Luận văn: Kiểm soát bán hàng đa cấp ở Việt Nam hiện nay, HOT
1. 1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
TRẦN THỊ THU
PHÁP LUẬT VỀ KIỂM SOÁT BÁN HÀNG ĐA CẤP
Ở VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2014
2. 2
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
TRẦN THỊ THU
PHÁP LUẬT VỀ KIỂM SOÁT BÁN HÀNG ĐA CẤP
Ở VIỆT NAM
Chuyên ngành : Luật kinh tế
Mã số : 60 38 01 07
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: TS. Vũ Quang
HÀ NỘI - 2014
4. 4
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: TỔNG QUAN VỀ KIỂM SOÁT BÁN HÀNG ĐA CẤP VÀ
PHÁP LUẬT VỀ KIỂM SOÁT BÁN HÀNG ĐA CẤP
6
1.1. Bán hàng đa cấp và vấn đề kiểm soát bán hàng đa cấp 6
1.1.1. Khái quát về bán hàng đa cấp 6
1.1.2. Khái quát về kiểm soát bán hàng đa cấp 13
1.2. Pháp luật về kiểm soát bán hàng đa cấp 16
1.2.1. Khái niệm pháp luật về kiểm soát bán hàng đa cấp 16
1.2.2. Nguyên tắc kiểm soát bán hàng đa cấp 18
1.2.3. Nội dung của pháp luật về kiểm soát bán hàng đa cấp 20
1.3. Một số nhân tố ảnh hưởng đến pháp luật kiểm soát bán hàng
đa cấp
22
1.3.1. Những nhân tố bên trong 22
1.3.2. Những nhân tố bên ngoài 23
1.4. Kinh nghiệm pháp luật một số quốc gia về kiểm soát bán
hàng đa cấp
24
Chương 2: THỰC TRẠNG CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ KIỂM
SOÁT BÁN HÀNG ĐA CẤP Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
34
2.1. Thực trạng bán hàng đa cấp và nhu cầu cần kiểm soát bằng
pháp luật ở Việt Nam hiện nay
34
2.2. Các chủ thể kiểm soát bán hàng đa cấp - quyền và nghĩa vụ
theo quy định pháp luật
36
5. 5
2.3. Hợp đồng trong bán hàng đa cấp - công cụ chủ yếu để kiểm
soát bán hàng đa cấp
43
2.4. Nhà nước với vai trò điều tiết chủ yếu trong kinh tế thị
trường về vấn đề kiểm soát bán hàng đa cấp
48
2.5. Doanh nghiệp bán hàng đa cấp 50
2.6. Một số vấn đề bất cập của pháp luật về kiểm soát bán hàng
đa cấp - nguyên nhân và định hướng hoàn thiện
54
2.6.1. Những bất cập phát sinh từ các quy định về điều kiện cấp
Giấy chứng nhận đăng ký hoạt động bán hàng đa cấp (quy
định về tiền kiểm)
54
2.6.2. Những bất cập phát sinh từ các quy định điều chỉnh quá trình
hoạt động của doanh nghiệp sau khi đã được cấp giấy chứng
nhận đăng ký hoạt động bán hàng đa cấp (quy định về hậu kiểm)
58
2.6.3. Những bất cập khác 62
Chương 3: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ KIỂM
SOÁT BÁN HÀNG ĐA CẤP
71
3.1. Về mặt quan điểm xây dựng chính sách quản lý hoạt động
bán hàng đa cấp
71
3.2. Về giải pháp cụ thể 72
3.2.1. Điều chỉnh sửa đổi nhóm các quy định về "tiền kiểm" 72
3.2.2. Điều chỉnh sửa đổi nhóm các quy định quản lý liên quan đến
điều chỉnh quá trình hoạt động của doanh nghiệp bán hàng đa cấp
75
3.2.3. Điều chỉnh sửa đổi các quy định khác 78
KẾT LUẬN 87
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 88
6. 6
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BHĐC : Bán hàng đa cấp
NPP : Người phân phối
7. 7
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Trong bối cảnh nền kinh tế nước nhà phát triển mạnh mẽ và hội nhập
kinh tế quốc tế thì việc lựa chọn những phương thức kinh doanh hiệu quả và phù
hợp là vô cùng quan trọng. Đã có rất nhiều những mô hình, phương thức kinh
doanh mới du nhập vào Việt Nam nhưng việc lựa chọn được mô hình, phương
thức hiệu quả, phù hợp với đặc điểm tính chất của nền kinh tế Việt Nam lại
không hề dễ dàng. Những năm gần đây, người ta hay nhắc tới "marketing đa
cấp", "kinh doanh theo mạng" hay "bán hàng đa cấp" như một phương thức
kinh doanh mới hiệu quả nhưng cũng không ít người cho rằng phương thức
kinh doanh đó không phù hợp tại Việt Nam. Xuất hiện trên thế giới từ những
năm 70 của thế kỷ mới nhưng do mới du nhập vào Việt Nam nên bán hàng đa
cấp (BHĐC) đã vấp phải không ít sự phản đối của người tiêu dùng. Mặc dù
bản chất ngành nghề không sai, nhưng do một số công ty vì lợi nhuận đã cố
tình làm sai lệch mô hình này, khiến Chính phủ, các cơ quan ban ngành và
người dân hoài nghi về tính hiệu quả của nó.
Bán hàng đa cấp đã du nhập vào Việt Nam được khoảng 14 năm. Dù
không còn xa lạ đối với thị trường Việt Nam, song BHĐC vẫn còn mới mẻ
trong kinh nghiệm quản lý kinh tế của Nhà nước và trong khoa học pháp lý.
Trước khi có hành lang pháp lý cho phương thức kinh doanh này, việc phát
triển BHĐC ở Việt Nam diễn ra khá lộn xộn và thường theo hình thức kinh
doanh bất chính. Từ năm 2005 đến nay, khi chính thức có Luật Cạnh tranh và
Nghị định số 110/2005/NĐ-CP về quản lý hoạt động BHĐC, hoạt động này
đã chính thức được pháp luật điều chỉnh. Việc ban hành các văn bản pháp lý
điều chỉnh hoạt động này đã khẳng định thái độ của Nhà nước ta là thừa nhận
tính hợp pháp của hoạt động BHĐC. Đồng thời, các văn bản pháp luật nói
trên cũng thiết kế một cơ chế quản lý riêng biệt đối với hoạt động này. Cơ chế
8. 8
này bao gồm ba bộ phận cơ bản là: tiêu chuẩn hóa các điều kiện của doanh
nghiệp tổ chức BHĐC và người tham gia; quy định thủ tục cấp giấy chứng
nhận đăng ký tổ chức BHĐC; xác định các hành vi BHĐC vi phạm pháp luật
và trách nhiệm của người vi phạm. Tuy nhiên, những nhận thức từ phía các cơ
quan quản lý nhà nước về bản chất kinh tế - pháp lý của hoạt động này chưa
thực sự đầy đủ và tại thời điểm ban hành Luật Cạnh tranh, chúng ta chưa có
kinh nghiệm trong việc quản lý nên còn tồn tại nhiều lúng túng trong việc xây
dựng và áp dụng pháp luật. Sự chậm chân trong việc quản lý đã tạo điều kiện
cho một số kẻ lợi dụng sự cả tin để lừa đảo người dân, gây ảnh hưởng nghiêm
trọng đến tính trong sạch của phương thức BHĐC. Thực tế hoạt động của
BHĐC tại Việt Nam hiện nay vẫn còn là một vấn đề nhức nhối với cơ quan
quản lý. Lợi dụng kẽ hở của pháp luật, các công ty BHĐC bất chính đã lừa
đảo chiếm đoạt hàng trăm tỷ đồng của hàng trăm nghìn người dân, từ những
người tri thức, những người đã có kinh nghiệm làm việc lâu năm ở các cơ
quan, doanh nghiệp, các sinh viên đại học cho đến những người dân vùng sâu
vùng xa. Thực trạng đó làm nổi lên làn sóng bức xúc trong nhân dân, xuất
hiện những ý kiến trái chiều về ngành kinh doanh này. Một số người cho rằng
đây là ngành kinh doanh lừa đảo, gian dối, thậm chí còn cho rằng BHĐC
không phù hợp với Việt Nam hay nên cấm tuyệt đối phương thức kinh doanh
này ở nước ta. Một số người khác hiểu biết hơn thì cho rằng BHĐC là phương
thức ưu việt. Thực tế lộn xộn như hiện nay là do các doanh nghiệp bất chính
làm ăn phi pháp làm biến tướng đi mà thôi.
Trong bối cảnh nói trên, việc nghiên cứu pháp luật về kiểm soát
BHĐC ở Việt Nam hiện nay là có ý nghĩa lý luận và thực tiễn to lớn.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Pháp luật về BHĐC nói chung được rất nhiều nhà nghiên cứu Luật
học quan tâm, trong đó đã có khá nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề này
ở Việt Nam. Tất cả các công trình này đều đã nêu ra được bản chất pháp lý
9. 9
của BHĐC và BHĐC bất chính. Tuy nhiên, các bài viết về vấn đề này chủ yếu
mới dừng lại ở các bài báo, tạp chí, báo mạng, khóa luận tốt nghiệp đại học
hay được đề cập một phần trong các công trình nghiên cứu về cạnh tranh
không lành mạnh mà chưa có công trình nào đi sâu nghiên cứu về vấn đề
kiểm soát BHĐC. Có thể kể đến một số công trình nghiên cứu tiêu biểu về
BHĐC bao gồm: Luận văn Thạc sĩ "Một số vấn đề pháp lý về bán hàng đa
cấp ở Việt Nam" của tác giả Đoàn Văn Bình (2006), Đại học Luật Hà Nội;
Khóa luận tốt nghiệp "Một số nội dung pháp lý về bán hàng đa cấp ở Việt
Nam hiện nay" của tác giả Nguyễn Thị Bích Hạnh (2010), Đại học Luật Hà
Nội; Khóa luận tốt nghiệp "Những vấn đề pháp lý về hoạt động bán hàng đa
cấp ở Việt Nam" của tác giả Nguyễn Thị Hằng (2011), Đại học Luật Hà Nội;
Khóa luận tốt nghiệp "Bán hàng đa cấp bất chính theo pháp luật cạnh tranh
Việt Nam" của tác giả Nghiêm Xuân Tuyên (2011), Đại học Luật Hà Nội và
một số bài báo, tạp chí chuyên ngành cũng như rất nhiều công trình nghiên
cứu về vấn đề cạnh tranh không lành mạnh, trong đó có đề cập đến vấn đề
BHĐC bất chính.
Ở cấp độ luận văn thạc sĩ thì vấn đề pháp luật về kiểm soát BHĐC
cũng chưa được nhiều công trình nghiên cứu. Do đó, luận văn này sẽ đề cập
đến các vấn đề có liên quan đến pháp luật về kiểm soát BHĐC. Dự định
nghiên cứu của mình, học viên sẽ làm rõ các vấn đề lý luận cơ bản liên quan
đến hoạt động BHĐC và kiểm soát BHĐC; thực trạng những quy định pháp
luật về kiểm soát BHĐC, trên cơ sở đó đề xuất các phương hướng, giải pháp
hoàn thiện pháp luật về BHĐC và vấn đề kiểm soát BHĐC ở Việt Nam.
3. Mục đích của việc nghiên cứu đề tài
Với việc tìm hiểu, phân tích các vấn đề liên quan đến pháp luật về
kiểm soát BHĐC ở Việt Nam, luận văn sẽ làm sáng tỏ những vấn đề lý luận
về kiểm soát BHĐC với cái nhìn tổng quan từ đó giúp người đọc thấy được
những hạn chế nổi cộm nhất còn tồn đọng trong các quy định pháp luật hiện
10. 10
nay và sự cần thiết phải hoàn thiện vấn đề này. Mục đích cuối cùng của việc
nghiên cứu đề tài là đưa ra phương hướng và giải pháp nhằm hoàn thiện pháp
luật về kiểm soát BHĐC ở Việt Nam.
4. Phạm vi nghiên cứu
Với mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu trên, học viên dự kiến phạm vi
nghiên cứu sẽ chỉ tập trung chủ yếu vào sáu vấn đề nổi cộm nhất trong các
quy định pháp luật về kiểm soát BHĐC, bao gồm: thực trạng của hoạt động
BHĐC và nhu cầu cần kiểm soát bằng pháp luật ở Việt Nam hiện nay; các
chủ thể trong hoạt động kiểm soát BHĐC - quyền và nghĩa vụ; hợp đồng
trong BHĐC - công cụ chủ yếu để kiểm soát BHĐC; Nhà nước với vai trò
điều tiết chủ yếu trong kinh tế thị trường về vấn đề kiểm soát BHĐC; doanh
nghiệp BHĐC; một số vấn đề bất cập của pháp luật về kiểm soát BHĐC,
nguyên nhân và định hướng hoàn thiện. Trên cơ sở nghiên cứu các vấn đề như
đã nêu trên, tác giả sẽ đưa ra kiến nghị về phương hướng và giải pháp nhằm
hoàn thiện pháp luật về các vấn đề đã được đề cập.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu đề tài
Đề tài được nghiên cứu trên nền tảng cơ sở lý luận về pháp luật về
BHĐC ở Việt Nam và vấn đề kiểm soát hoạt động BHĐC, thông qua đó làm
rõ các vấn đề lý thuyết được đặt ra trong luận văn.
