SlideShare a Scribd company logo
1 of 44
Download to read offline
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nghệ thuật điêu khắc ở Việt Nam có một truyền thống lâu đời và
đáng tự hào với các điển hình đặc sắc. Mỗi giai đoạn thời kỳ lịch sử lại có
những thành tựu nghệ thuật điêu khắc mang dấu ấn riêng, rõ nét về các giá
trị văn hóa truyền thống. Với sự tiếp thu tính khoa học trong công nghệ của
nghệ thuật phương Tây kết hợp với các tình cảm dân tộc và thẩm mỹ truyền
thống, nền điêu khắc Việt Nam hiện đại đã tạo ra nhiều tác phẩm điêu khắc
mang âm hưởng và bản sắc riêng. Đặc biệt, trong giai đoạn từ năm 2000
đến năm 2015, nhiều tượng đài chất liệu đá đã được đầu tư xây dựng. Chất
liệu đá mang lại vẻ đẹp bề thế, vững chãi cho tượng đài với lối tạo hình
mạnh mẽ, chắc khỏe. Chất liệu này cũng phù hợp với nhiều không gian, vị
trí địa lí và điều kiện kinh tế ngày càng phát triển của đất nước ta, phản ánh
rõ những biến động lịch sử trong các giai đoạn xây dựng và phát triển đất
nước cùng truyền thống tốt đẹp của dân tộc.
Qua nhiều năm đổi mới, nền kinh tế nước ta phát triển hơn trước nên
trong khoảng thời gian từ năm 2000 đến năm 2015, hệ thống tượng đài của
Việt Nam mọc nên khá nhiều với chất liệu đá – một chất liệu thường đồng
nghĩa với sự vĩnh cửu và trường tồn. Dù gồ ghề hay trơn nhẵn thì chất liệu
đá vẫn cho ta thấy cảm giác lạnh và xa xăm nhưng bù lại tượng đá lại cho
ta thấy được sự bề thế, vững chãi và trang nghiêm, phù hợp với những nội
dung cần biểu đạt.
Các tượng đài được đặt ở nơi công cộng, những nơi có nhiềungười
qua lại đểlàm rõ hơn vai trò của tượng đài trong mục đích tuyên truyền, tôn
vinh những giá trị văn hóa hay nhân vật lịch sử. Đặc biệt từ năm 2000 đến
năm 2015 là giai đoạn mà đất nước đang tiến hành xây dựng với nhiều cải
cách và đổi mới : cải cách giáo dục, đổi mới cảnh quan đô thị, nhớ ơn các
anh hùng liệt sĩ,.... Với chủ trương nâng cao nhận thức của người dân về
2
nghệ thuật, giá trị văn hóa truyền thống thì việc xây dựng tượng đài có kích
thước lớn là hoàn toàn phù hợp với các mục tiêu đề ra, đưa nghệ thuật đến
gần hơn với công chúng.
Đất nước ta có bề dày lịch sử dựng nước và giữ nước, nhiều sự kiện
chính trị, văn hóa, xã hội, nhiều chiến thắng vĩ đại nên việc xây dựng các
tượng đài để ghi lại bằng nghệ thuật điêu khắc là điều tất yếu và là nhu cầu
của một xã hội phát triển. Việc đô thị hóa cũng như nhu cầu làm đẹp không
gian kiến trúc đô thị bằng những tượng đài là nhu cầu tự thân của một xã
hội phát triển.Trong 15 năm qua, việc xây dựng tượng đài đã được các cấp
chính quyền từ Trung ương đến địa phương quan tâm ở mức độ nhất định,
tuy chưa đáp ứng được với nhu cầu và đòi hỏi thực tế.Một số công trình
tượng đài có chất lượng đã được xây dựng như tượng đài tượng đài Bác Hồ
với Tuyên Quang, tượng đài Quang Trung ở Thừa Thiên-Huế; tượng đài
Bác Hồ- Bác Tôn ở Hà Nội;…Đó là những công trình tượng đài có nội
dung tư tưởng sâu sắc và giá trị thẩm mỹ tốt, góp phần tích cực vào việc
giáo dục truyền thống, lịch sử, tạo cảnh quan môi trường văn hóa nghệ
thuật, phục vụ đời sống văn hóa, tinh thần của nhân dân.
Hiện nay có khá nhiều các tài liệu nghiên cứu về tượng đài chất liệu
đá. Từ năm 2000 đến năm 2015, các nghiên cứu về nghệ thuật điêu khắc
chất liệu đá ở Việt Nam như nghiên cứu khoa học, luận văn, đồ án…đã đề
cập đến nhiều cách thức tạo hình, chỉ ra được các ưu điểm của chất liệu này
khi thi công những công trình tượng đài. Tuy nhiên, vẫn còn có một số vấn
đề mà các tài liệu trên ít đề cập đến như bố cục, hình khối, chất cảm…
trong điêu khắc tượng đài chất liệu đá ở Việt Nam. Vì vậy, tôi chọn đề tài
của luận văn là: “Nghệ thuật điêu khắc tượng đài chất liệu đá ở Việt Nam
giai đoạn 2000 đến 2015” để làm rõ các đặc trưng nghệ thuật và các giá trị
khác của nghệ thuật này.
3
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Hiện nay, các tài liệu nghiên cứu liên quan đến nghệ thuật điêu khắc
không ít trên các trang thông tin của các trường nghệ thuật, các bài viết trên
trang thông tin của Viện nghiên cứu... như:
Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch (2010), Tượng đài và tranh hoành
tráng Việt Nam. Đây là một tập sách được biên tập công phu, hiện diện
nhiều tượng đài chất liệu đá, vinh danh những danh nhân văn hóa, anh
hùng dân tộc, bà mẹ Việt Nam anh hùng… Tập sách phản ánh khá đầy đủ
những thành công của tượng đài chất liệu đá, về cách thức thể hiện và
không gian biểu đạt. Những tác phẩm ấy đều được đặt tại những địa danh
đã đi vào lịch sử và có giá trị tự thân.
Tài liệu “Nghệ thuật hoành tráng” của các tác giả: Triệu Trúc Đan,
Nguyễn Quân, Phạm Công Thành, Nguyễn Trân, năm 1981, Nxb Văn Hóa.
Tài liệu là tập hợp các bài nghiên cứu, dịch thuật về “ Nghệ thuật hoành
tráng” nói chung. Tài liệu đó đã làm rõ khái niệm thuật ngữ “hoành tráng”
cùng các biểu hiện của nghệ thuật hoành tráng trong kiến trúc mỹ thuật.
Ngoài ra còn một số tài liệu khác đề cập khá nhiều tới điêu khắc hoành
tráng như : “Hợp thể kiến trúc – nghệ thuật tạo hình xưa và nay” của Triệu
Trúc Đan và bài viết: “Đặc trưng thẩm mỹ và chức năng xã hội của nghệ
thuật hoành tráng” của Nguyễn Quân.
Năm 2002, Kỷ yếu hội thảo khoa học Thẩm mỹ môi trường, trường
Đại học Mỹ thuật Hà Nội – Viện Mỹ thuật, Nxb Mỹ Thuật. Tài liệu đã tổng
hợp các tham luận xoay quanh vấn đề “Thẩm mĩ môi trường” xác định các
cơ sở lý luận, quan niệm về thẩm mỹ môi trường. Trong đó, có nhiều bài
viết đề cập đến không gian thẩm mỹ tượng đài, không gian thẩm mỹ trong
điêu khắc môi trường, quy hoạch tượng đài nhìn từ quy hoạch đô thị, các
trao đổi xung quanh chủ đề thẩm mỹ môi trường nói chung và tượng đài,
điêu khắc ngoài trời nói riêng. Tiêu biểu là bài viết của Nguyễn Thái Lai
4
(2002), Không gian thẩm mĩ tượng đài, đã đề cập một cách trực tiếp tới
những vấn đề này.
Kỷ yếu hội thảo khoa học Điêu khắc ngoài trời Việt Nam hiện đại
(2006), trường Đại Học Mỹ Thuật Hà Nội – Viện Mỹ thuật, Nxb Mỹ thuật.
Tài liệu tổng hợp các tham luận tại hội thảo về thực trạng và giải pháp khắc
phục tình trạng xây dựng tượng đài tràn lan ở Việt Nam. Ngoài ra, còn có
một số các bài nghiên cứu, phân tích hiện trạng các trại sáng tác điêu khắc
ngoài trời. Với mục tiêu chung của hội thảo là các bài tham luận hướng đến
việc xây dựng các giá trị điêu khắc ngoài trời ở Việt Nam hiện đại, đậm đà
bản sắc dân tộc và có tính giáo dục về thẩm mỹ, lịch sử, văn hóa. Bài viết
của Trang Thanh Hiền, tượng đài Hà Nội – Cái nhìn lại ; Trịnh Cung,
Tượng đài và không gian mỹ thuật thành phố Hồ Chí Minh ; Phạm Bình
Chương, Những quan niệm sai lầm về tượng đài ở Việt Nam ; Nguyễn
Trương Quý, Tượng đài đứng ở đầu đường ;… … và nhiều bài viết khác
đã chỉ ra được những tồn tại và hạn chế của nghệ thuật tượng đài ở Việt
Nam.
Cục Mỹ thuật, Nhiếp ảnh và Triển lãm xuất bản năm 2010, Tượng
đài và tranh hoành tráng Việt Nam. Tài liệu đã thống kê tác phẩm và số
lượng tượng đài khá lớn trên khắp cả nước.
Nguyễn Xuân Tiên (2007), Quá trình phát triển điêu khắc hoành
tráng Việt Nam thế kỷ XX. Đây là công trình nghiên cứu chuyên sâu nhất về
điêu khắc tượng đài Việt Nam, là luận án tiến sĩ nghệ thuật chuyên ngành
Lý luận và lịch sử Mỹ thuật, Viện Văn Hóa – Thông tin. Luận án gồm 4
chương, trong đó, chương 1 trình bày tổng quan về nghệ thuật điêu khắc
hoành tráng, khái quát về lịch sử của loại hình từ Phương Tây tới Phương
Đông. Chương 2 tập trung khái quát lịch sử hình thành và phát triển của
điêu khắc hoành tráng Việt Nam từ năm 1900 đến 1986. Chương 2 được
trình bày có hệ thống, chi tiết về các mốc xuất hiện các công trình điêu
5
khắc hoành tráng đầu tiên ở Việt Nam. Chương 3 nói về sự phát triển của
nghệ thuật điêu khắc hoành tráng từ thời kỳ đổi mới cho đến gần đây.
Chương 4 có đề cập đến những vấn đề tồn tại của điêu khắc hoành tráng
Việt Nam, đề ra các giải pháp phát triển, nâng cao chất lượng công trình…
Nhìn chung, đây là một tài liệu có nhiều thông tin và trình bày có hệ thống
theo tuyến lịch đại về điêu khắc hoành tráng Việt Nam.
Hoàng Nam Hạnh (2012), Không gian điêu khắc ngoài trời thông
qua một số trại sáng tác điêu khắc quốc tế, luận văn tốt nghiệp trường Đại
học Mỹ thuật Việt Nam. Luận văn chỉ ra những tác động của không gian
đến tác phẩm điêu khắc. Một tác phẩm điêu khắc thành công không chỉ
biểu đạt được không gian trong tác phẩm mà còn ở không gian đặt tác
phẩm. Vì vậy, không gian điêu khắc ngoài trời tạo cho tác phẩm thêm phần
hoành tráng và rộng mở hơn. Luận văn đã chỉ ra những ưu, nhược điểm về
không gian sáng tác ngoài trời ở một số trại sáng tác điêu khắc quốc tế.
Nguyễn Hữu Cảnh (2005), Chất liệu đá với điêu khắc ngoài trời,
luận văn tốt nghiệp trường Đại Học Mỹ thuật Việt Nam. Luận văn có đề
cập đến chất liệu đá, vai trò và công dụng của chất liệu này trong các công
trình điêu khắc. Ngoài ra, luận văn còn nói đến những khó khăn và hạn chế
; phân tích, đánh giá và chỉ ra những điểm mạnh, điểm yếu của chất liệu đá
khi thể hiện các tác phẩm điêu khắc ngoài trời. Tuy nhiên, luận văn chỉ nêu
các vấn đề trên một cách chung chung, chưa đi sâu phân tích tác phẩm cụ
thể.
Tóm lại, các tài liệu nghiên cứu về tượng đài chất liệu đá giai đoạn
2000 đến 2015 khá nhiều, nhưng hầu như chưa có nghiên cứu nào trình
bày chuyên sâu về vấn đề này. Đó chính là lý do tôi chọn đề tài: “Nghệ
thuật điêu khắc tượng đài chất liệu đá ở Việt Nam giai đoạn 2000 đến
2015” làm đề tài nghiên cứu của mình.
6
3. Mục đích nghiên cứu của luận văn
Nghiên cứu nghệ thuật điêu khắc tượng đài chất liệu đá ở Việt Nam
giai đoạn 2000 đến 2015 qua hình thức biểu đạt trên các yếu tố nội dung,
hình thức, bố cục, không gian và chất cảm.
Nghiên cứu nghệ thuật điêu khắc tượng đài chất liệu đá ở Việt Nam
giai đoạn 2000 đến 2015 để thấy rõ được vai trò của nghệ thuật điêu khắc
tượng đài chất liệu đá là một trong những yếu tố tạo nên vẻ đẹp và dấu ấn
cho các công trình tượng đài ở Việt Nam.
Trên cơ sở nghiên cứu thành công và hạn chế của nghệ thuật điêu
khắc tượng đài chất liệu đá ở Việt Nam giai đoạn 2000 đến 2015, đề tài rút
ra bài học kinh nghiệm về sáng tác nghệ thuật điêu khắc tượng đài chất liệu
đá ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
Nêu lên những giá trị nghệ thuật của điêu khắc tượng đài chất liệu đá
ở Việt Nam ; giúp chúng ta hiểu biết một cách khái quát nhưng có hệ
thống về lịch sử vẻ vang của dân tộc ; nêu cao tinh thần chiến đấu chống
giặc ngoại xâm, lao động sản xuất, vinh danh các nhân vật lịch sử, danh
nhân văn hóa… để giáo dục con người hôm nay.
Thông qua các tượng đài chất liệu đá ở Việt Nam giai đoạn 2000 đến
2015, tôi mong muốn rút ra được những bài học kinh nghiệm sáng tác cho
bản thân.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Nghệ thuật điêu khắc tượng đài chất liệu đá
ở Việt Nam giai đoạn 2000 đến 2015. Những nội dung chủ đề và hình thức
nghệ thuật điêu khắc tượng đài chất liệu đá trong giai đoạn này.
- Phạm vi nghiên cứu: Đề tài tập trung nghiên cứu về tượng đài chất
liệu đá ở Việt Nam giai đoạn 2000 đến 2015, trên phạm vi toàn quốc. Bên
cạnh đó đề tài còn có so sánh với các tượng đài chất liệu đá ở Việt Nam
trước năm 2000.
7
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp sưu tầm, thu thập tài liệu, thống kê: tổng hợp các tài
liệu thống kê về các tượng đài hoành tráng được thể thiện bằng chất liệu đá
ở Việt Nam trong giai đoạn 2000 đến 2015.
- Phương pháp so sánh, phân tích, đánh giá : phân tích các giá trị
nghệ thuật cũng như giá trị văn hóa, lịch sử trên các tác phẩm nghệ thuật
điêu khắc hoành tránh. Đồng thời đánh giá khách quan những đóng góp về
mặt tạo hình của nghệ thuật điêu khắc hoành tráng chất liệu đá ở Việt Nam
giai đoạn 2000 đến 2015.
- Phương pháp nghệ thuật học: nhằm phân tích, đánh giá các nghệ
thuật tạo hình. Qua đó làm nổi bật những điểm mạnh, điểm yếu của chất
liệu cũng như tạo hình của tác phẩm điêu khắc hoành tráng. Không những
vậy, điêu khắc ngoài trời còn chỉ ra được các yếu tố nghệ thuật thuật tạo
hình mà điêu khắc sử dụng trong tác phẩm.
- Phương pháp nghiên cứu liên ngành sử học, xã hội học, mỹ thuật
học…
6. Đóng góp của luận văn
- Làm sáng rõ đặc điểm nghệ thuật điêu khắc tượng đài chất liệu đá
Việt Nam giai đoạn 2000 – 2015.
- Hệ thống đặc điểm điêu khắc tượng đài chất liệu đá Việt Nam giai
đoạn 2000 – 2015.
- Vẻ đẹp đặc trưng của điêu khắc tượng đài chất liệu đá Việt Nam
giai đoạn 2000 – 2015 cụ thể trong mỗi công trình.
- Đóng góp ý kiến về những mặt hạn chế của điêu khắc tượng đài
chất liệu đá Việt Nam, tìm ra những hướng đi mới cho nền điêu khắc tượng
đài Việt Nam.
8
- Làm tài liệu tham khảo cho sinh viên các trường nghệ thuật; cung
cấp cho người xem kiến thức và kinh nghiệm để tiếp cận với nghệ thuật
điêu khắc tượng đài chất liệu đá Việt Nam.
7. Kết cấu của luận văn
Luận văn gồm 3 phần (86 trang) bao gồm phần mở đầu (8 trang), nội
dung (41 trang) và kết luận (2 trang). Phần nội dung gồm có các phần sau:
Chương 1: Cơ sở mang tính lí luận để nghiên cứu đề tài (13 trang).
Chương 2: Nghiên cứu nội dung chủ đề và hình thức nghệ thuật của
điêu khắc tượng đài chất liệu đá ở Việt Nam giai đoạn 2000 đến 2015 (21
trang).
Chương 3: Thành công và hạn chế của nghệ thuật điêu khắc tượng
đài chất liệu đá ở Việt Nam giai đoạn 2000 đến 2015 (7 trang).
Ngoài ra, luận văn còn phần tài liệu tham khảo (2 trang) và phụ lục
(33 trang).
9
NỘI DUNG
Chương 1
CƠ SỞ MANG TÍNH LÍ LUẬN ĐỂ NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
1.1. Khái niệm “nghệ thuật điêu khắc tượng đài”
1.1.1. Khái niệm “nghệ thuật điêu khắc”
Nghệ thuật điêu khắc là loại hình nghệ thuật xuất hiện từ rất sớm
trong lịch sử phát triển của loài người. Ngôn ngữ của loại nghệ thuật này là
hình khối, không gian và chất liệu. Để tìm hiểu rõ khái niệm về “nghệ thuật
điêu khắc”, chúng ta đi tìm hiểu lần lượt các khái niệm sau:
- Khái niệm “nghệ thuật”
Trong cuốn “Từ điển Mĩ thuật phổ thông” của tác giả Đặng Thị Bích
Ngân (chủ biên), nghệ thuật được định nghĩa là các phương pháp tiến hành
để làm ra các sản phẩm chứng tỏ tài khéo léo, sự suy nghĩ, trí tưởng tượng,
cảm xúc và sự sáng tạo của con người. Với quan niệm hiện đại, định nghĩa
nghệ thuật thường phản ánh những tiêu chuẩn thẩm mĩ trong văn học – xã
hội… Nghệ thuật phản ánh các tiêu chuẩn đẹp, khéo và sáng tạo. Đặc biệt,
nghệ thuật thường khai thác sự đối lập giữa các yếu tố để sáng tạo. Người
nghệ sĩ tinh tế phát hiện được các yếu tố khác nhau trong nội dung, trong
kỹ thuật, trong quan điểm để sáng tạo nên tác phẩm nghệ thuật. [8; tr.101]
Cuốn “Từ điển Tiếng Việt” của Viện ngôn ngữ học thì nghệ thuật
được định nghĩa như sau: “Nghệ thuật dt.1 Hình thái ý thức xã hội đặc biệt,
dùng hình tượng sinh động, cụ thể và gợi cảm để phản ánh hiện thực và
truyền đạt tư tưởng, tình cảm. Nghệ thuật tạo hình. Xây dựng hình tượng
nghệ thuật trong tác phẩm văn học. 2 Phương pháp, phương thức giàu tính
sáng tạo”. [20; tr.865]
Bên cạnh cuốn “Từ điển Tiếng Việt” của hội Khoa học – Xã hội –
Nhân văn thì nghệ thuật được định nghĩa là: “Nghệ thuật (dt) là công việc
10
là có đường lối, phương pháp, để tỏ ý thức, tình cảm hay lý tưởng của mình
trên ba điểm: Chân, thiện và mĩ. Người ta đã thống nhất ý chí về nghệ thuật
và sắp xếp chúng theo thứ tự: 1. Âm nhạc; 2. Vũ điệu; 3. Hội họa; 4. Điêu
khắc; 5. Kiến trúc; 6. Ca kịch; 7. Điện Ảnh” [5; tr.844]
Như vậy, từ những định nghĩa trên, chúng ta có thể hiểu rằng: “Nghệ
thuật là sự sáng tạo ra những tác phẩm mang giá trị về tư tưởng, thẩm mĩ
và tạo ra cảm xúc, tình cảm, tư tưởng cho người xem”.
- Khái niệm “điêu khắc”
Theo Từ điển Thuật ngữ mĩ thuật phổ thông (2002), điêu khắc là:
“Nghệ thuật thực hiện những tác phẩm có không gian ba chiều(tượng tròn)
hoặc hai chiều (chạm khắc, chạm nổi) bằng cách gọt, đẽo, gò, đắp, gắn…
những khối vật liệu rắn chắc như gỗ, đá, kim loại… Điêu khắc còn là nghệ
thuật nặn tượng hoặc tạc tượng bằng đôi bàn tay khéo léo của người nghệ
sĩ, đồng thời là nghệ thuật đúc tượng thông qua việc đổ khuôn” [8; tr.65].
Từ điển Tiếng Việt (1997) của nhà xuất bản Đà Nẵng định nghĩa điêu khắc
là “loại hình nghệ thuật thể hiện hoặc gợi tả sự vật trong không gian bằng
cách sử dụng các chất liệu như đất, đá, gỗ, kim loại… tạo thành những hình
nhất định” [12; tr.310].
Trong cuốn Từ điển Tiếng Việt của Viện ngôn ngữ học (2016) thì
điêu khắc được định nghĩa là loại hình nghệ thuật thể hiện hoặc gọi tả sự
vật trong không gian bằng cách sử dụn những chất liệu như đất đá, gỗ, kim
loại,… tạo thành những hình nhất định của nghệ thuật điêu khắc, nhà điêu
khắc. [21 ; tr.404]
Thuật ngữ “điêu khắc” trong tiếng Việt tương đương với thuật ngữ
“sculpture” trong tiếng Anh, được Từ điển Oxford: Learner’s pocket
dictionary định nghĩa là“một tác phẩm nghệ thuật được tạo ra bằng cách
chạm khắc, đẽo gọt gỗ, đá,… thành một khối rắn chắc” [22; tr.395]
11
Với các định nghĩa trên tuy có cách biểu đạt khác nhau nhưng đã
phần nào giúp chúng ta nhận diện được những nét cơ bản về khái niệm
“điêu khắc”. Qua các định nghĩa nêu trên, chúng ta có thể hiểu “điêu khắc”
là một loại hình nghệ thuật thị giác, sản phẩm của hoạt động sáng tạo và là
phương tiện biểu đạt của con người. Đặc điểm của điêu khắc là nghệ thuật
xử lý các hình khối và chất liệu trong không gian ba chiều từ các chất liệu
rắn như gỗ, đá, kim loại… thông qua các quá trình đẽo, gọt, chạm khắc,
đục, đúc, tạc… Về mặt hình thức thể hiện thì điêu khắc được chia thành hai
loại: các tác phẩm không gian ba chiều (tượng tròn) và các tác phẩm trong
không gian hai chiều, hai chiều rưỡi (phù điêu)
Tượng tròn, theo định nghĩa của Từ điển Tiếng Việt (1997) của nhà
xuất bản Đà Nẵng, là “hình khối nổi trong không gian tạo nên bằng một
chất liệu rắn để mô tả người hay vật” [12;tr.1046]. Tượng tròn là tác phẩm
nghệ thuật tồn tại trong không gian ba chiều. Nói cách khác, tượng tròn là
một vật thể tồn tại trong không gian, chiếm một khối tích nhất định được
xác định bởi chiều cao, chiều rộng và chiều sâu. Đối với tượng tròn, người
xem không chỉ cảm nhận tác phẩm bằng thị giác mà còn có thể cảm nhận
tác phẩm bằng xúc giác. Bên cạnh đó người xem có thể chiêm ngưỡng một
bức tượng từ nhiều điểm nhìn. Khi điểm nhìn thay đổi thì hình khối của tác
phẩm cũng thay đổi, từ đó cảm xúc mà ta cảm nhận được từ tác phẩm cũng
có sự khác biệt.
Tượng tròn là loại hình nghệ thuật chính của điêu khắc, được thể
hiện bằng các hình khối có thể tích trọn vẹn nằm trong không gian cụ thể,
bao gồm: con người, động vật, cây cối, các khối tượng trưng,… Tượng tròn
có thể nhìn thấy được từ nhiều hướng khác nhau : trước, sau, phải, trái,
trên, dưới,… Người xem có thể di chuyển xung quanh thậm chí vào được
bên trong bức tượng để quan sát và cảm thụ cái đẹp của tác phẩm. Bên
cạnh đó, tượng tròn có thể được đặt trong không gian nội thất hay ngoại
12
thất, thậm chí có thể là một phức hợp quần thể kiến trúc – điêu khắc. Các
chất liệu được dùng để làm tượng tròn như : đá, gỗ, thạch cao, đồng, thép
không rỉ, đất nung, tổng hợp,… Tùy theo nội dung và mối quan hệ với
không gian, tượng tròn được chia ra làm các thể loại khác nhau như tượng
có kích thước nhỏ, tượng trang trí, tượng triển lãm, tượng đài với các hình
thức thể hiện là tượng chân dung, bán thân, cụm tượng, bố cục nhóm theo
phong cách hiện thực, trừu tượng, lập thể,…
Phù điêu được định nghĩa trong Từ điển Tiếng Việt (1997) của nhà
xuất bản Đà Nẵng là “hình thức điêu khắc trình bày những hình đắp cao
hay chạm nổi trên nền phẳng” [12; tr.760].
Từ điển Thuật ngữ mỹ thuật phổ thông giải thích khái niệm “phù
điêu” như sau: “Trong ngành điêu khắc, từ phù điêu được dùng để chỉ
những hình khối, đường nét đắp lên trên một mặt phẳng sẵn có” [7; tr.120].
Khác với tượng tròn, phù điêu tồn tại trong không gian hai chiều. Phù điêu
gắn liền với mặt phẳng và mặt phẳng trở thành nền tảng để phát triển một
tác phẩm phù điêu. Không gian trong phù điêu được thể hiện thông qua mật
độ dày mỏng, sự lồi lõm của hình khối. Tuy không thể quan sát một tác
phẩm phù điêu từ mọi góc nhìn nhưng người xem vẫn có thể sử dụng xúc
giác để cảm nhận. Phù điêu là loại hình dùng hình khối diễn tả trên mặt
phẳng mà người xem thấy khối nổi như tượng tròn. Tuy chỉ nhìn thấy mặt
chính diện nhưng một tác phẩm phù điêu vẫn như nhìn thấy cả phía đang bị
che khuất. Đó chính là nhờ ánh sáng tác động đến độ lồi, lõm, cao, thấp của
khối tạo ra hiệu quả đậm nhạt… Trong phù điêu, nét đẹp có được nhờ trang
trí. Các đường khái quát cho các hình cụ thể như hình lượn sóng, các
đường cong uyển chuyển và những đường thẳng mạnh mẽ, nhất là sự kết
hợp với các điểm đậm của độ sâu, các điểm sáng của khối nổi đã tạo nên
tác phẩm. Phù điêu được phân ra làm ba loại : loại mỏng, loại cao, loại
thủng. Phù điêu có ba loại : loại mỏng (phù điêu thấp), loại cao, loại thủng.
13
- Điêu khắc trang trí
Trong cuốn Từ điển Tiếng việt của Viện ngôn ngữ học năm 2016,
trang trí được định nghĩa là trang trí đg. Bố trí các vật thể có hình khối và
đường nét, màu sắc khác nhau sao cho tạo ra một sự hài hòa, làm đẹp mắt
một khoảng không gian nào đó.[21; tr.1296]
Cuốn Từ điển Mĩ thuật Phổ thông của tác giả Đặng Thị Bích Ngân
(2012) thì trang trí (A. Decoration ; P. Décoration) được định nghĩa là nghệ
thuật làm đẹp, phục vụ cho đời sống vật chất và tinh thần của con người.
Nhờ những yếu tố trang trí các vật dụng vừa có giá trị thẩm mĩ vừa nâng
cao được giá trị sử dụng.Vì vậy, trang trí nằm trong nghệ thuật ứng dụng
(art appliqués)… [8; tr. 132]
Qua những định nghĩa, nội dung và ý nghĩa nêu trên kết hợp với ý
nghĩa của hai thuật ngữ “điêu khắc” và “trang trí”, chúng ta nhận thấy điêu
khắc trang trí được hiểu là những tác phẩm được gọt, đục, chạm, khắc dùng
để làm đẹp và là một thành tố không độc lập, cần cho không gian và kiến
trúc liên quan.
Như vậy, khái niệm Nghệ thuật điêu khắc có thể được hiểu là:
“Nghệ thuật điêu khắc”là sự sáng tạo ra những tác phẩm có hình
khối ba chiều hoặc hai chiều bằng cách gọt, đục, đẽo, chạm… mang giá trị
về tư tưởng, thẩm mĩ. Thông qua các tác phẩm thẩm mĩ đó tạo ra sự rung
động, cảm xúc và tư tưởng cho người thưởng thức.
- Nghệ thuật điêu khắc đá
“Điêu khắc đá” tiếng anh là Stone Sculpture là tạo hình, tạo khối ba
chiều bằng kĩ thuật đục, đẽo, mãi, khoan, khắc lên đá. Đây là thể loại thô
sơ, đồ trang sức cho đến việc xây dựng các ngôi nhà được trang trí bằng
bùn đất, rơm hoặc đá và nghề điêu khắc đá ra đời.
Rất nhiều các công trình kiến trúc ấn tượng và trường tồn với kĩ
thuật điêu khắc hoành tráng như Kim Tự Tháp Ai Cập, Đến thờ của thời
14
Hy Lạp – La Mã, những đền thờ nguy nga của người Ấn Độ. Tất cả các
công trình đó phần lớn đều được xây dựng bằng vật liệu chính là đá. Do đá
có tính năng bền vững nên những tác phẩm điêu khắc bằng đá rất đa dạng,
phong phú về cách biểu đạt và kích thước. Điêu khắc đá là thể loại khá phổ
biến trong môi trường sáng tạo nghệ thuật. Nó phù hợp với cả không gian
trong nhà và ngoài trời nên chất liệu đá được chọn dùng cho những tượng
đài,… Đá là một thể rắn được tổ hợp có quy luật của các loại khoáng vật.
Thợ điêu khắc đá sử dụng rất nhiều loại đá khác nhau như đá macma, đá
biến chất, đá trầm tích hay đá nhân tạo.
Thợ điêu khắc đá thường dùng nhiều công cụ khác nhau để tạo tác
các khối đá thô thành các tác phẩm khác nhau. Các công cụ cơ bản là búa
và đục cùng với thước đo. Với các công cụ cơ bản này có thể tạo ra các
khối đá vuông nền của tác phẩm. Tùy thuộc vào nhu cầu của công việc
chúng tham gia mà đục có rất nhiều kích cỡ và hình dạng khác nhau. Đục
được làm bằng nhiều vật liệu khác nhau dành cho việc thao tác trên các loại
đá khác nhau. Một tác phẩm hoàn hảo phụ thuộc rất nhiều vào việc lựa
chọn vật liệu và công cụ thích hợp để tạo thành. Các mảnh đá vụn nhỏ có
thể được dùng như vật đo độ phẳng của viên đá khi xếp lên nhau từ đó xác
định chỗ nào lồi hay lõm để gia công lại. Nếu hai mắt đá đủ nhẵn thì ngay
mũi dao cũng không thể lọt vào khe hở của hai viên đá mà không cần vữa
như các bức tường của các ngôi nhà của người Inca. Các mảnh vụn đá cũng
có thể được dùng làm vữa để trám vào các phần hụt của tác phẩm. Để trám
vào các chỗ hở tạo ra một bề mặt trơn láng hơn.
Ngày nay với công nghệ hiện đại, các công cụ tự động sử dụng năng
lượng như đục, mài, khoan,… giúp tiết kiệm rất nhiều thời gian và công
sức. Nhưng các bộ phận chính của chúng vẫn trông giống các công cụ xưa
cách đây hàng ngàn năm.
15
1.1.2. Khái niệm “tượng đài”
Theo quy chế quản lý xây dựng tượng đài (Phần Mỹ thuật) có nêu
khái niệm “tượng đài” như sau: tượng đài là công trình văn hóa nghệ thuật
biểu hiện nội dung tư tưởng và tinh thần thời đại, mang hình thái xã hội
đương thời, được thể hiện bằng nhiều chất liệu bền vững. Tượng đài là bộ
phận cấu thành của không gian kiến trúc đô thị và cảnh quan thiên nhiên,
có quy mô và hình thức nghệ thuật hoành tráng, tác động đến nhận thức của
xã hội. [21]
Trang từ điển điện tử định nghĩa: tượng đài là một công trình kiến
trúc lớn gồm một hoặc nhiều bức tượng, đặt ở địa điểm thích hợp, dùng
làm biểu trưng cho một dân tộc, một địa phương, đánh dấu một sự kiện lịch
sử hay tưởng niệm người có công lao lớn.[22]
Trong bài viết của báo quân đội nhân dân có viết: Tượng đài – tâm
thế thời đại đối với nền mỹ thuật nói chung và chuyên ngành điêu khắc nói
rieng, tượng dài phản ánh sự phát triển về bề nổi [20]. Tượng đài có tính
chất trường tồn, biểu tượng và đại diện cho cả nền mỹ thuật nên các tượng
đài thường mang tính khái quát, ngôn ngữ biểu đạt cao, tạo nên ấn tượng về
