ chức thực hiện.[khoản 1, Điều 2, 18]
Một trong những điểm mới mang tính đột phá của Luật Sửa đổi, bổ
sung một số điều của Luật Bảo hiểm y tế (BHYT) có hiệu lực từ ngày
1/1/2015 là quy định bắt buộc tham gia BHYT. Theo đó, BHYT được chuyển
đổi từ tự nguyện sang hình thức BHYT hộ gia đình. Không chỉ giúp bảo vệ,
chăm sóc sức khỏe cho các thành viên trong gia đình; giảm gánh nặng tài
chính khi ốm đau, bệnh tật, BHYT hộ gia đình còn là một bước đệm quan
trọng để thực hiện lộ trình tiến tới BHYT toàn dân.
Hộ gia đình tham gia bảo hiểm y tế (sau đây gọi chung là hộ gia
đình) bao gồm toàn bộ người có tên trong hộ khẩu hoặc sổ tạm trú.[khoản 7,
Điều 2, 18]
BHYT tự đóng được hiểu là một hình thức BHYT áp dụng cho người
có thu nhập thấp không đủ điều kiện tham gia BHYT bắt buộc hoặc BHYT
tư nhân do người dân tự nguyện tham gia, ở đây được hiểu là ‘hộ gia đình”.
Hoạt động của BHYT tự đóng do chính cộng đồng người tham gia đảm
nhiệm với nguyên tắc tài chính là phi lợi nhuận, vì vậy mức đóng BHYT tự
đóng không hoàn toàn phụ thuộc vào thu nhập của người tham gia.
BHYT tự đóng là loại hình BHYT được thực hiện sau khi Quốc hội
ban hành Luật Bảo hiểm sửa đổi, bổ sung năm 2014 đã được thực hiện ở
nước ta. So với BHYT bắt buộc, BHYT tự đóng có số lượng người tham gia
14. 8
ít hơn, vì điều kiện kinh tế của mỗi người dân và nhu cầu chăm sóc sức khỏe
khác nhau. Không hoàn toàn giống như BHYT bắt buộc theo luật định,
BHYT tự đóng được tiến hành với sự vận động người dân tham gia hướng
tới việc đảm bảo quyền lợi cho người tham gia một cách thiết thựcvà đồng
thuận trong cộng đồng giống những người tham gia BHYT bắt buộc. Chính
từ tiêu chí này mà hình thức BHYT tự đóng người dân nhìn thấy được thuận
lợi cho việc khám chữa bệnh khi tham gia BHYT
Trong giai đoạn đầu triển khai BHYT tự đóng thì đối tượng tham gia
là hộ gia đình, phạm vi đối tượng tham gia được chỉ rõ, BHYT tự đóng sẽ
đáp ứng được nhu cầu tham gia của những người này trong việc khám chữa
bệnh khi ốm đau, chăm sóc sức khỏe cho bản than từ đó góp phần nâng cao
công tác chăm sóc và bảo vệ sức khỏe cho mọi người dân trong xã hội. Do
không có tính chất bắt buộc như trong như trong BHYT bắt buộc nên BHYT
tự đóng thực hiện được gọi là thành công phụ thuộc rất lớn vào đường lối
chính sách và quan điểm của mỗi quốc gia trong phát triển sự nghiệp bảo vệ
sức khỏe cho nhân dân nước mình.Việc đưa quyền lợi BHYT tự đóng vào
trong nhận thức của mọi người dân, khi họ hiểu rằng tham gia BHYT tự
đóngthì bản thân và gia đình sẽ được an toàn, được chăm sóc sức khỏe, ốm
đau bệnh tật thì đối tượng hộ gia đình sẽ tự tham gia. Một khi có đông đảo
người trong xã hội tham gia thì khả năng đáp ứng cho số ít những người bị
ốm đau bệnh tật là rất lớn, kể cả khi mà cùng với sự tăng trưởng của nền
kinh tế chi phí khám chữa bệnh đang tăng lên một cách chóng mặt thì một cá
nhân khó mà có thể tự trang trải mọi chi phí cho mình lúc lâm bệnh và trong
giai đoạn phục hồi.
BHYT tự đóng dù mô hình có khác nhau nhưng đều thống nhất ở lợi
ích cho cộng đồng người tham gia, đó là làm tăng khả năng tiếp cận dịch vụ
y tế cho người có thu nhập “bình quân” không thuộc sự hỗ trợ của Nhà nước
như hộ nghèo, đặc biệt nghèo và người tham gia BHYT bắt buộc. Góp phần
15. 9
cải thiện công tác khám chữa bệnh, chăm sóc sức khỏe ban đầu tại cộng
đồng; góp phần nâng cao sức khỏe cộng đồng; thực hiện hiệu quả công bằng
trong khám chữa bệnh.
BHYT tự đóng là loại hình BHYT thứ hai đã được thực hiện ở nước
ta. So với BHYT bắt buộc, BHYT tự đóng có số lượng người tham gia đông
đảo, đa dạng về thành phần và nhận thức xã hội, có điều kiện kinh tế và nhu
cầu chăm sóc sức khỏe khác nhau. Khác với BHYT bắt buộc, BHYT tự
đóng được tiến hành với mục tiêu làbảo đảm quyền lợi cho người tham gia
một cách an toàn, hiệu quảvà thiết thực nhất. Chính từ tiêu chí này mà hình
thức BHYT tự đóng rất phong phú và đa dạng ở mỗi quốc gia, không thể áp
đặt hoặc sao chép nguyên bản mô hình ở nước này cho nước khác và ngay
trong một nước cũng thường không có sự giống nhau về mô hình triển khai
BHYT tự đóng khi thực hiện ở những vùng mà có sự khác nhau về điều kiện
kinh tế - xã hội hoặc phong tục tập quán… Trong giai đoạn đầu triển khai
BHYT thì đối tượng bắt buộc tham gia có phạm vi rất hẹp chỉ bao gồm
những người có thu nhập ổn định do đó mà phạm vi những đối tượng không
đủ điều kiện tham gia BHYT là rất đông, phần lớn trong xã hội, BHYT tự
đóng sẽ đáp ứng được nhu cầu tham gia của những người này từ đó góp
phần nâng cao công tác chăm sóc và bảo vệ sức khỏe cho mọi người dân
trong xã hội. Do không có tính chất bắt buộc như trong như trong BHYT bắt
buộc nên BHYT tự đóng thực hiện được gọi là thành công phụ thuộc rất lớn
vào đường lối chính sách và quan điểm của mỗi quốc gia trong phát triển sự
nghiệp bảo vệ sức khỏe cho nhân dân nước mình. Một khi có đông đảo
người trong xã hội tham gia thì khả năng đáp ứng cho số ít những người bị
ốm đau bệnh tật là rất lớn, kể cả khi mà cùng với sự tăng trưởng của nền
kinh tế chi phí khám chữa bệnh đang tăng lên một cách chóng mặt thì một cá
nhân khó mà có thể tự trang trải mọi chi phí cho mình lúc lâm bệnh và trong
giai đoạn phục hồi. BHYT tự đóng dù mô hình có khác nhau nhưng đều
16. 10
thống nhất ở lợi ích cho cộng đồng người tham gia, đó là làm tăng khả năng
tiếp cận dịch vụ y tế cho người có thu nhập thấp và người lao động tự do,
bảo vệ người nghèo trước nguy cơ “bẫy nghèo”, góp phần cải thiện công tác
khám chữa bệnh, chăm sóc sức khỏe ban đầu tại cộng đồng; góp phần nâng
cao sức khỏe cộng đồng; thực hiện hiệu quả công bằng trong khám chữa
bệnh, nâng cao vị thế của người nghèo trong xã hội, khắc phục được những
mặc cảm do tình trạng thu nhập thấp của người nghèo gây ra.Dựa trên những
ưu điểm về ý nghĩa và lợi ích mà BHYT tự đóng mang lại, BHYT tự đóng
luôn gặp phải một số hạn chế đó là khả năng huy động vốn thấp, mức đóng
thường ít và số lượng người tham gia không nhiều, thiếu ồn định.Từ những
hạn chế, khó khăn khi thực hiện các mô hình BHYT tự đóng, nhưng đây là
hình thức tiến tới BHYT toàn dân.
Đặc điểm về bảo hiểm y tế tự đóng
BHYT tự đóng có những đặc trưng sau đây:
- Về đối tượng tham gia: Đối tượng tham gia của BHYT tự đóng hiện
nay là hộ gia đình (trừ các thành viên đã tham gia BHYT bắt buộc). BHYT tự
đóng là hình thức tương trợ cộng đồng với mục đích bảo vệ sức khỏe cho
nhân dân nên đối tượng tham gia BHYT tự đóng là những người không tham
gia BHYT bắt buộc và đối tượng được Nhà nước hỗ trợ.
- Về mục tiêu: BHYT tự đóng với mục tiêu là hướng tới người dân
được hưởng các chính về y tế. BHYT tự đóng có trách nhiệm chi trả các chi
phí khám chữa bệnh cho những người tham gia bảo hiểm như bị ốm đau,
bệnh tật, rủi ro, có nhu cầu khám bệnh và điều trị bệnh tại các bệnh viện.
- Về mức hưởng: Mức hưởng bảo hiểm y tế tự đóng không phụ thuộc
vào mức đóng, thời gian đóng góp, mà phụ thuộc chủ yếu vào rủi ro bệnh tật
và các dịch vụ y tế tại cơ sở. Hệ thống BHYT tự đóng từ khi hình thành đã
không định hướng theo mức độ rủi ro mà theo nguyên tắc đáp ứng đặc biệt và
không phải chi trả trực tiếp.
17. 11
- Về thực hiện: Quan hệ BHYT tự đóng là quan hệ diễn ra giữa ba bên
gồm:Bên thực hiện BHYT tự đóng, bên tham gia BHYT tự đóng và cơ sở
khám chữa bệnh.