Đề tài sẽ được triển khai nghiên cứu với phương pháp luận của chủ nghĩa
duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử; sử dụng các phương pháp
nghiên cứu cụ thể như phương pháp phân tích, tổng hợp, hệ thống, lịch sử, so
sánh, thống kê, khảo sát thực tiễn và chuyên gia... để hoàn thành luận văn.
6. Những đóng góp mới của luận văn
Luận văn là công trình nghiên cứu có hệ thống về pháp luật về kiểm
soát BHĐC. Với kết quả đạt được, tác giả hy vọng góp phần làm rõ thêm về
mặt lý luận của phương thức BHĐC và vấn đề kiểm soát BHĐC, vai trò của
hoạt động kiểm soát BHĐC, rà soát và đánh giá lại toàn bộ các quy định có
11. 11
liên quan tới quản lý hoạt động BHĐC tại Việt Nam; đánh giá và chỉ ra được
những bất cập nảy sinh từ bản thân các quy định hiện hành; đánh giá và chỉ ra
được những khó khăn phát sinh trong quá trình thực thi, một số vấn đề mới
phát sinh trong thực tiễn cần bổ sung các quy định pháp lý để điều chỉnh kịp
thời qua đó đưa ra các đề xuất nhằm hoàn thiện pháp luật quản lý hoạt động
BHĐC tại Việt Nam.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Tổng quan về kiểm soát bán hàng đa cấp và pháp luật về
kiểm soát bán hàng đa cấp.
Chương 2: Thực trạng các quy định pháp luật về kiểm soát bán hàng
đa cấp ở Việt Nam hiện nay.
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện pháp luật về kiểm soát bán hàng đa
cấp ở Việt Nam.
12. 12
Chương 1
TỔNG QUAN VỀ KIỂM SOÁT BÁN HÀNG ĐA CẤP VÀ PHÁP LUẬT
VỀ KIỂM SOÁT BÁN HÀNG ĐA CẤP
1.1. BÁN HÀNG ĐA CẤP VÀ VẤN ĐỀ KIỂM SOÁT BÁN HÀNG ĐA CẤP
1.1.1. Khái quát về bán hàng đa cấp
1.1.1.1. Khái niệm bán hàng đa cấp
Bán hàng đa cấp là thuật ngữ dùng để chỉ một phương thức tiếp thị sản
phẩm, là hoạt động kinh doanh bán hàng trực tiếp đến tay người tiêu dùng, họ
có thể trực tiếp mua hàng tại công ty (hoặc qua một nhà phân phối (NPP) duy
nhất) mà không phải thông qua các đại lý hay cửa hàng bán lẻ. Cụ thể hơn,
việc lưu hành, bán và phân phối sản phẩm (nói cách khác là tiêu thụ hàng
hóa) được thực hiện qua một cơ cấu nhiều tầng bao gồm những cá nhân riêng
biệt hoạt động độc lập. Những cá nhân này không phải là người lao động của
công ty, họ là đối tác phân phối hàng hóa cho công ty đóng vai trò như những
đại lý, giới thiệu sản phẩm và thu hút khách hàng thông qua những kết quả sử
dụng của bản thân và những người quen biết và có khoản thu nhập nhất định.
Ngoài ra, họ còn giúp đỡ những người khác cùng tham gia doanh nghiệp
BHĐC (Multi Level Marketing), hướng dẫn họ cách xây dựng mạng lưới
phân phối viên của riêng mình, mạng lưới đó thường được gọi là downline
(tuyến dưới) [30]. Nhờ vậy, hình thức bán hàng này tiết kiệm được rất nhiều
chi phí từ việc quảng cáo, khuyến mại, tiền sân bãi, kho chứa, vận chuyển
hàng hóa và số tiền này được dùng để trả thưởng cho NPP và nâng cấp, cải
tiến sản phẩm tiếp tục phục vụ người tiêu dùng.
Bán hàng đa cấp cùng với bán hàng đơn cấp (Single Level Marketing) -
nhân viên tiếp thị bán lẻ sản phẩm trực tiếp cho người tiêu dùng và hưởng hoa
hồng trên số lượng sản phẩm do chính mình tiêu thụ được) tạo thành hai hình
thức bán hàng trực tiếp cơ bản. Thuật ngữ "Multi Level Marketing" tại Việt
13. 13
Nam được dịch ra tiếng Việt với nhiều tên gọi khác nhau nhau như "Kinh
doanh theo mạng (Network Marketing)", "Kinh doanh đa cấp", "Bán hàng đa
cấp", "Tiếp thị đa tầng"...trong đó tên gọi "Bán hàng đa cấp" là tên gọi thông
dụng nhất.
Ở Việt Nam BHĐC được chính thức công nhận theo pháp luật Việt
Nam kể từ khi khoản 11 Điều 3 Luật Cạnh tranh (2004) đưa ra định nghĩa về
phương thức này. Theo đó, thuật ngữ Multi Level Marketing được dịch là
"Bán hàng đa cấp" được định nghĩa là một phương thức bán hàng trực tiếp,
trong đó việc lưu hành, bán và phân phối sản phẩm (nói cách khác là tiêu thụ
hàng hóa) được thực hiện qua một cơ cấu nhiều tầng bao gồm những cá nhân
riêng biệt hoạt động độc lập. Luật Cạnh tranh cũng chỉ rõ BHĐC là phương
thức tiếp thị để bán lẻ hàng hóa đáp ứng các điều kiện sau đây:
Một là, việc tiếp thị để bán lẻ hàng hóa được thực hiện thông qua
mạng lưới người tham gia BHĐC gồm nhiều cấp, nhiều nhánh khác nhau.
Hai là, hàng hóa được người tham gia BHĐC tiếp thị trực tiếp cho
người tiêu dùng tại nơi ở, nơi làm việc của người tiêu dùng hoặc địa điểm
khác không phải là địa điểm bán lẻ thường xuyên của doanh nghiệp hoặc của
người tham gia.
Ba là, người tham gia BHĐC được hưởng tiền hoa hồng, tiền thưởng
hoặc lợi ích kinh tế khác từ kết quả tiếp thị bán hàng của mình và của người
tham gia cấp dưới trong mạng lưới do mình tổ chức và mạng lưới đã được
doanh nghiệp BHĐC chấp thuận.
Khái niệm về BHĐC cũng được đề cập trong Nghị định 42/2014/NĐ-CP
ngày 14/05/2014 của Chính phủ về quản lý hoạt động BHĐC (thay thế Nghị
định 110/2005/NĐ-CP ngày 24/8/2005 của Chính phủ về quản lý hoạt động
BHĐC). Cụ thể, tại Điều 3 đã định nghĩa: "Kinh doanh theo phương thức đa
cấp là hình thức kinh doanh thông qua mạng lưới người tham gia gồm nhiều
cấp, nhiều nhánh khác nhau, trong đó, người tham gia được hưởng hoa hồng,
14. 14
tiền thưởng và các lợi ích kinh tế khác từ hoạt động kinh doanh của mình và
của mạng lưới do mình xây dựng".
1.1.1.2. Đặc điểm của hoạt động bán hàng đa cấp
Từ nghiên cứu khái niệm và bản chất của hoạt động BHĐC, có thể rút
ra một số đặc điểm của phương thức BHĐC như sau:
Thứ nhất, BHĐC là hoạt động kinh doanh bán hàng trực tiếp đến tay
người tiêu dùng thông qua phương thức tiếp thị để bán lẻ hàng hóa. Đặc điểm
này cũng được khẳng định tại khoản 2 Điều 3 Nghị định 42/2014/NĐ-CP.
Trước hết chúng ta khẳng định đây là phương thức bán lẻ hàng hóa, nói cách
khác thông qua mạng lưới người tham gia bán hàng doanh nghiệp tổ chức
BHĐC sẽ thiết lập được mối quan hệ mua bán sản phẩm trực tiếp với người
tiêu dùng mà không cần tốn các chi phí, khoản đầu tư, thành lập, duy trì mạng
lưới phân phối dưới dạng cửa hàng giới thiệu sản phẩm hoặc đại lý phân phối
theo pháp luật thương mại. Doanh nghiệp BHĐC thường là doanh nghiệp trực
tiếp sản xuất hàng hóa được tiếp thị và bán lẻ bằng phương thức đa cấp hoặc
cũng có thể là doanh nghiệp phân phối hàng hóa do doanh nghiệp khác sản
xuất, do vậy, thông qua phương thức BHĐC người tiêu dùng có cơ hội mua
được những sản phẩm từ chính gốc, tránh những rủi ro có thể phát sinh trong
quá trình phân phối như nạn hàng giả, hàng kém chất lượng, giá cả không
trung thực.
Thứ hai, doanh nghiệp BHĐC tiếp thị hàng hóa thông qua những
người tham gia được tổ chức ở nhiều cấp, nhiều nhánh khác nhau. Có thể nói,
người tham gia BHĐC là những cộng tác viên trong việc tiếp thị và bán lẻ
hàng hóa cho doanh nghiệp và được gọi là NPP. Trong hoạt động của mình,
NPP thực hiện việc giới thiệu và bán hàng hóa trực tiếp cho người tiêu dùng
mà không qua một cửa hàng hay đại lý nào. NPP ở đây không phải là đại lý
phân phối sản phẩm cho doanh nghiệp theo quy định của Luật thương mại,
không là cửa hàng tiêu thụ sản phẩm do doanh nghiệp thành lập. Như vậy, khi
15. 15
giới thiệu và bán lẻ sản phẩm, bản thân doanh nghiệp có hàng hóa không phải
là người trực tiếp thiết lập quan hệ với người tiêu dùng mà việc bán hàng
được thực hiện thông qua mạng lưới người tham gia, cho nên doanh nghiệp
BHĐC không có mối quan hệ trực tiếp với khách hàng. NPP cũng không phải
nhân viên của doanh nghiệp. Do đó, doanh nghiệp không phải chịu trách
nhiệm về hành vi của người tham gia trước khách hàng tiêu thụ sản phẩm.
Trách nhiệm của doanh nghiệp chỉ giới hạn trong phạm vi chất lượng sản
phẩm và các thông tin liên quan đến sản phẩm do họ công bố.
Hàng hóa được NPP tiếp thị tại nơi ở, nơi làm việc của người tiêu
dùng, hoặc địa điểm khác không phải là địa điểm bán lẻ thường xuyên của
doanh nghiệp hay của NPP (Điểm b khoản 11 Điều 3 Luật Cạnh tranh). Họ
trực tiếp gặp gỡ người tiêu dùng để giới thiệu và bán lẻ sản phẩm và do đó, họ
không phải đăng ký kinh doanh khi tham gia BHĐC. Mỗi người tham gia
BHĐC được tổ chức một mạng lưới phân phối mới và việc này phải được sự
đồng ý của doanh nghiệp. Chính vì vậy, số người tham gia ở cấp sau luôn
nhiều hơn so với cấp trước nó, làm cho phương thức kinh doanh này tạo ra
một hệ thống phân phối theo hình tháp. Trong hoạt động của mình, NPP thực
hiện việc giới thiệu và bán hàng hóa trực tiếp cho người tiêu dùng mà không
qua một cửa hàng hay đại lý nào cả. Hoạt động của hệ thống đa cấp được tổ
chức thành mạng lưới nhiều cấp, cấp dưới luôn có người tham gia nhiều hơn
cấp trên. Trong quan hệ nội bộ của một mạng lưới, người tham gia ở cấp trên
có vai trò tổ chức và điều hành hoạt động của những người trong mạng lưới
cấp dưới mình. Như vậy phương thức kinh doanh này đã tạo ra một hệ thống
phân phối theo hình tháp.
Thứ ba, người tham gia BHĐC được hưởng tiền hoa hồng, tiền thưởng,
lợi ích kinh tế khác từ kết quả bán hàng của mình và của người tham gia khác
trong mạng lưới do họ tổ chức ra. Cách thức phân chia lợi ích như trên không
chỉ kích thích người tham gia tích cực tiêu thụ hàng hóa mà còn kích thích họ
16. 16
tích cực tạo lập hệ thống phân phối cấp dưới. Khoản lợi nhuận hoa hồng của
các NPP sẽ phụ thuộc vào khoản tiền chênh lệch giá trị khi họ lấy hàng hóa từ
doanh nghiệp với giá sỉ và bán ra với giá lẻ đã được công ty ấn định và số hoa
hồng trích từ phần trăm hoa hồng của những người tham gia ở cấp dưới do
mình xây dựng nên.