sự hùng vĩ, cao cả. Tượng đài đôi khi còn là hình ảnh đại diện của một
vùng lãnh thổ, một quốc gia, một giai đoạn lịch sử. Chẳng hạn như, trong
thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước, tráng khí chính là tâm thế của
thời đại. Chúng ta đã có được nhiều tượng đài phản ánh tâm thế đó. Một
trong số đó có thể kể đến như tượng đài “Lý Tự Trọng”, tượng đài “Cảm tử
cho Tổ quốc quyết sinh”, “Bác Hồ đọc sách”, “Chiến thắng Ngọc Hồi”…
Những tác phẩm, tượng đài này đã trở thành biểu tượng của Thủ đô.
Cùng với sự phát triển của đất nước, văn hóa tượng đài bắt nguồn từ
Thủ đô đã lan rộng ra khắp nước đến các tỉnh thành phố khác như Thái
Bình, Nam Định, Ninh Bình, Điện Biên Phủ, Quảng Bình, Hải Phòng, Hải
16
Dương… Nhiều tượng đài đã trở thành biểu tượng và niềm tự hào của
người dân trong thời chiến cũng như thời bình.
Như vậy, tượng đài là những công trình điêu khắc ngoài trời mang
đến cho người xem cảm xúc thẩm mĩ mạnh. Tượng đài là một công trình
kiến trúc lớn, gồm một hay nhóm tượng được đặt ở một vị trí thích hợp. Nó
biểu hiện nội dung tư tưởng và tinh thần thời đại, mang hình thái xã hội
đương thời, biểu trưng cho một thời của dân tộc, một thời đại lịch sử hay
một sự kiện lịch sử và được thể hiện bằng nhiều chất liệu bền vững như
đồng, đá, bê tông… Bên cạnh đó, tượng đài cũng là một bộ phận cấu thành
không gian kiến trúc đô thị, có quy mô và nghệ thuật hoành tráng, có ảnh
hưởng đến nhận thức xã hội.
1.1.3. Khái niệm “nghệ thuật điêu khắc tượng đài”
Từ các khái niệm nêu trên về “Nghệ thuật”, “Điêu khắc” và “Tượng
đài” chúng ta có thể hiểu được phần nào về nghệ thuật điêu khắc tượng đài.
Tổng hợp lại các khái niệm trên, nhận định về khái niệm “Nghệ thuật điêu
khắc tượng đài” như sau:
Nghệ thuật điêu khắc tượng đài là các công trình văn hóa nghệ
thuật, các công trình điêu khắc ngoài trời. Đó là sự sáng tạo ra những tác
phẩm có hình khối ba chiều hoặc hai chiều bằng cách gọt, đục, đẽo,
chạm… mang giá trị về tư tưởng, thẩm mĩ. Thông qua các tác phẩm thẩm
mĩ đó tạo ra sự rung động, cảm xúc và tư tưởng cho người thưởng thức.
Nghệ thuật này tạo ra các tác phẩm mang tính lịch sử, mang tính biểu
trưng cho một giai đoạn lịch sử của dân tộc. Bên cạnh đó, nó còn mang
tinh thần thời đại, hình thái của một xã hội đương thời. Không những vậy,
nghệ thuật điêu khắc tượng đài tạo ra những tác phẩm mang tính chất
trang trí và là không gian cảnh quan của kiến trúc đô thị.
17
1.2. Khái lược điêu khắc tượng đài Việt Nam
1.2.1. Khái quát về điêu khắc tượng đài Việt Nam
Tượng đài là công trình nghệ thuật điêu khắc được đặt ở ngoài trời,
những nơi công cộng, có tính bền vững, tác động đến cảnh quan môi
trường, tình cảm và nhận thức thẩm mĩ của nhân dân.
Tượng đài có nhiều nội dung như ghi lại những sự kiện lịch sử,
những chiến công, tưởng niệm các danh nhân, liệt sĩ,… Ngoài nội dung
này, tượng đài còn có ý nghĩa là để làm đẹo cảnh quan môi trường. Đất
nước ta có bề dày lịch sử dựng nước và giữ nước, nhiều sự kiện chính trị,
văn hóa, xã hội, nhiều chiến thắng vĩ đại nên việc xây dựng các tượng đài
để ghi lại công ơn, công lao bằng nghệ thuật điêu khắc là điều tất yếu. Đó
cũng là nhu cầu của một xã hội phát triển. Việc đô thị hóa cũng như nhu
cầu làm đẹp không gian kiến trúc đô thị bằng những tượng đài là nhu cầu tự
thân của một xã hội phát triển. Một số công trình tượng đài có chất lượng
đã được xây dựng như tượng đài Bác Hồ với Tây Nguyên ở Gia lai; tượng
đài Bác Hồ với Tuyên Quang; tượng đài Quang Trung ở Huế; tượng đài
Bác Hồ - Bác Tôn ở Hà Nội; tượng đài Lê Duẩn ở Quảng Trị…Đó là
những công trình tượng đài có nôi dung, tư tưởng sâu sắc và giá trị thẩm mĩ
cao góp phần tích cực vào việc giáo dục truyền thống, lịch sử, văn hóa.
Đồng thời, nó cũng tạo cảnh quan môi trường văn hóa nghệ thuật phục vụ
đời sống văn hóa, tinh thần của nhân dân.
Những vấn đề quy hoạch, xây dựng tượng đài trong 15 năm gần đây
đã được rất nhiều các đơn vị cơ quan quan tâm. Việc xây dựng quy hoạch
tượng đài ở Trung ương và địa phương là công việc cần được Ủy ban nhân
dân các tỉnh, thành phố, Sở văn hóa,…cùng triển khai xây dựng. Tuy nhiên,
việc quy hoạch các quỹ đất dành cho tượng đài không phải việc làm một
sớm một chiều, cho nên, có rất ít các tỉnh, thành phố triển khai công tác
này. Thậm chí giải tỏa lấy đất nhưng việc đặt tượng đài lại không đúng vị
18
trí, không phù hợp với cảnh quan môi trường, không phát huy tác dụng và
hiệu quả xã hội kém.
Bên cạnh việc quy hoạch, xây dựng tượng đài thì công tác quản lý
tượng đài cũng vô cùng quan trọng và cần thiết. Bộ Văn hóa, thể thao và du
lịch đã xây dựng xong Nghị định Chính phủ về hoạt động Mỹ thuật trong
đó có các chương về quản lý, xây dựng, bảo quản, tu bổ tượng đài đáp ứng
nhu cầu của công tác quản lý va hoạt động xây dựng tượng đài.
Hiện nay, trên cả nước có hơn 300 công trình tượng đài kể cả công
trình tượng đài được xây dựng trước 1975 ở Miền Nam. Một thực tế hiện
nay là ở nhiều nơi khi xây dựng tượng đài thường làm với quy mô khá lớn
chưa phù hợp với quy hoạch tổng thể, cảnh quan môi trường, không gian
kiến trúc, nội dung của công trình, năng lực của nghệ sĩ và điều kiện kinh tế
- xã hội của địa phương. Điều này cần có sự thống nhất về quan điểm, chủ
trương đến công tác quản lý điều hành.
Một công trình nghệ thuật cũng có nhiều vấn đề, đối với mỗi tác
phẩm mỹ thuật một trong những yếu tố làm nên giá trị của tác phẩm là yếu
tố độc bản không lặp lại. Về hình thức phong cách nghệ thuật, tượng đài
hiện nay mới chỉ được sáng tác với một hình thức nghệ thuật duy nhất được
sử dụng đó là phong cách hiện thực, các hình thức nghệ thuật khác của điêu
khắc chưa được chấp nhận, ủng hộ triển khai vì thế gây nên cảm giác đơn
điệu, nhàm chán về hình thức nghệ thuật. Trong nhiều năm qua, việc xây
dựng tượng đài thường quan tâm đến các nội dung về lãnh tụ, danh nhân,
tượng đài chiến thắng, tượng đài tưởng niệm, rất ít gần như thiếu hụt mảng
tượng đài văn hóa nghệ thuật, phục vụ nhu cầu thường thức nghệ thuật của
nhân dân và làm đẹp cảnh quan môi trường kiến trúc.
Nói chung lại, nghệ thuật điêu khắc tượng đài ở Việt Nam hiện này
còn nhiều điều bất cập. Cần chú ý hơn đến mối quan hệ giữa tượng đài và
19
cảnh quan môi trường, đến các kích thước của tượng đài, công tác quản lý,
quy mô công trình.
1.2.2. Đặc trưng chất liệu đá trong nghệ thuật điêu khắc tượng đài ở Việt
Nam giai đoạn 2000 – 2015
Trong nghệ thuật tạo hình, chất liệu luôn đóng một vai trò quan trọng
khẳng định giá trị của tác phẩm. Giá trị đó được thể hiện rõ hơn trong nghệ
thuật điêu khắc. Bên cạnh việc xây dựng nội dung hình tượng cho tác
phẩm, nghệ thuật điêu khắc còn đòi hỏi sự gia công chất liệu nặng nhọc và
sự trợ giúp của phương tiện kĩ thuật tốn kém về công sức và tiền của.
Chất liệu đá thường đồng nghĩa với sự vĩnh cửu, dù bề mặt gồ ghề
hay trơn nhẵn thì chất liệu này vẫn cho chúng ta cảm giác lạnh và xa xôi
nhưng tượng đá lại thể hiện sự bề thế, vững chãi và trang nghiêm.
Chất liệu đá là chất liệu được sử dụng nhiều nhất trong các công
trình điêu khắc tượng đài. Do đặc thù các tượng đài đều được trưng bày
ngoài trời với chi phí không quá cao, phù hợp cho việc xử lý các hình khối
lớn. Các công trình điêu khắc tượng đài chủ yếu tôn vinh và tưởng niệm
các vị lãnh tụ, các anh hùng, liệt sĩ. Do đó, đá là chất liệu phù hợp để diễn
tả sự oai nghiêm, hùng dũng cho tác phẩm. Bề mặt đá thô ráp giúp cho ánh
sáng khi chiếu trên bề mặt không bị trượt đi, tăng sự tương phản đậm nhạt.
tạo nên những đường nét cứng cáp, rắn rỏi. Nếu bề mặt đá được mài nhắn
sẽ tạo cảm giác mềm mại. Đồng thời với những phương pháp tạo hình phù
hợp, đá cũng có thể tạo nên những hình khối mềm mại với những chi tiết
trang trí cầu kỳ. Ta có thế thấy chất liệu đá trong tác phẩm tượng đài như:
Quyết tử để Tổ quốc quyết sinh, tượng đài Nguyễn Văn Trỗi, tượng đài
Phụ nữ Ba Đảm Đang, tượng đài Bất khuất, tượng đài Vì an ninh Tổ
Quốc,…
Tóm lại, chất liệu đá là chất liệu được sử dụng nhiều trong các tác
phẩm điêu khắc tượng đài tạo nên cảm giác oai nghiêm, hùng dũng. Bên
20
cạnh đó, đá cũng là chất liệu bền vững phù hợp cho các công trình ngoài
trời giữa cái thời tiết, khí hậu nóng ẩm mưa nhiều của Việt Nam. Hơn thế
nữa, điêu khắc tượng đài bằng chất liệu đá tạo cho người xem một cảm giác
trường tồn, vĩnh cửu cùng năm tháng càng làm tăng thêm sự linh thiêng
cho các tác phẩm nghệ thuật điêu khắc tượng đài.
Tiểu kết chương 1
Qua chương một, chúng ta đã hiểu thêm về các khái niệm “Nghệ
thuật”, “Điêu khắc”, “Nghệ thuật điêu khắc” và “Nghệ thuật điêu khắc
tượng đài” và một số khái niệm liên quan. Bên cạnh đó, chúng ta cũng làm
rõ những đặc trưng của chất liệu đá trong các tác phẩm điêu khắc tượng đài
ở Việt Nam giai đoạn 2000 – 2015.
Nghệ thuật điêu khắc tượng đài là một hoạt động nghệ thuật liên
quan đến các công trình văn hóa nghệ thuật. Đó là sự sáng tạo của con
người nhằm tôn vinh các vị lãnh tụ, anh hùng, những người có
công,…Thông qua các hình tượng đó thể hiện những suy nghĩ, tư tưởng và
thái độ xã hội. Bên cạnh đó, nghệ thuật điêu khắc tượng đài còn tô điểm
thêm cho các công trình kiến trúc, không gian kiến trúc quanh nó và tạo
nên một môi trường văn hóa nghệ thuật cho quần chúng nhân dân. Không
những vậy, các tượng đài thường được đặt ở những nơi đông đảo quần
chúng nhân dân sinh hoạt như một cách giáo dục gián tiếp về truyền thống
dân tộc uống nước nhớ nguồn.
Bên cạnh vị trí đặt các tượng đài thì chất liệu tạo nên tác phẩm cũng
vô cùng quan trọng. Đá là chất liệu bền vững tạo sự vững chãi, trang
nghiêm nên các tác phẩm tượng đài của ta luôn có phong thái uy nghi,
trang nghiêm và linh thiêng. Với những đặc tính của đá, dù được chế tác
bằng loại đá nào thì các tác phẩm tượng đài của nước ta nói lên phần nào
lịch sử nhân loại, giai đoạn hào hùng, bi tráng của dân tộc thông qua các
phương pháp tạo hình phù hợp.
21
Tóm lại, nghệ thuật điêu khắc tượng đài đã và đang là một trong
những vấn đề cần được quan tâm của xã hội. Bởi thông qua các tác phẩm
điêu khắc tượng đài như một cách giáo dục gián tiếp đến các thế hệ sau về
truyền thống tốt đẹp của cha ông.Không những vậy, nó còn tạo nên một
không gian văn hóa nghệ thuật cho quần chúng nhân dân. Mặt khác, nó là
một sự tri ân tới những người có công đối với quê hương đất nước.
22
Chương 2
NGHIÊN CỨU NỘI DUNG VÀ HÌNH THỨC NGHỆ THUẬT
CỦA ĐIÊU KHẮC TƯỢNG ĐÀI CHẤT LIỆU ĐÁ Ở VIỆT NAM
GIAI ĐOẠN 2000 – 2015
2.1. Nội dung các công trình tiêu biểu của điêu khắc tượng đài chất liệu
đá ở Việt Nam giai đoạn 2000 – 2015
2.1.1. Nội dung phản ánh chiến tranh cách mạng
Chiến tranh cách mạng là một trong những chủ đề thường thấy trong
các sáng tác điêu khắc tượng đài. Cuộc chiến bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ của
đất nước Việt Nam là một trong những trang lịch sử hào hùng của nhân
loại. Cùng với sự phát triển của nghệ thuật điêu khắc, Việt Nam đã và đang
xây dựng những công trình tượng đài đáp ứng những công trình nghệ thuật
mang nội dung chủ đề phản ánh cuộc chiến tranh cách mạng của dân tộc và
nhiều chủ đề khác nhằm cổ vũ tới đông đảo quần chúng.
Trước đó, trong thời kì chiến tranh, dù bị bom đạn Mĩ bắn phá nhưng
tượng đài vẫn được xây dựng, đáp ứng nhanh ý nghĩa cổ vũ ngay trong thời
chiến. Khi đất nước thống nhất, nghệ thuật điêu khắc bước vào giai đoạn
mới, tượng đài được xây dựng ở nhiều địa phương. Sự kết hợp giữa điêu
khắc và kiến trúc xây dựng các công trình một phần nhằm ca ngợi, một
phần phản ánh cuộc kháng chiến của dân tộc. Điều đó được thể hiện rõ
nhất ở các khu nghĩa trang liệt sĩ. Chẳng hạn như: nghĩa trang liệt sĩ
Trường Sơn xây dựng tại Vĩnh Trường, huyện Gio Linh, tỉnh Quảng Trị.
Các tác phẩm điêu khắc ở nghĩa trang liệt sĩ Trường Sơn gồm tượng đài,
phù điêu, tượng tròn của các nhà điêu khắc.
Sự có mặt của nghệ thuật điêu khắc tượng đài tại các khu tưởng
niệm, nghĩa trang hay bảo tàng truyền thống có vai trò quan trọng và rất ý
nghĩa. Đề tài thường gặp trong các công trình điêu khắc tôn vinh là những
23
người anh hùng có công xây dựng và bảo vệ đất nước. Hình ảnh thể hiện có
thể là một nhân vật lịch sử cụ thể, cũng có thể là một nhóm người đại diện
cho một tầng lớp hay một ngành nghề trong xã hội như chiến sĩ, công nhân,
nông dân… Các tác phẩm do đó phải khắc họa được tinh thần hiên ngang,
ý chí chiến đấu, sự dũng cảm, kiên cường của nhân vật qua bố cục và hình
khối.
Tác phẩm điêu khắc tượng đài Bất khuất (H1.1) là một trong nhiều
tượng đài ở Việt Nam phản ánh cuộc chiến tranh cách mạng giải phóng đất
nước. Tượng đài được làm bằng chất liệu đá, đặt tại nghĩa trang liệt sĩ
thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau. Tượng khánh thành vào ngày 27/07/2007
nhân dịp kỉ niệm 60 năm ngày Thương binh liệt sĩ, tưởng niệm 74 liệt sĩ đã
hy sinh năm Mậu Thân (1968) và được an táng tập thể tại nghĩa trang của
tỉnh Cà Mau. Toàn bộ tượng đài là khối đá Granit nặng trên 40 tấn, đặt phía
sau phần mộ tập thể, mặt trên của phần mộ là nền cờ Tổ quốc, phía trước là
nơi dâng hoa, tưởng niệm. Phần mộ được xây dựng bằng đá đen kim sa và
đá rubi đỏ. Tượng đài thể hiện hình ảnh ba người chiến sĩ anh dũng, bất
khuất hy sinh vì độc lập tự do của dân tộc. Hình ảnh các anh đều được nhà
điêu khắc Trần Thanh Phong khắc họa một cách hiện thực, rõ nét, bố cục
chặt chẽ từ tư thế đứng cho đến tư thế các anh ngã xuống. Các anh hy sinh
trong tư thế và niềm tin của người chiến thắng. Điều này được thể hiện rõ
nhất trên khuôn mặt của nhân vật trong tác phẩm. Các nhân vật đều có kết
nối với nhau như tinh thần tương thân tương ái của dân tộc. Tất cả những
hình ảnh đó tuy bi tráng nhưng đầy khí phách hào hùng, anh dũng. Công
trình điêu khắc tượng đài Bất Khuất phản ánh nội dung của cuộc chiến
tranh khốc liệt của dân tộc, tưởng niệm các chiến sĩ, đồng bào đã hy sinh
trong chiến dịch Mậu Thân. Không chỉ mang ý nghĩa tưởng niệm các anh
hùng liệt sĩ mà qua đó công trình cũng có ý nghĩa to lớn là giáo dục truyền
24
thống, động viên các thế hệ tiếp bước sự hy sinh của các anh hùng liệt sĩ để
cuộc kháng chiến đi đến ngày thắng lợi.
Tượng đài Bất khuất những người tử tù Chín hầm (H1.7) được làm
bằng chất liệu đá, khánh thành năm 2001 do nhà điêu khắc Lê Đình Quỳ
lên ý tưởng và sáng tác. Phù điêu do nhà điêu khắc Trần Lê Quang thực
hiện. Tác phẩm được đặt tại khu di tích Chín hầm, thôn Ngũ Tây, xã Thủy
An, thành phố Huế. Khu di tích Chín Hầm là khu vực kho vũ khí chiến
tranh được thực dân Pháp xây dựng năm 1941. Đến năm 1944, Nhật hất
cẳng Pháp lấy hết vũ khí, khu hầm đã bỏ trống. Khi Pháp quay lại đánh
chiếm Việt Nam, chúng đã cải tạo lại khu hầm này thành nơi giam giữ
những người hoạt động cách mạng, học sinh, sinh viên và phật tử yêu nước.
Nơi đây được mệnh danh là “địa ngục trần gian” - nhà giam Chín hầm do
Ngô Đình Cẩn cải tạo từ một nơi vũ khí đạn dược do người Pháp để lại.
Tượng đài Bất khuất khắc lại hình ảnh ba đồng chí còn sống sót ở hầm số
8, căn hầm quái quỷ và khốn khổ nhất. Bên dưới là phù điêu tái hiện lại
cảnh những người chiến sĩ yêu nước đã bị giam cầm và những cực hình tra
tấn dã man. Tác phẩm tái hiện lại một cách hiện thực về hình ảnh ba chiến
sĩ tình báo kiên cường và sống sót trong hầm. Hình ảnh ba chiến sĩ gầy
guộc chỉ còn da bọc xương, mái tóc dài do không được cắt đang dìu nhau
đứng lên. Trang phục hết sức đơn giản đó là bộ quần áo sờn bạc, chiếc
quần đùi sờn rách. Khuôn mặt của ba người luôn hướng về phía trước, con
mắt nhìn thẳng thể hiện ý chí và lòng quyết tâm của họ. Mặc dù trông họ
gầy guộc và yếu đuối nhưng sâu thẳm trong con người họ là ý chí mạnh
mẽ, quật cường của người con đất Việt, dù bị giam cầm nhưng vẫn hướng
về Đảng và Nhà nước, hướng về ánh sáng của cuộc sống tự do. Tác phẩm
tượng đài và phù điêu Bất khuất những người tử tù Chín hầm đã tái hiện lại
một phần cuộc chiến tranh của dân tộc. Cuộc chiến vinh quang không phải
trên chiến trận mà là cuộc chiến khốc liệt, khốn khổ nhất của những người
25
kiên cường trong song sắt của kẻ thù xâm lược. Những hình ảnh tác phẩm
đã thể hiện được nỗi đau, sự mất mát của dân tộc, ý chí tự lực tự cường của
các chiến sĩ cách mạng, qua đó tỏ lòng biết ơn đối với những người đã hy
sinh vì độc lập tự do của dân tộc. Đồng thời, tác phẩm là một hình thức
giáo dục nghệ thuật, giáo dục tuyên truyền về truyền thống quý báu của cha
anh.
Nói chung, các tác phẩm điêu khắc góp phần làm khơi gợi lại cuộc
chiến tranh bi tráng của dân. Cuộc đấu tranh chống quân xâm lược dành lại
toàn vẹn lãnh thổ Việt Nam. Qua đó, mỗi tác phẩm là một tấm gương, một
bài học quý báu cho thế hệ sau.
2.1.2. Nội dung ngợi ca nhân vật lịch sử (lãnh tụ, danh nhân, anh hùng
liệt sĩ)
Chủ đề, nội dung ca ngợi các nhân vật lịch sử (lãnh tụ, danh nhân,
anh hùng liệt sĩ) là một trong những chủ đề chính mà điêu khắc tượng đài
thể hiện như một sự minh họa về các nhân vật lịch sử. Mỗi tác phẩm điêu
khắc tượng đài có ý nghĩa lịch sử và nghệ thuật rất lớn.
Tượng đài tôn vinh có kích thước khá lớn, góp phần tạo nên sự
hoành tráng và tính sử thi cho tác phẩm. Tác phẩm có thể là hình ảnh một
nhân vật lịch sử cụ thể hay là một nhóm hai, ba người đại diện cho một
tầng lớp trong xã hội, hay một sự kiện lịch sử nhất định. Thế của nhân vật
phải tạo nên cảm giác vững chãi, thân hình và khuôn mặt hướng về phía
trước để lột tả ý chí, sự quyết tâm và hi vọng. Với các tác phẩm điêu khắc
chân dung, tác phẩm được làm gần với kích thước thật của cơ thể người.
Phần tượng được đặt trên bệ, tổng thể tác phẩm cao ngang tầm nhìn của
người xem, tạo nên cảm giác gần gũi, thân quen.
Mục đích của tượng đài tôn vinh là lột tả được tinh thần của nhân
dân Việt Nam trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước nên hình khối
và đường nét của tác phẩm cũng phải toát lên sự rắn rỏi, quyết tâm và sự
26
oai nghiêm. Chính vì vậy, tác giả khi thực hiện sẽ sử dụng các hình khối và
mảng miếng lớn, dứt khoát, rõ ràng. Do đó, kích thước tượng khá lớn, trang
phục được giản lược để tập trung khắc họa nội tâm của nhân vật. Tinh thần
của tác phẩm không chỉ được lột tả qua biểu cảm khuôn mặt mà còn được
thể hiện qua thế dáng của nhân vật. Chi tiết trang trí được lược bỏ để gia
tăng khối tích, giúp cho bề mặt khối nhận được tối đa lượng ánh sáng, giúp
cho hệ thống sáng tối trở nên dứt khoát, rõ ràng. Tuy nhiên bên cạnh đó,
tượng đài vẫn có một số điểm cần khắc phục. Các tượng người thường là
một khối đặc, các khoảng trống giữa tay, chân và thân đa số không được
thể hiện rõ mà chỉ được mô tả nhờ sự lồi lõm trên bề mặt tác phẩm.
Tác phẩm điêu khắc tượng đài Anh hùng dân tộc Lê Lợi (H2.8) được
khánh thành năm 2004, chất liệu đá do hai nhà điêu khắc Nguyễn Duy Độ
và Nguyễn Hoàng Nhân sáng tác.Tượng đài Anh hùng dân tộc Lê Lợi khắc
họa thành công chân dung của người. Hình ảnh Lê Lợi trong tư thế đang
tiến bước, một tay vung về phía trước hướng bàn tay xuống đất, tay còn lại
đang nắm chặt cán gươm. Tượng được đặt trên bệ cao. Khuôn mặt hướng
về phía trước và đôi mắt nhìn thẳng thể hiện tinh thần quyết chiến, quyết
thắng của người chỉ huy. Với trang phục của một tướng võ, đầu vấn khăn,
chân đi giày mũi hài,… tất cả các chi tiết trên trang phục được giản lược,
đơn giản hơn để tập trung thể hiện thần thái của Lê Lợi. Khuôn mặt được
đặc tả một cách chi tiết và dứt khoát từ đôi mắt cho đến môi và những nếp
gấp trên khuôn mặt. Phía dưới chân là hình ảnh của một chú rùa cưỡi trên
những con sóng nước. Rùa là một con vật trong tứ linh và cũng là con vật
trong truyền thuyết Hồ Hoàn Kiếm, Lê Lợi trả gươm cho rùa thần. Hình
ảnh rùa xuất hiện trong tượng đài Anh hùng dân tộc Lê Lợi như nói lên đây
là người anh hùng do thần linh chỉ định và sẽ được thần linh giúp đỡ trong
cuộc chiến chống quân xâm lược và dẹp loạn đất nước. Tất cả các chi tiết
trong tượng đài đều góp phần nói lên sức mạnh của người anh hùng kêu gọi
27
đoàn kết các dân tộc. Cái tinh thần dân tộc, tinh thần của nhân vật anh hùng
Lê Lợi không chỉ được thể hiện qua khuôn mặt của tượng mà còn được thể
hiện trong thế đứng. Tượng được tạo tác bằng hình chữ nhật đứng càng làm
tăng thêm sự vững chãi và chắc chắn cho nhân vật. Bên cạnh đó, việc sử
dụng những mảng miếng lớn, dứt khoát, cân đối càng tạo cho nhân vật Lê
Lợi mà hai tác giả Nguyễn Duy Độ và Nguyễn Hoàng Nhân tạo nên thật
bất khuất và kiên cường. Tuy đá là một chất liệu được coi là lạnh lẽo, xa
xăm nhưng trong tác phẩm này, chất liệu đá lại tạo cho người xem một sự
uy nghiêm, ấm áp và tinh thần sục sôi trong cuộc kháng chiến bảo vệ dân
tộc.
Bên cạnh tác phẩm tượng đài Anh hùng dân tộc Lê Lợi ca ngợi
người anh hùng bảo vệ bờ cõi, lãnh thổ và non sông của đất nước thì tượng
đài Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác (H2.7) lại ca ngợi về tấm gương
lương y như từ mẫu. Tượng đài được tạc bằng đá do nhà điêu khắc Trịnh
Thế Hội thể hiện và khánh thành năm 2007. Hiện nay, tượng đài đang
được đặt tại Hương Sơn, Hà Tĩnh.
Tác phẩm thể hiện hình ảnh Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác đang
trong tư thế đứng, một tay cầm cuốn sách và tay còn lại đang ôm lá thuốc.
Tượng được đặt trên bệ cao, toàn thể tượng đài được đặt trong bố cục hình
chữ nhật đứng tạo cho người xem cảm giác vững chãi, trang nghiêm. Bên
cạnh đó, với trang phục giản dị và được giản lược đi bằng những hình khối,
mảng lớn làm cho tinh thần của nhân vật được đẩy lên cao. Khuôn mặt của
Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác được thể hiện chi tiết của mắt, mũi,
môi, râu kết hợp với ánh sáng tạo nên những mảng sáng tối toát lên sự hiền
từ, nhân hậu của một thầy thuốc làm công tác chữa bệnh cứu đời. Tinh thần
của thầy thuốc Lê Hữu Trác không chỉ thể hiện ở khuôn mặt mà còn thể
hiện trong tư thế. Bên cạnh đó, tính cách của nhân vật cũng được bộc lộ rõ
trong tác phẩm điêu khắc tượng đài. Nhìn vào tác phẩm, người xem có thể
28
thấy ngay nhân vật là một người rất cẩn thận, chu đáo và tận tình. Điều đó
được thể hiện ở cách cầm sách và bàn tay đỡ bó thuốc và con mắt sâu nhìn
xa của ông. Nói chung, tác phẩm đã tái hiện thành công nhân vật Hải
Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác. Một con người, một tấm gương trong y
học, một người xứng đáng với câu nói “Lương y như từ mẫu” để mọi người
học tập và noi theo.
Nói tóm lại, các tác phẩm điêu khắc tượng đài nhằm ca ngợi nhân vật
lịch sử thường có kích thước cao lớn. Kết hợp với các kĩ thuật tạo hình của
điêu khắc nhằm tạo nên chân dung của một nhân vật lịch uy nghiêm và
vững chãi. Hơn thế, việc tạo tượng cao lớn cũng là thể hiện sự tôn kính của
nhân dân đối với nhân vật trong tượng đài. Không những vậy, các nhân vật
được thể hiện đều toát lên được cái tinh thần riêng, tính cách riêng của mỗi
nhân vật.
2.1. Hình thức nghệ thuật điêu khắc tượng đài chất liệu đá ở Việt Nam
giai đoạn 2000 – 2015
2.2.1. Không gian trong điêu khắc tượng đài chất liệu đá ở Việt Nam giai
đoạn 2000 – 2015
Không gian có thể hiểu là khoảng không xung quanh các khối điêu
khắc và định hình các cạnh của tác phẩm điêu khắc. Không gian còn được
tạo nên và bao bọc bởi hình khối của tác phẩm, trở thành những khoảng
rỗng trong tác phẩm. Do đó, không gian tồn tại song song và gắn liền với
nghệ thuật điêu khắc và là một phần tạo nên tác phẩm. Có nhiều cách giải
thích khác nhau về không gian, tuy nhiên ta có thể hiểu không gian là toàn
bộ những gì xung quanh một vật chất nào đó.
Không gian là một trong những yếu tố cơ bản quyết định tính thẩm
mỹ của một tác phẩm điêu khắc. Đối với một tác phẩm điêu khắc tượng đài
được đặt ở ngoài ngoài trời, không gian bao gồm các khoảng không xung
quanh nó, dù lớn hay nhỏ. Ngoài ra, không gian của nghệ thuật điêu khắc
29
tượng đài ở ngoài trời còn bao gồm cả các công trình kiến trúc, các yếu tố
tự nhiên (cây cối, hồ, ao, sông,...) hay các vật thể hữu hình khác liên quan
đến không gian đó. Các tác phẩm điêu khắc ngoài trời luôn được đặt ở một
vị trí cố định nên không gian và tác phẩm điêu khắc có mối liên hệ gắn bó
chặt chẽ với nhau. Nói cách khác, đối với điêu khắc ngoài trời không gian
có vai trò quan trọng, chịu ảnh hưởng bởi tác phẩm và đồng thời tác động
lên chính tác phẩm.
Tác phẩm điêu khắc là sự biểu hiện của những mối tương quan trong
không gian ba chiều. Không gian tự thân của tác phẩm xuất phát từ hình
khối, chất liệu tạo nên nó. Tuy nhiên, một tác phẩm điêu khắc ngoài trời
đẹp không chỉ bởi không gian tự thân của nó mà còn chịu tác động từ
không gian bên ngoài. Kích thước không gian phong phú từ những khoảng
không lớn như quảng trường, đồi núi cho đến những không gian nhỏ như
vườn hoa, khuôn viên kiến trúc trong mối quan hệ với kích thước của tác
phẩm. Các thành phố trên khắp cả nước đã sở hữu một vẻ đẹp phong phú
không chỉ bởi những kiến trúc đô thị mà bên cạnh đó là vẻ đẹp tự nhiên ở
các khu vực ngoại thành. Sự thay đổi về địa hình dẫn tới sự thay đổi về
không gian. Từ những khu đất phẳng với những tòa nhà cao tầng của thế kỷ
21 cho tới những ngọn đồi và đồng lúa mang đậm dấu ấn của làng quê Việt
Nam, các nghệ sĩ luôn phải tìm ra phương án giải quyết không gian hiệu
quả nhất để mang lại vẻ đẹp cho tác phẩm điêu khắc ngoài trời.
Các công trình điêu khắc tượng đài đặt ở ngoài trời thường lựa chọn
sự hài hòa với không gian cảnh quan xung quanh thay vì xu thế độc tôn
như một số thành phố trên thế giới. Hệ thống cây xanh được xử lý tốt sẽ tạo
nên điểm nhấn cho công trình, làm phông nền cho tác phẩm điêu khắc. Bên
cạnh đó, địa hình đồi núi là địa điểm lý tưởng để thực hiện các tác phẩm
điêu khắc hoành tráng với kích thước lớn. Đồi núi cao nhưng xung quanh