1.2. Ý nghĩa của bảo hiểm y tế tự đóng
BHYT tự đóng không vì mục đích lợi nhuận, mà vì mục đích bảo đảm
sự phát triển bền lâu của nền kinh tế, thúc đẩy sự ổn định của xã hội.Vì Đảng
và Nhà nước ta hướng đến chính sách BHYT toàn dân nên việc tham gia
BHYT tự đóng được hiểu giống như việc tham gia BHYT tự đóng theo pháp
luật trước đây không nhằm mục tiêu lợi nhuận và đảm bảo phát triển của xã
hội. Cùng với BHYT bắt buộc, Bảo hiểm y tế tự đóng có ý nghĩa nhân văn
sâu sắc, thể hiện qua các mặt sau đây:
Thứ nhất, BHYT tự đóng góp phần thực hiện công bằng xã hội, tạo sự
bình đẳng giữa các thành phần kinh tế trên thị trường lao động. BHYT tự
đóng là sự điều tiết lại những người có thu nhập thu nhập cao và thu nhập
thấp, sẽ có lợi cho những người có thu nhập thấp. Các nước dù là đang phát
triển hay phát triển đều đưa ra các chính sách pháp luật để giảm dần sự phân
biệt giàu và nghèo. BHYT tự đóng là một trong những chính sách pháp luật
mang đến sự bình đẳng trong xã hội dù là đối tượng tham gia bắt buộc hay đối
tượng tự đóng.
Thứ hai, BHYT tự đóng cũng là một phần đóng góp vào sự hình thành
nên Quỹ BHYT. Quỹ BHYT ổn định không để tình trạng bội chi sẽ góp phần
tạo ổn định vào các chi phí khám chữa bệnh và thúc đẩy phát triển kinh tế - xã
hội nước ta.
Thứ ba, BHYT tự đóng giúp đảm bảo thu nhập cho các thành viên hộ
gia đình không tham gia BHYT bắt buộc khi gặp những khó khăn như ốm
đau, tai nạn lao động, chết… Những người tham gia BHYT tự đóng hầu hết là
những người lao động tự do, thu nhập thường thấp, không ổn định, bấp bênh
như: những người nông dân, kinh doanh, buôn bán nhỏ… khi họ tham gia
18. 12
BHYT tự đóng sẽ giúp họ và gia đình họ đảm bảo được phần nào những rủi
ro xảy ra trong cuộc sống.
Thứ tư, BHYT tự đóng góp phần nâng cao năng suất laođộng xãhội,
thúc đẩy sản xuất phát triển. Người tham gia BHYT tự đóng được đảm bảo về
thu nhập ổn định ở mức độ cần thiết, giúp họ tiết kiệm kinh phí đều đặn để dự
phòng khi già yếu, mất sức lao động…
Thứ năm, BHYT tự đóng góp phần phân phối lại thu nhập quốc
dân,giảm chi ngân sách nhà nước, bảo đảm an sinh xã hội. BHYT tự đóng góp
phần tạo cơ hội để thực hiện trách nhiệm tương trợ cho những khó khăn của
các thành viên khác trong xã hội. Người có thu nhập cao, có năng lực cao hơn
sẽ đóng góp nhiều hơn vào quỹ BHYT, họ trợ giúp cho những người yếu thế
trong xã hội. Những thành viên của hộ gia đình không thuộc diện tham gia
BHYT bắt buộc khi gặp phải rủi ro, họ sẽ nhận được trợ cấp từ BHYT để cải
thiện cuộc sống.
1.3. Khái quát pháp luật về bảo hiểm y tế tự đóng ở Việt Nam hiện hành
1.3.1. Nguyên tắc bảo hiểm y tế tự đóng
BHYT là một trong những chính sách an sinh xã hội của mỗi quốc
gia.Việc thực hiện chính sách BHYT đều tuân theo những nguyên tắc nhất
định. Nguyên tắc BHYT là những quy định nhằm đảm bảo cho các hoạt động
BHYT diễn ra bình thường, đạt được mục tiêu mong muốn của nó.
BHYT tự đóng là một trong những bộ phận cấu thành nên BHYT, vì
vậy BHYT tự đóng tuân thủ theo những nguyên tắc chung của BHYT và
tuân theo những nguyên tắc riêng.
Những nguyên tắc chung của BHYT được tổng hợp từ những văn bản
của tổ chức lao động quốc tế (ILO) về BHYT và từ những chính sáchan sinh
xã hội phát triển trên nhiều nước. Cho nên, BHYT có những nguyên tắc
chung cụ thể như sau:
- Đảm bảo chia sẻ những rủi ro giữa những người tham gia bảo hiểm y
19. 13
tế với nhau trong cộng đồng xã hội.
- Mức đóng bảo hiểm y tế được xác định theo tỷ lệ % của tiền lương
làm căn cứ đóng BHXH bắt buộc theo quy định của Luật bảo hiểm xã hội
(sau đây gọi chung là tiền lương tháng), tiền lương hưu, tiền trợ cấp hoặc
mức lương cơ sở.
- Mức hưởng BHYT theo mức độ bệnh tật, nhóm đối tượng trong
phạm vi quyền lợi và thời gian tham gia bảo hiểm y tế.
- Chi phí khám bệnh, chữa bệnh bảo hiểm y tế do quỹ BHYT và người
tham gia BHYT cùng chi trả.
- Quỹ BHYT mang nguyên tắc quản lý thống nhất, tập trung, minh
bạch, được Nhà nước bảo hộ, đảm bảo nguồn cân đối thu chi.
Bên cạnh đó, BHYT tự đóng còn có các nguyên tắc riêng. Cụ thể như
sau:
Thứ nhất, BHYT tự đóng được thực hiện trên cơ sở tự nguyện của
người tham gia và kinh phí đóng bảo hiểm do người tham gia tự đóng hoàn
toàn.
Nguyên tắc này thể hiện sự tự nguyện của đối tượng tham gia có quyền
tự do lựa chọn tham gia hoặc không tham gia BHYT tự đóng. Họ có quyền
được lựa chọn mức đóng và phương thức đóng BHYT tự đóng phù hợp với
thu nhập của mình. Phí đóng BHYT tự đóng dựa hoàn toàn vào sự đóng góp
của người lao động.
Thứ hai, các quy định BHYT tự đóng phải linh hoạt trong giới hạn hợp
lý của toàn hệ thống, nhằm đảm bảo cân đối, hài hoà lợi ích của các chủ thể
trong quan hệ BHYT tự đóng.
Đa phần mọi cá nhân đều có nhu cầu thiết yếu về BHYT. Trong BHYT
tự đóng, tính linh hoạt được thể hiện rõ nét nhất ở quy định về mức đóng,
phương thức đóng và mức hưởng bảo hiểm. Đối tượng khi tham gia BHYT tự
đóng thường có quan hệ lao động không ổn định.Người lao động khi sử dụng
20. 14
thu nhập của mình, họ sẽ dành phần lớn chi cho nhu cầu sinh sốngcủa bản
thân và gia đình hằng ngày, phần còn lại họ xem xét có thể tham gia BHYT
hay không. Phương thức đóng cũng cần phải linh hoạt để đối tượng tham gia
BHYT có thể đóng hằng tháng, quý, sáu tháng, hoặc một năm một lần. Mức
đóng bằng mức lương cơ sở. Đối với nhóm đóng BHYT theo hộ gia đình thì
chỉ có một mức đóng bằng 4,5% mức lương cơ sở, không được lựa chọn một
mức đóng nào khác.
Người lao động tham gia BHYT tự đóng thường có thu nhập không ổn
định, bấp bênh nên không thể có mức đóng ổn định, họ có thể tạm ngừng đóng
BHYT tự đóng không cần có lý do. Vì vậy, người lao động có quyền tự chọn
phương thức đóng phù hợp với khả năng của họ. Quy định mức hưởng và
phương thức đóng của BHYT tự đóngcó như vậy mới đảm bảo cân đối được
lợi ích của người tham gia bảo hiểm và đảm bảo cân đối nguồn quỹ BHYT .
Thứ ba, đảm bảo liên thông giữa BHYT bắt buộc và BHYT tự đóng.
Mục đích chung của loại hình BHYT bắt buộc và BHYT tự đóng là đảm bảo
an sinh xã hội cho người tham gia. Thông thường, người tham gia BHYT bắt
buộc được hưởng nhiều chế độ hơn người tham gia BHYT tự đóng. Trên thực
tế, tùy thuộc vào tính chất và đặc điểm của quan hệ lao động mà người lao
động có thể có thời gian tham gia BHYT bắt buộc vừa có thời gian tham gia
BHYT tự đóng. Pháp luật Việt Nam đã quy định khá chi tiết về việc chuyển
đổi giữa hai loại hình bảo hiểm này và trong một thời điểm chỉ có thể tham
gia đóng BHYT bắt buộc hoặc BHYT tự đóng. Tính liên thông giữa BHYT tự
đóng và BHYT bắt buộc nhằm bảo đảm quyền và lợi ích chính đáng cho
người lao động khi tham gia BHYT tự đóng hay bắt buộc.
1.3.2. Nội dung pháp luật Việt Nam về bảo hiểm y tế tự đóng
1.3.2.1. Chủ thể quan hệ bảo hiểm y tế tự đóng
Theo quy định pháp luật hiện hành, chủ thể tham gia BHYT tự đóng là
người tự đóng 100% phí BHYT để bảo hiểm cho mình theo hình thức hộ gia
21. 15
đình. Như vậy, chủ thể tham gia BHYT tự đóng chính là nhóm người trong hộ
gia đình, không thuộc các đối tượng tham gia BHYT đã được quy định tại các
khoản 1, 2, 3 4 điều 12 Luật BHYT sửa đổi năm 2014. Như vậy, tất cả các
thành viên của hộ gia đình có thể tham gia BHYT tự đóng nếu không thuộc
các trường hợp tham gia BHYT bắt buộc hoặc được nhà nước hỗ trợ mức
đóng, gồm:
Một là, nhóm do người lao động và người sử dụng lao động đóng.