Đặc điểm của hoạt động BHĐC có thể thấy rõ hơn khi so sánh với các
hình thức phân phối, tiêu thụ hàng hóa truyền thống như bán buôn, bán lẻ, đại
lý hay nhượng quyền thương mại… Cụ thể như sau:
Thứ nhất, quyền sở hữu hàng hóa trong hoạt động BHĐC do NPP nắm
giữ khi hàng hóa được chuyển giao cho họ, mặc dù trong quan hệ BHĐC,
người tham gia BHĐC có thể trả lại hàng hóa trong một số trường hợp. Đặc
điểm này phân biệt rõ nét với hoạt động bán hàng thông qua đại lý khi mà
quyền sở hữu hàng hóa vẫn do bên giao đại lý nắm giữ.
Thứ hai, trong BHĐC, về nguyên tắc, giá bán hàng hóa cho người tiêu
dùng là giá ban đầu do doanh nghiệp ấn định, người tham gia BHĐC không
có quyền bán sản phẩm với giá cao hơn. Đặc điểm này phân biệt với hình
thức bán buôn vì hàng hóa từ đại lý bán buôn sẽ qua các đại lý bán lẻ mới có
thể đến tay người tiêu dùng nên giá hàng hóa thường bị đẩy lên cao do các
khâu trung gian có quyền hưởng hoa hồng trên phần chênh lệch giá.
Thứ ba, các NPP trong mạng lưới BHĐC được quyền sở hữu hàng hóa
và tuyển dụng thêm người tuyến dưới, mở rộng mạng lưới phân phối của công
ty. Điều này không thể có ở hoạt động bán lẻ hàng hóa.
Thứ tư, đối với hoạt động BHĐC thì chủ thể tham gia BHĐC chỉ có
thể là cá nhân, đối tượng trong hợp đồng BHĐC chỉ là sản phẩm của doanh
nghiệp BHĐC, các phân phối viên trong mạng lưới BHĐC chỉ cần đáp ứng
yêu cầu cung cấp sản phẩm đúng với thông tin được doanh nghiệp công bố về
giá cả, chất lượng, công dụng. Họ hoạt động nhân danh chính mình chứ
không hoạt động dưới danh nghĩa của công ty. Đặc điểm này phân biệt rõ nét
17. 17
với hoạt động nhượng quyền thương mại vì chủ thể tham gia nhượng quyền
thương mại có thể là cá nhân hoặc pháp nhân, đối tượng trong hợp đồng ký
kết giữa các bên nhượng quyền là toàn bộ quyền thương mại của bên nhượng
quyền (bao gồm tên thương mại, nhãn hiệu hàng hóa, bí mật kinh doanh,
phương thức quản lý, tổ chức hệ thống bán hàng…), hoạt động của hệ thống
nhượng quyền thương mại phải đảm bảo tính đồng bộ. Điều đó tức là tất cả
các bên nhượng quyền đều phải kinh doanh dưới một tên chung (nhân danh
bên nhượng quyền), hệ thống cửa hàng được thiết kế giống nhau và hàng hóa
cung cấp cũng phải giống nhau cả về chất lượng lẫn giá cả.
Có thể thấy rằng, hoạt động kinh doanh BHĐC thể hiện sự tự do trong
kinh doanh về cả phương diện kinh tế và phương diện pháp lý. Về phương
diện kinh tế, hoạt động BHĐC thể hiện sự tự do trong việc quyết định cách
thức bán hàng hóa của doanh nghiệp và NPP, cách thức trả thưởng và tiền hoa
hồng, cách xây dựng mạng lưới phân phối để tiêu thụ hàng hóa một cách có
hiệu quả nhất. Về góc độ pháp lý, hoạt động BHĐC thể hiện ý chí tự do định
đoạt của các chủ thể tham gia hoạt động BHĐC thông qua quyền tự do kinh
doanh đã được pháp luật thừa nhận, doanh nghiệp được quyền kinh doanh
những hàng hóa và dịch vụ mà pháp luật cho phép và tự do giao kết hợp đồng
với các NPP trên cơ sở pháp luật để mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm của
doanh nghiệp.
1.1.1.3. Vai trò của hoạt động bán hàng đa cấp
Bán hàng đa cấp đã được nhận định là phương thức tiếp cận người
tiêu dùng hữu hiệu nhất những năm 90 trên tạp chí "Business" - một tạp chí
kinh doanh hàng đầu của Mỹ. Cho đến ngày nay, người ta vẫn không thể phủ
nhận đây là một ngành kinh doanh hiệu quả và nhiều triển vọng.
Thứ nhất, BHĐC tạo nên thay đổi lớn về thương mại. Cụ thể, thay vì
đi siêu thị hay đến tận các cửa hàng mua sắm theo kiểu truyền thống, giờ đây
với sự ra đời của loại hình BHĐC, người tiêu dùng đang dần chuyển sang
18. 18
mua sắm qua internet, qua catalogue, qua tivi... Và BHĐC với mô hình kinh
doanh BHĐC đang ngày càng đóng vai trò lớn trong sự thay đổi này. BHĐC
giúp các doanh nghiệp tiết kiệm chi phí quảng cáo, thuê mặt bằng, kho bãi,
vận chuyển... Đồng thời, nó còn là một phương thức tiếp cận khách hàng hiệu
quả trong thời buổi người tiêu dùng vô cùng bận rộn hiện nay.
Thứ hai, BHĐC cung cấp hàng hóa chất lượng cao, giá cả phù hợp
cho xã hội. Hiện nay, BHĐC đang phát triển mạnh ở 125 nước trên khắp các
châu lục, với hơn 30.000 công ty lớn đã áp dụng phân phối hàng hóa theo mô
hình BHĐC. Các công ty BHĐC phân phối rất nhiều các mặt hàng khác nhau
như: thời trang, đồ trang sức, sản phẩm vệ sinh gia đình, sản phẩm dinh
dưỡng, hóa mỹ phẩm... Hầu hết các sản phẩm của các công ty BHĐC lớn và
nổi tiếng hiện nay đều có nguồn gốc hữu cơ, được thử nghiệm lâm sàng, được
cấp bằng sáng chế và kiểm nghiệm. Mặt khác, vì các doanh nghiệp BHĐC
không phải tốn chi phí cho quảng cáo, thuê kho bãi, lưu thông hàng hóa....
nên giá cả hàng hóa của các doanh nghiệp này thường rất "mềm" và cạnh
tranh với sản phẩm cùng loại của các doanh nghiệp khác. So với các doanh
nghiệp kinh doanh theo kiểu truyền thống thì các doanh nghiệp BHĐC loại bỏ
được các khâu trung gian, tiết kiệm được chi phí trong quá trình lưu thông,
phân phối hàng hóa. Đối với hình thức kinh doanh truyền thống thì sản phẩm
muốn đến tay người tiêu dùng thì thường phải trải qua nhiều bước, nhiều công
đoạn. Một sản phẩm xuất xưởng, hoặc nhập khẩu về trước hết sẽ được phân
phối đến các đại lý khu vực - đại lý bán sỉ - rồi đến các cửa hàng bán lẻ,
những người mua hàng đơn thuần sẽ mua hàng trực tiếp tại các cửa hàng bán
lẻ. Thông thường các khâu này chiếm từ 20% - 30% giá bán ra của một sản
phẩm. Bên cạnh đó doanh nghiệp kinh doanh truyền thống còn phải bỏ ra một
khoản chi phí lớn cho quảng cáo, tiếp thị, tuyên truyền và khuyến mãi sản
phẩm. Như vậy chi phí mà các doanh nghiệp kinh doanh truyền thống bỏ ra
cho quảng cáo là rất lớn cùng với việc tăng giá ở mỗi khâu trung gian đã đẩy
19. 19
giá thành tăng sản phẩm tăng lên rất nhiều. Nhưng đối với phương thức
BHĐC thì các doanh nghiệp giảm thiểu chi phí quảng cáo một cách tối đa, họ
không cần phải chi một số tiền khổng lồ để "lôi kéo" khách hàng. Sản phẩm
từ doanh nghiệp sẽ được phân phối trực tiếp đến tay người tiêu dùng không
qua khâu trung gian nào, cũng như không tốn chi phí cho quảng cáo. Vì thế
giá cả sản phẩm của các doanh nghiệp BHĐC thường mềm hơn và có tính
cạnh tranh với các sản phẩm cùng loại của các doanh nghiệp khác.
Thứ ba, BHĐC giải quyết việc làm cho xã hội. BHĐC có khả năng tạo
cơ hội việc làm cho mọi đối tượng, giải quyết nhiều công ăn việc làm, nâng
cao thu nhập, cải thiện chất lượng cuộc sống. Đối với những ngành nghề khác
để được làm việc trong các doanh nghiệp thì người lao động phải đáp ứng
những điều kiện nhất định như vốn, bằng cấp, trình độ, kinh nghiệm… Còn
tham gia mạng lưới BHĐC thì chỉ cần họ có nhiệt huyết sau đó sẽ được công
ty đào tạo miễn phí, trang bị những kiến thức liên quan về BHĐC. Do đó từ
những người nội trợ đến học sinh, sinh viên đều có thể tranh thủ thời gian
nhàn rỗi của mình để BHĐC tăng thêm thu nhập. Thực tế trong thời gian qua
đã có số lượng đông đảo người tham gia BHĐC với rất nhiều thành phần
trong xã hội. Theo thống kê của WFDSA (Liên đoàn Bán hàng trực tiếp thế
giới) năm 2010 thì tổng số người tham gia trong ngành BHĐC trên thế giới đã
lên tới hơn 75 triệu người [22].
1.1.2. Khái quát về kiểm soát bán hàng đa cấp
Kiểm soát nói chung được hiểu là vấn đề xem xét các hành vi, yếu tố
trái với quy tắc, luật lệ, kỷ luật,…và xem xét nhằm phát hiện và ngăn chặn
các hành vi vi phạm quy định. Kiểm soát BHĐC nói riêng là hoạt động của
các chủ thể bao gồm nhà nước, các cơ quan quản lý, doanh nghiệp, NPP,
người tiêu dùng nhằm mục đích phát hiện và ngăn chặn các hành vi BHĐC vi
phạm pháp luật thông qua hệ thống các quy định và chế tài trong lĩnh vực
BHĐC. Trong đó, Nhà nước và các cơ quan quản lý kiểm soát hoạt động
20. 20
BHĐC của các doanh nghiệp và NPP sao cho các hoạt động được thực hiện
theo đúng khuôn khổ pháp luật, các doanh nghiệp BHĐC thì kiểm soát hoạt
động của các NPP sao cho các hoạt động được thực hiện theo đúng quy định
của bản thân doanh nghiệp và quy định của pháp luật, đồng thời kiểm soát
hoạt động của các doanh nghiệp BHĐC khác để tránh các hành vi cạnh tranh
không lành mạnh trong lĩnh vực BHĐC. Các NPP thì kiểm soát hoạt động của
các doanh nghiệp để đảm bảo quyền lợi chính đáng cho chính mình và những
người tiêu dùng sử dụng sản phẩm của doanh nghiệp, người tiêu dùng thì
kiểm soát hoạt động BHĐC của các doanh nghiệp và NPP để đảm bảo quyền
lợi của chính họ không bị xâm phạm bởi những hành vi tiêu cực từ phía các
doanh nghiệp và các NPP.
Có những bước phát triển tích cực sau hơn 12 năm xuất hiện tại Việt
Nam, nhưng khi nhắc tới BHĐC, vẫn còn không ít người cho rằng đây là hình
thức 'lừa đảo' bởi lẽ bên cạnh những doanh nghiệp kinh doanh chân chính,
vẫn còn không ít doanh nghiệp và cả NPP lợi dụng phương thức kinh doanh
này để thu lợi bất chính, gây thiệt hại cho cả người tham gia và người tiêu
dùng. Đặc biệt, những vụ việc liên tiếp xảy ra gần đây như Công ty Agel sụp
đổ hay MB24, Công ty cổ phần Đầu tư Tâm Mặt Trời và Công ty cổ phần
Đầu tư thương mại dịch vụ Cộng Đồng Việt bị khởi tố vì có hành vi kinh
doanh lừa đảo, lại càng tác động tiêu cực đến mô hình BHĐC chân chính.