được bao bọc bởi đồng lúa tạo nên những khoảng rộng cho các tác phẩm
30
điêu khắc. Lấy đồi núi làm điểm tựa, sử dụng lợi thế về độ cao tự nhiên và
được tô điểm bởi những cánh đồng xanh, người nghệ sĩ có thể phát huy
triệt để được phong thái hùng dũng, oai nghiêm của tác phẩm điêu khắc và
tạo nên sự liên kết giữa con người và thiên nhiên. Không gian tưởng niệm
là không gian của các công trình điêu khắc tưởng niệm, mang tính chất
thiêng liêng, tôn kính. Không gian tưởng niệm nằm tách biệt với không
gian sinh hoạt của người dân nhằm giữ gìn sự tĩnh lặng, trang nghiêm.
Thông thường, các khu tưởng niệm sẽ nằm dưới sự giám sát và quản lý của
các cấp chính quyền địa phương và chỉ mở cửa cho người dân vào những
khoảng thời gian nhất định.
Tượng đài Quyết tử để Tổ quốc quyết sinh tại vườn hoa Hàng Đậu
(H1.3) nay gọi là vườn hoa Vạn Xuân được xây dựng năm 2004 để tưởng
nhớ các anh hùng đã hi sinh trong trận chiến 60 ngày đêm bảo vệ Hà Nội,
trận chiến mở đầu cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp vào mùa đông
năm 1946. Tượng được tạc và ghép từ 34 khối đá với tổng chiều cao là
9,7m. Không gian vườn hoa nhỏ với diện tích khoảng 0,4ha. Tượng được
đặt trong một thảm cỏ nhỏ, xung quanh lát gạch đá, phía trước là khoảng
sân trống với một đài phun nước. Hàng cây xanh tạo nên bóng mát cho
người dân nghỉ ngơi, đồng thời giúp tăng độ tương phản về ánh sáng ở
trung tâm vườn hoa chiếu vào tượng đài, tạo nên hiệu ứng thị giác tốt. Thiết
kế không gian trong vườn hoa khá hợp lý bởi giải quyết hài hòa giữa các
yếu tố không gian thưởng thức tác phẩm với các yếu tố tự nhiên như cây và
nước, tạo nên không khí trong lành, thoáng mát cho vườn hoa. Thế nhưng,
nếu xét trên tổng thể lớn hơn, không gian đô thị xung quanh vườn hoa
Hàng Đậu còn nhiều hạn chế. Hàng cây xanh xung quanh tượng đài tương
đối cao, chiều rộng của các con phố xung quanh vườn hoa không lớn cùng
với đó là tháp nước Hàng Đậu ở mặt trước, dãy nhà vệ sinh công cộng ở
mặt sau đã cản trở tầm nhìn từ phía bên ngoài. Vỉa hè xung quanh vườn
31
hoa bị tận dụng làm bãi đỗ xe, quán bán nước, bán hàng rong đã khiến cho
môi trường bị ô tạp, ảnh hưởng nghiêm trọng đến không gian nghệ thuật
của tượng đài.
Không gian trang trí tượng đài gắn liền với không gian kiến trúc và
là một phần của không gian kiến trúc.
Bản thân tác phẩm đã có không gian của riêng nó nhưng đặt một tác
phẩm tượng đài trong không gian bên ngoài thì nó lại trở thành một phần
của khôn gian kiến trúc quanh nó.
Đúng vậy, khi đặt một tác phẩm tượng đài vào một không gian trống
thì không có gì đáng nói. Nhưng đặt một tác phẩm tượng đài vào vị trí
không gian của kiến trúc đô thị hay kiến trúc quy hoạch đường phố thì đó
lại là một điều đáng phải quan tâm. Bởi chính vị trí đặt để tác phẩm là yếu
tố quyết định sự thành công hay thất bại của tác phẩm. Nếu để một tác
phẩm tượng đài nhân vật lãnh tụ của dân tộc vào một khuôn viên của một
công viên nhỏ, xung quanh có nhiều cây cối cao lớn, hay có ít người qua lại
thì tác dụng và yếu tố tôn vinh, tưởng niệm bị suy giảm đi thậm chí là
không còn. Chính vì vậy, vị trí đặt để tượng và không gian kiến trúc phải
hòa nhập, ăn khớp với nhau.
Tác phẩm tượng đài Đại đội nữ pháo binh Ngư Thủy (H1.11) khánh
thành năm 2006 do Nguyễn Hồng Phong là một trong những công trình tôn
vinh chiến thắng của quân và dân của Đại Đội Nữ pháo binh Ngư Thủy,
Quảng Bình. Tượng đài thể hiện những nữ pháo binh trong trận chiến.
Người nạp pháo, người ngắm bắn và người bắn. Mỗi người một công việc
nhưng có sự liên kết và ăn nhập chặt chẽ với nhau. Ba nữ pháo binh mà
chúng ta nhìn thấy trên ảnh được liên kết với nhau bởi hướng nhìn và đài
pháo. Tất cả đều hướng nhìn về phía trước thể hiện một sự quyết tâm, một
niềm tin tất thắng của quân và dân ta. Với chất liệu đá, các chi tiết trên tác
phẩm được tạo tác cẩn thận và chi tiết hơn. Chẳng hạn như khuôn mặt các
32
cô gái. Chất liệu đá đã tả được chi tiết các phần như mắt, mũi, môi, cỗ pháo
lớn với các thành phần chi tiết thân pháo. Tác phẩm đẹp, tạo hình, bố cục
chắc chắn và chặt chẽ đã làm nên tinh thần của người nữ pháo binh. Bên
cạnh việc tạo hình, tác phẩm được cho là thành công bởi không gian đặt để
và chất liệu tạo lên tác phẩm. Đó là một quảng trường khá lớn, có không
gian bốn phía để người thưởng thức có thể đi xung quanh thả mình vào tác
phẩm. Không những vậy, một tác phẩm thành công khi nó có được tiếng
nói và sự tương tác với môi trường bên ngoài. Quảng trường là nơi nhiều
người lui tới, là nơi sinh hoạt chung của một cộng đồng sau một ngày làm
việc mệt mỏi, hay là nơi tập thể dục mỗi buổi sáng,… Nhưng tất cả điều đó
đã tạo nên không gian đối thoại giữa tác phẩm với môi trường. Mặt khác,
tác phẩm làm cho cảnh quan môi trường kiến trúc thêm đẹp và phong phú,
làm giảm sự trống trải của không gian lớn.
Không gian tự thân của tác phẩm điêu khắc là không gian được thể
hiện thông qua sự thay đổi về hình khối, sự diễn tả chất liệu và màu sắc của
sự vật. Những nếp vải bay theo chiều gió hay sự thay đổi nhỏ trong thế
đứng của nhân vật cũng tạo nên cảm giác về chiều sâu. Một tác phẩm điêu
khắc tồn tại trong không gian ba chiều nên nó có thể được chiêm ngưỡng từ
nhiều phía. Việc xử lý hình khối và chất liệu tốt sẽ mang lại vẻ đẹp hoàn
thiện hơn cho tác phẩm để người xem, dù là từ xa, hay từ bất kỳ hướng nào
nhìn vào cũng cảm nhận được hình dáng của tác phẩm và cảm xúc của
người nghệ sĩ. Không gian tự thân của tác phẩm tạo nên cảm giác chân thực
và tăng hiệu quả thị giác, góp phần quan trọng tạo nên vẻ đẹp của một tác
phẩm điêu khắc.
Chẳng hạn tác phẩm điêu khắc tượng đài Tưởng niệm dân quân quận
5 (H1.9) của tác giả Nguyễn Thành Trí khánh thành năm 2002 tại Quận 5,
thành phố Hồ Chí Minh. Tác phẩm thể hiện hình ảnh của ba người chiến sĩ
dân quân. Trong đó có hai nữ dân quân với hai trang phục khác nhau quay
33
về một hướng. Đằng sau là một nam dân quân với một hướng nhìn ngược
lại. Thứ liên kết ba người chiến sĩ dân quân là cùng chung tay nâng cao
Quốc Kì của VIệt Nam với ngôi sao ở giữa. Tác phẩm ca ngợi chiến công
của các chiến sĩ dân quân đã anh dũng chién đấu vì sự nghiệp thống nhất
đất nước. Với những tà áo, mái tóc dài bay ra sau, hình tượng các cô gái
dân quân đã cho người xem thấy không gian tự thân tác phẩm, không gian
sâu hút của phía sau. Không những vậy, chất liệu tạo nên tác phẩm cũng là
một phần tạo nên thành công cho sự diễn tả không gian. Đá là một chất liệu
cứng nhưng lại có khả năng thể hiện chi tiết rất tốt như trong tác phẩm này,
từ mái tóc đến bộ quần áo đều được tác giả thể hiện khá chi tiết. Bên cạnh
đó, khuôn mặt của nhân vật trong tác phẩm cũng được tác giả thể hiện chi
tiết nhất, đặc biệt là đôi mắt. Đối mắt của ba người luôn nhìn thẳng về phía
trước với ánh mắt đầy niềm tin, hy vọng. Điều đó thể hiện sự bất khuất của
những con người sẵn sàng chiến đấu và hy sinh vì sự nghiệp giải phóng dân
tộc thống nhất đất nước. Không những vậy, không gian trong tác phẩm còn
được thể hiện ở hướng di chuyển của những nhân vật. Hai nhân vật nữ đều
trong tư thế bước tiến về phía trước tạo cho tác phẩm những cảm giác
chuyển động. Nhân vật nam được tạo hình một cách rất chi tiết từ chiếc áo
đến tay súng và khuôn mặt. Đặc biệt là khuôn mặt của nhân vật này, tác giả
đã thể hiện đầy đủ những hình khối, đôi mắt, ánh mắt tạo tinh thần kiên
cường. Hơn thế, nhân vật nam được tạo trong tư thế đứng trang nghiêm,
một tay cầm súng, tay còn lại nắm chặt để vuông góc trước ngực. Tất cả
những yếu tố chi tiết mà tác giả thể hiện trong tác phẩm đã tạo hiệu ứng
không gian mạnh cho tác phẩm.
Tác phẩm được làm bằng chất liệu đá với màu sắc tạo nên bởi chính
màu xám của đá lại càng làm tăng thêm sự vững chãi và tinh thần của tác
phẩm.
34
Nói chung, không gian là một phần không thể thiếu trong tác phẩm
điêu khắc, đặc biệt là điêu khắc tượng đài. Phần không gian không chỉ nói
lên sự thành công của tác phẩm còn thể hiện tài năng của chín tác giả. Qua
không gian trong tác phẩm phần nào nói lên được không gian tự thân của
tác phẩm và không gian kiến trúc xung quanh tác phẩm. Sự kết hợp của hai
loại không gian này tạo lên tiếng nói cho tác phẩm điêu khắc tượng đài nói
chung.
2.2.2. Hình khối trong điêu khắc tượng đài chất liệu đá ở Việt Nam giai
đoạn 2000 – 2015
Nghệ thuật điêu khắc có tính chất đặc trưng riêng, khác với các hình
thức nghệ thuật như hội họa hay đồ họa. Nếu như trong hội họa hay đồ họa,
hình khối của đối tượng mà tác phẩm biểu đạt được thể hiện bằng đậm
nhạt, sự thay đổi sắc độ, ánh sáng thì với nghệ thuật điêu khắc, hình khối
đó phải được thể hiện trong thực tế, được cảm nhận tối đa bởi thị giác, và
với những điểm nhìn khác nhau sẽ tạo cho người xem những cảm nhận
khác nhau. Vì vậy, hình khối đóng một vai trò quan trọng trong việc thể
hiện một tác phẩm điêu khắc và góp phần quyết định sự thành công cho tác
phẩm đó.
Các công trình điêu khắc tượng đài tưởng niệm trên khắp cả nước
khá đa dạng và phong phú trong hình thức thể hiện. Đó có thể là một tác
phẩm với phong cách tả thực, tái hiện lại hình ảnh của nhân vật, chủ đề hay
cũng có thể sử dụng hình ảnh biểu tượng, mang những yếu tố gợi nhắc đến
nội dung chính.Các công trình điêu khắc tưởng niệm đa số là công trình
mang kích thước tương đối lớn. Hình khối trong tác phẩm đơn giản, rõ
ràng, ít yếu tố trang trí cầu kì. Tác phẩm tập trung khắc họa cảm xúc, tinh
thần của tác phẩm để từ đó làm toát lên không khí trang nghiêm, tôn kính
của chủ đề hay nhân vật được thể hiện.
35
Nhóm Phù điêu và tượng đài bất khuất (H1.10) có bố cục gồm một
nhóm người, trong đó có những người lính, hai người đứng riêng lẻ, một là
đang ông và một người phụ nữ. Tất cả đều cầm chắc vũ khí trên tay sẵn
sàng chiến đấu. Người cầm dao, người cầm súng, người cầm bom ba càng.
Thế của các nhân vật có sự thay đổi nhịp nhàng, mang lại cho người xem
không khí hào hùng và tinh thần chiến đấu anh dũng. Hình khối khỏe với
nhiều mảng hình lớn giúp bố cục trở nên chắc chắn hơn. Nếu như những
người chiến sĩ và công nhân được miêu tả bằng các khối vuông và các
mảng lớn thì khi miêu tả hình ảnh người phụ nữ, tác giả đã có ý thức sử
dụng nhiều khối tròn hơn nhưng vẫn giữ được nhưng đường nét và động
tác cơ thể khỏe khoắn. Bên cạnh đó, hình ảnh mái nhà ở các khu phố được
cách điệu trên nền của phù điêu được sử dụng như các yếu tố trang trí
nhưng được chạm khắc chìm, không lấn át bố cục chính mà còn góp phần
tái hiện lại không gian cuộc chiến bảo vệ đất nước. Những mái nhà nhấp
nhô phía sau góp phần tô điểm tác phẩm, gắn kết các phần trong bố cục
chính, đồng thời mang lại cảm giác thân quen, gần gũi cho người xem. Có
thể thấy, tác phẩm nhóm phù điêu và tượng đài bất khuất không chỉ thành
công về mặt nghệ thuật mà còn có ý nghĩa sâu sắc về mặt tinh thần đối với
người dân nói riêng và nhân dân Việt Nam nói chung.
Đề tài thường gặp trong các công trình điêu khắc tôn vinh tại thành
phố Hà Nội là những người anh hùng có công xây dựng và bảo vệ đất
nước. Hình ảnh thể hiện có thể là một nhân vật lịch sử cụ thể, cũng có thể
là một nhóm người đại diện cho một tầng lớp hay một ngành nghề trong xã
hội như chiến sĩ, công nhân, nông dân… Các tác phẩm do đó phải khắc họa
được tinh thần hiên ngang, ý chí chiến đấu, sự dũng cảm, kiên cường của
nhân vật qua bố cục và hình khối.
Tượng đài Quyết tử để Tổ quốc quyết sinh tại vườn hoa Hàng Đậu,
Hà Nội (H1.3) thể hiện hình ảnh những người chiến sĩ trong tư thế sẵn sàng
36
chiến đấu. Một mặt của tác phẩm hướng về phố Hàng Đậu, thể hiện hình
ảnh anh bộ đội quỳ một chân ở phía trước, tay cầm chắc bom ba càng để
bảo vệ thành phố và cô gái Việt Nam trong trang phục áo dài truyền thống,
tà áo tung bay trong gió. Khuôn mặt hướng về phía trước, hai cánh tay
dang rộng, tay trái cầm thanh kiếm, tay phải giơ cao lên trời. Mặt sau của
tác phẩm hướng về phố Hòe Nhai với hình ảnh người lính tay cầm súng sẵn
sàng bảo vệ đất nước. Các nhân vật được diễn tả bởi những diện khối lớn,
khỏe nhưng có phần khô cứng. Tuy nhiên, tác giả chưa diễn tả được sự
mềm mại của người phụ nữ và tà áo dài. Nếp áo bay và các nếp quần được
giản lược tối đa và có phần gượng. Đặc biệt, khuôn mặt của nhân vật nữ có
phần thô cứng với các nét tạc sắc cạnh, gò má cao, xương hàm bạnh cùng
với việc lược bỏ các nét mềm mại của cánh tay khiến cho nhân vật nhiều
yếu tố nam tính. Phía sau người chiến sĩ và cô gái là hình ảnh lá cờ Việt
Nam đang bay với dòng chữ “Quyết tử để Tổ quốc quyết sinh” và dòng chữ
“Hà Nội 1946”. Việc sử dụng các khối đá lớn, dày đã vô tình tạo nên cảm
giác nặng nề của lá cờ. Các vân mây trang trí trên lá cờ chưa thực sự gắn
kết chặt chẽ với tổng thể nội dung tác phẩm. Tác giả đã diễn tả được khí thế
chiến đấu và tinh thần bảo vệ Tổ quốc của người dân Việt Nam nhưng
ngôn ngữ hình thể của các nhân vật còn thiếu sự sáng tạo và lối biểu đạt
còn có phần chưa được mềm mại.
Một tác phẩm tượng đài khác được đặt ngay tại trung tâm thành phố
Hà Nội. Tượng đài Bác Hồ được khánh thành năm 2004 nằm trong khuôn
viên rộng 500m2
của Học Viện Hành Chính - Chính trị Quốc Gia Hồ Chí
Minh. Tác phẩm gồm hai phần tượng và bệ tượng với tổng chiều cao
khoảng 3m. Tác phẩm thể hiện hình ảnh chủ tịch Hồ Chí Minh trong tư thế
ngồi, trên tay phải cầm cuốn sách, tay trái đặt lên đùi. Khuôn mặt của Bác
hướng về phía trước, ánh mắt nhìn về khoảng không phía xa. Trên tác
phẩm, có đường nét được tác giả nhấn mạnh sự thay đổi, tạo nên cảm giác
37
khỏe khoắn nhưng cũng có những điểm buông để tạo nên sự đối lập về
khối. Các chi tiết trên quần áo như yếu tố trang trí, các nếp gấp của vải
được lược bỏ. Biểu cảm trên khuôn mặt được khai thác triệt để, đặc biệt ở
đôi mắt với ánh nhìn đăm chiêu, có phần nghiêm nghị mà vẫn toát lên vẻ
hiền từ. Đôi mắt Bác đặc biệt được chú trọng đặc tả, từ hướng nhìn của
mắt, sự thay đổi hướng của hai đường lông mày để từ đó khắc họa vẻ đẹp
nội tâm của nhân vật. Bề mặt khối được xử lý mịn, mang lại cảm giác nhẹ
nhàng cho người xem. Khuôn mặt, đôi tay và bàn chân nhân vật tuy sử
dụng các mảng lớn thế nhưng cạnh khối có phần tròn, tạo cảm giác mềm
mại của da thịt. Ngược lại, khi miêu tả trang phục, tạo hình của khối có
phần khỏe khoắn, dứt khoát hơn. Đặc biệt, hướng đầu, hướng tay, hướng
chân của nhân vật được tác giả khéo léo lựa chọn, tạo nên sự nhịp nhàng
trong bố cục hình khối của tác phẩm.
2.2.2. Chất cảm trong điêu khắc tượng đài chất liệu đá ở Việt Nam giai
đoạn 2000 – 2015
Nghệ thuật là một hình thức để thể hiện cảm xúc và suy nghĩ. Người
nghệ sĩ thông qua tác phẩm nghệ thuật của mình truyền đạt tới người xem
một thông điệp, có thể là niềm vui hay nỗi buồn. Cảm xúc có thể nói là yếu
tố quyết định sự thành công của một tác phẩm nghệ thuật. Vì vậy, khi nói
đến nghệ thuật điêu khắc, ta không thể không nói đến chất cảm. Theo Từ
điển Thuật ngữ mĩ thuật phổ thông, “chất cảm” được định nghĩa như sau:
“Cảm xúc được tạo nên thông qua các phương tiện tạo hình hay ngôn ngữ
nghệ thuật hoặc cấu tạo vật chất của một bức tranh, tượng… Chất cảm của
phương tiện tạo hình đã tác động trực tiếp lên thị giác… Người ta nhận biết
một vật thể không chỉ ở kích thước, tỉ lệ, màu sắc mà còn ở cảm nhận cấu
tạo vật chất của nó nữa. Từ cấu tạo vật chất ấy mà nghệ thuật cần truyền
đạt được đến người xem cái cảm xúc về chất hay còn gọi là chất cảm. Chất
cảm trong nghệ thuật điêu khắc được tạo nên từ hình khối và đặc biệt là từ
38
cách xử lý và kết hợp chất liệu. Mỗi chất liệu sẽ mang lại cho người xem
những cảm nhận khác nhau qua thị giác và xúc giác.
Trong nghệ thuật điêu khắc, chất liệu là nguyên liệu chính để người
nghệ sĩ tạo nên màu sắc cho tác phẩm của mình. Đối với nghệ thuật điêu
khắc, việc lựa chọn chất liệu càng đóng vai trò quan trọng trong việc quyết
định độ bền vững của tác phẩm. Chất liệu đá với những đặc điểm và tính
chất đặc trưng nhưng được xử lý theo các phương pháp khác nhau sẽ mang
lại chất cảm cho tác phẩm, khơi gợi cảm xúc nơi người xem.
Tượng đài Quyết tử để Tổ quốc quyết sinh (H1.3) là một trong số
những công trình điêu khắc ngoài trời ở Hà Nội sử dụng chất liệu đá. Tuy
nhiên, tác phẩm điêu khắc này chưa thực sự thành công trong việc sử dụng
chất liệu đá trong quá trình tạo hình. Bản thân chất liệu đá mang lại cho
người xem cảm giác về sự vững chãi, chắc chắn, tạo nên cảm nhận rõ ràng
về trọng lượng và khối tích của tác phẩm. Thế nhưng, việc sử dụng nhiều
hình khối lớn, các đường nét thẳng đã khiến cho tác phẩm trở nên thô cứng,
khiến cho ưu thế của chất liệu đá trở thành nhược điểm trong quá trình tạo
hình. Do xử lý tạo hình và bề mặt khối chưa tốt nên tác phẩm chưa thể hiện
được sự khác biệt giữa các chất liệu, từ da thịt cho đến quần áo, từ vải thô
trên chiếc áo của người lính cho đến lớp vải mềm mại trên tà áo dài. Có thể
thấy, với tạo hình của tượng đài Quyết tử để Tổ quốc quyết sinh, chất liệu
đá không phải là một chất liệu phù hợp để diễn tả nội dung và tinh thần của
tác phẩm.
Tượng đài Bác Hồ ở Học Viện Chính trị Quốc Gia Hồ Chí Minh là
một trong những công trình điêu khắc ngoài trời tại thành phố Hà Nội khá
thành công trong việc sử dụng chất liệu đá. Màu trắng của tác phẩm không
chỉ làm rõ đường nét và hình khối nhân vật mà còn khiến cho tác phẩm trở
nên nổi bật trên nền tường màu hồng đỏ của những dãy nhà phía sau, tạo ấn
tượng thị giác mạnh cho người xem. Trang phục của nhân vật được thể
39
hiện đơn giản với các khối lớn nhưng không góc cạnh để tạo nên sự mềm
mại của vải. Chi tiết trang trí và các nếp vải trên quần áo cũng được lược
bỏ, tạo nên cảm giác bình dị, gần gũi. Đá là một chất liệu mang lại cảm
giác nặng nề nhưng cách xử lý tạo hình khiến cho nhân vật tuy được đặt
trong thế ngồi nhưng không bị gò bó mà vẫn nhẹ nhàng, thanh thoát. Có thể
thấy, với chất liệu đá, tác giả đã thành công trong việc khắc họa hình ảnh
Chủ tịch Hồ Chí Minh vừa gần gũi, quen thuộc với nhân dân nhưng cũng
đồng thời là một chính trị gia đang lo nghĩ việc nước. Tượng đài Bác Hồ
không chỉ hài hòa về mặt thẩm mỹ với không gian xung quanh mà còn phù
hợp về mặt nội dung bởi Học Viện Chính trị Quốc Gia Hồ Chí Minh là
trung tâm nghiên cứu khoa học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, là nơi
đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt trung, cao cấp, cán bộ
khoa học chính trị của Đảng, Nhà nước và các đoàn thể chính trị - xã hội.
Trong nghệ thuật điêu khắc, chất liệu là nguyên liệu chính để người
nghệ sĩ tạo nên màu sắc cho tác phẩm của mình. Đối với nghệ thuật điêu
khắc, việc lựa chọn chất liệu càng đóng vai trò quan trọng trong việc quyết
định độ bền vững của tác phẩm. Mỗi chất liệu với những đặc điểm và tính
chất khác nhau được xử lý theo các phương pháp khác nhau sẽ mang lại
chất cảm cho tác phẩm, khơi gợi cảm xúc nơi người xem. Tùy vào nội
dung, cách thể hiện, vai trò và vị trí của tác phẩm mà người nghệ sĩ sẽ lựa
chọn một chất liệu phù hợp để truyền tải ý nghĩa của tác phẩm đến với mọi
người. Ta thường bắt gặp ở điêu khắc tượng đài đặt ở ngoài trời ở Việt
Nam giai đoạn 2000 đến 2015 những chất liệu quen thuộc và phổ biến như
chất liệu sắt với màu bạc xám, chất liệu đồng với sắc vàng sậm đặc trưng,
chất liệu bê tông với màu xám nhạt…
Luận văn này đi sâu nghiên cứu chất liệu đá trong các tác phẩm điêu
khắc tượng đài ở Việt Nam giai đoạn 2000 – 2015. Chất liệu đá là chất liệu
được sử dụng nhiều nhất trong các công trình điêu khắc tượng đài ở ngoài
40
trời. Đá là chất liệu với chi phí không quá cao, phù hợp cho việc xử lý các
hình khối lớn. Các công trình điêu khắc tượng đài ở ngoài trời chủ yếu tôn
vinh và tưởng niệm những vị anh hùng dân tộc. Do đó, đá là chất liệu phù
hợp để diễn tả sự oai nghiêm, hùng dũng cho tác phẩm. Bề mặt đá thô ráp,
giúp cho ánh sáng khi chiếu trên bề mặt không bị trượt đi, tăng sự tương
phản đậm nhạt, tạo nên những đường nét cứng cáp, rắn rỏi. Trong khi đó,
nếu bề mặt đá được mài nhẵn sẽ tạo cảm giác mềm mại. Đồng thời, với
những phương pháp tạo hình phù hợp, đá cũng có thể tạo nên những hình
khối mềm mại với những chi tiết trang trí cầu kỳ. Ta có thể thấy, chất liệu
đá trong các tác phẩm như tượng đài Quyết tử để Tổ quốc quyết sinh,
tượng đài Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác, tượng đài Phụ nữ Ba Đảm
Đang, tượng đài Bác Hồ…
Tượng đài Quyết tử để Tổ quốc quyết sinh là một trong số những
công trình điêu khắc tượng đài đặt ngoài trời ở Việt Nam sử dụng chất liệu
đá. Tuy nhiên, tác phẩm điêu khắc này chưa thực sự thành công trong việc
sử dụng chất liệu đá trong quá trình tạo hình. Bản thân chất liệu đá mang
lại cho người xem cảm giác về sự vững chãi, chắc chắn, tạo nên cảm nhận
rõ ràng về trọng lượng và khối tích của tác phẩm. Thế nhưng, việc sử dụng
nhiều hình khối lớn, các đường nét thẳng đã khiến cho tác phẩm trở nên thô
cứng, khiến cho ưu thế của chất liệu đá trở thành nhược điểm trong quá
trình tạo hình. Do xử lý tạo hình và bề mặt khối chưa tốt nên tác phẩm chưa
thể hiện được sự khác biệt giữa các chất liệu, từ da thịt cho đến quần áo, từ
vải thô trên chiếc áo của người lính cho đến lớp vải mềm mại trên tà áo dài.
Có thể thấy, với tạo hình của tượng đài Quyết tử để Tổ quốc quyết sinh,
chất liệu đá không phải là một chất liệu phù hợp để diễn tả nội dung và tinh
thần của tác phẩm.
Bên cạnh đó, tác phẩm “Phụ nữ ba đảm đang” (H1.12) của tác giả
Nguyễn Hồng Phong và Lưu Danh Thanh khánh thành năm 2009 tại Đan
41
Phương, Hà Nội là cụm công trình điêu khắc tượng đài và phù điêu. Tượng
đài thể hiện hình ảnh người phụ nữ khoác súng trên vai, tay phải cầm lưỡi
cày, tay trái bế một đứa trẻ con đang dơ hai tay lên cao, với tư thế đứng
hiên ngang, bất khuất. Tác phẩm là sự thành công của chất liệu đá đã thể
hiện được nét mềm mại, uyển chuyển trong thân hình của người phụ nữ và
đứa bé. Bên cạnh đó,chất liệu đá đã thể hiện sự vững chãi, chắc chắn cho
người xem cảm nhận rõ ràng về trọng lượng cũng như hình khối trong tác
phẩm. Không những vậy, tác phẩm là sự thể hiện thành công qua chất liệu
đám các chi tiết đường nét uyển chuyển, những tà áo cong lên, chi tiết
chiếc khắn quấn trên chiếc cày và hình ảnh đứa bé dơ tay lên cao làm cho
tác phẩm trở nên sống động hơn. Qua đó phần nào nói lên thêm về sức chịu
đựng gian khổ và hậu phương vững chãi cho tiền tuyến.Không chỉ chiến
đấu kiên cường tại quê nhà mà còn vẫn làm tròn chức năng, vai trò của một
người vợ người mẹ, người con dâu, không chỉ vậy còn là người tạo ra
lương thực chuyển vào chiến trường cho các chiến sĩ yên tâm chiến đấu.
Cuộc chiến đấu của quân và dân ta trên mặt trân giải phóng không thể thiếu
đi hình ảnh và công lao to lớn của những người nữ chiến sĩ quả cảm như
vậy. Tác phẩm đã thể hiện thành công cái tinh thần của người phụ nữ nơi
hậu phương, hiên ngang, kiên cường.
Tượng đài Bác Hồ ở Học Viện Chính trị Quốc Gia Hồ Chí Minh là
một trong những công trình điêu khắc ngoài trời tại thành phố Hà Nội khá
thành công trong việc sử dụng chất liệu đá. Trang phục của nhân vật được
thể hiện đơn giản với các khối lớn nhưng không góc cạnh để tạo nên sự
mềm mại của vải. Chi tiết trang trí và các nếp vải trên quần áo cũng được
lược bỏ, tạo nên cảm giác bình dị, gần gũi. Đá là một chất liệu mang lại
cảm giác nặng nề nhưng cách xử lý tạo hình khiến cho nhân vật tuy được
đặt trong thế ngồi nhưng không bị gò bó mà vẫn nhẹ nhàng, thanh thoát. Có
thể thấy, với chất liệu đá, tác giả đã thành công trong việc khắc họa hình
42
ảnh Chủ tịch Hồ Chí Minh vừa gần gũi, quen thuộc với nhân dân nhưng
cũng đồng thời là một chính trị gia đang lo nghĩ việc nước. Tượng đài Bác
Hồ không chỉ hài hòa về mặt thẩm mỹ với không gian xung quanh mà còn
phù hợp về mặt nội dung bởi Học Viện Chính trị Quốc Gia Hồ Chí Minh là
trung tâm nghiên cứu khoa học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, là nơi
đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt trung, cao cấp, cán bộ
khoa học chính trị của Đảng, Nhà nước và các đoàn thể chính trị - xã hội.
Tiểu kết chương 2
Nội dung chương 2 nghiên cứu hai vấn đề lớn là Nội dung và hình
thức trong các tác phẩm điêu khắc tượng đài ở Việt Nam giai đoạn 2000 –
2015. Trong đó, phần hình thức đã làm rõ các vấn đề về hình khối trong
điêu khắc tượng đài và chất liệu trong điêu khắc tượng đài giai đoạn 2000 -
2015. Qua đó cho thấy một tác phẩm điêu khắc tượng đài được đặt ở ngoài
trời muốn tạo hiệu quả tốt cần xử lý được ba yếu tố trên để hòa hợp với
không gian sống, không gian công cộng, không gian đô thị,… xung quanh
và biểu đạt nội dung rõ ràng đến người thưởng thức tác phẩm. Điêu khắc
tượng đài đặt ở ngoài trời rất khác so với điêu khắc trong nhà bởi nó phải
xử lý khoảng không gian lớn hơn nhiều. Một tác phẩm khi đặt ở một vị trí
nhất định không thể quá to, bởi nó sẽ lấn át các công trình xung quanh, tạo
nên cảm giác chật chội, cũng không thể quá nhỏ mà lọt thỏm, khó mà
thưởng thức. Không chỉ thể hiện sự hòa hợp với không gian cảnh quan, tác
phẩm điêu khắc tượng đài ngoài trời cũng phải thể hiện được không gian
qua chính hình khối và đường nét. Do đó, một công trình điêu khắc tượng
đài ngoài trời đẹp phải có sự lựa chọn chất liệu phù hợp với tạo hình, bố
cục chắc chắn, hợp lý, phải có chiều sâu không gian trong tác phẩm và phải
có sự liên kết chặt chẽ với không gian cảnh quan.
Tải bản FULL (86 trang): https://bit.ly/3fQM1u2
Dự phòng: fb.com/KhoTaiLieuAZ
Nghệ thuật điêu khắc tượng đài chất liệu đá ở việt nam giai đoạn 2000 đến 2015
Nghệ thuật điêu khắc tượng đài chất liệu đá ở việt nam giai đoạn 2000 đến 2015

