SlideShare a Scribd company logo
1 of 60
Download to read offline
1
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU
LỊCH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỸ THUẬT VIỆT NAM
ĐỖ THỊ THU THỦY
ĐỀ TÀI NễNG NGHIỆP
TRONG TRANH KHẮC GỖ VIỆT NAM
GIAI ĐOẠN 1955-1985
LUẬN VĂN THẠC SỸ MỸ THUẬT
HÀ NỘI – 2017
2
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỸ THUẬT VIỆT NAM
ĐỖ THỊ THU THỦY
ĐỀ TÀI NễNG NGHIỆP
TRONG TRANH KHẮC GỖ VIỆT NAM
GIAI ĐOẠN 1955-1985
LUẬN VĂN THẠC SỸ MỸ THUẬT
Chuyờn ngành: Mỹ thuật Tạo hỡnh (Hội họa)
Mó số: 60 21 01 02
Khúa: 18 (2015-2017)
Giảng viên hướng dẫn khoa học:
PGS.TS Bựi Thị Thanh Mai
3
HÀ NỘI – 2017
BẢNG CHỮ CÁI VIẾT TẮT
BTMT : Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam
H : Hỡnh
NXB : Nhà xuất bản
Tr : Trang
XHCN : Xó hội chủ nghĩa
4
MỤC LỤC
Trang phụ bìa…………………………………………………………….
Bảng chữ cái viết tắt……………………………………………………..
Mục lục………………………………………………………………….. 01
MỞ ĐẦU………………………………………………………………... 03
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN CHUNG VỀ ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU............... 12
1.1. Khái niệm “đề tài nông nghiệp trong tranh khắc gỗ”……………..... 12
1.2. Khái quát chung về tranh khắc gỗ Việt Nam giai đoạn 1955-1985... 20
Tiểu kết………………………………………………………………….. 26
CHƯƠNG 2: NỘI DUNG VÀ HÌNH THỨC THỂ HIỆN ĐỀ TÀI NÔNG NGHIỆP
TRONG TRANH KHẮC GỖ VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1955-1985…………. 28
2.1. Nội dung chủ đề thể hiện đề tài…………………………………….. 28
2.1.1. Chủ đề về cấy cày…………………………………………….. 28
2.1.2. Chủ đề về trồng trọt…………………………………………... 31
2.1.3. Chủ đề về chăn nuôi………………………………………….. 33
2.1.4. Chủ đề về thu hoạch………………………………………….. 35
2.2. Hình thức thể hiện đề tài………………………………………….... 37
2.2.1. Bố cục trong tác phẩm……………………………………….. 38
2.2.2. Đường nét trong tác phẩm…………………………………… 42
2.2.3. Hình thể trong tác phẩm……………………………………… 45
2.2.4. Màu sắc trong tác phẩm………………………………………. 48
Tiểu kết………………………………………………………………….. 53
CHƯƠNG 3: NHỮNG ĐIỀU RÚT RA TỪ VIỆC NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI..... 54
3.1.Thành công và hạn chế đề tài nông nghiệp trong tranh khắc gỗ Việt Nam
giai đoạn 1955-1985…………………………………………………….. 54
3.2. Bài học về sự kế thừa và phát huy truyền thống dân tộc…………… 62
5
Tiểu kết………………………………………………………………….. 67
KẾT LUẬN……………………………………………………………………. 69
TÀI LIỆU THAM KHẢO…………………………………………………….. 74
MỤC LỤC PHẦN PHỤ LỤC…………………………………………............ 78
PHẦN PHỤ LỤC………………………………………………………............ 79
6
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Bất kỳ nước nào cũng có bề dày kinh nghiệm và sở trường riêng để gây
dựng nền hội họa của mình. Trong thế kỷ thứ 20, các họa sĩ Việt Nam cũng kế
thừa cả một truyền thống dân tộc của mình mà trong đó tranh khắc gỗ dân
gian là một trong những nguồn cảm xúc quan trọng bậc nhất. Năm 1925, kể từ
khi có trường Mỹ thuật Đông Dương, đã đánh dấu sự xuất hiện của tranh khắc
gỗ hiện đại. Sau khi Cách mạng tháng Tám thành công, do nhu cầu phổ biến
rộng rãi và kịp thời những nét sinh hoạt của xã hội nên tranh khắc gỗ được
phát triển nhanh chóng, nội dung phản ánh con người mới, xã hội mới. Hình
ảnh Bác Hồ tưới cây, anh tự vệ, cô bộ đội, các dân tộc đoàn kết hăng hái tham
gia lao động sản xuất… đều được phản ánh một cách rất tươi tắn, rõ nét, mà
trong số đó phải kể đến đề tài nông nghiệp.
Giai đoạn 1955-1985 là giai đoạn xuất hiện nhiều tranh khắc gỗ nhất với
mảng đề tài nông nghiệp bởi sau năm 1954 đất nước hòa bình thống nhất,
nhân dân ta hăng hái lao động sản xuất khôi phục phát triển kinh tế, các họa sĩ
Việt Nam đã làm rực rỡ thêm cho nền tranh khắc gỗ nước nhà bằng những tác
phẩm có giá trị nghệ thuật cao, với nhiều sắc thái, khía cạnh của cuộc sống.
Bằng lòng ham học hỏi và tài năng của mình, các họa sĩ Việt Nam đã được
tiếp thu các kỹ thuật diễn tả không gian, nét tinh tế của nghệ thuật đồ họa thế
giới góp phần sự đa dạng, phong phú của đồ họa nước nhà. Sự tinh tế, đan
xen chất mộc mạc; sự giản lược kết hợp diễn tả khối, không gian trong tranh
sinh hoạt đề tài nông nghiệp đã đưa người xem như được bước vào một khung
cảnh mới vừa quen vừa lạ mang đầy chất dân tộc mà vẫn hiện đại, đem lại
nhiều cảm xúc cho người sáng tác cũng như thưởng thức.
Với nhiều nét độc đáo, đề tài nông nghiệp cũng là điểm đáng quan tâm
7
của nhiều nhà nghiên cứu lịch sử, lý luận mỹ thuật; tuy nhiên, nhìn chung tính
đến thời điểm hiện tại vẫn chưa có những đề tài hay công trình nghiên cứu
mang tính chuyên sâu nào về nông nghiệp, đặc biệt là thể hiện ở tranh khắc
gỗ. Bên cạnh đó, nhân dịp có thể hệ thống lại, phân tích và làm rõ sự biểu
hiện đề tài nông nghiệp trong tranh khắc gỗ Việt Nam giai đoạn 1955-1985.
Xuất phát từ lý do trên, để góp phần vào công việc nghiên cứu nghệ thuật
tranh khắc gỗ ở Việt Nam, luận văn tập trung nghiên cứu vấn đề “Đề tài nông
nghiệp trong tranh khắc gỗ Việt Nam giai đoạn 1955- 1985”.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Đề tài nông nghiệp là đề tài không còn xa lạ đối với Mỹ thuật tạo hình,
bởi nó có tính chất lịch sử và cơ sở tồn tại lâu đời. Cũng như vậy, tranh khắc
gỗ Việt Nam trải qua bao biến thiên đến nay dòng tranh vẫn tồn tại và tạo nên
những dấu ấn văn hóa thẩm mỹ, cũng như định hình phong cách nghệ thuật
không phai mờ. Đề tài nông nghiệp và tranh khắc gỗ Việt Nam có vai trò to
lớn trong nghệ thuật nước nhà và được sự quan tâm của các nhà nghiên cứu.
Vì vậy cho đến nay có một số công trình đã đề cập đến về sự ra đời, phát triển
của dòng tranh cũng như bề dày lịch sử ở những chủ đề, giai đoạn khác nhau;
bài viết nhỏ mang tính chất nhận định cá nhân về đề tài trên những trang sách,
tạp chí Mỹ thuật, trang báo điện tử, trong khóa luận tốt nghiệp, luận văn thạc
sĩ. Dưới đây là một số tài liệu phục vụ cho quá trình nghiên cứu luận văn khi
có điều kiện được tiếp cận và được chia thành hai nhóm như sau:
*Nhóm tài liệu viết về đề tài nông nghiệp trong Mỹ thuật:
Cuốn Nguyễn Văn Chung, Những bài viết về Mỹ thuật [6] của Nguyễn
Văn Chung, NXB Mỹ thuật, Hà Nội 2010 là tập hợp những bài viết dưới suy
nghĩ cá nhân của riêng tác giả về các vấn đề xung quanh tới Mỹ thuật, trong
đó có bài viết “Mỹ thuật phục vụ nông nghiệp và đời sống nông thôn hiện
nay”. Về cơ bản bài viết đã đưa ra vai trò của Mỹ thuật trong việc tuyên
truyền, cổ động đường lối chính sách của Đảng và nhà nước về vấn đề nông
8
nghiệp, đời sống nông thôn.
Cuốn Mỹ thuật đồng bằng sông Hồng của Hội Mỹ thuật Việt Nam do
Trần Khánh Chương chủ biên, NXB Mỹ thuật, 2015 là tập hợp những bài
tham luận tại Hội thảo Mỹ thuật Đồng bằng sông Hồng lần thứ nhất năm 2014
trong đó có hai bài viết của hai họa sĩ Việt Anh [14; Tr 215-220] và Nguyễn
Thái Cơ [14; Tr 253-259] nói đến cái được và mất về đề tài nông nghiệp dưới
góc nhìn, đánh giá cá nhân qua các cuộc triển lãm khu vực Đồng bằng sông
Hồng những năm gần đây, qua đó đưa ra một số ý kiến khắc phục những hạn
chế còn tồn tại. Bài viết rất có ích cho việc nghiên cứu luận văn khi cung cấp
cái nhìn khách quan của các nghệ sĩ.
Luận văn Hình tượng người nông dân trong hội họa Việt Nam thế kỷ XX-
(2012) [23] trường Đại học Mỹ thuật Việt Nam của Nguyễn Chí Nguyện đã
nghiên cứu và cho cái nhìn khái quát nhất về hình tượng người nông dân
trong hội họa Việt Nam thế kỷ XX trên các chất liệu lụa, sơn dầu, sơn mài…
trong đó đã chỉ ra hình tượng người nông dân trong hội họa giai đoạn 1954-
1975 khi xây dựng XHCN ở miền Bắc với lao động tập thể trong phong trào
hợp tác xã, làm chủ công việc, làm chủ ruộng đồng… Luận văn cung cấp cái
nhìn toàn cảnh về sự thay đổi cũng như phát triển hình tượng người nông dân
suốt chặng đường dài xuyên suốt thế kỷ XX.
* Nhóm tài liệu viết về tranh khắc gỗ Việt Nam:
Cuốn Về tính dân tộc của nghệ thuật tạo hình [34] của Viện Nghệ thuật-
Bộ Văn hóa, NXB Văn hóa, Hà Nội 1973 có tập hợp những bài phát biểu của
các họa sĩ, nhà điêu khắc, kiến trúc sư, cán bộ lý luận, nhà phê bình Mỹ
thuật… về đặc điểm, đặc trưng, tính hiện thực của nghệ thuật tạo hình dân
tộc, vấn đề kế thừa, phát huy vốn nghệ thuật của ông cha, vấn đề học tập tinh
hoa nghệ thuật nước ngoài… đặc biệt có bài phát biểu của Phạm Văn Đôn với
“Tranh khắc gỗ Việt Nam” về tính chất tranh khắc gỗ, tranh khắc gỗ Việt
Nam qua các thời kỳ lịch sử và “Một số đặc điểm dân tộc trong tranh dân
9
gian” của PGS Nguyễn Trân có đề cập đến đặc điểm dân tộc trong nội dung
đề tài, nội dung thẩm mỹ; trong công việc thể hiện tranh khắc gỗ dân gian
Việt Nam.
Cuốn Tranh dân gian Việt Nam [38] Nguyễn Bá Vân và Chu Quang
Chứ, NXB Văn hóa, Hà Nội, 1984 viết về nghệ thuật tranh khắc gỗ dân gian
Việt Nam với nguồn gốc, sự phát triển, kỹ thuật, nội dung cũng như giá trị
nghệ thuật của tranh. Ngoài ra còn xen vào những bài viết nói lên suy nghĩ,
nhận định dưới góc nhìn cá nhân tác giả.
Cuốn Nghệ thuật Đồ họa [32] của PGS. Nguyễn Trân, NXB Mỹ thuật,
Hà Nội, 1995 là tài liệu có tính chất lý luận về nghệ thuật đồ họa, trong đó tác
giả phân tích các thể loại đồ họa trên một số quan niệm, kỹ thuật in khắc, mục
đích sử dụng, nguồn gốc ra đời, tổng quan về sự phát triển cũng như đặc điểm
của tranh đồ họa Việt Nam cùng thế giới, trong đó có nhắc đến tranh khắc gỗ.
Tranh khắc gỗ Việt Nam được nhắc đến qua sự xuất hiện, đặc điểm thẩm mỹ,
bên cạnh đó đề cập việc tiếp thu truyền thống, sáng tạo cái mới trong đồ họa.
Cuốn Đồ họa nghệ thuật tranh in [31] của Hoàng Minh Phúc đã viết rất
kỹ về lịch sử giai đoạn của tranh khắc gỗ Việt Nam, cụ thể liệt kê tiến trình
cũng như thành tựu của dòng tranh này. Cuốn sách đưa ra những nhận định cá
nhân mang lại cho người xem sự hiểu biết đầy thuyết phục dựa trên những cơ
sở đáng tin cậy. Đây là một tài liệu quý, cung cấp rất nhiều kiến thức trong
quá trình nghiên cứu đề tài.
Khóa luận Đề tài sinh hoạt trong tranh khắc gỗ màu Việt Nam [19]
trường Đại học Mỹ thuật Việt Nam của Nguyễn Thị Hiền Lương đã chỉ ra vai
trò của khắc gỗ là một phần quan trọng trong nền văn hóa của dân tộc, qua đó
nghiên cứu về cách nhìn, cách diễn đạt đề tài sinh hoạt của nghệ nhân dân
gian xưa và các họa sĩ Việt Nam hiện đại trong nghệ thuật khắc gỗ màu nước
nhà.
Khóa luận Hiệu quả của nét trong tranh khắc gỗ đen trắng Việt Nam
10
hiện đại [33] trường Đại học Mỹ thuật Việt Nam của Xa Thị Minh Thúy đã
chỉ ra cách diễn đạt nét của các họa sĩ Việt Nam hiện đại trong nghệ thuật
khắc gỗ đen trắng. Qua đó thấy được hiệu quả biểu đạt của đường nét.
Khóa luận Tính hiện thực trong tranh khắc gỗ hiện đại Việt Nam [8]
trường Đại học Mỹ thuật Việt Nam của Vũ Ngọc Đăng đã chỉ ra những thành
công trong tranh khắc gỗ hiện đại Việt Nam khi kết hợp hài hòa tính dân tộc
và hiện đại, phương Đông và phương Tây qua luật phối cảnh xa gần, về mặt
kỹ thuật, và ý thức hướng về dân tộc, tìm tòi cái mới từ những gì mới mẻ tiếp
thu.
Khóa luận Tranh khắc gỗ hiện đại Việt Nam- (2007) [20] trường Đại học
Mỹ thuật Việt Nam của Hoàng Kiều Linh đã chỉ ra những thành công của
tranh khắc gỗ hiện đại Việt Nam khi kết hợp hài hòa tính dân tộc và hiện đại
về nội dung cũng như kỹ thuật thể hiện từ khi tranh khắc gỗ hiện đại ra đời
sau năm 1925 có trường Mỹ thuật Đông Dương.
Khóa luận Chất cảm trong tranh khắc gỗ Việt Nam hiện đại - (2008), [7]
trường Đại học Mỹ thuật Việt Nam của Đỗ Văn Duẩn đã chỉ ra đặc trưng của
chất cảm trong tranh khắc gỗ Việt Nam hiện đại (khả năng tả chất, diễn chất,
tạo chất), chất cảm trong việc khai thác đề tài và phong cách thể hiện của một
số họa sĩ.
Luận văn Tranh khắc gỗ màu hiện đại Việt Nam giai đoạn 1954-1975-
(2016) [10], trường Đại học Mỹ thuật Việt Nam của Dương Thị Hòa đã chỉ ra
những đặc điểm trong tác phẩm tranh khắc gỗ màu giai đoạn 1954-1975. Đây
là giai đoạn các họa sĩ Việt Nam đã trải qua quá trình học tập trong trường
Mỹ thuật Đông Dương nên đã hoàn thiện về mặt kỹ năng sáng tác, bắt kịp sự
thay đổi của xã hội, từ đó tạo ra sự chuyển biến về ngôn ngữ tạo hình cũng
như chủ đề sáng tác.
Bài viết Tranh khắc gỗ Việt Nam với những phát triển mới từ năm 1986
đến nay- Tạp chí Nghiên cứu Mỹ thuật số 3 (47), T9/2013, [12], trường Đại
11
học Mỹ thuật Việt Nam, Viện Mỹ thuật của Trương Nguyễn Nguyên Kha đã
đề cập vấn đề tranh khắc gỗ nước ta đã có những bước chuyển mình quan
trọng, tạo ra sức sống mới về nội dung chủ đề, kỹ thuật chế bản và in ấn,
những nét mới về ngôn ngữ và hình thức nghệ thuật.
Bài viết “Trần Nguyên Đán, nét khắc ký ức và hiện tại”- tạp chí Nghiên
cứu Mỹ thuật số 1, T4/2014, [21] Trường Đại học Mỹ thuật Việt Nam, Viện
Mỹ thuật của Nguyễn Loan đề cập đến những thành tựu mà họa sĩ đã đạt được
về nội dung cũng như kỹ thuật khắc gỗ khi tiếp nhận những kỹ năng truyền
thống để tạo ra phong cách riêng gây ấn tượng khó quên.
Bài viết “Tranh khắc gỗ mới- phương tiện mở rộng thực hành nghệ thuật
đương đại”- Tạp chí Mỹ thuật số 227, 2011 [29], Hội Mỹ thuật Việt Nam của
họa sĩ Nguyễn Nghĩa Phương đã đề cập đến vấn đề sự phát triển của tranh
khắc gỗ theo xu hướng mới về bút pháp, sự thay đổi sâu sắc về thẩm mỹ, sự
mở rộng về phương tiện, chất liệu, kỹ thuật chế bản và in ấn…
Ngoài ra còn rất nhiều những bài viết hay về đề tài nông nghiệp trong
Mỹ thuật cũng như tranh khắc gỗ Việt Nam ở các tạp chí Mỹ thuật, hay các
trang Blog Mỹ thuật và các sách giới thiệu tranh của các tác giả đồ họa. Tuy
nhiên tất cả đều không đề cập một cách cụ thể về đề tài nông nghiệp trong
tranh khắc gỗ Việt Nam. Tình hình đó đòi hỏi cần có một công trình nghiên
cứu riêng tập trung vào vấn đề những biểu hiện của đề tài nông nghiệp trong
tranh khắc gỗ Việt Nam ở cả nội dung và hình thức mà giai đoạn 1955-1985
là tiêu biểu. Luận văn là một sự cố gắng, một biểu hiện cụ thể nhằm đáp ứng
yêu cầu chung đó.
3. Mục đích của luận văn
- Hiệu quả tranh khắc gỗ Việt Nam giai đoạn 1955-1985 về đề tài nông
nghiệp.
- Tìm hiểu phong cách các họa sĩ Việt Nam qua kỹ thuật thể hiện đề tài
nông nghiệp trong tranh khắc gỗ.
12
- Nghiên cứu đánh giá, xác định những điểm nổi bật trong các tác phẩm
khắc gỗ của họa sĩ Việt Nam phản ánh hoạt động nông nghiệp nước nhà.
- Những bài học rút ra trong sáng tác qua việc tìm hiểu ngôn ngữ tạo
hình tranh khắc gỗ. Qua đó đề tài nông nghiệp trong tranh khắc gỗ Việt Nam
giai đoạn 1955-1985 góp một phần nhỏ trong nghệ thuật đồ họa tranh in, nền
mỹ thuật Việt Nam làm cơ sở dữ liệu khoa học để phục vụ sáng tác, nghiên
cứu khoa học và đào tạo.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu đề tài nông nghiệp trong tranh khắc gỗ Việt Nam giai đoạn
1955-1985.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu đề tài là các tác phẩm khắc gỗ Việt Nam giai đoạn
1955-1985 vẽ về đề tài nông nghiệp.
5. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp thu thập thông tin:
Xác định đây là phương pháp quan trọng cho bước đầu nghiên cứu: đi
tìm, thu thập những nguồn tài liệu có liên quan để phục vụ cho đề tài. Trong
quá trình thu thập tài liệu có sự kết hợp giữa phương pháp khảo sát (tiến hành
khảo sát các tác phẩm tại Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam), và phương pháp
phỏng vấn (gặp gỡ nói chuyện với các họa sĩ liên quan để lấy thông tin) vấn
đề đề tài nông nghiệp cũng như tranh khắc gỗ. Phương pháp thu thập thông
tin có tốt thì vấn đề mà luận văn đặt ra nghiên cứu càng được sáng tỏ.
- Phương pháp thống kê tài liệu:
Sau khi thu thập nhiều nguồn thông tin, thống kê lại, lập hệ thống tư liệu
những nguồn tài liệu hiện có (tranh ảnh, bài viết, ghi âm phỏng vấn…) để
chọn lọc ra những tư liệu chuẩn xác nhất, giàu sức thuyết phục phục vụ, giúp
ích cho công việc nghiên cứu đề tài nông nghiệp trong tranh khắc gỗ.
13
- Phương pháp phân tích:
Đây là phương pháp quan trọng nhất trong việc phân tích tác phẩm tranh
khắc gỗ Việt Nam đề tài nông nghiệp về nội dung cũng như hình thức; trên cơ
sở đó tìm ra yếu tố đặc sắc, nét đặc trưng và giá trị nghệ thuật của tranh thể
hiện qua ngôn ngữ biểu đạt, phút pháp thể hiện, kỹ thuật,...
- Phương pháp diễn dịch:
Luận văn sử dụng phương pháp diễn dịch để trình bày và làm rõ các vấn
đề đặt ra như khái niệm về đề tài nông nghiệp, tranh khắc gỗ; đến nội dung và
hình thức thể hiện đề tài.
- Phương pháp tổng hợp, đánh giá:
Tổng hợp dữ liệu văn bản và các vấn đề liên quan đến luận văn, tổng hợp
các kiến thức chung về đề tài nông nghiệp và tranh khắc gỗ Việt Nam ở trước,
trong và sau giai đoạn 1955-1985, đồng thời so sánh đối chiếu những thông
tin thu nhận được với nhau nhằm đảm bảo tính khách quan và chính xác cho
luận văn.
- Phương pháp lịch sử:
Phương pháp giúp tìm hiểu xã hội nói chung và hội họa Việt Nam trong
đó nói riêng, từ đó hiểu được sự ảnh hưởng, tác động của bối cảnh lịch sử tới
quan niệm sáng tác của các họa sĩ sáng tác trước, trong và sau giai đoạn 1955-
1985.
6. Đóng góp của luận văn
Về lý luận: Luận văn góp phần nghiên cứu về ngôn ngữ tạo hình trong
tranh khắc gỗ Việt Nam sáng tác về đề tài nông nghiệp giai đoạn 1955-1985.
Tìm hiểu và cung cấp đầy đủ về nội dung, hình thức biểu đạt cũng như kiến
thức và kinh nghiệm để tiếp cận với nghệ thuật tranh khắc gỗ Việt Nam ở đề
tài nông nghiệp, góp phần giữ gìn và phát triển dòng tranh đang bị mai một
này.
14
Về thực tiễn: Sau khi hoàn thành luận văn, giúp bổ sung một phần nhỏ
vào kho tàng nghiên cứu lý luận. Làm tài liệu tham khảo cho các học viên,
sinh viên quan tâm đến tranh khắc gỗ Việt Nam ở mảng đề tài nông nghiệp.
Giúp người đọc nhìn nhận được vẻ đẹp cũng như ý nghĩa của tranh khắc gỗ
Việt Nam. Từ đó biết quý trọng chất liệu tranh này cũng như bảo tồn và phát
huy dòng tranh đó.
7. Kết cấu của luận văn
Luận văn bao gồm phần mở đầu (09 trang), nội dung (58 trang), kết luận
(02 trang). Phần nội dung của đề tài gồm 3 chương:
Chương 1: Tổng quan chung về đề tài nghiên cứu. (16 trang)
Chương 2: Nội dung và hình thức thể hiện đề tài nông nghiệp trong tranh
khắc gỗ Việt Nam giai đoạn 1955-1985. (26 trang)
Chương 3: Những điều rút ra từ việc nghiên cứu đề tài. (16 trang)
Ngoài ra luận văn còn có tài liệu tham khảo (03 trang), phụ lục minh họa
(31 trang)
15
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN CHUNG VỀ ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU
1.1. Khái niệm “Đề tài nông nghiệp trong tranh khắc gỗ”
Khái niệm Đề tài nông nghiệp
Khái niệm Nông nghiệp
Nông nghiệp là một ngành kinh tế quan trọng trong nền kinh tế mỗi quốc
gia, đặc biệt là trong những thế kỷ trước đây khi công nghiệp chưa phát triển
và nông nghiệp chiếm tỉ trọng cao trong nền kinh tế. Việt Nam là một nước
chuyên về nông nghiệp với 95% dân số sống về đồng ruộng, bởi vậy việc tìm
hiểu thế nào là nông nghiệp cũng như giá trị của ngành nghề cần được nắm rõ
hơn bao giờ hết. Theo thời gian, nông nghiệp ngày càng phát triển đa dạng
với nhiều hình thức thể hiện phong phú. Từ xưa đến nay có khá nhiều khái
niệm ở mức độ phạm vi rộng, hẹp khác nhau tùy thuộc vào sự hiểu biết của
mỗi cá nhân và dưới đây là vài ví dụ ở một số cuốn từ điển có định nghĩa về
“Nông nghiệp”:
Cuốn Từ điển Tiếng Việt do Văn Tân chủ biên định nghĩa “Nông nghiệp”
là ngành kinh tế quốc dân chuyên trồng trọt và cày cấy thực phẩm cho nhân
dân và nguyên liệu cho công nghiệp.” [31, tr 605].
Cuốn Đại từ điển Tiếng Việt do Nguyễn Như Ý chủ biên của Bộ Giáo
dục và đào tạo có định nghĩa “Nông nghiệp” như sau: “Ngành sản xuất chủ
yếu của xã hội có nhiệm vụ cung cấp sản phẩm trồng trọt và chăn nuôi: phát
triển nông nghiệp, mặt trận nông nghiệp.” [39, tr 1283]. Bên cạnh đó, từ điển
còn phân chia rõ ràng cụ thể hơn với các khái niệm xung quanh như “nông
nghiệp cổ truyền”, “nông nghiệp công nghiệp hóa”, “nông nghiệp nguyên
thủy”, “nông nghiệp sinh học”, “nông nghiệp sinh thái học”, “nông nghiệp 8”.
Cuốn Từ điển Tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên đã định nghĩa: “Nông
16
nghiệp là ngành sản xuất vật chất cơ bản của xã hội, cung cấp sản phẩm trồng
trọt và chăn nuôi”. [26, tr 768].
Từ những khái niệm trên, có thể thấy tuy nhận định về “Nông nghiệp” là
dài, ngắn khác nhau (đáng chú ý có cuốn “Đại từ điển Tiếng Việt” của
Nguyễn Như Ý có phân tích sâu, làm sáng rõ những khái niệm nhỏ hơn thuộc
về nông nghiệp) nhưng tổng quan vẫn có những ý kiến trùng khớp và gộp lại,
ta được mẫu số chung: Nông nghiệp là một ngành sản xuất lớn chủ yếu của xã
hội có nhiệm vụ sử dụng đất đai để trồng trọt, cấy cày và chăn nuôi, khai thác
cây trồng và vật nuôi làm tư liệu và nguyên liệu lao động chính để tạo ra
lương thực thực phẩm và một số nguyên liệu cho công nghiệp.
Khái niệm Đề tài
Theo cuốn Từ điển Tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên định nghĩa đề tài
là: “Đối tượng để nghiên cứu hoặc miêu tả, thể hiện trong tác phẩm khoa học
hoặc văn học, nghệ thuật.” [26, tr 330].
Cuốn Từ điển Tiếng Việt do Văn Tân chủ biên định nghĩa đề tài là:
“Phạm vi vấn đề mà nghệ sĩ hoặc nhà khoa học nhằm nghiên cứu, giải quyết
hay thể hiện: Đời sống công, nông binh là một đề tài phong phú cho nhà tiểu
thuyết; Đề tài nghiên cứu vật lý hạt nhân.” [31, tr 289].
Theo Từ điển thuật ngữ Mỹ thuật phổ thông, đề tài được giải thích là:
“Những lý do, những vấn đề được gợi ý hoặc được nghĩ ra bởi một người hay
một nhóm người để tập trung xoay quanh vào đó nghiên cứu, thể hiện, diễn
đạt bằng một hình thức riêng với những hình tượng cô đọng, điển hình. Ví dụ:
đề tài về lực lượng vũ trang, đề tài chiến tranh, đề tài về thiếu nhi, đề tài về
xây dựng… Nghệ thuật tạo hình thế giới qua các thời kỳ đều thể hiện những
đề tài nổi bật, phổ biến. Ví dụ thời kỳ lãng mạn, đề tài là thiên nhiên, con
người và tình yêu; thời kỳ hiện thực, đề tài là thiên nhiên, quê hương, đất
nước, con người trong lao động, trong chiến đấu, trong sinh hoạt bình thường
với những tình cảm đa dạng phong phú… Kể từ khi hình thành chủ nghĩa Ấn
17
tượng, với sự ra đời của trường phái mới, nhất là những trường phái mang
tính hình thức, trừu tượng thì đề tài không quan trọng và không có tính chất
quyết định nữa mà tên tranh chỉ gợi một sự chú ý, liên tưởng xa xôi, thậm chí
có khi tùy tiện. Có những bức tranh tùy hứng, vẽ theo sự thích thú ngẫu nhiên
của tác giả, không định thể hiện một ý đồ, một chủ đề nào cả, được đặt tên là
“vô đề”, tức là tranh không có đề tài. Nói chung, đề tài dành cho nghệ sĩ rất
rộng rãi, phong phú. Những người đã nung nấu nhiều về một đề tài thường có
nhiều cảm xúc, nhiều tư liệu nghiên cứu, tìm tòi, hư cấu sâu vào đề tài đó.
Nhờ đó họ sẽ tạo ra những tác phẩm có chất lượng. Đề tài rộng hơn chủ đề.
Chủ đề được diễn đạt bằng hình tượng cụ thể hơn. Ví dụ: đề tài là phụ nữ, còn
chủ đề có thể là phụ nữ đi cấy, phụ nữ làm văn nghệ, phụ nữ tập quân sự,…”
[25, tr 62-63].
Cuốn Từ điển Bách khoa Việt Nam 1 do Hội đồng quốc gia chỉ đạo biên
soạn từ điển có khái niệm rất đầy đủ: “Đề tài (văn, nghệ thuật, khoa học), đối
tượng để miêu tả, biểu hiện, nghiên cứu, chuyện trò. Trong văn học, nghệ
thuật, đề tài là những hiện tượng xã hội được nhà văn, người nghệ sĩ khai thác
một cách nhất quán theo ý định tư tưởng - nghệ thuật của mình. Đề tài được
nhận thức và khai thác theo những quan điểm khác nhau, tùy thuộc vào thế
giới quan, lập trường tư tưởng, thái độ của văn nghệ sĩ. Bản thân đề tài không
trực tiếp mang tính tư tưởng, nhưng đề tài là điểm xuất phát để văn nghệ sĩ
bộc lộ quan điểm, tư tưởng của mình qua chủ đề, cốt truyện và nhân vật. Ví
dụ: đề tài nông nghiệp, đề tài chiến tranh, đề tài tình yêu,… hoặc cụ thể hơn
đề tài về đổi mới trong giáo dục lối sống, phê phán tệ nạn xã hội. Trong khoa
học, việc chọn đề tài có một tầm quan trọng đặc biệt. Đề tài phải đáp ứng yêu
cầu của khoa học, của thời đại, phục vụ sản xuất, và đời sống con người, phải
thiết thực và ý nghĩa đối với thực tiễn cuộc sống.” [30, tr 771].
Như vậy, có thể nói có nhiều sự giải thích về đề tài ở những cấp độ nông,
sâu khác nhau, tuy vậy thì các định nghĩa đa dạng trên ít nhiều đã góp phần
18
làm sáng rõ khái niệm đề tài trên mọi góc nhìn. Có thể thấy khi so các định
nghĩa với nhau, cách giải thích của Từ điển Bách khoa Việt Nam 1 mang tính
khái quát, khá đầy đủ; còn Từ điển Mỹ thuật phổ thông đã dùng từ ngữ
chuyên ngành Mỹ thuật để giải thích sâu và sát hơn về “Đề tài”; cụ thể đã chỉ
ra sự thay đổi quan niệm về đề tài theo từng giai đoạn qua cách thức thể hiện,
diễn đạt bằng mỗi hình thức riêng. (Nhất là với những trường phái mang tính
hình thức, trừu tượng thì đề tài không còn quan trọng). Ngoài ra để rõ hơn, tác
giả còn đề cập mức độ rộng lớn hơn của đề tài so với chủ đề.
Đề tài là những lý do, những vấn đề được gợi ý hoặc được nghĩ ra bởi
một người hay một nhóm người để tập trung xoay quanh vào đó nghiên cứu,
thể hiện, diễn đạt bằng một hình thức riêng với những hình tượng cô đọng,
điển hình theo ý định tư tưởng - nghệ thuật. Đề tài trong nghệ thuật nói chung
hay Mỹ thuật nói riêng tức là nói đến đối tượng, đến nội dung mà người nghệ
sĩ muốn nhắc đến. Đề tài dành cho nghệ sĩ rất rộng rãi, phong phú. Đề tài dựa
trên thực tế, là cái mà họa sĩ nhìn thấy để qua đó gửi gắm, phản ánh tâm tư
tình cảm và cái nhìn cá nhân bản thân vào trong tác phẩm trước sự vật hiện
tượng. Tác phẩm đẹp phải chuyển tải được nội dung, tư tưởng chủ đề một
cách thật tốt đề tài và phải có ngôn ngữ nghệ thuật hoàn mỹ, mang dấu ấn
riêng trong tác phẩm.
Từ hai khái niệm “Đề tài” và “Nông nghiệp” được làm rõ ở trên, có khái
niệm về Đề tài nông nghiệp như sau: Đề tài nông nghiệp là lý do, là vấn đề
được gợi ý hoặc được nghĩ ra bởi một nghệ sĩ hay một nhóm nghệ sĩ để tập
trung nghiên cứu, thể hiện, diễn đạt bằng một hình thức riêng với những hình
tượng nghệ thuật cô đọng, điển hình theo ý định tư tưởng- nghệ thuật, phản
ánh về ngành sản xuất chủ yếu của xã hội có nhiệm vụ cung cấp sản phẩm
chuyên trồng trọt, chăn nuôi và cày cấy thực phẩm cho nhân dân.
Khái niệm tranh khắc gỗ
Tranh khắc gỗ là phương pháp in lâu đời nhất trong nghệ thuật tranh in
19
đồ họa, sử dụng chế bản in gỗ và thuộc phương pháp in nổi. “Tranh in ra từ
các ván gỗ đã được khắc theo kỹ thuật in nổi.” [22, tr 63]. Tranh khắc gỗ cho
phép in ấn văn bản, hình ảnh hoặc những mẫu có sẵn, được sử dụng rộng rãi ở