[khoản 1, Điều 12, 18].
Hai là, nhóm do tổ chức bảo hiểm xã hội đóng [khoản 2, Điều 12, 18]
Ba là, nhóm do ngân sách nhà nước đóng [khoản 3, Điều 12, 18]
Bốn là, nhóm được ngân sách nhà nước hỗ trợ mức đóng [khoản 4,
Điều 12, 18]
Theo Điều 5 Nghị định 146/2018 ngày 17/10/2018 quy định chi tiết và
hướng dẫn biện pháp thi hành một số điều của Luật bảo hiểm y tế, nhóm tham
gia BHYT theo hộ gia đình gồm:
1. Người có tên trong sổ hộ khẩu, trừ những người thuộc đối tượng quy
định tại các Điều 1, 2, 3, 4 và 6 Nghị định này.
2. Người có tên trong sổ tạm trú, trừ đối tượng quy định tại các Điều 1,
2, 3 , 4 và 6 Nghị định này và đối tượng đã tham gia bảo hiểm y tế theo quy
định tại khoản 1 Điều này.
3. Các đối tượng sau đây được tham gia bảo hiểm y tế theo hình thức hộ
gia đình:
a) Chức sắc, chức việc, nhà tu hành;
b) Người sinh sống trong cơ sở bảo trợ xã hội trừ đối tượng quy định tại
các Điều 1, 2, 3, 4 và 6 Nghị định này mà không được ngân sách nhà nước hỗ
trợ đóng bảo hiểm y tế.
* Chủ thể được hưởng BHYT tự đóng
Chủ thể được hưởng BHYT tự đóng là các thành viên gia đình khi tham
22. 16
gia BHYT, khi thỏa mãn đầy đủ các điều kiện bảo hiểm y tế theo quy định
của pháp luật. Để được hưởng một chế độ BHYT tự đóng, người lao động
hoặc thân nhân của người lao động phải đảm bảo những điều kiện nhất định
theo quy định của pháp luật như căn cứ vào thời gian tham gia BHYT tự
đóng, các hồ sơ cần cung cấp cho đại lý bảo hiểm khi tham gia mua, chi phí
được hưởng khi khám chữa bệnh…
* Chủ thể thực hiện BHYT tự đóng
Chủ thể thực hiện BHYT tự đóng là các cơ quan có chức năng thực
hiện thu, quản lý và chi trả bảo hiểm cho người được BHYT tự đóng theo quy
định của pháp luật. Ở nước ta chủ thể thực hiện BHYT tự đóng là cơ quan
BHXH; hoạt động của cơ quan BHXH được nhà nước thống nhất quản lý, tổ
chức thực hiện và được kiểm tra, giám sát chặt chẽ, đảm bảo tính thống nhất
trong các văn bản quy phạm pháp luật mà nhà nước ta đề ra.
Ở Việt Nam, nhóm tham gia theo hình thức hộ gia đình đóng BHYT tự
đóng tại các đại lý thu BHYT. Theo quy định hiện hành, có các đại lý thu
BHYT tự đóng sau:
+ UBND các xã, phường, thị trấn
+ Tổ chức kinh tế: Bưu điện, doanh nghiệp
+ Hội đoàn thể: Hội Nông dân, Hội Phụ nữ
+ Cơ quan bảo hiểm xã hội tỉnh/huyện
1.3.2.2. Mức đóng và phương thức đóng bảo hiểm y tế tự đóng
(1) Mức đóng
Ở Việt Nam mức đóng được căn cứ trên mức lương cơ sở theo quy định
pháp luật của Nhà nước. Mức đóng hàng tháng của nhóm tham gia theo hình
thức hộ gia đình tối đa bằng 6% mức lương cơ sởvà do đối tượng đóng theo
hộ gia đình [điểm k, khoản 1, Điều 13, 18].
Trường hợp một người trong hộ gia đình đồng thời thuộc nhiều đối
tượng tham gia bảo hiểm y tế khác nhau thì đóng bảo hiểm y tế theo đối tượng
23. 17
đầu tiên mà người đó được xác định theo thứ tự của các đối tượng quy định
tại Điều 12 của Luật BHYT sửa đổi năm 2014.
Nhìn chung, tất cả thành viên thuộc hộ gia đình theo quy định tại khoản
5 Điều 12 của Luật BHYT sửa đổi 2014 phải tham gia bảo hiểm y tế. Khoản 3
Điều 13 Luật BHYT sửa đổi 2014 quy định mức đóng các thành viên hộ gia
đình được giảm dần từ thành viên thứ hai trở đinhư sau:
a) Người thứ nhất đóng tối đa bằng 6% mức lương cơ sở;
b) Người thứ hai, thứ ba, thứ tư đóng lần lượt bằng 70%, 60%, 50%
mức đóng của người thứ nhất;
c) Từ người thứ năm trở đi đóng bằng 40% mức đóng của người thứ nhất.
Nghị định 146/2018/NĐ-CP quy định chỉ được giảm trừ mức đóng BHYT
khi các thành viên trong hộ gia đình cùng tham gia trong năm tài chính.
(2) Phương thức đóng
Pháp luật về BHYT tự đóng của từng quốc gia trên thế giới có những
quy định khác nhau về phương thức đóng. Có quốc gia quy định đóng BHYT
tự đóng theo tuần, theo tháng, theo quý, theo năm hoặc nhiều năm một lần; có
những quốc gia đóng BHYT tự đóng thông qua thuế, có quốc gia quy định
đóng BHYT bằng hình thức trích từ thu nhập của người lao động thông qua
tài khoản tại ngân hàng... Tùy thuộc vào điều kiện phát triển kinh tế - xã hội
của mỗi quốc gia, mức thu nhập và nhu cầu của người lao động tham gia
BHYT tự đóng mà mỗi quốc gia đề ra những quy định, chính sách về BHYT
tự đóng. Đối với nhóm thành viên hộ gia đình, đại diện hộ gia đình định kỳ 3
tháng, 6 tháng hoặc 12 tháng, đóng đủ số tiền thuộc trách nhiệm phải đóng
vào quỹ bảo hiểm y tế (Khoản 6 Điều 15 Luật BHYT sửa đổi 2014).
Phương thức đóng BHYT tự đóng có thể được thực hiện thông qua dịch
vụ ngân hàng, thẻ điện tử, nộp tại các cơ quan BHYT cơ sở hay có thể được
nhân viên đến thu tại địa chỉ đăng kí.
24. 18
1.3.2.3. Quỹ bảo hiểm y tế
Quỹ BHYT là một quỹ tập trung tiền tệ được hình thành từ sự đóng góp
của người lao động tham gia BHYT, sự hỗ trợ của Nhà nước và các nguồn
khác, được sử dụng chủ yếu để chi trả trợ cấp cho những trường hợp được
BHYT quy định. Quỹ BHYT có vai trò rất quan trọng trong hệ thống BHYT,
đảm bảo tài chính cho hoạt động BHYT tự đóng được triển khai thực hiện.
Nguồn quỹ BHYT được sử dụng vào các mục đích:
Chi trả các chế độ BHYT tự đóng cho người lao động theo quy định;
chi quản lý; chi đầu tư để bảo toàn và tăng trưởng quỹ; chi dự phòng. Trong
đó, chi trả các chế độ BHYT tự đóng là khoản chi quan trọng nhất, chiếm tỷ
lệ lớn trong chi BHYT tự đóng, nhằm thực hiện các chế độ trợ cấp BHYT tự
đóng. Ở các nước trên thế giới, khoản chi lớn nhất trong số các khoản chi thực
hiện chế độ BHYT tự đóng là chi cho chế độ trợ cấp hưu trí.
Chi dự phòng: Theo quy định tại Điều 35 Luật BHYT, phải dành tối
thiểu 5% số tiền đóng BHYT cho quỹ dự phòng. Quỹ dự phòng khám chữa
bệnh BHYT là cần thiết để bảo đảm tính bền vững của chính sách BHYT, bảo
đảm khả năng chi trả trước những rủi ro về thiên tai, dịch bệnh có thể phát sinh.
Việc hình thành, xây dựng và phát triển quỹ BHYT cần phải dựa vào
những nguyên tắc chung của BHYT. Hoạt động của quỹ BHYT hướng tới
nguyên tắc là "lấy số đông bù số ít”, hạch toán theo nguyên tắc cân bằng thu chi.
- Quỹ bảo hiểm y tế được tổ chức Bảo hiểm xã hội quản lý tập trung,
thống nhất, minh bạch và tuân thủ các quy định của pháp luật về tài chính, kế
toán và thống kê. Quỹ BHYT được hạch toán độc lập với ngân sách nhà nước.
Quản lý BHYT tự đóng
Quản lý BHYT tự đóng có thể được hiểu là sự tác động của các chủ thể
nhân danh quyền lực nhà nước, theo quy định của pháp luật nhằm thực hiện
chức năng nhà nước trong lĩnh vực BHYT tự đóng. Quản lý BHYT tự đóng
cần thực hiện theo những nguyên tắc và phương pháp phù hợp với hệ thống
25. 19
quản lý chung đối với nền kinh tế đất nước. Quản lý Nhà nước về BHYT tự
đóng được thể hiện thông qua các nội dung chủ yếu sau:
- Nhà nước thống nhất quản lý các hoạt động BHYT tự đóng trên phạm
vi toàn quốc, thông qua việc nhà nước ban hành các chính sách, pháp luật
nhằm định hướng các hoạt động của BHYT tự đóng. Nhà nước thông qua các
cơ quan chức năng, quyền lực của mình đề ra các văn bản pháp luật như Luật
Bảo hiểm xã hội, Luật Bảo hiểm y tế, các văn bản hướng dẫn triển khai thực
hiện (nghị định, thông tư…) và các văn bản dưới luật để thực thi chính sách,
pháp luật BHYT tự đóng trên phạm vi toàn quốc.