More Related Content

What's hot

Luận văn: Nghiên cứu hiện trạng và định hướng khai thác lễ hội truyền thống ...
Luận văn:  Nghiên cứu hiện trạng và định hướng khai thác lễ hội truyền thống ...Luận văn:  Nghiên cứu hiện trạng và định hướng khai thác lễ hội truyền thống ...
Luận văn: Nghiên cứu hiện trạng và định hướng khai thác lễ hội truyền thống ...Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562
 
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt NamKho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt NamPham Long
 
XÃ HỘI HỌC VĂN HOÁ
XÃ HỘI HỌC VĂN HOÁ XÃ HỘI HỌC VĂN HOÁ
XÃ HỘI HỌC VĂN HOÁ nataliej4
 
Luận án: Tuyên truyền giá trị văn hóa của tín ngưỡng thờ mẫu, HAY - Gửi miễn ...
Luận án: Tuyên truyền giá trị văn hóa của tín ngưỡng thờ mẫu, HAY - Gửi miễn ...Luận án: Tuyên truyền giá trị văn hóa của tín ngưỡng thờ mẫu, HAY - Gửi miễn ...
Luận án: Tuyên truyền giá trị văn hóa của tín ngưỡng thờ mẫu, HAY - Gửi miễn ...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Xây dựng chương trình Giáo dục nghệ thuật
Xây dựng chương trình Giáo dục nghệ thuật Xây dựng chương trình Giáo dục nghệ thuật
Xây dựng chương trình Giáo dục nghệ thuật Thao An
 
VĂN HÓA TÂM LINH TRONG “TRUYỆN KIỀU” VÀ “VĂN CHIÊU HỒN” CỦA NGUYỄN DU - TẢI F...
VĂN HÓA TÂM LINH TRONG “TRUYỆN KIỀU” VÀ “VĂN CHIÊU HỒN” CỦA NGUYỄN DU - TẢI F...VĂN HÓA TÂM LINH TRONG “TRUYỆN KIỀU” VÀ “VĂN CHIÊU HỒN” CỦA NGUYỄN DU - TẢI F...
VĂN HÓA TÂM LINH TRONG “TRUYỆN KIỀU” VÀ “VĂN CHIÊU HỒN” CỦA NGUYỄN DU - TẢI F...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Du lich van mieu quoc tu giam ha noi
Du lich van mieu quoc tu giam ha noiDu lich van mieu quoc tu giam ha noi
Du lich van mieu quoc tu giam ha noiChau Duong
 

What's hot (20)

Luận văn: Nghiên cứu hiện trạng và định hướng khai thác lễ hội truyền thống ...
Luận văn:  Nghiên cứu hiện trạng và định hướng khai thác lễ hội truyền thống ...Luận văn:  Nghiên cứu hiện trạng và định hướng khai thác lễ hội truyền thống ...
Luận văn: Nghiên cứu hiện trạng và định hướng khai thác lễ hội truyền thống ...
 
Đề tài: Khu di tích lịch sử danh thắng Vũng Đục tại Quảng Ninh
Đề tài: Khu di tích lịch sử danh thắng Vũng Đục tại Quảng NinhĐề tài: Khu di tích lịch sử danh thắng Vũng Đục tại Quảng Ninh
Đề tài: Khu di tích lịch sử danh thắng Vũng Đục tại Quảng Ninh
 
Luận văn: Lễ hội của người Thái ở miền Tây Nghệ An, HOT
Luận văn: Lễ hội của người Thái ở miền Tây Nghệ An, HOTLuận văn: Lễ hội của người Thái ở miền Tây Nghệ An, HOT
Luận văn: Lễ hội của người Thái ở miền Tây Nghệ An, HOT
 
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt NamKho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
 
Hình tượng người phụ nữ trong tranh lụa của Nguyễn Phan Chánh
Hình tượng người phụ nữ trong tranh lụa của Nguyễn Phan ChánhHình tượng người phụ nữ trong tranh lụa của Nguyễn Phan Chánh
Hình tượng người phụ nữ trong tranh lụa của Nguyễn Phan Chánh
 
Luận văn: Tìm hiểu công trình kiến trúc cổ tiêu biểu ở Hà Nội, HAY
Luận văn: Tìm hiểu công trình kiến trúc cổ tiêu biểu ở Hà Nội, HAYLuận văn: Tìm hiểu công trình kiến trúc cổ tiêu biểu ở Hà Nội, HAY
Luận văn: Tìm hiểu công trình kiến trúc cổ tiêu biểu ở Hà Nội, HAY
 
Đề tài: Bảo tồn di sản văn hóa tài liệu, hiện vật ở Bảo tàng HCM
Đề tài: Bảo tồn di sản văn hóa tài liệu, hiện vật ở Bảo tàng HCMĐề tài: Bảo tồn di sản văn hóa tài liệu, hiện vật ở Bảo tàng HCM
Đề tài: Bảo tồn di sản văn hóa tài liệu, hiện vật ở Bảo tàng HCM
 
Tiểu thuyết của các nhà văn dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc
Tiểu thuyết của các nhà văn dân tộc thiểu số miền núi phía BắcTiểu thuyết của các nhà văn dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc
Tiểu thuyết của các nhà văn dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc
 
Đề tài: Phát huy giá trị văn hóa nhà dài của người Êđê, HAY, 9đ
Đề tài: Phát huy giá trị văn hóa nhà dài của người Êđê, HAY, 9đĐề tài: Phát huy giá trị văn hóa nhà dài của người Êđê, HAY, 9đ
Đề tài: Phát huy giá trị văn hóa nhà dài của người Êđê, HAY, 9đ
 
Đề tài: Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu
Đề tài: Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong truyện ngắn của Nguyễn Minh ChâuĐề tài: Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu
Đề tài: Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu
 
Luận án: Lễ hội Phủ Dầy trong đời sống văn hóa cộng đồng, HAY
Luận án: Lễ hội Phủ Dầy trong đời sống văn hóa cộng đồng, HAYLuận án: Lễ hội Phủ Dầy trong đời sống văn hóa cộng đồng, HAY
Luận án: Lễ hội Phủ Dầy trong đời sống văn hóa cộng đồng, HAY
 
XÃ HỘI HỌC VĂN HOÁ
XÃ HỘI HỌC VĂN HOÁ XÃ HỘI HỌC VĂN HOÁ
XÃ HỘI HỌC VĂN HOÁ
 
Luận án: Tuyên truyền giá trị văn hóa của tín ngưỡng thờ mẫu, HAY - Gửi miễn ...
Luận án: Tuyên truyền giá trị văn hóa của tín ngưỡng thờ mẫu, HAY - Gửi miễn ...Luận án: Tuyên truyền giá trị văn hóa của tín ngưỡng thờ mẫu, HAY - Gửi miễn ...
Luận án: Tuyên truyền giá trị văn hóa của tín ngưỡng thờ mẫu, HAY - Gửi miễn ...
 
Xây dựng chương trình Giáo dục nghệ thuật
Xây dựng chương trình Giáo dục nghệ thuật Xây dựng chương trình Giáo dục nghệ thuật
Xây dựng chương trình Giáo dục nghệ thuật
 
VĂN HÓA TÂM LINH TRONG “TRUYỆN KIỀU” VÀ “VĂN CHIÊU HỒN” CỦA NGUYỄN DU - TẢI F...
VĂN HÓA TÂM LINH TRONG “TRUYỆN KIỀU” VÀ “VĂN CHIÊU HỒN” CỦA NGUYỄN DU - TẢI F...VĂN HÓA TÂM LINH TRONG “TRUYỆN KIỀU” VÀ “VĂN CHIÊU HỒN” CỦA NGUYỄN DU - TẢI F...
VĂN HÓA TÂM LINH TRONG “TRUYỆN KIỀU” VÀ “VĂN CHIÊU HỒN” CỦA NGUYỄN DU - TẢI F...
 
Luận văn: Truyện Nôm trong sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu, 9đ
Luận văn: Truyện Nôm trong sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu, 9đLuận văn: Truyện Nôm trong sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu, 9đ
Luận văn: Truyện Nôm trong sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu, 9đ
 
Luận văn thạc sĩ: Quản lý Nhà hát Chèo Quân đội, HAY, 9đ
Luận văn thạc sĩ: Quản lý Nhà hát Chèo Quân đội, HAY, 9đLuận văn thạc sĩ: Quản lý Nhà hát Chèo Quân đội, HAY, 9đ
Luận văn thạc sĩ: Quản lý Nhà hát Chèo Quân đội, HAY, 9đ
 
Khảo sát các tương tác biểu tượng trong ca từ Trịnh Công Sơn
Khảo sát các tương tác biểu tượng trong ca từ Trịnh Công SơnKhảo sát các tương tác biểu tượng trong ca từ Trịnh Công Sơn
Khảo sát các tương tác biểu tượng trong ca từ Trịnh Công Sơn
 
Du lich van mieu quoc tu giam ha noi
Du lich van mieu quoc tu giam ha noiDu lich van mieu quoc tu giam ha noi
Du lich van mieu quoc tu giam ha noi
 
Luận văn: Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Mường
Luận văn: Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc MườngLuận văn: Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Mường
Luận văn: Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Mường
 

Similar to Nghệ thuật điêu khắc tượng đài chất liệu đá ở việt nam giai đoạn 2000 đến 2015

LUẬN ÁN NGHỆ THUẬT TRANG TRÍ ĐỀN VUA ĐINH, VUA LÊ TỪ GÓC NHÌN SO SÁNH VỚI ẤN ...
LUẬN ÁN NGHỆ THUẬT TRANG TRÍ ĐỀN VUA ĐINH, VUA LÊ TỪ GÓC NHÌN SO SÁNH VỚI ẤN ...LUẬN ÁN NGHỆ THUẬT TRANG TRÍ ĐỀN VUA ĐINH, VUA LÊ TỪ GÓC NHÌN SO SÁNH VỚI ẤN ...
LUẬN ÁN NGHỆ THUẬT TRANG TRÍ ĐỀN VUA ĐINH, VUA LÊ TỪ GÓC NHÌN SO SÁNH VỚI ẤN ...PinkHandmade
 
Bài dự thi tích hợp kiến thức liên môn mĩ thuật, lịch sử, địa lý dạy tiết 3...
Bài dự thi tích hợp kiến thức liên môn mĩ thuật, lịch sử, địa lý dạy tiết 3...Bài dự thi tích hợp kiến thức liên môn mĩ thuật, lịch sử, địa lý dạy tiết 3...
Bài dự thi tích hợp kiến thức liên môn mĩ thuật, lịch sử, địa lý dạy tiết 3...nataliej4
 
Luận án: Nghề chạm khắc đá ở An Hoạch (huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa) thời t...
Luận án: Nghề chạm khắc đá ở An Hoạch (huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa) thời t...Luận án: Nghề chạm khắc đá ở An Hoạch (huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa) thời t...
Luận án: Nghề chạm khắc đá ở An Hoạch (huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa) thời t...Dịch vụ viết thuê Khóa Luận - ZALO 0932091562
 
NÔNG NGHIỆP TRONG TRANH KHẮC GỖ VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1955-1985.pdf
NÔNG NGHIỆP TRONG TRANH KHẮC GỖ VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1955-1985.pdfNÔNG NGHIỆP TRONG TRANH KHẮC GỖ VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1955-1985.pdf
NÔNG NGHIỆP TRONG TRANH KHẮC GỖ VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1955-1985.pdfNuioKila
 
Luận văn thạc sĩ văn hóa học Di sản khảo cổ học trong bối cảnh Đương Đại
Luận văn thạc sĩ văn hóa học Di sản khảo cổ học trong bối cảnh Đương ĐạiLuận văn thạc sĩ văn hóa học Di sản khảo cổ học trong bối cảnh Đương Đại
Luận văn thạc sĩ văn hóa học Di sản khảo cổ học trong bối cảnh Đương ĐạiDịch vụ Làm Luận Văn 0936885877
 
KIẾN TRÚC BIỂU HIỆN TẠI VIỆT NAM.pdf
KIẾN TRÚC BIỂU HIỆN TẠI VIỆT NAM.pdfKIẾN TRÚC BIỂU HIỆN TẠI VIỆT NAM.pdf
KIẾN TRÚC BIỂU HIỆN TẠI VIỆT NAM.pdfNuioKila
 
Tìm hiểu về Cuốn thư đá - Mẫu Cuốn thư đá ĐẸP Anh Đức
Tìm hiểu về Cuốn thư đá - Mẫu Cuốn thư đá ĐẸP Anh ĐứcTìm hiểu về Cuốn thư đá - Mẫu Cuốn thư đá ĐẸP Anh Đức
Tìm hiểu về Cuốn thư đá - Mẫu Cuốn thư đá ĐẸP Anh Đứcduongva vn
 
[Kho tài liệu ngành may] trang phục dạ hội được phát triển dựa trên hình ảnh ...
[Kho tài liệu ngành may] trang phục dạ hội được phát triển dựa trên hình ảnh ...[Kho tài liệu ngành may] trang phục dạ hội được phát triển dựa trên hình ảnh ...
[Kho tài liệu ngành may] trang phục dạ hội được phát triển dựa trên hình ảnh ...TÀI LIỆU NGÀNH MAY
 
ĐỀ TÀI Dạy học môn Lịch sử Design tại Trường Đại học Mĩ thuật Công nghiệp Á C...
ĐỀ TÀI Dạy học môn Lịch sử Design tại Trường Đại học Mĩ thuật Công nghiệp Á C...ĐỀ TÀI Dạy học môn Lịch sử Design tại Trường Đại học Mĩ thuật Công nghiệp Á C...
ĐỀ TÀI Dạy học môn Lịch sử Design tại Trường Đại học Mĩ thuật Công nghiệp Á C...PinkHandmade
 
TỔ CHỨC KHÔNG GIAN KIẾN TRÚC VÀ BẢO TỒN CÁC GIÁ TRỊ VĂN HÓA KHU VĂN HÓA LỊCH ...
TỔ CHỨC KHÔNG GIAN KIẾN TRÚC VÀ BẢO TỒN CÁC GIÁ TRỊ VĂN HÓA KHU VĂN HÓA LỊCH ...TỔ CHỨC KHÔNG GIAN KIẾN TRÚC VÀ BẢO TỒN CÁC GIÁ TRỊ VĂN HÓA KHU VĂN HÓA LỊCH ...
TỔ CHỨC KHÔNG GIAN KIẾN TRÚC VÀ BẢO TỒN CÁC GIÁ TRỊ VĂN HÓA KHU VĂN HÓA LỊCH ...jackjohn45
 
[Kho tài liệu ngành may] bst cảm hứng phố cổ
[Kho tài liệu ngành may] bst cảm hứng phố cổ[Kho tài liệu ngành may] bst cảm hứng phố cổ
[Kho tài liệu ngành may] bst cảm hứng phố cổTÀI LIỆU NGÀNH MAY
 
QUẢN LÝ DI TÍCH ĐỀN VÀ, THỊ XÃ SƠN TÂY, THÀNH PHỐ HÀ NỘI.pdf
QUẢN LÝ DI TÍCH ĐỀN VÀ, THỊ XÃ SƠN TÂY, THÀNH PHỐ HÀ NỘI.pdfQUẢN LÝ DI TÍCH ĐỀN VÀ, THỊ XÃ SƠN TÂY, THÀNH PHỐ HÀ NỘI.pdf
QUẢN LÝ DI TÍCH ĐỀN VÀ, THỊ XÃ SƠN TÂY, THÀNH PHỐ HÀ NỘI.pdfTieuNgocLy
 

Similar to Nghệ thuật điêu khắc tượng đài chất liệu đá ở việt nam giai đoạn 2000 đến 2015 (20)

LUẬN ÁN NGHỆ THUẬT TRANG TRÍ ĐỀN VUA ĐINH, VUA LÊ TỪ GÓC NHÌN SO SÁNH VỚI ẤN ...
LUẬN ÁN NGHỆ THUẬT TRANG TRÍ ĐỀN VUA ĐINH, VUA LÊ TỪ GÓC NHÌN SO SÁNH VỚI ẤN ...LUẬN ÁN NGHỆ THUẬT TRANG TRÍ ĐỀN VUA ĐINH, VUA LÊ TỪ GÓC NHÌN SO SÁNH VỚI ẤN ...
LUẬN ÁN NGHỆ THUẬT TRANG TRÍ ĐỀN VUA ĐINH, VUA LÊ TỪ GÓC NHÌN SO SÁNH VỚI ẤN ...
 
Bài dự thi tích hợp kiến thức liên môn mĩ thuật, lịch sử, địa lý dạy tiết 3...
Bài dự thi tích hợp kiến thức liên môn mĩ thuật, lịch sử, địa lý dạy tiết 3...Bài dự thi tích hợp kiến thức liên môn mĩ thuật, lịch sử, địa lý dạy tiết 3...
Bài dự thi tích hợp kiến thức liên môn mĩ thuật, lịch sử, địa lý dạy tiết 3...
 
Luận án: Nghề chạm khắc đá ở An Hoạch (huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa) thời t...
Luận án: Nghề chạm khắc đá ở An Hoạch (huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa) thời t...Luận án: Nghề chạm khắc đá ở An Hoạch (huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa) thời t...
Luận án: Nghề chạm khắc đá ở An Hoạch (huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa) thời t...
 
NÔNG NGHIỆP TRONG TRANH KHẮC GỖ VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1955-1985.pdf
NÔNG NGHIỆP TRONG TRANH KHẮC GỖ VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1955-1985.pdfNÔNG NGHIỆP TRONG TRANH KHẮC GỖ VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1955-1985.pdf
NÔNG NGHIỆP TRONG TRANH KHẮC GỖ VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1955-1985.pdf
 
Luận văn thạc sĩ văn hóa học Di sản khảo cổ học trong bối cảnh Đương Đại
Luận văn thạc sĩ văn hóa học Di sản khảo cổ học trong bối cảnh Đương ĐạiLuận văn thạc sĩ văn hóa học Di sản khảo cổ học trong bối cảnh Đương Đại
Luận văn thạc sĩ văn hóa học Di sản khảo cổ học trong bối cảnh Đương Đại
 
Luận án: Các đàn miếu đại tự triều nhà Nguyễn ở Huế (1802-1945)
Luận án: Các đàn miếu đại tự triều nhà Nguyễn ở Huế (1802-1945)Luận án: Các đàn miếu đại tự triều nhà Nguyễn ở Huế (1802-1945)
Luận án: Các đàn miếu đại tự triều nhà Nguyễn ở Huế (1802-1945)
 
Luận án: Biểu tượng đá trong truyền thuyết dân gian Việt Nam
Luận án: Biểu tượng đá trong truyền thuyết dân gian Việt NamLuận án: Biểu tượng đá trong truyền thuyết dân gian Việt Nam
Luận án: Biểu tượng đá trong truyền thuyết dân gian Việt Nam
 
Đề tài: Nội dung hoạt động ngoại khoá môn Lịch sử Mỹ thuật, HAY
Đề tài: Nội dung hoạt động ngoại khoá môn Lịch sử Mỹ thuật, HAYĐề tài: Nội dung hoạt động ngoại khoá môn Lịch sử Mỹ thuật, HAY
Đề tài: Nội dung hoạt động ngoại khoá môn Lịch sử Mỹ thuật, HAY
 
KIẾN TRÚC BIỂU HIỆN TẠI VIỆT NAM.pdf
KIẾN TRÚC BIỂU HIỆN TẠI VIỆT NAM.pdfKIẾN TRÚC BIỂU HIỆN TẠI VIỆT NAM.pdf
KIẾN TRÚC BIỂU HIỆN TẠI VIỆT NAM.pdf
 
Tìm hiểu về Cuốn thư đá - Mẫu Cuốn thư đá ĐẸP Anh Đức
Tìm hiểu về Cuốn thư đá - Mẫu Cuốn thư đá ĐẸP Anh ĐứcTìm hiểu về Cuốn thư đá - Mẫu Cuốn thư đá ĐẸP Anh Đức
Tìm hiểu về Cuốn thư đá - Mẫu Cuốn thư đá ĐẸP Anh Đức
 
Luận văn: Di sản khảo cổ học trong bối cảnh đương đại, HAY
Luận văn: Di sản khảo cổ học trong bối cảnh đương đại, HAYLuận văn: Di sản khảo cổ học trong bối cảnh đương đại, HAY
Luận văn: Di sản khảo cổ học trong bối cảnh đương đại, HAY
 
[Kho tài liệu ngành may] trang phục dạ hội được phát triển dựa trên hình ảnh ...
[Kho tài liệu ngành may] trang phục dạ hội được phát triển dựa trên hình ảnh ...[Kho tài liệu ngành may] trang phục dạ hội được phát triển dựa trên hình ảnh ...
[Kho tài liệu ngành may] trang phục dạ hội được phát triển dựa trên hình ảnh ...
 
Nâng cao hiệu quả khai thác du lịch bảo tàng quốc gia ở Hà Nội!
Nâng cao hiệu quả khai thác du lịch bảo tàng quốc gia ở Hà Nội!Nâng cao hiệu quả khai thác du lịch bảo tàng quốc gia ở Hà Nội!
Nâng cao hiệu quả khai thác du lịch bảo tàng quốc gia ở Hà Nội!
 
Luận văn: Dạy môn Lịch sử Design tại Trường ĐH Mĩ thuật, HAY
Luận văn: Dạy môn Lịch sử Design tại Trường ĐH Mĩ thuật, HAYLuận văn: Dạy môn Lịch sử Design tại Trường ĐH Mĩ thuật, HAY
Luận văn: Dạy môn Lịch sử Design tại Trường ĐH Mĩ thuật, HAY
 
ĐỀ TÀI Dạy học môn Lịch sử Design tại Trường Đại học Mĩ thuật Công nghiệp Á C...
ĐỀ TÀI Dạy học môn Lịch sử Design tại Trường Đại học Mĩ thuật Công nghiệp Á C...ĐỀ TÀI Dạy học môn Lịch sử Design tại Trường Đại học Mĩ thuật Công nghiệp Á C...
ĐỀ TÀI Dạy học môn Lịch sử Design tại Trường Đại học Mĩ thuật Công nghiệp Á C...
 