Phần lớn các công ty đều có công ty nước ngoài núp bóng và chỉ đạo, đồng
thời cung cấp hàng hóa, chi phí quảng cáo, tiếp thị. Cách thức kinh doanh phổ
biến là không có trách nhiệm, sẵn sàng đóng cửa chuyển địa điểm, lập doanh
nghiệp mới. Phương thức kinh doanh này phức tạp về cách tổ chức nên việc
kiểm soát hệ thống phân phối đa cấp trở nên rất khó khăn, rất dễ bị lợi dụng
để phục vụ mưu đồ lừa đảo. Hình thức kinh doanh thường dùng là lấy hàng
hóa để che đậy hành vi lừa đảo của mình. Các doanh nghiệp bán hàng theo
phương thức BHĐC thường bán các sản phẩm không phổ biến. Để được tham
21. 21
gia hệ thống (cộng tác viên, NPP, hợp tác viên…), người tiêu dùng phải bỏ ra
số tiền rất lớn để mua quyền được trở thành NPP bán sản phẩm và bảo trợ
người khác tham gia dưới hình thức mua sản phẩm với giá rất cao so với giá
trị thực từ gấp 5- 6 lần đến gấp 40- 50 lần. Do vậy, sản phẩm không thể bán
cho người tiêu dùng mà chủ yếu chỉ bán cho những NPP mới, vì có mua sản
phẩm mới được tham gia hệ thống. Người tiêu dùng phải bỏ ra số tiền lớn đi
mua giá trị ảo quá cao so với giá trị thực của sản phẩm và cũng chính những
người này tham gia mạng lưới tuyên truyền sản phẩm có tác dụng mơ hồ, tự
cho là chữa bách bệnh. Để bán được nhiều sản phẩm, chiêu dụ được nhiều
NPP, các công ty kinh doanh theo phương thức BHĐC bất chính thường tổ
chức các buổi thuyết trình ấn tượng, được hưởng hoa hồng cao từ 5- 40%, có
tiền bạc, nhà cửa, kim cương… mục đích là đánh vào lòng tham của những
người muốn làm giàu mà không cần phải cực nhọc [36].
Đây là một thủ thuật kinh doanh BHĐC bất chính "đã tạo ra một tầng
lớp dịch vụ ảo, không tạo ra của cải cho xã hội. doanh trái đạo đức không thể
chấp nhận được. Nếu không được ngăn chặn sẽ gây hậu quả nặng nề cho xã
hội không chỉ về mặt kinh tế mà cả trên sức khỏe con người" [36].
Sự biến tướng của kinh doanh đa cấp cũng như những phức tạp trong
quản lý ngành kinh doanh này đang gây hệ lụy xấu cho phương thức BHĐC
tại Việt Nam. Cho dù tiềm năng của phương thức này là rất lớn, như theo
nguồn tin từ Bộ Công thương, tổng mức hàng hóa bán lẻ và doanh thu dịch vụ
tiêu dùng trong 6 tháng đầu năm đạt gần 1.500 tỉ đồng, tăng 10,73% so với
cùng kỳ năm 2013 song thực trạng này khiến các doanh nghiệp BHĐC dễ bị
hiểu lầm, đánh đồng với các doanh nghiệp BHĐC bất chính. Hiện nay, ở Việt
Nam, rất nhiều người dân bị lừa đảo chiếm đoạt tiền, trong đó, chủ yếu là học
sinh sinh viên, những người không có công việc ổn định. Gần đây, đối tượng
bị nhắm đến là người dân vùng sâu, vùng xa, nơi thông tin không được tiếp
cận đầy đủ, kịp thời. Điều đó khiến cho dư luận hết sức bất bình. Rất nhiều
22. 22
người phản đối loại hình kinh doanh này. Bất cứ khi nào nhắc đến BHĐC là
họ lại nghĩ ngay đến lừa đảo, gian dối thậm chí có người còn cho rằng không
nên cho phép BHĐC có mặt ở Việt Nam. Có thể nói đây là những phản ứng
có phần thiếu kiến thức và thái quá nhưng không phải không có nguyên nhân.
Điều này khiến cho các công ty BHĐC chân chính bị ảnh hưởng lớn khi mà
họ tốn nhiều công sức để phân phối sản phẩm một cách chính đáng lại bị bôi
nhọ uy tín vì các công ty BHĐC bất chính, lừa đảo. Lợi dụng các kẽ hở của
pháp luật, sự thiếu hiểu biết của đại đa số người dân về BHĐC cũng như sự
vụ lợi, tham lam của một số cá nhân, các công ty BHĐC bất chính đã chiếm
đoạt hàng trăm tỷ đồng từ tay người tiêu dùng và những người tham gia, làm
dậy lên một làn sóng phản đối mạnh mẽ trong nhân dân, các công ty hoạt
động chân chính bị thiệt hại, người dân mất lòng tin và cơ quan nhà nước gặp
khó khăn trong việc quản lý.
Thực trạng của hoạt động BHĐC như đã nêu đặt ra một yêu cầu bức
thiết là cần phải có sự kiểm soát thông qua những mô hình và phương pháp
được thực hiện bởi các chủ thể trực tiếp tham gia vào quan hệ BHĐC, các tổ
chức xã hội cũng như của nhà nước và các cơ quan quản lý khác.
1.2. PHÁP LUẬT VỀ KIỂM SOÁT BÁN HÀNG ĐA CẤP
1.2.1. Khái niệm pháp luật về kiểm soát bán hàng đa cấp
Pháp luật về kiểm soát BHĐC là tổng thể các quy phạm pháp luật do
nhà nước ban hành nhằm tạo ra một cơ chế quản lý đối với hoạt động BHĐC.
Mục đích chung của các quy phạm pháp luật này là thiết lập một cơ chế quản
lý hiệu quả đối với BHĐC, phát huy được những ưu điểm vượt trội của
phương thức này cũng như hạn chế tối đa và xử lý nghiêm minh các hành vi
BHĐC bất chính nảy sinh trong quá trình thực thi. Hệ thống các quy phạm
pháp luật trong lĩnh vực kiểm soát BHĐC chỉ rõ quyền và nghĩa vụ của các
chủ thể tham gia vào hoạt động BHĐC cũng như của các cơ quan quản lý
nhằm tạo cơ sở pháp lý cho các chủ thể nói trên thực hiện hoạt động BHĐC
23. 23
theo đúng quy định, không gây ra các thiệt hại cũng như không làm biến
tướng hoạt động BHĐC chân chính. Tuy nhiên, khi các doanh nghiệp và các
NPP cố tình thực hiện các hành vi vi phạm trong lĩnh vực BHĐC thì pháp luật
đã dự trù sẵn các quy định về các biện pháp xử lý các vi phạm đó đồng thời
quy định rất cụ thể thẩm quyền xử lý vi phạm thuộc về cơ quan nào và các
hình thức xử lý phù hợp với từng loại hành vi vi phạm.
Pháp luật về kiểm soát BHĐC trở thành công cụ, phương tiện bảo vệ
quyền và lợi ích chính đáng của các doanh nghiệp tổ chức BHĐC, NPP,
người tiêu dùng và các chủ thể có liên quan tham gia vào hoạt động BHĐC.
Trước đây, khi ngành kinh doanh đa cấp chưa ra đời thì các nhà sản xuất chủ
yếu tập trung vào quảng cáo khuyến mại để thu hút sự chú ý của người tiêu
dùng. Chi phí dành cho các hoạt động quảng cáo, khuyến mại ngày càng tăng
cao và cũng không đảm bảo chắc chắn về khả năng tiêu thụ sản phẩm sẽ tăng,
các nhà sản xuất không kiểm soát được tính hiệu quả của công vụ quảng cáo,
tiếp thị truyền thống bởi ngày nay thông tin truyền thông, các kênh thông tin
trực tuyến ngày càng nhiều dẫn đến hiện tượng quá tải thông tin đã làm người
tiêu dùng bị mất định hướng. Phương thức kinh doanh đa cấp ra đời đã trở
thành một giải pháp phân phối mới, giúp đưa hàng hóa đến người tiêu dùng
nhanh hơn, hiệu quả hơn và có lợi hơn với giá thấp hơn rất nhiều so với các
phương pháp kinh doanh truyền thống. Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích
cực thì mô hình kinh doanh này bộc lộ những mặt hạn chế với sự xuất hiện
của các hình thức kinh doanh lừa đảo, gian dối do vậy đòi hỏi phải có hành
lang pháp lý hoàn thiện để tăng cường quản lý loại hình kinh doanh này. Đó
cũng chính là lý do vì sao cần thiết phải có một hệ thống các quy phạm pháp
luật kiểm soát hoạt động BHĐC để hoạt động BHĐC diễn ra theo đúng khuôn
khổ pháp luật, thúc đẩy mô hình kinh doanh này phát triển phát huy những ưu
điểm cũng như mặt tích cực của nó, đồng thời bảo vệ tốt nhất quyền lợi cho
các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực này, các NPP và người tiêu dùng.
24. 24
1.2.2. Nguyên tắc kiểm soát bán hàng đa cấp
Bài báo "Xóa bỏ tư duy "cấm đoán" " của tác giả Hiểu Long đăng trên
Báo Đầu tư ngày 23 tháng 5 năm 2005 đưa tin: Phó Giáo sư Tiến sĩ Đặng Văn
Thanh, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế và Ngân sách của Quốc hội khẳng
định, bản chất của hoạt động kinh doanh đa cấp là một phương thức kinh
doanh hiện đại, hiệu quả, rất phổ biến ở các nước phát triển. Việc phương
thức này xuất hiện ở Việt Nam nhưng bị biến tướng và bóp méo bởi một số
thương nhân làm ăn không chân chính nhằm phục vụ mục đích tư lợi cá nhân
gây ảnh hưởng tiêu cực tới xã hội và quyền lợi của người tiêu dùng trong thời
gian qua chỉ là hiện tượng nhỏ lẻ. Theo PGS Thanh, nếu chỉ vì một vài hiện
tượng cá biệt này mà không thừa nhận sự tồn tại của phương thức kinh doanh
đa cấp cũng như những tác động tích cực của nó trong việc kích thích nhu cầu
tiêu dùng của xã hội, tăng cường lưu thông hàng hoá để thúc đẩy kinh tế phát
triển sẽ là một quan điểm hết sức sai lầm và không phù hợp với chủ trương
hội nhập kinh tế của nước ta. Cũng theo ông Lý Trường Chiến, chuyên viên
tư vấn cấp cao về kinh tế và chiến lược phát triển doanh nghiệp, nguyên
trưởng phòng kinh doanh của Unilever Vietnam thì BHĐC không có gì sai,
nếu không muốn nói là rất thuyết phục, đặc biệt đối với những doanh nhân
mới khởi nghiệp.
Bán hàng đa cấp ngày càng phát triển rộng rãi, được nhiều người
ngưỡng mộ đồng thời cũng không ít người phản đối. Một trong những nguyên
nhân phổ biến dẫn đến nghi ngờ hoặc phản đối chính là sự lẫn lộn giữa kinh
doanh thương mại, dạng kinh doanh hợp pháp với hình tháp ảo là dạng lừa
đảo đang bị cấm ở tất cả các nước trên thế giới. Vì vậy để BHĐC thực sự trở
thành ngành kinh doanh ưu việt, hấp dẫn được các doanh nghiệp cũng như
người tham gia, đồng thời xóa bỏ, đẩy lùi những vấn nạn lừa đảo, gian dối
trong hoạt động BHĐC thì việc kiểm soát hoạt động này bằng pháp luật là
một nhu cầu thiết yếu. Pháp luật kiểm soát BHĐC dựa trên hai nguyên tắc đó
25. 25
là nguyên tắc kiểm soát dưới sự giám sát, kiểm tra của các cơ quan quyền lực
nhà nước, các cơ quan quản lý có thẩm quyền và nguyên tắc tự kiểm soát của
các chủ thể tham gia hoạt động BHĐC.
Thứ nhất, nguyên tắc kiểm soát dưới sự giám sát, kiểm tra của các cơ
quan quyền lực nhà nước, các cơ quan quản lý có thẩm quyền. Dưới góc độ
là luật công tức là hoạt động BHĐC chịu sự điều chỉnh của pháp luật do nhà
nước ban hành, các cơ quan quyền lực nhà nước và các cơ quan quản lý có
thẩm quyền dựa trên các quy phạm pháp luật về kiểm soát BHĐC thực hiện
công tác kiểm tra, giám sát hoạt động của các doanh nghiệp tổ chức BHĐC và
các NPP. Bên cạnh các công tác kiểm tra, giám sát, các cơ quan quản lý còn
tiến hành các hoạt động tuyên truyền, hướng dẫn, giải thích và phổ biến pháp
luật về kiểm soát BHĐC tới các doanh nghiệp, NPP và cả những người tiêu
dùng. Như vậy các doanh nghiệp tổ chức BHĐC và các NPP thực hiện hoạt
động BHĐC phải dựa trên cơ sở pháp luật, tuân thủ đúng các quy định của
pháp luật về hàng hóa, giao kết hợp đồng, quy trình hoạt động, báo cáo,…nếu
có vi phạm sẽ bị xử lý bởi các cơ quan có thẩm quyền.
Thứ hai, nguyên tắc tự kiểm soát của các chủ thể tham gia hoạt động
BHĐC. Nguyên tắc này dựa trên quy định về quyền tự do kinh doanh. Các
doanh nghiệp tự chủ trong việc quyết định hoạt động kinh doanh BHĐC, giao
kết hợp đồng với các NPP, xây dựng quy chế doanh nghiệp, mô hình cách
thức trả thưởng,… các NPP có quyền tự chủ trong việc quyết định tham gia
vào mạng lưới BHĐC, cách thức xây dựng mạng lưới phân phối và cách thức
tiếp thị sản phẩm, dịch vụ,… người tiêu dùng tự do lựa chọn sản phẩm, dịch
vụ mà mình mong muốn. Nguyên tắc này thể hiện khía cạnh luật tư của pháp
luật về kiểm soát BHĐC.