- Nhà nước quản lý BHYT tự đóng thông qua việc định hướng các hoạt
động BHYT tự đóng phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất
nước trong từng thời kì. Thông qua các mô hình như định hướng tài chính
BHYT tự đóng và mô hình tổ chức hoạt động.
- Nhà nước thống nhất quản lý BHYT từ cấp trung ương đến cấp địa
phương. Nhà nước thống nhất quản lý sự nghiệp đối với BHYT tự đóng thông
qua những nội dung cơ bản sau:
+ Quản lý quỹ BHYT nhằm đảm bảo cho quỹ được đảm bảo an toàn;
thực hiện thu - chi đúng quy định và hạn chế tối đa những thất thoát quỹ
BHYT. Quản lý quỹ chủ yếu là quản lý công tác thu – chi và xây dựng chiến
lược, kế hoạch tăng trưởng quỹ BHYT thông qua các hoạt động đầu tư để
đảm bảo duy trì tốt quỹ BHYT .
+ Quản lý đối tượng tham gia và thụ hưởng BHYT tự đóng. Đối tượng
tham gia BHYT tự đóng là hộ gia đình. Đối tượng hưởng BHYT tự đóng là
hộ gia đình. Để quản lý đối tượng tham gia BHYT tự đóng đòi hỏi cơ quan
quản lý cần nắm đầy đủ thông tin của đối tượng tham gia để xác định nguồn
thu và dự kiến nguồn chi khi có những nhu cầu phát sinh. Cơ quan BHYT có
đầy đủ thông tin về người thụ hưởng BHYT tự đóng để thực hiện các khoản
chi đúng quy định và nhằm hạn chế những rủi ro và lạm dụng trong việc chi
26. 20
các chế độ BHYT tự đóng. Cơ quan quản lý BHYT tự đóng chịu trách nhiệm
quản lý các nghiệp vụ thu - chi BHYT tự đóng và thực hiện các nghiệp vụ kế
toán - tài chính BHYT tự đóng theo chính sách tài chính của quốc gia.
1.3.2.4. Thẻ bảo hiểm y tế
Thẻ BHYT được cấp cho người tham gia BHYT và làm căn cứ để
được hưởng các quyền lợi về BHYT. Mỗi người chỉ được cấp một thẻ bảo
hiểm y tế. Trường hợp tham gia bảo hiểm y tế lần đầu hoặc tham gia không
liên tục từ 03 tháng trở lên trong năm tài chính thì thẻ bảo hiểm y tế có thời
hạn sử dụng là 12 tháng kể từ ngày thẻ bảo hiểm y tế có giá trị sử dụng. Nhóm
tham gia BHYT theo hình thức hộ gia đình mà tham gia BHYT thì thẻ bảo
hiểm y tế có giá trị sử dụng sau 30 ngày, kể từ ngày đóng bảo hiểm y tế. Thẻ
bảo hiểm y tế không có giá trị sử dụng trong các trường hợp:
a) Thẻ đã hết thời hạn sử dụng;
b) Thẻ bị sửa chữa, tẩy xóa;
c) Người có tên trong thẻ không tiếp tục tham gia bảo hiểm y tế (Điều
16 Luật BHYT sửa đổi 2014).
Hồ sơ cấp thẻ bảo hiểm y tế hộ gia đình, bao gồm:
a) Tờ khai tham gia bảo hiểm y tế của hộ gia đình đối với người tham
gia bảo hiểm y tế lần đầu;
b) Danh sách tham gia bảo hiểm y tế của hộ gia đình do Ủy ban nhân
dân cấp xã lập theo hộ gia đình
Trong thời hạn 10 ngày làm việc, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ, tổ chức bảo
hiểm y tế phải chuyển thẻ bảo hiểm y tế cho hộ gia đình.
1.3.2.5. Phạm vi được hưởng bảo hiểm y tế
Nhóm tham gia BHYT hộ gia đình được quỹ bảo hiểm y tế chi trả các
chi phí khám bệnh, chữa bệnh, phục hồi chức năng, khám thai định kỳ, sinh
con trong phạm vi được hưởng với mức hưởng quy định tại Điều 22 Luật
BHYT sửa đổi 2014 như sau:
27. 21
- 100% chi phí khám bệnh, chữa bệnh đối với trường hợp chi phí cho
một lần khám bệnh, chữa bệnh thấp hơn mức do Chính phủ quy định và khám
bệnh, chữa bệnh tại tuyến xã; phường.
- 100% chi phí khám bệnh, chữa bệnh khi người bệnh có thời gian tham
gia bảo hiểm y tế 5 năm liên tục trở lên và có số tiền cùng chi trả chi phí
khám bệnh, chữa bệnh trong năm lớn hơn 6 tháng lương cơ sở, trừ trường hợp
tự đi khám bệnh, chữa bệnh không đúng tuyến;
- 80% chi phí khám bệnh, chữa bệnh đối với các đối tượng khác
Thành viên tham gia BHYT theo hộ gia đình tự đi khám bệnh, chữa bệnh
không đúng tuyến được quỹ bảo hiểm y tế thanh toán theo mức tỷ lệ như sau:
a) Tại bệnh viện tuyến trung ương là 40% chi phí điều trị nội trú;
b) Tại bệnh viện tuyến tỉnh là 60% chi phí điều trị nội trú từ ngày Luật
này có hiệu lực đến ngày 31 tháng 12 năm 2020; 100% chi phí điều trị nội trú
từ ngày 01 tháng 01 năm 2021 trong phạm vi cả nước;
c) Tại bệnh viện tuyến huyện là 70% chi phí khám bệnh, chữa bệnh từ
ngày Luật này có hiệu lực đến ngày 31 tháng 12 năm 2015; 100% chi phí
khám bệnh, chữa bệnh từ ngày 01 tháng 01 năm 2016.
1.3.2.6. Thanh tra, khiếu nại, tố cáo, giải quyết tranh chấp và xử lý vi
phạm bảo hiểm y tế
a) Thanh tra, khiếu nại, tổ cáo
Trong quá trình thực hiện chinh sách BHYT tại các địa phương nếu
như địa phương đó có dấu hiệu vi phạm thì các tổ chức có quyền hạn ra quyết
định thanh tra.
* Trình tự, thủ tục, tiến hành một cuộc thanh tra, khiếu nại, tổ cáovề
BHYT:
Bước 1: Thu thập thông tin, tài liệu, hồ sơ, dữ liệu nắm tình hình để ban
hành quyết định kiểm tra.Trước khi ban hành quyết định kiểm tra, nếu thấy
cần thiết, đơn vị được giao chủ trì kiểm tra chỉ đạo việc thu thập thông tin, tài
28. 22
liệu, hồ sơ, dữ liệu và nắm tình hình của đối tượng kiểm tra để phục vụ cho
việc ban hành quyết định kiểm tra.
Bước 2: Ra quyết định kiểm tra: Căn cứ chương trình kế hoạch kiểm
tra đã được phê duyệt hoặc theo yêu cầu kiểm tra đột xuất, Thủ trưởng đơn
vị được giao chủ trì cuộc kiểm tra chỉ đạo dự thảo quyết định thành lập Đoàn
kiểm tra (Mẫu số 01/QĐ-TT) [khoản 1, Điều 59, 23] và đề cương yêu cầu
báo cáo (Mẫu số 01/ĐC-KT) trình người có thẩm quyền ban hành quyết định
kiểm tra.
Nếu trường hợp kiểm tra đột xuất thì còn trình kèm theo hồ sơ sau:
+ Đối với kiểm tra cơ quan, tổ chức, cá nhân có dấu hiệu vi phạm pháp
luật thì phải có chứng cứ liên quan đến dấu hiệu vi phạm pháp luật;
+ Đối với kiểm tra theo đơn thư khiếu nại, tố cáo thì phải có đơn thư
khiếu nại tố cáo; thông tin, tài liệu thu thập qua xác minh về nội dung khiếu
nại, tố cáo;
+ Đối với kiểm tra theo chỉ đạo của người có thẩm quyền thì phải có
văn bản chỉ đạo của người có thẩm quyền.
Bước 3: Gửi quyết định kiểm tra: quyết định kiểm tra kèm theo đề cương
kiểm tra tới đối tượng được kiểm tra trước ít nhất 05 ngày làm việc (trừ trường
hợp kiểm tra đột xuất).Trường hợp đối tượng kiểm tra là BHXH tỉnh hoặc
BHXH huyện khi nhận được quyết định kiểm tra có trách nhiệm thông báo
bằng văn bản (Mẫu số 01/CV-KT) tới các đơn vị, tổ chức, cá nhân có liên quan
trên địa bàn quản lý của mình để thực hiện (trừ trường hợp kiểm tra đột xuất).
Bước 4: Tiến hành kiểm tra, được thực hiện theo Điều 42, Điều 43 và Điều
44 tại Quyết định số 1518/QĐ-BHXH ngày 18/10/2018 của BHXH Việt Nam.
b) Giải quyết tranh chấp và xử lý vi phạm về BHYT
- Theo như Điều 48 Luật BHYT năm 2008 tranh chấp về BHYT. Việc
tranh chấp là liên quan đến quyền và nghĩa vụ, trách nhiệm giữa các đối tượng
tham gia BHYT với nhau như: người tham gia BHYT, đại diện người tham
29. 23
gia BHYT, các tổ chức cá nhân đóng BHYT, tổ chức BHYT, cơ sở khám
bệnh, chữa bệnh BHYT.