TỔ CHỨC KHÔNG GIAN KIẾN TRÚC VÀ BẢO TỒN CÁC GIÁ TRỊ VĂN HÓA KHU VĂN HÓA LỊCH ...
TỔ CHỨC KHÔNG GIAN KIẾN TRÚC VÀ BẢO TỒN CÁC GIÁ TRỊ VĂN HÓA KHU VĂN HÓA LỊCH ...TỔ CHỨC KHÔNG GIAN KIẾN TRÚC VÀ BẢO TỒN CÁC GIÁ TRỊ VĂN HÓA KHU VĂN HÓA LỊCH ...
TỔ CHỨC KHÔNG GIAN KIẾN TRÚC VÀ BẢO TỒN CÁC GIÁ TRỊ VĂN HÓA KHU VĂN HÓA LỊCH ...
 
Múa dân gian đương đại trong xã hội Việt Nam thời kỳ hội nhập, HAY
Múa dân gian đương đại trong xã hội Việt Nam thời kỳ hội nhập, HAYMúa dân gian đương đại trong xã hội Việt Nam thời kỳ hội nhập, HAY
Múa dân gian đương đại trong xã hội Việt Nam thời kỳ hội nhập, HAY
 
Luận văn: Di tích thờ anh hùng dân tộc Ngô Vương Quyền, HAY
Luận văn: Di tích thờ anh hùng dân tộc Ngô Vương Quyền, HAYLuận văn: Di tích thờ anh hùng dân tộc Ngô Vương Quyền, HAY
Luận văn: Di tích thờ anh hùng dân tộc Ngô Vương Quyền, HAY
 
[Kho tài liệu ngành may] bst cảm hứng phố cổ
[Kho tài liệu ngành may] bst cảm hứng phố cổ[Kho tài liệu ngành may] bst cảm hứng phố cổ
[Kho tài liệu ngành may] bst cảm hứng phố cổ
 
QUẢN LÝ DI TÍCH ĐỀN VÀ, THỊ XÃ SƠN TÂY, THÀNH PHỐ HÀ NỘI.pdf
QUẢN LÝ DI TÍCH ĐỀN VÀ, THỊ XÃ SƠN TÂY, THÀNH PHỐ HÀ NỘI.pdfQUẢN LÝ DI TÍCH ĐỀN VÀ, THỊ XÃ SƠN TÂY, THÀNH PHỐ HÀ NỘI.pdf
QUẢN LÝ DI TÍCH ĐỀN VÀ, THỊ XÃ SƠN TÂY, THÀNH PHỐ HÀ NỘI.pdf
 

More from jackjohn45

ĐẶC ĐIỂM THƠ MAI VĂN PHẤN Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Văn học Việt Nam.pdf
ĐẶC ĐIỂM THƠ MAI VĂN PHẤN Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Văn học Việt Nam.pdfĐẶC ĐIỂM THƠ MAI VĂN PHẤN Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Văn học Việt Nam.pdf
ĐẶC ĐIỂM THƠ MAI VĂN PHẤN Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Văn học Việt Nam.pdfjackjohn45
 
ĐẶC ĐIỂM THƠ MAI VĂN PHẤN Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Văn học Việt Nam.pdf
ĐẶC ĐIỂM THƠ MAI VĂN PHẤN Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Văn học Việt Nam.pdfĐẶC ĐIỂM THƠ MAI VĂN PHẤN Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Văn học Việt Nam.pdf
ĐẶC ĐIỂM THƠ MAI VĂN PHẤN Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Văn học Việt Nam.pdfjackjohn45
 
Sử dụng Bản đồ khái niệm trong dạy học chương Động học chất điểm.pdf
Sử dụng Bản đồ khái niệm trong dạy học chương Động học chất điểm.pdfSử dụng Bản đồ khái niệm trong dạy học chương Động học chất điểm.pdf
Sử dụng Bản đồ khái niệm trong dạy học chương Động học chất điểm.pdfjackjohn45
 
Sử dụng tài liệu về di sản văn hóa vật thể ở địa phương trong dạy học lịch sử...
Sử dụng tài liệu về di sản văn hóa vật thể ở địa phương trong dạy học lịch sử...Sử dụng tài liệu về di sản văn hóa vật thể ở địa phương trong dạy học lịch sử...
Sử dụng tài liệu về di sản văn hóa vật thể ở địa phương trong dạy học lịch sử...jackjohn45
 
NGHIÊN CỨU KHẢ NĂNG LAN TRUYỀN VI RÚTTỪ RỆP SÁP (Ferrisia virgata) ĐẾN CÂY TI...
NGHIÊN CỨU KHẢ NĂNG LAN TRUYỀN VI RÚTTỪ RỆP SÁP (Ferrisia virgata) ĐẾN CÂY TI...NGHIÊN CỨU KHẢ NĂNG LAN TRUYỀN VI RÚTTỪ RỆP SÁP (Ferrisia virgata) ĐẾN CÂY TI...
NGHIÊN CỨU KHẢ NĂNG LAN TRUYỀN VI RÚTTỪ RỆP SÁP (Ferrisia virgata) ĐẾN CÂY TI...jackjohn45
 
BÁO CÁO ĐÁNH GIÁ NGOÀI Trung tâm Giáo dục thường xuyên tỉnh Ninh Thuận (TP Ph...
BÁO CÁO ĐÁNH GIÁ NGOÀI Trung tâm Giáo dục thường xuyên tỉnh Ninh Thuận (TP Ph...BÁO CÁO ĐÁNH GIÁ NGOÀI Trung tâm Giáo dục thường xuyên tỉnh Ninh Thuận (TP Ph...
BÁO CÁO ĐÁNH GIÁ NGOÀI Trung tâm Giáo dục thường xuyên tỉnh Ninh Thuận (TP Ph...jackjohn45
 
BÌNH ĐẲNG GIỚI Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH 8067022.pdf
BÌNH ĐẲNG GIỚI Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH 8067022.pdfBÌNH ĐẲNG GIỚI Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH 8067022.pdf
BÌNH ĐẲNG GIỚI Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH 8067022.pdfjackjohn45
 
PHƯƠNG PHÁP DẠY DẠNG BÀI KẾT HỢP KỸ NĂNG TRONG TIẾT DẠY SKILLS 2.pdf
PHƯƠNG PHÁP DẠY DẠNG BÀI KẾT HỢP KỸ NĂNG TRONG TIẾT DẠY SKILLS 2.pdfPHƯƠNG PHÁP DẠY DẠNG BÀI KẾT HỢP KỸ NĂNG TRONG TIẾT DẠY SKILLS 2.pdf
PHƯƠNG PHÁP DẠY DẠNG BÀI KẾT HỢP KỸ NĂNG TRONG TIẾT DẠY SKILLS 2.pdfjackjohn45
 
Hiệu quả sử dụng tài sản tại công ty cổ phần công nghệ Hợp Long.pdf
Hiệu quả sử dụng tài sản tại công ty cổ phần công nghệ Hợp Long.pdfHiệu quả sử dụng tài sản tại công ty cổ phần công nghệ Hợp Long.pdf
Hiệu quả sử dụng tài sản tại công ty cổ phần công nghệ Hợp Long.pdfjackjohn45
 
ĐÁNH GIÁ TÍNH THÍCH NGHI SINH THÁI CỦA MỘT SỐ LOÀI CÂY TRỒNG CHỦ LỰC VỚI ĐIỀU...
ĐÁNH GIÁ TÍNH THÍCH NGHI SINH THÁI CỦA MỘT SỐ LOÀI CÂY TRỒNG CHỦ LỰC VỚI ĐIỀU...ĐÁNH GIÁ TÍNH THÍCH NGHI SINH THÁI CỦA MỘT SỐ LOÀI CÂY TRỒNG CHỦ LỰC VỚI ĐIỀU...
ĐÁNH GIÁ TÍNH THÍCH NGHI SINH THÁI CỦA MỘT SỐ LOÀI CÂY TRỒNG CHỦ LỰC VỚI ĐIỀU...jackjohn45
 
Nỗ lực hướng đến việc tiếp nhận nguồn nhân lực nước ngoài mới và thực hiện ki...
Nỗ lực hướng đến việc tiếp nhận nguồn nhân lực nước ngoài mới và thực hiện ki...Nỗ lực hướng đến việc tiếp nhận nguồn nhân lực nước ngoài mới và thực hiện ki...
Nỗ lực hướng đến việc tiếp nhận nguồn nhân lực nước ngoài mới và thực hiện ki...jackjohn45
 
[123doc] - thu-nghiem-nuoi-trong-mot-so-nam-an-tren-co-chat-loi-ngo.pdf
[123doc] - thu-nghiem-nuoi-trong-mot-so-nam-an-tren-co-chat-loi-ngo.pdf[123doc] - thu-nghiem-nuoi-trong-mot-so-nam-an-tren-co-chat-loi-ngo.pdf
[123doc] - thu-nghiem-nuoi-trong-mot-so-nam-an-tren-co-chat-loi-ngo.pdfjackjohn45
 
THỬ NGHIỆM NUÔI TRỒNG MỘT SỐ NẤM ĂN TRÊN CƠ CHẤT LÕI NGÔ.pdf
THỬ NGHIỆM NUÔI TRỒNG MỘT SỐ NẤM ĂN TRÊN CƠ CHẤT LÕI NGÔ.pdfTHỬ NGHIỆM NUÔI TRỒNG MỘT SỐ NẤM ĂN TRÊN CƠ CHẤT LÕI NGÔ.pdf
THỬ NGHIỆM NUÔI TRỒNG MỘT SỐ NẤM ĂN TRÊN CƠ CHẤT LÕI NGÔ.pdfjackjohn45
 
Bài Giảng Thị Trường Chứng Khoán.pdf
Bài Giảng Thị Trường Chứng Khoán.pdfBài Giảng Thị Trường Chứng Khoán.pdf
Bài Giảng Thị Trường Chứng Khoán.pdfjackjohn45
 
CHUỖI THỜI GIAN - LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC.pdf
CHUỖI THỜI GIAN - LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC.pdfCHUỖI THỜI GIAN - LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC.pdf
CHUỖI THỜI GIAN - LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC.pdfjackjohn45
 
Experimental Research on the Effect of Self-monitoring Technique on Improving...
Experimental Research on the Effect of Self-monitoring Technique on Improving...Experimental Research on the Effect of Self-monitoring Technique on Improving...
Experimental Research on the Effect of Self-monitoring Technique on Improving...jackjohn45
 
Vietnamese translated variants of verbs of Giving Receiving in Harry Potter a...
Vietnamese translated variants of verbs of Giving Receiving in Harry Potter a...Vietnamese translated variants of verbs of Giving Receiving in Harry Potter a...
Vietnamese translated variants of verbs of Giving Receiving in Harry Potter a...jackjohn45
 
[123doc] - university-of-copenhagen-characteristics-of-the-vietnamese-rural-e...
[123doc] - university-of-copenhagen-characteristics-of-the-vietnamese-rural-e...[123doc] - university-of-copenhagen-characteristics-of-the-vietnamese-rural-e...
[123doc] - university-of-copenhagen-characteristics-of-the-vietnamese-rural-e...jackjohn45
 
university of copenhagen Characteristics of the Vietnamese Rural EconomyEvide...
university of copenhagen Characteristics of the Vietnamese Rural EconomyEvide...university of copenhagen Characteristics of the Vietnamese Rural EconomyEvide...
university of copenhagen Characteristics of the Vietnamese Rural EconomyEvide...jackjohn45
 
NÂNG CAO NĂNG LỰC ĐỘI NGŨ VIÊN CHỨC NGÀNH BẢO HIỂM XÃ HỘI THÔNG QUA VIỆC THI ...
NÂNG CAO NĂNG LỰC ĐỘI NGŨ VIÊN CHỨC NGÀNH BẢO HIỂM XÃ HỘI THÔNG QUA VIỆC THI ...NÂNG CAO NĂNG LỰC ĐỘI NGŨ VIÊN CHỨC NGÀNH BẢO HIỂM XÃ HỘI THÔNG QUA VIỆC THI ...
NÂNG CAO NĂNG LỰC ĐỘI NGŨ VIÊN CHỨC NGÀNH BẢO HIỂM XÃ HỘI THÔNG QUA VIỆC THI ...jackjohn45
 

More from jackjohn45 (20)

ĐẶC ĐIỂM THƠ MAI VĂN PHẤN Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Văn học Việt Nam.pdf
ĐẶC ĐIỂM THƠ MAI VĂN PHẤN Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Văn học Việt Nam.pdfĐẶC ĐIỂM THƠ MAI VĂN PHẤN Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Văn học Việt Nam.pdf
ĐẶC ĐIỂM THƠ MAI VĂN PHẤN Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Văn học Việt Nam.pdf
 
ĐẶC ĐIỂM THƠ MAI VĂN PHẤN Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Văn học Việt Nam.pdf
ĐẶC ĐIỂM THƠ MAI VĂN PHẤN Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Văn học Việt Nam.pdfĐẶC ĐIỂM THƠ MAI VĂN PHẤN Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Văn học Việt Nam.pdf
ĐẶC ĐIỂM THƠ MAI VĂN PHẤN Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Văn học Việt Nam.pdf
 
Sử dụng Bản đồ khái niệm trong dạy học chương Động học chất điểm.pdf
Sử dụng Bản đồ khái niệm trong dạy học chương Động học chất điểm.pdfSử dụng Bản đồ khái niệm trong dạy học chương Động học chất điểm.pdf
Sử dụng Bản đồ khái niệm trong dạy học chương Động học chất điểm.pdf
 
Sử dụng tài liệu về di sản văn hóa vật thể ở địa phương trong dạy học lịch sử...
Sử dụng tài liệu về di sản văn hóa vật thể ở địa phương trong dạy học lịch sử...Sử dụng tài liệu về di sản văn hóa vật thể ở địa phương trong dạy học lịch sử...
Sử dụng tài liệu về di sản văn hóa vật thể ở địa phương trong dạy học lịch sử...
 
NGHIÊN CỨU KHẢ NĂNG LAN TRUYỀN VI RÚTTỪ RỆP SÁP (Ferrisia virgata) ĐẾN CÂY TI...
NGHIÊN CỨU KHẢ NĂNG LAN TRUYỀN VI RÚTTỪ RỆP SÁP (Ferrisia virgata) ĐẾN CÂY TI...NGHIÊN CỨU KHẢ NĂNG LAN TRUYỀN VI RÚTTỪ RỆP SÁP (Ferrisia virgata) ĐẾN CÂY TI...
NGHIÊN CỨU KHẢ NĂNG LAN TRUYỀN VI RÚTTỪ RỆP SÁP (Ferrisia virgata) ĐẾN CÂY TI...
 
BÁO CÁO ĐÁNH GIÁ NGOÀI Trung tâm Giáo dục thường xuyên tỉnh Ninh Thuận (TP Ph...
BÁO CÁO ĐÁNH GIÁ NGOÀI Trung tâm Giáo dục thường xuyên tỉnh Ninh Thuận (TP Ph...BÁO CÁO ĐÁNH GIÁ NGOÀI Trung tâm Giáo dục thường xuyên tỉnh Ninh Thuận (TP Ph...
BÁO CÁO ĐÁNH GIÁ NGOÀI Trung tâm Giáo dục thường xuyên tỉnh Ninh Thuận (TP Ph...
 
BÌNH ĐẲNG GIỚI Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH 8067022.pdf
BÌNH ĐẲNG GIỚI Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH 8067022.pdfBÌNH ĐẲNG GIỚI Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH 8067022.pdf
BÌNH ĐẲNG GIỚI Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH 8067022.pdf
 
PHƯƠNG PHÁP DẠY DẠNG BÀI KẾT HỢP KỸ NĂNG TRONG TIẾT DẠY SKILLS 2.pdf
PHƯƠNG PHÁP DẠY DẠNG BÀI KẾT HỢP KỸ NĂNG TRONG TIẾT DẠY SKILLS 2.pdfPHƯƠNG PHÁP DẠY DẠNG BÀI KẾT HỢP KỸ NĂNG TRONG TIẾT DẠY SKILLS 2.pdf
PHƯƠNG PHÁP DẠY DẠNG BÀI KẾT HỢP KỸ NĂNG TRONG TIẾT DẠY SKILLS 2.pdf
 
Hiệu quả sử dụng tài sản tại công ty cổ phần công nghệ Hợp Long.pdf
Hiệu quả sử dụng tài sản tại công ty cổ phần công nghệ Hợp Long.pdfHiệu quả sử dụng tài sản tại công ty cổ phần công nghệ Hợp Long.pdf
Hiệu quả sử dụng tài sản tại công ty cổ phần công nghệ Hợp Long.pdf
 
ĐÁNH GIÁ TÍNH THÍCH NGHI SINH THÁI CỦA MỘT SỐ LOÀI CÂY TRỒNG CHỦ LỰC VỚI ĐIỀU...
ĐÁNH GIÁ TÍNH THÍCH NGHI SINH THÁI CỦA MỘT SỐ LOÀI CÂY TRỒNG CHỦ LỰC VỚI ĐIỀU...ĐÁNH GIÁ TÍNH THÍCH NGHI SINH THÁI CỦA MỘT SỐ LOÀI CÂY TRỒNG CHỦ LỰC VỚI ĐIỀU...
ĐÁNH GIÁ TÍNH THÍCH NGHI SINH THÁI CỦA MỘT SỐ LOÀI CÂY TRỒNG CHỦ LỰC VỚI ĐIỀU...
 
Nỗ lực hướng đến việc tiếp nhận nguồn nhân lực nước ngoài mới và thực hiện ki...
Nỗ lực hướng đến việc tiếp nhận nguồn nhân lực nước ngoài mới và thực hiện ki...Nỗ lực hướng đến việc tiếp nhận nguồn nhân lực nước ngoài mới và thực hiện ki...
Nỗ lực hướng đến việc tiếp nhận nguồn nhân lực nước ngoài mới và thực hiện ki...
 
[123doc] - thu-nghiem-nuoi-trong-mot-so-nam-an-tren-co-chat-loi-ngo.pdf
[123doc] - thu-nghiem-nuoi-trong-mot-so-nam-an-tren-co-chat-loi-ngo.pdf[123doc] - thu-nghiem-nuoi-trong-mot-so-nam-an-tren-co-chat-loi-ngo.pdf
[123doc] - thu-nghiem-nuoi-trong-mot-so-nam-an-tren-co-chat-loi-ngo.pdf
 
THỬ NGHIỆM NUÔI TRỒNG MỘT SỐ NẤM ĂN TRÊN CƠ CHẤT LÕI NGÔ.pdf
THỬ NGHIỆM NUÔI TRỒNG MỘT SỐ NẤM ĂN TRÊN CƠ CHẤT LÕI NGÔ.pdfTHỬ NGHIỆM NUÔI TRỒNG MỘT SỐ NẤM ĂN TRÊN CƠ CHẤT LÕI NGÔ.pdf
THỬ NGHIỆM NUÔI TRỒNG MỘT SỐ NẤM ĂN TRÊN CƠ CHẤT LÕI NGÔ.pdf
 
Bài Giảng Thị Trường Chứng Khoán.pdf
Bài Giảng Thị Trường Chứng Khoán.pdfBài Giảng Thị Trường Chứng Khoán.pdf
Bài Giảng Thị Trường Chứng Khoán.pdf
 
CHUỖI THỜI GIAN - LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC.pdf
CHUỖI THỜI GIAN - LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC.pdfCHUỖI THỜI GIAN - LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC.pdf
CHUỖI THỜI GIAN - LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC.pdf
 
Experimental Research on the Effect of Self-monitoring Technique on Improving...
Experimental Research on the Effect of Self-monitoring Technique on Improving...Experimental Research on the Effect of Self-monitoring Technique on Improving...
Experimental Research on the Effect of Self-monitoring Technique on Improving...
 
Vietnamese translated variants of verbs of Giving Receiving in Harry Potter a...
Vietnamese translated variants of verbs of Giving Receiving in Harry Potter a...Vietnamese translated variants of verbs of Giving Receiving in Harry Potter a...
Vietnamese translated variants of verbs of Giving Receiving in Harry Potter a...
 
[123doc] - university-of-copenhagen-characteristics-of-the-vietnamese-rural-e...
[123doc] - university-of-copenhagen-characteristics-of-the-vietnamese-rural-e...[123doc] - university-of-copenhagen-characteristics-of-the-vietnamese-rural-e...
[123doc] - university-of-copenhagen-characteristics-of-the-vietnamese-rural-e...
 
university of copenhagen Characteristics of the Vietnamese Rural EconomyEvide...
university of copenhagen Characteristics of the Vietnamese Rural EconomyEvide...university of copenhagen Characteristics of the Vietnamese Rural EconomyEvide...
university of copenhagen Characteristics of the Vietnamese Rural EconomyEvide...
 
NÂNG CAO NĂNG LỰC ĐỘI NGŨ VIÊN CHỨC NGÀNH BẢO HIỂM XÃ HỘI THÔNG QUA VIỆC THI ...
NÂNG CAO NĂNG LỰC ĐỘI NGŨ VIÊN CHỨC NGÀNH BẢO HIỂM XÃ HỘI THÔNG QUA VIỆC THI ...NÂNG CAO NĂNG LỰC ĐỘI NGŨ VIÊN CHỨC NGÀNH BẢO HIỂM XÃ HỘI THÔNG QUA VIỆC THI ...
NÂNG CAO NĂNG LỰC ĐỘI NGŨ VIÊN CHỨC NGÀNH BẢO HIỂM XÃ HỘI THÔNG QUA VIỆC THI ...
 

Recently uploaded

GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
CD21 Exercise 2.1 KEY.docx tieng anh cho
CD21 Exercise 2.1 KEY.docx tieng anh choCD21 Exercise 2.1 KEY.docx tieng anh cho
CD21 Exercise 2.1 KEY.docx tieng anh chonamc250
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
sách sinh học đại cương   -   Textbook.pdfsách sinh học đại cương   -   Textbook.pdf
sách sinh học đại cương - Textbook.pdfTrnHoa46
 
Nhiễm khuẩn tiêu hóa-Tiêu chảy do vi khuẩn.pptx
Nhiễm khuẩn tiêu hóa-Tiêu chảy do vi khuẩn.pptxNhiễm khuẩn tiêu hóa-Tiêu chảy do vi khuẩn.pptx
Nhiễm khuẩn tiêu hóa-Tiêu chảy do vi khuẩn.pptxhoangvubaongoc112011
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIGIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIĐiện Lạnh Bách Khoa Hà Nội
 
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảo
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảoKiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảo
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảohoanhv296
 
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfhoangtuansinh1
 
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docxTHAO316680
 
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfCampbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfTrnHoa46
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...Nguyen Thanh Tu Collection
 
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢIPHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢImyvh40253
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdfBỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdfNguyen Thanh Tu Collection
 
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quanGNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quanmyvh40253
 
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoáCác điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoámyvh40253
 
Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................TrnHoa46
 

Recently uploaded (20)

GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
 
CD21 Exercise 2.1 KEY.docx tieng anh cho
CD21 Exercise 2.1 KEY.docx tieng anh choCD21 Exercise 2.1 KEY.docx tieng anh cho
CD21 Exercise 2.1 KEY.docx tieng anh cho
 
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
sách sinh học đại cương   -   Textbook.pdfsách sinh học đại cương   -   Textbook.pdf
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
 
Nhiễm khuẩn tiêu hóa-Tiêu chảy do vi khuẩn.pptx
Nhiễm khuẩn tiêu hóa-Tiêu chảy do vi khuẩn.pptxNhiễm khuẩn tiêu hóa-Tiêu chảy do vi khuẩn.pptx
Nhiễm khuẩn tiêu hóa-Tiêu chảy do vi khuẩn.pptx
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIGIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
 
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảo
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảoKiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảo
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảo
 
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
 
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
 
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfCampbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
 
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢIPHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdfBỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
 
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quanGNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
 
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoáCác điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
 
Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................
 

