Luận Văn Nghiên Cứu Thực Trạng Và Đề Xuất Giải Pháp Giảm Nghèo Bền Vững. Đã chia sẻ đến cho các bạn học viên một bài mẫu cực kì xuất sắc, mới mẽ, chất lượng đáng để xem và theo dõi mà các bạn không nên bỏ qua nhé. DỊCH VỤ VIẾT THUÊ ĐỀ TÀI TRỌN GÓI ZALO TELEGRAM : 0934 536 149 TẢI FLIE TÀI LIỆU – TRANGLUANVAN.COM
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
Luận Văn Nghiên Cứu Thực Trạng Và Đề Xuất Giải Pháp Giảm Nghèo Bền Vững.
1. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
1DỊCH VỤ VIẾT THUÊ ĐỀ TÀI TRỌN GÓI ZALO TELEGRAM : 0934 536 149
TẢI FLIE TÀI LIỆU – TRANGLUANVAN.COM
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ VÀ QUẢN TRỊ KINH DOANH
-------------------------------
Hoàng Minh Hiền
NGHIÊN CỨU THỰC TRẠNG VÀ ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP
GIẢM NGHÈO BỀN VỮNG TRÊN ĐỊA BÀN
HUYỆN BA BỂ, TỈNH BẮC KẠN
LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ
Thái Nguyên, năm 2022
2. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
2
DỊCH VỤ VIẾT THUÊ ĐỀ TÀI TRỌN GÓI ZALO TELEGRAM : 0934 536 149
TẢI FLIE TÀI LIỆU – TRANGLUANVAN.COM
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ VÀ QUẢN TRỊ KINH DOANH
--------------------------------
Hoàng Minh Hiền
NGHIÊN CỨU THỰC TRẠNG VÀ ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP
GIẢM NGHÈO BỀN VỮNG TRÊN ĐỊA BÀN
HUYỆN BA BỂ, TỈNH BẮC KẠN
LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ
Chuyên ngành: Quản lý Kinh tế
Mã số: 60 – 34 – 01
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. Bùi Đình Hòa
Thái Nguyên, năm 2022
3. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
3
i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi. Mọi số
liệu sử dụng trong luận văn này đều được trích dẫn. Các số liệu sơ cấp là kết
quả điều tra, đánh giá của tôi và chưa được sử dụng trong bất kỳ công trình
nghiên cứu nào khác. Tôi cũng xin cam đoan mọi sự giúp đỡ đều đã được cảm
ơn.
Thái Nguyên, ngày 26 tháng 10 năm 2011
Tác giả Luận văn
Hoàng Minh Hiền
4. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
ii
4
LỜI CẢM ƠN
Luận văn được hoàn thành là kết quả quá trình học tập, nghiên cứu và
tích lũy kinh nghiệm của tác giả. Bên cạnh đó còn có sự giúp đỡ và tạo điều
kiện của các tập thể, cá nhân để tôi hoàn thành luận văn này.
Trước hết, tôi xin trân thành cảm ơn đối với các thầy, cô khoa Sau Đại
học và lãnh đạo trường Đại học Kinh tế và Quản trị Kinh doanh – Đại học
Thái Nguyên đã tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất để tôi hoàn thành luận văn
này.
Để có được kết quả này, tôi vô cùng biết ơn và bày tỏ lòng kính trọng
sâu sắc đến TS. Bùi Đình Hòa, người đã nhiệt tình hướng dẫn và giúp đỡ tôi
làm đề tài.
Tôi cũng xin chân thành cám ơn sự giúp đỡ của cán bộ, lãnh đạo và
người dân các xã Yến Dương, Khang Ninh, Nam Mẫu; cán bộ, lãnh đạo
huyện Ba Bể, Cục Thống kê, sở Lao động – TBXH, Văn phòng Tỉnh ủy Bắc
Kạn đã tạo điều kiện rất thuận lợi cho tôi thu thập số liệu, nghiên cứu địa bàn.
Cuối cùng, tôi xin bày tỏ lòng cảm ơn tới các thành viên và người thân
trong gia đình, bạn bè và đồng nghiệp đã tạo điều kiện cả về vật chất lẫn tinh
thần để tôi hoàn thành khóa học cũng như luận văn này.