Có thể giải quyết tranh chấp bằng tự hòa giải về nội dung tranh chấp
hoặc có quyền khởi kiện tại Tòa án theo quy định của pháp luật.
- Theo như Điều 49 Luật BHYT sửa đổi, bổ sung năm 2014 về xử lý vi
phạm BHYT. Trong Điều 49 quy định rõ về cá nhân, tổ chức có hành vi vi
phạm Luật BHYT thì được xử lý tùy theo mức độ vi phạm có thể xử lý phạt
hành chính [Chương 1, Mục 4, 14] hay truy cứu trách nhiệm hình sự [Điều
215, Điều 216, 20]
1.3.3. Vai trò pháp luật bảo hiểm y tế tự đóng
Trong những năm gần đây, hệ thống các văn bản pháp luật về chính
sách ASXH được ban hành tương đối đầy đủ với phạm vi điều chỉnh bao quát
ở các lĩnh vực trợ giúp xã hội, bảo hiểm xã hội (Luật BHYT, Luật Bảo hiểm y
tế …). Luật Bảo hiểm y tế được ban hành từ ngày 14 tháng 11 năm 2008 và
có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 7 năm 2009, riêng BHYT tự đóng có
hiệu lực thi hành từ tháng 01 năm 2015. Pháp luật BHYT tự đóng ra đời có
vai trò quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất
nước.Thực hiện Nghị định 146/2018/NĐ-CP về thực hiện quy định chi tiết và
hướng dẫn biện pháp thi hành một số điều của Luật Bảo hiểm y tế (2018);
Quyết định 959/QĐ-BHXH Quy định về quản lý thu bảo hiểm xã hội, bảo
hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp; quản lý sổ bảo hiểm xã hội, thẻ bảo hiểm y tế
(2015).Thôngtư liên tịch 41/2014/TTLT-BYT-BTC Hướng dẫn thực hiện
BHYT (2015); Thông tư 14/2016/TT-BYT Quy định chi tiết một số điều của
Luật BHXH thuộc lĩnh vực y tế (2016); Quyết định 4520/QĐ-BHYT Đính
chính thông tư số 14/2016/TT-BYT (2016).
Pháp luật BHYT tự đóng ra đời góp phần ổn định cuộc sống người lao
động tham gia BHYT, giúp bảo đảm thu nhập cho người lao động và gia đình
họ khi họ gặp những khó khăn trong cuộc sống làm giảm hoặc mất thu nhập.
30. 24
Người tham gia BHYT tự đóng được đảm bảo về thu nhập ổn định ở mức độ
cần thiết, giúp họ tiết kiệm kinh phí để dự phòng khi già yếu, mất sức lao
động… Qua đó, BHYT tự đóng góp phần nâng cao chất lượng lao động cá
nhân, tạo điều kiện để thu hút các nguồn lực lao động vào nền sản xuất, thúc
đẩy sản xuất phát triển.
Pháp luật BHYT tự đóng tạo cơ hội để thực hiện trách nhiệm trợ giúp
khó khăn cho các thành viên trong xã hội. Nhờ đó, giảm bớt những rủi ro
trong lao động sản xuất, trong đời sống của người lao động và khắc phục bớt
những hậu quả xảy ra ở mức độ cần thiết. Ngoài ra, người tham gia BHYT tự
đóng không chỉ đảm bảo an toàn về mặt thu nhập cho bản thân họ khi gặp
phải những rủi ro trong cuộc sống mà còn thực hiện tinh thần tương thân,
tương ái, lá lành đùm lá rách, san sẻ với nhau trong cộng đồng.
BHYT tự đóng góp phần thực hiện công bằng xã hội, là công cụ phân
phối lại thu nhập giữa những người tham gia BHYT tự đóng, nhờ đó tạo sự
công bằng giữa những người tham gia BHYT bắt buộc và những người lao
động tự do, tự hành nghề tham gia BHYT tự đóng.
1.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến bảo hiểm y tế tự đóng
1.4.1. Chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật Nhà nước về bảo
hiểm y tế tự đóng
Điều đầu tiên, cần khẳng định lại BHYT nói chung, BHYT tự đóng nói
riêng là chính sách lớn của Đảng và Nhà nước ta. Để hướng đến thực hiện
BHYT toàn dân chúng ta phải thực hiện chính sách BHYT tự đóng.
Phần lớn chủ trương, chính sách đều được thể hiện dưới dạng văn bản
pháp luật (pháp luật là hình thức thể hiện của các chủ trương, chính sách).
Đảng, Nhà nước chủ trương phát triển BHYT tự đóng trên cơ sở thực hiện
BHYT toàn dân được thể hiện ở rất nhiều văn bản. Chẳng hạn, Điều 39 Hiến
pháp 2013 khẳng định: "Thực hiện bảo hiểm y tế tạo điều kiện để mọi người
dân được chăm sóc sức khoẻ".Xuyên suốt các kỳ Đại hội Đảng mà mở đầu là
31. 25
Đại hội VI đến Đại hội XII đều nhất quán chủ trương thực hiện BHYT toàn
dân, trong đó Đại hội XI (năm 2011) chủ trương: “Đổi mới và hoàn thiện
đồng bộ các chính sách bảo hiểm y tế…; có lộ trình thực hiện bảo hiểm y tế
toàn dân”. Nghị quyết số 21-NQ/TW ngày 22/11/2012 của Bộ Chính trị một
lần nữa nêu rõ: “…Có chính sách khuyến khích người tham gia BHYT tự
đóng thường xuyên dài hạn, hạn chế tình trạng người bị ốm đau mới mua bảo
hiểm y tế…”.Theo quy định tại Điều 2 Quyết định số 999/QĐ-BHYT ngày
01/10/2014 của BHYT Việt Nam: “Đại lý thu là tổ chức được cơ quan Bảo
hiểm xã hội ký hợp đồng đại lý bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, gồm: Ủy
ban nhân dân xã, phường, thị trấn; đơn vị sự nghiệp; tổ chức chính trị - xã hội
và tổ chức kinh tế”
Trên cơ sở chủ trương của Đảng, Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn
bản tổ chức thực hiện BHYT toàn dân nói chung, BHYT tự đóng nói riêng.
Theo đó, trước khi thực hiện Luật BHYT (01/7/2009) và Luật sửa đổi
bổsung(13/6/2014) đối tượng BHYT khá rộng, bao gồm cả học sinh, sinh
viên; mức đóng đầu tiên là mức tiền cụ thể, sau đó được tính theo tỷ lệ % trên
tiền lương cơ sở do Chính phủ quy định.
Phát triển BHYT tự đóng là quá trình mở rộng đối tượng tham gia trên
cơ sở ngày càng phát triển mạng lưới cung ứng dịch vụ, nâng cao chất lượng
dịch vụ và bảo đảm cân đối thu - chi quỹ BHYT . Quá trình đó phát triển như
thế nào, theo hướng nào phần lớn đều do chủ trương, chính sách của Đảng,
pháp luật của Nhà nước quy định. Nói cách khác, chủ trương, chính sách của
Đảng, pháp luật của Nhà nước là nhân tố quyết định sự phát triển BHYT tự
đóng, thể hiện cụ thể ở các mặt sau:
Một là, Nhà nước quy định mức phí tham gia phù hợp hoặc thấp hơn
một cách tương đối so với mức chi để khuyến khích mọi người hưởng ứng,
nhằm mục đích mở rộng độ bao phủ của BHYT tự đóng, tăng số lượng người
tham gia BHYT tự đóng và gia tăng tỷ lệ dân số tham gia BHYT tự đóng.
32. 26
Người dân sẽ khó tham gia khi Nhà nước quy định mức phí cao. Đấy là chưa
kể việc quy định phân đoạn mức phí phải nộp như thế nào, một lần hay nhiều
lần để tạo điều kiện tối đa cho người dân được tham gia.
Hai là, Đại lý thu BHYT tự đóng là dịch vụ mà Nhà nước ta cung ứng
để thực hiện chính sách phát triển BHYT và việc đầu tư xây dựng hệ thống cơ
sở khám chữa bệnh, tăng số lượng giường bệnh và đội ngũ cán bộ y tế, từ đó,
nâng cao chất lượng dịch vụ BHYT tự đóng. Trong trường hợp Nhà nước ban
hành các quy định không cân đối giữa đầu vào với đầu ra, nhất là đầu ra
không đáp ứng được nhu cầu khám chữa bệnh thì sẽ gây tổn hại đến quyền lợi
của người tham gia BHYT tự đóng.
Ba là, định mức thu – chi, quy định các chế độ chính sách liên quan
nhằm đảm bảo nguồn thu, cân đối thu – chi, phát triển BHYT tự đóng. Nếu
trong trường hợp mất cân đối thu – chi thì Nhà nước ta sẽ sử dụng quỹ dự
phòng hoặc ngân sách để bù đắp cho trường hợp mất cân đối đó. Luật BHYT
cũng chỉ quy định trần mức thu tối đa (hiện nay là 750.600 đồng/người/năm)
mà không quy định trần mức hưởng tối đa về quyền lợi (trong năm hoặc đợt
điều trị), dẫn đến nhiều người được quỹ BHYT thanh toán hằng trăm triệu
trong mỗi đợt điều trị hoặc mỗi năm hơn cả tỷ đồng.
Tùy tình hình trong từng thời kỳ, chủ trương, chính sách pháp luật của
Đảng và Nhà nước về BHYT tự đóng hết sức quan trọng, từng giai đoạn phát
triển kinh tế - xã hội mà Nhà nước có những quy định cụ thể, đáp ứng nhu cầu
thực tiễn tạo sự phát triển thuận lợi cho BHYT tự đóng.