Nghệ thuật điêu khắc tượng đài chất liệu đá ở việt nam giai đoạn 2000 đến 2015

  • 1. 1 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Nghệ thuật điêu khắc ở Việt Nam có một truyền thống lâu đời và đáng tự hào với các điển hình đặc sắc. Mỗi giai đoạn thời kỳ lịch sử lại có những thành tựu nghệ thuật điêu khắc mang dấu ấn riêng, rõ nét về các giá trị văn hóa truyền thống. Với sự tiếp thu tính khoa học trong công nghệ của nghệ thuật phương Tây kết hợp với các tình cảm dân tộc và thẩm mỹ truyền thống, nền điêu khắc Việt Nam hiện đại đã tạo ra nhiều tác phẩm điêu khắc mang âm hưởng và bản sắc riêng. Đặc biệt, trong giai đoạn từ năm 2000 đến năm 2015, nhiều tượng đài chất liệu đá đã được đầu tư xây dựng. Chất liệu đá mang lại vẻ đẹp bề thế, vững chãi cho tượng đài với lối tạo hình mạnh mẽ, chắc khỏe. Chất liệu này cũng phù hợp với nhiều không gian, vị trí địa lí và điều kiện kinh tế ngày càng phát triển của đất nước ta, phản ánh rõ những biến động lịch sử trong các giai đoạn xây dựng và phát triển đất nước cùng truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Qua nhiều năm đổi mới, nền kinh tế nước ta phát triển hơn trước nên trong khoảng thời gian từ năm 2000 đến năm 2015, hệ thống tượng đài của Việt Nam mọc nên khá nhiều với chất liệu đá – một chất liệu thường đồng nghĩa với sự vĩnh cửu và trường tồn. Dù gồ ghề hay trơn nhẵn thì chất liệu đá vẫn cho ta thấy cảm giác lạnh và xa xăm nhưng bù lại tượng đá lại cho ta thấy được sự bề thế, vững chãi và trang nghiêm, phù hợp với những nội dung cần biểu đạt. Các tượng đài được đặt ở nơi công cộng, những nơi có nhiềungười qua lại đểlàm rõ hơn vai trò của tượng đài trong mục đích tuyên truyền, tôn vinh những giá trị văn hóa hay nhân vật lịch sử. Đặc biệt từ năm 2000 đến năm 2015 là giai đoạn mà đất nước đang tiến hành xây dựng với nhiều cải cách và đổi mới : cải cách giáo dục, đổi mới cảnh quan đô thị, nhớ ơn các anh hùng liệt sĩ,.... Với chủ trương nâng cao nhận thức của người dân về
  • 2. 2 nghệ thuật, giá trị văn hóa truyền thống thì việc xây dựng tượng đài có kích thước lớn là hoàn toàn phù hợp với các mục tiêu đề ra, đưa nghệ thuật đến gần hơn với công chúng. Đất nước ta có bề dày lịch sử dựng nước và giữ nước, nhiều sự kiện chính trị, văn hóa, xã hội, nhiều chiến thắng vĩ đại nên việc xây dựng các tượng đài để ghi lại bằng nghệ thuật điêu khắc là điều tất yếu và là nhu cầu của một xã hội phát triển. Việc đô thị hóa cũng như nhu cầu làm đẹp không gian kiến trúc đô thị bằng những tượng đài là nhu cầu tự thân của một xã hội phát triển.Trong 15 năm qua, việc xây dựng tượng đài đã được các cấp chính quyền từ Trung ương đến địa phương quan tâm ở mức độ nhất định, tuy chưa đáp ứng được với nhu cầu và đòi hỏi thực tế.Một số công trình tượng đài có chất lượng đã được xây dựng như tượng đài tượng đài Bác Hồ với Tuyên Quang, tượng đài Quang Trung ở Thừa Thiên-Huế; tượng đài Bác Hồ- Bác Tôn ở Hà Nội;…Đó là những công trình tượng đài có nội dung tư tưởng sâu sắc và giá trị thẩm mỹ tốt, góp phần tích cực vào việc giáo dục truyền thống, lịch sử, tạo cảnh quan môi trường văn hóa nghệ thuật, phục vụ đời sống văn hóa, tinh thần của nhân dân. Hiện nay có khá nhiều các tài liệu nghiên cứu về tượng đài chất liệu đá. Từ năm 2000 đến năm 2015, các nghiên cứu về nghệ thuật điêu khắc chất liệu đá ở Việt Nam như nghiên cứu khoa học, luận văn, đồ án…đã đề cập đến nhiều cách thức tạo hình, chỉ ra được các ưu điểm của chất liệu này khi thi công những công trình tượng đài. Tuy nhiên, vẫn còn có một số vấn đề mà các tài liệu trên ít đề cập đến như bố cục, hình khối, chất cảm… trong điêu khắc tượng đài chất liệu đá ở Việt Nam. Vì vậy, tôi chọn đề tài của luận văn là: “Nghệ thuật điêu khắc tượng đài chất liệu đá ở Việt Nam giai đoạn 2000 đến 2015” để làm rõ các đặc trưng nghệ thuật và các giá trị khác của nghệ thuật này.
  • 3. 3 2. Tình hình nghiên cứu của đề tài Hiện nay, các tài liệu nghiên cứu liên quan đến nghệ thuật điêu khắc không ít trên các trang thông tin của các trường nghệ thuật, các bài viết trên trang thông tin của Viện nghiên cứu... như: Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch (2010), Tượng đài và tranh hoành tráng Việt Nam. Đây là một tập sách được biên tập công phu, hiện diện nhiều tượng đài chất liệu đá, vinh danh những danh nhân văn hóa, anh hùng dân tộc, bà mẹ Việt Nam anh hùng… Tập sách phản ánh khá đầy đủ những thành công của tượng đài chất liệu đá, về cách thức thể hiện và không gian biểu đạt. Những tác phẩm ấy đều được đặt tại những địa danh đã đi vào lịch sử và có giá trị tự thân. Tài liệu “Nghệ thuật hoành tráng” của các tác giả: Triệu Trúc Đan, Nguyễn Quân, Phạm Công Thành, Nguyễn Trân, năm 1981, Nxb Văn Hóa. Tài liệu là tập hợp các bài nghiên cứu, dịch thuật về “ Nghệ thuật hoành tráng” nói chung. Tài liệu đó đã làm rõ khái niệm thuật ngữ “hoành tráng” cùng các biểu hiện của nghệ thuật hoành tráng trong kiến trúc mỹ thuật. Ngoài ra còn một số tài liệu khác đề cập khá nhiều tới điêu khắc hoành tráng như : “Hợp thể kiến trúc – nghệ thuật tạo hình xưa và nay” của Triệu Trúc Đan và bài viết: “Đặc trưng thẩm mỹ và chức năng xã hội của nghệ thuật hoành tráng” của Nguyễn Quân. Năm 2002, Kỷ yếu hội thảo khoa học Thẩm mỹ môi trường, trường Đại học Mỹ thuật Hà Nội – Viện Mỹ thuật, Nxb Mỹ Thuật. Tài liệu đã tổng hợp các tham luận xoay quanh vấn đề “Thẩm mĩ môi trường” xác định các cơ sở lý luận, quan niệm về thẩm mỹ môi trường. Trong đó, có nhiều bài viết đề cập đến không gian thẩm mỹ tượng đài, không gian thẩm mỹ trong điêu khắc môi trường, quy hoạch tượng đài nhìn từ quy hoạch đô thị, các trao đổi xung quanh chủ đề thẩm mỹ môi trường nói chung và tượng đài, điêu khắc ngoài trời nói riêng. Tiêu biểu là bài viết của Nguyễn Thái Lai
  • 4. 4 (2002), Không gian thẩm mĩ tượng đài, đã đề cập một cách trực tiếp tới những vấn đề này. Kỷ yếu hội thảo khoa học Điêu khắc ngoài trời Việt Nam hiện đại (2006), trường Đại Học Mỹ Thuật Hà Nội – Viện Mỹ thuật, Nxb Mỹ thuật. Tài liệu tổng hợp các tham luận tại hội thảo về thực trạng và giải pháp khắc phục tình trạng xây dựng tượng đài tràn lan ở Việt Nam. Ngoài ra, còn có một số các bài nghiên cứu, phân tích hiện trạng các trại sáng tác điêu khắc ngoài trời. Với mục tiêu chung của hội thảo là các bài tham luận hướng đến việc xây dựng các giá trị điêu khắc ngoài trời ở Việt Nam hiện đại, đậm đà bản sắc dân tộc và có tính giáo dục về thẩm mỹ, lịch sử, văn hóa. Bài viết của Trang Thanh Hiền, tượng đài Hà Nội – Cái nhìn lại ; Trịnh Cung, Tượng đài và không gian mỹ thuật thành phố Hồ Chí Minh ; Phạm Bình Chương, Những quan niệm sai lầm về tượng đài ở Việt Nam ; Nguyễn Trương Quý, Tượng đài đứng ở đầu đường ;… … và nhiều bài viết khác đã chỉ ra được những tồn tại và hạn chế của nghệ thuật tượng đài ở Việt Nam. Cục Mỹ thuật, Nhiếp ảnh và Triển lãm xuất bản năm 2010, Tượng đài và tranh hoành tráng Việt Nam. Tài liệu đã thống kê tác phẩm và số lượng tượng đài khá lớn trên khắp cả nước. Nguyễn Xuân Tiên (2007), Quá trình phát triển điêu khắc hoành tráng Việt Nam thế kỷ XX. Đây là công trình nghiên cứu chuyên sâu nhất về điêu khắc tượng đài Việt Nam, là luận án tiến sĩ nghệ thuật chuyên ngành Lý luận và lịch sử Mỹ thuật, Viện Văn Hóa – Thông tin. Luận án gồm 4 chương, trong đó, chương 1 trình bày tổng quan về nghệ thuật điêu khắc hoành tráng, khái quát về lịch sử của loại hình từ Phương Tây tới Phương Đông. Chương 2 tập trung khái quát lịch sử hình thành và phát triển của điêu khắc hoành tráng Việt Nam từ năm 1900 đến 1986. Chương 2 được trình bày có hệ thống, chi tiết về các mốc xuất hiện các công trình điêu
  • 5. 5 khắc hoành tráng đầu tiên ở Việt Nam. Chương 3 nói về sự phát triển của nghệ thuật điêu khắc hoành tráng từ thời kỳ đổi mới cho đến gần đây. Chương 4 có đề cập đến những vấn đề tồn tại của điêu khắc hoành tráng Việt Nam, đề ra các giải pháp phát triển, nâng cao chất lượng công trình… Nhìn chung, đây là một tài liệu có nhiều thông tin và trình bày có hệ thống theo tuyến lịch đại về điêu khắc hoành tráng Việt Nam. Hoàng Nam Hạnh (2012), Không gian điêu khắc ngoài trời thông qua một số trại sáng tác điêu khắc quốc tế, luận văn tốt nghiệp trường Đại học Mỹ thuật Việt Nam. Luận văn chỉ ra những tác động của không gian đến tác phẩm điêu khắc. Một tác phẩm điêu khắc thành công không chỉ biểu đạt được không gian trong tác phẩm mà còn ở không gian đặt tác phẩm. Vì vậy, không gian điêu khắc ngoài trời tạo cho tác phẩm thêm phần hoành tráng và rộng mở hơn. Luận văn đã chỉ ra những ưu, nhược điểm về không gian sáng tác ngoài trời ở một số trại sáng tác điêu khắc quốc tế. Nguyễn Hữu Cảnh (2005), Chất liệu đá với điêu khắc ngoài trời, luận văn tốt nghiệp trường Đại Học Mỹ thuật Việt Nam. Luận văn có đề cập đến chất liệu đá, vai trò và công dụng của chất liệu này trong các công trình điêu khắc. Ngoài ra, luận văn còn nói đến những khó khăn và hạn chế ; phân tích, đánh giá và chỉ ra những điểm mạnh, điểm yếu của chất liệu đá khi thể hiện các tác phẩm điêu khắc ngoài trời. Tuy nhiên, luận văn chỉ nêu các vấn đề trên một cách chung chung, chưa đi sâu phân tích tác phẩm cụ thể. Tóm lại, các tài liệu nghiên cứu về tượng đài chất liệu đá giai đoạn 2000 đến 2015 khá nhiều, nhưng hầu như chưa có nghiên cứu nào trình bày chuyên sâu về vấn đề này. Đó chính là lý do tôi chọn đề tài: “Nghệ thuật điêu khắc tượng đài chất liệu đá ở Việt Nam giai đoạn 2000 đến 2015” làm đề tài nghiên cứu của mình.
  • 6. 6 3. Mục đích nghiên cứu của luận văn Nghiên cứu nghệ thuật điêu khắc tượng đài chất liệu đá ở Việt Nam giai đoạn 2000 đến 2015 qua hình thức biểu đạt trên các yếu tố nội dung, hình thức, bố cục, không gian và chất cảm. Nghiên cứu nghệ thuật điêu khắc tượng đài chất liệu đá ở Việt Nam giai đoạn 2000 đến 2015 để thấy rõ được vai trò của nghệ thuật điêu khắc tượng đài chất liệu đá là một trong những yếu tố tạo nên vẻ đẹp và dấu ấn cho các công trình tượng đài ở Việt Nam. Trên cơ sở nghiên cứu thành công và hạn chế của nghệ thuật điêu khắc tượng đài chất liệu đá ở Việt Nam giai đoạn 2000 đến 2015, đề tài rút ra bài học kinh nghiệm về sáng tác nghệ thuật điêu khắc tượng đài chất liệu đá ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Nêu lên những giá trị nghệ thuật của điêu khắc tượng đài chất liệu đá ở Việt Nam ; giúp chúng ta hiểu biết một cách khái quát nhưng có hệ thống về lịch sử vẻ vang của dân tộc ; nêu cao tinh thần chiến đấu chống giặc ngoại xâm, lao động sản xuất, vinh danh các nhân vật lịch sử, danh nhân văn hóa… để giáo dục con người hôm nay. Thông qua các tượng đài chất liệu đá ở Việt Nam giai đoạn 2000 đến 2015, tôi mong muốn rút ra được những bài học kinh nghiệm sáng tác cho bản thân. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu: Nghệ thuật điêu khắc tượng đài chất liệu đá ở Việt Nam giai đoạn 2000 đến 2015. Những nội dung chủ đề và hình thức nghệ thuật điêu khắc tượng đài chất liệu đá trong giai đoạn này. - Phạm vi nghiên cứu: Đề tài tập trung nghiên cứu về tượng đài chất liệu đá ở Việt Nam giai đoạn 2000 đến 2015, trên phạm vi toàn quốc. Bên cạnh đó đề tài còn có so sánh với các tượng đài chất liệu đá ở Việt Nam trước năm 2000.
  • 7. 7 5. Phương pháp nghiên cứu Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau: - Phương pháp sưu tầm, thu thập tài liệu, thống kê: tổng hợp các tài liệu thống kê về các tượng đài hoành tráng được thể thiện bằng chất liệu đá ở Việt Nam trong giai đoạn 2000 đến 2015. - Phương pháp so sánh, phân tích, đánh giá : phân tích các giá trị nghệ thuật cũng như giá trị văn hóa, lịch sử trên các tác phẩm nghệ thuật điêu khắc hoành tránh. Đồng thời đánh giá khách quan những đóng góp về mặt tạo hình của nghệ thuật điêu khắc hoành tráng chất liệu đá ở Việt Nam giai đoạn 2000 đến 2015. - Phương pháp nghệ thuật học: nhằm phân tích, đánh giá các nghệ thuật tạo hình. Qua đó làm nổi bật những điểm mạnh, điểm yếu của chất liệu cũng như tạo hình của tác phẩm điêu khắc hoành tráng. Không những vậy, điêu khắc ngoài trời còn chỉ ra được các yếu tố nghệ thuật thuật tạo hình mà điêu khắc sử dụng trong tác phẩm. - Phương pháp nghiên cứu liên ngành sử học, xã hội học, mỹ thuật học… 6. Đóng góp của luận văn - Làm sáng rõ đặc điểm nghệ thuật điêu khắc tượng đài chất liệu đá Việt Nam giai đoạn 2000 – 2015. - Hệ thống đặc điểm điêu khắc tượng đài chất liệu đá Việt Nam giai đoạn 2000 – 2015. - Vẻ đẹp đặc trưng của điêu khắc tượng đài chất liệu đá Việt Nam giai đoạn 2000 – 2015 cụ thể trong mỗi công trình. - Đóng góp ý kiến về những mặt hạn chế của điêu khắc tượng đài chất liệu đá Việt Nam, tìm ra những hướng đi mới cho nền điêu khắc tượng đài Việt Nam.
  • 8. 8 - Làm tài liệu tham khảo cho sinh viên các trường nghệ thuật; cung cấp cho người xem kiến thức và kinh nghiệm để tiếp cận với nghệ thuật điêu khắc tượng đài chất liệu đá Việt Nam. 7. Kết cấu của luận văn Luận văn gồm 3 phần (86 trang) bao gồm phần mở đầu (8 trang), nội dung (41 trang) và kết luận (2 trang). Phần nội dung gồm có các phần sau: Chương 1: Cơ sở mang tính lí luận để nghiên cứu đề tài (13 trang). Chương 2: Nghiên cứu nội dung chủ đề và hình thức nghệ thuật của điêu khắc tượng đài chất liệu đá ở Việt Nam giai đoạn 2000 đến 2015 (21 trang). Chương 3: Thành công và hạn chế của nghệ thuật điêu khắc tượng đài chất liệu đá ở Việt Nam giai đoạn 2000 đến 2015 (7 trang). Ngoài ra, luận văn còn phần tài liệu tham khảo (2 trang) và phụ lục (33 trang).
  • 9. 9 NỘI DUNG Chương 1 CƠ SỞ MANG TÍNH LÍ LUẬN ĐỂ NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI 1.1. Khái niệm “nghệ thuật điêu khắc tượng đài” 1.1.1. Khái niệm “nghệ thuật điêu khắc” Nghệ thuật điêu khắc là loại hình nghệ thuật xuất hiện từ rất sớm trong lịch sử phát triển của loài người. Ngôn ngữ của loại nghệ thuật này là hình khối, không gian và chất liệu. Để tìm hiểu rõ khái niệm về “nghệ thuật điêu khắc”, chúng ta đi tìm hiểu lần lượt các khái niệm sau: - Khái niệm “nghệ thuật” Trong cuốn “Từ điển Mĩ thuật phổ thông” của tác giả Đặng Thị Bích Ngân (chủ biên), nghệ thuật được định nghĩa là các phương pháp tiến hành để làm ra các sản phẩm chứng tỏ tài khéo léo, sự suy nghĩ, trí tưởng tượng, cảm xúc và sự sáng tạo của con người. Với quan niệm hiện đại, định nghĩa nghệ thuật thường phản ánh những tiêu chuẩn thẩm mĩ trong văn học – xã hội… Nghệ thuật phản ánh các tiêu chuẩn đẹp, khéo và sáng tạo. Đặc biệt, nghệ thuật thường khai thác sự đối lập giữa các yếu tố để sáng tạo. Người nghệ sĩ tinh tế phát hiện được các yếu tố khác nhau trong nội dung, trong kỹ thuật, trong quan điểm để sáng tạo nên tác phẩm nghệ thuật. [8; tr.101] Cuốn “Từ điển Tiếng Việt” của Viện ngôn ngữ học thì nghệ thuật được định nghĩa như sau: “Nghệ thuật dt.1 Hình thái ý thức xã hội đặc biệt, dùng hình tượng sinh động, cụ thể và gợi cảm để phản ánh hiện thực và truyền đạt tư tưởng, tình cảm. Nghệ thuật tạo hình. Xây dựng hình tượng nghệ thuật trong tác phẩm văn học. 2 Phương pháp, phương thức giàu tính sáng tạo”. [20; tr.865] Bên cạnh cuốn “Từ điển Tiếng Việt” của hội Khoa học – Xã hội – Nhân văn thì nghệ thuật được định nghĩa là: “Nghệ thuật (dt) là công việc
  • 10. 10 là có đường lối, phương pháp, để tỏ ý thức, tình cảm hay lý tưởng của mình trên ba điểm: Chân, thiện và mĩ. Người ta đã thống nhất ý chí về nghệ thuật và sắp xếp chúng theo thứ tự: 1. Âm nhạc; 2. Vũ điệu; 3. Hội họa; 4. Điêu khắc; 5. Kiến trúc; 6. Ca kịch; 7. Điện Ảnh” [5; tr.844] Như vậy, từ những định nghĩa trên, chúng ta có thể hiểu rằng: “Nghệ thuật là sự sáng tạo ra những tác phẩm mang giá trị về tư tưởng, thẩm mĩ và tạo ra cảm xúc, tình cảm, tư tưởng cho người xem”. - Khái niệm “điêu khắc” Theo Từ điển Thuật ngữ mĩ thuật phổ thông (2002), điêu khắc là: “Nghệ thuật thực hiện những tác phẩm có không gian ba chiều(tượng tròn) hoặc hai chiều (chạm khắc, chạm nổi) bằng cách gọt, đẽo, gò, đắp, gắn… những khối vật liệu rắn chắc như gỗ, đá, kim loại… Điêu khắc còn là nghệ thuật nặn tượng hoặc tạc tượng bằng đôi bàn tay khéo léo của người nghệ sĩ, đồng thời là nghệ thuật đúc tượng thông qua việc đổ khuôn” [8; tr.65]. Từ điển Tiếng Việt (1997) của nhà xuất bản Đà Nẵng định nghĩa điêu khắc là “loại hình nghệ thuật thể hiện hoặc gợi tả sự vật trong không gian bằng cách sử dụng các chất liệu như đất, đá, gỗ, kim loại… tạo thành những hình nhất định” [12; tr.310]. Trong cuốn Từ điển Tiếng Việt của Viện ngôn ngữ học (2016) thì điêu khắc được định nghĩa là loại hình nghệ thuật thể hiện hoặc gọi tả sự vật trong không gian bằng cách sử dụn những chất liệu như đất đá, gỗ, kim loại,… tạo thành những hình nhất định của nghệ thuật điêu khắc, nhà điêu khắc. [21 ; tr.404] Thuật ngữ “điêu khắc” trong tiếng Việt tương đương với thuật ngữ “sculpture” trong tiếng Anh, được Từ điển Oxford: Learner’s pocket dictionary định nghĩa là“một tác phẩm nghệ thuật được tạo ra bằng cách chạm khắc, đẽo gọt gỗ, đá,… thành một khối rắn chắc” [22; tr.395]
  • 11. 11 Với các định nghĩa trên tuy có cách biểu đạt khác nhau nhưng đã phần nào giúp chúng ta nhận diện được những nét cơ bản về khái niệm “điêu khắc”. Qua các định nghĩa nêu trên, chúng ta có thể hiểu “điêu khắc” là một loại hình nghệ thuật thị giác, sản phẩm của hoạt động sáng tạo và là phương tiện biểu đạt của con người. Đặc điểm của điêu khắc là nghệ thuật xử lý các hình khối và chất liệu trong không gian ba chiều từ các chất liệu rắn như gỗ, đá, kim loại… thông qua các quá trình đẽo, gọt, chạm khắc, đục, đúc, tạc… Về mặt hình thức thể hiện thì điêu khắc được chia thành hai loại: các tác phẩm không gian ba chiều (tượng tròn) và các tác phẩm trong không gian hai chiều, hai chiều rưỡi (phù điêu) Tượng tròn, theo định nghĩa của Từ điển Tiếng Việt (1997) của nhà xuất bản Đà Nẵng, là “hình khối nổi trong không gian tạo nên bằng một chất liệu rắn để mô tả người hay vật” [12;tr.1046]. Tượng tròn là tác phẩm nghệ thuật tồn tại trong không gian ba chiều. Nói cách khác, tượng tròn là một vật thể tồn tại trong không gian, chiếm một khối tích nhất định được xác định bởi chiều cao, chiều rộng và chiều sâu. Đối với tượng tròn, người xem không chỉ cảm nhận tác phẩm bằng thị giác mà còn có thể cảm nhận tác phẩm bằng xúc giác. Bên cạnh đó người xem có thể chiêm ngưỡng một bức tượng từ nhiều điểm nhìn. Khi điểm nhìn thay đổi thì hình khối của tác phẩm cũng thay đổi, từ đó cảm xúc mà ta cảm nhận được từ tác phẩm cũng có sự khác biệt. Tượng tròn là loại hình nghệ thuật chính của điêu khắc, được thể hiện bằng các hình khối có thể tích trọn vẹn nằm trong không gian cụ thể, bao gồm: con người, động vật, cây cối, các khối tượng trưng,… Tượng tròn có thể nhìn thấy được từ nhiều hướng khác nhau : trước, sau, phải, trái, trên, dưới,… Người xem có thể di chuyển xung quanh thậm chí vào được bên trong bức tượng để quan sát và cảm thụ cái đẹp của tác phẩm. Bên cạnh đó, tượng tròn có thể được đặt trong không gian nội thất hay ngoại
  • 12. 12 thất, thậm chí có thể là một phức hợp quần thể kiến trúc – điêu khắc. Các chất liệu được dùng để làm tượng tròn như : đá, gỗ, thạch cao, đồng, thép không rỉ, đất nung, tổng hợp,… Tùy theo nội dung và mối quan hệ với không gian, tượng tròn được chia ra làm các thể loại khác nhau như tượng có kích thước nhỏ, tượng trang trí, tượng triển lãm, tượng đài với các hình thức thể hiện là tượng chân dung, bán thân, cụm tượng, bố cục nhóm theo phong cách hiện thực, trừu tượng, lập thể,… Phù điêu được định nghĩa trong Từ điển Tiếng Việt (1997) của nhà xuất bản Đà Nẵng là “hình thức điêu khắc trình bày những hình đắp cao hay chạm nổi trên nền phẳng” [12; tr.760]. Từ điển Thuật ngữ mỹ thuật phổ thông giải thích khái niệm “phù điêu” như sau: “Trong ngành điêu khắc, từ phù điêu được dùng để chỉ những hình khối, đường nét đắp lên trên một mặt phẳng sẵn có” [7; tr.120]. Khác với tượng tròn, phù điêu tồn tại trong không gian hai chiều. Phù điêu gắn liền với mặt phẳng và mặt phẳng trở thành nền tảng để phát triển một tác phẩm phù điêu. Không gian trong phù điêu được thể hiện thông qua mật độ dày mỏng, sự lồi lõm của hình khối. Tuy không thể quan sát một tác phẩm phù điêu từ mọi góc nhìn nhưng người xem vẫn có thể sử dụng xúc giác để cảm nhận. Phù điêu là loại hình dùng hình khối diễn tả trên mặt phẳng mà người xem thấy khối nổi như tượng tròn. Tuy chỉ nhìn thấy mặt chính diện nhưng một tác phẩm phù điêu vẫn như nhìn thấy cả phía đang bị che khuất. Đó chính là nhờ ánh sáng tác động đến độ lồi, lõm, cao, thấp của khối tạo ra hiệu quả đậm nhạt… Trong phù điêu, nét đẹp có được nhờ trang trí. Các đường khái quát cho các hình cụ thể như hình lượn sóng, các đường cong uyển chuyển và những đường thẳng mạnh mẽ, nhất là sự kết hợp với các điểm đậm của độ sâu, các điểm sáng của khối nổi đã tạo nên tác phẩm. Phù điêu được phân ra làm ba loại : loại mỏng, loại cao, loại thủng. Phù điêu có ba loại : loại mỏng (phù điêu thấp), loại cao, loại thủng.
  • 13. 13 - Điêu khắc trang trí Trong cuốn Từ điển Tiếng việt của Viện ngôn ngữ học năm 2016, trang trí được định nghĩa là trang trí đg. Bố trí các vật thể có hình khối và đường nét, màu sắc khác nhau sao cho tạo ra một sự hài hòa, làm đẹp mắt một khoảng không gian nào đó.[21; tr.1296] Cuốn Từ điển Mĩ thuật Phổ thông của tác giả Đặng Thị Bích Ngân (2012) thì trang trí (A. Decoration ; P. Décoration) được định nghĩa là nghệ thuật làm đẹp, phục vụ cho đời sống vật chất và tinh thần của con người. Nhờ những yếu tố trang trí các vật dụng vừa có giá trị thẩm mĩ vừa nâng cao được giá trị sử dụng.Vì vậy, trang trí nằm trong nghệ thuật ứng dụng (art appliqués)… [8; tr. 132] Qua những định nghĩa, nội dung và ý nghĩa nêu trên kết hợp với ý nghĩa của hai thuật ngữ “điêu khắc” và “trang trí”, chúng ta nhận thấy điêu khắc trang trí được hiểu là những tác phẩm được gọt, đục, chạm, khắc dùng để làm đẹp và là một thành tố không độc lập, cần cho không gian và kiến trúc liên quan. Như vậy, khái niệm Nghệ thuật điêu khắc có thể được hiểu là: “Nghệ thuật điêu khắc”là sự sáng tạo ra những tác phẩm có hình khối ba chiều hoặc hai chiều bằng cách gọt, đục, đẽo, chạm… mang giá trị về tư tưởng, thẩm mĩ. Thông qua các tác phẩm thẩm mĩ đó tạo ra sự rung động, cảm xúc và tư tưởng cho người thưởng thức. - Nghệ thuật điêu khắc đá “Điêu khắc đá” tiếng anh là Stone Sculpture là tạo hình, tạo khối ba chiều bằng kĩ thuật đục, đẽo, mãi, khoan, khắc lên đá. Đây là thể loại thô sơ, đồ trang sức cho đến việc xây dựng các ngôi nhà được trang trí bằng bùn đất, rơm hoặc đá và nghề điêu khắc đá ra đời. Rất nhiều các công trình kiến trúc ấn tượng và trường tồn với kĩ thuật điêu khắc hoành tráng như Kim Tự Tháp Ai Cập, Đến thờ của thời
  • 14. 14 Hy Lạp – La Mã, những đền thờ nguy nga của người Ấn Độ. Tất cả các công trình đó phần lớn đều được xây dựng bằng vật liệu chính là đá. Do đá có tính năng bền vững nên những tác phẩm điêu khắc bằng đá rất đa dạng, phong phú về cách biểu đạt và kích thước. Điêu khắc đá là thể loại khá phổ biến trong môi trường sáng tạo nghệ thuật. Nó phù hợp với cả không gian trong nhà và ngoài trời nên chất liệu đá được chọn dùng cho những tượng đài,… Đá là một thể rắn được tổ hợp có quy luật của các loại khoáng vật. Thợ điêu khắc đá sử dụng rất nhiều loại đá khác nhau như đá macma, đá biến chất, đá trầm tích hay đá nhân tạo. Thợ điêu khắc đá thường dùng nhiều công cụ khác nhau để tạo tác các khối đá thô thành các tác phẩm khác nhau. Các công cụ cơ bản là búa và đục cùng với thước đo. Với các công cụ cơ bản này có thể tạo ra các khối đá vuông nền của tác phẩm. Tùy thuộc vào nhu cầu của công việc chúng tham gia mà đục có rất nhiều kích cỡ và hình dạng khác nhau. Đục được làm bằng nhiều vật liệu khác nhau dành cho việc thao tác trên các loại đá khác nhau. Một tác phẩm hoàn hảo phụ thuộc rất nhiều vào việc lựa chọn vật liệu và công cụ thích hợp để tạo thành. Các mảnh đá vụn nhỏ có thể được dùng như vật đo độ phẳng của viên đá khi xếp lên nhau từ đó xác định chỗ nào lồi hay lõm để gia công lại. Nếu hai mắt đá đủ nhẵn thì ngay mũi dao cũng không thể lọt vào khe hở của hai viên đá mà không cần vữa như các bức tường của các ngôi nhà của người Inca. Các mảnh vụn đá cũng có thể được dùng làm vữa để trám vào các phần hụt của tác phẩm. Để trám vào các chỗ hở tạo ra một bề mặt trơn láng hơn. Ngày nay với công nghệ hiện đại, các công cụ tự động sử dụng năng lượng như đục, mài, khoan,… giúp tiết kiệm rất nhiều thời gian và công sức. Nhưng các bộ phận chính của chúng vẫn trông giống các công cụ xưa cách đây hàng ngàn năm.
  • 15. 15 1.1.2. Khái niệm “tượng đài” Theo quy chế quản lý xây dựng tượng đài (Phần Mỹ thuật) có nêu khái niệm “tượng đài” như sau: tượng đài là công trình văn hóa nghệ thuật biểu hiện nội dung tư tưởng và tinh thần thời đại, mang hình thái xã hội đương thời, được thể hiện bằng nhiều chất liệu bền vững. Tượng đài là bộ phận cấu thành của không gian kiến trúc đô thị và cảnh quan thiên nhiên, có quy mô và hình thức nghệ thuật hoành tráng, tác động đến nhận thức của xã hội. [21] Trang từ điển điện tử định nghĩa: tượng đài là một công trình kiến trúc lớn gồm một hoặc nhiều bức tượng, đặt ở địa điểm thích hợp, dùng làm biểu trưng cho một dân tộc, một địa phương, đánh dấu một sự kiện lịch sử hay tưởng niệm người có công lao lớn.[22] Trong bài viết của báo quân đội nhân dân có viết: Tượng đài – tâm thế thời đại đối với nền mỹ thuật nói chung và chuyên ngành điêu khắc nói rieng, tượng dài phản ánh sự phát triển về bề nổi [20]. Tượng đài có tính chất trường tồn, biểu tượng và đại diện cho cả nền mỹ thuật nên các tượng đài thường mang tính khái quát, ngôn ngữ biểu đạt cao, tạo nên ấn tượng về sự hùng vĩ, cao cả. Tượng đài đôi khi còn là hình ảnh đại diện của một vùng lãnh thổ, một quốc gia, một giai đoạn lịch sử. Chẳng hạn như, trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước, tráng khí chính là tâm thế của thời đại. Chúng ta đã có được nhiều tượng đài phản ánh tâm thế đó. Một trong số đó có thể kể đến như tượng đài “Lý Tự Trọng”, tượng đài “Cảm tử cho Tổ quốc quyết sinh”, “Bác Hồ đọc sách”, “Chiến thắng Ngọc Hồi”… Những tác phẩm, tượng đài này đã trở thành biểu tượng của Thủ đô. Cùng với sự phát triển của đất nước, văn hóa tượng đài bắt nguồn từ Thủ đô đã lan rộng ra khắp nước đến các tỉnh thành phố khác như Thái Bình, Nam Định, Ninh Bình, Điện Biên Phủ, Quảng Bình, Hải Phòng, Hải