trên toàn khu vực Đông Á. Loại tranh này có nguồn gốc ở Trung Quốc thời cổ
đại và cho đến nay, bản tranh khắc gỗ sớm nhất được tìm thấy ở đây có niên
đại năm 868, mặc dù thực tế nghề khắc gỗ in sách đã hình thành ở nước này
từ thế kỷ thứ 6. Trong thời nhà Đường (618 - 907) tranh vẽ và chữ kèm theo
(trên cùng một bản in) đã được in ra bằng các bản in gỗ, sách in bằng bản
khắc gỗ, trong khi loại này ở châu Âu mãi đến thế kỷ 12 mới xuất hiện. Tại
châu Âu, việc sử dụng con dấu bằng gỗ đã được chứng minh ở Ý khi vải được
in bằng cách này. Tại Nhật Bản, khắc gỗ phát triển như một hình thức nghệ
thuật bắt đầu từ khi kỹ thuật này được lan truyền từ Trung Quốc ở cuối thế kỷ
thứ 8. Khắc gỗ tại Nhật Bản cực thịnh trong khoảng thời gian từ thế kỷ 17 đến
thế kỷ 19 đã chinh phục cả thế giới và đi vào lịch sử mỹ thuật nhân loại như
một gợi mở vô giá cho những ý tưởng nghệ thuật thời hiện đại. Vào thế kỷ 11,
người Việt đã in kinh Phật từ bản khắc gỗ. Năm 1936, những đồng tiền giấy
đầu tiên được sản xuất bằng kỹ thuật khắc in gỗ và lưu thông dưới triều đại
nhà Trần. Các dòng tranh dân gian nổi tiếng của Việt Nam được phát triển
trên kỹ thuật khắc in gỗ từ thế kỷ 16, 17.
Ở Việt Nam ván in được làm từ nhiều loại gỗ như gỗ thị, gỗ mít hay gỗ
vàng tâm do gỗ mềm dễ khắc và có độ dẻo cao, phổ biến hiện nay còn sử
dụng ván ép gỗ công nghiệp. Gần như tất cả các loại gỗ thông dụng đều có thể
chế tạo chế bản khắc gỗ (một trong số ít loại gỗ không thích hợp là gỗ thông
vì gỗ này nhiều mấu và nhựa). Một số công nghệ hiện đại như máy phay, máy
cưa, khắc laser,… ngày nay cũng được áp dụng để chế bản khắc gỗ. Bề mặt
gỗ phải được mài phẳng và làm nhẵn hoàn toàn. Để tạo một bản in gỗ người
ta dùng dao khắc những phần không in ra khỏi bề mặt gỗ đã được bào nhẵn.
Hay nói cách khác các thành phần không in trên tranh (mảng trắng) được
20
khắc bỏ khỏi bề mặt của khối gỗ, phần được in (mảng đen) là phần ở lại.
Một bộ dao khắc cung cấp các đầu dao khắc khác nhau, gồm:
- Dao mỏng dùng để khắc các đường viền.
- Dao trổ dùng để tạo rãnh chữ V.
- Dao khắc dùng để khắc các đường thẳng và đường song song.
- Cây đục bán nguyệt để cắt bỏ đi những phần lớn không phải in.
Trong cuốn Về tính dân tộc của nghệ thuật tạo hình, có đoạn viết của
họa sĩ Phạm Văn Đôn nhận định về kỹ thuật khắc và in tranh khắc gỗ của các
họa sĩ sáng tác hiện nay như sau:
“Khác với cha ông xưa, khắc bằng đục trên gỗ mít hay gỗ thị vì cần nét
sâu và bền để in nhiều, giữ bản gỗ được lâu. Các họa sĩ ngày nay thường
dùng gỗ “Thừng mực” gỗ này mượt thớ vừa mềm vừa dẻo dễ khắc vì
cách khắc ngày nay vừa dùng dao, dùng đục, đồng thời phối hợp nhiều
cách dùng đục dũi lòng máng hay chữ V tạo điều kiện cho người khắc
biểu hiện trung thành được nét vẽ và diễn tả chất một cách phong phú.
Dao và đục đánh bằng thép tốt, lưỡi dao hình vát mũi nhọn. Khi khắc tay
phải cầm dao cắm vào cạnh nét vẽ hay mảng hình, hơi chênh chiều sâu
ra ngoài vì khắc thẳng thành hay gãy nét. Tay trái lấy ngón cái đẩy vào
sống dao, tay phải điều khiển độ sâu và đường lượn của mũi dao theo
hình vẽ. Khắc thành rãnh hai bên nét hoặc mảng hình sau đó lấy đục
lòng máng và đục thẳng đục nhiều hết nền gỗ để khi in khỏi bị dính màu
bản trên tranh.” [34, tr 86 - 87].
Tùy theo kỹ thuật sử dụng dao khắc sáng tạo của nghệ sĩ, những nét khắc
hay bề mặt khắc đẹp chính là đặc trưng của tranh khắc gỗ. Sau khi đã khắc
xong chế bản in, mực in được phủ đều lên con lăn. Tranh in (giấy có khả năng
hút nước) được in bằng cách ép lên bản gỗ. Lực ép cần phải phân bổ đều trên
mặt giấy bằng cách xoa đều bằng tay hay đi qua máy ép và:
“Khi in phải đặt giấy đúng cỡ đã thống nhất giữa các bản màu và bản nét
21
đen để khỏi lệch. Thông thường in bằng bột màu, thuốc nước, mực in.
Tùy mỗi hòa sắc và phong cách của tác giả có thể in mỏng, in dày nhiều
lần, có vờn hoặc có biến chuyển đậm nhạt. Những chỗ cần rắn rỏi, sắc
cạnh thường in giấy khô, khi cần màu sắc mềm mại giấy cần phun ẩm
trước khi in. In cách này thường để ngửa bản gỗ, áp giấy lên trên và soa
bằng sơ mướp hoặc bằng tay để có thể điều khiển chỗ cho ăn màu nhiều
hay ít tùy theo phác thảo.” [34, tr 87].
Ngày nay, loại gỗ nhân tạo như ván ép, các tông, mica, thạch cao… được
họa sĩ sử dụng để có tranh kích thước lớn và in trên nhiều chất liệu vải, toan,
lụa… với việc phối hợp nhiều kỹ thuật in cả thủ công và máy.
Tranh khắc gỗ gồm hai loại: tranh khắc gỗ đen trắng và tranh khắc gỗ
màu. Tranh khắc gỗ đen trắng còn được gọi là tranh khắc gỗ đơn sắc. Trên
một ván gỗ sau khi người nghệ sĩ thể hiện hoàn chỉnh chủ đề cần biểu hiện
bằng cách khắc những phần hình tượng cần khắc họa, sau đó dùng mực đen
hoặc màu đơn sắc in tranh lên trên giấy. (Có thể là giấy trắng, giấy dó, giấy
điệp hoặc giấy màu). Kỹ thuật khắc vẫn là tấm gỗ được bào nhẵn sau đó vẽ
ngược (can, dập lại bản vẽ mẫu) tranh mẫu rồi dùng dao, đục khắc lõm xuống
tạo nét và mảng. Có họa sĩ tạo các rãnh lõm nông sâu, dày thưa… rồi chỉ in
sắc đậm với một màu đen hay nâu. Tranh khắc gỗ màu vẫn dựa trên những
bước khắc cơ bản của tranh khắc gỗ nói chung, là phương pháp sử dụng một
ván in nét và một hoặc nhiều ván in màu. Ván in màu sẽ được in trước sau đó
in nét đen để định hình, giống cách in của tranh Đông Hồ. Hoặc cũng sử dụng
một ván in nét nhưng không sử dụng ván để in màu mà tô màu, bằng cách làm
này giống như tranh Hàng Trống. Có họa sĩ thì khắc nhiều bản theo thứ tự
màu nhạt in trước màu đậm thường là màu đen in sau. “Nếu tranh nhiều màu
thì phải khắc nhiều bản. Nếu in bằng tay thì có thể một bản khắc một số màu
miễn là hình của các màu đó không dính liền nhau.” [34, tr 87].
Tranh khắc gỗ hiện đại Việt Nam như cây cầu bắc từ quá khứ đến hiện
22
tại, đồng thời đang được nối nhịp để vươn tới tương lai. Tranh khắc gỗ chính
là loại hình nghệ thuật, cũng là phương tiện có đầy đủ khả năng thể hiện cảm
thức và mỹ cảm đương đại. Chính vì vậy, ở dòng tranh này, các họa sĩ đã
chọn cho mình đề tài nông nghiệp để thể hiện mang đầy dấu ấn lịch sử nền
văn minh nước nhà. Nông nghiệp nói riêng, nông thôn nói chung luôn là đề
tài gợi cảm hứng sáng tác bất tận cho giới văn nghệ sĩ.
Khái niệm Đề tài nông nghiệp trong tranh khắc gỗ trong luận văn này
được hiểu: đề tài nông nghiệp là đề tài được các họa sĩ lựa chọn để thể hiện
những tác phẩm của mình bằng cách khắc trên gỗ, hay nói cách khác tranh
khắc gỗ là dòng tranh được các họa sĩ Việt Nam lựa chọn để thể hiện đề tài
nông nghiệp. Những tác phẩm khắc gỗ được các họa sĩ Việt Nam sáng tác về
đề tài nông nghiệp giai đoạn 1955-1985.
Quay ngược lịch sử khởi điểm đánh dấu sự xuất hiện của nền nông
nghiệp, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác định: “Việt Nam là một nước chuyên về
nông nghiệp, 95% dân số Việt Nam sống về đồng ruộng” và ngay sau khi
nước nhà giành được độc lập, tại phiên họp của Hội đồng Chính phủ ngày
14/11/1945, Người đã ký Sắc lệnh thành lập Bộ Canh nông có nhiệm vụ chăm
lo chỉ đạo phát triển nền Nông nghiệp nước nhà. Trong các cuộc kháng chiến
trường kỳ của dân tộc chống giặc xâm lược (1945-1975), nông nghiệp, nông
dân, đã hoàn thành vẻ vang sứ mệnh của "hậu phương lớn đối với tiền tuyến
lớn". Lời dạy của Bác: "Ruộng rẫy là chiến trường, quốc cày là vũ khí, nhà
nông là chiến sỹ, hậu phương thi đua với tiền phương" cùng với những phong
trào tiêu biểu như "hũ gạo nuôi quân"; "thóc không thiếu một cân, quân không
thiếu một người"... đã góp phần vô cùng quan trọng vào thắng lợi của cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, giành lại hoà bình, thống
nhất đất nước.
Trong những năm tháng khó khăn của thời kỳ khôi phục đất nước sau
chiến tranh (1975- 1985), dưới sự lãnh đạo của Đảng, nông dân đã phấn đấu
23
vượt qua khó khăn đi tiên phong trong công cuộc Đổi mới của đất nước.
Những năm tháng đó, nông nghiệp đã vượt lên những trì trệ kéo dài trong sản
xuất, tìm hướng đi mới và đã đạt được bước tăng trưởng vượt bậc, đặc biệt là
về sản xuất lương thực, góp phần quan trọng ổn định đời sống, kinh tế của cả
nước. Nhiều sản phẩm tăng hơn 2-3 lần so với thời kỳ trước đó, tạo tiền đề
cho nông nghiệp nước ta chuyển sang thời kỳ mới – thời kỳ Đổi mới.
1.2.Khái quát chung về tranh khắc gỗ Việt Nam giai đoạn 1955-1985
Theo cuốn Đồ họa in khắc gỗ hiện đại Việt Nam của Hoàng Minh Phúc
có nhận xét về tranh khắc gỗ thời kháng chiến chống Mỹ và xây dựng XHCN
1954- 1975 như sau:
“Từ năm 1955-1975, như tất cả các tài liệu nghiên cứu xã hội và văn hóa
đã khái quát được coi đây là giai đoạn xây dựng XHCN ở miền Bắc, và
kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Cuộc chiến tranh chống Mỹ không chỉ
dừng lại ở miền Nam mà còn lan ra miền Bắc năm 1965, được gọi là
Chiến tranh phá hoại. Thời gian này được coi là giai đoạn khó khăn nhất
của Việt Nam khi chiến tranh ở cả hai miền kéo dài đến 20 năm; kinh tế,
các hoạt động xã hội không mấy có cơ hội phát triển và sự phân cách hai
miền cũng tạo ra đặc điểm văn hóa nghệ thuật khác nhau.” [28, tr 162].
Theo tìm hiểu tài liệu về tranh in khắc gỗ, tranh khắc gỗ miền Nam giai
đoạn này hầu như không xác định được (có thể lý do miền Nam đang giai
đoạn kháng chiến nên ký họa hay khái niệm trực họa - vẽ trực tiếp tại trực địa
tỏ ra chiếm ưu thế hơn cả), cho nên việc nghiên cứu tranh in khắc gỗ giai
đoạn này chủ yếu dựa trên các tư liệu của họa sĩ miền Bắc. Bên cạnh đó,
trường Mỹ thuật Đông Dương khi ấy thành lập với tư cách là một trung tâm
đào tạo cán bộ Mỹ thuật duy nhất của miền Bắc bởi vậy nơi đây hội tụ những
họa sĩ anh tài, tên tuổi có tiếng nhất quốc gia thời bấy giờ.
Trong bối cảnh tình hình chiến tranh và định hướng chính trị chung của
cả nước, các nghệ sĩ có nhiệm vụ rõ ràng là phản ánh cuộc sống lao động và
24
chiến đấu của nhân dân, để thúc đẩy niềm tin vào tương lai, các cuộc triển
lãm Mỹ thuật toàn quốc ra đời tổ chức đều đặn năm năm một lần. Tranh khắc
gỗ vẫn được các họa sĩ lựa chọn thể hiện bởi nó phù hợp với hoàn cảnh chiến
tranh, gọn nhẹ và dễ kiếm vật liệu. Hơn nữa, có thể tiến hành làm mọi lúc mọi
nơi, sáng tác lúc nào cũng được, dù trong những giờ nghỉ giải lao của một
cuộc hành quân hay di chuyển đến địa điểm mới đều có thể bắt tay vào làm.
Dần dần, nó đi sâu vào đời sống sinh hoạt, những lề lối thường ngày quen
thuộc để trở thành công việc sáng tác hết sức nghiêm túc. “Trong những năm
kháng chiến chống Mỹ, các chất liệu về sơn mài, sơn dầu, lụa có phần khan
hiếm, hình thức khắc gỗ càng được các họa sĩ sử dụng rộng rãi, vì chỉ cần
miếng gỗ và ít giấy dó, mà phương tiện làm việc, giữ gìn, phổ biến được dễ
dàng hơn, rộng rãi hơn.” [34, tr 85].
Những tác phẩm không còn dừng lại ở mục đích cổ động kịp thời tình
hình lúc bấy giờ, mà còn vượt lên trên để trở thành những sáng tác nghệ thuật.
Phần đông họa sĩ tham gia làm tranh in khắc gỗ theo kiểu ngẫu hứng nên số
lượng và chất lượng tranh in khắc gỗ giai đoạn này rất đáng để nghiên cứu và
có những thành tựu nhất định trong nền Mỹ thuật nói chung. Phần nữa do quá
trình xét duyệt kỹ lưỡng, không dễ dàng gì được treo; bên cạnh đó xét về ưu
điểm để nhân bản thì khắc gỗ có phần chiếm ưu thế hơn so với chất liệu khác,
nên chất lượng tranh rất tốt. “Có người áp dụng vốn cổ theo phương pháp
“bình cũ, rượu mới”- bê nguyên si hình thức cũ, chỉ thay nội dung mới.” [01,
tr 15] (Tết Nguyên đán năm 1945, đã có một phòng tranh vẽ các mẫu theo
như tranh khắc gỗ dân gian, lúc đó gọi là “bình cũ rượu mới”, hình thức rất
giống tranh tết cũ, nhưng nội dung lại phản ánh con người mới, xã hội mới).
“Người thì chỉ chú trọng đến mảng và màu sắc- buông lơi những nét đen viền
hình thể, lu mờ đường dây liên kết giữa các hình- mà người ta quen gọi “đơn
tuyến bình đồ” và chính thể đơn tuyến này có khả năng đem đến cho hình
nhịp độ và tiết tấu vô cùng phong phú… mà các họa sĩ hiện đại phương Tây
25
mới đây mới nhận thức được.” [01, tr 15]. (Đơn tuyến bình đồ- nét đơn trên
mảng màu phẳng, lối vẽ thịnh hành trong Mỹ thuật phương Đông và nghệ
thuật trang trí mặt phẳng, loại bỏ hẳn bóng khối để tập trung vào đường nét.
Mỗi mảng màu phẳng đậm hay nhạt cũng đều có đường viền giới hạn tách
bạch).
Mười năm đầu thời kỳ hòa bình 1955-1965, cuộc chiến tạm ngưng và
miền Bắc bắt đầu phục hồi sau chiến tranh với công cuộc cải tạo công thương
nghiệp, xây dựng các hợp tác xã nông nghiệp, cải cách ruộng đất. Tranh khắc
gỗ ngày càng được phát triển và nâng cao. Tìm đến miền núi và những người
dân tộc, phải kể đến Mẹ con (1962) [ H 1.5; tr 81] của Đinh Trọng Khang với
bối cảnh là góc hiên nhà sàn người Thái ở Tây Bắc diễn tả sinh hoạt thường
ngày khi người mẹ trẻ mình trần, địu con trên lưng và đổ ống nước vào thùng.
Trước đó có thể nhắc đến: Hai cô gái người Tày năm 1961 của Tô Ngọc
Thành. Trở về miền xuôi, mở đầu cho tranh in khắc gỗ những năm đầu hòa
bình là bức tranh Ngày chủ nhật (1960) [H 1.3; tr 80] của Nguyễn Tiến Chung
là một tác phẩm tiêu biểu. Nó như bức họa trong sáng tiêu biểu phản ánh đời
sống hạnh phúc của gia đình sau cuộc chiến kéo dài, và đó cũng là tinh thần
chung lúc bấy giờ tràn ngập niềm tin vào tương lai, sự an lành tiến tới cuộc
sống mới. Ở nông thôn, hợp tác xã nông nghiệp đi vào sự ổn định với làm ăn
tập thể; ở thành phố cải tạo công thương nghiệp tư doanh căn bản hoàn thành.
Lớp học bổ túc văn hóa buổi trưa [H 1.4; tr 80] của Nguyễn Thế Vinh năm
1960 cũng mang một tinh thần tươi mới, là phong trào bình dân học vụ là các
bác, các bà, các mẹ, các anh có mặt đầy đủ trong lớp học dành cho những
người nông dân mù chữ hay ít học được tổ chức trong một ngôi đình làng.
Quang Phòng với tác phẩm Ruộng đồng [H 2.3; tr 88] năm 1962 là một bức
tranh in khắc gỗ công phu, cảnh người nông dân chăn dắt trâu bên cánh đồng
xanh ngắt, cả ruộng đồng và trâu, người được miêu tả khá kỹ về sắc độ như
tranh thuốc nước…
26
Trên con đường cải tạo công thương nghiệp, nhiều họa sĩ cùng các văn
nghệ sĩ nói chung tham gia vào phong trào ba cùng: cùng ăn, cùng ở, cùng
làm với công và nông dân, ngoài việc vẽ thì họ cũng lao động thực thụ. Vài
công trường lớn như đập Bắc Hưng Hải, khu gang thép Thái Nguyên, tuyến
đường sắt Hà Nội - Lào Cai thu hút hàng vạn người lao động. Đề tài tranh in
khắc gỗ thời gian này là hồi ức kháng chiến chống Pháp, cuộc sống lao động
tập thể, và những sáng tác mang nhiều tính ngẫu hứng với bối cảnh xã hội:
Công nhân hầm lò (1956) của Hoàng Công Luận; Cảng Hòn Gai (1956) [H
1.1; tr 79] của Văn Đa; Việt Trì xây dựng (1957) của Lê Nguyên Lợi; Đánh bi
(1957) của Nguyễn Phần; Công nhân xe lửa Gia Lâm (1958) [H 1.2; tr 79]
của Lê Phả; Chợ Nhông (1958) của Nguyễn Tiến Chung; Rủ nhau đi nương
(1959) của Đường Ngọc Cảnh [H 2.2; tr 87]; Nữ du kích (1960) của Lê
Nguyên Lợi; Dân quân (1960) của Nguyễn Thụ, Hội ý (1965) của Trần Đình
Thọ, “Công trường xây dựng” (1965) của Thế Hải... “Những tác phẩm in
khắc gỗ thời kỳ này, chúng tôi tìm được không nhiều và phần lớn đều là đề tài
về những công trường lao động như vậy, hoặc vài bức về hồi ức kháng
chiến.” [32, tr 167]. Tranh thời kỳ này không nhiều bởi giai đoạn phục hồi sau
chiến tranh, các họa sĩ khó có điều kiện làm nghệ thuật ngay, hơn nữa đó
cũng là thời kỳ mà vấn đề về Nhân văn giai phẩm nổi lên nhiều phức tạp.
(Phong trào Nhân văn giai phẩm là phong trào được cho là có xu hướng chính
trị, đòi thi hành tự do của một số văn nghệ sĩ và trí thức sống ở miền Bắc,
dưới chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, khởi xướng đầu năm 1955 và
bị chính thức kết thúc vào tháng 6 năm 1958. Nhà nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa xem đây là phong trào chống chính quyền của một nhóm trí thức do
bị tình báo nước ngoài được cài ở miền Bắc lôi kéo, nhằm phủ nhận sự lãnh
đạo của Đảng trong lĩnh vực văn hóa văn nghệ, phủ nhận quyền lãnh đạo
Chính trị và Nhà nước duy nhất của Đảng Lao động Việt Nam). Trong năm
năm ấy, mọi gia đình đang lấy lại ổn định cuộc sống, việc làm, chỗ ở, tìm
27
người thân bị thất lạc,… cũng là lý do dễ hiểu cho việc không có nhiều sáng
tác mới, tuy vậy xét trên bình diện đồ họa nói chung thì nghệ thuật thời chiến
tranh đã bắt nhịp được hơi thở với cuộc sống.
Từ năm 1965-1975, cuộc chiến chống Mỹ cứu nước lan rộng ra cả nước.
Miền Nam là chiến trường ác liệt với nhiều chiến dịch quân sự, miền Bắc là
chiến tranh phá hoại của Mỹ với cường độ bom đạn tùy từng thời điểm hòa
hoãn hay căng thẳng. Giai đoạn chiến tranh lan ra cả hai miền, tranh in khắc
gỗ lại càng trở nên phổ biến, mỗi họa sĩ dường như đều đóng góp một vài
bức, cho nên số lượng tranh rất nhiều. Nói đến miền Bắc các hoạt động văn
hóa văn nghệ tạm ngưng, mà tùy thuộc vào sáng tác của từng cá nhân và cũng
phần vì thế mà nghệ sĩ có khoảng lặng để đẩy sâu sáng tác, nên đây cũng là
thời kỳ mà nhiều tác giả tên tuổi trưởng thành. Đề tài lao động tập thể chiếm
lượng lớn trong các sáng tác, ví như năm 1969, cùng với bức tranh Ông cháu
[H 1.7; tr 82] của Huy Oánh còn có Cá về (1969) [H 1.8; tr 82] của Lê Thiệp;
họa sĩ Trịnh Kim Vinh với Gang ra lò (1969), Ngư dân Quảng Bình (1969)
của Đỗ Hữu Huề, Trục lúa (1970) của Phạm Văn Đôn [H 2.12; tr 92]; Cơm
vàng nước bạc năm 1970 của Phùng Phẩm [H 2.13; tr 93], Phong cảnh Sài
Sơn, Phong cảnh Đà Bắc (1970) của Nguyễn Tiến Chung; Qua phà đêm của
Cao Trọng Thiềm sáng tác năm 1972; Trên vùng kinh tế mới (1972) của
Hoàng Hoan [H 2.17; tr 95]; Bác Hồ với nông dân (1972) của Phạm Văn
Đôn; Phơi thóc (1974) [H 2.19; tr 96] của Mạnh Hào;…
Đề tài chiến tranh cách mạng vẫn tiếp tục phát triển. Với mảng đề tài
này, các họa sĩ sáng tác với nhiều tình cảm khác nhau: Ông và cháu- Huy
Oánh (1966) [H 1.7; tr 82], Các lão dân quân (1970) [H 1.9; tr 83] của Trịnh
Quốc Thụ, Hành quân mưa (1970) của Cửu Long Giang, Ba thế hệ (1970)
của Hoàng Trầm, năm 1972 có Các nữ dân quân [H 1.10; tr 83] của Hà Mỹ
Lý, hay Phong cảnh Hải Phòng (1970) của Bùi Xuân Phái… Đề tài này
chiếm một vị trí khá đồ sộ trong hội họa giai đoạn này, nó là nguồn cảm hứng
28
sáng tạo không thể phai mờ ở các nghệ sĩ để họ tái tạo lại với tình cảm kính
yêu, chân thành, bình dị những khoảnh khắc lịch sử, khắc họa chân thực, đầy
xúc động về người lính, về sự mất mát hy sinh lớn lao của các bà mẹ Việt
Nam và đặc biệt hình tượng Bác Hồ.
Năm 1975-1985, sau khi tiến hành cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu
nước, đất nước đã hoàn toàn thống nhất, cả nước đi lên xây dựng Chủ nghĩa
xã hội đã mở ra một trang sử mới. Chiến tranh ở cả hai miền Nam-Bắc đã kết
thúc, niềm vui đất nước hòa bình. Sau chiến tranh, đất nước còn bộn bề khó
khăn nhưng toàn thể nhân dân Việt Nam với niềm vui chiến thắng chấp nhận
mọi gian khổ để xây dựng lại đất nước. Mọi thứ đang cần hồi sinh và nghệ
thuật cũng đang cần có thời gian để ổn định, người họa sĩ không nằm ngoài
vấn đề của hậu chiến, họ đã đóng góp công sức sáng tạo, đạt được những
thành tựu đáng kể khi ca ngợi, phản ánh sinh động hiện thực nhiều mặt trong
lao động sản xuất, sinh hoạt. Triển lãm Mỹ thuật toàn quốc năm 1976 đã thực
sự là nơi hội tụ tài năng trên khắp mọi miền đất nước và đến năm 1980 thì
dường như những vấn đề khúc mắc cấm kỵ trong đời sống Mỹ thuật được giải
tỏa. Hồi ức về chiến tranh luôn luôn là đề tài nổi cộm lên sau mỗi cuộc chiến.
Chiến tranh đã đi qua, nhưng những ký ức, những kỷ niệm và hậu quả còn để
lại hằn sâu, khó phai mờ theo năm tháng. Ngay năm 1976, Đặng Thạc có bức
Lên đường về [H 1.12; tr 84] vẽ hình ảnh đưa tiễn trong chiến tranh trước kia;
Anh bộ đội (1961) của Lê Trọng Lân vẽ cảnh đoàn tụ anh bộ đội đi kháng
chiến trở về đứng giữa các cháu thiếu nhi; Hà Nội năm Bốn sáu [H 1.15; tr
86] của Nguyễn Nghĩa Duyện năm 1984 còn lùi về quá khứ xa hơn với Thủ
đô, hồi ức xa hơn nữa ở thời kỳ này có thể kể đến Phạm Văn Đôn sáng tác
năm 1978 với bức Quang Trung đại phá quân Thanh [H 1.13; tr 85]… Ngoài
ra, bên cạnh đó nội dung, đề tài về cuộc sống tự do, thanh bình; lao động sản
xuất, xây dựng đất nước được chuyển tải trong tranh, các tác phẩm chủ yếu ca
ngợi, hân hoan niềm vui chiến thắng: Nghệ nhân Hàng Trống [H 1.11; tr 84]
29
năm 1976 của Trần Nguyên Đán, Chợ Kỳ Lừa (1976) của Lã Thanh Hữu,
Cảng cá Hải Phòng (1976) của Đường Ngọc Cảnh, Đỗ Đức với Miền Tây
Bắc năm 1982,…
Hội họa Việt Nam còn quá trẻ so với nhiều nền hội họa đã trải qua hàng
nghìn tuổi ở châu Á, châu Âu song chính tranh khắc gỗ đã cho chúng ta một
cái vốn giàu có. Đó là cốt lõi của hồn dân tộc chung đúc nên bởi biết bao con
người nghệ sĩ tài ba, và hiển nhiên nguồn cảm hứng đó vẫn nguyên vẹn in sâu
trong tâm khảm nhân dân qua bao thế hệ. Tranh khắc gỗ hiện đại Việt Nam
trong tương lai có thể tiến xa hay không lệ thuộc vào nhiều yếu tố chủ quan
và khách quan của những người làm công tác bên ngành Nghệ thuật nói
chung, họa sĩ nói riêng, trong đó trước hết là sự tiếp thu và phát triển một
cách sáng tạo hội họa khắc gỗ dân gian.
Tiểu kết
Chương 1 của luận văn xác định khái niệm “Đề tài nông nghiệp trong
tranh khắc gỗ”, nêu khái quát về tranh khắc gỗ Việt Nam giai đoạn 1955-
1985, đồng thời chỉ ra vai trò của dòng tranh này đối với nền Mỹ thuật nước
nhà. Với sự ra đời của trường Mỹ thuật Đông Dương, tranh khắc gỗ hiện đại
Việt Nam đánh dấu sự xuất hiện và trải qua thời gian các họa sĩ đã kết hợp hài
hòa giữa tranh dân gian của hội họa nước nhà với những tinh hoa của hội họa
Châu Âu nhằm đưa dòng tranh này mang dấu ấn riêng, vừa hiện đại, vừa có
sắc thái dân tộc.
Từ năm 1955-1985, tranh khắc gỗ đã khẳng định được sức sống bền bỉ
trải qua chiều dài của lịch sử đầy biến động: thời kỳ chiến tranh, đấu tranh
cách mạng, tuyên truyền, cổ động tinh thần chiến đấu của dân tộc, rồi đến thời
kỳ hòa bình, niềm vui chiến thắng, cuộc sống sinh hoạt thường ngày, phong
cảnh quê hương đất nước,… Để có được những bức tranh mang đậm dấu ấn
thời kỳ đầy hào hùng nhưng cũng lắm biến động đó, họa sĩ đã tìm tòi không
mệt mỏi những hình thức thể hiện mới, phương thức mới đã góp phần làm
30
cho tranh khắc gỗ có những bước chuyển biến về mặt nội dung, hình thức,
cũng như phong cách thể hiện, kỹ thuật in khắc cùng những vấn đề liên quan
đến cách nhìn, cách nghĩ cá nhân với những yêu cầu của đất nước, thời cuộc.
Mỹ thuật sáng tác trong tranh khắc gỗ đang có những bước tiến mạnh mẽ cả
về chất lượng nghệ thuật, khả năng ứng dụng tác phẩm, mang lại cái nhìn mới
mẻ và có những đóng góp đáng trân trọng cho nền hội họa Việt Nam.
31
CHƯƠNG 2
NỘI DUNG VÀ HÌNH THỨC THỂ HIỆN ĐỀ TÀI NÔNG NGHIỆP
TRONG TRANH KHẮC GỖ VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1955-1985
2.1. Nội dung chủ đề thể hiện đề tài
Nội dung nghệ thuật chính là hiện thực đã được người nghệ sĩ nghiền
ngẫm về mặt tư tưởng trong quá trình sáng tác và phản ánh vào tác phẩm nghệ
thuật có sự chọn lọc, dưới tác động của những lý tưởng xã hội thẩm mỹ trong
một thế giới quan nhất định. Nội dung của tác phẩm nghệ thuật không chỉ bao
gồm những hiện tượng, những phiến đoạn của cuộc sống muôn màu mà còn
bao gồm cả thế giới nội tâm, cái nhìn chủ quan đã được khách quan hóa của
nghệ sĩ hay nói cách khác có hai yếu tố đan xen nhau hòa quyện không tách
rời: yếu tố khách quan từ cuộc sống và yếu tố chủ quan của người nghệ sĩ.
Những năm 1955-1985 là giai đoạn đầy biến cố của dân tộc, là thời kỳ gian
khó khi hai mươi năm kháng chiến chống Mỹ; tiếp đến xây dựng XHCN khi
đất nước thống nhất hòa bình, trong đó nền kinh tế nông nghiệp được chú
trọng. Các họa sĩ lao mình trong thực tế, bằng nét bút của mình phục vụ trực
tiếp dân tộc những tác phẩm, được đồng hành cùng đời sống bà con nông dân
trong thời điểm mới, nhiều tác phẩm khắc gỗ nói riêng đã kịp thời phản ánh
một cách chân thực, sôi động sự phát triển của nông nghiệp thời kỳ này,
những ảnh hưởng đổi thay đến từng ngõ xóm trên nhiều chủ đề, phương diện
khác nhau phải kể đến như:
2.1.1. Chủ đề về cấy cày
Từ năm 1955-1960, tức là sáu năm kháng chiến chống Pháp, được coi là
giai đoạn phục hồi sau chiến tranh và cải cách ruộng đất. Đất nước bị chia cắt
làm hai miền, cuộc chiến tạm ngưng trong vài năm và miền Bắc bắt đầu cải
tạo, xây dựng hợp tác xã nông nghiệp. Người nông dân “vững tay súng, chắc
32
tay cày”, lao động cần cù, chiến đấu dũng cảm hiện lên trong tranh mang vẻ
đẹp rắn rỏi, tự chủ được các nghệ sĩ thể hiện bằng ngôn ngữ nghệ thuật đơn
giản, trong sáng. Hình tượng người lao động ruộng đồng được đề cập một
cách sâu sắc và hầu hết các tác phẩm biểu hiện rõ sự say mê trong niềm vui
lao động, xây dựng đất nước, phải kể đến như: Đi cấy - 1967 (Trần Nguyên
Đán) [H 2.7; tr 90] là tác phẩm khắc gỗ thuộc những giai đoạn đầu sự nghiệp
của họa sĩ khi đang tốt nghiệp trường Mỹ thuật. Trong tranh, một nhóm gồm
năm người đang lom khom cúi xuống cấy lúa, phía bên kia cách đó không xa
là hình ảnh người đàn ông cùng con trâu của mình đang làm nhiệm vụ cày xới
đất để chuẩn bị cho mùa vụ mới gieo sạ hoặc trồng cây và tiếp đó bên phải là
hai nhân vật đang gánh những gánh mạ non để tiếp viện; ngoài ra còn có Đôi
bạn - 1968 (Trịnh Thiệp) [H 2.8; tr 90] với cái đẹp lao động êm ả trong một
ngày đất trời bình yên, tình cảm con người và con vật thật thân thiết, âu yếm.
Người phụ nữ ngồi trong xe, dáng nghiêng người cúi xuống trò chuyện thật
gần gụi với em bé cùng chú bê con của mình đang ngẩng cổ lên. Ra đồng -
1968 (Huy Oánh) [H 2.9; tr 91] với dáng cô nông dân khỏe khoắn quần sắn
lên cao trong tư thế ngoảnh cổ nhìn với ánh mắt trìu mến đang dắt đàn trâu -
người bạn quen thuộc của mình ra đồng mỗi buổi. Cấy hết diện tích - 1969
(Trịnh Phòng) [H 2.11; tr 92] là những cô gái thật nữ tính với dáng người nhỏ
nhắn người đứng cầm bó mạ non, người cúi xuống làm nhiệm vụ cấy lúa với
gương mặt hồ hởi làm nhiệm vụ như ra sức đạt chỉ tiêu cấy hết ruộng đồng;
Nước bạc, cơm vàng - 1970 (Phùng Phẩm) [H 2.13; tr 93] thật kiên cường với
hình ảnh người nông dân đang “chỉ huy” những chú trâu khỏe khoắn của
mình cày bừa trên thửa ruộng rộng lớn. Tà áo bay phấp phới trong gió, quần
sắn đến đầu gối hiện lên thật đẹp như thể người anh hùng trên cánh đồng đang