Trên thực tế hiện nay, pháp luật về kiểm soát BHĐC chủ yếu nghiêng
về khía cạnh luật tư hay nói cách khác nó chủ yếu nghiêng về nguyên tắc tự
kiểm soát của các chủ thể tham gia hoạt động BHĐC. Vai trò của Nhà nước
26. 26
và các cơ quan quản lý trong công tác kiểm soát BHĐC còn rất mờ nhạt, thậm
chí là buông lỏng, lơ là việc kiểm soát các hoạt động của doanh nghiệp, tổ
chức BHĐC và NPP. Các cơ quan quản lý cũng chưa có sự phối hợp ăn ý
trong công tác kiểm soát BHĐC dẫn đến tình trạng hoạt động chồng chéo
hoặc bỏ sót. Chính thực trạng nêu trên dẫn tới hệ lụy xấu đó là các doanh
nghiệp phớt lờ các quy định của pháp luật về kiểm soát BHĐC, cố tình làm
trái hoặc tìm cách giấu giếm các sai phạm trong hoạt động kinh doanh BHĐC.
Hậu quả của việc tự do kinh doanh BHĐC không tuân theo quy định của pháp
luật về kiểm soát BHĐC dẫn tới cái nhìn sai lệch về mô hình kinh doanh này,
khiến người dân hoài nghi về chính hiệu quả của nó. Do đó, vấn đề đặt ra vô
cùng bức thiết đó là việc hoàn thiện hành lang pháp lý về kiểm soát BHĐC
chặt chẽ hơn nữa, quy củ hơn nữa để mô hình kinh doanh này thực sự phát
huy hiệu quả của nó, góp phần vào công cuộc phát triển nền kinh tế thị trường
nước ta hiện nay.
1.2.3. Nội dung của pháp luật về kiểm soát bán hàng đa cấp
So với ngành công nghiệp BHĐC thế giới, ngành BHĐC Việt Nam
còn rất non trẻ với tuổi đời trên 10 năm. Từ năm 1998 đã xuất hiện một vài
công ty đa cấp ở nước ta với quy mô hoạt động nhỏ lẻ thường va chạm với
pháp luật và khiến báo chí tốn không ít giấy mực. Không phải công ty nào
cũng làm ăn chân chính nên nảy sinh nhiều sự hiểu lầm về mô hình kinh
doanh BHĐC. Đến cuối năm 2004 Việt Nam đã có khoảng 20 công ty BHĐC.
Các công ty dần phát triển mạng lưới phân phối và lập ra nhiều chi nhánh từ
đó ngành BHĐC tại Việt Nam ngày càng mở rộng. Tuy nhiên, đến năm 2005
các hành lang pháp lý BHĐC tại Việt Nam mới dần hình thành các điều luật
và các quy định về BHĐC.
Các nước trên thế giới ban hành rất nhiều văn bản pháp luật điều
chỉnh hoạt động BHĐC. Nhiều nước còn ban hành luật riêng về vấn đề này.
Ví dụ như Đạo luật cấm khách hàng tiếp thị theo mô hình kim tự tháp (2003)
27. 27
của Mỹ, Luật về kinh doanh đa cấp của Anh (1990), Quy chế giám sát việc
BHĐC (1999) của Đài Loan, Quy tắc quản lý kinh doanh đa cấp của Trung
Quốc (1997)… Một số nước lại quy định trong Luật Thương mại (Australia,
Gruzia) hay Luật Hình sự (Đan Mạch). Tại Việt Nam, các văn bản pháp luật
quy định những vấn đề chung nhất về BHĐC (khái niệm, đối tượng tham gia,
hàng hóa được phân phối theo phương thức đa cấp, trách nhiệm và hành vi bị
cấm của doanh nghiệp và của người tham gia…) bao gồm: Luật Cạnh tranh
(2004) và các văn bản hướng dẫn thi hành; Nghị định số 42/2014/NĐ-CP về
quản lý hoạt động BHĐC (thay thế Nghị định số 110/2005/NĐ-CP).
Vấn đề liên quan đến việc đăng ký tổ chức BHĐC được quy định cụ
thể trong Thông tư số 24/2014/TT-BTM hướng dẫn thi hành Nghị định số
42/2014/NĐ-CP; Quyết định số 92/2005/QĐ-BTC về việc quy định mức thu,
chế độ thu, nộp, quản lý và sử dụng lệ phí cấp giấy đăng ký tổ chức BHĐC.
Vấn đề xử lý các vi phạm phát sinh trong quá trình doanh nghiệp tổ
chức BHĐC được quy định trong Nghị định số 120/2005/NĐ-CP về xử lý vi
phạm pháp luật trong lĩnh vực cạnh tranh.
Ngoài ra, trong hệ thống pháp luật Việt Nam còn có các văn bản pháp
luật khác điều chỉnh các hoạt động có liên quan đến BHĐC:
Một là, vấn đề thành lập, đăng ký kinh doanh và quản lý doanh nghiệp
được quy định trong Luật Doanh nghiệp (2005), Luật Đầu tư (2005) và hệ
thống các văn bản hướng dẫn thi hành.
Hai là, vấn đề quảng cáo hàng hóa được quy định trong Luật Thương
mại (2005) (phần về xúc tiến thương mại); Pháp lệnh về quảng cáo (2002) và
các văn bản hướng dẫn thi hành.
Ba là, vấn đề giá bán hàng hóa được quy định trong Pháp lệnh giá
(2002) và các văn bản hướng dẫn thi hành.
Bốn là, vấn đề chất lượng hàng hóa được quy định trong Luật chất
lượng sản phẩm, hàng hóa (2007) và các văn bản hướng dẫn thi hành.
28. 28
Năm là, vấn đề bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng được quy định trong
Luật bảo vệ người tiêu dùng (2010) và các văn bản hướng dẫn thi hành.
Như vậy có thể thấy vấn đề kiểm soát BHĐC được quy định ở rất
nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác nhau nhưng văn bản tập trung nhiều
vấn đề về quản lý BHĐC là Nghị định 42/2014/NĐ-CP ngày 14/05/2014 về
quản lý hoạt động BHĐC (thay thế cho Nghị định 110/2005/NĐ-CP ngày
28/04/2005), trong đó bao gồm các nội dung: (i) quy định về các chủ thể tham
gia vào hoạt động kiểm soát BHĐC - quyền và nghĩa vụ tương ứng; (ii) quy
định về Hợp đồng trong BHĐC - công cụ chủ yếu để kiểm soát BHĐC; (iii)
Vai trò điều tiết chủ yếu trong kinh tế thị trường về vấn đề kiểm soát BHĐC
của nhà nước.
1.3. MỘT SỐ NHÂN TỐ ẢNH HƢỞNG ĐẾN PHÁP LUẬT KIỂM SOÁT
BÁN HÀNG ĐA CẤP
1.3.1. Những nhân tố bên trong
Pháp luật về kiểm soát BHĐC ảnh hưởng bởi một số yếu tố chủ
quan, trong đó trước tiên phải kể đến là hệ thống chính sách của doanh
nghiệp. Các hệ thống chính sách như chi trả hoa hồng, sản phẩm, đào tạo và
cơ hội phát triển là những nhân tố quan trọng trong thu hút người tham gia
vào BHĐC. Tuy nhiên, các hệ thống này của doanh nghiệp Việt Nam còn
chưa hoàn chỉnh, tập trung nhiều vào việc thu hút người tham gia chứ không
phải là sản phẩm, do đó pháp luật kiểm soát BHĐC cần phải tạo ra các quy
định nhằm định hướng các doanh nghiệp xây dựng chính sách tập trung vào
sản phẩm để hạn chế hình thức kinh doanh bất chính trong lĩnh vực này.
Thêm nữa, nước ta đã gia nhập WTO và hội nhập ngày càng mạnh mẽ, số
lượng các công ty kinh doanh đa cấp cũng không ngừng tăng theo khiến cho
cạnh tranh nội bộ ngành thêm mạnh mẽ. Một yếu tố vừa khách quan và chủ
quan là sự không đoàn kết giữa các doanh nghiệp trong ngành với nhau.
Thậm chí có hiện tượng nói xấu công ty khác để thu hút khách hàng và NPP
29. 29
mới. Chính sự cạnh tranh không lành mạnh này khiến BHĐC ngày càng bị
nghi ngờ và khó khăn tiếp cận khách hàng hơn và là yếu tố ảnh hưởng rất lớn
tới pháp luật kiểm soát BHĐC.
Ngoài ra nhận thức của bản thân người tham gia BHĐC cũng ảnh
hưởng không nhỏ tới pháp luật kiểm soát BHĐC. Người tham gia cần hiểu rõ
bản chất của hình thức kinh doanh và có nhận thức rõ ràng về năng lực và
hiểu rằng muốn thành công trong kinh doanh theo mạng không dễ như người
khác vẫn nói. Tránh khi tham gia và gặp khó khăn liền bỏ cuộc và đưa ra đánh
giá chủ quan. Tuy vậy, ở Việt Nam bản thân người tham gia BHĐC còn thiếu
nhận thức về hình thức này nhưng với tâm lý chạy theo mời người để kiếm
hoa hồng, họ lôi kéo người khác tham gia. Tuy nhiên do thiếu hiểu biết, ảo tưởng
nên sau khi tham gia họ thất bại, chán nản, bỏ cuộc và đưa ra các bình luận chủ
quan khiến các luồng thông tin về BHĐC ngày càng nhiều chiều khó nhận
biết đúng sai. Mặt khác, bản thân những người này nếu thiếu nhận thức nhưng
vẫn cố tình bỏ qua chạy theo lợi nhuận, lôi kéo người khác tham gia khiến
BHĐC trở thành hình tháp ảo. Do vậy, để hạn chế tình trạng nêu trên, pháp
luật kiểm soát BHĐC cần phải hoàn thiện hơn nữa để những người tham gia
BHĐC có cái nhìn đúng đắn về BHĐC, hạn chế tình trạng vi phạm pháp luật.
1.3.2. Những nhân tố bên ngoài
Tình hình phát triển của nền kinh tế có tác động tới tất cả các
ngành nghề và BHĐC cũng không ngoại lệ. Giai đoạn 2000-2007 tốc độ phát
triển kinh tế của nước ta thuộc mức khá, nhu cầu tiêu dùng của người dân gia
tăng và hoạt động BHĐC phát triển khá mạnh mẽ. Gần đây, tuy tình hình kinh
tế biến động nhưng nền kinh tế vẫn ổn định, tiêu dùng không giảm, hoạt động
BHĐC vẫn duy trì phát triển. Cùng với sự phát triển của hoạt động BHĐC, hệ
thống pháp luật kiểm soát hoạt động này cũng phải duy trì và phát triển hơn
nữa. Tuy nhiên, thực tế pháp luật kiểm soát BHĐC còn mờ nhạt và chưa chặt
chẽ, nguyên nhân là do nhận thức của các cơ quan quản lý còn yếu kém, hiểu
30. 30
biết của người dân về BHĐC cũng còn rất mơ hồ, cụ thể: trình độ dân trí của
nước ta còn thấp, nhận thức của đông đảo quần chúng nhân dân về hình thức
mới mẻ này còn chưa đầy đủ khiến cho họ dễ bị kẻ xấu lợi dụng và khiến cho
hình thức kinh doanh này bị biến tướng mà khó bị phát hiện. Minh chứng rõ
nét cho điều này là trong giai đoạn 2000-2004 hàng loạt công ty kinh doanh
bất chính bị rút giấy phép nhưng trước đó nó đã lôi kéo, lừa đảo được hàng
chục nghìn người tham gia. Và vẫn tiếp diễn cho tơi ngày nay.
Ngoài ra hệ thống luật pháp chính trị nói chung cũng ảnh hưởng
không nhỏ tới pháp luật về kiểm soát BHĐC nói riêng. Điều kiện chính trị
nước ta tương đối ổn định ít bị biến động mạnh nên là điểm tới của nhiều
doanh nghiệp nước ngoài đến đầu tư và BHĐC cũng không là ngoại lệ. Mặt
khác,vì đây là một hình thức kinh doanh mới lạ nên hệ thống pháp luật điều
chỉnh và quản lý lĩnh vực này còn thiếu và yếu. Hiện nay mới có một số văn
bản pháp luật hướng dẫn chưa đầy đủ về việc thực hiện khiến BHĐC ở nước
ta khó quản lý, phát triển tự phát nhiều và gây ra nhiều hậu quả tiêu cực cho
nền kinh tế- xã hội. Nằm trong quan điểm tiếp cận phiến diện chung của đa số
dư luận, các nhà quản lý chỉ được tiếp cận từ mặt trái của hiện tượng, từ đó
xảy ra việc nhiều nhà quản lý đã gay gắt cho rằng cần phải cấm đoán triệt để
việc xây dựng hệ thống kinh doanh đa cấp. Điều này phản ánh năng lực và
tầm nhìn hạn chế của các nhà quản lý, kém cập nhật và ngại tiếp nhận cái
mới. Mặt khác nó còn là biểu hiện chung cho hệ thống quản lý của các cơ
quan hữu trách, đó là tư tưởng: "quản lý không được thì cấm". Chúng ta cần thay
đổi tư duy quản lý tiêu cực này để dọn đường cho những bước tiến cho xã hội.