  • 16. 16 Dương… Nhiều tượng đài đã trở thành biểu tượng và niềm tự hào của người dân trong thời chiến cũng như thời bình. Như vậy, tượng đài là những công trình điêu khắc ngoài trời mang đến cho người xem cảm xúc thẩm mĩ mạnh. Tượng đài là một công trình kiến trúc lớn, gồm một hay nhóm tượng được đặt ở một vị trí thích hợp. Nó biểu hiện nội dung tư tưởng và tinh thần thời đại, mang hình thái xã hội đương thời, biểu trưng cho một thời của dân tộc, một thời đại lịch sử hay một sự kiện lịch sử và được thể hiện bằng nhiều chất liệu bền vững như đồng, đá, bê tông… Bên cạnh đó, tượng đài cũng là một bộ phận cấu thành không gian kiến trúc đô thị, có quy mô và nghệ thuật hoành tráng, có ảnh hưởng đến nhận thức xã hội. 1.1.3. Khái niệm “nghệ thuật điêu khắc tượng đài” Từ các khái niệm nêu trên về “Nghệ thuật”, “Điêu khắc” và “Tượng đài” chúng ta có thể hiểu được phần nào về nghệ thuật điêu khắc tượng đài. Tổng hợp lại các khái niệm trên, nhận định về khái niệm “Nghệ thuật điêu khắc tượng đài” như sau: Nghệ thuật điêu khắc tượng đài là các công trình văn hóa nghệ thuật, các công trình điêu khắc ngoài trời. Đó là sự sáng tạo ra những tác phẩm có hình khối ba chiều hoặc hai chiều bằng cách gọt, đục, đẽo, chạm… mang giá trị về tư tưởng, thẩm mĩ. Thông qua các tác phẩm thẩm mĩ đó tạo ra sự rung động, cảm xúc và tư tưởng cho người thưởng thức. Nghệ thuật này tạo ra các tác phẩm mang tính lịch sử, mang tính biểu trưng cho một giai đoạn lịch sử của dân tộc. Bên cạnh đó, nó còn mang tinh thần thời đại, hình thái của một xã hội đương thời. Không những vậy, nghệ thuật điêu khắc tượng đài tạo ra những tác phẩm mang tính chất trang trí và là không gian cảnh quan của kiến trúc đô thị.
  • 17. 17 1.2. Khái lược điêu khắc tượng đài Việt Nam 1.2.1. Khái quát về điêu khắc tượng đài Việt Nam Tượng đài là công trình nghệ thuật điêu khắc được đặt ở ngoài trời, những nơi công cộng, có tính bền vững, tác động đến cảnh quan môi trường, tình cảm và nhận thức thẩm mĩ của nhân dân. Tượng đài có nhiều nội dung như ghi lại những sự kiện lịch sử, những chiến công, tưởng niệm các danh nhân, liệt sĩ,… Ngoài nội dung này, tượng đài còn có ý nghĩa là để làm đẹo cảnh quan môi trường. Đất nước ta có bề dày lịch sử dựng nước và giữ nước, nhiều sự kiện chính trị, văn hóa, xã hội, nhiều chiến thắng vĩ đại nên việc xây dựng các tượng đài để ghi lại công ơn, công lao bằng nghệ thuật điêu khắc là điều tất yếu. Đó cũng là nhu cầu của một xã hội phát triển. Việc đô thị hóa cũng như nhu cầu làm đẹp không gian kiến trúc đô thị bằng những tượng đài là nhu cầu tự thân của một xã hội phát triển. Một số công trình tượng đài có chất lượng đã được xây dựng như tượng đài Bác Hồ với Tây Nguyên ở Gia lai; tượng đài Bác Hồ với Tuyên Quang; tượng đài Quang Trung ở Huế; tượng đài Bác Hồ - Bác Tôn ở Hà Nội; tượng đài Lê Duẩn ở Quảng Trị…Đó là những công trình tượng đài có nôi dung, tư tưởng sâu sắc và giá trị thẩm mĩ cao góp phần tích cực vào việc giáo dục truyền thống, lịch sử, văn hóa. Đồng thời, nó cũng tạo cảnh quan môi trường văn hóa nghệ thuật phục vụ đời sống văn hóa, tinh thần của nhân dân. Những vấn đề quy hoạch, xây dựng tượng đài trong 15 năm gần đây đã được rất nhiều các đơn vị cơ quan quan tâm. Việc xây dựng quy hoạch tượng đài ở Trung ương và địa phương là công việc cần được Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố, Sở văn hóa,…cùng triển khai xây dựng. Tuy nhiên, việc quy hoạch các quỹ đất dành cho tượng đài không phải việc làm một sớm một chiều, cho nên, có rất ít các tỉnh, thành phố triển khai công tác này. Thậm chí giải tỏa lấy đất nhưng việc đặt tượng đài lại không đúng vị
  • 18. 18 trí, không phù hợp với cảnh quan môi trường, không phát huy tác dụng và hiệu quả xã hội kém. Bên cạnh việc quy hoạch, xây dựng tượng đài thì công tác quản lý tượng đài cũng vô cùng quan trọng và cần thiết. Bộ Văn hóa, thể thao và du lịch đã xây dựng xong Nghị định Chính phủ về hoạt động Mỹ thuật trong đó có các chương về quản lý, xây dựng, bảo quản, tu bổ tượng đài đáp ứng nhu cầu của công tác quản lý va hoạt động xây dựng tượng đài. Hiện nay, trên cả nước có hơn 300 công trình tượng đài kể cả công trình tượng đài được xây dựng trước 1975 ở Miền Nam. Một thực tế hiện nay là ở nhiều nơi khi xây dựng tượng đài thường làm với quy mô khá lớn chưa phù hợp với quy hoạch tổng thể, cảnh quan môi trường, không gian kiến trúc, nội dung của công trình, năng lực của nghệ sĩ và điều kiện kinh tế - xã hội của địa phương. Điều này cần có sự thống nhất về quan điểm, chủ trương đến công tác quản lý điều hành. Một công trình nghệ thuật cũng có nhiều vấn đề, đối với mỗi tác phẩm mỹ thuật một trong những yếu tố làm nên giá trị của tác phẩm là yếu tố độc bản không lặp lại. Về hình thức phong cách nghệ thuật, tượng đài hiện nay mới chỉ được sáng tác với một hình thức nghệ thuật duy nhất được sử dụng đó là phong cách hiện thực, các hình thức nghệ thuật khác của điêu khắc chưa được chấp nhận, ủng hộ triển khai vì thế gây nên cảm giác đơn điệu, nhàm chán về hình thức nghệ thuật. Trong nhiều năm qua, việc xây dựng tượng đài thường quan tâm đến các nội dung về lãnh tụ, danh nhân, tượng đài chiến thắng, tượng đài tưởng niệm, rất ít gần như thiếu hụt mảng tượng đài văn hóa nghệ thuật, phục vụ nhu cầu thường thức nghệ thuật của nhân dân và làm đẹp cảnh quan môi trường kiến trúc. Nói chung lại, nghệ thuật điêu khắc tượng đài ở Việt Nam hiện này còn nhiều điều bất cập. Cần chú ý hơn đến mối quan hệ giữa tượng đài và
  • 19. 19 cảnh quan môi trường, đến các kích thước của tượng đài, công tác quản lý, quy mô công trình. 1.2.2. Đặc trưng chất liệu đá trong nghệ thuật điêu khắc tượng đài ở Việt Nam giai đoạn 2000 – 2015 Trong nghệ thuật tạo hình, chất liệu luôn đóng một vai trò quan trọng khẳng định giá trị của tác phẩm. Giá trị đó được thể hiện rõ hơn trong nghệ thuật điêu khắc. Bên cạnh việc xây dựng nội dung hình tượng cho tác phẩm, nghệ thuật điêu khắc còn đòi hỏi sự gia công chất liệu nặng nhọc và sự trợ giúp của phương tiện kĩ thuật tốn kém về công sức và tiền của. Chất liệu đá thường đồng nghĩa với sự vĩnh cửu, dù bề mặt gồ ghề hay trơn nhẵn thì chất liệu này vẫn cho chúng ta cảm giác lạnh và xa xôi nhưng tượng đá lại thể hiện sự bề thế, vững chãi và trang nghiêm. Chất liệu đá là chất liệu được sử dụng nhiều nhất trong các công trình điêu khắc tượng đài. Do đặc thù các tượng đài đều được trưng bày ngoài trời với chi phí không quá cao, phù hợp cho việc xử lý các hình khối lớn. Các công trình điêu khắc tượng đài chủ yếu tôn vinh và tưởng niệm các vị lãnh tụ, các anh hùng, liệt sĩ. Do đó, đá là chất liệu phù hợp để diễn tả sự oai nghiêm, hùng dũng cho tác phẩm. Bề mặt đá thô ráp giúp cho ánh sáng khi chiếu trên bề mặt không bị trượt đi, tăng sự tương phản đậm nhạt. tạo nên những đường nét cứng cáp, rắn rỏi. Nếu bề mặt đá được mài nhắn sẽ tạo cảm giác mềm mại. Đồng thời với những phương pháp tạo hình phù hợp, đá cũng có thể tạo nên những hình khối mềm mại với những chi tiết trang trí cầu kỳ. Ta có thế thấy chất liệu đá trong tác phẩm tượng đài như: Quyết tử để Tổ quốc quyết sinh, tượng đài Nguyễn Văn Trỗi, tượng đài Phụ nữ Ba Đảm Đang, tượng đài Bất khuất, tượng đài Vì an ninh Tổ Quốc,… Tóm lại, chất liệu đá là chất liệu được sử dụng nhiều trong các tác phẩm điêu khắc tượng đài tạo nên cảm giác oai nghiêm, hùng dũng. Bên
  • 20. 20 cạnh đó, đá cũng là chất liệu bền vững phù hợp cho các công trình ngoài trời giữa cái thời tiết, khí hậu nóng ẩm mưa nhiều của Việt Nam. Hơn thế nữa, điêu khắc tượng đài bằng chất liệu đá tạo cho người xem một cảm giác trường tồn, vĩnh cửu cùng năm tháng càng làm tăng thêm sự linh thiêng cho các tác phẩm nghệ thuật điêu khắc tượng đài. Tiểu kết chương 1 Qua chương một, chúng ta đã hiểu thêm về các khái niệm “Nghệ thuật”, “Điêu khắc”, “Nghệ thuật điêu khắc” và “Nghệ thuật điêu khắc tượng đài” và một số khái niệm liên quan. Bên cạnh đó, chúng ta cũng làm rõ những đặc trưng của chất liệu đá trong các tác phẩm điêu khắc tượng đài ở Việt Nam giai đoạn 2000 – 2015. Nghệ thuật điêu khắc tượng đài là một hoạt động nghệ thuật liên quan đến các công trình văn hóa nghệ thuật. Đó là sự sáng tạo của con người nhằm tôn vinh các vị lãnh tụ, anh hùng, những người có công,…Thông qua các hình tượng đó thể hiện những suy nghĩ, tư tưởng và thái độ xã hội. Bên cạnh đó, nghệ thuật điêu khắc tượng đài còn tô điểm thêm cho các công trình kiến trúc, không gian kiến trúc quanh nó và tạo nên một môi trường văn hóa nghệ thuật cho quần chúng nhân dân. Không những vậy, các tượng đài thường được đặt ở những nơi đông đảo quần chúng nhân dân sinh hoạt như một cách giáo dục gián tiếp về truyền thống dân tộc uống nước nhớ nguồn. Bên cạnh vị trí đặt các tượng đài thì chất liệu tạo nên tác phẩm cũng vô cùng quan trọng. Đá là chất liệu bền vững tạo sự vững chãi, trang nghiêm nên các tác phẩm tượng đài của ta luôn có phong thái uy nghi, trang nghiêm và linh thiêng. Với những đặc tính của đá, dù được chế tác bằng loại đá nào thì các tác phẩm tượng đài của nước ta nói lên phần nào lịch sử nhân loại, giai đoạn hào hùng, bi tráng của dân tộc thông qua các phương pháp tạo hình phù hợp.
  • 21. 21 Tóm lại, nghệ thuật điêu khắc tượng đài đã và đang là một trong những vấn đề cần được quan tâm của xã hội. Bởi thông qua các tác phẩm điêu khắc tượng đài như một cách giáo dục gián tiếp đến các thế hệ sau về truyền thống tốt đẹp của cha ông.Không những vậy, nó còn tạo nên một không gian văn hóa nghệ thuật cho quần chúng nhân dân. Mặt khác, nó là một sự tri ân tới những người có công đối với quê hương đất nước.
  • 22. 22 Chương 2 NGHIÊN CỨU NỘI DUNG VÀ HÌNH THỨC NGHỆ THUẬT CỦA ĐIÊU KHẮC TƯỢNG ĐÀI CHẤT LIỆU ĐÁ Ở VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2000 – 2015 2.1. Nội dung các công trình tiêu biểu của điêu khắc tượng đài chất liệu đá ở Việt Nam giai đoạn 2000 – 2015 2.1.1. Nội dung phản ánh chiến tranh cách mạng Chiến tranh cách mạng là một trong những chủ đề thường thấy trong các sáng tác điêu khắc tượng đài. Cuộc chiến bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ của đất nước Việt Nam là một trong những trang lịch sử hào hùng của nhân loại. Cùng với sự phát triển của nghệ thuật điêu khắc, Việt Nam đã và đang xây dựng những công trình tượng đài đáp ứng những công trình nghệ thuật mang nội dung chủ đề phản ánh cuộc chiến tranh cách mạng của dân tộc và nhiều chủ đề khác nhằm cổ vũ tới đông đảo quần chúng. Trước đó, trong thời kì chiến tranh, dù bị bom đạn Mĩ bắn phá nhưng tượng đài vẫn được xây dựng, đáp ứng nhanh ý nghĩa cổ vũ ngay trong thời chiến. Khi đất nước thống nhất, nghệ thuật điêu khắc bước vào giai đoạn mới, tượng đài được xây dựng ở nhiều địa phương. Sự kết hợp giữa điêu khắc và kiến trúc xây dựng các công trình một phần nhằm ca ngợi, một phần phản ánh cuộc kháng chiến của dân tộc. Điều đó được thể hiện rõ nhất ở các khu nghĩa trang liệt sĩ. Chẳng hạn như: nghĩa trang liệt sĩ Trường Sơn xây dựng tại Vĩnh Trường, huyện Gio Linh, tỉnh Quảng Trị. Các tác phẩm điêu khắc ở nghĩa trang liệt sĩ Trường Sơn gồm tượng đài, phù điêu, tượng tròn của các nhà điêu khắc. Sự có mặt của nghệ thuật điêu khắc tượng đài tại các khu tưởng niệm, nghĩa trang hay bảo tàng truyền thống có vai trò quan trọng và rất ý nghĩa. Đề tài thường gặp trong các công trình điêu khắc tôn vinh là những
  • 23. 23 người anh hùng có công xây dựng và bảo vệ đất nước. Hình ảnh thể hiện có thể là một nhân vật lịch sử cụ thể, cũng có thể là một nhóm người đại diện cho một tầng lớp hay một ngành nghề trong xã hội như chiến sĩ, công nhân, nông dân… Các tác phẩm do đó phải khắc họa được tinh thần hiên ngang, ý chí chiến đấu, sự dũng cảm, kiên cường của nhân vật qua bố cục và hình khối. Tác phẩm điêu khắc tượng đài Bất khuất (H1.1) là một trong nhiều tượng đài ở Việt Nam phản ánh cuộc chiến tranh cách mạng giải phóng đất nước. Tượng đài được làm bằng chất liệu đá, đặt tại nghĩa trang liệt sĩ thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau. Tượng khánh thành vào ngày 27/07/2007 nhân dịp kỉ niệm 60 năm ngày Thương binh liệt sĩ, tưởng niệm 74 liệt sĩ đã hy sinh năm Mậu Thân (1968) và được an táng tập thể tại nghĩa trang của tỉnh Cà Mau. Toàn bộ tượng đài là khối đá Granit nặng trên 40 tấn, đặt phía sau phần mộ tập thể, mặt trên của phần mộ là nền cờ Tổ quốc, phía trước là nơi dâng hoa, tưởng niệm. Phần mộ được xây dựng bằng đá đen kim sa và đá rubi đỏ. Tượng đài thể hiện hình ảnh ba người chiến sĩ anh dũng, bất khuất hy sinh vì độc lập tự do của dân tộc. Hình ảnh các anh đều được nhà điêu khắc Trần Thanh Phong khắc họa một cách hiện thực, rõ nét, bố cục chặt chẽ từ tư thế đứng cho đến tư thế các anh ngã xuống. Các anh hy sinh trong tư thế và niềm tin của người chiến thắng. Điều này được thể hiện rõ nhất trên khuôn mặt của nhân vật trong tác phẩm. Các nhân vật đều có kết nối với nhau như tinh thần tương thân tương ái của dân tộc. Tất cả những hình ảnh đó tuy bi tráng nhưng đầy khí phách hào hùng, anh dũng. Công trình điêu khắc tượng đài Bất Khuất phản ánh nội dung của cuộc chiến tranh khốc liệt của dân tộc, tưởng niệm các chiến sĩ, đồng bào đã hy sinh trong chiến dịch Mậu Thân. Không chỉ mang ý nghĩa tưởng niệm các anh hùng liệt sĩ mà qua đó công trình cũng có ý nghĩa to lớn là giáo dục truyền
  • 24. 24 thống, động viên các thế hệ tiếp bước sự hy sinh của các anh hùng liệt sĩ để cuộc kháng chiến đi đến ngày thắng lợi. Tượng đài Bất khuất những người tử tù Chín hầm (H1.7) được làm bằng chất liệu đá, khánh thành năm 2001 do nhà điêu khắc Lê Đình Quỳ lên ý tưởng và sáng tác. Phù điêu do nhà điêu khắc Trần Lê Quang thực hiện. Tác phẩm được đặt tại khu di tích Chín hầm, thôn Ngũ Tây, xã Thủy An, thành phố Huế. Khu di tích Chín Hầm là khu vực kho vũ khí chiến tranh được thực dân Pháp xây dựng năm 1941. Đến năm 1944, Nhật hất cẳng Pháp lấy hết vũ khí, khu hầm đã bỏ trống. Khi Pháp quay lại đánh chiếm Việt Nam, chúng đã cải tạo lại khu hầm này thành nơi giam giữ những người hoạt động cách mạng, học sinh, sinh viên và phật tử yêu nước. Nơi đây được mệnh danh là “địa ngục trần gian” - nhà giam Chín hầm do Ngô Đình Cẩn cải tạo từ một nơi vũ khí đạn dược do người Pháp để lại. Tượng đài Bất khuất khắc lại hình ảnh ba đồng chí còn sống sót ở hầm số 8, căn hầm quái quỷ và khốn khổ nhất. Bên dưới là phù điêu tái hiện lại cảnh những người chiến sĩ yêu nước đã bị giam cầm và những cực hình tra tấn dã man. Tác phẩm tái hiện lại một cách hiện thực về hình ảnh ba chiến sĩ tình báo kiên cường và sống sót trong hầm. Hình ảnh ba chiến sĩ gầy guộc chỉ còn da bọc xương, mái tóc dài do không được cắt đang dìu nhau đứng lên. Trang phục hết sức đơn giản đó là bộ quần áo sờn bạc, chiếc quần đùi sờn rách. Khuôn mặt của ba người luôn hướng về phía trước, con mắt nhìn thẳng thể hiện ý chí và lòng quyết tâm của họ. Mặc dù trông họ gầy guộc và yếu đuối nhưng sâu thẳm trong con người họ là ý chí mạnh mẽ, quật cường của người con đất Việt, dù bị giam cầm nhưng vẫn hướng về Đảng và Nhà nước, hướng về ánh sáng của cuộc sống tự do. Tác phẩm tượng đài và phù điêu Bất khuất những người tử tù Chín hầm đã tái hiện lại một phần cuộc chiến tranh của dân tộc. Cuộc chiến vinh quang không phải trên chiến trận mà là cuộc chiến khốc liệt, khốn khổ nhất của những người
  • 25. 25 kiên cường trong song sắt của kẻ thù xâm lược. Những hình ảnh tác phẩm đã thể hiện được nỗi đau, sự mất mát của dân tộc, ý chí tự lực tự cường của các chiến sĩ cách mạng, qua đó tỏ lòng biết ơn đối với những người đã hy sinh vì độc lập tự do của dân tộc. Đồng thời, tác phẩm là một hình thức giáo dục nghệ thuật, giáo dục tuyên truyền về truyền thống quý báu của cha anh. Nói chung, các tác phẩm điêu khắc góp phần làm khơi gợi lại cuộc chiến tranh bi tráng của dân. Cuộc đấu tranh chống quân xâm lược dành lại toàn vẹn lãnh thổ Việt Nam. Qua đó, mỗi tác phẩm là một tấm gương, một bài học quý báu cho thế hệ sau. 2.1.2. Nội dung ngợi ca nhân vật lịch sử (lãnh tụ, danh nhân, anh hùng liệt sĩ) Chủ đề, nội dung ca ngợi các nhân vật lịch sử (lãnh tụ, danh nhân, anh hùng liệt sĩ) là một trong những chủ đề chính mà điêu khắc tượng đài thể hiện như một sự minh họa về các nhân vật lịch sử. Mỗi tác phẩm điêu khắc tượng đài có ý nghĩa lịch sử và nghệ thuật rất lớn. Tượng đài tôn vinh có kích thước khá lớn, góp phần tạo nên sự hoành tráng và tính sử thi cho tác phẩm. Tác phẩm có thể là hình ảnh một nhân vật lịch sử cụ thể hay là một nhóm hai, ba người đại diện cho một tầng lớp trong xã hội, hay một sự kiện lịch sử nhất định. Thế của nhân vật phải tạo nên cảm giác vững chãi, thân hình và khuôn mặt hướng về phía trước để lột tả ý chí, sự quyết tâm và hi vọng. Với các tác phẩm điêu khắc chân dung, tác phẩm được làm gần với kích thước thật của cơ thể người. Phần tượng được đặt trên bệ, tổng thể tác phẩm cao ngang tầm nhìn của người xem, tạo nên cảm giác gần gũi, thân quen. Mục đích của tượng đài tôn vinh là lột tả được tinh thần của nhân dân Việt Nam trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước nên hình khối và đường nét của tác phẩm cũng phải toát lên sự rắn rỏi, quyết tâm và sự
  • 26. 26 oai nghiêm. Chính vì vậy, tác giả khi thực hiện sẽ sử dụng các hình khối và mảng miếng lớn, dứt khoát, rõ ràng. Do đó, kích thước tượng khá lớn, trang phục được giản lược để tập trung khắc họa nội tâm của nhân vật. Tinh thần của tác phẩm không chỉ được lột tả qua biểu cảm khuôn mặt mà còn được thể hiện qua thế dáng của nhân vật. Chi tiết trang trí được lược bỏ để gia tăng khối tích, giúp cho bề mặt khối nhận được tối đa lượng ánh sáng, giúp cho hệ thống sáng tối trở nên dứt khoát, rõ ràng. Tuy nhiên bên cạnh đó, tượng đài vẫn có một số điểm cần khắc phục. Các tượng người thường là một khối đặc, các khoảng trống giữa tay, chân và thân đa số không được thể hiện rõ mà chỉ được mô tả nhờ sự lồi lõm trên bề mặt tác phẩm. Tác phẩm điêu khắc tượng đài Anh hùng dân tộc Lê Lợi (H2.8) được khánh thành năm 2004, chất liệu đá do hai nhà điêu khắc Nguyễn Duy Độ và Nguyễn Hoàng Nhân sáng tác.Tượng đài Anh hùng dân tộc Lê Lợi khắc họa thành công chân dung của người. Hình ảnh Lê Lợi trong tư thế đang tiến bước, một tay vung về phía trước hướng bàn tay xuống đất, tay còn lại đang nắm chặt cán gươm. Tượng được đặt trên bệ cao. Khuôn mặt hướng về phía trước và đôi mắt nhìn thẳng thể hiện tinh thần quyết chiến, quyết thắng của người chỉ huy. Với trang phục của một tướng võ, đầu vấn khăn, chân đi giày mũi hài,… tất cả các chi tiết trên trang phục được giản lược, đơn giản hơn để tập trung thể hiện thần thái của Lê Lợi. Khuôn mặt được đặc tả một cách chi tiết và dứt khoát từ đôi mắt cho đến môi và những nếp gấp trên khuôn mặt. Phía dưới chân là hình ảnh của một chú rùa cưỡi trên những con sóng nước. Rùa là một con vật trong tứ linh và cũng là con vật trong truyền thuyết Hồ Hoàn Kiếm, Lê Lợi trả gươm cho rùa thần. Hình ảnh rùa xuất hiện trong tượng đài Anh hùng dân tộc Lê Lợi như nói lên đây là người anh hùng do thần linh chỉ định và sẽ được thần linh giúp đỡ trong cuộc chiến chống quân xâm lược và dẹp loạn đất nước. Tất cả các chi tiết trong tượng đài đều góp phần nói lên sức mạnh của người anh hùng kêu gọi
  • 27. 27 đoàn kết các dân tộc. Cái tinh thần dân tộc, tinh thần của nhân vật anh hùng Lê Lợi không chỉ được thể hiện qua khuôn mặt của tượng mà còn được thể hiện trong thế đứng. Tượng được tạo tác bằng hình chữ nhật đứng càng làm tăng thêm sự vững chãi và chắc chắn cho nhân vật. Bên cạnh đó, việc sử dụng những mảng miếng lớn, dứt khoát, cân đối càng tạo cho nhân vật Lê Lợi mà hai tác giả Nguyễn Duy Độ và Nguyễn Hoàng Nhân tạo nên thật bất khuất và kiên cường. Tuy đá là một chất liệu được coi là lạnh lẽo, xa xăm nhưng trong tác phẩm này, chất liệu đá lại tạo cho người xem một sự uy nghiêm, ấm áp và tinh thần sục sôi trong cuộc kháng chiến bảo vệ dân tộc. Bên cạnh tác phẩm tượng đài Anh hùng dân tộc Lê Lợi ca ngợi người anh hùng bảo vệ bờ cõi, lãnh thổ và non sông của đất nước thì tượng đài Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác (H2.7) lại ca ngợi về tấm gương lương y như từ mẫu. Tượng đài được tạc bằng đá do nhà điêu khắc Trịnh Thế Hội thể hiện và khánh thành năm 2007. Hiện nay, tượng đài đang được đặt tại Hương Sơn, Hà Tĩnh. Tác phẩm thể hiện hình ảnh Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác đang trong tư thế đứng, một tay cầm cuốn sách và tay còn lại đang ôm lá thuốc. Tượng được đặt trên bệ cao, toàn thể tượng đài được đặt trong bố cục hình chữ nhật đứng tạo cho người xem cảm giác vững chãi, trang nghiêm. Bên cạnh đó, với trang phục giản dị và được giản lược đi bằng những hình khối, mảng lớn làm cho tinh thần của nhân vật được đẩy lên cao. Khuôn mặt của Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác được thể hiện chi tiết của mắt, mũi, môi, râu kết hợp với ánh sáng tạo nên những mảng sáng tối toát lên sự hiền từ, nhân hậu của một thầy thuốc làm công tác chữa bệnh cứu đời. Tinh thần của thầy thuốc Lê Hữu Trác không chỉ thể hiện ở khuôn mặt mà còn thể hiện trong tư thế. Bên cạnh đó, tính cách của nhân vật cũng được bộc lộ rõ trong tác phẩm điêu khắc tượng đài. Nhìn vào tác phẩm, người xem có thể
  • 28. 28 thấy ngay nhân vật là một người rất cẩn thận, chu đáo và tận tình. Điều đó được thể hiện ở cách cầm sách và bàn tay đỡ bó thuốc và con mắt sâu nhìn xa của ông. Nói chung, tác phẩm đã tái hiện thành công nhân vật Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác. Một con người, một tấm gương trong y học, một người xứng đáng với câu nói “Lương y như từ mẫu” để mọi người học tập và noi theo. Nói tóm lại, các tác phẩm điêu khắc tượng đài nhằm ca ngợi nhân vật lịch sử thường có kích thước cao lớn. Kết hợp với các kĩ thuật tạo hình của điêu khắc nhằm tạo nên chân dung của một nhân vật lịch uy nghiêm và vững chãi. Hơn thế, việc tạo tượng cao lớn cũng là thể hiện sự tôn kính của nhân dân đối với nhân vật trong tượng đài. Không những vậy, các nhân vật được thể hiện đều toát lên được cái tinh thần riêng, tính cách riêng của mỗi nhân vật. 2.1. Hình thức nghệ thuật điêu khắc tượng đài chất liệu đá ở Việt Nam giai đoạn 2000 – 2015 2.2.1. Không gian trong điêu khắc tượng đài chất liệu đá ở Việt Nam giai đoạn 2000 – 2015 Không gian có thể hiểu là khoảng không xung quanh các khối điêu khắc và định hình các cạnh của tác phẩm điêu khắc. Không gian còn được tạo nên và bao bọc bởi hình khối của tác phẩm, trở thành những khoảng rỗng trong tác phẩm. Do đó, không gian tồn tại song song và gắn liền với nghệ thuật điêu khắc và là một phần tạo nên tác phẩm. Có nhiều cách giải thích khác nhau về không gian, tuy nhiên ta có thể hiểu không gian là toàn bộ những gì xung quanh một vật chất nào đó. Không gian là một trong những yếu tố cơ bản quyết định tính thẩm mỹ của một tác phẩm điêu khắc. Đối với một tác phẩm điêu khắc tượng đài được đặt ở ngoài ngoài trời, không gian bao gồm các khoảng không xung quanh nó, dù lớn hay nhỏ. Ngoài ra, không gian của nghệ thuật điêu khắc
  • 29. 29 tượng đài ở ngoài trời còn bao gồm cả các công trình kiến trúc, các yếu tố tự nhiên (cây cối, hồ, ao, sông,...) hay các vật thể hữu hình khác liên quan đến không gian đó. Các tác phẩm điêu khắc ngoài trời luôn được đặt ở một vị trí cố định nên không gian và tác phẩm điêu khắc có mối liên hệ gắn bó chặt chẽ với nhau. Nói cách khác, đối với điêu khắc ngoài trời không gian có vai trò quan trọng, chịu ảnh hưởng bởi tác phẩm và đồng thời tác động lên chính tác phẩm. Tác phẩm điêu khắc là sự biểu hiện của những mối tương quan trong không gian ba chiều. Không gian tự thân của tác phẩm xuất phát từ hình khối, chất liệu tạo nên nó. Tuy nhiên, một tác phẩm điêu khắc ngoài trời đẹp không chỉ bởi không gian tự thân của nó mà còn chịu tác động từ không gian bên ngoài. Kích thước không gian phong phú từ những khoảng không lớn như quảng trường, đồi núi cho đến những không gian nhỏ như vườn hoa, khuôn viên kiến trúc trong mối quan hệ với kích thước của tác phẩm. Các thành phố trên khắp cả nước đã sở hữu một vẻ đẹp phong phú không chỉ bởi những kiến trúc đô thị mà bên cạnh đó là vẻ đẹp tự nhiên ở các khu vực ngoại thành. Sự thay đổi về địa hình dẫn tới sự thay đổi về không gian. Từ những khu đất phẳng với những tòa nhà cao tầng của thế kỷ 21 cho tới những ngọn đồi và đồng lúa mang đậm dấu ấn của làng quê Việt Nam, các nghệ sĩ luôn phải tìm ra phương án giải quyết không gian hiệu quả nhất để mang lại vẻ đẹp cho tác phẩm điêu khắc ngoài trời. Các công trình điêu khắc tượng đài đặt ở ngoài trời thường lựa chọn sự hài hòa với không gian cảnh quan xung quanh thay vì xu thế độc tôn như một số thành phố trên thế giới. Hệ thống cây xanh được xử lý tốt sẽ tạo nên điểm nhấn cho công trình, làm phông nền cho tác phẩm điêu khắc. Bên cạnh đó, địa hình đồi núi là địa điểm lý tưởng để thực hiện các tác phẩm điêu khắc hoành tráng với kích thước lớn. Đồi núi cao nhưng xung quanh được bao bọc bởi đồng lúa tạo nên những khoảng rộng cho các tác phẩm