1.4.2. Tổ chức bộ máy cung ứng dịch vụ bảo hiểm y tế tự đóng
Bộ máy cung ứng dịch vụ là nhân tố không thể thiếu đối với bất kỳ
chính sách nào khi triển khai thực hiện. Tổ chức bộ máy cung ứng dịch vụ
BHYT tự đóng có chức năng, nhiệm vụ cung ứng dịch vụ BHYTtừ khai thác,
lập danh sách, thu tiền, in ấn, cấp phát thẻ BHYT đến phục vụ khám chữa
bệnh cho đối tượng khi phát sinh. Tổ chức bộ máy cung ứng dịch vụ BHYT
33. 27
tự đóng có vai trò rất quan trọng, bởi lẽ, đó là nơi tổ chức thực hiện chính
sách BHYT tự đóng.Chính sách BHYT tự đóng có thực hiện tốt có mang lại
quyền lợi cho người tham gia hay không… đều phụ thuộc vào bộ máy tổ chức
thực hiện.
Tổ chức bộ máy cung ứng dịch vụ BHYT tự đóng về cơ bản bao gồm
hệ thống đại lý thu, hệ thống cơ sở khám chữa bệnh.
Đối với hệ thống đại lý thu BHYT tự đóng: Đại lý thu BHYT tự đóng là
nơi BHXH ký hợp đồng để thu như quận Sơn Trà là các phường. Nếu phát
triển theo chiều sâu thì số lượng đại lý có thể không tăng nhưng chất lượng
phục vụ được nâng cao, chuyên sâu và chuyên nghiệp hơn. Hệ thống đại lý
thu có vai trò quan trọng thể hiện ở việc, nếu không có đại lý thì cơ quan Bảo
hiểm xã hội khó có thể tổ chức thực hiện chính sách BHYT tự đóng (từ việc
lập danh sách, thu tiền, hướng dẫn, cấp phát thẻ BHYT tự đóng...). Ngoài ra,
hệ thống đại lý thu còn là cầu nối giữa cơ quan quản lý (cơ quan Bảo hiểm xã
hội) với người tham gia, cơ quan có thẩm quyền thường xuyên tuyên truyền
chủ trương, chính sách, pháp luật về BHYT tự đóng; tiếp xúc với người tham
gia, tiếp thu những phản ánh, tổng hợp kiến nghị từ đối tượng tham gia, báo
cáo với cơ quan thẩm quyền để xử lý. Hệ thống đại lý được phát triển là điều
kiện cần thiết để mở rộng đối tượng tham gia BHYT tự đóng.
Đối với hệ thống cơ sở khám chữa bệnh và số lượng giường bệnh: cơ
sở khám chữa bệnh được đầu tư thường kéo theo phát triển số lượng giường
bệnh nhưng là phương diện nào, sự phát triển đó cũng sẽ là gia tăng cung ứng
dịch vụ đầu vào, tạo điều kiện phục vụ cho nhiều người có nhu cầu khám
chữa bệnh BHYT tự đóng hơn. Chẳng hạn, nếu như cơ sở khám chữa bệnh
không đáp ứng được yêu cầu dẫn đến 2, 3 bệnh nhân phải nằm chung một
giường (cá biệt có những cơ sở khám chữa bệnh 5, 6 bệnh nhân nằm một
giường bệnh, thậm chí bệnh nhân phải nằm cả ngoài hành lang, trên lối đi…).
Thì việc xây dựng thêm các cơ sở khám chữa bệnh hoặc bổ sung thêm giường
34. 28
bệnh là hết sức cần thiết, từ đó giải tỏa vấn đề quá tải tại các bệnh viện.
Đối với đội ngũ cán bộ y tế: Cũng giống như phát triển hệ thống cơ sở
khám chữa bệnh và số lượng giường bệnh, việc phát triển đội ngũ cán bộ y tế
cũng là nhân tố làm gia tăng cung ứng dịch vụ đầu ra, tạo điều kiện cho người
bệnh khám chữa bệnh BHYT tự đóng được chăm sóc sức khỏe tốt hơn. Ví dụ,
trong điều kiện cán bộ y tế nói chung, y bác sỹ nói riêng không đủ số lượng
thì thời gian khám chữa bệnh cho người bệnh sẽ hạn chế, việc chẩn đoán, điều
trị sẽ không bảo đảm. Điều đó dẫn đến hệ quả là chất lượng khám chữa bệnh
thấp, không đáp ứng được nhu cầu của người bệnh, và đương nhiên, họ sẽ từ
bỏ BHYT tự đóng để tìm tới các kênh dịch vụ y tế khác phù hợp hơn.
Từ đó cho thấy, bộ máy cung ứng dịch vụ luôn là điều kiện cần thiết để
tổ chức thực hiện chính sách BHYT tự đóng. Không có bộ máy sẽ không thể
triển khai chính sách BHYT tự đóng. Bộ máy hoạt động hiệu quả, phát triển
thì BHYT tự đóng phát triển và ngược lại. Từ cơ cấu tổ chức cần đánh giá lại
kết quả từng khâu, từng tổ chức, đối tượng cấu thành để kiện toàn, tinh giản,
hoàn chỉnh thì mới thúc đẩy nhanh hơn, hiệu quả bộ máy cung ứng dịch vụ.
1.4.3. Thông tin pháp luật tuyên truyền về bảo hiểm y tế tự đóng
Dù triển khai chính sách nào, thông tin tuyên truyền cũng luôn đóng vai
trò định hướng, giúp cho người dân từ biết đến hiểu, từ hiểu đến thực hiện và
tham gia phát triển thêm chính sách ấy. Phát triển BHYT tự đóng cũng không
là ngoại lệ, vì một trong những nguyên nhân dẫn đến người dân không quan
tâm, không muốn tham gia BHYT tự đóng là họ thiếu hiểu biết, chưa thấy lợi
ích của việc tham gia hoặc thiếu tin tưởng vào hệ thống tổ chức thực hiện (cả
hệ thống đầu vào liên quan đến phát hành thẻ lẫn hệ thống đầu ra là khám
chữa bệnh BHYT tự đóng). Từ đó, vấn đề đặt ra là phải tuyên truyền để người
dân hiểu rõ về chính sách, chế độ, vai trò, ý nghĩa, tác dụng cũng như những
lợi ích của BHYT tự đóng để họ biết, tin tưởng và nhiệt tình tham gia. Có thể
tuyên truyền dưới nhiều hình thức khác nhau như tổ chức các lớp tập huấn,
35. 29
viết báo, đối thoại trực tiếp hoặc trên truyền hình, thông qua Internet, phát
hành tờ rơi, dán panô, áp phích… Thông tin tuyên truyền chính sách BHYT
tự đóng không chỉ đơn thuần là việc của cơ quan tổ chức thực hiện (ngành
BHYT và ngành Y tế) đó còn là nhiệm vụ của các cấp, các ngành, các tổ chức
đoàn thể từ Trung ương đến địa phương, nhằm tổ chức thực hiện tốt chính
sách đề ra.
Thông tin tuyên truyền tốt, người dân sẽ biết, hiểu, thấy được quyền lợi
khi tham gia BHYT tự đóng, từ đó họ tự giác tham gia. Còn nếu không như
không làm tốt công tác tuyên truyền định hướng sẵn này thì người dân sẽ
không biết, không hiểu, không rõ khi tham gia mình được gì, mất gì, nên việc
phát triển BHYT tự đóng chắc chắn gặp nhiều khó khăn khi triển khai.
Theo kết quả báo cáo của cơ quan Bảo hiểm xã hội quận Sơn Trà về
tuyên truyền chính sách pháp luật BHYT tự đóng theo hộ gia đình từ năm
2015-2017 thì: “có 55,6% người dân được biết về BHYT từ nguồn thông tin do
cán bộ Bảo hiểm xã hội quận và phường tuyên truyền, đã xử dụng gần 2.000
băng rôn, ốp phích để tuyên truyền”. Trước hết người dân phải hiểu về chính
sách BHYT, sau đó mới quyết định tham gia… Tuy nhiên điều đáng bàn ở đây
là nguồn thông tin mà người dân nhận được chủ yếu là từ cán bộ kiêm nhiệm
đại lý bán bảo hiểm với lý do hạn hẹp về con người tuyên truyền nên việc
người dân có biết rõ tường tận quyền lợi khi tham gia BHYT tự đóng hay
không đó lại là bài toán cần sự quan tâm của cơ quan BHXH vì sự tuyên truyền
hạn hẹp thì thông tin lan truyền sẽ hạn chế, mức độ hiểu biết về chính sách
BHYT của người dân sẽ giảm đi dẫn theo mức độ tham gia không được nhiều.
1.4.4. Nhận thức và thu thập của người dân về bảo hiểm y tế tự đóng
theo pháp luật hiện hành
Nhận thức của người dân luôn xuất phát từ hai phía, một mặt do năng
lực, trình độ của họ, mặt khác, do khối lượng, chất lượng thông tin chuyển tải
đến họ. Nhận thức của người dân sẽ cao khi họ có trình độ, thông tin họ nhận
36. 30
được đầy đủ, thường xuyên và ngược lại. Nhận thức của người dân về BHYT
tự đóng còn thấp cùng với những tập quán, thói quen, dịch vụ đầu ra về khám
chữa bệnh chưa đáp ứng được yêu cầu và điều kiện kinh tế còn gặp nhiều khó
khăn đã dẫn đến việc người dân thường tự mua thuốc, tự điều trị chứ không
khám chữa bệnh thông qua tham gia BHYT tự đóng.
BHYT tự đóng khác so với BHYT bắt buộc ngoài tính pháp lý ra, về cơ
bản, mức phí khi tham gia BHYT tự đóng là 100% tiền của người tham gia.
Vì vậy, thu nhập của họ là nhân tố quyết định điều kiện đủ để có tham gia
BHYT hay không. Theo Thạc sỹ Lưu Thị Thu Thủy: “…nhu cầu tham gia
BHYT phụ thuộc vào sự ổn định của thu nhập, những người có thu nhập giảm
hàng tháng nhưng có nhu cầu tham gia BHYT tự đóng cao hơn những người
thu nhập ổn định. Bởi lẽ, đối với bất kỳ người lao động nào thì nhu cầu tham
gia bảo hiểm là điều cần thiết được ốm đau bệnh tật…” (Tạp chí BHYT kỳ 01
tháng 11/2009, trang 22) [15].