chinh phục, bất chấp sự khắc nghiệt của thiên nhiên; Một buổi cấy - 1978 (Hà
Mỹ Lý) [H 2.25; tr 100]… cũng là những buổi lao động quen thuộc bình dị.
Thật đẹp với hình ảnh các bà, các mẹ, các chị người cúi, người đứng xếp
33
thẳng hàng vô vàn tư thế quay trái, phải khác nhau đang cắm những mạ non
xuống đất như gieo một mầm non mới, một hy vọng mới thật vui mắt. Hình
ảnh các cô gái, những dáng người rất sinh động như múa trong Buổi sớm -
1977 [H 2.24; tr 99] của Nguyễn Nghĩa Duyện với tay cầm cuốc, tay vẫy chào
một cách rất vui vẻ, thắm thiết đậm đà như thể hứa hẹn ngày làm việc mới
hiệu quả. Có thể dễ dàng cảm nhận được niềm vui, niềm phấn khởi và lạc
quan tin tưởng ở những thắng lợi, dưới sự lãnh đạo của Đảng. Trên khuôn mặt
mọi người không thấy lo lắng, chịu đựng, hy sinh mà họ đang vươn lên làm
chủ cuộc đời, làm chủ vận mệnh chính mình. Những cô thợ cấy Định Công -
1978, [H 2.26; tr 100] của Văn Bình với năm cô gái là năm dáng người trong
giờ nghỉ giải lao rất khác nhau, người đứng, người ngồi, người chỉnh lại trang
phục, người chải tóc trông thật có duyên, đó là hình ảnh cô nông dân chất
phác, đôn hậu trong ngày vụ… Nhìn vào bảng biểu thống kê tác phẩm khắc
gỗ theo chủ đề, có thể thấy chủ đề cấy cày được chú ý và phản ánh nhiều nhất
ở thời gian này. (Ghi chú). Mỗi tác phẩm thời kỳ này giống như một thanh âm
trong trẻo, bình yên đến kỳ diệu, thanh khiết giữa xã hội đầy chao đảo, biến
động.
Nếu như thời kỳ trước năm 1945 các tác phẩm thường phản ánh đời sống
thị dân lãng mạn, u hoài thì sau đó nhất là giai đoạn 1955-1975 là bước
chuyển đổi quan trọng cách nhìn về nghệ thuật cũng như thế giới quan của
người nghệ sĩ. Bắt đầu từ thời gian này, hình thành nên một đội ngũ tạo hình
đông đảo đi vào mọi mặt của cuộc sống sôi động. Có thể thấy không khí hào
hùng, sôi động niềm vui chiến thắng của dân tộc đã lan tỏa đến nhiều họa sĩ,
họ thấy mình phải có trách nhiệm cống hiến hết mình cho đất nước, họ khao
khát ca ngợi hình ảnh người nông dân gần gũi, chịu thương, chịu khó, hay
lam hay làm, hàng ngày hiện diện trên cánh đồng. Họ hòa nhập với người
nông dân, ban ngày đi làm cùng nông dân, gắn bó ăn ở làm việc cùng nông
dân, họ thực sự trải nghiệm và cảm nhận được sâu sắc nhất công việc nặng
34
nhọc ấy. Khi xem tranh mới thấy tất cả đều bắt nguồn từ cuộc sống đích thực
của người lao động. Tinh thần thời đại dường như đã ngấm vào máu thịt, hơi
thở cuộc sống của những vị họa sĩ tài hoa này. Đó là những tác phẩm quý về
đề tài nông nghiệp mà hiện nay vẫn là những bài học vô giá cho lớp họa sĩ trẻ
noi theo mà nói không quá lời dường như các họa sĩ thế hệ sau vẽ về đề tài
nông nghiệp chưa có ai qua được.
2.1.2. Chủ đề về trồng trọt
Trồng trọt là lĩnh vực sản xuất quan trọng của nông nghiệp, cung cấp
lương thực, thực phẩm cho con người; thức ăn cho chăn nuôi; ngoài ra rộng
hơn có thể là nguyên liệu cho công nghiệp; nông sản để xuất khẩu... Quan
trọng không kém cấy cày, đã nhắc đến nông nghiệp là nhắc đến trồng trọt.
Sau khi hòa bình, tinh thần phấn khởi hẳn, nhân dân hăng hái tăng gia sản
xuất, chăm sóc, vun xới cây trồng. Có thể bắt gặp hình ảnh này ở bất cứ đâu,
nơi vùng cao miền núi hay đồng bằng. Rủ nhau đi nương - 1959 (Đường
Ngọc Cảnh) [ H 2.2; tr 87] là khắc gỗ đen trắng với hình ảnh đoàn người cùng
chú ngựa, trong trang phục dân tộc tay cầm cuốc đặt trên vai, lưng đeo đụi nối
đuôi nhau đi lên nương đang vượt qua suối gồ ghề đất đá, xung quanh là nhà
cửa và cây cối mang đặc trưng của địa hình rừng núi. Trong tranh ta như cảm
nhận sự khắc nghiệt của thời tiết, sự cản trở của địa hình, vậy mà đoàn người
với gương mặt nói cười vẫn hồ hởi chuyện trò vui vẻ trên đường trong sự
đoàn kết, như thể thâm tâm họ có sự đồng lòng với nhau hứa hẹn một vụ mùa
bội thu trong sự cố gắng không biết mệt mỏi.
Nằm trong bộ sưu tập của người Thái Lan có tên Tira, có thể nhiều
người không được biết nhưng bức tranh khắc gỗ màu không thể không nhắc
đến có tên Khai hoang - 1973 [H 2.18; tr 95] của họa sĩ Tôn Đức Lượng. Thật
phóng khoáng và thoáng đãng khi khắc họa một điểm nhìn từ đằng sau khóm
cọ và phóng tầm mắt ra xa ta bắt gặp một cảnh trên nương rẫy bao la rộng
lớn, đoàn người đông vui đang khai hoang, báo hiệu công cuộc mở mang,
35
khai phá miền đất mới. Không gian bao la rộng lớn với khóm cọ chiếm 1/2
tranh cho ta thấy sức của con người khi chinh phục và cải tạo thiên nhiên thật
phi thường như thế nào. Sứ mệnh lịch sử cao cả của nghệ thuật nói chung,
một tác phẩm mỹ thuật nói riêng phải đề cập đúng, trúng và giải quyết những
vấn đề hiện thực của thời đại. Những năm 1955-1985 là giai đoạn đầy biến cố
của dân tộc, là thời kỳ gian khó khi hai mươi năm kháng chiến chống Mỹ;
tiếp đến xây dựng chủ nghĩa xã hội khi đất nước thống nhất hòa bình, trong
đó nền kinh tế nông nghiệp mà cụ thể là trồng trọt được chú trọng. Hòa trong
không khí khẩn trương, hăng hái lao động của quân dân miền Bắc những ngày
đầu giải phóng, Mỹ thuật nói chung, tranh khắc gỗ nói riêng có thêm mục
đích, yêu cầu cụ thể là tuyên truyền chính sách mới của Đảng và nhà nước.
Do tình hình chiến tranh và định hướng chính trị chung của cả nước, nên
nhiệm vụ nghệ thuật đối với các nghệ sĩ vẫn được xác định rõ ràng là phản
ánh cuộc sống lao động và chiến đấu của nhân dân với phương pháp sáng tác
hiện thực XHCN. Thời kỳ này Mỹ thuật có thêm yêu cầu cụ thể, nhiệm vụ là
phục vụ cách mạng, tuyên truyền cổ động cho chính sách mới của Đảng và
nhà nước. Đây cũng là yêu cầu, là chỉ đạo khi phát triển văn hóa vùng miền
núi do người miền xuôi thực hiện với sự tổ chức của nhà nước những năm
1961-1970. Nhìn vào bức tranh này có cảm giác tranh khắc gỗ rất gần với ký
họa, như thể tả thực ở hình vẽ, dường như chuyển thẳng từ ký họa sang in
khắc gỗ và cái cảm giác thô mộc, đơn giản của tranh in khắc gỗ cũng có hơi
thở trực tiếp như ký họa.
Trở về vùng đồng bằng, ta thấy một em bé miền xuôi với dáng người
nhỏ nhắn, gương mặt xin xắn trong Bé yêu lao động - 1965 [H 2.5; tr 89] của
Vi Kiến Minh. Là bức tranh độc nhất chỉ có một nhân vật là một em bé chạc
tuổi đến trường đội nón, nghiêng người, một tay đỡ, một tay cầm bình hoa
tưới cây. Bố cục dọc chặt chẽ khi xây dựng hình ảnh em học sinh chăm chỉ,
chịu khó điển hình thật sinh động, khỏe khoắn trong buổi lao động hăng say,
36
hòa chung vào không khí lao động đất nước, của dân tộc. Sau này, sau ngày
đất nước thống nhất 1975, khi phong trào kế hoạch nhỏ của thiếu nhi cả nước
đang sôi nổi, tác phẩm khắc gỗ trên lại càng giúp ta liên tưởng ngay đến bài
hát “Đội em làm kế hoạch nhỏ” sáng tác năm 1977 của Nhạc sĩ Phong Nhã
vang lên trên khắp mọi miền của Tổ quốc: “Vui tung tăng hớn hỏ, em làm kế
hoạch nhỏ/ Lượm giấy trồng cây, chi Đội ta có ngay/ Như con ong chăm chỉ,
như chim non vui vẻ/ Em làm kế hoạch nhỏ, bắt tay vào việc em càng vui
say...”.
Nội dung chủ đề nghệ thuật trong tác phẩm phải toát ra từ hiện thực, từ
cuộc sống trước mắt, và họa sĩ có nhiệm vụ chọn lọc, tái hiện nó sao cho có
sức thuyết phục. Mỗi tác phẩm thời kỳ này giống như một thanh âm trong
trẻo, bình yên đến kỳ diệu, thanh khiết giữa xã hội đầy chao đảo, biến động.
Có gì đó thật đáng quý và trân trọng biết bao những giây phút khiến mọi thứ
trở nên thân thương, ấm áp.
2.1.3. Chủ đề về chăn nuôi
Chăn nuôi là một ngành quan trọng của nông nghiệp, sản phẩm từ chăn
nuôi nhằm cung cấp lợi nhuận và phục vụ cho đời sống sinh hoạt của con
người. Ở thời kỳ này chăn nuôi trong nông nghiệp chủ yếu là trâu và lợn.
Trâu để tạo sức kéo, phục vụ nhà nông việc cày cấy, còn lợn để cung cấp thực
phẩm trong sinh hoạt hàng ngày. Trong nông nghiệp, con trâu luôn là vật nuôi
tình cảm, là người bạn thân thiết, không thể thiếu của người nông dân, cho dù
ở giai đoạn nào đi nữa thì máy móc cũng không thể thay thế. Bức tranh đen
trắng Bé chăn trâu - 1957 [H 2.1; tr 87] của Anh Thường khắc họa nên hình
ảnh em bé chạc tuổi nhi đồng đang đứng chăn trâu thổi sáo trong một cánh
đồng không gian bao la, rộng lớn. Chưa cầm súng đánh được giặc được
nhưng ở tuổi ăn, tuổi chơi như em làm những công việc nhỏ giúp gia đình là
một điều đáng khen. Mọi hình hài nhân vật cũng như cảnh vật được khắc
bằng nét to, dày cho ta thấy mọi thứ thật khỏe khoắn. Cảnh thanh bình này
37
thật êm ấm, sự dễ thương của nó làm ấm lòng khi con người nơi đây đang dần
tìm lại được sự yên ả trên chính mảnh đất mà cơn bão “chiến tranh” vừa quét
qua. Chăn nuôi [H 2.6; tr 89] của Ngô Duyên là một trong số những bức tranh
màu hiếm hoi có được ở giai đoạn này. Không gian hiện thực tái hiện lại cảnh
chăn nuôi trong nhà của nhà nông với công việc bận rộn, góp phần xây dựng
và phục hồi đất nước sau chiến tranh. Ba người phụ nữ trong tranh như đại
diện cho phụ nữ Việt Nam thời điểm đó “Đảm việc nước, giỏi việc nhà, trung
hậu đảm đang”. Hai người phụ nữ bên phải góc tranh một người đang băm
bèo, một người đang nấu cám cho lợn và phía bên trái phòng bên cạnh là
người phụ nữ đang đổ những máng thức ăn cho lợn… Tất cả cho ta thấy sự
lạc quan, niềm hạnh phúc nơi đây báo hiệu sự đủ đầy dần hồi sinh. Một điểm
mà ta chú ý khi nhìn bên phải góc tranh là mũ tai bèo và súng- đồ vật quen
thuộc của chiến tranh treo trên tường đánh dấu cho người xem biết tại thời
điểm đó xã hội đang ở giai đoạn nào, tuy việc nhà bận rộn nhưng các chị vẫn
không quên nhiệm vụ chiến đấu vì việc chung của Tổ quốc. Ruộng đồng -
1962, [H 2.3; tr 88] của Quang Phòng là bức in khắc gỗ màu công phu vẽ
hình ảnh những người nông dân chăn dắt trâu bên cánh đồng xanh ngắt với
gam màu thật ấn tượng khi cả đồng ruộng, trâu và người được diễn tả khá kỹ
về sắc độ như tranh vẽ thuốc nước.
Trần Nguyên Đán là một trong số những tên tuổi không thể nào quên khi
nhắc đến dòng tranh khắc gỗ Việt Nam hiện đại. Ông luôn góp mặt những tác
phẩm khắc gỗ đen trắng khỏe khoắn cũng như khắc gỗ màu thật đẹp mắt, lung
linh. Người tốt việc tốt [H 2.10; tr 91] được sáng tác năm 1968 với hình ảnh
em bé đang tuổi đến trường tay cầm sách, sau lưng móc trên đòn gánh chiếc
cặp, mũ đang làm nhiệm vụ cho trâu, ghé con ăn và uống nước. Hình ảnh chắt
lọc đến tối giản mang tính hiện đại, ước lệ trên nền cam cùng màu sắc ấn
tượng mang tính trang trí đã mang cho người xem cảm giác nồng ấm, thanh
tâm. Cũng chủ đề về chăn trâu và trẻ em, vài năm sau đó người họa sĩ tài hoa
38
này lại cho ra đời những bức tranh khắc gỗ đen trắng tuyệt đẹp trong đó phải
kể đến như : Con trâu là đầu cơ nghiệp - 1970 [H 2.14; tr 93] và Chăm học
chăm làm - 1971. [H 2.15; tr 94]. Vẫn sự vững vàng về tạo hình, trong cái nền
buông tối giản nhất có thể, Trần Nguyên Đán đã khắc lên hình ảnh những em
bé đang vui đùa thật gần gũi, e ấp bên con trâu- người bạn thân thuộc của
mình. Đầu đội nón nghiêng nghiêng, tay cầm sách chăm chú đứng chụm làm
hai, ba cùng nhau; bên cạnh đó có em nhỏ với sự thân thiện của mình đứng
tựa vào trâu cặm cụi đọc bài. Hình ảnh con trâu cũng thật đơn giản mà đáng
yêu, và họa sĩ phải nắm vững hình ảnh con trâu ngoài đời thực lắm mới có thể
làm được những con trâu đơn giản mà chuẩn xác thế. Có cảm giác xem tranh
của Trần Nguyên Đán thật mang đậm tính dân tộc, tính thời đại và truyền
thống. Phong cảnh miền núi [H 2.20; tr 97] của họa sĩ Cửu Cooc Khìn lại đưa
đến cho người xem cảm xúc về sự hùng vĩ, hoành tráng của thiên nhiên. Con
người hiện lên nhỏ bé nhưng sao ta lại thấy sức mạnh và vẻ đẹp của con
người chinh phục thiên nhiên. Bởi cái vẻ đẹp trầm hùng, tĩnh mịch, yên bình
của phong cảnh kết hợp với sự hăng say lao động của con người đã tạo nên
nhịp điệu và chiều sâu tác phẩm.
Có thể nói giai đoạn 1955-1985 là giai đoạn khó khăn của nền nông
nghiệp Việt Nam nói riêng và phát triển kinh tế nói chung khi đất nước vừa
bước ra khỏi chiến tranh khốc liệt, chính vì vậy hình ảnh con trâu là hình ảnh
gần gũi, quá đỗi quen thuộc không thể không nhắc đến. Dường như nó là
“nhân chứng” chứng kiến biết bao buồn vui, thăng trầm biến cố của lịch sử
dân tộc, của nền nông nghiệp từ thưở khó khăn, vất vả chưa có sự can thiệp
nhiều của máy móc.
2.1.4. Chủ đề về thu hoạch
Thu hoạch hay gặt hái là quá trình gom góp, thu thập, tập trung lại hoa
lợi của các loại cây trồng sau khi đã đơm hoa kết trái cho những sản phẩm
phù hợp với mục đích của người gieo trồng. Lúa là giống cây trồng phổ biến
39
nhất của Việt Nam thời bấy giờ bởi đất nước có tới 95% làm nông nghiệp, và
trong thời kỳ khó khăn thì số lượng người gắn bó với công việc nhà nông
càng nhiều. Tác phẩm Trục lúa [H 2.12; tr 92] của Phạm Văn Đôn là một tác
phẩm khắc gỗ đen trắng tuyệt đẹp không thể không nhắc đến ở thời kỳ này.
Sáng tác năm 1970, trong tranh vẽ quang cảnh nhóm người dân lao động đang
hăng say làm nhiệm vụ trục lúa trước cửa sân đình. Nhìn những đường nét rõ
ràng, mềm mại và dày đặc, biểu thị đường đi vòng quanh của con trâu đang
vất vả làm nhiệm vụ kéo trục báo hiệu cho thấy buổi lao động khẩn trương,
dường như mọi thứ đang cuốn theo guồng quay làm việc không ngừng nghỉ.
Mỗi người một dáng, người quay ra, người quay vào, nhộp nhịp và hẳn phải
thấy thán phục vì sự quan sát tinh tế, đa dạng các dáng vẻ rất động của con
vật và người nông dân mà tác giả diễn tả. Tất cả những yếu tố đó đã thuyết
phục được người thưởng ngoạn và chứng tỏ các họa sĩ đã hết lòng vì nghệ
thuật. Cùng với đề tài này, Vũ Duy Nghĩa góp mặt tác phẩm Trục lúa [H 2.16;
tr 94] sáng tác năm 1972 với ba con trâu, ba quả lăn, hai người một nam, một
nữ đang điều khiển vòng quay chiếc trục, ông đã tái hiện cảnh lao động ở
nông thôn ngày mùa rộn ràng. Nhịp điệu xoay tròn của người, trục và trâu cho
ta thấy nhịp điệu khẩn trương dường như không thể ngừng nghỉ của các nhân
vật đánh dấu một vụ mùa thu hoạch bội thu.
Đến với tác phẩm Phơi thóc [H 2.19; tr 96] tiếp theo của Mạnh Hào,
tuyệt vời khi khắc họa năm cô gái, năm dáng người khác nhau uyển chuyển,
duyên dáng đội nón, người tay thoăn thoắt cào bồ những lạt thóc mới, người
làm nhiệm vụ đổ những bồ thóc xuống sân phơi trên sân gạch. Một sự vui vẻ,
hào hứng trên khuôn mặt sau một vụ mùa bội thu. Bên cạnh đó còn có tác
phẩm Trên vùng kinh tế mới- 1972 [H 2.17; tr 95] của Hoàng Hoan với con
người hiện lên nhỏ bé, nhưng vẫn đủ cho ta thấy sức mạnh và vẻ đẹp của
người lao động ruộng đồng. Bởi cái đẹp trầm hùng, tĩnh mịch, yên bình của
phong cảnh kết hợp với sự hăng say lao động của con người đã tạo nên nhịp
40
điệu và chiều sâu tác phẩm. Hình tượng ấy hiện lên trong tranh hiện đại mang
vẻ rắn rỏi, tự chủ được các nghệ sĩ thể hiện bằng ngôn ngữ nghệ thuật đơn
giản, trong sáng.
Ngoài thu hoạch lúa, nhà nông còn gắn bó mình với các loại cây ăn quả.
Hái cà phê- 1964 [H 2.4; tr 88] (Lương Xuân Nhị) đã vẽ nên hai cô gái đang
làm nhiệm vụ hái cà phê nổi lên với hình dáng thanh mảnh bằng những mảng
màu bẹt và vài nếp cong gợi nếp gấp của áo quần đang đứng quay lưng về
phía mặt tranh, vừa làm việc vừa trò chuyện. Cây cà phê được tạo bằng nét
mềm mại của những cành cây nghiêng, cong xuống phía hai thiếu nữ. Bức
tranh với vẻ đẹp nhẹ nhàng gần gũi với tranh Hàng Trống của bức “Tố nữ”.
Với cách nhìn ước lệ của dân gian, họa sĩ đã gợi cho người xem một cảnh lao
động bình yên nơi thôn dã. Hái quả (1976) [H 2.23; tr 99] của Phạm Đoàn
Thanh xuất hiện hai cô gái dân tộc là nhân vật chính ở giữa tranh đeo gùi
đang làm nhiệm vụ thu hoạch cây trái trong dáng người rất uyển chuyển trong
gió, tà váy bay bay,…
Có thể nhận định rằng ngày ấy không khí hào hùng, sôi động, niềm vui
chiến thắng của dân tộc đã lan tỏa đến các họa sĩ, họ thấy mình phải có trách
nhiệm cống hiến hết mình cho đất nước, họ khao khát ca ngợi hình ảnh người
nông dân gần gũi, chịu thương chịu khó, hay lam hay làm. Được những điều
đó là nhờ vào những rung động hết sức tự nhiên của người họa sĩ và mọi thứ
đã được lan tỏa chạm đến trái tim người xem một cách sâu sắc nhất. Điều đó
đã lý giải được vì sao các họa sĩ thời kỳ đó lại có nhiều tác phẩm xuất sắc đến
vậy.
2.2. Hình thức thể hiện đề tài
Hình thức là cơ cấu tổ chức bên trong được xác định bởi một hệ thống
những phương tiện tạo hình, biểu hiện của một loại hình nghệ thuật, thể hiện
một nội dung nhất định. Ngôn ngữ tạo hình chỉ trở thành hình thức nghệ thuật
khi ngôn ngữ được tổ chức lại thành một hệ thống, một kết cấu nhiều mặt của
41
hình tượng nghệ thuật, một kết cấu vật chất biểu hiện một nội dung nhất định.
Ngôn ngữ mỹ thuật tạo hình bao gồm các yếu tố: hình khối, đường nét, màu
sắc, sự sắp xếp bố cục, nhịp điệu… Mỗi loại hình có cách biểu hiện khác nhau
tùy thuộc vào đặc trưng ngôn ngữ của từng loại. Ngày nay, cách nhìn trong
ngôn ngữ cũng không bị rập khuôn, cách miêu tả hiện thực đã sang giai đoạn
phát triển nhiều phong cách thể hiện khác nhau.
2.2.1. Bố cục trong tác phẩm
Trong cuốn “Từ điển thuật ngữ Mỹ thuật phổ thông” có khái niệm về bố
cục như sau: “Là sự sắp xếp kích thước và tương quan của những đường nét,
hình dáng, màu sắc các vật thể trong một tác phẩm. Nói cách khác, bố cục
chính là sự sắp xếp tất cả các yếu tố ngôn ngữ tạo hình để xây dựng nên một
tác phẩm, làm nổi rõ ý đồ sáng tác của nghệ sĩ.” [19, tr 31]. Vẻ đẹp trong bố
cục của một tác phẩm nghệ thuật thường được xây dựng bởi sự sắp xếp các
mảng, hình một cách hài hòa tạo nên sự cân bằng và nhịp điệu, nhằm gây ấn
tượng thị giác cho người thưởng thức. Tùy theo nội dung, chủ đề, các yếu tố
ngôn ngữ đồ họa được người họa sĩ bố trí, sắp đặt sao cho phù hợp để tạo bố
cục cho tác phẩm. Trong tranh vẽ có bố cục về hình thể, bố cục màu sắc, bố
cục không gian,… tất cả phải đạt sự hài hòa, nhịp nhàng, đôi khi có sự lặp lại
nhưng tất thảy đều phải dựa trên các loại bố cục chính như sau: bố cục hình
tam giác- hình chóp; bố cục hình tròn- elip; bố cục hình chữ nhật- hình
vuông; bố cục theo nhịp điệu, phối cảnh, đông người,…
Tác phẩm khắc gỗ đen trắng Đôi bạn (1968) của Trịnh Thiệp [H 2.8; tr
90] với lối bố cục cơ bản đã tái hiện lại một khung cảnh có thực với sự gần to,
xa nhỏ của cảnh vật tuân thủ theo luật xa gần. Nhân vật chính, hình ảnh người
phụ nữ ngồi trong chiếc máy cày của mình cúi xuống phía dưới thật thân thiện
khi nói chuyện với em bé và chú bê con đang ngẩng cổ lên ngước nhìn chiếm
2/3 diện tích. Không gian còn lại là khoảng trời rộng bao la tít tắp, phía xa cột
điện mang điện đi khắp nơi tới mọi miền tổ quốc; xa hơn nữa những khóm
42
đặc nhấp nhô báo hiệu có sự sống chiếm 1/3 bức tranh. Xét về tính chất chính
phụ thì đây là tỷ lệ chuẩn mực về bố cục. Ngoài ra tác giả còn khéo léo khi
đưa hai hướng chuyển động: dọc hướng lên trên của cây cột điện, và xiên
ngang của đường rãnh dẫn nước vào đồng ải nhằm cân bằng lại bố cục, tạo
nhiều chiều hướng giúp mở rộng tầm mắt cho người xem. Người nông dân
thời bấy giờ đã làm chủ được ruộng đồng trong sự bình yên đến quý giá.
Cùng với sự thành công chủ đề cấy cày, tác phẩm với nhan đề Cấy hết diện
tích (1969) của Trịnh Phòng [H 2.11; tr 92] cũng nổi bật không kém, là một
trong số tác phẩm không thể không kể đến về đề tài nông nghiệp. Hình ảnh
chân thực khi miêu tả lại ba cô gái với bố cục dàn hàng ngang quần xắn đến
đầu gối, đang cúi xuống làm công việc cấy lúa mở màn cho vụ mùa mới.
Người đứng hai tay cầm hai bó lúa, chân đang bước lên; người cúi đang cấy
những cây lúa trên thửa ruộng bạt ngàn. Xa xa là cây cầu, những khóm cây
hiên ngang còn lại giữa đời như thể nó là chứng nhân của lịch sử chứng kiến
sự thay đổi phát triển từng ngày nơi đây. Không gian xung quanh dành cho
cảnh vật cũng như không gian dành cho nhân vật chính cân bằng nhau một
cách hợp lý. Có thể nói sau năm 1925 với sự đánh dấu xuất hiện của trường
Mỹ thuật Đông Dương, tranh khắc gỗ hiện đại Việt Nam ra đời. Một số họa sĩ
được đào tạo chuyên nghiệp đã nhanh chóng tiếp thu những kiến thức tạo
hình phương Tây, mà cụ thể là luật thấu thị xa gần đã giúp tranh có hình thức
giống cái nhìn thực hơn. Với cây bút tài hoa của mình, họ đã chắt lọc, tái tạo
lại hình ảnh của thực tế không gian ba chiều (chiều dài, chiều rộng, chiều cao
hoặc sâu) lên mặt phẳng hai chiều (chiều dài, chiều rộng) bằng những hình
ảnh cô đọng, điển hình nhất, giúp người xem vẫn có thể tưởng tượng ra không
gian thực ngoài đời. Để làm được điều này, người họa sĩ phải vững vàng về
kiến thức thực tế cũng như những nguyên tắc trong sáng tác hội họa để tái tạo
lại không gian, phong cảnh, hay con người thực vào tranh.
Đến với một dạng khác của bố cục, ta có thêm lối bố cục nhịp điệu. Để
43
chiêm ngưỡng tận mắt, hiện nay BTMTVN còn lưu giữ tác phẩm khắc gỗ
màu Một buổi cấy của Hà Mỹ Lý sáng tác năm 1978. [H 2.25; tr 100]. Có thể
thấy sự chuyển động của đường nét, hình khối, màu sắc đã tạo nên nhịp điệu
trong tranh. Không khí toàn dân hăng say bắt tay ngay vào lao động sản xuất
đã len lỏi đến khắp nơi mọi vùng mà nơi miền xa xôi núi non cách trở cũng
không làm khó với những người nông dân nơi đây. Trong tranh là cảnh những
người phụ nữ dàn hàng ngang gần như chính giữa tranh với người cúi, người
đứng, người nghiêng trái phải với vô vàn tư thế khác nhau đang cấy lúa tạo
nên một nhịp điệu vô cùng vui mắt cho tác phẩm. Trong không gian nhấp nhô
trùng điệp của núi rừng, con người hiện lên thật nhỏ bé nhưng ta tin rằng
những con người hợp sức lại với nhau sẽ chẳng có điều gì là không thể cải tạo
thiên nhiên. Ngoài ra có thể kể đến những tác phẩm khác tương tự có nhịp
điệu rất rõ ràng cùng phản ánh hiện thực thời kỳ đó như Cấy- Trần Nguyên
Đán [ H 2.7; tr 90]; Phơi thóc- Mạnh Hào [ H 2.19; tr 96]; Chống hạn- Phùng
Phẩm [ H 2.21; tr 98];…
Tác phẩm Hái cà phê [H 2.4; tr 88] của danh họa Lương Xuân Nhị sáng
tác năm 1964 với bố cục dọc là hai nhân vật chính đang hái cà phê được thể
hiện bằng những mảng màu bẹt kết hợp vài nét cong gợi nếp gấp của áo quần
đang đứng quay lưng về phía mặt tranh. Khuôn mặt và mái tóc cũng được tạo
hình bằng những mảng màu đen, hồng nhạt không vờn khối vẫn mang lại cho
ta một cảm nhận êm ái, dịu dàng. Màu xanh mát mẻ của lá cà phê chiếm 2/3
diên tích tác phẩm gợi một cảm giác thanh bình, nhẹ nhàng. Không gian còn
lại được bao trùm bởi một màu nâu nhẹ rất ăn nhập với màu xanh của lá. Với
cách phối cảnh ước lệ của tranh dân gian mang hơi hướm từ dòng tranh Đông
Hồ, lối bố cục đơn giản, không câu nệ, gò bó, tác giả đã cho người xem thấy
được một cảnh yên bình nơi thôn dã trong không gian tượng trưng và khái
quát, chắt lọc về đường nét, màu sắc. Vẫn đề cao ý đồ trong tư duy tạo hình
khi xây dựng hình tượng nhân vật; diện hình, mảng bẹt, bỏ qua vờn khối, tác
44
phẩm của Phạm Đoàn Thanh Hái quả [H 2.23; tr 99] lại thêm một minh
chứng cho sự thành công phù hợp với lối bố cục dọc. Tranh đen trắng với
mảng đậm bẹt hiện lên chiếm 2/3 diện tích tranh đủ độ đậm nhạt khác nhau
cho ta thấy rõ hai cô gái đang đưa tay hái những trái quả trên cây. Nền-
khoảng không còn lại là giấy trắng, là không gian không được diễn tả càng
độc tôn lên hai nhân vật với hình dáng và hành động cụ thể. Bố cục tranh đã
gần như thoát ly hẳn với những kiến thức bố cục thường thấy. Không phải bố
cục tròn, tam giác hay dàn ngang mà ở đây bố cục dọc rất chặt chẽ, hai nhân
vật duy nhất đều nằm trong nhóm bố cục chính, không hề có thêm chi tiết gì
phân biệt chính-phụ ở đây.
Có thể nói bức tranh Trục lúa của Vũ Duy Nghĩa [H 2.16; tr 94] là tác
phẩm thành công của người họa sĩ bởi bố cục tròn đơn giản được ông đưa vào
tranh một cách khá lạ mắt. Tranh khắc trạng thái chuyển động nhanh gấp,
khẩn trương với những nét khắc ngắn và nhiều tạo quỹ đạo đường đi xoay
tròn của những trục đá, hai người nông dân với ba con trâu đang cho ra hạt
thóc vàng ươm. Nếu tranh vẫn từng ấy nhân vật xếp thành hàng ngang thì có
lẽ không ra tính chất cũng như không khí buổi làm việc. Nhân vật chính xếp
với nhau liên kết chặt chẽ tạo thành bố cục tròn giúp người xem cảm nhận
được vòng quay hối hả, sự ăn nhập giữa người với vật cũng như tinh thần lao
động một cách rõ ràng. Cũng cùng tên Trục lúa [H 2.12; tr 92], Phạm Văn
Đôn cũng khai thác một nhóm nhân vật chính trong sự chuyển động của hình
elip tương tự. Dường như hình tròn hay hình elip đều tạo sự cân bằng cho tác
phẩm, báo hiệu sự đoàn kết ăn nhập giữa các nhân vật cũng như sự hối hả
khẩn trương đến vui mắt. Cách đặt vấn đề này tạo không khí sôi động, ấn
tượng trực tiếp với cái nhìn của thị giác.
Hầu như thời kỳ này, với đề tài nông nghiệp mang tính thời sự, số lượng
các tranh thường có bố cục khỏe, đường nét mạnh, dứt khoát, nhịp điệu sôi
động… Các tác phẩm ở giai đoạn đầu thời kỳ 1955-1985 này đã phản ánh
NÔNG NGHIỆP TRONG TRANH KHẮC GỖ VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1955-1985.pdf
NÔNG NGHIỆP TRONG TRANH KHẮC GỖ VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1955-1985.pdf
NÔNG NGHIỆP TRONG TRANH KHẮC GỖ VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1955-1985.pdf
NÔNG NGHIỆP TRONG TRANH KHẮC GỖ VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1955-1985.pdf
NÔNG NGHIỆP TRONG TRANH KHẮC GỖ VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1955-1985.pdf
NÔNG NGHIỆP TRONG TRANH KHẮC GỖ VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1955-1985.pdf
NÔNG NGHIỆP TRONG TRANH KHẮC GỖ VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1955-1985.pdf
NÔNG NGHIỆP TRONG TRANH KHẮC GỖ VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1955-1985.pdf
NÔNG NGHIỆP TRONG TRANH KHẮC GỖ VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1955-1985.pdf
NÔNG NGHIỆP TRONG TRANH KHẮC GỖ VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1955-1985.pdf
NÔNG NGHIỆP TRONG TRANH KHẮC GỖ VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1955-1985.pdf
NÔNG NGHIỆP TRONG TRANH KHẮC GỖ VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1955-1985.pdf
NÔNG NGHIỆP TRONG TRANH KHẮC GỖ VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1955-1985.pdf
NÔNG NGHIỆP TRONG TRANH KHẮC GỖ VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1955-1985.pdf
NÔNG NGHIỆP TRONG TRANH KHẮC GỖ VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1955-1985.pdf
NÔNG NGHIỆP TRONG TRANH KHẮC GỖ VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1955-1985.pdf