  • 30. 30 điêu khắc. Lấy đồi núi làm điểm tựa, sử dụng lợi thế về độ cao tự nhiên và được tô điểm bởi những cánh đồng xanh, người nghệ sĩ có thể phát huy triệt để được phong thái hùng dũng, oai nghiêm của tác phẩm điêu khắc và tạo nên sự liên kết giữa con người và thiên nhiên. Không gian tưởng niệm là không gian của các công trình điêu khắc tưởng niệm, mang tính chất thiêng liêng, tôn kính. Không gian tưởng niệm nằm tách biệt với không gian sinh hoạt của người dân nhằm giữ gìn sự tĩnh lặng, trang nghiêm. Thông thường, các khu tưởng niệm sẽ nằm dưới sự giám sát và quản lý của các cấp chính quyền địa phương và chỉ mở cửa cho người dân vào những khoảng thời gian nhất định. Tượng đài Quyết tử để Tổ quốc quyết sinh tại vườn hoa Hàng Đậu (H1.3) nay gọi là vườn hoa Vạn Xuân được xây dựng năm 2004 để tưởng nhớ các anh hùng đã hi sinh trong trận chiến 60 ngày đêm bảo vệ Hà Nội, trận chiến mở đầu cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp vào mùa đông năm 1946. Tượng được tạc và ghép từ 34 khối đá với tổng chiều cao là 9,7m. Không gian vườn hoa nhỏ với diện tích khoảng 0,4ha. Tượng được đặt trong một thảm cỏ nhỏ, xung quanh lát gạch đá, phía trước là khoảng sân trống với một đài phun nước. Hàng cây xanh tạo nên bóng mát cho người dân nghỉ ngơi, đồng thời giúp tăng độ tương phản về ánh sáng ở trung tâm vườn hoa chiếu vào tượng đài, tạo nên hiệu ứng thị giác tốt. Thiết kế không gian trong vườn hoa khá hợp lý bởi giải quyết hài hòa giữa các yếu tố không gian thưởng thức tác phẩm với các yếu tố tự nhiên như cây và nước, tạo nên không khí trong lành, thoáng mát cho vườn hoa. Thế nhưng, nếu xét trên tổng thể lớn hơn, không gian đô thị xung quanh vườn hoa Hàng Đậu còn nhiều hạn chế. Hàng cây xanh xung quanh tượng đài tương đối cao, chiều rộng của các con phố xung quanh vườn hoa không lớn cùng với đó là tháp nước Hàng Đậu ở mặt trước, dãy nhà vệ sinh công cộng ở mặt sau đã cản trở tầm nhìn từ phía bên ngoài. Vỉa hè xung quanh vườn
  • 31. 31 hoa bị tận dụng làm bãi đỗ xe, quán bán nước, bán hàng rong đã khiến cho môi trường bị ô tạp, ảnh hưởng nghiêm trọng đến không gian nghệ thuật của tượng đài. Không gian trang trí tượng đài gắn liền với không gian kiến trúc và là một phần của không gian kiến trúc. Bản thân tác phẩm đã có không gian của riêng nó nhưng đặt một tác phẩm tượng đài trong không gian bên ngoài thì nó lại trở thành một phần của khôn gian kiến trúc quanh nó. Đúng vậy, khi đặt một tác phẩm tượng đài vào một không gian trống thì không có gì đáng nói. Nhưng đặt một tác phẩm tượng đài vào vị trí không gian của kiến trúc đô thị hay kiến trúc quy hoạch đường phố thì đó lại là một điều đáng phải quan tâm. Bởi chính vị trí đặt để tác phẩm là yếu tố quyết định sự thành công hay thất bại của tác phẩm. Nếu để một tác phẩm tượng đài nhân vật lãnh tụ của dân tộc vào một khuôn viên của một công viên nhỏ, xung quanh có nhiều cây cối cao lớn, hay có ít người qua lại thì tác dụng và yếu tố tôn vinh, tưởng niệm bị suy giảm đi thậm chí là không còn. Chính vì vậy, vị trí đặt để tượng và không gian kiến trúc phải hòa nhập, ăn khớp với nhau. Tác phẩm tượng đài Đại đội nữ pháo binh Ngư Thủy (H1.11) khánh thành năm 2006 do Nguyễn Hồng Phong là một trong những công trình tôn vinh chiến thắng của quân và dân của Đại Đội Nữ pháo binh Ngư Thủy, Quảng Bình. Tượng đài thể hiện những nữ pháo binh trong trận chiến. Người nạp pháo, người ngắm bắn và người bắn. Mỗi người một công việc nhưng có sự liên kết và ăn nhập chặt chẽ với nhau. Ba nữ pháo binh mà chúng ta nhìn thấy trên ảnh được liên kết với nhau bởi hướng nhìn và đài pháo. Tất cả đều hướng nhìn về phía trước thể hiện một sự quyết tâm, một niềm tin tất thắng của quân và dân ta. Với chất liệu đá, các chi tiết trên tác phẩm được tạo tác cẩn thận và chi tiết hơn. Chẳng hạn như khuôn mặt các
  • 32. 32 cô gái. Chất liệu đá đã tả được chi tiết các phần như mắt, mũi, môi, cỗ pháo lớn với các thành phần chi tiết thân pháo. Tác phẩm đẹp, tạo hình, bố cục chắc chắn và chặt chẽ đã làm nên tinh thần của người nữ pháo binh. Bên cạnh việc tạo hình, tác phẩm được cho là thành công bởi không gian đặt để và chất liệu tạo lên tác phẩm. Đó là một quảng trường khá lớn, có không gian bốn phía để người thưởng thức có thể đi xung quanh thả mình vào tác phẩm. Không những vậy, một tác phẩm thành công khi nó có được tiếng nói và sự tương tác với môi trường bên ngoài. Quảng trường là nơi nhiều người lui tới, là nơi sinh hoạt chung của một cộng đồng sau một ngày làm việc mệt mỏi, hay là nơi tập thể dục mỗi buổi sáng,… Nhưng tất cả điều đó đã tạo nên không gian đối thoại giữa tác phẩm với môi trường. Mặt khác, tác phẩm làm cho cảnh quan môi trường kiến trúc thêm đẹp và phong phú, làm giảm sự trống trải của không gian lớn. Không gian tự thân của tác phẩm điêu khắc là không gian được thể hiện thông qua sự thay đổi về hình khối, sự diễn tả chất liệu và màu sắc của sự vật. Những nếp vải bay theo chiều gió hay sự thay đổi nhỏ trong thế đứng của nhân vật cũng tạo nên cảm giác về chiều sâu. Một tác phẩm điêu khắc tồn tại trong không gian ba chiều nên nó có thể được chiêm ngưỡng từ nhiều phía. Việc xử lý hình khối và chất liệu tốt sẽ mang lại vẻ đẹp hoàn thiện hơn cho tác phẩm để người xem, dù là từ xa, hay từ bất kỳ hướng nào nhìn vào cũng cảm nhận được hình dáng của tác phẩm và cảm xúc của người nghệ sĩ. Không gian tự thân của tác phẩm tạo nên cảm giác chân thực và tăng hiệu quả thị giác, góp phần quan trọng tạo nên vẻ đẹp của một tác phẩm điêu khắc. Chẳng hạn tác phẩm điêu khắc tượng đài Tưởng niệm dân quân quận 5 (H1.9) của tác giả Nguyễn Thành Trí khánh thành năm 2002 tại Quận 5, thành phố Hồ Chí Minh. Tác phẩm thể hiện hình ảnh của ba người chiến sĩ dân quân. Trong đó có hai nữ dân quân với hai trang phục khác nhau quay
  • 33. 33 về một hướng. Đằng sau là một nam dân quân với một hướng nhìn ngược lại. Thứ liên kết ba người chiến sĩ dân quân là cùng chung tay nâng cao Quốc Kì của VIệt Nam với ngôi sao ở giữa. Tác phẩm ca ngợi chiến công của các chiến sĩ dân quân đã anh dũng chién đấu vì sự nghiệp thống nhất đất nước. Với những tà áo, mái tóc dài bay ra sau, hình tượng các cô gái dân quân đã cho người xem thấy không gian tự thân tác phẩm, không gian sâu hút của phía sau. Không những vậy, chất liệu tạo nên tác phẩm cũng là một phần tạo nên thành công cho sự diễn tả không gian. Đá là một chất liệu cứng nhưng lại có khả năng thể hiện chi tiết rất tốt như trong tác phẩm này, từ mái tóc đến bộ quần áo đều được tác giả thể hiện khá chi tiết. Bên cạnh đó, khuôn mặt của nhân vật trong tác phẩm cũng được tác giả thể hiện chi tiết nhất, đặc biệt là đôi mắt. Đối mắt của ba người luôn nhìn thẳng về phía trước với ánh mắt đầy niềm tin, hy vọng. Điều đó thể hiện sự bất khuất của những con người sẵn sàng chiến đấu và hy sinh vì sự nghiệp giải phóng dân tộc thống nhất đất nước. Không những vậy, không gian trong tác phẩm còn được thể hiện ở hướng di chuyển của những nhân vật. Hai nhân vật nữ đều trong tư thế bước tiến về phía trước tạo cho tác phẩm những cảm giác chuyển động. Nhân vật nam được tạo hình một cách rất chi tiết từ chiếc áo đến tay súng và khuôn mặt. Đặc biệt là khuôn mặt của nhân vật này, tác giả đã thể hiện đầy đủ những hình khối, đôi mắt, ánh mắt tạo tinh thần kiên cường. Hơn thế, nhân vật nam được tạo trong tư thế đứng trang nghiêm, một tay cầm súng, tay còn lại nắm chặt để vuông góc trước ngực. Tất cả những yếu tố chi tiết mà tác giả thể hiện trong tác phẩm đã tạo hiệu ứng không gian mạnh cho tác phẩm. Tác phẩm được làm bằng chất liệu đá với màu sắc tạo nên bởi chính màu xám của đá lại càng làm tăng thêm sự vững chãi và tinh thần của tác phẩm.
  • 34. 34 Nói chung, không gian là một phần không thể thiếu trong tác phẩm điêu khắc, đặc biệt là điêu khắc tượng đài. Phần không gian không chỉ nói lên sự thành công của tác phẩm còn thể hiện tài năng của chín tác giả. Qua không gian trong tác phẩm phần nào nói lên được không gian tự thân của tác phẩm và không gian kiến trúc xung quanh tác phẩm. Sự kết hợp của hai loại không gian này tạo lên tiếng nói cho tác phẩm điêu khắc tượng đài nói chung. 2.2.2. Hình khối trong điêu khắc tượng đài chất liệu đá ở Việt Nam giai đoạn 2000 – 2015 Nghệ thuật điêu khắc có tính chất đặc trưng riêng, khác với các hình thức nghệ thuật như hội họa hay đồ họa. Nếu như trong hội họa hay đồ họa, hình khối của đối tượng mà tác phẩm biểu đạt được thể hiện bằng đậm nhạt, sự thay đổi sắc độ, ánh sáng thì với nghệ thuật điêu khắc, hình khối đó phải được thể hiện trong thực tế, được cảm nhận tối đa bởi thị giác, và với những điểm nhìn khác nhau sẽ tạo cho người xem những cảm nhận khác nhau. Vì vậy, hình khối đóng một vai trò quan trọng trong việc thể hiện một tác phẩm điêu khắc và góp phần quyết định sự thành công cho tác phẩm đó. Các công trình điêu khắc tượng đài tưởng niệm trên khắp cả nước khá đa dạng và phong phú trong hình thức thể hiện. Đó có thể là một tác phẩm với phong cách tả thực, tái hiện lại hình ảnh của nhân vật, chủ đề hay cũng có thể sử dụng hình ảnh biểu tượng, mang những yếu tố gợi nhắc đến nội dung chính.Các công trình điêu khắc tưởng niệm đa số là công trình mang kích thước tương đối lớn. Hình khối trong tác phẩm đơn giản, rõ ràng, ít yếu tố trang trí cầu kì. Tác phẩm tập trung khắc họa cảm xúc, tinh thần của tác phẩm để từ đó làm toát lên không khí trang nghiêm, tôn kính của chủ đề hay nhân vật được thể hiện.
  • 35. 35 Nhóm Phù điêu và tượng đài bất khuất (H1.10) có bố cục gồm một nhóm người, trong đó có những người lính, hai người đứng riêng lẻ, một là đang ông và một người phụ nữ. Tất cả đều cầm chắc vũ khí trên tay sẵn sàng chiến đấu. Người cầm dao, người cầm súng, người cầm bom ba càng. Thế của các nhân vật có sự thay đổi nhịp nhàng, mang lại cho người xem không khí hào hùng và tinh thần chiến đấu anh dũng. Hình khối khỏe với nhiều mảng hình lớn giúp bố cục trở nên chắc chắn hơn. Nếu như những người chiến sĩ và công nhân được miêu tả bằng các khối vuông và các mảng lớn thì khi miêu tả hình ảnh người phụ nữ, tác giả đã có ý thức sử dụng nhiều khối tròn hơn nhưng vẫn giữ được nhưng đường nét và động tác cơ thể khỏe khoắn. Bên cạnh đó, hình ảnh mái nhà ở các khu phố được cách điệu trên nền của phù điêu được sử dụng như các yếu tố trang trí nhưng được chạm khắc chìm, không lấn át bố cục chính mà còn góp phần tái hiện lại không gian cuộc chiến bảo vệ đất nước. Những mái nhà nhấp nhô phía sau góp phần tô điểm tác phẩm, gắn kết các phần trong bố cục chính, đồng thời mang lại cảm giác thân quen, gần gũi cho người xem. Có thể thấy, tác phẩm nhóm phù điêu và tượng đài bất khuất không chỉ thành công về mặt nghệ thuật mà còn có ý nghĩa sâu sắc về mặt tinh thần đối với người dân nói riêng và nhân dân Việt Nam nói chung. Đề tài thường gặp trong các công trình điêu khắc tôn vinh tại thành phố Hà Nội là những người anh hùng có công xây dựng và bảo vệ đất nước. Hình ảnh thể hiện có thể là một nhân vật lịch sử cụ thể, cũng có thể là một nhóm người đại diện cho một tầng lớp hay một ngành nghề trong xã hội như chiến sĩ, công nhân, nông dân… Các tác phẩm do đó phải khắc họa được tinh thần hiên ngang, ý chí chiến đấu, sự dũng cảm, kiên cường của nhân vật qua bố cục và hình khối. Tượng đài Quyết tử để Tổ quốc quyết sinh tại vườn hoa Hàng Đậu, Hà Nội (H1.3) thể hiện hình ảnh những người chiến sĩ trong tư thế sẵn sàng
  • 36. 36 chiến đấu. Một mặt của tác phẩm hướng về phố Hàng Đậu, thể hiện hình ảnh anh bộ đội quỳ một chân ở phía trước, tay cầm chắc bom ba càng để bảo vệ thành phố và cô gái Việt Nam trong trang phục áo dài truyền thống, tà áo tung bay trong gió. Khuôn mặt hướng về phía trước, hai cánh tay dang rộng, tay trái cầm thanh kiếm, tay phải giơ cao lên trời. Mặt sau của tác phẩm hướng về phố Hòe Nhai với hình ảnh người lính tay cầm súng sẵn sàng bảo vệ đất nước. Các nhân vật được diễn tả bởi những diện khối lớn, khỏe nhưng có phần khô cứng. Tuy nhiên, tác giả chưa diễn tả được sự mềm mại của người phụ nữ và tà áo dài. Nếp áo bay và các nếp quần được giản lược tối đa và có phần gượng. Đặc biệt, khuôn mặt của nhân vật nữ có phần thô cứng với các nét tạc sắc cạnh, gò má cao, xương hàm bạnh cùng với việc lược bỏ các nét mềm mại của cánh tay khiến cho nhân vật nhiều yếu tố nam tính. Phía sau người chiến sĩ và cô gái là hình ảnh lá cờ Việt Nam đang bay với dòng chữ “Quyết tử để Tổ quốc quyết sinh” và dòng chữ “Hà Nội 1946”. Việc sử dụng các khối đá lớn, dày đã vô tình tạo nên cảm giác nặng nề của lá cờ. Các vân mây trang trí trên lá cờ chưa thực sự gắn kết chặt chẽ với tổng thể nội dung tác phẩm. Tác giả đã diễn tả được khí thế chiến đấu và tinh thần bảo vệ Tổ quốc của người dân Việt Nam nhưng ngôn ngữ hình thể của các nhân vật còn thiếu sự sáng tạo và lối biểu đạt còn có phần chưa được mềm mại. Một tác phẩm tượng đài khác được đặt ngay tại trung tâm thành phố Hà Nội. Tượng đài Bác Hồ được khánh thành năm 2004 nằm trong khuôn viên rộng 500m2 của Học Viện Hành Chính - Chính trị Quốc Gia Hồ Chí Minh. Tác phẩm gồm hai phần tượng và bệ tượng với tổng chiều cao khoảng 3m. Tác phẩm thể hiện hình ảnh chủ tịch Hồ Chí Minh trong tư thế ngồi, trên tay phải cầm cuốn sách, tay trái đặt lên đùi. Khuôn mặt của Bác hướng về phía trước, ánh mắt nhìn về khoảng không phía xa. Trên tác phẩm, có đường nét được tác giả nhấn mạnh sự thay đổi, tạo nên cảm giác
  • 37. 37 khỏe khoắn nhưng cũng có những điểm buông để tạo nên sự đối lập về khối. Các chi tiết trên quần áo như yếu tố trang trí, các nếp gấp của vải được lược bỏ. Biểu cảm trên khuôn mặt được khai thác triệt để, đặc biệt ở đôi mắt với ánh nhìn đăm chiêu, có phần nghiêm nghị mà vẫn toát lên vẻ hiền từ. Đôi mắt Bác đặc biệt được chú trọng đặc tả, từ hướng nhìn của mắt, sự thay đổi hướng của hai đường lông mày để từ đó khắc họa vẻ đẹp nội tâm của nhân vật. Bề mặt khối được xử lý mịn, mang lại cảm giác nhẹ nhàng cho người xem. Khuôn mặt, đôi tay và bàn chân nhân vật tuy sử dụng các mảng lớn thế nhưng cạnh khối có phần tròn, tạo cảm giác mềm mại của da thịt. Ngược lại, khi miêu tả trang phục, tạo hình của khối có phần khỏe khoắn, dứt khoát hơn. Đặc biệt, hướng đầu, hướng tay, hướng chân của nhân vật được tác giả khéo léo lựa chọn, tạo nên sự nhịp nhàng trong bố cục hình khối của tác phẩm. 2.2.2. Chất cảm trong điêu khắc tượng đài chất liệu đá ở Việt Nam giai đoạn 2000 – 2015 Nghệ thuật là một hình thức để thể hiện cảm xúc và suy nghĩ. Người nghệ sĩ thông qua tác phẩm nghệ thuật của mình truyền đạt tới người xem một thông điệp, có thể là niềm vui hay nỗi buồn. Cảm xúc có thể nói là yếu tố quyết định sự thành công của một tác phẩm nghệ thuật. Vì vậy, khi nói đến nghệ thuật điêu khắc, ta không thể không nói đến chất cảm. Theo Từ điển Thuật ngữ mĩ thuật phổ thông, “chất cảm” được định nghĩa như sau: “Cảm xúc được tạo nên thông qua các phương tiện tạo hình hay ngôn ngữ nghệ thuật hoặc cấu tạo vật chất của một bức tranh, tượng… Chất cảm của phương tiện tạo hình đã tác động trực tiếp lên thị giác… Người ta nhận biết một vật thể không chỉ ở kích thước, tỉ lệ, màu sắc mà còn ở cảm nhận cấu tạo vật chất của nó nữa. Từ cấu tạo vật chất ấy mà nghệ thuật cần truyền đạt được đến người xem cái cảm xúc về chất hay còn gọi là chất cảm. Chất cảm trong nghệ thuật điêu khắc được tạo nên từ hình khối và đặc biệt là từ
  • 38. 38 cách xử lý và kết hợp chất liệu. Mỗi chất liệu sẽ mang lại cho người xem những cảm nhận khác nhau qua thị giác và xúc giác. Trong nghệ thuật điêu khắc, chất liệu là nguyên liệu chính để người nghệ sĩ tạo nên màu sắc cho tác phẩm của mình. Đối với nghệ thuật điêu khắc, việc lựa chọn chất liệu càng đóng vai trò quan trọng trong việc quyết định độ bền vững của tác phẩm. Chất liệu đá với những đặc điểm và tính chất đặc trưng nhưng được xử lý theo các phương pháp khác nhau sẽ mang lại chất cảm cho tác phẩm, khơi gợi cảm xúc nơi người xem. Tượng đài Quyết tử để Tổ quốc quyết sinh (H1.3) là một trong số những công trình điêu khắc ngoài trời ở Hà Nội sử dụng chất liệu đá. Tuy nhiên, tác phẩm điêu khắc này chưa thực sự thành công trong việc sử dụng chất liệu đá trong quá trình tạo hình. Bản thân chất liệu đá mang lại cho người xem cảm giác về sự vững chãi, chắc chắn, tạo nên cảm nhận rõ ràng về trọng lượng và khối tích của tác phẩm. Thế nhưng, việc sử dụng nhiều hình khối lớn, các đường nét thẳng đã khiến cho tác phẩm trở nên thô cứng, khiến cho ưu thế của chất liệu đá trở thành nhược điểm trong quá trình tạo hình. Do xử lý tạo hình và bề mặt khối chưa tốt nên tác phẩm chưa thể hiện được sự khác biệt giữa các chất liệu, từ da thịt cho đến quần áo, từ vải thô trên chiếc áo của người lính cho đến lớp vải mềm mại trên tà áo dài. Có thể thấy, với tạo hình của tượng đài Quyết tử để Tổ quốc quyết sinh, chất liệu đá không phải là một chất liệu phù hợp để diễn tả nội dung và tinh thần của tác phẩm. Tượng đài Bác Hồ ở Học Viện Chính trị Quốc Gia Hồ Chí Minh là một trong những công trình điêu khắc ngoài trời tại thành phố Hà Nội khá thành công trong việc sử dụng chất liệu đá. Màu trắng của tác phẩm không chỉ làm rõ đường nét và hình khối nhân vật mà còn khiến cho tác phẩm trở nên nổi bật trên nền tường màu hồng đỏ của những dãy nhà phía sau, tạo ấn tượng thị giác mạnh cho người xem. Trang phục của nhân vật được thể
  • 39. 39 hiện đơn giản với các khối lớn nhưng không góc cạnh để tạo nên sự mềm mại của vải. Chi tiết trang trí và các nếp vải trên quần áo cũng được lược bỏ, tạo nên cảm giác bình dị, gần gũi. Đá là một chất liệu mang lại cảm giác nặng nề nhưng cách xử lý tạo hình khiến cho nhân vật tuy được đặt trong thế ngồi nhưng không bị gò bó mà vẫn nhẹ nhàng, thanh thoát. Có thể thấy, với chất liệu đá, tác giả đã thành công trong việc khắc họa hình ảnh Chủ tịch Hồ Chí Minh vừa gần gũi, quen thuộc với nhân dân nhưng cũng đồng thời là một chính trị gia đang lo nghĩ việc nước. Tượng đài Bác Hồ không chỉ hài hòa về mặt thẩm mỹ với không gian xung quanh mà còn phù hợp về mặt nội dung bởi Học Viện Chính trị Quốc Gia Hồ Chí Minh là trung tâm nghiên cứu khoa học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, là nơi đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt trung, cao cấp, cán bộ khoa học chính trị của Đảng, Nhà nước và các đoàn thể chính trị - xã hội. Trong nghệ thuật điêu khắc, chất liệu là nguyên liệu chính để người nghệ sĩ tạo nên màu sắc cho tác phẩm của mình. Đối với nghệ thuật điêu khắc, việc lựa chọn chất liệu càng đóng vai trò quan trọng trong việc quyết định độ bền vững của tác phẩm. Mỗi chất liệu với những đặc điểm và tính chất khác nhau được xử lý theo các phương pháp khác nhau sẽ mang lại chất cảm cho tác phẩm, khơi gợi cảm xúc nơi người xem. Tùy vào nội dung, cách thể hiện, vai trò và vị trí của tác phẩm mà người nghệ sĩ sẽ lựa chọn một chất liệu phù hợp để truyền tải ý nghĩa của tác phẩm đến với mọi người. Ta thường bắt gặp ở điêu khắc tượng đài đặt ở ngoài trời ở Việt Nam giai đoạn 2000 đến 2015 những chất liệu quen thuộc và phổ biến như chất liệu sắt với màu bạc xám, chất liệu đồng với sắc vàng sậm đặc trưng, chất liệu bê tông với màu xám nhạt… Luận văn này đi sâu nghiên cứu chất liệu đá trong các tác phẩm điêu khắc tượng đài ở Việt Nam giai đoạn 2000 – 2015. Chất liệu đá là chất liệu được sử dụng nhiều nhất trong các công trình điêu khắc tượng đài ở ngoài
  • 40. 40 trời. Đá là chất liệu với chi phí không quá cao, phù hợp cho việc xử lý các hình khối lớn. Các công trình điêu khắc tượng đài ở ngoài trời chủ yếu tôn vinh và tưởng niệm những vị anh hùng dân tộc. Do đó, đá là chất liệu phù hợp để diễn tả sự oai nghiêm, hùng dũng cho tác phẩm. Bề mặt đá thô ráp, giúp cho ánh sáng khi chiếu trên bề mặt không bị trượt đi, tăng sự tương phản đậm nhạt, tạo nên những đường nét cứng cáp, rắn rỏi. Trong khi đó, nếu bề mặt đá được mài nhẵn sẽ tạo cảm giác mềm mại. Đồng thời, với những phương pháp tạo hình phù hợp, đá cũng có thể tạo nên những hình khối mềm mại với những chi tiết trang trí cầu kỳ. Ta có thể thấy, chất liệu đá trong các tác phẩm như tượng đài Quyết tử để Tổ quốc quyết sinh, tượng đài Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác, tượng đài Phụ nữ Ba Đảm Đang, tượng đài Bác Hồ… Tượng đài Quyết tử để Tổ quốc quyết sinh là một trong số những công trình điêu khắc tượng đài đặt ngoài trời ở Việt Nam sử dụng chất liệu đá. Tuy nhiên, tác phẩm điêu khắc này chưa thực sự thành công trong việc sử dụng chất liệu đá trong quá trình tạo hình. Bản thân chất liệu đá mang lại cho người xem cảm giác về sự vững chãi, chắc chắn, tạo nên cảm nhận rõ ràng về trọng lượng và khối tích của tác phẩm. Thế nhưng, việc sử dụng nhiều hình khối lớn, các đường nét thẳng đã khiến cho tác phẩm trở nên thô cứng, khiến cho ưu thế của chất liệu đá trở thành nhược điểm trong quá trình tạo hình. Do xử lý tạo hình và bề mặt khối chưa tốt nên tác phẩm chưa thể hiện được sự khác biệt giữa các chất liệu, từ da thịt cho đến quần áo, từ vải thô trên chiếc áo của người lính cho đến lớp vải mềm mại trên tà áo dài. Có thể thấy, với tạo hình của tượng đài Quyết tử để Tổ quốc quyết sinh, chất liệu đá không phải là một chất liệu phù hợp để diễn tả nội dung và tinh thần của tác phẩm. Bên cạnh đó, tác phẩm “Phụ nữ ba đảm đang” (H1.12) của tác giả Nguyễn Hồng Phong và Lưu Danh Thanh khánh thành năm 2009 tại Đan
  • 41. 41 Phương, Hà Nội là cụm công trình điêu khắc tượng đài và phù điêu. Tượng đài thể hiện hình ảnh người phụ nữ khoác súng trên vai, tay phải cầm lưỡi cày, tay trái bế một đứa trẻ con đang dơ hai tay lên cao, với tư thế đứng hiên ngang, bất khuất. Tác phẩm là sự thành công của chất liệu đá đã thể hiện được nét mềm mại, uyển chuyển trong thân hình của người phụ nữ và đứa bé. Bên cạnh đó,chất liệu đá đã thể hiện sự vững chãi, chắc chắn cho người xem cảm nhận rõ ràng về trọng lượng cũng như hình khối trong tác phẩm. Không những vậy, tác phẩm là sự thể hiện thành công qua chất liệu đám các chi tiết đường nét uyển chuyển, những tà áo cong lên, chi tiết chiếc khắn quấn trên chiếc cày và hình ảnh đứa bé dơ tay lên cao làm cho tác phẩm trở nên sống động hơn. Qua đó phần nào nói lên thêm về sức chịu đựng gian khổ và hậu phương vững chãi cho tiền tuyến.Không chỉ chiến đấu kiên cường tại quê nhà mà còn vẫn làm tròn chức năng, vai trò của một người vợ người mẹ, người con dâu, không chỉ vậy còn là người tạo ra lương thực chuyển vào chiến trường cho các chiến sĩ yên tâm chiến đấu. Cuộc chiến đấu của quân và dân ta trên mặt trân giải phóng không thể thiếu đi hình ảnh và công lao to lớn của những người nữ chiến sĩ quả cảm như vậy. Tác phẩm đã thể hiện thành công cái tinh thần của người phụ nữ nơi hậu phương, hiên ngang, kiên cường. Tượng đài Bác Hồ ở Học Viện Chính trị Quốc Gia Hồ Chí Minh là một trong những công trình điêu khắc ngoài trời tại thành phố Hà Nội khá thành công trong việc sử dụng chất liệu đá. Trang phục của nhân vật được thể hiện đơn giản với các khối lớn nhưng không góc cạnh để tạo nên sự mềm mại của vải. Chi tiết trang trí và các nếp vải trên quần áo cũng được lược bỏ, tạo nên cảm giác bình dị, gần gũi. Đá là một chất liệu mang lại cảm giác nặng nề nhưng cách xử lý tạo hình khiến cho nhân vật tuy được đặt trong thế ngồi nhưng không bị gò bó mà vẫn nhẹ nhàng, thanh thoát. Có thể thấy, với chất liệu đá, tác giả đã thành công trong việc khắc họa hình
  • 42. 42 ảnh Chủ tịch Hồ Chí Minh vừa gần gũi, quen thuộc với nhân dân nhưng cũng đồng thời là một chính trị gia đang lo nghĩ việc nước. Tượng đài Bác Hồ không chỉ hài hòa về mặt thẩm mỹ với không gian xung quanh mà còn phù hợp về mặt nội dung bởi Học Viện Chính trị Quốc Gia Hồ Chí Minh là trung tâm nghiên cứu khoa học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, là nơi đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt trung, cao cấp, cán bộ khoa học chính trị của Đảng, Nhà nước và các đoàn thể chính trị - xã hội. Tiểu kết chương 2 Nội dung chương 2 nghiên cứu hai vấn đề lớn là Nội dung và hình thức trong các tác phẩm điêu khắc tượng đài ở Việt Nam giai đoạn 2000 – 2015. Trong đó, phần hình thức đã làm rõ các vấn đề về hình khối trong điêu khắc tượng đài và chất liệu trong điêu khắc tượng đài giai đoạn 2000 - 2015. Qua đó cho thấy một tác phẩm điêu khắc tượng đài được đặt ở ngoài trời muốn tạo hiệu quả tốt cần xử lý được ba yếu tố trên để hòa hợp với không gian sống, không gian công cộng, không gian đô thị,… xung quanh và biểu đạt nội dung rõ ràng đến người thưởng thức tác phẩm. Điêu khắc tượng đài đặt ở ngoài trời rất khác so với điêu khắc trong nhà bởi nó phải xử lý khoảng không gian lớn hơn nhiều. Một tác phẩm khi đặt ở một vị trí nhất định không thể quá to, bởi nó sẽ lấn át các công trình xung quanh, tạo nên cảm giác chật chội, cũng không thể quá nhỏ mà lọt thỏm, khó mà thưởng thức. Không chỉ thể hiện sự hòa hợp với không gian cảnh quan, tác phẩm điêu khắc tượng đài ngoài trời cũng phải thể hiện được không gian qua chính hình khối và đường nét. Do đó, một công trình điêu khắc tượng đài ngoài trời đẹp phải có sự lựa chọn chất liệu phù hợp với tạo hình, bố cục chắc chắn, hợp lý, phải có chiều sâu không gian trong tác phẩm và phải có sự liên kết chặt chẽ với không gian cảnh quan. Tải bản FULL (86 trang): https://bit.ly/3fQM1u2 Dự phòng: fb.com/KhoTaiLieuAZ