1.4. KINH NGHIỆM PHÁP LUẬT MỘT SỐ QUỐC GIA VỀ KIỂM SOÁT
BÁN HÀNG ĐA CẤP
Bán hàng đa cấp với lịch sử phát triển gần một thế kỷ đã trải qua rất
nhiều thăng trầm. Kể từ khi được hình thành tới nay, BHĐC đã có mặt ở hầu
khắp các nước trên thế giới. Trong thập niên 1980, phương thức này phát triển
31. 31
mạnh tại các nước như Mỹ, Canada, Mexico, Brazil, Anh, Pháp, Đức, Thụy
Điển, Australia… Bước sang thập niên 1990, BHĐC phát triển mạnh ở nhiều
nước châu Á như Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Malaysia, Indonesia, Trung
Quốc, Thái Lan, v.v. Đầu thế kỷ 21, BHĐC bắt đầu được du nhập vào thị
trường Việt Nam và đạt được tổng doanh thu không ngờ trong hai, ba năm
đầu. Để hòa nhập với xu hướng chung của thế giới cũng như đáp ứng tình hình
thực tế tại Việt Nam, hành lang pháp lý về BHĐC đã dần hình thành. Tính đến
thời điểm này, các văn bản điều chỉnh hoạt động BHĐC đã được ban hành và
thực thi gần 7 năm, đã góp phần quan trọng vào việc đưa hoạt động BHĐC tại
Việt Nam đi vào khuôn khổ. Tuy nhiên, do được soạn thảo lần đầu tiên, mặc
dù đã tham khảo kinh nghiệm nhiều quốc gia trên thế giới nhưng chưa có kinh
nghiệm về thực tiễn quản lý tại Việt Nam nên tới nay các văn bản trên đã bộc
lộ nhiều bất cập, không đáp ứng được sự phát triển nhanh chóng của ngành
kinh doanh này, gây những khó khăn cho bản thân các đơn vị quản lý cũng
như các doanh nghiệp trong quá trình chấp hành pháp luật. Hơn nữa, trong
những năm gần đây, BHĐC không những gây ra nhiều bức xúc trong dư luận
xã hội mà còn gây ra nhiều vấn đề cho các cơ quan quản lý nhà nước.
Xuất phát từ những khó khăn đó, các cơ quan quản lý cũng như cộng
đồng doanh nghiệp BHĐC đều có kiến nghị sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện
khung quy định pháp luật về kiểm soát hoạt động BHĐC. Để sửa đổi, bổ
sung, hoàn thiện các quy định pháp luật quản lý hoạt động kinh doanh này,
một phần không thể thiếu là nghiên cứu kinh nghiệm của những quốc gia đi
trước trong quá trình họ xây dựng, sửa đổi các quy định pháp luật về BHĐC.
Tác giả xin đưa ra một số nội dung trong pháp luật về kiểm soát BHĐC của
một số nước như Mỹ, Trung Quốc và Đài Loan như sau:
Hoa Kỳ
Hoa Kỳ là quốc gia khởi nguồn của phương thức kinh doanh đa cấp.
Kinh doanh đa cấp gắn liền với tên tuổi của nhà hóa học người Hoa Kỳ Karl
32. 32
Renborg. Vào những năm đầu của thập niên 70, kinh doanh theo mạng bắt
gặp sự phản đối mãnh liệt từ phía công chúng. Nhiều người nhầm lẫn giữa
kinh doanh theo mạng với kinh doanh theo mô hình "kim tự tháp ảo" là hình
thức kinh doanh bất hợp pháp bị cấm ở Hoa Kỳ. Trước sự nhầm lẫn này,
Công ty Amway - Công ty đa cấp đầu tiên trên thế giới đã phải theo đuổi vụ
kiện kéo dài trong 4 năm (1975 - 1979). Năm 1979, Tòa án Thương mại liên
bang Hoa Kỳ tuyên bố phương thức kinh doanh BHĐC mà Amway áp dụng
không phải là "kim tự tháp ảo" và được chấp nhận về mặt luật pháp. Từ đó
dẫn đến sự ra đời lần đầu tiên những quy định pháp lý điều chỉnh phương
thức BHĐC.
Hệ thống luật pháp ở Hoa Kỳ là kết quả quá trình lịch sử phát triển từ
các chế độ thuộc địa đi lên thể chế liên bang. Sau khi chiến tranh giành độc
lập kết thúc, các tiểu bang (thuộc địa cũ) chọn gia nhập vào liên bang (hợp
chủng quốc) để tạo nên một quốc gia mới. Trong quá trình thương lượng giữa
13 tiểu bang đầu tiên khi lập quốc và viết nên Hiến pháp, các tiểu bang muốn
duy trì chính phủ và luật riêng của mình, và chỉ đồng ý bàn giao một số quyền
nhất định cho chính quyền liên bang. Không nằm ngoài quy luật đó, về quan
điểm xây dựng pháp luật điều chỉnh hoạt động kinh doanh đa cấp, chính phủ
Hoa Kỳ không ban hành một đạo luật riêng biệt nào quản lý hoạt động kinh
doanh đa cấp. Các công ty BHĐC hoạt động ở bang nào sẽ tuân thủ các quy
định pháp luật tại bang đó. Ngoài ra, những công ty này cũng phải tuân thủ
quy định của Cục Quản lý Dược liên bang về thông tin được phép công bố
trên nhãn mác sản phẩm. Đồng thời, các công ty BHĐC ở Hoa Kỳ phải thực
hiện các nghĩa vụ về kinh tế như nộp thuế ở mỗi bang họ hoạt động. Về
nguyên tắc chung đối với hoạt động kinh doanh đa cấp tại Hoa Kỳ, Hiệp hội
bán hàng trực tiếp Hoa Kỳ đã ban hành Bộ Tiêu chuẩn đạo đức của hiệp hội.
Bộ Tiêu chuẩn này là một hệ thống các chỉ dẫn quy định cách thức hoạt động
đối với một tổ chức và các thành viên của tổ chức khi tiến hành các hoạt động
33. 33
chuyên môn, nghiệp vụ, bao gồm những nguyên tắc về hành vi áp dụng trong
phạm vi một tổ chức, doanh nghiệp, có tác dụng hướng dẫn hành vi của các
thành viên tổ chức khi ra quyết định và hành động. .
Sau một số vụ việc có liên quan tới hình thức lừa đảo theo mô hình
kim tự tháp ảo bị xử lý theo luật an ninh, nhiều Bang đã xây dựng và ban
hành các quy định pháp lý khác nhau nhằm chống mô hình kim tự tháp ảo
dưới nhiều dạng văn bản khác nhau. Các đạo luật ở các Bang đều có quy định
chống mô hình kim tự tháp ảo và một số hình thức BHĐC vi phạm khác. Một
số bang như New Mexico và Nam Dakota mặc dù trước đó chấp nhận các quy
định về BHĐC nhưng sau đó nhận thấy việc quản lý hành chính hoạt động
thực thi các quy định này là một khó khăn cho chính quyền Bang, vì vậy đã
bãi bỏ yêu cầu đăng ký BHĐC tại đây. Tại Hoa Kỳ, có tổng số 5 Bang ban
hành Luật quản lý đặc biệt các công ty BHĐC, bao gồm Massachusetts,
Georgia, Lousiana, Wyomin và Maryland.
Như vậy, mặc dù tại một quốc gia có môi trường kinh doanh tự do
như Hoa Kỳ, hoạt động BHĐC vẫn bị đặt dưới tầm kiểm soát một cách chặt
chẽ của pháp luật tại các Bang bởi mặc dù có nhiều ưu điểm nhưng hoạt động
này luôn tiềm ẩn biến tướng sang nhiều hình thức vi phạm khác nhau có thể
gây ảnh hưởng lớn tới xã hội nói chung và người tiêu dùng nói riêng. Điển
hình của sự kiểm soát chặt chẽ này là việc một số Bang như đã nêu ở trên
thậm chí đã bãi bỏ yêu cầu đăng ký BHĐC tại các Bang này.
Trung Quốc
Quan điểm về xây dựng quy định pháp luật điều chỉnh hoạt động
BHĐC tại Trung Quốc thay đổi theo các giai đoạn phát triển của ngành công
nghiệp bán hàng trực tiếp tại quốc gia này. Sự phát triển của ngành công
nghiệp bán hàng trực tiếp tại Trung Quốc gồm 4 giai đoạn:
- Từ năm 1990-1993: giai đoạn bán hàng trực tiếp bắt đầu xuất hiện
tại Trung Quốc với sự góp mặt của các công ty từ Hoa Kỳ như Avon,
34. 34
Sunrider và Amway. Thời điểm này không có công ty Trung Quốc nào tham
gia vào ngành công nghiệp này, chưa có chính sách quản lý và văn bản pháp
luật điều tiết ngành này.
- Từ năm 1994-1998: Thời kỳ này được coi là giai đoạn bùng nổ của
hoạt động bán hàng trực tiếp. Ngành công nghiệp phát triển tự do và chưa có
văn bản quản lý nhà nước. Trong thời gian này, đầu tư nước ngoài, đặc biệt là
việc các công ty Đài Loan đã gia nhập ngành công nghiệp bán hàng trực tiếp
cùng với sự tiếp nối của các công ty trong nước. Vì vậy thị trường trở nên
phức tạp và bắt đầu có sự can thiệp của nhà nước Trung Quốc. Cơ quan quản
lý bắt đầu xây dựng các chính sách văn bản pháp luật để quản lý thị trường
này. Tổng cục Quản lý công nghiệp và thương mại Trung Quốc (SAIC) ban
hành Thông báo cấm hoạt động tiếp thị đa cấp trái pháp luật (Notice for
Forbiding the Illegal Actitities of Multi-level Chuanxiao) vào ngày 11 tháng 4
năm 1994; Thông báo về việc kiểm tra hoạt động tiếp thị đa cấp trái pháp luật
(Notice for Checking Illegal Activity of Multi-level Chuanxiao) vào ngày 22
tháng 9 cùng năm và Thông báo chấm dứt việc phát triển hoạt động BHĐC
bất chính do Văn phòng Chính phủ Trung Quốc ban hành vào ngày 22 tháng
9 năm 1995. Trung Quốc không cấp giấy phép hoạt động cho những công ty
kinh doanh đa cấp mới vào năm 1995. SAIC tiến hành điều tra những công ty
BHĐC đang hoạt động. Kết quả điều tra của SAIC cho phép 57 công ty được
tiếp tục BHĐC và 5 công ty khác thực hiện bán hàng đơn cấp đến tháng 10
năm 1996.
Tuy nhiên sau đó SAIC đã soạn thảo Quy định về kiểm tra và thanh
lọc các công ty BHĐC và cho phép 41 công ty bắt đầu kinh doanh kiểu đa cấp
lần đầu tiên. Quy định được ban hành vào ngày 10 tháng 1 năm 1997 gồm các
quy định chi tiết đối với hoạt động bán hàng trực tiếp để thiết lập trật tự thị
trường và nghiêm cấm các hành vi vi phạm trong bán hàng trực tiếp. Có thể
tóm tắt mục tiêu của văn bản này như sau: cho phép sự xuất hiện, khống chế
35. 35
sự phát triển và quản lý chặt chẽ hoạt động bán hàng trực tiếp và giám sát cẩn
thận các nơi thí điểm.
- Giai đoạn thứ ba là giai đoạn chuyển giao. Giai đoạn này diễn ra từ
năm 1998 đến 2005. Mô hình bất chính của các công ty BHĐC và mô hình
kiểu kim tự tháp gây bất ổn xã hội. Bởi vậy Trung Quốc coi BHĐC là hành vi
kinh doanh phi pháp và cấm hoàn toàn hoạt động này. Các chính sách lần lượt
được Trung Quốc ban hành trong thời kỳ này là:
o Văn bản về việc cấm hoạt động kinh doanh đa cấp Chuanxiao do
SAIC ban hành ngày 18 tháng 4 năm 1998;
o Thông báo cấm hoạt động kinh doanh đa cấp Chuanxiao do chính
phủ Trung Quốc ban hành vào ngày 21 tháng 4 năm 1998, quy định chấm dứt
tất cả hoạt động BHĐC;
o Thông báo về việc chuyển đổi phương thức bán hàng của công ty
kinh doanh đa cấp có vốn đầu tư nước ngoài do 3 Bộ phối hợp ban hành tháng 6
năm 1998. Từ thời điểm này, hoạt động BHĐC bị cấm hoàn toàn ở Trung Quốc.