More Related Content

Similar to NÔNG NGHIỆP TRONG TRANH KHẮC GỖ VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1955-1985.pdf

Tranh về việt nam thời pháp thuộc
Tranh về việt nam thời pháp thuộcTranh về việt nam thời pháp thuộc
Tranh về việt nam thời pháp thuộcDam Nguyen
 
Khoá Luận Các Biện Pháp Tạo Hứng Thú Trong Dạy Học Tác Phẩm Văn Tế Nghĩa Sĩ C...
Khoá Luận Các Biện Pháp Tạo Hứng Thú Trong Dạy Học Tác Phẩm Văn Tế Nghĩa Sĩ C...Khoá Luận Các Biện Pháp Tạo Hứng Thú Trong Dạy Học Tác Phẩm Văn Tế Nghĩa Sĩ C...
Khoá Luận Các Biện Pháp Tạo Hứng Thú Trong Dạy Học Tác Phẩm Văn Tế Nghĩa Sĩ C...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0936 885 877
 
Tranh về việt nam do họa sỹ pháp vẽ
Tranh về việt nam do họa sỹ pháp vẽTranh về việt nam do họa sỹ pháp vẽ
Tranh về việt nam do họa sỹ pháp vẽDam Nguyen
 
LUẬN ÁN NGHỆ THUẬT TRANG TRÍ ĐỀN VUA ĐINH, VUA LÊ TỪ GÓC NHÌN SO SÁNH VỚI ẤN ...
LUẬN ÁN NGHỆ THUẬT TRANG TRÍ ĐỀN VUA ĐINH, VUA LÊ TỪ GÓC NHÌN SO SÁNH VỚI ẤN ...LUẬN ÁN NGHỆ THUẬT TRANG TRÍ ĐỀN VUA ĐINH, VUA LÊ TỪ GÓC NHÌN SO SÁNH VỚI ẤN ...
LUẬN ÁN NGHỆ THUẬT TRANG TRÍ ĐỀN VUA ĐINH, VUA LÊ TỪ GÓC NHÌN SO SÁNH VỚI ẤN ...PinkHandmade
 
Tranh họa sĩ pháp đã vẽ việt nam cuối thế kỷ xix đầu xx
Tranh họa sĩ pháp đã vẽ việt nam cuối thế kỷ xix đầu xxTranh họa sĩ pháp đã vẽ việt nam cuối thế kỷ xix đầu xx
Tranh họa sĩ pháp đã vẽ việt nam cuối thế kỷ xix đầu xxDam Nguyen
 
Giáo án (kế hoạch) Mĩ thuật 9, soạn theo 5 hoạt động
Giáo án (kế hoạch) Mĩ thuật 9, soạn theo 5 hoạt độngGiáo án (kế hoạch) Mĩ thuật 9, soạn theo 5 hoạt động
Giáo án (kế hoạch) Mĩ thuật 9, soạn theo 5 hoạt độngnataliej4
 
Thơ nữ việt nam thế hệ 197x, 198x (diện mạo và đặc điểm) 2907864
Thơ nữ việt nam thế hệ 197x, 198x (diện mạo và đặc điểm) 2907864Thơ nữ việt nam thế hệ 197x, 198x (diện mạo và đặc điểm) 2907864
Thơ nữ việt nam thế hệ 197x, 198x (diện mạo và đặc điểm) 2907864nataliej4
 
Hội họa Việt Nam từ 1990 đến nay
Hội họa Việt Nam từ 1990 đến  nayHội họa Việt Nam từ 1990 đến  nay
Hội họa Việt Nam từ 1990 đến nayLinh Nguyễn Khánh
 
[Kho tài liệu ngành may] trang phục dạ hội được phát triển dựa trên hình ảnh ...
[Kho tài liệu ngành may] trang phục dạ hội được phát triển dựa trên hình ảnh ...[Kho tài liệu ngành may] trang phục dạ hội được phát triển dựa trên hình ảnh ...
[Kho tài liệu ngành may] trang phục dạ hội được phát triển dựa trên hình ảnh ...TÀI LIỆU NGÀNH MAY
 
ĐẶC ĐIỂM THƠ MAI VĂN PHẤN Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Văn học Việt Nam.pdf
ĐẶC ĐIỂM THƠ MAI VĂN PHẤN Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Văn học Việt Nam.pdfĐẶC ĐIỂM THƠ MAI VĂN PHẤN Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Văn học Việt Nam.pdf
ĐẶC ĐIỂM THƠ MAI VĂN PHẤN Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Văn học Việt Nam.pdfjackjohn45
 
ĐẶC ĐIỂM THƠ MAI VĂN PHẤN Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Văn học Việt Nam.pdf
ĐẶC ĐIỂM THƠ MAI VĂN PHẤN Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Văn học Việt Nam.pdfĐẶC ĐIỂM THƠ MAI VĂN PHẤN Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Văn học Việt Nam.pdf
ĐẶC ĐIỂM THƠ MAI VĂN PHẤN Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Văn học Việt Nam.pdfjackjohn45
 
[Kho tài liệu ngành may] bst cảm hứng phố cổ
[Kho tài liệu ngành may] bst cảm hứng phố cổ[Kho tài liệu ngành may] bst cảm hứng phố cổ
[Kho tài liệu ngành may] bst cảm hứng phố cổTÀI LIỆU NGÀNH MAY
 
HÌNH TƯỢNG NGƯỜI NÔNG DÂN TRONG VĂN HỌC ĐƯƠNG ĐẠI QUA TRUYỆN NGẮN CỦA NGUYỄN ...
HÌNH TƯỢNG NGƯỜI NÔNG DÂN TRONG VĂN HỌC ĐƯƠNG ĐẠI QUA TRUYỆN NGẮN CỦA NGUYỄN ...HÌNH TƯỢNG NGƯỜI NÔNG DÂN TRONG VĂN HỌC ĐƯƠNG ĐẠI QUA TRUYỆN NGẮN CỦA NGUYỄN ...
HÌNH TƯỢNG NGƯỜI NÔNG DÂN TRONG VĂN HỌC ĐƯƠNG ĐẠI QUA TRUYỆN NGẮN CỦA NGUYỄN ...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 

Similar to NÔNG NGHIỆP TRONG TRANH KHẮC GỖ VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1955-1985.pdf (20)

BÀI MẪU luận văn: Nghệ thuật chạm khắc gỗ đình Hàng Kênh, 9 ĐIỂM
BÀI MẪU luận văn: Nghệ thuật chạm khắc gỗ đình Hàng Kênh, 9 ĐIỂMBÀI MẪU luận văn: Nghệ thuật chạm khắc gỗ đình Hàng Kênh, 9 ĐIỂM
BÀI MẪU luận văn: Nghệ thuật chạm khắc gỗ đình Hàng Kênh, 9 ĐIỂM
 
Tranh về việt nam thời pháp thuộc
Tranh về việt nam thời pháp thuộcTranh về việt nam thời pháp thuộc
Tranh về việt nam thời pháp thuộc
 
Luận văn: Những hình ảnh biểu tượng trong văn xuôi Nguyễn Tuân, HAY
Luận văn: Những hình ảnh biểu tượng trong văn xuôi Nguyễn Tuân, HAYLuận văn: Những hình ảnh biểu tượng trong văn xuôi Nguyễn Tuân, HAY
Luận văn: Những hình ảnh biểu tượng trong văn xuôi Nguyễn Tuân, HAY
 
Khoá Luận Các Biện Pháp Tạo Hứng Thú Trong Dạy Học Tác Phẩm Văn Tế Nghĩa Sĩ C...
Khoá Luận Các Biện Pháp Tạo Hứng Thú Trong Dạy Học Tác Phẩm Văn Tế Nghĩa Sĩ C...Khoá Luận Các Biện Pháp Tạo Hứng Thú Trong Dạy Học Tác Phẩm Văn Tế Nghĩa Sĩ C...
Khoá Luận Các Biện Pháp Tạo Hứng Thú Trong Dạy Học Tác Phẩm Văn Tế Nghĩa Sĩ C...
 
Tranh về việt nam do họa sỹ pháp vẽ
Tranh về việt nam do họa sỹ pháp vẽTranh về việt nam do họa sỹ pháp vẽ
Tranh về việt nam do họa sỹ pháp vẽ
 
LUẬN ÁN NGHỆ THUẬT TRANG TRÍ ĐỀN VUA ĐINH, VUA LÊ TỪ GÓC NHÌN SO SÁNH VỚI ẤN ...
LUẬN ÁN NGHỆ THUẬT TRANG TRÍ ĐỀN VUA ĐINH, VUA LÊ TỪ GÓC NHÌN SO SÁNH VỚI ẤN ...LUẬN ÁN NGHỆ THUẬT TRANG TRÍ ĐỀN VUA ĐINH, VUA LÊ TỪ GÓC NHÌN SO SÁNH VỚI ẤN ...
LUẬN ÁN NGHỆ THUẬT TRANG TRÍ ĐỀN VUA ĐINH, VUA LÊ TỪ GÓC NHÌN SO SÁNH VỚI ẤN ...
 
Tranh họa sĩ pháp đã vẽ việt nam cuối thế kỷ xix đầu xx
Tranh họa sĩ pháp đã vẽ việt nam cuối thế kỷ xix đầu xxTranh họa sĩ pháp đã vẽ việt nam cuối thế kỷ xix đầu xx
Tranh họa sĩ pháp đã vẽ việt nam cuối thế kỷ xix đầu xx
 
Giáo án (kế hoạch) Mĩ thuật 9, soạn theo 5 hoạt động
Giáo án (kế hoạch) Mĩ thuật 9, soạn theo 5 hoạt độngGiáo án (kế hoạch) Mĩ thuật 9, soạn theo 5 hoạt động
Giáo án (kế hoạch) Mĩ thuật 9, soạn theo 5 hoạt động
 
Thơ nữ việt nam thế hệ 197x, 198x (diện mạo và đặc điểm) 2907864
Thơ nữ việt nam thế hệ 197x, 198x (diện mạo và đặc điểm) 2907864Thơ nữ việt nam thế hệ 197x, 198x (diện mạo và đặc điểm) 2907864
Thơ nữ việt nam thế hệ 197x, 198x (diện mạo và đặc điểm) 2907864
 
Hội họa Việt Nam từ 1990 đến nay
Hội họa Việt Nam từ 1990 đến  nayHội họa Việt Nam từ 1990 đến  nay
Hội họa Việt Nam từ 1990 đến nay
 
TRANH TREO TƯỜNG
TRANH TREO TƯỜNGTRANH TREO TƯỜNG
TRANH TREO TƯỜNG
 
[Kho tài liệu ngành may] trang phục dạ hội được phát triển dựa trên hình ảnh ...
[Kho tài liệu ngành may] trang phục dạ hội được phát triển dựa trên hình ảnh ...[Kho tài liệu ngành may] trang phục dạ hội được phát triển dựa trên hình ảnh ...
[Kho tài liệu ngành may] trang phục dạ hội được phát triển dựa trên hình ảnh ...
 
ĐẶC ĐIỂM THƠ MAI VĂN PHẤN Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Văn học Việt Nam.pdf
ĐẶC ĐIỂM THƠ MAI VĂN PHẤN Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Văn học Việt Nam.pdfĐẶC ĐIỂM THƠ MAI VĂN PHẤN Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Văn học Việt Nam.pdf
ĐẶC ĐIỂM THƠ MAI VĂN PHẤN Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Văn học Việt Nam.pdf
 
ĐẶC ĐIỂM THƠ MAI VĂN PHẤN Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Văn học Việt Nam.pdf
ĐẶC ĐIỂM THƠ MAI VĂN PHẤN Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Văn học Việt Nam.pdfĐẶC ĐIỂM THƠ MAI VĂN PHẤN Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Văn học Việt Nam.pdf
ĐẶC ĐIỂM THƠ MAI VĂN PHẤN Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Văn học Việt Nam.pdf
 
Đề tài: Yếu tố văn hóa dân gian trong sáng tác của một số nhà thơ thuộc phong...
Đề tài: Yếu tố văn hóa dân gian trong sáng tác của một số nhà thơ thuộc phong...Đề tài: Yếu tố văn hóa dân gian trong sáng tác của một số nhà thơ thuộc phong...
Đề tài: Yếu tố văn hóa dân gian trong sáng tác của một số nhà thơ thuộc phong...
 
[Kho tài liệu ngành may] bst cảm hứng phố cổ
[Kho tài liệu ngành may] bst cảm hứng phố cổ[Kho tài liệu ngành may] bst cảm hứng phố cổ
[Kho tài liệu ngành may] bst cảm hứng phố cổ
 
Luận văn: Văn hóa tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết việt nam
Luận văn: Văn hóa tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết việt namLuận văn: Văn hóa tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết việt nam
Luận văn: Văn hóa tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết việt nam
 
Luận văn: Hình tượng người phụ nữ trong thơ trữ tình Việt Nam
Luận văn: Hình tượng người phụ nữ trong thơ trữ tình Việt NamLuận văn: Hình tượng người phụ nữ trong thơ trữ tình Việt Nam
Luận văn: Hình tượng người phụ nữ trong thơ trữ tình Việt Nam
 
HÌNH TƯỢNG NGƯỜI NÔNG DÂN TRONG VĂN HỌC ĐƯƠNG ĐẠI QUA TRUYỆN NGẮN CỦA NGUYỄN ...
HÌNH TƯỢNG NGƯỜI NÔNG DÂN TRONG VĂN HỌC ĐƯƠNG ĐẠI QUA TRUYỆN NGẮN CỦA NGUYỄN ...HÌNH TƯỢNG NGƯỜI NÔNG DÂN TRONG VĂN HỌC ĐƯƠNG ĐẠI QUA TRUYỆN NGẮN CỦA NGUYỄN ...
HÌNH TƯỢNG NGƯỜI NÔNG DÂN TRONG VĂN HỌC ĐƯƠNG ĐẠI QUA TRUYỆN NGẮN CỦA NGUYỄN ...
 