Có những trường hợp người có thu nhập cao lại không muốn tham gia
BHYT, vì trong điều kiện cung ứng dịch vụ như hiện tại. Những trường họp đó
họ quan niệm rằng có tiền khi lỡ bệnh tật, ốm đau sẽ khám chữa bệnh thông
qua dịch vụ BHYT vừa nhanh, vừa bảo đảm chất lượng phục vụ, được chăm
sóc tốt hơn.
Nói chung, có thể nói phát triển BHYT tự đóng là quá trình mở rộng
đối tượng tham gia BHYT trên cơ sở ngày càng phát triển mạng lưới cung
ứng dịch vụ, nâng cao chất lượng dịch vụ và bảo đảm cân đối thu – chi quỹ
BHYT . Nội dung của phát triển BHYT tự đóng với mục tiêu mở rộng độ bao
phủ người tham gia, phát triển mạng lưới cung ứng dịch vụ, nâng cao chất
lượng dịch vụ và đảm bảo quyền lợi cho người tham gia BHYT tự đóng.
1.5. Pháp luật bảo hiểm y tế tự đóng của một số nước trên thế giới
1.5.1. Pháp luật bảo hiểm y tế tự nguyện ở Cộng hoà Liên bang Đức
Là một đất nước triển khai BHYT tương đối sớm trên thế giới từ những
37. 31
năm 1884, BHYT ở Cộng hoà Liên bang Đức đã tương đối hoàn thiện và đã
đạt tiêu chí BHYT toàn dân trên cơ sở hoạt động BHYT theo luật định. Ở
Đức, BHYT bắt buộc áp dụng đối với hầu hết người dân: người làm công ăn
lương có mức thu nhập dưới ngưỡng quy định (năm 2013 là 52.200 Euro/
năm) và người thân của họ (vợ hoặc chồng và con cái của họ dưới 18 tuổi tự
động được hưởng bảo hiểm mà không phải đóng góp gì thêm); sinh viên;
người được đào tạo nghề; người về hưu; người khuyết tật; người thất nghiệp
đang nhận trợ cấp; nông dân; nghệ sỹ… và các đối tượng khác [14]. Có thể
thấy, mặc dù Đức có dân số khá đông nhưng do đối tượng bắt buộc tham gia
BHYT được quy định trong luật rộng nên hầu hết người dân Đức đều tham
gia BHYT bắt buộc. Ngoài ra pháp luật BHYT của Đức cũng quy định hình
thức tham gia BHYTTN đối với những người có mức thu nhập trên ngưỡng
quy định. Theo đó, những người này có thể tự do lựa chọn việc tham gia
BHYT theo luật định hoặc một loại hình BHYT tư nhân bất kỳ (là loại BHYT
thương mại, còn BHYT theo luật định là loại BHYT phi lợi nhuận). Theo
thống kê năm 2005, ở Đức có khoảng 72 triệu người tham gia BHYT theo
luật định (chiếm khoảng 88% dân số), số người tham gia BHYT tư nhân chỉ
chiếm khoảng 10% dân số, nếu tính cả BHYT theo luật định và BHYT tư
nhân thì gần 100% người dân Đức đã tham gia BHYT.
Về mức đóng: Luật BHYT quy định tỷ lệ đóng góp giữa chủ sử dụng
lao động và người lao động, không quy định cụ thể mức đóng BHYT, do vậy
mức đóng của các quỹ BHYT có sự chênh lệch khác nhau, dao động từ 10,2%
đến 15,7% tổng tiền lương. Người về hưu đóng phí BHYT từ tiền lương hưu
của mình 50% mức đóng, Nhà nước đóng 50% cho họ; người tham gia
BHYTTN có mức đóng tối thiểu bằng ngưỡng quy định (ví dụ năm 2005 là
3.900 Euro/tháng nhân với tỷ lệ mức thu do quỹ BHYT quy định); những
người làm công ăn lương, thẩm phán... với thu nhập vượt ngưỡng quy định
không có nghĩa vụ tham gia BHYT công được Nhà nước đài thọ 50% chi phí
khám chữa bệnh, được lựa chọn tham gia loại hình bảo hiểm bổ sung của
38. 32
BHYT tư nhân để được khám chữa bệnh theo nhu cầu và khả năng của chính
mình. Quyền lợi của người tham gia BHYTTN vì thế cũng rất khác nhau tuỳ
theo các mức phí mà có các gói dịch vụ tương ứng nhằm chi trả một phần chi
phí cho người bệnh và hầu hết các loại hình BHYTTN đều do tư nhân cung
cấp. Do đó từng mức thu và chi đều phải được xác định và cân đối cụ thể
trong đó có tính đến cơ cấu lợi nhuận.
Như vậy ở Đức, BHYT theo luật định là hình thức bảo hiểm được áp
dụng đối với hầu hết thành phần trong xã hội, hoạt động theo nguyên tắc
tương trợ cộng đồng. Trong BHYT theo luật định song song tồn tại hai hình
thức BHYT bắt buộc và BHYTTN, trong đó BHYT bắt buộc được coi là nòng
cốt của hệ thống BHYT.
1.5.2. Pháp luật bảo hiểm y tế tự nguyện tại Liên bang Nga
Ngoài BHYT bắt buộc, ở Nga còn hiện hữu hệ thống BHYTTN (VHI).
Bảo hiểm VHI này do bệnh nhân tự mua, mức giá từ 500 đến 1.500
dollar/năm. Dùng loại bảo hiểm này, người mua có thể tự mình lập chương
trình BHYT cho bản thân (ví dụ bảo hiểm phòng chống bệnh nghề nghiệp có
thể mắc phải), tùy ý chọn cơ sở y tế muốn đến điều trị, tiến độ chữa bệnh diễn
ra dưới sự theo dõi của công ty bảo hiểm mà người ấy đã đăng ký. Ngày càng
có nhiều người Nga sử dụng bảo hiểm VHI cũng bởi hình thức y tế miễn phí
trên thực tế không phải luôn luôn là hưởng dụng không mất tiền, bệnh nhân
thường phải đối mặt với sự vòi vĩnh gây phiền hà từ phía cơ sở y tế. Cuộc cải
cách trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe công dân hiện tại được hoạch định để
giải quyết vấn nạn này.
Mới đây, Nga đã đưa ra dự luật từ năm 2015 lao động nhập cư sẽ nộp phí
vào Quỹ BHYT (FSS), và họ sẽ không được tham gia vào BHYT bắt buộc
(OMS). Chính phủ Nga vừa soạn thảo xong các dự luật, quy định việc đóng phí
bảo hiểm vào FSS trong mục nghỉ ốm, áp dụng tiêu chuẩn, theo đó lao động
nhập cư sẽ không được tham gia vào OMS, và chủ tuyển dụng sẽ phải mua cho
họ DMS (BHYTTTN) theo mức giá do Chính phủ quy định. Bộ Lao động Nga
39. 33
cũng cho biết, trong trường hợp các sửa đổi về luật được thông qua, khoảng 3
triệu người nước ngoài đến làm việc tại Nga sẽ được chăm sóc y tế. Công dân
nước ngoài giờ đây có thể mua BHYTTN tại các chi nhánh của “Bưu chính
Nga”, dự án này hiện được triển khai tại một số tỉnh thành lớn của Liên bang
Nga như thành phố Matxcơva và tỉnh Matxcơva, tỉnh Novosibirsk, tỉnh Rostov,
tỉnh Chelyabinsk, vùng Perm, Cộng hòa Tatarstan. Bất kỳ người nước ngoài
nào ở độ tuổi từ 18 đến 65 đều có thể sử dụng dịch vụ mới này. Người mua
BHYTTN được chi trả các chi phí về nghiên cứu chuẩn đoán, phẫu thuật và
tiền thuốc, các chi phí liên quan đến chữa trị khi bị chấn thương các loại, bị
bỏng, khi mô bị lạnh hỏng, bị ngộ độc và khi bị hồi hương. Mức bồi thường tối
đa của bảo hiểm này là 100 nghìn rúp, giá bán bảo hiểm là 599 rúp với thời hạn
hiệu lực là 3 tháng. Để mua BHYTTN nói trên tại các chi nhánh của “Bưu
chính Nga”, người nước ngoài chỉ cần xuất trình thẻ nhập cảnh.
1.5.3. Pháp luật bảo hiểm y tế tự nguyện ở Trung Quốc
Trung Quốc là đất nước có số dân cư đứng hàng đầu thế giới song nhiều
năm qua BHYT của Trung Quốc chưa tìm được những hướng đi phù hợp để
thu hút được cộng đồng tham gia BHYT. Tuy nhiên giai đoạn trước năm 1999
với mô hình BHYTTN cho khu vực nông thôn dựa trên cơ sở hệ thống y tế
các hợp tác xã làm nòng cốt, cung cấp các dịch vụ chăm sóc sức khoẻ và
khám chữa bệnh cho đối tượng tham gia BHYTTN của Trung Quốc đã đưa tỷ
lệ người tham gia BHYT lên đến 90% dân số, tương ứng với trên 1 tỷ dân vào
những năm của thập kỷ 70. Số người tham gia BHYT bắt buộc tập trung tại
các khu vực đô thị trong đó có cả người ăn theo được chi trả 50% chi phí.