Không lâu sau đó, Chính phủ Trung Quốc đã ban hành một thông báo
khác yêu cầu các công ty BHĐC có vốn đầu tư nước ngoài chỉ được phép
hoạt động tại các của hàng cố định. Từ thời điểm đó, hình thức BHĐC cần
phải đáp ứng các yêu cầu nghiêm khắc hơn về tư cách đạo đức và yêu cầu về
hình thức tổ chức…Chỉ còn 10 công ty BHĐC vốn đầu tư nước ngoài được
chấp nhận, trong đó có Công ty Amway và Công ty Avon.
- Giai đoạn thứ tư là từ sau 2005 đến nay: đây là giai đoạn tái hoạt
động. Sau năm 2005, vào thời điểm Trung Quốc gia nhập Tổ chức kinh tế thế
giới WTO, các quy định về cấm kinh doanh BHĐC nói trên vi phạm công ước
về tự do thương mại của WTO, Trung Quốc bước đầu nới lỏng quản lý
BHĐC. Với hai Nghị định về quản lý bán hàng trực tiếp và nghiêm cấm
BHĐC bất chính cùng với một số văn bản pháp luật khác, Trung Quốc về cơ
bản đã xây dựng nền tảng pháp lý cho hoạt động bán hàng trực tiếp ở nước này.
36. 36
Cách tiếp cận điều chỉnh của Trung Quốc đối với loại hình kinh doanh
đa cấp cho thấy những bước đi hết sức thận trọng của các nhà lập pháp Trung
Quốc, thể hiện rõ nét nhất ở Quy định về kiểm tra và thanh lọc các công ty
BHĐC năm 1997. Đồng thời, tiến trình phát triển trên cũng cho thấy các hậu
quả về xã hội đã tác động tới việc thiết lập chính sách quản lý hoạt động
BHĐC tại Trung Quốc như thế nào. Quan điểm chung về quản lý hoạt động
BHĐC tại Trung Quốc được thể hiện rất chặt và đưa ra các yêu cầu rất khắt
khe và nghiêm khắc đối với không chỉ các công ty muốn kinh doanh theo
phương thức BHĐC mà còn khắt khe đối với những cá nhân muốn trở thành
phân phối viên/ người tham gia trong các công ty đa cấp này.
Đài Loan
Hoạt động BHĐC xuất hiện tại Đài Loan từ thập niên 70 của thế kỷ
20. Vào thời điểm hoạt động này bắt đầu xuất hiện có những vi phạm lường
gạt xảy ra, làm tổn hại lợi ích kinh tế của người tiêu dùng. Vụ việc nổi tiếng
có tên gọi "Hội Chuột - Rat Club" năm 1981 trong đó số người bị hại lên tới
hơn một vạn người, nợ xấu lên đến hơn 400 triệu Đài tệ. Vụ việc này không
những đã ảnh hưởng nhiều tới lòng tin của người dân vào BHĐC mà còn đặt
ra vấn đề cần có quy định pháp luật điều chỉnh hoạt động này.
Tháng 1 năm 1991, Đài Loan thông qua "Luật Thương mại lành mạnh",
sau đó công bố "Quy chế giám sát bán hàng đa cấp" (Supervisory Regulations
Governing Multi-level sales), đây là những văn bản pháp lý đầu tiên trực tiếp
điều chỉnh hoạt động BHĐC tại Đài Loan và cũng từ đây hoạt động BHĐC đã
có cơ sở pháp lý để tồn tại một cách hợp pháp. Luật Thương mại lành mạnh
Đài Loan ra đời với nhiều mục đích, không chỉ nhằm bảo đảm cạnh tranh lành
mạnh trên thị trường mà còn nhằm duy trì trật tự cạnh tranh, bảo vệ quyền lợi
của người tiêu dùng và thúc đẩy tính ổn định và sự thịnh vượng của toàn bộ
nền kinh tế. Tương tự Luật Cạnh tranh Việt Nam, Luật Thương mại lành
mạnh Đài Loan điều chỉnh các hành vi hạn chế cạnh tranh, hành vi thương
37. 37
mại lành mạnh và hoạt động BHĐC. Điều 23 của Luật Thương mại lành
mạnh quy định về BHĐC, "Quy chế giám sát bán hàng đa cấp" có giá trị như
một nghị định hướng dẫn Điều 23 của Luật Thương mại lành mạnh.
Quan điểm về điều chỉnh hoạt động BHĐC của Đài Loan cũng được
thể hiện rõ qua những lần sửa đổi Luật Thương mại lành mạnh và Quy chế
giám sát BHĐC. Kể từ khi ra đời đến nay, Luật Thương mại lành mạnh đã trải
qua 5 lần sửa đổi vào các năm 1999, 2000, 2002, 2010 và 2011, nhưng chỉ lần
sửa đổi vào năm 1999 là có liên quan trực tiếp tới Điều 23 - điều khoản quy
định về BHĐC (bổ sung vấn đề liên quan tới một số quyền của người tham
gia mạng lưới BHĐC), các lần sửa đổi còn lại không có vấn đề liên quan đến
điều 23 này. Có thể nói Luật Thương mại lành mạnh và Quy chế giám sát
BHĐC Đài Loan năm 1992 đặt nền móng cho việc quản lý hoạt động BHĐC
tại Đài Loan, tuy nhiên đây là những quy định hết sức sơ khai với các yêu cầu
đơn giản, bước đầu đưa ra các định nghĩa về BHĐC bất chính, một số nghĩa
vụ cơ bản của doanh nghiệp BHĐC đối với cơ quan có thẩm quyền (nghĩa vụ
thông báo) và đối với người tham gia (nghĩa vụ cung cấp thông tin đầy đủ
trung thực). Quy chế giám sát BHĐC 1992 chỉ quy định 8 điều, trong đó nhấn
mạnh về nghĩa vụ của doanh nghiệp BHĐC. Sự sửa đổi Quy chế giám sát
BHĐC trong năm 1999 cho thấy một sự khác biệt tương đối lớn, trước hết về
quy mô của Quy chế, số điều quy định đã tăng lên 26 điều, trong đó bổ sung
thêm điều về quy định nghĩa vụ đối với nhà nước của doanh nghiệp đa cấp, bổ
sung hành vi bị cấm của doanh nghiệp đa cấp, bổ sung về quy định đào tạo
người tham gia về các văn bản pháp luật, bổ sung quy định về thanh tra hoạt
động BHĐC… Bản Quy chế giám sát BHĐC sửa đổi gần đây nhất là năm
2012, trong đó bổ sung một số yêu cầu về minh bạch tài chính, loại trừ quyền
tham gia BHĐC của người không đủ năng lực hành vi dân sự…
Có thể thấy rằng pháp luật Đài Loan cũng tiếp cận điều chỉnh hoạt
động BHĐC này giống như cách tiếp cận của nhiều quốc gia khác, đó là
38. 38
hướng tiếp cận đưa ra các quy định để điều tiết, cấm các hành vi BHĐC phi
pháp có tác động xấu tới xã hội chứ không tiếp cận theo hướng cấm hoàn toàn
phương thức kinh doanh này. So với quan điểm tiếp cận của một số quốc gia
đã phân tích tại phần trên, quan điểm tiếp cận của Đài Loan đối với hoạt động
BHĐC có chiều hướng "nhẹ nhàng" hơn và không quá chú trọng vào khâu
"tiền kiểm" (siết chặt các quy định nhằm hạn chế việc đăng ký BHĐC của
doanh nghiệp) mà chú trọng hơn vào việc đảm bảo quyền lợi của người tham
gia trong quá trình BHĐC.
Như vậy, thông qua phân tích hệ thống pháp luật điều chỉnh quản lý
hoạt động BHĐC tại một số quốc gia có nền công nghiệp BHĐC phát triển
như Hoa Kỳ, Trung Quốc, Đài Loan sẽ giúp các nhà làm luật Việt Nam tìm
thấy những điểm tương đồng về mặt chính sách, thực tiễn để rút ra những bài
học quý báu cho Việt Nam. Những kinh nghiệm rút ra từ nghiên cứu này sẽ
giúp hoàn thiện hơn các quan điểm về quản lý hoạt động BHĐC tại Việt Nam,
từ đó có những sửa đổi đáng kể về các quy định pháp luật là nền tảng cho
công tác quản lý BHĐC - qua đó phân định rạch ròi BHĐC và các hình thức
kinh doanh lừa đảo núp bóng BHĐC, siết chặt quản lý, góp phần tạo lòng tin cho
người tham gia cũng như người tiêu dùng, tạo môi trường thuận lợi hơn cho
hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp BHĐC chân chính và góp phần thúc
đẩy sự phát triển mạnh hơn và rộng hơn của phương thức kinh doanh này.
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1
Như vậy, chúng ta đã có cái nhìn toàn diện hơn về phương thức BHĐC
cũng như vấn đề kiểm soát BHĐC và pháp luật về kiểm soát BHĐC qua
Chương 1. Nhìn chung các quy định của pháp luật Việt Nam về vấn đề kiểm
soát hoạt động BHĐC đã được xây dựng trên cơ sở tiếp thu có chọn lọc pháp
luật về BHĐC của nhiều nước trong khu vực và trên thế giới. Tuy nhiên, có
thể những bài học về quản lý BHĐC mà Việt Nam tham khảo từ các quốc gia
khác và những nhận thức từ phía các cơ quan quản lý nhà nước về bản chất
39. 39
kinh tế - pháp lý của hoạt động này chưa thực sự đầy đủ nên còn tồn tại nhiều
lúng túng trong việc xây dựng và áp dụng pháp luật. Vì thế, cho dù chúng ta
đã có được các bộ phận cần thiết để cấu thành cơ chế quản lý hoàn chỉnh,
song sự sắp xếp, tổ chức và liên kết chúng thành một hệ thống liên hoàn, hiệu
quả còn tồn tại nhiều vấn đề cần giải quyết. Mặt khác, thực tiễn lại cho thấy
hoạt động BHĐC đang phát triển và xuất hiện nhiều phiên bản mới mà trước
đây chúng ta chưa biết đến đòi hỏi phải nghiên cứu. Luận văn sẽ đi sâu phân
tích các vấn đề tác giả cho là cơ bản nhất, đó là: thực trạng BHĐC và nhu cầu
cần kiểm soát bằng pháp luật ở Việt Nam hiện nay; các chủ thể tham gia vào
quá trình kiểm soát BHĐC - quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật;
hợp đồng trong BHĐC - công cụ chủ yếu để kiểm soát BHĐC; Nhà nước với
vai trò điều tiết chủ yếu trong kinh tế thị trường về vấn đề kiểm soát BHĐC;
một số vấn đề bất cập của pháp luật về kiểm soát BHĐC - nguyên nhân và
định hướng hoàn thiện.
40. 40
Chương 2
THỰC TRẠNG CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT
VỀ KIỂM SOÁT BÁN HÀNG ĐA CẤP Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1. THỰC TRẠNG BÁN HÀNG ĐA CẤP VÀ NHU CẦU CẦN KIỂM SOÁT
BẰNG PHÁP LUẬT Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Từ khi xuất hiện, trải qua bao thăng trầm, thậm chí là bị coi như một
phương thức kinh doanh bất chính, đến nay BHĐC đã được công nhận rộng
rãi và vô cùng phát triển, vai trò quan trọng của mô hình BHĐC trong nền
kinh tế toàn cầu đã được thừa nhận rộng rãi. Công chúng xem BHĐC như một
giải pháp cho vấn đề việc làm. Hàng tỉ đôla đang chuyển từ hệ thống bán lẻ
truyền thống sang hệ thống bán hàng qua catalogue, mua hàng qua tivi, các
cửa hàng ảo trên internet… Theo thống kê của WFDSA (Liên đoàn bán hàng
trực tiếp thế giới) năm 2010, số người tham gia làm việc trong lĩnh vực
BHĐC trên toàn cầu là gần 75 triệu người. Tại Châu Á, cũng theo thống kê từ
WFDSA thì Nhật Bản là nước có doanh thu BHĐC cao nhất, 90% hàng hóa
dịch vụ được phân phối theo phương thức BHĐC với 2,5 triệu NPP đạt doanh
thu 30 tỷ USD. Thái Lan là nước có số người tham gia làm việc trong ngành
BHĐC cao nhất - 10 triệu người. Tại Mỹ hiện có hơn 2000 công ty BHĐC hoạt
động và trong mười gia đình lại có một người tham gia BHĐC, tỷ lệ này chiếm
khoảng 15% dân số, trong đó có 500.000 triệu phú đi lên từ BHĐC [31].