Luận văn: Thơ ngôn chí của tác giả nhà nho hành đạo nửa sau XIX
Luận văn: Thơ ngôn chí của tác giả nhà nho hành đạo nửa sau XIXLuận văn: Thơ ngôn chí của tác giả nhà nho hành đạo nửa sau XIX
Luận văn: Thơ ngôn chí của tác giả nhà nho hành đạo nửa sau XIX
 

More from NuioKila

Pháp luật về Quỹ trợ giúp pháp lý ở Việt Nam.pdf
Pháp luật về Quỹ trợ giúp pháp lý ở Việt Nam.pdfPháp luật về Quỹ trợ giúp pháp lý ở Việt Nam.pdf
Pháp luật về Quỹ trợ giúp pháp lý ở Việt Nam.pdfNuioKila
 
BÁO CÁO Kết quả tham vấn cộng đồng về tính hợp pháp của gỗ và các sản phẩm gỗ...
BÁO CÁO Kết quả tham vấn cộng đồng về tính hợp pháp của gỗ và các sản phẩm gỗ...BÁO CÁO Kết quả tham vấn cộng đồng về tính hợp pháp của gỗ và các sản phẩm gỗ...
BÁO CÁO Kết quả tham vấn cộng đồng về tính hợp pháp của gỗ và các sản phẩm gỗ...NuioKila
 
A study on common mistakes committed by Vietnamese learners in pronouncing En...
A study on common mistakes committed by Vietnamese learners in pronouncing En...A study on common mistakes committed by Vietnamese learners in pronouncing En...
A study on common mistakes committed by Vietnamese learners in pronouncing En...NuioKila
 
[123doc] - thu-nghiem-cai-tien-chi-tieu-du-bao-khong-khi-lanh-cac-thang-cuoi-...
[123doc] - thu-nghiem-cai-tien-chi-tieu-du-bao-khong-khi-lanh-cac-thang-cuoi-...[123doc] - thu-nghiem-cai-tien-chi-tieu-du-bao-khong-khi-lanh-cac-thang-cuoi-...
[123doc] - thu-nghiem-cai-tien-chi-tieu-du-bao-khong-khi-lanh-cac-thang-cuoi-...NuioKila
 
THỬ NGHIỆM CẢI TIẾN CHỈ TIÊU DỰ BÁO KHÔNG KHÍ LẠNH CÁC THÁNG CUỐI MÙA ĐÔNG BẰ...
THỬ NGHIỆM CẢI TIẾN CHỈ TIÊU DỰ BÁO KHÔNG KHÍ LẠNH CÁC THÁNG CUỐI MÙA ĐÔNG BẰ...THỬ NGHIỆM CẢI TIẾN CHỈ TIÊU DỰ BÁO KHÔNG KHÍ LẠNH CÁC THÁNG CUỐI MÙA ĐÔNG BẰ...
THỬ NGHIỆM CẢI TIẾN CHỈ TIÊU DỰ BÁO KHÔNG KHÍ LẠNH CÁC THÁNG CUỐI MÙA ĐÔNG BẰ...NuioKila
 
Nhu cầu lập pháp của hành pháp.pdf
Nhu cầu lập pháp của hành pháp.pdfNhu cầu lập pháp của hành pháp.pdf
Nhu cầu lập pháp của hành pháp.pdfNuioKila
 
KẾ HOẠCH DẠY HỌC CỦA TỔ CHUYÊN MÔN MÔN HỌC SINH HỌC - CÔNG NGHỆ.pdf
KẾ HOẠCH DẠY HỌC CỦA TỔ CHUYÊN MÔN MÔN HỌC SINH HỌC - CÔNG NGHỆ.pdfKẾ HOẠCH DẠY HỌC CỦA TỔ CHUYÊN MÔN MÔN HỌC SINH HỌC - CÔNG NGHỆ.pdf
KẾ HOẠCH DẠY HỌC CỦA TỔ CHUYÊN MÔN MÔN HỌC SINH HỌC - CÔNG NGHỆ.pdfNuioKila
 
KIẾN TRÚC BIỂU HIỆN TẠI VIỆT NAM.pdf
KIẾN TRÚC BIỂU HIỆN TẠI VIỆT NAM.pdfKIẾN TRÚC BIỂU HIỆN TẠI VIỆT NAM.pdf
KIẾN TRÚC BIỂU HIỆN TẠI VIỆT NAM.pdfNuioKila
 
QUY HOẠCH PHÁT TRIỂN HỆ THỐNG Y TẾ TỈNH NINH THUẬN.pdf
QUY HOẠCH PHÁT TRIỂN HỆ THỐNG Y TẾ TỈNH NINH THUẬN.pdfQUY HOẠCH PHÁT TRIỂN HỆ THỐNG Y TẾ TỈNH NINH THUẬN.pdf
QUY HOẠCH PHÁT TRIỂN HỆ THỐNG Y TẾ TỈNH NINH THUẬN.pdfNuioKila
 
NGHIÊN CỨU XÂY DỰNG BỘ TIÊU CHÍ ĐÁNH GIÁ CHẤT LƯỢNG CÁC CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO ...
NGHIÊN CỨU XÂY DỰNG BỘ TIÊU CHÍ ĐÁNH GIÁ CHẤT LƯỢNG CÁC CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO ...NGHIÊN CỨU XÂY DỰNG BỘ TIÊU CHÍ ĐÁNH GIÁ CHẤT LƯỢNG CÁC CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO ...
NGHIÊN CỨU XÂY DỰNG BỘ TIÊU CHÍ ĐÁNH GIÁ CHẤT LƯỢNG CÁC CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO ...NuioKila
 
TIỂU LUẬN Phân tích các loại nguồn của luật tư La Mã và so sánh với các nguồn...
TIỂU LUẬN Phân tích các loại nguồn của luật tư La Mã và so sánh với các nguồn...TIỂU LUẬN Phân tích các loại nguồn của luật tư La Mã và so sánh với các nguồn...
TIỂU LUẬN Phân tích các loại nguồn của luật tư La Mã và so sánh với các nguồn...NuioKila
 
Nuevo enfoque de aprendizajesemi-supervisado para la identificaciónde secuenci...
Nuevo enfoque de aprendizajesemi-supervisado para la identificaciónde secuenci...Nuevo enfoque de aprendizajesemi-supervisado para la identificaciónde secuenci...
Nuevo enfoque de aprendizajesemi-supervisado para la identificaciónde secuenci...NuioKila
 
Inefficiency in engineering change management in kimberly clark VietNam co., ...
Inefficiency in engineering change management in kimberly clark VietNam co., ...Inefficiency in engineering change management in kimberly clark VietNam co., ...
Inefficiency in engineering change management in kimberly clark VietNam co., ...NuioKila
 
An Investigation into culrural elements via linguistic means in New Headway t...
An Investigation into culrural elements via linguistic means in New Headway t...An Investigation into culrural elements via linguistic means in New Headway t...
An Investigation into culrural elements via linguistic means in New Headway t...NuioKila
 
An evaluation of the translation of the film Rio based on Newmarks model.pdf
An evaluation of the translation of the film Rio based on Newmarks model.pdfAn evaluation of the translation of the film Rio based on Newmarks model.pdf
An evaluation of the translation of the film Rio based on Newmarks model.pdfNuioKila
 
Teachers and students views on grammar presentation in the course book Englis...
Teachers and students views on grammar presentation in the course book Englis...Teachers and students views on grammar presentation in the course book Englis...
Teachers and students views on grammar presentation in the course book Englis...NuioKila
 
11th graders attitudes towards their teachers written feedback.pdf
11th graders attitudes towards their teachers written feedback.pdf11th graders attitudes towards their teachers written feedback.pdf
11th graders attitudes towards their teachers written feedback.pdfNuioKila
 
Phân tích tài chính Công ty Cổ phần VIWACO.pdf
Phân tích tài chính Công ty Cổ phần VIWACO.pdfPhân tích tài chính Công ty Cổ phần VIWACO.pdf
Phân tích tài chính Công ty Cổ phần VIWACO.pdfNuioKila
 
Ngói Champa ở di tích Triền Tranh (Duy Xuyên Quảng Nam).pdf
Ngói Champa ở di tích Triền Tranh (Duy Xuyên Quảng Nam).pdfNgói Champa ở di tích Triền Tranh (Duy Xuyên Quảng Nam).pdf
Ngói Champa ở di tích Triền Tranh (Duy Xuyên Quảng Nam).pdfNuioKila
 
ĐỀ XUẤT CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ VẬN HÀNH LƯỚI ĐIỆN PHÂN PHỐI TÂY NAM ...
ĐỀ XUẤT CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ VẬN HÀNH LƯỚI ĐIỆN PHÂN PHỐI TÂY NAM ...ĐỀ XUẤT CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ VẬN HÀNH LƯỚI ĐIỆN PHÂN PHỐI TÂY NAM ...
ĐỀ XUẤT CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ VẬN HÀNH LƯỚI ĐIỆN PHÂN PHỐI TÂY NAM ...NuioKila
 

More from NuioKila (20)

Pháp luật về Quỹ trợ giúp pháp lý ở Việt Nam.pdf
Pháp luật về Quỹ trợ giúp pháp lý ở Việt Nam.pdfPháp luật về Quỹ trợ giúp pháp lý ở Việt Nam.pdf
Pháp luật về Quỹ trợ giúp pháp lý ở Việt Nam.pdf
 
BÁO CÁO Kết quả tham vấn cộng đồng về tính hợp pháp của gỗ và các sản phẩm gỗ...
BÁO CÁO Kết quả tham vấn cộng đồng về tính hợp pháp của gỗ và các sản phẩm gỗ...BÁO CÁO Kết quả tham vấn cộng đồng về tính hợp pháp của gỗ và các sản phẩm gỗ...
BÁO CÁO Kết quả tham vấn cộng đồng về tính hợp pháp của gỗ và các sản phẩm gỗ...
 
A study on common mistakes committed by Vietnamese learners in pronouncing En...
A study on common mistakes committed by Vietnamese learners in pronouncing En...A study on common mistakes committed by Vietnamese learners in pronouncing En...
A study on common mistakes committed by Vietnamese learners in pronouncing En...
 
[123doc] - thu-nghiem-cai-tien-chi-tieu-du-bao-khong-khi-lanh-cac-thang-cuoi-...
[123doc] - thu-nghiem-cai-tien-chi-tieu-du-bao-khong-khi-lanh-cac-thang-cuoi-...[123doc] - thu-nghiem-cai-tien-chi-tieu-du-bao-khong-khi-lanh-cac-thang-cuoi-...
[123doc] - thu-nghiem-cai-tien-chi-tieu-du-bao-khong-khi-lanh-cac-thang-cuoi-...
 
THỬ NGHIỆM CẢI TIẾN CHỈ TIÊU DỰ BÁO KHÔNG KHÍ LẠNH CÁC THÁNG CUỐI MÙA ĐÔNG BẰ...
THỬ NGHIỆM CẢI TIẾN CHỈ TIÊU DỰ BÁO KHÔNG KHÍ LẠNH CÁC THÁNG CUỐI MÙA ĐÔNG BẰ...THỬ NGHIỆM CẢI TIẾN CHỈ TIÊU DỰ BÁO KHÔNG KHÍ LẠNH CÁC THÁNG CUỐI MÙA ĐÔNG BẰ...
THỬ NGHIỆM CẢI TIẾN CHỈ TIÊU DỰ BÁO KHÔNG KHÍ LẠNH CÁC THÁNG CUỐI MÙA ĐÔNG BẰ...
 
Nhu cầu lập pháp của hành pháp.pdf
Nhu cầu lập pháp của hành pháp.pdfNhu cầu lập pháp của hành pháp.pdf
Nhu cầu lập pháp của hành pháp.pdf
 
KẾ HOẠCH DẠY HỌC CỦA TỔ CHUYÊN MÔN MÔN HỌC SINH HỌC - CÔNG NGHỆ.pdf
KẾ HOẠCH DẠY HỌC CỦA TỔ CHUYÊN MÔN MÔN HỌC SINH HỌC - CÔNG NGHỆ.pdfKẾ HOẠCH DẠY HỌC CỦA TỔ CHUYÊN MÔN MÔN HỌC SINH HỌC - CÔNG NGHỆ.pdf
KẾ HOẠCH DẠY HỌC CỦA TỔ CHUYÊN MÔN MÔN HỌC SINH HỌC - CÔNG NGHỆ.pdf
 
KIẾN TRÚC BIỂU HIỆN TẠI VIỆT NAM.pdf
KIẾN TRÚC BIỂU HIỆN TẠI VIỆT NAM.pdfKIẾN TRÚC BIỂU HIỆN TẠI VIỆT NAM.pdf
KIẾN TRÚC BIỂU HIỆN TẠI VIỆT NAM.pdf
 
QUY HOẠCH PHÁT TRIỂN HỆ THỐNG Y TẾ TỈNH NINH THUẬN.pdf
QUY HOẠCH PHÁT TRIỂN HỆ THỐNG Y TẾ TỈNH NINH THUẬN.pdfQUY HOẠCH PHÁT TRIỂN HỆ THỐNG Y TẾ TỈNH NINH THUẬN.pdf
QUY HOẠCH PHÁT TRIỂN HỆ THỐNG Y TẾ TỈNH NINH THUẬN.pdf
 
NGHIÊN CỨU XÂY DỰNG BỘ TIÊU CHÍ ĐÁNH GIÁ CHẤT LƯỢNG CÁC CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO ...
NGHIÊN CỨU XÂY DỰNG BỘ TIÊU CHÍ ĐÁNH GIÁ CHẤT LƯỢNG CÁC CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO ...NGHIÊN CỨU XÂY DỰNG BỘ TIÊU CHÍ ĐÁNH GIÁ CHẤT LƯỢNG CÁC CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO ...
NGHIÊN CỨU XÂY DỰNG BỘ TIÊU CHÍ ĐÁNH GIÁ CHẤT LƯỢNG CÁC CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO ...
 
TIỂU LUẬN Phân tích các loại nguồn của luật tư La Mã và so sánh với các nguồn...
TIỂU LUẬN Phân tích các loại nguồn của luật tư La Mã và so sánh với các nguồn...TIỂU LUẬN Phân tích các loại nguồn của luật tư La Mã và so sánh với các nguồn...
TIỂU LUẬN Phân tích các loại nguồn của luật tư La Mã và so sánh với các nguồn...
 
Nuevo enfoque de aprendizajesemi-supervisado para la identificaciónde secuenci...
Nuevo enfoque de aprendizajesemi-supervisado para la identificaciónde secuenci...Nuevo enfoque de aprendizajesemi-supervisado para la identificaciónde secuenci...
Nuevo enfoque de aprendizajesemi-supervisado para la identificaciónde secuenci...
 
Inefficiency in engineering change management in kimberly clark VietNam co., ...
Inefficiency in engineering change management in kimberly clark VietNam co., ...Inefficiency in engineering change management in kimberly clark VietNam co., ...
Inefficiency in engineering change management in kimberly clark VietNam co., ...
 
An Investigation into culrural elements via linguistic means in New Headway t...
An Investigation into culrural elements via linguistic means in New Headway t...An Investigation into culrural elements via linguistic means in New Headway t...
An Investigation into culrural elements via linguistic means in New Headway t...
 
An evaluation of the translation of the film Rio based on Newmarks model.pdf
An evaluation of the translation of the film Rio based on Newmarks model.pdfAn evaluation of the translation of the film Rio based on Newmarks model.pdf
An evaluation of the translation of the film Rio based on Newmarks model.pdf
 
Teachers and students views on grammar presentation in the course book Englis...
Teachers and students views on grammar presentation in the course book Englis...Teachers and students views on grammar presentation in the course book Englis...
Teachers and students views on grammar presentation in the course book Englis...
 
11th graders attitudes towards their teachers written feedback.pdf
11th graders attitudes towards their teachers written feedback.pdf11th graders attitudes towards their teachers written feedback.pdf
11th graders attitudes towards their teachers written feedback.pdf
 
Phân tích tài chính Công ty Cổ phần VIWACO.pdf
Phân tích tài chính Công ty Cổ phần VIWACO.pdfPhân tích tài chính Công ty Cổ phần VIWACO.pdf
Phân tích tài chính Công ty Cổ phần VIWACO.pdf
 
Ngói Champa ở di tích Triền Tranh (Duy Xuyên Quảng Nam).pdf
Ngói Champa ở di tích Triền Tranh (Duy Xuyên Quảng Nam).pdfNgói Champa ở di tích Triền Tranh (Duy Xuyên Quảng Nam).pdf
Ngói Champa ở di tích Triền Tranh (Duy Xuyên Quảng Nam).pdf
 
ĐỀ XUẤT CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ VẬN HÀNH LƯỚI ĐIỆN PHÂN PHỐI TÂY NAM ...
ĐỀ XUẤT CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ VẬN HÀNH LƯỚI ĐIỆN PHÂN PHỐI TÂY NAM ...ĐỀ XUẤT CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ VẬN HÀNH LƯỚI ĐIỆN PHÂN PHỐI TÂY NAM ...
ĐỀ XUẤT CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ VẬN HÀNH LƯỚI ĐIỆN PHÂN PHỐI TÂY NAM ...
 

Recently uploaded

SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...Nguyen Thanh Tu Collection
 
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
sách sinh học đại cương   -   Textbook.pdfsách sinh học đại cương   -   Textbook.pdf
sách sinh học đại cương - Textbook.pdfTrnHoa46
 
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfCampbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfTrnHoa46
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdfchuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdfVyTng986513
 
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIGIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIĐiện Lạnh Bách Khoa Hà Nội
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoáCác điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoámyvh40253
 
Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................TrnHoa46
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIĐiện Lạnh Bách Khoa Hà Nội
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfhoangtuansinh1
 
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docxTHAO316680
 
PHÁT TRIỂN DU LỊCH BỀN VỮNG Ở TUYÊN QUANG
PHÁT TRIỂN DU LỊCH BỀN VỮNG Ở TUYÊN QUANGPHÁT TRIỂN DU LỊCH BỀN VỮNG Ở TUYÊN QUANG
PHÁT TRIỂN DU LỊCH BỀN VỮNG Ở TUYÊN QUANGhoinnhgtctat
 

Recently uploaded (20)

SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
 
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
sách sinh học đại cương   -   Textbook.pdfsách sinh học đại cương   -   Textbook.pdf
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
 
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfCampbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdfchuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
 
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
 
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIGIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoáCác điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
 
Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
 
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
 
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
 
PHÁT TRIỂN DU LỊCH BỀN VỮNG Ở TUYÊN QUANG
PHÁT TRIỂN DU LỊCH BỀN VỮNG Ở TUYÊN QUANGPHÁT TRIỂN DU LỊCH BỀN VỮNG Ở TUYÊN QUANG
PHÁT TRIỂN DU LỊCH BỀN VỮNG Ở TUYÊN QUANG
 

NÔNG NGHIỆP TRONG TRANH KHẮC GỖ VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1955-1985.pdf