Thái Nguyên, ngày 26 tháng 10 năm 2022
Tác giả Luận văn
Hoàng Minh Hiền
5. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
5
5
Chƣơng1
CƠ SỞ KHOA HỌC VÀ PHÁP NGHIÊN CỨU
1.1. Cơ sở khoa học của đề tài
1.1.1. Cơ sở lý luận của đề tài
1.1.1.1. Khái niệm về đói nghèo
Nghèo đói là một trạng thái kinh tế, xã hội phức tạp mà các nhà kinh tế
thuộc nhiều trường phái, nhiều quốc gia, nhiều tổ chức cơ quan quốc tế không
đồng thuận nhau về các tiêu chuẩn và do đó khi chúng ta dùng một con số
thống kê hay một bảng xếp hạng các quốc gia giàu nghèo trên thế giới để có
một so sánh, những ý niệm giàu nghèo thường rất chủ quan hay thiên lệch bởi
phương pháp thống kê, mục tiêu sử dụng, cơ cấu kinh tế và mức sống của
người dân mỗi quốc gia mỗi khác.
Căn cứ để xác định đói hay nghèo chính là nhu cầu cơ bản của con
người. Nhu cầu cơ bản ở đây được hiểu là những nhu cầu thiết yếu, tối thiểu
để duy trì sự tồn tại của con người như ăn, mặc, ở. Hiện nay, trên thế giới tồn
tại một số khái niệm về đói nghèo như sau:
* Khái niệm về nghèo:
Về mặt kinh tế, nghèo đồng nghĩa với nghèo khổ, túng thiếu. Rơi vào
tình trạng nghèo, con người phải vật lộn, mưu sinh kiếm sống hằng ngày, họ
không thể vươn tới những nhu cầu về văn hóa, y tế, giáo dục … hoặc phải cắt
giảm tới mức tối thiểu nhất.
- Khái niệm đói nghèo của một số tổ chức quốc tế: nghèo là tình trạng
một số bộ phận dân cư chỉ có các điều kiện vật chất và tinh thần để duy trì
cuộc sống của gia đình họ ở mức tối thiểu trong điều kiện chung của cộng
đồng [20].
6. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
6
- Theo định nghĩa của Ủy ban Kinh tế - Xã hội châu Á và Thái Bình
Dương của Liên hợp quốc (ESCAP): Nghèo là tình trạng một bộ phận dân cư
không được hưởng và thỏa mãn những nhu cầu cơ bản của con người mà nhu
cầu này đã được xã hội thừa nhận tùy theo trình độ phát triển kinh tế - xã hội
và phong tục tập quán của địa phương [17].
- Hội nghị Thượng đỉnh thế giới về phát triển xã hội tổ chức tại
Copenhangen, Đan Mạch tháng 3 - 1995 đưa ra khái niệm về nghèo cụ thể
hơn như sau: Người nghèo là tất cả những ai mà thu nhập thấp hơn 1
USD/mỗi ngày cho một người, số tiền được coi như đủ để mua những sản
phẩm tất yếu để tồn tại. Đây có thể xem là một định nghĩa chung nhất về
nghèo, một định nghĩa có tính chất hướng dẫn về phương pháp đánh giá, nhận
diện nét chính, phổ biến về đói nghèo. Tuy nhiên các tiêu chí và chuẩn mực
đánh giá còn chưa được lượng hóa.
- Sau đó, ESCAP đã đưa ra khái niệm nghèo dưới hai hình thức: nghèo
tuyệt đối và nghèo tương đối. Nghèo tuyệt đối là tình trạng một bộ phận dân
cư không có khả năng thỏa mãn các nhu cầu tối thiểu để duy trì cuộc sống.
Nghèo tương đối là tình trạng của một bộ phận dân cư có mức sống dưới mức
trung bình của cộng đồng địa phương [17].
* Khái niệm về đói: Đói là tình trạng không được đáp ứng nhu cầu tối
thiểu về lương thực, thực phẩm trong cuộc sống hàng ngày [25].