Hơn 70 năm qua, BHĐC không ngừng phát triển cả về hình thức kinh
doanh lẫn quy mô hoạt động. Hiện nay, BHĐC đang phát triển mạnh ở 125
nước trên khắp các châu lục. Trên thế giới có hơn 30.000 công ty phân phối
hàng theo mô hình BHĐC này. Trong khi BHĐC đã lan tỏa và tạo nên thành
công trên khắp thế giới, tại Việt Nam, BHĐC chỉ mới thực sự phát triển vài
năm gần đây, theo số liệu của Cục Quản lý cạnh tranh, số lượng người tham
gia BHĐC tăng đáng kể trong năm năm qua, từ khoảng 235.800 người năm
41. 41
2006 lên hơn một triệu người tính đến cuối năm 2011. Thị trường BHĐC tại
Việt Nam tăng trưởng không ngừng từ năm 2006 đến nay và ngày càng trở
thành thị trường tiềm năng cho các doanh nghiệp BHĐC trong nước và quốc
tế. Nếu như năm 2005 doanh số bán hàng của ngành BHĐC chỉ đạt khoảng
600 tỷ đồng thì đến năm 2012, doanh số bán hàng đã tăng lên gấp 5,5 lần, đạt
con số 4.060 tỷ đồng. Hiện có 77 doanh nghiệp đăng ký kinh doanh BHĐC tại
Việt Nam, trong đó có 13 doanh nghiệp có 100% vốn nước ngoài và có ba
công ty có nhà máy tại Việt Nam [11]. Tổng số thuế các doanh nghiệp đã nộp
vào ngân sách nhà nước trong giai đoạn từ năm 2005 đến hết năm 2012 đạt
khoảng 2.300 tỷ đồng.
Trong nền kinh tế thị trường, do nhu cầu của việc trao đổi hàng hóa
dịch vụ, các hoạt động trung gian thương mại đã xuất hiện, bao gồm đại diện,
đại lý, môi giới và ủy thác mua bán hàng hóa. Có thể thấy bóng dáng của hoạt
động BHĐC trong từng hình thức trung gian thương mại kể trên. Cụ thể,
BHĐC mang đặc tính của hình thức đại diện ở việc người tham gia hoạt động
BHĐC thay mặt cho doanh nghiệp thực hiện việc mua hoặc bán hàng hóa
hoặc cung ứng dịch vụ và được hưởng thù lao. Bên cạnh đó, những người
tham gia BHĐC đóng vai trò là trung gian cho các bên mua bán hàng hóa,
cung ứng dịch vụ (doanh nghiệp và người tiêu dùng) và được hưởng thù lao
khi hoàn thành công việc, đó chính là đặc điểm của hình thức môi giới. Các
doanh nghiệp và người tham gia BHĐC ký kết hợp đồng thỏa thuận việc
người tham gia bán hàng hóa cho doanh nghiệp và hưởng thù lao, đây chính
là đặc điểm của hình thức đại lý. Cuối cùng, những NPP thực hiện các hoạt
động tiếp thị bán hàng hóa vì lợi ích của doanh nghiệp nhưng lại được toàn
quyền quyết định việc mua bán với người tiêu dùng, tức là nhân danh chính
mình để giao dịch với khách hàng, đây là đặc điểm của hình thức ủy thác
thương mại. Như vậy, hoạt động BHĐC không phải là hình thức trung gian
thương mại nhưng lại mang đặc điểm của cả bốn hình thức trung gian, chính
42. 42
vì vậy việc quản lý hoạt động này đòi hỏi phải có hệ thống pháp luật hoàn
chỉnh và chặt chẽ để nó thực sự phát huy hiệu quả trong nền kinh tế.
Bán hàng đa cấp phát triển quá mạnh mẽ khiến cho lợi nhuận từ việc
quảng cáo của báo đài, truyền hình bị ảnh hưởng, cộng thêm nhiều công ty
lừa đảo núp bóng kinh doanh đa cấp và một bộ phận không nhỏ NPP đa cấp
thực hiện những hành vi sai trái đã làm cho dư luận bắt đầu lên tiếng phản đối
kinh doanh đa cấp. Các phương tiện thông tin đại chúng liên tục phản ánh các
hành vi lừa đảo, BHĐC bất chính của doanh nghiệp BHĐC. Nhiều Đại biểu
Quốc hội còn đưa vấn đề BHĐC bất chính ra chất vấn cơ quan quản lý nhà
nước trước Quốc hội. Một số ý kiến còn cho rằng nên cấm hoàn toàn hoạt
động BHĐC tại Việt Nam. Thực tế trên đòi hỏi cần phải hoàn thiện hệ thống
pháp luật về kiểm soát BHĐC tạo nền tảng cho công tác quản lý BHĐC - qua
đó phân định rạch ròi BHĐC và các hình thức kinh doanh lừa đảo núp bóng
BHĐC, siết chặt quản lý, góp phần tạo lòng tin cho người tham gia cũng như
người tiêu dùng, tạo môi trường thuận lợi hơn cho hoạt động kinh doanh của
các doanh nghiệp BHĐC chân chính và góp phần thúc đẩy sự phát triển mạnh
hơn và rộng hơn của phương thức kinh doanh này.
2.2. CÁC CHỦ THỂ KIỂM SOÁT BÁN HÀNG ĐA CẤP - QUYỀN VÀ
NGHĨA VỤ THEO QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT
Nhìn chung hoạt động kiểm soát BHĐC được thực hiện bởi hầu hết
các chủ thể tham gia hoạt động BHĐC cũng như các chủ thể có liên quan tới
hoạt động BHĐC. Tuy nhiên, hoạt động kiểm soát BHĐC tập trung chủ yếu ở
ba nhóm chủ thể sau:
Thứ nhất, kiểm soát BHĐC từ phía Nhà nước và các cơ quan quản lý.
Công cụ để các cơ quan quyền lực nhà nước kiểm soát hoạt động BHĐC
chính là hệ thống các quy định của pháp luật trong lĩnh vực kinh doanh
thương mại nói chung và lĩnh vực BHĐC nói riêng. Các cơ quan này kiểm
soát hoạt động BHĐC của các doanh nghiệp tổ chức BHĐC và các NPP trong
43. 43
quá trình tiếp thị mua bán hàng hóa, dịch vụ với người tiêu dùng trong đó Nhà
nước giữ vai trò điều tiết chủ yếu trong nền kinh tế thị trường đối với vấn đề
kiểm soát BHĐC trong khi các cơ quan quản lý trực tiếp thực hiện các biện
pháp kiểm soát BHĐC. Hệ thống các cơ quan quản lý bao gồm Bộ Công
thương, Cục Quản lý cạnh tranh, các Sở Công thương, Ủy ban nhân dân các
tỉnh, thành phố, Cục thuế, hệ thống các cơ quan tài phán…Trong đó phải kể
đến vai trò kiểm soát BHĐC to lớn của Cục Quản lý cạnh tranh và Sở Công
thương, cụ thể:
• Vai trò kiểm soát hoạt động BHĐC của Cục Quản lý cạnh tranh
được quy định rất cụ thể tại Điều 32 Nghị định 42/2014/NĐ-CP đó là bảo
đảm trật tự trong tổ chức hoạt động BHĐC, bảo vệ quyền lợi của người tham
gia BHĐC, người tiêu dùng và giữ ổn định kinh tế - xã hội theo đó Cục Quản
lý cạnh tranh kiểm soát BHĐC thông qua các hoạt động:
- Cấp, sửa đổi, bổ sung, gia hạn, cấp lại, thu hồi Giấy chứng nhận
đăng ký hoạt động BHĐC;
- Thu, quản lý và sử dụng phí, lệ phí cấp, sửa đổi, bổ sung, gia hạn,
cấp lại Giấy chứng nhận đăng ký hoạt động BHĐC;
- Thông báo việc cấp, sửa đổi, bổ sung, gia hạn, thu hồi Giấy chứng
nhận đăng ký hoạt động BHĐC tới các Sở Công Thương nơi doanh nghiệp tổ
chức hoạt động BHĐC;
- Lưu trữ hồ sơ doanh nghiệp hoạt động BHĐC;
- Tổ chức các chương trình tập huấn về quản lý BHĐC cho các cơ
quan quản lý địa phương tại nhiều tỉnh, thành trên toàn quốc;
- Xây dựng cơ chế trao đổi thông tin, liên lạc từ cấp chuyên viên để
tăng cường tham vấn, trao đổi kinh nghiệm và hướng dẫn kịp thời các vấn đề
thực tiễn trong công tác quản lý BHĐC;
- Tổ chức biên soạn một số tài liệu, ấn phẩm phục vụ công tác tuyên
truyền pháp luật liên quan đến quản lý BHĐC như tờ rơi hướng dẫn về pháp
44. 44
luật BHĐC, sách Hỏi và Đáp về pháp luật BHĐC, cung cấp cho các địa
phương, ban ngành và các doanh nghiệp có nhu cầu tìm hiểu;
- Tổ chức nhiều buổi gặp gỡ, tìm hiểu hoạt động, hướng dẫn doanh
nghiệp thực hiện đúng các yêu cầu của pháp luật;
- Đặc biệt hỗ trợ thành lập Hiệp hội BHĐC Việt Nam nhằm tạo điều
kiện cho các doanh nghiệp kinh doanh trong ngành này có cơ hội hợp tác,
phát triển hơn nữa, đảm bảo môi trường kinh doanh lành mạnh, ổn định;
- Phối hợp với Tổng cục Thuế, Bộ Tài chính hướng dẫn giải đáp các
vướng mắc của doanh nghiệp BHĐC liên quan việc hạch toán chi phí hoa
hồng trả cho người tham gia BHĐC;
- Phối hợp với Liên đoàn các hiệp hội bán hàng trực tiếp trên thế giới
tổ chức thành công buổi tọa đàm, chia sẻ kinh nghiệm quản lý người tham gia
mạng lưới BHĐC của các doanh nghiệp [6];
- Thường xuyên phối hợp với Phòng Thương mại Hoa Kỳ tại Việt
Nam (Amcham) tổ chức các buổi tọa đàm, trao đổi về các chính sách pháp
luật liên quan đến tổ chức hoạt động BHĐC tại Việt Nam;
- Phối hợp cùng với Cục An toàn vệ sinh thực phẩm và Vụ Pháp chế -
Bộ Y tế hướng dẫn cấp Giấy chứng nhận kinh doanh cho các doanh nghiệp
BHĐC kinh doanh thực phẩm chức năng;
- Chủ trì và phối hợp với nhiều cơ quan chức năng tiến hành kiểm tra
hoạt động của các doanh nghiệp BHĐC, kịp thời chấn chỉnh và xử lý các
thiếu sót, sai phạm của các doanh nghiệp;
- Triển khai công tác điều tra và xử lý các vụ việc cạnh tranh không
lành mạnh theo thủ tục tố tụng cạnh tranh, trong đó bao gồm cả hành vi
BHĐC bất chính.
- Xây dựng và trình các cấp có thẩm quyền ban hành hoặc sửa đổi các
văn bản pháp luật có liên quan đến việc bảo đảm trật tự trong tổ chức hoạt
động BHĐC
45. 45
• Sở Công Thương là cơ quan giữ vai trò rất lớn trong việc trợ giúp
Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương thực hiện kiểm soát
BHĐC tại địa phương thông qua các hoạt động:
- Triển khai đăng ký tổ chức BHĐC, các phòng, ban, cán bộ thuộc Sở
thực hiện công tác tiền kiểm với quy trình đảm bảo đầy đủ các yêu cầu của
pháp luật;
- Thanh tra, kiểm tra, giám sát theo thẩm quyền hoạt động BHĐC tại
địa phương;
- Xử lý hoặc báo cáo cấp có thẩm quyền xử lý các vi phạm pháp luật
về quản lý hoạt động BHĐC;
- Báo cáo Bộ Công thương về việc tiếp nhận hồ sơ thông báo hoạt
động của doanh nghiệp BHĐC tại địa phương;
- Báo cáo theo định kỳ hàng năm với Bộ Công thương về kết quả
kiểm tra, giám sát và xử lý vi phạm pháp luật về quản lý hoạt động BHĐC
trên địa bàn;
- Các Sở Công thương tại địa phương tiếp nhận thông báo tổ chức
BHĐC của các doanh nghiệp BHĐC không đặt trụ sở chính tại đó nhưng lại
mở rộng mạng lưới bán hàng tại địa phương đó (theo quy định tại Thông tư
19/2005/TT-BTM).
Thứ hai, kiể m soát BHĐ C từ chính các chủ thể tham
gia vào hoạ t đ ộ ng BHĐC bao gồm các doanh nghiệp tổ chức BHĐC và
các NPP. Công cụ để các chủ thể thực hiện kiểm soát BHĐC cũng là hệ thống
các quy định của pháp luật về BHĐC mà chủ yếu là thực hiện kiểm soát thông
qua hợp đồng tham gia BHĐC ký kết giữa các doanh nghiệp tổ chức BHĐC và
những người tham gia BHĐC. Các chủ thể thực hiện kiểm soát BHĐC với nội
dung cụ thể như sau:
• Kiểm soát từ phía các doanh nghiệp: các doanh nghiệp tổ chức BHĐC
thực hiện kiểm soát BHĐC đối với các NPP và các doanh nghiệp BHĐC khác