  • 1. 1 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỸ THUẬT VIỆT NAM ĐỖ THỊ THU THỦY ĐỀ TÀI NễNG NGHIỆP TRONG TRANH KHẮC GỖ VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1955-1985 LUẬN VĂN THẠC SỸ MỸ THUẬT HÀ NỘI – 2017
  • 2. 2 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỸ THUẬT VIỆT NAM ĐỖ THỊ THU THỦY ĐỀ TÀI NễNG NGHIỆP TRONG TRANH KHẮC GỖ VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1955-1985 LUẬN VĂN THẠC SỸ MỸ THUẬT Chuyờn ngành: Mỹ thuật Tạo hỡnh (Hội họa) Mó số: 60 21 01 02 Khúa: 18 (2015-2017) Giảng viên hướng dẫn khoa học: PGS.TS Bựi Thị Thanh Mai
  • 3. 3 HÀ NỘI – 2017 BẢNG CHỮ CÁI VIẾT TẮT BTMT : Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam H : Hỡnh NXB : Nhà xuất bản Tr : Trang XHCN : Xó hội chủ nghĩa
  • 4. 4 MỤC LỤC Trang phụ bìa……………………………………………………………. Bảng chữ cái viết tắt…………………………………………………….. Mục lục………………………………………………………………….. 01 MỞ ĐẦU………………………………………………………………... 03 CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN CHUNG VỀ ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU............... 12 1.1. Khái niệm “đề tài nông nghiệp trong tranh khắc gỗ”……………..... 12 1.2. Khái quát chung về tranh khắc gỗ Việt Nam giai đoạn 1955-1985... 20 Tiểu kết………………………………………………………………….. 26 CHƯƠNG 2: NỘI DUNG VÀ HÌNH THỨC THỂ HIỆN ĐỀ TÀI NÔNG NGHIỆP TRONG TRANH KHẮC GỖ VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1955-1985…………. 28 2.1. Nội dung chủ đề thể hiện đề tài…………………………………….. 28 2.1.1. Chủ đề về cấy cày…………………………………………….. 28 2.1.2. Chủ đề về trồng trọt…………………………………………... 31 2.1.3. Chủ đề về chăn nuôi………………………………………….. 33 2.1.4. Chủ đề về thu hoạch………………………………………….. 35 2.2. Hình thức thể hiện đề tài………………………………………….... 37 2.2.1. Bố cục trong tác phẩm……………………………………….. 38 2.2.2. Đường nét trong tác phẩm…………………………………… 42 2.2.3. Hình thể trong tác phẩm……………………………………… 45 2.2.4. Màu sắc trong tác phẩm………………………………………. 48 Tiểu kết………………………………………………………………….. 53 CHƯƠNG 3: NHỮNG ĐIỀU RÚT RA TỪ VIỆC NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI..... 54 3.1.Thành công và hạn chế đề tài nông nghiệp trong tranh khắc gỗ Việt Nam giai đoạn 1955-1985…………………………………………………….. 54 3.2. Bài học về sự kế thừa và phát huy truyền thống dân tộc…………… 62
  • 5. 5 Tiểu kết………………………………………………………………….. 67 KẾT LUẬN……………………………………………………………………. 69 TÀI LIỆU THAM KHẢO…………………………………………………….. 74 MỤC LỤC PHẦN PHỤ LỤC…………………………………………............ 78 PHẦN PHỤ LỤC………………………………………………………............ 79
  • 6. 6 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Bất kỳ nước nào cũng có bề dày kinh nghiệm và sở trường riêng để gây dựng nền hội họa của mình. Trong thế kỷ thứ 20, các họa sĩ Việt Nam cũng kế thừa cả một truyền thống dân tộc của mình mà trong đó tranh khắc gỗ dân gian là một trong những nguồn cảm xúc quan trọng bậc nhất. Năm 1925, kể từ khi có trường Mỹ thuật Đông Dương, đã đánh dấu sự xuất hiện của tranh khắc gỗ hiện đại. Sau khi Cách mạng tháng Tám thành công, do nhu cầu phổ biến rộng rãi và kịp thời những nét sinh hoạt của xã hội nên tranh khắc gỗ được phát triển nhanh chóng, nội dung phản ánh con người mới, xã hội mới. Hình ảnh Bác Hồ tưới cây, anh tự vệ, cô bộ đội, các dân tộc đoàn kết hăng hái tham gia lao động sản xuất… đều được phản ánh một cách rất tươi tắn, rõ nét, mà trong số đó phải kể đến đề tài nông nghiệp. Giai đoạn 1955-1985 là giai đoạn xuất hiện nhiều tranh khắc gỗ nhất với mảng đề tài nông nghiệp bởi sau năm 1954 đất nước hòa bình thống nhất, nhân dân ta hăng hái lao động sản xuất khôi phục phát triển kinh tế, các họa sĩ Việt Nam đã làm rực rỡ thêm cho nền tranh khắc gỗ nước nhà bằng những tác phẩm có giá trị nghệ thuật cao, với nhiều sắc thái, khía cạnh của cuộc sống. Bằng lòng ham học hỏi và tài năng của mình, các họa sĩ Việt Nam đã được tiếp thu các kỹ thuật diễn tả không gian, nét tinh tế của nghệ thuật đồ họa thế giới góp phần sự đa dạng, phong phú của đồ họa nước nhà. Sự tinh tế, đan xen chất mộc mạc; sự giản lược kết hợp diễn tả khối, không gian trong tranh sinh hoạt đề tài nông nghiệp đã đưa người xem như được bước vào một khung cảnh mới vừa quen vừa lạ mang đầy chất dân tộc mà vẫn hiện đại, đem lại nhiều cảm xúc cho người sáng tác cũng như thưởng thức. Với nhiều nét độc đáo, đề tài nông nghiệp cũng là điểm đáng quan tâm
  • 7. 7 của nhiều nhà nghiên cứu lịch sử, lý luận mỹ thuật; tuy nhiên, nhìn chung tính đến thời điểm hiện tại vẫn chưa có những đề tài hay công trình nghiên cứu mang tính chuyên sâu nào về nông nghiệp, đặc biệt là thể hiện ở tranh khắc gỗ. Bên cạnh đó, nhân dịp có thể hệ thống lại, phân tích và làm rõ sự biểu hiện đề tài nông nghiệp trong tranh khắc gỗ Việt Nam giai đoạn 1955-1985. Xuất phát từ lý do trên, để góp phần vào công việc nghiên cứu nghệ thuật tranh khắc gỗ ở Việt Nam, luận văn tập trung nghiên cứu vấn đề “Đề tài nông nghiệp trong tranh khắc gỗ Việt Nam giai đoạn 1955- 1985”. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Đề tài nông nghiệp là đề tài không còn xa lạ đối với Mỹ thuật tạo hình, bởi nó có tính chất lịch sử và cơ sở tồn tại lâu đời. Cũng như vậy, tranh khắc gỗ Việt Nam trải qua bao biến thiên đến nay dòng tranh vẫn tồn tại và tạo nên những dấu ấn văn hóa thẩm mỹ, cũng như định hình phong cách nghệ thuật không phai mờ. Đề tài nông nghiệp và tranh khắc gỗ Việt Nam có vai trò to lớn trong nghệ thuật nước nhà và được sự quan tâm của các nhà nghiên cứu. Vì vậy cho đến nay có một số công trình đã đề cập đến về sự ra đời, phát triển của dòng tranh cũng như bề dày lịch sử ở những chủ đề, giai đoạn khác nhau; bài viết nhỏ mang tính chất nhận định cá nhân về đề tài trên những trang sách, tạp chí Mỹ thuật, trang báo điện tử, trong khóa luận tốt nghiệp, luận văn thạc sĩ. Dưới đây là một số tài liệu phục vụ cho quá trình nghiên cứu luận văn khi có điều kiện được tiếp cận và được chia thành hai nhóm như sau: *Nhóm tài liệu viết về đề tài nông nghiệp trong Mỹ thuật: Cuốn Nguyễn Văn Chung, Những bài viết về Mỹ thuật [6] của Nguyễn Văn Chung, NXB Mỹ thuật, Hà Nội 2010 là tập hợp những bài viết dưới suy nghĩ cá nhân của riêng tác giả về các vấn đề xung quanh tới Mỹ thuật, trong đó có bài viết “Mỹ thuật phục vụ nông nghiệp và đời sống nông thôn hiện nay”. Về cơ bản bài viết đã đưa ra vai trò của Mỹ thuật trong việc tuyên truyền, cổ động đường lối chính sách của Đảng và nhà nước về vấn đề nông
  • 8. 8 nghiệp, đời sống nông thôn. Cuốn Mỹ thuật đồng bằng sông Hồng của Hội Mỹ thuật Việt Nam do Trần Khánh Chương chủ biên, NXB Mỹ thuật, 2015 là tập hợp những bài tham luận tại Hội thảo Mỹ thuật Đồng bằng sông Hồng lần thứ nhất năm 2014 trong đó có hai bài viết của hai họa sĩ Việt Anh [14; Tr 215-220] và Nguyễn Thái Cơ [14; Tr 253-259] nói đến cái được và mất về đề tài nông nghiệp dưới góc nhìn, đánh giá cá nhân qua các cuộc triển lãm khu vực Đồng bằng sông Hồng những năm gần đây, qua đó đưa ra một số ý kiến khắc phục những hạn chế còn tồn tại. Bài viết rất có ích cho việc nghiên cứu luận văn khi cung cấp cái nhìn khách quan của các nghệ sĩ. Luận văn Hình tượng người nông dân trong hội họa Việt Nam thế kỷ XX- (2012) [23] trường Đại học Mỹ thuật Việt Nam của Nguyễn Chí Nguyện đã nghiên cứu và cho cái nhìn khái quát nhất về hình tượng người nông dân trong hội họa Việt Nam thế kỷ XX trên các chất liệu lụa, sơn dầu, sơn mài… trong đó đã chỉ ra hình tượng người nông dân trong hội họa giai đoạn 1954- 1975 khi xây dựng XHCN ở miền Bắc với lao động tập thể trong phong trào hợp tác xã, làm chủ công việc, làm chủ ruộng đồng… Luận văn cung cấp cái nhìn toàn cảnh về sự thay đổi cũng như phát triển hình tượng người nông dân suốt chặng đường dài xuyên suốt thế kỷ XX. * Nhóm tài liệu viết về tranh khắc gỗ Việt Nam: Cuốn Về tính dân tộc của nghệ thuật tạo hình [34] của Viện Nghệ thuật- Bộ Văn hóa, NXB Văn hóa, Hà Nội 1973 có tập hợp những bài phát biểu của các họa sĩ, nhà điêu khắc, kiến trúc sư, cán bộ lý luận, nhà phê bình Mỹ thuật… về đặc điểm, đặc trưng, tính hiện thực của nghệ thuật tạo hình dân tộc, vấn đề kế thừa, phát huy vốn nghệ thuật của ông cha, vấn đề học tập tinh hoa nghệ thuật nước ngoài… đặc biệt có bài phát biểu của Phạm Văn Đôn với “Tranh khắc gỗ Việt Nam” về tính chất tranh khắc gỗ, tranh khắc gỗ Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử và “Một số đặc điểm dân tộc trong tranh dân
  • 9. 9 gian” của PGS Nguyễn Trân có đề cập đến đặc điểm dân tộc trong nội dung đề tài, nội dung thẩm mỹ; trong công việc thể hiện tranh khắc gỗ dân gian Việt Nam. Cuốn Tranh dân gian Việt Nam [38] Nguyễn Bá Vân và Chu Quang Chứ, NXB Văn hóa, Hà Nội, 1984 viết về nghệ thuật tranh khắc gỗ dân gian Việt Nam với nguồn gốc, sự phát triển, kỹ thuật, nội dung cũng như giá trị nghệ thuật của tranh. Ngoài ra còn xen vào những bài viết nói lên suy nghĩ, nhận định dưới góc nhìn cá nhân tác giả. Cuốn Nghệ thuật Đồ họa [32] của PGS. Nguyễn Trân, NXB Mỹ thuật, Hà Nội, 1995 là tài liệu có tính chất lý luận về nghệ thuật đồ họa, trong đó tác giả phân tích các thể loại đồ họa trên một số quan niệm, kỹ thuật in khắc, mục đích sử dụng, nguồn gốc ra đời, tổng quan về sự phát triển cũng như đặc điểm của tranh đồ họa Việt Nam cùng thế giới, trong đó có nhắc đến tranh khắc gỗ. Tranh khắc gỗ Việt Nam được nhắc đến qua sự xuất hiện, đặc điểm thẩm mỹ, bên cạnh đó đề cập việc tiếp thu truyền thống, sáng tạo cái mới trong đồ họa. Cuốn Đồ họa nghệ thuật tranh in [31] của Hoàng Minh Phúc đã viết rất kỹ về lịch sử giai đoạn của tranh khắc gỗ Việt Nam, cụ thể liệt kê tiến trình cũng như thành tựu của dòng tranh này. Cuốn sách đưa ra những nhận định cá nhân mang lại cho người xem sự hiểu biết đầy thuyết phục dựa trên những cơ sở đáng tin cậy. Đây là một tài liệu quý, cung cấp rất nhiều kiến thức trong quá trình nghiên cứu đề tài. Khóa luận Đề tài sinh hoạt trong tranh khắc gỗ màu Việt Nam [19] trường Đại học Mỹ thuật Việt Nam của Nguyễn Thị Hiền Lương đã chỉ ra vai trò của khắc gỗ là một phần quan trọng trong nền văn hóa của dân tộc, qua đó nghiên cứu về cách nhìn, cách diễn đạt đề tài sinh hoạt của nghệ nhân dân gian xưa và các họa sĩ Việt Nam hiện đại trong nghệ thuật khắc gỗ màu nước nhà. Khóa luận Hiệu quả của nét trong tranh khắc gỗ đen trắng Việt Nam
  • 10. 10 hiện đại [33] trường Đại học Mỹ thuật Việt Nam của Xa Thị Minh Thúy đã chỉ ra cách diễn đạt nét của các họa sĩ Việt Nam hiện đại trong nghệ thuật khắc gỗ đen trắng. Qua đó thấy được hiệu quả biểu đạt của đường nét. Khóa luận Tính hiện thực trong tranh khắc gỗ hiện đại Việt Nam [8] trường Đại học Mỹ thuật Việt Nam của Vũ Ngọc Đăng đã chỉ ra những thành công trong tranh khắc gỗ hiện đại Việt Nam khi kết hợp hài hòa tính dân tộc và hiện đại, phương Đông và phương Tây qua luật phối cảnh xa gần, về mặt kỹ thuật, và ý thức hướng về dân tộc, tìm tòi cái mới từ những gì mới mẻ tiếp thu. Khóa luận Tranh khắc gỗ hiện đại Việt Nam- (2007) [20] trường Đại học Mỹ thuật Việt Nam của Hoàng Kiều Linh đã chỉ ra những thành công của tranh khắc gỗ hiện đại Việt Nam khi kết hợp hài hòa tính dân tộc và hiện đại về nội dung cũng như kỹ thuật thể hiện từ khi tranh khắc gỗ hiện đại ra đời sau năm 1925 có trường Mỹ thuật Đông Dương. Khóa luận Chất cảm trong tranh khắc gỗ Việt Nam hiện đại - (2008), [7] trường Đại học Mỹ thuật Việt Nam của Đỗ Văn Duẩn đã chỉ ra đặc trưng của chất cảm trong tranh khắc gỗ Việt Nam hiện đại (khả năng tả chất, diễn chất, tạo chất), chất cảm trong việc khai thác đề tài và phong cách thể hiện của một số họa sĩ. Luận văn Tranh khắc gỗ màu hiện đại Việt Nam giai đoạn 1954-1975- (2016) [10], trường Đại học Mỹ thuật Việt Nam của Dương Thị Hòa đã chỉ ra những đặc điểm trong tác phẩm tranh khắc gỗ màu giai đoạn 1954-1975. Đây là giai đoạn các họa sĩ Việt Nam đã trải qua quá trình học tập trong trường Mỹ thuật Đông Dương nên đã hoàn thiện về mặt kỹ năng sáng tác, bắt kịp sự thay đổi của xã hội, từ đó tạo ra sự chuyển biến về ngôn ngữ tạo hình cũng như chủ đề sáng tác. Bài viết Tranh khắc gỗ Việt Nam với những phát triển mới từ năm 1986 đến nay- Tạp chí Nghiên cứu Mỹ thuật số 3 (47), T9/2013, [12], trường Đại
  • 11. 11 học Mỹ thuật Việt Nam, Viện Mỹ thuật của Trương Nguyễn Nguyên Kha đã đề cập vấn đề tranh khắc gỗ nước ta đã có những bước chuyển mình quan trọng, tạo ra sức sống mới về nội dung chủ đề, kỹ thuật chế bản và in ấn, những nét mới về ngôn ngữ và hình thức nghệ thuật. Bài viết “Trần Nguyên Đán, nét khắc ký ức và hiện tại”- tạp chí Nghiên cứu Mỹ thuật số 1, T4/2014, [21] Trường Đại học Mỹ thuật Việt Nam, Viện Mỹ thuật của Nguyễn Loan đề cập đến những thành tựu mà họa sĩ đã đạt được về nội dung cũng như kỹ thuật khắc gỗ khi tiếp nhận những kỹ năng truyền thống để tạo ra phong cách riêng gây ấn tượng khó quên. Bài viết “Tranh khắc gỗ mới- phương tiện mở rộng thực hành nghệ thuật đương đại”- Tạp chí Mỹ thuật số 227, 2011 [29], Hội Mỹ thuật Việt Nam của họa sĩ Nguyễn Nghĩa Phương đã đề cập đến vấn đề sự phát triển của tranh khắc gỗ theo xu hướng mới về bút pháp, sự thay đổi sâu sắc về thẩm mỹ, sự mở rộng về phương tiện, chất liệu, kỹ thuật chế bản và in ấn… Ngoài ra còn rất nhiều những bài viết hay về đề tài nông nghiệp trong Mỹ thuật cũng như tranh khắc gỗ Việt Nam ở các tạp chí Mỹ thuật, hay các trang Blog Mỹ thuật và các sách giới thiệu tranh của các tác giả đồ họa. Tuy nhiên tất cả đều không đề cập một cách cụ thể về đề tài nông nghiệp trong tranh khắc gỗ Việt Nam. Tình hình đó đòi hỏi cần có một công trình nghiên cứu riêng tập trung vào vấn đề những biểu hiện của đề tài nông nghiệp trong tranh khắc gỗ Việt Nam ở cả nội dung và hình thức mà giai đoạn 1955-1985 là tiêu biểu. Luận văn là một sự cố gắng, một biểu hiện cụ thể nhằm đáp ứng yêu cầu chung đó. 3. Mục đích của luận văn - Hiệu quả tranh khắc gỗ Việt Nam giai đoạn 1955-1985 về đề tài nông nghiệp. - Tìm hiểu phong cách các họa sĩ Việt Nam qua kỹ thuật thể hiện đề tài nông nghiệp trong tranh khắc gỗ.
  • 12. 12 - Nghiên cứu đánh giá, xác định những điểm nổi bật trong các tác phẩm khắc gỗ của họa sĩ Việt Nam phản ánh hoạt động nông nghiệp nước nhà. - Những bài học rút ra trong sáng tác qua việc tìm hiểu ngôn ngữ tạo hình tranh khắc gỗ. Qua đó đề tài nông nghiệp trong tranh khắc gỗ Việt Nam giai đoạn 1955-1985 góp một phần nhỏ trong nghệ thuật đồ họa tranh in, nền mỹ thuật Việt Nam làm cơ sở dữ liệu khoa học để phục vụ sáng tác, nghiên cứu khoa học và đào tạo. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Nghiên cứu đề tài nông nghiệp trong tranh khắc gỗ Việt Nam giai đoạn 1955-1985. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Phạm vi nghiên cứu đề tài là các tác phẩm khắc gỗ Việt Nam giai đoạn 1955-1985 vẽ về đề tài nông nghiệp. 5. Phương pháp nghiên cứu - Phương pháp thu thập thông tin: Xác định đây là phương pháp quan trọng cho bước đầu nghiên cứu: đi tìm, thu thập những nguồn tài liệu có liên quan để phục vụ cho đề tài. Trong quá trình thu thập tài liệu có sự kết hợp giữa phương pháp khảo sát (tiến hành khảo sát các tác phẩm tại Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam), và phương pháp phỏng vấn (gặp gỡ nói chuyện với các họa sĩ liên quan để lấy thông tin) vấn đề đề tài nông nghiệp cũng như tranh khắc gỗ. Phương pháp thu thập thông tin có tốt thì vấn đề mà luận văn đặt ra nghiên cứu càng được sáng tỏ. - Phương pháp thống kê tài liệu: Sau khi thu thập nhiều nguồn thông tin, thống kê lại, lập hệ thống tư liệu những nguồn tài liệu hiện có (tranh ảnh, bài viết, ghi âm phỏng vấn…) để chọn lọc ra những tư liệu chuẩn xác nhất, giàu sức thuyết phục phục vụ, giúp ích cho công việc nghiên cứu đề tài nông nghiệp trong tranh khắc gỗ.
  • 13. 13 - Phương pháp phân tích: Đây là phương pháp quan trọng nhất trong việc phân tích tác phẩm tranh khắc gỗ Việt Nam đề tài nông nghiệp về nội dung cũng như hình thức; trên cơ sở đó tìm ra yếu tố đặc sắc, nét đặc trưng và giá trị nghệ thuật của tranh thể hiện qua ngôn ngữ biểu đạt, phút pháp thể hiện, kỹ thuật,... - Phương pháp diễn dịch: Luận văn sử dụng phương pháp diễn dịch để trình bày và làm rõ các vấn đề đặt ra như khái niệm về đề tài nông nghiệp, tranh khắc gỗ; đến nội dung và hình thức thể hiện đề tài. - Phương pháp tổng hợp, đánh giá: Tổng hợp dữ liệu văn bản và các vấn đề liên quan đến luận văn, tổng hợp các kiến thức chung về đề tài nông nghiệp và tranh khắc gỗ Việt Nam ở trước, trong và sau giai đoạn 1955-1985, đồng thời so sánh đối chiếu những thông tin thu nhận được với nhau nhằm đảm bảo tính khách quan và chính xác cho luận văn. - Phương pháp lịch sử: Phương pháp giúp tìm hiểu xã hội nói chung và hội họa Việt Nam trong đó nói riêng, từ đó hiểu được sự ảnh hưởng, tác động của bối cảnh lịch sử tới quan niệm sáng tác của các họa sĩ sáng tác trước, trong và sau giai đoạn 1955- 1985. 6. Đóng góp của luận văn Về lý luận: Luận văn góp phần nghiên cứu về ngôn ngữ tạo hình trong tranh khắc gỗ Việt Nam sáng tác về đề tài nông nghiệp giai đoạn 1955-1985. Tìm hiểu và cung cấp đầy đủ về nội dung, hình thức biểu đạt cũng như kiến thức và kinh nghiệm để tiếp cận với nghệ thuật tranh khắc gỗ Việt Nam ở đề tài nông nghiệp, góp phần giữ gìn và phát triển dòng tranh đang bị mai một này.
  • 14. 14 Về thực tiễn: Sau khi hoàn thành luận văn, giúp bổ sung một phần nhỏ vào kho tàng nghiên cứu lý luận. Làm tài liệu tham khảo cho các học viên, sinh viên quan tâm đến tranh khắc gỗ Việt Nam ở mảng đề tài nông nghiệp. Giúp người đọc nhìn nhận được vẻ đẹp cũng như ý nghĩa của tranh khắc gỗ Việt Nam. Từ đó biết quý trọng chất liệu tranh này cũng như bảo tồn và phát huy dòng tranh đó. 7. Kết cấu của luận văn Luận văn bao gồm phần mở đầu (09 trang), nội dung (58 trang), kết luận (02 trang). Phần nội dung của đề tài gồm 3 chương: Chương 1: Tổng quan chung về đề tài nghiên cứu. (16 trang) Chương 2: Nội dung và hình thức thể hiện đề tài nông nghiệp trong tranh khắc gỗ Việt Nam giai đoạn 1955-1985. (26 trang) Chương 3: Những điều rút ra từ việc nghiên cứu đề tài. (16 trang) Ngoài ra luận văn còn có tài liệu tham khảo (03 trang), phụ lục minh họa (31 trang)
  • 15. 15 CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN CHUNG VỀ ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU 1.1. Khái niệm “Đề tài nông nghiệp trong tranh khắc gỗ” Khái niệm Đề tài nông nghiệp Khái niệm Nông nghiệp Nông nghiệp là một ngành kinh tế quan trọng trong nền kinh tế mỗi quốc gia, đặc biệt là trong những thế kỷ trước đây khi công nghiệp chưa phát triển và nông nghiệp chiếm tỉ trọng cao trong nền kinh tế. Việt Nam là một nước chuyên về nông nghiệp với 95% dân số sống về đồng ruộng, bởi vậy việc tìm hiểu thế nào là nông nghiệp cũng như giá trị của ngành nghề cần được nắm rõ hơn bao giờ hết. Theo thời gian, nông nghiệp ngày càng phát triển đa dạng với nhiều hình thức thể hiện phong phú. Từ xưa đến nay có khá nhiều khái niệm ở mức độ phạm vi rộng, hẹp khác nhau tùy thuộc vào sự hiểu biết của mỗi cá nhân và dưới đây là vài ví dụ ở một số cuốn từ điển có định nghĩa về “Nông nghiệp”: Cuốn Từ điển Tiếng Việt do Văn Tân chủ biên định nghĩa “Nông nghiệp” là ngành kinh tế quốc dân chuyên trồng trọt và cày cấy thực phẩm cho nhân dân và nguyên liệu cho công nghiệp.” [31, tr 605]. Cuốn Đại từ điển Tiếng Việt do Nguyễn Như Ý chủ biên của Bộ Giáo dục và đào tạo có định nghĩa “Nông nghiệp” như sau: “Ngành sản xuất chủ yếu của xã hội có nhiệm vụ cung cấp sản phẩm trồng trọt và chăn nuôi: phát triển nông nghiệp, mặt trận nông nghiệp.” [39, tr 1283]. Bên cạnh đó, từ điển còn phân chia rõ ràng cụ thể hơn với các khái niệm xung quanh như “nông nghiệp cổ truyền”, “nông nghiệp công nghiệp hóa”, “nông nghiệp nguyên thủy”, “nông nghiệp sinh học”, “nông nghiệp sinh thái học”, “nông nghiệp 8”. Cuốn Từ điển Tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên đã định nghĩa: “Nông
  • 16. 16 nghiệp là ngành sản xuất vật chất cơ bản của xã hội, cung cấp sản phẩm trồng trọt và chăn nuôi”. [26, tr 768]. Từ những khái niệm trên, có thể thấy tuy nhận định về “Nông nghiệp” là dài, ngắn khác nhau (đáng chú ý có cuốn “Đại từ điển Tiếng Việt” của Nguyễn Như Ý có phân tích sâu, làm sáng rõ những khái niệm nhỏ hơn thuộc về nông nghiệp) nhưng tổng quan vẫn có những ý kiến trùng khớp và gộp lại, ta được mẫu số chung: Nông nghiệp là một ngành sản xuất lớn chủ yếu của xã hội có nhiệm vụ sử dụng đất đai để trồng trọt, cấy cày và chăn nuôi, khai thác cây trồng và vật nuôi làm tư liệu và nguyên liệu lao động chính để tạo ra lương thực thực phẩm và một số nguyên liệu cho công nghiệp. Khái niệm Đề tài Theo cuốn Từ điển Tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên định nghĩa đề tài là: “Đối tượng để nghiên cứu hoặc miêu tả, thể hiện trong tác phẩm khoa học hoặc văn học, nghệ thuật.” [26, tr 330]. Cuốn Từ điển Tiếng Việt do Văn Tân chủ biên định nghĩa đề tài là: “Phạm vi vấn đề mà nghệ sĩ hoặc nhà khoa học nhằm nghiên cứu, giải quyết hay thể hiện: Đời sống công, nông binh là một đề tài phong phú cho nhà tiểu thuyết; Đề tài nghiên cứu vật lý hạt nhân.” [31, tr 289]. Theo Từ điển thuật ngữ Mỹ thuật phổ thông, đề tài được giải thích là: “Những lý do, những vấn đề được gợi ý hoặc được nghĩ ra bởi một người hay một nhóm người để tập trung xoay quanh vào đó nghiên cứu, thể hiện, diễn đạt bằng một hình thức riêng với những hình tượng cô đọng, điển hình. Ví dụ: đề tài về lực lượng vũ trang, đề tài chiến tranh, đề tài về thiếu nhi, đề tài về xây dựng… Nghệ thuật tạo hình thế giới qua các thời kỳ đều thể hiện những đề tài nổi bật, phổ biến. Ví dụ thời kỳ lãng mạn, đề tài là thiên nhiên, con người và tình yêu; thời kỳ hiện thực, đề tài là thiên nhiên, quê hương, đất nước, con người trong lao động, trong chiến đấu, trong sinh hoạt bình thường với những tình cảm đa dạng phong phú… Kể từ khi hình thành chủ nghĩa Ấn
  • 17. 17 tượng, với sự ra đời của trường phái mới, nhất là những trường phái mang tính hình thức, trừu tượng thì đề tài không quan trọng và không có tính chất quyết định nữa mà tên tranh chỉ gợi một sự chú ý, liên tưởng xa xôi, thậm chí có khi tùy tiện. Có những bức tranh tùy hứng, vẽ theo sự thích thú ngẫu nhiên của tác giả, không định thể hiện một ý đồ, một chủ đề nào cả, được đặt tên là “vô đề”, tức là tranh không có đề tài. Nói chung, đề tài dành cho nghệ sĩ rất rộng rãi, phong phú. Những người đã nung nấu nhiều về một đề tài thường có nhiều cảm xúc, nhiều tư liệu nghiên cứu, tìm tòi, hư cấu sâu vào đề tài đó. Nhờ đó họ sẽ tạo ra những tác phẩm có chất lượng. Đề tài rộng hơn chủ đề. Chủ đề được diễn đạt bằng hình tượng cụ thể hơn. Ví dụ: đề tài là phụ nữ, còn chủ đề có thể là phụ nữ đi cấy, phụ nữ làm văn nghệ, phụ nữ tập quân sự,…” [25, tr 62-63]. Cuốn Từ điển Bách khoa Việt Nam 1 do Hội đồng quốc gia chỉ đạo biên soạn từ điển có khái niệm rất đầy đủ: “Đề tài (văn, nghệ thuật, khoa học), đối tượng để miêu tả, biểu hiện, nghiên cứu, chuyện trò. Trong văn học, nghệ thuật, đề tài là những hiện tượng xã hội được nhà văn, người nghệ sĩ khai thác một cách nhất quán theo ý định tư tưởng - nghệ thuật của mình. Đề tài được nhận thức và khai thác theo những quan điểm khác nhau, tùy thuộc vào thế giới quan, lập trường tư tưởng, thái độ của văn nghệ sĩ. Bản thân đề tài không trực tiếp mang tính tư tưởng, nhưng đề tài là điểm xuất phát để văn nghệ sĩ bộc lộ quan điểm, tư tưởng của mình qua chủ đề, cốt truyện và nhân vật. Ví dụ: đề tài nông nghiệp, đề tài chiến tranh, đề tài tình yêu,… hoặc cụ thể hơn đề tài về đổi mới trong giáo dục lối sống, phê phán tệ nạn xã hội. Trong khoa học, việc chọn đề tài có một tầm quan trọng đặc biệt. Đề tài phải đáp ứng yêu cầu của khoa học, của thời đại, phục vụ sản xuất, và đời sống con người, phải thiết thực và ý nghĩa đối với thực tiễn cuộc sống.” [30, tr 771]. Như vậy, có thể nói có nhiều sự giải thích về đề tài ở những cấp độ nông, sâu khác nhau, tuy vậy thì các định nghĩa đa dạng trên ít nhiều đã góp phần
  • 18. 18 làm sáng rõ khái niệm đề tài trên mọi góc nhìn. Có thể thấy khi so các định nghĩa với nhau, cách giải thích của Từ điển Bách khoa Việt Nam 1 mang tính khái quát, khá đầy đủ; còn Từ điển Mỹ thuật phổ thông đã dùng từ ngữ chuyên ngành Mỹ thuật để giải thích sâu và sát hơn về “Đề tài”; cụ thể đã chỉ ra sự thay đổi quan niệm về đề tài theo từng giai đoạn qua cách thức thể hiện, diễn đạt bằng mỗi hình thức riêng. (Nhất là với những trường phái mang tính hình thức, trừu tượng thì đề tài không còn quan trọng). Ngoài ra để rõ hơn, tác giả còn đề cập mức độ rộng lớn hơn của đề tài so với chủ đề. Đề tài là những lý do, những vấn đề được gợi ý hoặc được nghĩ ra bởi một người hay một nhóm người để tập trung xoay quanh vào đó nghiên cứu, thể hiện, diễn đạt bằng một hình thức riêng với những hình tượng cô đọng, điển hình theo ý định tư tưởng - nghệ thuật. Đề tài trong nghệ thuật nói chung hay Mỹ thuật nói riêng tức là nói đến đối tượng, đến nội dung mà người nghệ sĩ muốn nhắc đến. Đề tài dành cho nghệ sĩ rất rộng rãi, phong phú. Đề tài dựa trên thực tế, là cái mà họa sĩ nhìn thấy để qua đó gửi gắm, phản ánh tâm tư tình cảm và cái nhìn cá nhân bản thân vào trong tác phẩm trước sự vật hiện tượng. Tác phẩm đẹp phải chuyển tải được nội dung, tư tưởng chủ đề một cách thật tốt đề tài và phải có ngôn ngữ nghệ thuật hoàn mỹ, mang dấu ấn riêng trong tác phẩm. Từ hai khái niệm “Đề tài” và “Nông nghiệp” được làm rõ ở trên, có khái niệm về Đề tài nông nghiệp như sau: Đề tài nông nghiệp là lý do, là vấn đề được gợi ý hoặc được nghĩ ra bởi một nghệ sĩ hay một nhóm nghệ sĩ để tập trung nghiên cứu, thể hiện, diễn đạt bằng một hình thức riêng với những hình tượng nghệ thuật cô đọng, điển hình theo ý định tư tưởng- nghệ thuật, phản ánh về ngành sản xuất chủ yếu của xã hội có nhiệm vụ cung cấp sản phẩm chuyên trồng trọt, chăn nuôi và cày cấy thực phẩm cho nhân dân. Khái niệm tranh khắc gỗ Tranh khắc gỗ là phương pháp in lâu đời nhất trong nghệ thuật tranh in