Trong quá trình đổi mới các thành phần kinh tế của Trung Quốc dẫn đến sự
tan rã của hệ thống y tế hợp tác xã kèm theo sự yếu kém về mặt quản lý quỹ
BHYT, sự thiếu thống nhất trong các chế độ BHYT dẫn đến khả năng chia sẻ
rủi ro thấp, BHYT cho khu vực nông thôn không thể tồn tại. Mặc dù đã có sự
cải tổ trong chính sách BHYT trong đó Chính phủ đó là năm 1999 thành lập
hệ thống BHYT mới với 4 nguyên tắc hoạt động là: phí thấp, diện bao phủ
40. 34
rộng, hai bên cùng đóng góp, phối hợp quỹ chung và tài khoản cá nhân,
BHYTTN chỉ được coi như loại hình BHYT bổ sung cho BHYT bắt buộc của
người lao động (mức phí dưới 4% lương) sau khi đã đóng đủ BHYT bắt buộc
(6% lương do chủ sử dụng lao động và 2% lương do người lao động đóng
góp). Cho đến hết 2003, Trung Quốc có khoảng trên dưới 10% dân số tham
gia (86,9 triệu người tham gia tính đến tháng 12/2002).
Năm 2002, Trung Quốc đã đưa ra mô hình hợp tác xã y tế kiểu mới dựa
trên nguyên tắc tương trợ tự nguyện. Thủ đô Bắc Kinh đã thí điểm mô hình
này tại một số điểm, với sự chia sẻ tài chính giữa nông dân, cộng đồng và
chính quyền địa phương nhằm tạo ta một quỹ chia sẻ rủi ro cho những bệnh
tật nghiêm trọng. Năm 2003, chính phủ Trung Quốc bắt đầu triển khai thí
điểm "Chế độ bảo hiểm y tế hợp tác nông thôn kiểu mới", khi nông dân tham
gia chế độ này, khám chữa bệnh, chi phí nằm viện có thể do ba bên như cá
nhân, tập thể và chính quyền cùng gánh vác. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử
Chính phủ Trung Quốc đầu tư quy mô lớn nhằm giải quyết vấn đề điều trị y tế
cơ bản của nông dân.
1.5.4. Bài học kinh nghiệm về thực thi pháp luật bảo hiểm y tế tự
đóng cho Việt Nam
Từ những kết quả mang lại của mô hình BHYT tại các nước khác nhau,
có thể thấy muốn đảm bảo thực hiện tốt pháp luật BHYT tự đóng ở Việt Nam
cần lưu ý những điểm cơ bản như sau:
Thứ nhất, đảm bảo sự đơn giản, thuận tiện khi tham gia BHYT tự đóng
và chất lượng phục vụ tốt. Hầu hết những người lao động tự do hoặc người
nghèo, dân cư sinh sống ở vùng nông thôn ít hoặc khó có phương tiện đi lại
để khám chữa bệnh, do vậy nếu các chi phí để tiếp cận dịch vụ y tế quá cao
thì người dân chắc chắn sẽ không muốn tham gia. Đồng thời người dân luôn
mong muốn được chăm sóc sức khỏe bằng những thầy thuốc có trình độ, thái
độ thân thiện, nhiệt tình, cơ sở y tế sạch sẽ, đầy đủ máy móc, trang thiết bị y
tế. Thực tế chỉ ra rằng khó có thể duy trì được một quỹ và tăng cầu về BHYT
41. 35
tự đóng nếu chất lượng dịch vụ không tốt bởi người dân sẽ cho rằng dịch vụ
họ nhận được không xứng đáng với đồng tiền họ bỏ ra.
Thứ hai, quy định mức đóng phải phù hợp với khả năng chi trả của
người dân. Để BHYT tự đóng có thể đến với nhóm đối tượng có thu nhập
thấp thì mức đóng phải phù hợp với thu nhập của họ. Bên cạnh đó mức quyền
lợi phải tương xứng với mức đóng nhưng không phải mức đóng thấp dành
cho người nghèo thì họ buộc phải hưởng chất lượng dịch vụ kém hơn so với
người đóng mức bình thường mà thậm chí họ còn cần được ưu tiên nhất định.
Một yếu tố quan trọng nữa là tính rõ ràng minh bạch trong quản lý quỹ. Việc
thu quỹ cũng cần phải mềm dẻo phù hợp với thời vụ, thời điểm thu nhập của
người dân bởi phần lớn người dân ở nông thôn có thu nhập phụ thuộc vào
mùa màng, thời vụ.
Thứ ba, BHYT tự đóng không phải là sự lựa chọn có thể thay thế nguồn
tài chính cho chăm sóc sức khỏe và đảm bảo khám chữa bệnh cho người dân
ở các nước đang phát triển. Nguồn kinh phí thu được từ BHYT tự đóng chỉ
nên coi là nguồn bổ sung cho tài chính y tế chứ không nên coi là nguồn thay
thế chính thức trong nguồn tài chính chi cho hoạt động y tế. Sự lựa chọn
ngược trong hình thức bảo hiểm này rất dễ gây bội chi quỹ và luôn cần sự trợ
lực của Nhà nước.
Tiểu kết chương 1
Trong những năm qua thực hiện chính sách pháp luật BHYT cùng với
sự phát triển kinh tế - xã hội, hệ thống an sinh xã hội ngày càng được hoàn
thiện hơn. Chính sách BHYT tự đóng đã được Đảng và Nhà nước quan tâm
chú trọng nâng cao hiệu quả trong công tác bảo vệ, chăm sóc sức khỏe cho
nhân dân, góp phần tích cực vào việc ổn định xã hội, thực hiện mục tiêu dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng và văn minh. Quyền lợi chế độ hưởng
BHYT của người tham gia BHYT tự đóng sẽ nâng lên và được tiếp cận tối đa
các dịch vụ trong BHYT.
42. 36
Trong chương 1 ngoài việc tìm hiểu và đề các văn bản pháp luật khi
thực hiện BHYT tự đóng thì bên cạnh đó cũng tìm hiểu pháp luật BHYT của
một số nước trên thế giới cũng đã đóng vai trò quan trọng trong đời sống xã
hội, trong việc hỗ trợ chăm sóc sức khỏe trong cộng đồng, người khỏe hỗ trợ
cho người già, ốm đau, bệnh tật; số đông bù cho số ít. Các đối tượng tham gia
BHYT tự đóng được xác định là hộ gia đình (trừ các thành viên tham gia
BHYT bắt buộc), mục tiêu hướng tới là người dân được hưởng chế độ về
chính sách về y tế và mức hưởng không phụ thuộc vào mức đóng, thời gian
đóng mà chỉ phụ thuộc vào bệnh tật và các dịch vụ y tế tại các cơ sở. Việc
thực hiện pháp luật BHYT tự đóng ở nước ta trong thời gian qua vẫn còn
nhiều bất cập, hạn chế. Từ việc tìm hiểu pháp luật tại các nước trên thì cũng
đã rút ra bài học kinh nghiệm về thực thi pháp luật bảo hiểm y tế tự đóng cho
Việt Nam. Những kinh nghiệm đó tạo được tiền đề giúp việc thực hiện mục
tiêu BHYT tự đóng trở thành một chính sách quan trọng để bảo đảm an sinh
xã hội. Các nguyên tắc chung và riêng của BHYT tự đóng thể hiện rõ pháp
luật về BHYT với mục tiêu dựa trên cơ sở tự nguyện của người tham gia, đảm
bảo cân đối hài hòa lợi ích và tính liên thông giữa BHYT bắt buộc và BHYT
tự đóng. Nội dung về pháp luật BHYT tự đóng nói rõ các vấn đề về chủ thể
được hưởng, chủ thể thực hiện, việc quản lý BHYT tự đóng có thể được hiểu
là sự tác động của chủ thể Nhà nước quản lý, Nhà nước thống nhất quản lý
hoạt động mô hình BHYT phù hợp với quốc gia.
43. 37
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG THỰC HIỆN PHÁP LUẬT BẢO HIỂM Y TẾ TỰ
ĐÓNG Ở QUẬN SƠN TRÀ, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
2.1. Đặc điểm về điều kiện tự nhiên, kinh tế, văn hóa, xã hội ảnh
hưởng đến thực hiện pháp luật về bảo hiểm y tế tự đóng ở quận Sơn Trà,
thành phố Đà Nẵng
2.1.1. Đặc điểm về điều kiện tự nhiên
Quận Sơn Trà là một quận nội thành của thành phố Đà Nẵng giáp Biển
Đông, quận Ngũ Hành Sơn và sông Hàn. Theo Nghị định số 07/1997/NĐ-CP
của Chính phủ, quận Sơn Trà được thành lập trên cơ sở toàn bộ diện tích tự
nhiên và dân số của các phường An Hải Tây, An Hải Bắc, An Hải Đông, Nại
Hiên Đông, Mân Thái, Phước Mỹ, Thọ Quang của khu vực III thành phố Đà
Nẵng trực thuộc tỉnh Quảng Nam-Đà Nẵng cũ. Quận Sơn Trà có 5.972 ha
diện tích tự nhiên và 96.756 người, gồm 7 phường. Đến năm 2018 dân số toàn
quận là 173.455 người.
2.1.2. Tình hình kinh tế - xã hội
Quận Sơn Trà là nơi có Khu Công nghiệp An Đồn - khu công nghiệp
đầu tiên của Đà Nẵng. Bán đảo Sơn Trà có cảnh quan đẹp, các bãi đá san hô,
các bãi tắm là các điểm đến của khách du lịch và người bản địa nên đã hình
thành nên nhiều khu du lịch từ đó việc hình thành các khu vui chơi, nhà hàng
khách sạn được mọc lên ngày càng nhiều dẫn đến nền kinh tế của quận Sơn
Trà được nâng lên rõ rệt trong những năm gần đây. Quận Sơn Trà có vị trí
quan trọng về kinh tế, có cảng biển Tiên Sa là cửa khẩu quan hệ kinh tế quốc
tế là nơi cập bến nhiều hàng hóa các tỉnh lân cận trong và ngoài nước.