  • 19. 19 đồ họa, sử dụng chế bản in gỗ và thuộc phương pháp in nổi. “Tranh in ra từ các ván gỗ đã được khắc theo kỹ thuật in nổi.” [22, tr 63]. Tranh khắc gỗ cho phép in ấn văn bản, hình ảnh hoặc những mẫu có sẵn, được sử dụng rộng rãi ở trên toàn khu vực Đông Á. Loại tranh này có nguồn gốc ở Trung Quốc thời cổ đại và cho đến nay, bản tranh khắc gỗ sớm nhất được tìm thấy ở đây có niên đại năm 868, mặc dù thực tế nghề khắc gỗ in sách đã hình thành ở nước này từ thế kỷ thứ 6. Trong thời nhà Đường (618 - 907) tranh vẽ và chữ kèm theo (trên cùng một bản in) đã được in ra bằng các bản in gỗ, sách in bằng bản khắc gỗ, trong khi loại này ở châu Âu mãi đến thế kỷ 12 mới xuất hiện. Tại châu Âu, việc sử dụng con dấu bằng gỗ đã được chứng minh ở Ý khi vải được in bằng cách này. Tại Nhật Bản, khắc gỗ phát triển như một hình thức nghệ thuật bắt đầu từ khi kỹ thuật này được lan truyền từ Trung Quốc ở cuối thế kỷ thứ 8. Khắc gỗ tại Nhật Bản cực thịnh trong khoảng thời gian từ thế kỷ 17 đến thế kỷ 19 đã chinh phục cả thế giới và đi vào lịch sử mỹ thuật nhân loại như một gợi mở vô giá cho những ý tưởng nghệ thuật thời hiện đại. Vào thế kỷ 11, người Việt đã in kinh Phật từ bản khắc gỗ. Năm 1936, những đồng tiền giấy đầu tiên được sản xuất bằng kỹ thuật khắc in gỗ và lưu thông dưới triều đại nhà Trần. Các dòng tranh dân gian nổi tiếng của Việt Nam được phát triển trên kỹ thuật khắc in gỗ từ thế kỷ 16, 17. Ở Việt Nam ván in được làm từ nhiều loại gỗ như gỗ thị, gỗ mít hay gỗ vàng tâm do gỗ mềm dễ khắc và có độ dẻo cao, phổ biến hiện nay còn sử dụng ván ép gỗ công nghiệp. Gần như tất cả các loại gỗ thông dụng đều có thể chế tạo chế bản khắc gỗ (một trong số ít loại gỗ không thích hợp là gỗ thông vì gỗ này nhiều mấu và nhựa). Một số công nghệ hiện đại như máy phay, máy cưa, khắc laser,… ngày nay cũng được áp dụng để chế bản khắc gỗ. Bề mặt gỗ phải được mài phẳng và làm nhẵn hoàn toàn. Để tạo một bản in gỗ người ta dùng dao khắc những phần không in ra khỏi bề mặt gỗ đã được bào nhẵn. Hay nói cách khác các thành phần không in trên tranh (mảng trắng) được
  • 20. 20 khắc bỏ khỏi bề mặt của khối gỗ, phần được in (mảng đen) là phần ở lại. Một bộ dao khắc cung cấp các đầu dao khắc khác nhau, gồm: - Dao mỏng dùng để khắc các đường viền. - Dao trổ dùng để tạo rãnh chữ V. - Dao khắc dùng để khắc các đường thẳng và đường song song. - Cây đục bán nguyệt để cắt bỏ đi những phần lớn không phải in. Trong cuốn Về tính dân tộc của nghệ thuật tạo hình, có đoạn viết của họa sĩ Phạm Văn Đôn nhận định về kỹ thuật khắc và in tranh khắc gỗ của các họa sĩ sáng tác hiện nay như sau: “Khác với cha ông xưa, khắc bằng đục trên gỗ mít hay gỗ thị vì cần nét sâu và bền để in nhiều, giữ bản gỗ được lâu. Các họa sĩ ngày nay thường dùng gỗ “Thừng mực” gỗ này mượt thớ vừa mềm vừa dẻo dễ khắc vì cách khắc ngày nay vừa dùng dao, dùng đục, đồng thời phối hợp nhiều cách dùng đục dũi lòng máng hay chữ V tạo điều kiện cho người khắc biểu hiện trung thành được nét vẽ và diễn tả chất một cách phong phú. Dao và đục đánh bằng thép tốt, lưỡi dao hình vát mũi nhọn. Khi khắc tay phải cầm dao cắm vào cạnh nét vẽ hay mảng hình, hơi chênh chiều sâu ra ngoài vì khắc thẳng thành hay gãy nét. Tay trái lấy ngón cái đẩy vào sống dao, tay phải điều khiển độ sâu và đường lượn của mũi dao theo hình vẽ. Khắc thành rãnh hai bên nét hoặc mảng hình sau đó lấy đục lòng máng và đục thẳng đục nhiều hết nền gỗ để khi in khỏi bị dính màu bản trên tranh.” [34, tr 86 - 87]. Tùy theo kỹ thuật sử dụng dao khắc sáng tạo của nghệ sĩ, những nét khắc hay bề mặt khắc đẹp chính là đặc trưng của tranh khắc gỗ. Sau khi đã khắc xong chế bản in, mực in được phủ đều lên con lăn. Tranh in (giấy có khả năng hút nước) được in bằng cách ép lên bản gỗ. Lực ép cần phải phân bổ đều trên mặt giấy bằng cách xoa đều bằng tay hay đi qua máy ép và: “Khi in phải đặt giấy đúng cỡ đã thống nhất giữa các bản màu và bản nét
  • 21. 21 đen để khỏi lệch. Thông thường in bằng bột màu, thuốc nước, mực in. Tùy mỗi hòa sắc và phong cách của tác giả có thể in mỏng, in dày nhiều lần, có vờn hoặc có biến chuyển đậm nhạt. Những chỗ cần rắn rỏi, sắc cạnh thường in giấy khô, khi cần màu sắc mềm mại giấy cần phun ẩm trước khi in. In cách này thường để ngửa bản gỗ, áp giấy lên trên và soa bằng sơ mướp hoặc bằng tay để có thể điều khiển chỗ cho ăn màu nhiều hay ít tùy theo phác thảo.” [34, tr 87]. Ngày nay, loại gỗ nhân tạo như ván ép, các tông, mica, thạch cao… được họa sĩ sử dụng để có tranh kích thước lớn và in trên nhiều chất liệu vải, toan, lụa… với việc phối hợp nhiều kỹ thuật in cả thủ công và máy. Tranh khắc gỗ gồm hai loại: tranh khắc gỗ đen trắng và tranh khắc gỗ màu. Tranh khắc gỗ đen trắng còn được gọi là tranh khắc gỗ đơn sắc. Trên một ván gỗ sau khi người nghệ sĩ thể hiện hoàn chỉnh chủ đề cần biểu hiện bằng cách khắc những phần hình tượng cần khắc họa, sau đó dùng mực đen hoặc màu đơn sắc in tranh lên trên giấy. (Có thể là giấy trắng, giấy dó, giấy điệp hoặc giấy màu). Kỹ thuật khắc vẫn là tấm gỗ được bào nhẵn sau đó vẽ ngược (can, dập lại bản vẽ mẫu) tranh mẫu rồi dùng dao, đục khắc lõm xuống tạo nét và mảng. Có họa sĩ tạo các rãnh lõm nông sâu, dày thưa… rồi chỉ in sắc đậm với một màu đen hay nâu. Tranh khắc gỗ màu vẫn dựa trên những bước khắc cơ bản của tranh khắc gỗ nói chung, là phương pháp sử dụng một ván in nét và một hoặc nhiều ván in màu. Ván in màu sẽ được in trước sau đó in nét đen để định hình, giống cách in của tranh Đông Hồ. Hoặc cũng sử dụng một ván in nét nhưng không sử dụng ván để in màu mà tô màu, bằng cách làm này giống như tranh Hàng Trống. Có họa sĩ thì khắc nhiều bản theo thứ tự màu nhạt in trước màu đậm thường là màu đen in sau. “Nếu tranh nhiều màu thì phải khắc nhiều bản. Nếu in bằng tay thì có thể một bản khắc một số màu miễn là hình của các màu đó không dính liền nhau.” [34, tr 87]. Tranh khắc gỗ hiện đại Việt Nam như cây cầu bắc từ quá khứ đến hiện
  • 22. 22 tại, đồng thời đang được nối nhịp để vươn tới tương lai. Tranh khắc gỗ chính là loại hình nghệ thuật, cũng là phương tiện có đầy đủ khả năng thể hiện cảm thức và mỹ cảm đương đại. Chính vì vậy, ở dòng tranh này, các họa sĩ đã chọn cho mình đề tài nông nghiệp để thể hiện mang đầy dấu ấn lịch sử nền văn minh nước nhà. Nông nghiệp nói riêng, nông thôn nói chung luôn là đề tài gợi cảm hứng sáng tác bất tận cho giới văn nghệ sĩ. Khái niệm Đề tài nông nghiệp trong tranh khắc gỗ trong luận văn này được hiểu: đề tài nông nghiệp là đề tài được các họa sĩ lựa chọn để thể hiện những tác phẩm của mình bằng cách khắc trên gỗ, hay nói cách khác tranh khắc gỗ là dòng tranh được các họa sĩ Việt Nam lựa chọn để thể hiện đề tài nông nghiệp. Những tác phẩm khắc gỗ được các họa sĩ Việt Nam sáng tác về đề tài nông nghiệp giai đoạn 1955-1985. Quay ngược lịch sử khởi điểm đánh dấu sự xuất hiện của nền nông nghiệp, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác định: “Việt Nam là một nước chuyên về nông nghiệp, 95% dân số Việt Nam sống về đồng ruộng” và ngay sau khi nước nhà giành được độc lập, tại phiên họp của Hội đồng Chính phủ ngày 14/11/1945, Người đã ký Sắc lệnh thành lập Bộ Canh nông có nhiệm vụ chăm lo chỉ đạo phát triển nền Nông nghiệp nước nhà. Trong các cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc chống giặc xâm lược (1945-1975), nông nghiệp, nông dân, đã hoàn thành vẻ vang sứ mệnh của "hậu phương lớn đối với tiền tuyến lớn". Lời dạy của Bác: "Ruộng rẫy là chiến trường, quốc cày là vũ khí, nhà nông là chiến sỹ, hậu phương thi đua với tiền phương" cùng với những phong trào tiêu biểu như "hũ gạo nuôi quân"; "thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người"... đã góp phần vô cùng quan trọng vào thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, giành lại hoà bình, thống nhất đất nước. Trong những năm tháng khó khăn của thời kỳ khôi phục đất nước sau chiến tranh (1975- 1985), dưới sự lãnh đạo của Đảng, nông dân đã phấn đấu
  • 23. 23 vượt qua khó khăn đi tiên phong trong công cuộc Đổi mới của đất nước. Những năm tháng đó, nông nghiệp đã vượt lên những trì trệ kéo dài trong sản xuất, tìm hướng đi mới và đã đạt được bước tăng trưởng vượt bậc, đặc biệt là về sản xuất lương thực, góp phần quan trọng ổn định đời sống, kinh tế của cả nước. Nhiều sản phẩm tăng hơn 2-3 lần so với thời kỳ trước đó, tạo tiền đề cho nông nghiệp nước ta chuyển sang thời kỳ mới – thời kỳ Đổi mới. 1.2.Khái quát chung về tranh khắc gỗ Việt Nam giai đoạn 1955-1985 Theo cuốn Đồ họa in khắc gỗ hiện đại Việt Nam của Hoàng Minh Phúc có nhận xét về tranh khắc gỗ thời kháng chiến chống Mỹ và xây dựng XHCN 1954- 1975 như sau: “Từ năm 1955-1975, như tất cả các tài liệu nghiên cứu xã hội và văn hóa đã khái quát được coi đây là giai đoạn xây dựng XHCN ở miền Bắc, và kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Cuộc chiến tranh chống Mỹ không chỉ dừng lại ở miền Nam mà còn lan ra miền Bắc năm 1965, được gọi là Chiến tranh phá hoại. Thời gian này được coi là giai đoạn khó khăn nhất của Việt Nam khi chiến tranh ở cả hai miền kéo dài đến 20 năm; kinh tế, các hoạt động xã hội không mấy có cơ hội phát triển và sự phân cách hai miền cũng tạo ra đặc điểm văn hóa nghệ thuật khác nhau.” [28, tr 162]. Theo tìm hiểu tài liệu về tranh in khắc gỗ, tranh khắc gỗ miền Nam giai đoạn này hầu như không xác định được (có thể lý do miền Nam đang giai đoạn kháng chiến nên ký họa hay khái niệm trực họa - vẽ trực tiếp tại trực địa tỏ ra chiếm ưu thế hơn cả), cho nên việc nghiên cứu tranh in khắc gỗ giai đoạn này chủ yếu dựa trên các tư liệu của họa sĩ miền Bắc. Bên cạnh đó, trường Mỹ thuật Đông Dương khi ấy thành lập với tư cách là một trung tâm đào tạo cán bộ Mỹ thuật duy nhất của miền Bắc bởi vậy nơi đây hội tụ những họa sĩ anh tài, tên tuổi có tiếng nhất quốc gia thời bấy giờ. Trong bối cảnh tình hình chiến tranh và định hướng chính trị chung của cả nước, các nghệ sĩ có nhiệm vụ rõ ràng là phản ánh cuộc sống lao động và
  • 24. 24 chiến đấu của nhân dân, để thúc đẩy niềm tin vào tương lai, các cuộc triển lãm Mỹ thuật toàn quốc ra đời tổ chức đều đặn năm năm một lần. Tranh khắc gỗ vẫn được các họa sĩ lựa chọn thể hiện bởi nó phù hợp với hoàn cảnh chiến tranh, gọn nhẹ và dễ kiếm vật liệu. Hơn nữa, có thể tiến hành làm mọi lúc mọi nơi, sáng tác lúc nào cũng được, dù trong những giờ nghỉ giải lao của một cuộc hành quân hay di chuyển đến địa điểm mới đều có thể bắt tay vào làm. Dần dần, nó đi sâu vào đời sống sinh hoạt, những lề lối thường ngày quen thuộc để trở thành công việc sáng tác hết sức nghiêm túc. “Trong những năm kháng chiến chống Mỹ, các chất liệu về sơn mài, sơn dầu, lụa có phần khan hiếm, hình thức khắc gỗ càng được các họa sĩ sử dụng rộng rãi, vì chỉ cần miếng gỗ và ít giấy dó, mà phương tiện làm việc, giữ gìn, phổ biến được dễ dàng hơn, rộng rãi hơn.” [34, tr 85]. Những tác phẩm không còn dừng lại ở mục đích cổ động kịp thời tình hình lúc bấy giờ, mà còn vượt lên trên để trở thành những sáng tác nghệ thuật. Phần đông họa sĩ tham gia làm tranh in khắc gỗ theo kiểu ngẫu hứng nên số lượng và chất lượng tranh in khắc gỗ giai đoạn này rất đáng để nghiên cứu và có những thành tựu nhất định trong nền Mỹ thuật nói chung. Phần nữa do quá trình xét duyệt kỹ lưỡng, không dễ dàng gì được treo; bên cạnh đó xét về ưu điểm để nhân bản thì khắc gỗ có phần chiếm ưu thế hơn so với chất liệu khác, nên chất lượng tranh rất tốt. “Có người áp dụng vốn cổ theo phương pháp “bình cũ, rượu mới”- bê nguyên si hình thức cũ, chỉ thay nội dung mới.” [01, tr 15] (Tết Nguyên đán năm 1945, đã có một phòng tranh vẽ các mẫu theo như tranh khắc gỗ dân gian, lúc đó gọi là “bình cũ rượu mới”, hình thức rất giống tranh tết cũ, nhưng nội dung lại phản ánh con người mới, xã hội mới). “Người thì chỉ chú trọng đến mảng và màu sắc- buông lơi những nét đen viền hình thể, lu mờ đường dây liên kết giữa các hình- mà người ta quen gọi “đơn tuyến bình đồ” và chính thể đơn tuyến này có khả năng đem đến cho hình nhịp độ và tiết tấu vô cùng phong phú… mà các họa sĩ hiện đại phương Tây
  • 25. 25 mới đây mới nhận thức được.” [01, tr 15]. (Đơn tuyến bình đồ- nét đơn trên mảng màu phẳng, lối vẽ thịnh hành trong Mỹ thuật phương Đông và nghệ thuật trang trí mặt phẳng, loại bỏ hẳn bóng khối để tập trung vào đường nét. Mỗi mảng màu phẳng đậm hay nhạt cũng đều có đường viền giới hạn tách bạch). Mười năm đầu thời kỳ hòa bình 1955-1965, cuộc chiến tạm ngưng và miền Bắc bắt đầu phục hồi sau chiến tranh với công cuộc cải tạo công thương nghiệp, xây dựng các hợp tác xã nông nghiệp, cải cách ruộng đất. Tranh khắc gỗ ngày càng được phát triển và nâng cao. Tìm đến miền núi và những người dân tộc, phải kể đến Mẹ con (1962) [ H 1.5; tr 81] của Đinh Trọng Khang với bối cảnh là góc hiên nhà sàn người Thái ở Tây Bắc diễn tả sinh hoạt thường ngày khi người mẹ trẻ mình trần, địu con trên lưng và đổ ống nước vào thùng. Trước đó có thể nhắc đến: Hai cô gái người Tày năm 1961 của Tô Ngọc Thành. Trở về miền xuôi, mở đầu cho tranh in khắc gỗ những năm đầu hòa bình là bức tranh Ngày chủ nhật (1960) [H 1.3; tr 80] của Nguyễn Tiến Chung là một tác phẩm tiêu biểu. Nó như bức họa trong sáng tiêu biểu phản ánh đời sống hạnh phúc của gia đình sau cuộc chiến kéo dài, và đó cũng là tinh thần chung lúc bấy giờ tràn ngập niềm tin vào tương lai, sự an lành tiến tới cuộc sống mới. Ở nông thôn, hợp tác xã nông nghiệp đi vào sự ổn định với làm ăn tập thể; ở thành phố cải tạo công thương nghiệp tư doanh căn bản hoàn thành. Lớp học bổ túc văn hóa buổi trưa [H 1.4; tr 80] của Nguyễn Thế Vinh năm 1960 cũng mang một tinh thần tươi mới, là phong trào bình dân học vụ là các bác, các bà, các mẹ, các anh có mặt đầy đủ trong lớp học dành cho những người nông dân mù chữ hay ít học được tổ chức trong một ngôi đình làng. Quang Phòng với tác phẩm Ruộng đồng [H 2.3; tr 88] năm 1962 là một bức tranh in khắc gỗ công phu, cảnh người nông dân chăn dắt trâu bên cánh đồng xanh ngắt, cả ruộng đồng và trâu, người được miêu tả khá kỹ về sắc độ như tranh thuốc nước…
  • 26. 26 Trên con đường cải tạo công thương nghiệp, nhiều họa sĩ cùng các văn nghệ sĩ nói chung tham gia vào phong trào ba cùng: cùng ăn, cùng ở, cùng làm với công và nông dân, ngoài việc vẽ thì họ cũng lao động thực thụ. Vài công trường lớn như đập Bắc Hưng Hải, khu gang thép Thái Nguyên, tuyến đường sắt Hà Nội - Lào Cai thu hút hàng vạn người lao động. Đề tài tranh in khắc gỗ thời gian này là hồi ức kháng chiến chống Pháp, cuộc sống lao động tập thể, và những sáng tác mang nhiều tính ngẫu hứng với bối cảnh xã hội: Công nhân hầm lò (1956) của Hoàng Công Luận; Cảng Hòn Gai (1956) [H 1.1; tr 79] của Văn Đa; Việt Trì xây dựng (1957) của Lê Nguyên Lợi; Đánh bi (1957) của Nguyễn Phần; Công nhân xe lửa Gia Lâm (1958) [H 1.2; tr 79] của Lê Phả; Chợ Nhông (1958) của Nguyễn Tiến Chung; Rủ nhau đi nương (1959) của Đường Ngọc Cảnh [H 2.2; tr 87]; Nữ du kích (1960) của Lê Nguyên Lợi; Dân quân (1960) của Nguyễn Thụ, Hội ý (1965) của Trần Đình Thọ, “Công trường xây dựng” (1965) của Thế Hải... “Những tác phẩm in khắc gỗ thời kỳ này, chúng tôi tìm được không nhiều và phần lớn đều là đề tài về những công trường lao động như vậy, hoặc vài bức về hồi ức kháng chiến.” [32, tr 167]. Tranh thời kỳ này không nhiều bởi giai đoạn phục hồi sau chiến tranh, các họa sĩ khó có điều kiện làm nghệ thuật ngay, hơn nữa đó cũng là thời kỳ mà vấn đề về Nhân văn giai phẩm nổi lên nhiều phức tạp. (Phong trào Nhân văn giai phẩm là phong trào được cho là có xu hướng chính trị, đòi thi hành tự do của một số văn nghệ sĩ và trí thức sống ở miền Bắc, dưới chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, khởi xướng đầu năm 1955 và bị chính thức kết thúc vào tháng 6 năm 1958. Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa xem đây là phong trào chống chính quyền của một nhóm trí thức do bị tình báo nước ngoài được cài ở miền Bắc lôi kéo, nhằm phủ nhận sự lãnh đạo của Đảng trong lĩnh vực văn hóa văn nghệ, phủ nhận quyền lãnh đạo Chính trị và Nhà nước duy nhất của Đảng Lao động Việt Nam). Trong năm năm ấy, mọi gia đình đang lấy lại ổn định cuộc sống, việc làm, chỗ ở, tìm
  • 27. 27 người thân bị thất lạc,… cũng là lý do dễ hiểu cho việc không có nhiều sáng tác mới, tuy vậy xét trên bình diện đồ họa nói chung thì nghệ thuật thời chiến tranh đã bắt nhịp được hơi thở với cuộc sống. Từ năm 1965-1975, cuộc chiến chống Mỹ cứu nước lan rộng ra cả nước. Miền Nam là chiến trường ác liệt với nhiều chiến dịch quân sự, miền Bắc là chiến tranh phá hoại của Mỹ với cường độ bom đạn tùy từng thời điểm hòa hoãn hay căng thẳng. Giai đoạn chiến tranh lan ra cả hai miền, tranh in khắc gỗ lại càng trở nên phổ biến, mỗi họa sĩ dường như đều đóng góp một vài bức, cho nên số lượng tranh rất nhiều. Nói đến miền Bắc các hoạt động văn hóa văn nghệ tạm ngưng, mà tùy thuộc vào sáng tác của từng cá nhân và cũng phần vì thế mà nghệ sĩ có khoảng lặng để đẩy sâu sáng tác, nên đây cũng là thời kỳ mà nhiều tác giả tên tuổi trưởng thành. Đề tài lao động tập thể chiếm lượng lớn trong các sáng tác, ví như năm 1969, cùng với bức tranh Ông cháu [H 1.7; tr 82] của Huy Oánh còn có Cá về (1969) [H 1.8; tr 82] của Lê Thiệp; họa sĩ Trịnh Kim Vinh với Gang ra lò (1969), Ngư dân Quảng Bình (1969) của Đỗ Hữu Huề, Trục lúa (1970) của Phạm Văn Đôn [H 2.12; tr 92]; Cơm vàng nước bạc năm 1970 của Phùng Phẩm [H 2.13; tr 93], Phong cảnh Sài Sơn, Phong cảnh Đà Bắc (1970) của Nguyễn Tiến Chung; Qua phà đêm của Cao Trọng Thiềm sáng tác năm 1972; Trên vùng kinh tế mới (1972) của Hoàng Hoan [H 2.17; tr 95]; Bác Hồ với nông dân (1972) của Phạm Văn Đôn; Phơi thóc (1974) [H 2.19; tr 96] của Mạnh Hào;… Đề tài chiến tranh cách mạng vẫn tiếp tục phát triển. Với mảng đề tài này, các họa sĩ sáng tác với nhiều tình cảm khác nhau: Ông và cháu- Huy Oánh (1966) [H 1.7; tr 82], Các lão dân quân (1970) [H 1.9; tr 83] của Trịnh Quốc Thụ, Hành quân mưa (1970) của Cửu Long Giang, Ba thế hệ (1970) của Hoàng Trầm, năm 1972 có Các nữ dân quân [H 1.10; tr 83] của Hà Mỹ Lý, hay Phong cảnh Hải Phòng (1970) của Bùi Xuân Phái… Đề tài này chiếm một vị trí khá đồ sộ trong hội họa giai đoạn này, nó là nguồn cảm hứng
  • 28. 28 sáng tạo không thể phai mờ ở các nghệ sĩ để họ tái tạo lại với tình cảm kính yêu, chân thành, bình dị những khoảnh khắc lịch sử, khắc họa chân thực, đầy xúc động về người lính, về sự mất mát hy sinh lớn lao của các bà mẹ Việt Nam và đặc biệt hình tượng Bác Hồ. Năm 1975-1985, sau khi tiến hành cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, đất nước đã hoàn toàn thống nhất, cả nước đi lên xây dựng Chủ nghĩa xã hội đã mở ra một trang sử mới. Chiến tranh ở cả hai miền Nam-Bắc đã kết thúc, niềm vui đất nước hòa bình. Sau chiến tranh, đất nước còn bộn bề khó khăn nhưng toàn thể nhân dân Việt Nam với niềm vui chiến thắng chấp nhận mọi gian khổ để xây dựng lại đất nước. Mọi thứ đang cần hồi sinh và nghệ thuật cũng đang cần có thời gian để ổn định, người họa sĩ không nằm ngoài vấn đề của hậu chiến, họ đã đóng góp công sức sáng tạo, đạt được những thành tựu đáng kể khi ca ngợi, phản ánh sinh động hiện thực nhiều mặt trong lao động sản xuất, sinh hoạt. Triển lãm Mỹ thuật toàn quốc năm 1976 đã thực sự là nơi hội tụ tài năng trên khắp mọi miền đất nước và đến năm 1980 thì dường như những vấn đề khúc mắc cấm kỵ trong đời sống Mỹ thuật được giải tỏa. Hồi ức về chiến tranh luôn luôn là đề tài nổi cộm lên sau mỗi cuộc chiến. Chiến tranh đã đi qua, nhưng những ký ức, những kỷ niệm và hậu quả còn để lại hằn sâu, khó phai mờ theo năm tháng. Ngay năm 1976, Đặng Thạc có bức Lên đường về [H 1.12; tr 84] vẽ hình ảnh đưa tiễn trong chiến tranh trước kia; Anh bộ đội (1961) của Lê Trọng Lân vẽ cảnh đoàn tụ anh bộ đội đi kháng chiến trở về đứng giữa các cháu thiếu nhi; Hà Nội năm Bốn sáu [H 1.15; tr 86] của Nguyễn Nghĩa Duyện năm 1984 còn lùi về quá khứ xa hơn với Thủ đô, hồi ức xa hơn nữa ở thời kỳ này có thể kể đến Phạm Văn Đôn sáng tác năm 1978 với bức Quang Trung đại phá quân Thanh [H 1.13; tr 85]… Ngoài ra, bên cạnh đó nội dung, đề tài về cuộc sống tự do, thanh bình; lao động sản xuất, xây dựng đất nước được chuyển tải trong tranh, các tác phẩm chủ yếu ca ngợi, hân hoan niềm vui chiến thắng: Nghệ nhân Hàng Trống [H 1.11; tr 84]
  • 29. 29 năm 1976 của Trần Nguyên Đán, Chợ Kỳ Lừa (1976) của Lã Thanh Hữu, Cảng cá Hải Phòng (1976) của Đường Ngọc Cảnh, Đỗ Đức với Miền Tây Bắc năm 1982,… Hội họa Việt Nam còn quá trẻ so với nhiều nền hội họa đã trải qua hàng nghìn tuổi ở châu Á, châu Âu song chính tranh khắc gỗ đã cho chúng ta một cái vốn giàu có. Đó là cốt lõi của hồn dân tộc chung đúc nên bởi biết bao con người nghệ sĩ tài ba, và hiển nhiên nguồn cảm hứng đó vẫn nguyên vẹn in sâu trong tâm khảm nhân dân qua bao thế hệ. Tranh khắc gỗ hiện đại Việt Nam trong tương lai có thể tiến xa hay không lệ thuộc vào nhiều yếu tố chủ quan và khách quan của những người làm công tác bên ngành Nghệ thuật nói chung, họa sĩ nói riêng, trong đó trước hết là sự tiếp thu và phát triển một cách sáng tạo hội họa khắc gỗ dân gian. Tiểu kết Chương 1 của luận văn xác định khái niệm “Đề tài nông nghiệp trong tranh khắc gỗ”, nêu khái quát về tranh khắc gỗ Việt Nam giai đoạn 1955- 1985, đồng thời chỉ ra vai trò của dòng tranh này đối với nền Mỹ thuật nước nhà. Với sự ra đời của trường Mỹ thuật Đông Dương, tranh khắc gỗ hiện đại Việt Nam đánh dấu sự xuất hiện và trải qua thời gian các họa sĩ đã kết hợp hài hòa giữa tranh dân gian của hội họa nước nhà với những tinh hoa của hội họa Châu Âu nhằm đưa dòng tranh này mang dấu ấn riêng, vừa hiện đại, vừa có sắc thái dân tộc. Từ năm 1955-1985, tranh khắc gỗ đã khẳng định được sức sống bền bỉ trải qua chiều dài của lịch sử đầy biến động: thời kỳ chiến tranh, đấu tranh cách mạng, tuyên truyền, cổ động tinh thần chiến đấu của dân tộc, rồi đến thời kỳ hòa bình, niềm vui chiến thắng, cuộc sống sinh hoạt thường ngày, phong cảnh quê hương đất nước,… Để có được những bức tranh mang đậm dấu ấn thời kỳ đầy hào hùng nhưng cũng lắm biến động đó, họa sĩ đã tìm tòi không mệt mỏi những hình thức thể hiện mới, phương thức mới đã góp phần làm
  • 30. 30 cho tranh khắc gỗ có những bước chuyển biến về mặt nội dung, hình thức, cũng như phong cách thể hiện, kỹ thuật in khắc cùng những vấn đề liên quan đến cách nhìn, cách nghĩ cá nhân với những yêu cầu của đất nước, thời cuộc. Mỹ thuật sáng tác trong tranh khắc gỗ đang có những bước tiến mạnh mẽ cả về chất lượng nghệ thuật, khả năng ứng dụng tác phẩm, mang lại cái nhìn mới mẻ và có những đóng góp đáng trân trọng cho nền hội họa Việt Nam.
  • 31. 31 CHƯƠNG 2 NỘI DUNG VÀ HÌNH THỨC THỂ HIỆN ĐỀ TÀI NÔNG NGHIỆP TRONG TRANH KHẮC GỖ VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1955-1985 2.1. Nội dung chủ đề thể hiện đề tài Nội dung nghệ thuật chính là hiện thực đã được người nghệ sĩ nghiền ngẫm về mặt tư tưởng trong quá trình sáng tác và phản ánh vào tác phẩm nghệ thuật có sự chọn lọc, dưới tác động của những lý tưởng xã hội thẩm mỹ trong một thế giới quan nhất định. Nội dung của tác phẩm nghệ thuật không chỉ bao gồm những hiện tượng, những phiến đoạn của cuộc sống muôn màu mà còn bao gồm cả thế giới nội tâm, cái nhìn chủ quan đã được khách quan hóa của nghệ sĩ hay nói cách khác có hai yếu tố đan xen nhau hòa quyện không tách rời: yếu tố khách quan từ cuộc sống và yếu tố chủ quan của người nghệ sĩ. Những năm 1955-1985 là giai đoạn đầy biến cố của dân tộc, là thời kỳ gian khó khi hai mươi năm kháng chiến chống Mỹ; tiếp đến xây dựng XHCN khi đất nước thống nhất hòa bình, trong đó nền kinh tế nông nghiệp được chú trọng. Các họa sĩ lao mình trong thực tế, bằng nét bút của mình phục vụ trực tiếp dân tộc những tác phẩm, được đồng hành cùng đời sống bà con nông dân trong thời điểm mới, nhiều tác phẩm khắc gỗ nói riêng đã kịp thời phản ánh một cách chân thực, sôi động sự phát triển của nông nghiệp thời kỳ này, những ảnh hưởng đổi thay đến từng ngõ xóm trên nhiều chủ đề, phương diện khác nhau phải kể đến như: 2.1.1. Chủ đề về cấy cày Từ năm 1955-1960, tức là sáu năm kháng chiến chống Pháp, được coi là giai đoạn phục hồi sau chiến tranh và cải cách ruộng đất. Đất nước bị chia cắt làm hai miền, cuộc chiến tạm ngưng trong vài năm và miền Bắc bắt đầu cải tạo, xây dựng hợp tác xã nông nghiệp. Người nông dân “vững tay súng, chắc
  • 32. 32 tay cày”, lao động cần cù, chiến đấu dũng cảm hiện lên trong tranh mang vẻ đẹp rắn rỏi, tự chủ được các nghệ sĩ thể hiện bằng ngôn ngữ nghệ thuật đơn giản, trong sáng. Hình tượng người lao động ruộng đồng được đề cập một cách sâu sắc và hầu hết các tác phẩm biểu hiện rõ sự say mê trong niềm vui lao động, xây dựng đất nước, phải kể đến như: Đi cấy - 1967 (Trần Nguyên Đán) [H 2.7; tr 90] là tác phẩm khắc gỗ thuộc những giai đoạn đầu sự nghiệp của họa sĩ khi đang tốt nghiệp trường Mỹ thuật. Trong tranh, một nhóm gồm năm người đang lom khom cúi xuống cấy lúa, phía bên kia cách đó không xa là hình ảnh người đàn ông cùng con trâu của mình đang làm nhiệm vụ cày xới đất để chuẩn bị cho mùa vụ mới gieo sạ hoặc trồng cây và tiếp đó bên phải là hai nhân vật đang gánh những gánh mạ non để tiếp viện; ngoài ra còn có Đôi bạn - 1968 (Trịnh Thiệp) [H 2.8; tr 90] với cái đẹp lao động êm ả trong một ngày đất trời bình yên, tình cảm con người và con vật thật thân thiết, âu yếm. Người phụ nữ ngồi trong xe, dáng nghiêng người cúi xuống trò chuyện thật gần gụi với em bé cùng chú bê con của mình đang ngẩng cổ lên. Ra đồng - 1968 (Huy Oánh) [H 2.9; tr 91] với dáng cô nông dân khỏe khoắn quần sắn lên cao trong tư thế ngoảnh cổ nhìn với ánh mắt trìu mến đang dắt đàn trâu - người bạn quen thuộc của mình ra đồng mỗi buổi. Cấy hết diện tích - 1969 (Trịnh Phòng) [H 2.11; tr 92] là những cô gái thật nữ tính với dáng người nhỏ nhắn người đứng cầm bó mạ non, người cúi xuống làm nhiệm vụ cấy lúa với gương mặt hồ hởi làm nhiệm vụ như ra sức đạt chỉ tiêu cấy hết ruộng đồng; Nước bạc, cơm vàng - 1970 (Phùng Phẩm) [H 2.13; tr 93] thật kiên cường với hình ảnh người nông dân đang “chỉ huy” những chú trâu khỏe khoắn của mình cày bừa trên thửa ruộng rộng lớn. Tà áo bay phấp phới trong gió, quần sắn đến đầu gối hiện lên thật đẹp như thể người anh hùng trên cánh đồng đang chinh phục, bất chấp sự khắc nghiệt của thiên nhiên; Một buổi cấy - 1978 (Hà Mỹ Lý) [H 2.25; tr 100]… cũng là những buổi lao động quen thuộc bình dị. Thật đẹp với hình ảnh các bà, các mẹ, các chị người cúi, người đứng xếp
  • 33. 33 thẳng hàng vô vàn tư thế quay trái, phải khác nhau đang cắm những mạ non xuống đất như gieo một mầm non mới, một hy vọng mới thật vui mắt. Hình ảnh các cô gái, những dáng người rất sinh động như múa trong Buổi sớm - 1977 [H 2.24; tr 99] của Nguyễn Nghĩa Duyện với tay cầm cuốc, tay vẫy chào một cách rất vui vẻ, thắm thiết đậm đà như thể hứa hẹn ngày làm việc mới hiệu quả. Có thể dễ dàng cảm nhận được niềm vui, niềm phấn khởi và lạc quan tin tưởng ở những thắng lợi, dưới sự lãnh đạo của Đảng. Trên khuôn mặt mọi người không thấy lo lắng, chịu đựng, hy sinh mà họ đang vươn lên làm chủ cuộc đời, làm chủ vận mệnh chính mình. Những cô thợ cấy Định Công - 1978, [H 2.26; tr 100] của Văn Bình với năm cô gái là năm dáng người trong giờ nghỉ giải lao rất khác nhau, người đứng, người ngồi, người chỉnh lại trang phục, người chải tóc trông thật có duyên, đó là hình ảnh cô nông dân chất phác, đôn hậu trong ngày vụ… Nhìn vào bảng biểu thống kê tác phẩm khắc gỗ theo chủ đề, có thể thấy chủ đề cấy cày được chú ý và phản ánh nhiều nhất ở thời gian này. (Ghi chú). Mỗi tác phẩm thời kỳ này giống như một thanh âm trong trẻo, bình yên đến kỳ diệu, thanh khiết giữa xã hội đầy chao đảo, biến động. Nếu như thời kỳ trước năm 1945 các tác phẩm thường phản ánh đời sống thị dân lãng mạn, u hoài thì sau đó nhất là giai đoạn 1955-1975 là bước chuyển đổi quan trọng cách nhìn về nghệ thuật cũng như thế giới quan của người nghệ sĩ. Bắt đầu từ thời gian này, hình thành nên một đội ngũ tạo hình đông đảo đi vào mọi mặt của cuộc sống sôi động. Có thể thấy không khí hào hùng, sôi động niềm vui chiến thắng của dân tộc đã lan tỏa đến nhiều họa sĩ, họ thấy mình phải có trách nhiệm cống hiến hết mình cho đất nước, họ khao khát ca ngợi hình ảnh người nông dân gần gũi, chịu thương, chịu khó, hay lam hay làm, hàng ngày hiện diện trên cánh đồng. Họ hòa nhập với người nông dân, ban ngày đi làm cùng nông dân, gắn bó ăn ở làm việc cùng nông dân, họ thực sự trải nghiệm và cảm nhận được sâu sắc nhất công việc nặng
  • 34. 34 nhọc ấy. Khi xem tranh mới thấy tất cả đều bắt nguồn từ cuộc sống đích thực của người lao động. Tinh thần thời đại dường như đã ngấm vào máu thịt, hơi thở cuộc sống của những vị họa sĩ tài hoa này. Đó là những tác phẩm quý về đề tài nông nghiệp mà hiện nay vẫn là những bài học vô giá cho lớp họa sĩ trẻ noi theo mà nói không quá lời dường như các họa sĩ thế hệ sau vẽ về đề tài nông nghiệp chưa có ai qua được. 2.1.2. Chủ đề về trồng trọt Trồng trọt là lĩnh vực sản xuất quan trọng của nông nghiệp, cung cấp lương thực, thực phẩm cho con người; thức ăn cho chăn nuôi; ngoài ra rộng hơn có thể là nguyên liệu cho công nghiệp; nông sản để xuất khẩu... Quan trọng không kém cấy cày, đã nhắc đến nông nghiệp là nhắc đến trồng trọt. Sau khi hòa bình, tinh thần phấn khởi hẳn, nhân dân hăng hái tăng gia sản xuất, chăm sóc, vun xới cây trồng. Có thể bắt gặp hình ảnh này ở bất cứ đâu, nơi vùng cao miền núi hay đồng bằng. Rủ nhau đi nương - 1959 (Đường Ngọc Cảnh) [ H 2.2; tr 87] là khắc gỗ đen trắng với hình ảnh đoàn người cùng chú ngựa, trong trang phục dân tộc tay cầm cuốc đặt trên vai, lưng đeo đụi nối đuôi nhau đi lên nương đang vượt qua suối gồ ghề đất đá, xung quanh là nhà cửa và cây cối mang đặc trưng của địa hình rừng núi. Trong tranh ta như cảm nhận sự khắc nghiệt của thời tiết, sự cản trở của địa hình, vậy mà đoàn người với gương mặt nói cười vẫn hồ hởi chuyện trò vui vẻ trên đường trong sự đoàn kết, như thể thâm tâm họ có sự đồng lòng với nhau hứa hẹn một vụ mùa bội thu trong sự cố gắng không biết mệt mỏi. Nằm trong bộ sưu tập của người Thái Lan có tên Tira, có thể nhiều người không được biết nhưng bức tranh khắc gỗ màu không thể không nhắc đến có tên Khai hoang - 1973 [H 2.18; tr 95] của họa sĩ Tôn Đức Lượng. Thật phóng khoáng và thoáng đãng khi khắc họa một điểm nhìn từ đằng sau khóm cọ và phóng tầm mắt ra xa ta bắt gặp một cảnh trên nương rẫy bao la rộng lớn, đoàn người đông vui đang khai hoang, báo hiệu công cuộc mở mang,
  • 35. 35 khai phá miền đất mới. Không gian bao la rộng lớn với khóm cọ chiếm 1/2 tranh cho ta thấy sức của con người khi chinh phục và cải tạo thiên nhiên thật phi thường như thế nào. Sứ mệnh lịch sử cao cả của nghệ thuật nói chung, một tác phẩm mỹ thuật nói riêng phải đề cập đúng, trúng và giải quyết những vấn đề hiện thực của thời đại. Những năm 1955-1985 là giai đoạn đầy biến cố của dân tộc, là thời kỳ gian khó khi hai mươi năm kháng chiến chống Mỹ; tiếp đến xây dựng chủ nghĩa xã hội khi đất nước thống nhất hòa bình, trong đó nền kinh tế nông nghiệp mà cụ thể là trồng trọt được chú trọng. Hòa trong không khí khẩn trương, hăng hái lao động của quân dân miền Bắc những ngày đầu giải phóng, Mỹ thuật nói chung, tranh khắc gỗ nói riêng có thêm mục đích, yêu cầu cụ thể là tuyên truyền chính sách mới của Đảng và nhà nước. Do tình hình chiến tranh và định hướng chính trị chung của cả nước, nên nhiệm vụ nghệ thuật đối với các nghệ sĩ vẫn được xác định rõ ràng là phản ánh cuộc sống lao động và chiến đấu của nhân dân với phương pháp sáng tác hiện thực XHCN. Thời kỳ này Mỹ thuật có thêm yêu cầu cụ thể, nhiệm vụ là phục vụ cách mạng, tuyên truyền cổ động cho chính sách mới của Đảng và nhà nước. Đây cũng là yêu cầu, là chỉ đạo khi phát triển văn hóa vùng miền núi do người miền xuôi thực hiện với sự tổ chức của nhà nước những năm 1961-1970. Nhìn vào bức tranh này có cảm giác tranh khắc gỗ rất gần với ký họa, như thể tả thực ở hình vẽ, dường như chuyển thẳng từ ký họa sang in khắc gỗ và cái cảm giác thô mộc, đơn giản của tranh in khắc gỗ cũng có hơi thở trực tiếp như ký họa. Trở về vùng đồng bằng, ta thấy một em bé miền xuôi với dáng người nhỏ nhắn, gương mặt xin xắn trong Bé yêu lao động - 1965 [H 2.5; tr 89] của Vi Kiến Minh. Là bức tranh độc nhất chỉ có một nhân vật là một em bé chạc tuổi đến trường đội nón, nghiêng người, một tay đỡ, một tay cầm bình hoa tưới cây. Bố cục dọc chặt chẽ khi xây dựng hình ảnh em học sinh chăm chỉ, chịu khó điển hình thật sinh động, khỏe khoắn trong buổi lao động hăng say,
  • 36. 36 hòa chung vào không khí lao động đất nước, của dân tộc. Sau này, sau ngày đất nước thống nhất 1975, khi phong trào kế hoạch nhỏ của thiếu nhi cả nước đang sôi nổi, tác phẩm khắc gỗ trên lại càng giúp ta liên tưởng ngay đến bài hát “Đội em làm kế hoạch nhỏ” sáng tác năm 1977 của Nhạc sĩ Phong Nhã vang lên trên khắp mọi miền của Tổ quốc: “Vui tung tăng hớn hỏ, em làm kế hoạch nhỏ/ Lượm giấy trồng cây, chi Đội ta có ngay/ Như con ong chăm chỉ, như chim non vui vẻ/ Em làm kế hoạch nhỏ, bắt tay vào việc em càng vui say...”. Nội dung chủ đề nghệ thuật trong tác phẩm phải toát ra từ hiện thực, từ cuộc sống trước mắt, và họa sĩ có nhiệm vụ chọn lọc, tái hiện nó sao cho có sức thuyết phục. Mỗi tác phẩm thời kỳ này giống như một thanh âm trong trẻo, bình yên đến kỳ diệu, thanh khiết giữa xã hội đầy chao đảo, biến động. Có gì đó thật đáng quý và trân trọng biết bao những giây phút khiến mọi thứ trở nên thân thương, ấm áp. 2.1.3. Chủ đề về chăn nuôi Chăn nuôi là một ngành quan trọng của nông nghiệp, sản phẩm từ chăn nuôi nhằm cung cấp lợi nhuận và phục vụ cho đời sống sinh hoạt của con người. Ở thời kỳ này chăn nuôi trong nông nghiệp chủ yếu là trâu và lợn. Trâu để tạo sức kéo, phục vụ nhà nông việc cày cấy, còn lợn để cung cấp thực phẩm trong sinh hoạt hàng ngày. Trong nông nghiệp, con trâu luôn là vật nuôi tình cảm, là người bạn thân thiết, không thể thiếu của người nông dân, cho dù ở giai đoạn nào đi nữa thì máy móc cũng không thể thay thế. Bức tranh đen trắng Bé chăn trâu - 1957 [H 2.1; tr 87] của Anh Thường khắc họa nên hình ảnh em bé chạc tuổi nhi đồng đang đứng chăn trâu thổi sáo trong một cánh đồng không gian bao la, rộng lớn. Chưa cầm súng đánh được giặc được nhưng ở tuổi ăn, tuổi chơi như em làm những công việc nhỏ giúp gia đình là một điều đáng khen. Mọi hình hài nhân vật cũng như cảnh vật được khắc bằng nét to, dày cho ta thấy mọi thứ thật khỏe khoắn. Cảnh thanh bình này
  • 37. 37 thật êm ấm, sự dễ thương của nó làm ấm lòng khi con người nơi đây đang dần tìm lại được sự yên ả trên chính mảnh đất mà cơn bão “chiến tranh” vừa quét qua. Chăn nuôi [H 2.6; tr 89] của Ngô Duyên là một trong số những bức tranh màu hiếm hoi có được ở giai đoạn này. Không gian hiện thực tái hiện lại cảnh chăn nuôi trong nhà của nhà nông với công việc bận rộn, góp phần xây dựng và phục hồi đất nước sau chiến tranh. Ba người phụ nữ trong tranh như đại diện cho phụ nữ Việt Nam thời điểm đó “Đảm việc nước, giỏi việc nhà, trung hậu đảm đang”. Hai người phụ nữ bên phải góc tranh một người đang băm bèo, một người đang nấu cám cho lợn và phía bên trái phòng bên cạnh là người phụ nữ đang đổ những máng thức ăn cho lợn… Tất cả cho ta thấy sự lạc quan, niềm hạnh phúc nơi đây báo hiệu sự đủ đầy dần hồi sinh. Một điểm mà ta chú ý khi nhìn bên phải góc tranh là mũ tai bèo và súng- đồ vật quen thuộc của chiến tranh treo trên tường đánh dấu cho người xem biết tại thời điểm đó xã hội đang ở giai đoạn nào, tuy việc nhà bận rộn nhưng các chị vẫn không quên nhiệm vụ chiến đấu vì việc chung của Tổ quốc. Ruộng đồng - 1962, [H 2.3; tr 88] của Quang Phòng là bức in khắc gỗ màu công phu vẽ hình ảnh những người nông dân chăn dắt trâu bên cánh đồng xanh ngắt với gam màu thật ấn tượng khi cả đồng ruộng, trâu và người được diễn tả khá kỹ về sắc độ như tranh vẽ thuốc nước. Trần Nguyên Đán là một trong số những tên tuổi không thể nào quên khi nhắc đến dòng tranh khắc gỗ Việt Nam hiện đại. Ông luôn góp mặt những tác phẩm khắc gỗ đen trắng khỏe khoắn cũng như khắc gỗ màu thật đẹp mắt, lung linh. Người tốt việc tốt [H 2.10; tr 91] được sáng tác năm 1968 với hình ảnh em bé đang tuổi đến trường tay cầm sách, sau lưng móc trên đòn gánh chiếc cặp, mũ đang làm nhiệm vụ cho trâu, ghé con ăn và uống nước. Hình ảnh chắt lọc đến tối giản mang tính hiện đại, ước lệ trên nền cam cùng màu sắc ấn tượng mang tính trang trí đã mang cho người xem cảm giác nồng ấm, thanh tâm. Cũng chủ đề về chăn trâu và trẻ em, vài năm sau đó người họa sĩ tài hoa
  • 38. 38 này lại cho ra đời những bức tranh khắc gỗ đen trắng tuyệt đẹp trong đó phải kể đến như : Con trâu là đầu cơ nghiệp - 1970 [H 2.14; tr 93] và Chăm học chăm làm - 1971. [H 2.15; tr 94]. Vẫn sự vững vàng về tạo hình, trong cái nền buông tối giản nhất có thể, Trần Nguyên Đán đã khắc lên hình ảnh những em bé đang vui đùa thật gần gũi, e ấp bên con trâu- người bạn thân thuộc của mình. Đầu đội nón nghiêng nghiêng, tay cầm sách chăm chú đứng chụm làm hai, ba cùng nhau; bên cạnh đó có em nhỏ với sự thân thiện của mình đứng tựa vào trâu cặm cụi đọc bài. Hình ảnh con trâu cũng thật đơn giản mà đáng yêu, và họa sĩ phải nắm vững hình ảnh con trâu ngoài đời thực lắm mới có thể làm được những con trâu đơn giản mà chuẩn xác thế. Có cảm giác xem tranh của Trần Nguyên Đán thật mang đậm tính dân tộc, tính thời đại và truyền thống. Phong cảnh miền núi [H 2.20; tr 97] của họa sĩ Cửu Cooc Khìn lại đưa đến cho người xem cảm xúc về sự hùng vĩ, hoành tráng của thiên nhiên. Con người hiện lên nhỏ bé nhưng sao ta lại thấy sức mạnh và vẻ đẹp của con người chinh phục thiên nhiên. Bởi cái vẻ đẹp trầm hùng, tĩnh mịch, yên bình của phong cảnh kết hợp với sự hăng say lao động của con người đã tạo nên nhịp điệu và chiều sâu tác phẩm. Có thể nói giai đoạn 1955-1985 là giai đoạn khó khăn của nền nông nghiệp Việt Nam nói riêng và phát triển kinh tế nói chung khi đất nước vừa bước ra khỏi chiến tranh khốc liệt, chính vì vậy hình ảnh con trâu là hình ảnh gần gũi, quá đỗi quen thuộc không thể không nhắc đến. Dường như nó là “nhân chứng” chứng kiến biết bao buồn vui, thăng trầm biến cố của lịch sử dân tộc, của nền nông nghiệp từ thưở khó khăn, vất vả chưa có sự can thiệp nhiều của máy móc. 2.1.4. Chủ đề về thu hoạch Thu hoạch hay gặt hái là quá trình gom góp, thu thập, tập trung lại hoa lợi của các loại cây trồng sau khi đã đơm hoa kết trái cho những sản phẩm phù hợp với mục đích của người gieo trồng. Lúa là giống cây trồng phổ biến
  • 39. 39 nhất của Việt Nam thời bấy giờ bởi đất nước có tới 95% làm nông nghiệp, và trong thời kỳ khó khăn thì số lượng người gắn bó với công việc nhà nông càng nhiều. Tác phẩm Trục lúa [H 2.12; tr 92] của Phạm Văn Đôn là một tác phẩm khắc gỗ đen trắng tuyệt đẹp không thể không nhắc đến ở thời kỳ này. Sáng tác năm 1970, trong tranh vẽ quang cảnh nhóm người dân lao động đang hăng say làm nhiệm vụ trục lúa trước cửa sân đình. Nhìn những đường nét rõ ràng, mềm mại và dày đặc, biểu thị đường đi vòng quanh của con trâu đang vất vả làm nhiệm vụ kéo trục báo hiệu cho thấy buổi lao động khẩn trương, dường như mọi thứ đang cuốn theo guồng quay làm việc không ngừng nghỉ. Mỗi người một dáng, người quay ra, người quay vào, nhộp nhịp và hẳn phải thấy thán phục vì sự quan sát tinh tế, đa dạng các dáng vẻ rất động của con vật và người nông dân mà tác giả diễn tả. Tất cả những yếu tố đó đã thuyết phục được người thưởng ngoạn và chứng tỏ các họa sĩ đã hết lòng vì nghệ thuật. Cùng với đề tài này, Vũ Duy Nghĩa góp mặt tác phẩm Trục lúa [H 2.16; tr 94] sáng tác năm 1972 với ba con trâu, ba quả lăn, hai người một nam, một nữ đang điều khiển vòng quay chiếc trục, ông đã tái hiện cảnh lao động ở nông thôn ngày mùa rộn ràng. Nhịp điệu xoay tròn của người, trục và trâu cho ta thấy nhịp điệu khẩn trương dường như không thể ngừng nghỉ của các nhân vật đánh dấu một vụ mùa thu hoạch bội thu. Đến với tác phẩm Phơi thóc [H 2.19; tr 96] tiếp theo của Mạnh Hào, tuyệt vời khi khắc họa năm cô gái, năm dáng người khác nhau uyển chuyển, duyên dáng đội nón, người tay thoăn thoắt cào bồ những lạt thóc mới, người làm nhiệm vụ đổ những bồ thóc xuống sân phơi trên sân gạch. Một sự vui vẻ, hào hứng trên khuôn mặt sau một vụ mùa bội thu. Bên cạnh đó còn có tác phẩm Trên vùng kinh tế mới- 1972 [H 2.17; tr 95] của Hoàng Hoan với con người hiện lên nhỏ bé, nhưng vẫn đủ cho ta thấy sức mạnh và vẻ đẹp của người lao động ruộng đồng. Bởi cái đẹp trầm hùng, tĩnh mịch, yên bình của phong cảnh kết hợp với sự hăng say lao động của con người đã tạo nên nhịp
  • 40. 40 điệu và chiều sâu tác phẩm. Hình tượng ấy hiện lên trong tranh hiện đại mang vẻ rắn rỏi, tự chủ được các nghệ sĩ thể hiện bằng ngôn ngữ nghệ thuật đơn giản, trong sáng. Ngoài thu hoạch lúa, nhà nông còn gắn bó mình với các loại cây ăn quả. Hái cà phê- 1964 [H 2.4; tr 88] (Lương Xuân Nhị) đã vẽ nên hai cô gái đang làm nhiệm vụ hái cà phê nổi lên với hình dáng thanh mảnh bằng những mảng màu bẹt và vài nếp cong gợi nếp gấp của áo quần đang đứng quay lưng về phía mặt tranh, vừa làm việc vừa trò chuyện. Cây cà phê được tạo bằng nét mềm mại của những cành cây nghiêng, cong xuống phía hai thiếu nữ. Bức tranh với vẻ đẹp nhẹ nhàng gần gũi với tranh Hàng Trống của bức “Tố nữ”. Với cách nhìn ước lệ của dân gian, họa sĩ đã gợi cho người xem một cảnh lao động bình yên nơi thôn dã. Hái quả (1976) [H 2.23; tr 99] của Phạm Đoàn Thanh xuất hiện hai cô gái dân tộc là nhân vật chính ở giữa tranh đeo gùi đang làm nhiệm vụ thu hoạch cây trái trong dáng người rất uyển chuyển trong gió, tà váy bay bay,… Có thể nhận định rằng ngày ấy không khí hào hùng, sôi động, niềm vui chiến thắng của dân tộc đã lan tỏa đến các họa sĩ, họ thấy mình phải có trách nhiệm cống hiến hết mình cho đất nước, họ khao khát ca ngợi hình ảnh người nông dân gần gũi, chịu thương chịu khó, hay lam hay làm. Được những điều đó là nhờ vào những rung động hết sức tự nhiên của người họa sĩ và mọi thứ đã được lan tỏa chạm đến trái tim người xem một cách sâu sắc nhất. Điều đó đã lý giải được vì sao các họa sĩ thời kỳ đó lại có nhiều tác phẩm xuất sắc đến vậy. 2.2. Hình thức thể hiện đề tài Hình thức là cơ cấu tổ chức bên trong được xác định bởi một hệ thống những phương tiện tạo hình, biểu hiện của một loại hình nghệ thuật, thể hiện một nội dung nhất định. Ngôn ngữ tạo hình chỉ trở thành hình thức nghệ thuật khi ngôn ngữ được tổ chức lại thành một hệ thống, một kết cấu nhiều mặt của
  • 41. 41 hình tượng nghệ thuật, một kết cấu vật chất biểu hiện một nội dung nhất định. Ngôn ngữ mỹ thuật tạo hình bao gồm các yếu tố: hình khối, đường nét, màu sắc, sự sắp xếp bố cục, nhịp điệu… Mỗi loại hình có cách biểu hiện khác nhau tùy thuộc vào đặc trưng ngôn ngữ của từng loại. Ngày nay, cách nhìn trong ngôn ngữ cũng không bị rập khuôn, cách miêu tả hiện thực đã sang giai đoạn phát triển nhiều phong cách thể hiện khác nhau. 2.2.1. Bố cục trong tác phẩm Trong cuốn “Từ điển thuật ngữ Mỹ thuật phổ thông” có khái niệm về bố cục như sau: “Là sự sắp xếp kích thước và tương quan của những đường nét, hình dáng, màu sắc các vật thể trong một tác phẩm. Nói cách khác, bố cục chính là sự sắp xếp tất cả các yếu tố ngôn ngữ tạo hình để xây dựng nên một tác phẩm, làm nổi rõ ý đồ sáng tác của nghệ sĩ.” [19, tr 31]. Vẻ đẹp trong bố cục của một tác phẩm nghệ thuật thường được xây dựng bởi sự sắp xếp các mảng, hình một cách hài hòa tạo nên sự cân bằng và nhịp điệu, nhằm gây ấn tượng thị giác cho người thưởng thức. Tùy theo nội dung, chủ đề, các yếu tố ngôn ngữ đồ họa được người họa sĩ bố trí, sắp đặt sao cho phù hợp để tạo bố cục cho tác phẩm. Trong tranh vẽ có bố cục về hình thể, bố cục màu sắc, bố cục không gian,… tất cả phải đạt sự hài hòa, nhịp nhàng, đôi khi có sự lặp lại nhưng tất thảy đều phải dựa trên các loại bố cục chính như sau: bố cục hình tam giác- hình chóp; bố cục hình tròn- elip; bố cục hình chữ nhật- hình vuông; bố cục theo nhịp điệu, phối cảnh, đông người,… Tác phẩm khắc gỗ đen trắng Đôi bạn (1968) của Trịnh Thiệp [H 2.8; tr 90] với lối bố cục cơ bản đã tái hiện lại một khung cảnh có thực với sự gần to, xa nhỏ của cảnh vật tuân thủ theo luật xa gần. Nhân vật chính, hình ảnh người phụ nữ ngồi trong chiếc máy cày của mình cúi xuống phía dưới thật thân thiện khi nói chuyện với em bé và chú bê con đang ngẩng cổ lên ngước nhìn chiếm 2/3 diện tích. Không gian còn lại là khoảng trời rộng bao la tít tắp, phía xa cột điện mang điện đi khắp nơi tới mọi miền tổ quốc; xa hơn nữa những khóm
  • 42. 42 đặc nhấp nhô báo hiệu có sự sống chiếm 1/3 bức tranh. Xét về tính chất chính phụ thì đây là tỷ lệ chuẩn mực về bố cục. Ngoài ra tác giả còn khéo léo khi đưa hai hướng chuyển động: dọc hướng lên trên của cây cột điện, và xiên ngang của đường rãnh dẫn nước vào đồng ải nhằm cân bằng lại bố cục, tạo nhiều chiều hướng giúp mở rộng tầm mắt cho người xem. Người nông dân thời bấy giờ đã làm chủ được ruộng đồng trong sự bình yên đến quý giá. Cùng với sự thành công chủ đề cấy cày, tác phẩm với nhan đề Cấy hết diện tích (1969) của Trịnh Phòng [H 2.11; tr 92] cũng nổi bật không kém, là một trong số tác phẩm không thể không kể đến về đề tài nông nghiệp. Hình ảnh chân thực khi miêu tả lại ba cô gái với bố cục dàn hàng ngang quần xắn đến đầu gối, đang cúi xuống làm công việc cấy lúa mở màn cho vụ mùa mới. Người đứng hai tay cầm hai bó lúa, chân đang bước lên; người cúi đang cấy những cây lúa trên thửa ruộng bạt ngàn. Xa xa là cây cầu, những khóm cây hiên ngang còn lại giữa đời như thể nó là chứng nhân của lịch sử chứng kiến sự thay đổi phát triển từng ngày nơi đây. Không gian xung quanh dành cho cảnh vật cũng như không gian dành cho nhân vật chính cân bằng nhau một cách hợp lý. Có thể nói sau năm 1925 với sự đánh dấu xuất hiện của trường Mỹ thuật Đông Dương, tranh khắc gỗ hiện đại Việt Nam ra đời. Một số họa sĩ được đào tạo chuyên nghiệp đã nhanh chóng tiếp thu những kiến thức tạo hình phương Tây, mà cụ thể là luật thấu thị xa gần đã giúp tranh có hình thức giống cái nhìn thực hơn. Với cây bút tài hoa của mình, họ đã chắt lọc, tái tạo lại hình ảnh của thực tế không gian ba chiều (chiều dài, chiều rộng, chiều cao hoặc sâu) lên mặt phẳng hai chiều (chiều dài, chiều rộng) bằng những hình ảnh cô đọng, điển hình nhất, giúp người xem vẫn có thể tưởng tượng ra không gian thực ngoài đời. Để làm được điều này, người họa sĩ phải vững vàng về kiến thức thực tế cũng như những nguyên tắc trong sáng tác hội họa để tái tạo lại không gian, phong cảnh, hay con người thực vào tranh. Đến với một dạng khác của bố cục, ta có thêm lối bố cục nhịp điệu. Để
  • 43. 43 chiêm ngưỡng tận mắt, hiện nay BTMTVN còn lưu giữ tác phẩm khắc gỗ màu Một buổi cấy của Hà Mỹ Lý sáng tác năm 1978. [H 2.25; tr 100]. Có thể thấy sự chuyển động của đường nét, hình khối, màu sắc đã tạo nên nhịp điệu trong tranh. Không khí toàn dân hăng say bắt tay ngay vào lao động sản xuất đã len lỏi đến khắp nơi mọi vùng mà nơi miền xa xôi núi non cách trở cũng không làm khó với những người nông dân nơi đây. Trong tranh là cảnh những người phụ nữ dàn hàng ngang gần như chính giữa tranh với người cúi, người đứng, người nghiêng trái phải với vô vàn tư thế khác nhau đang cấy lúa tạo nên một nhịp điệu vô cùng vui mắt cho tác phẩm. Trong không gian nhấp nhô trùng điệp của núi rừng, con người hiện lên thật nhỏ bé nhưng ta tin rằng những con người hợp sức lại với nhau sẽ chẳng có điều gì là không thể cải tạo thiên nhiên. Ngoài ra có thể kể đến những tác phẩm khác tương tự có nhịp điệu rất rõ ràng cùng phản ánh hiện thực thời kỳ đó như Cấy- Trần Nguyên Đán [ H 2.7; tr 90]; Phơi thóc- Mạnh Hào [ H 2.19; tr 96]; Chống hạn- Phùng Phẩm [ H 2.21; tr 98];… Tác phẩm Hái cà phê [H 2.4; tr 88] của danh họa Lương Xuân Nhị sáng tác năm 1964 với bố cục dọc là hai nhân vật chính đang hái cà phê được thể hiện bằng những mảng màu bẹt kết hợp vài nét cong gợi nếp gấp của áo quần đang đứng quay lưng về phía mặt tranh. Khuôn mặt và mái tóc cũng được tạo hình bằng những mảng màu đen, hồng nhạt không vờn khối vẫn mang lại cho ta một cảm nhận êm ái, dịu dàng. Màu xanh mát mẻ của lá cà phê chiếm 2/3 diên tích tác phẩm gợi một cảm giác thanh bình, nhẹ nhàng. Không gian còn lại được bao trùm bởi một màu nâu nhẹ rất ăn nhập với màu xanh của lá. Với cách phối cảnh ước lệ của tranh dân gian mang hơi hướm từ dòng tranh Đông Hồ, lối bố cục đơn giản, không câu nệ, gò bó, tác giả đã cho người xem thấy được một cảnh yên bình nơi thôn dã trong không gian tượng trưng và khái quát, chắt lọc về đường nét, màu sắc. Vẫn đề cao ý đồ trong tư duy tạo hình khi xây dựng hình tượng nhân vật; diện hình, mảng bẹt, bỏ qua vờn khối, tác
  • 44. 44 phẩm của Phạm Đoàn Thanh Hái quả [H 2.23; tr 99] lại thêm một minh chứng cho sự thành công phù hợp với lối bố cục dọc. Tranh đen trắng với mảng đậm bẹt hiện lên chiếm 2/3 diện tích tranh đủ độ đậm nhạt khác nhau cho ta thấy rõ hai cô gái đang đưa tay hái những trái quả trên cây. Nền- khoảng không còn lại là giấy trắng, là không gian không được diễn tả càng độc tôn lên hai nhân vật với hình dáng và hành động cụ thể. Bố cục tranh đã gần như thoát ly hẳn với những kiến thức bố cục thường thấy. Không phải bố cục tròn, tam giác hay dàn ngang mà ở đây bố cục dọc rất chặt chẽ, hai nhân vật duy nhất đều nằm trong nhóm bố cục chính, không hề có thêm chi tiết gì phân biệt chính-phụ ở đây. Có thể nói bức tranh Trục lúa của Vũ Duy Nghĩa [H 2.16; tr 94] là tác phẩm thành công của người họa sĩ bởi bố cục tròn đơn giản được ông đưa vào tranh một cách khá lạ mắt. Tranh khắc trạng thái chuyển động nhanh gấp, khẩn trương với những nét khắc ngắn và nhiều tạo quỹ đạo đường đi xoay tròn của những trục đá, hai người nông dân với ba con trâu đang cho ra hạt thóc vàng ươm. Nếu tranh vẫn từng ấy nhân vật xếp thành hàng ngang thì có lẽ không ra tính chất cũng như không khí buổi làm việc. Nhân vật chính xếp với nhau liên kết chặt chẽ tạo thành bố cục tròn giúp người xem cảm nhận được vòng quay hối hả, sự ăn nhập giữa người với vật cũng như tinh thần lao động một cách rõ ràng. Cũng cùng tên Trục lúa [H 2.12; tr 92], Phạm Văn Đôn cũng khai thác một nhóm nhân vật chính trong sự chuyển động của hình elip tương tự. Dường như hình tròn hay hình elip đều tạo sự cân bằng cho tác phẩm, báo hiệu sự đoàn kết ăn nhập giữa các nhân vật cũng như sự hối hả khẩn trương đến vui mắt. Cách đặt vấn đề này tạo không khí sôi động, ấn tượng trực tiếp với cái nhìn của thị giác. Hầu như thời kỳ này, với đề tài nông nghiệp mang tính thời sự, số lượng các tranh thường có bố cục khỏe, đường nét mạnh, dứt khoát, nhịp điệu sôi động… Các tác phẩm ở giai đoạn đầu thời kỳ 1955-1985 này đã phản ánh