Đói được hiểu là một bộ phận dân cư nghèo có mức sống dưới mức tối
thiểu, ăn không đủ no, không đủ năng lượng tối thiểu cần thiết để duy trì sự
sống hàng ngày, không đủ sức lao động để sản xuất và tái sản xuất sức lao
động. Đói có hai dạng, đói ngay ngắt kinh niên và đói ngay ngắt cấp tính. Đói
gay ngắt kinh niên là hiện tượng một bộ phận dân cư nghèo thường xuyên rơi
vào tình trạng thiếu ăn thường xuyên. Đói gay gắt cấp tính là hiện tượng một
bộ phận dân cư trong những hoàn cảnh đột xuất như thiên tai, mất mùa, bệnh
7. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
7
tật, rơi vào khó khăn cùng cực không có gì để sống, không có lương thực,
thực phẩm để ăn, có thể dẫn tới cái chết cần được cứu trợ khẩn cấp.
Thiếu đói ở các hộ gia đình hoặc một bộ phận dân cư phải sống dưới
mức tối thiểu biểu hiện số lượng và chất lượng các bữa ăn. Thất thường về
lượng tức bữa đói, bữa no. Đứt bữa tức ngày chỉ ăn một bữa, hoặc bữa cơm,
bữa cháo, hoặc cả hai bữa đều không đủ lượng tối thiểu chứ chưa nói tới chất
lượng chất dinh dưỡng. Đứt bữa kéo dài tới hằng tháng hoặc nhiều tháng
trong năm, nhất là thời kỳ giáp hạt. Nếu lượng hóa bằng việc sử dụng năng
lượng của cơ thể con người, thiếu đói (thiếu ăn) là tình trạng con người mới
chỉ thỏa mãn mức 1.500 calo/người/ngày, dưới mức này là đói gay gắt. Hiện
nay, lượng calo tối thiểu cho mỗi người mỗi ngày được các nước áp dụng phổ
biến là 2.100 calo/người/ngày [17].
Đối với Việt Nam, là một nước nông nghiệp chậm phát triển, đời sống
của đại bộ phận người dân còn thấp, một bộ phận không nhỏ người dân còn
sống dưới mức nghèo khổ. Căn cứ vào tình hình phát triển kinh tế - xã hội của
nước ta và hiện trạng đời sống của dân cư hiện nay, các nhà nghiên cứu, các
cơ quan quản lý nhà nước đã đưa ra một khái niệm riêng về đói nghèo ở nước
ta.
Nghèo là tình trạng một bộ phận dân cư chỉ có khả năng thỏa mãn một
phần các nhu cầu cơ bản của con người và có mức sống ngang bằng mức sống
tối thiểu của cộng đồng xét trên mọi phương diện [20].
Đói là tình trạng một bộ phận dân cư nghèo có mức sống dưới mức tối
thiểu, không đảm bảo nhu cầu vật để duy trì cuộc sống [20].
Trên đây là một số quan điểm về đói nghèo được các tổ chức quốc tế và
Việt Nam định nghĩa dưới những hình thức khác nhau nhưng nhìn chung
chúng đều sử dụng tiêu chí tiền tệ và điều kiện sống để đánh giá.
8. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
8
1.1.1.2. Khái niệm về xóa đói, giảm nghèo
Xóa đói, giảm nghèo là hệ thống các chính sách, giải pháp nhằm khắc
phục tình trạng đói nghèo [25]
Xóa đói là hoạt động nhằm làm cho bộ phận dân cư nghèo sống dưới
mức tối thiểu và thu nhập không đủ đảm bảo nhu cầu về vật chất để duy trì
mức sống, từng bước nâng cao mức sống đến mức tối thiểu và có thu nhập đủ
để đảm bảo nhu cầu về vật chất để duy trì cuộc sống.
Giảm nghèo là hoạt động làm cho bộ phận dân cư nghèo nâng cao mức
sống, từng bước thoát khỏi tình trạng nghèo. Hay giảm nghèo là quá trình
chuyển bộ phận dân cư nghèo lên một mức sống cao hơn. Xét trên góc độ một
nền kinh tế, giảm nghèo là quá trình từng bước thực hiện chuyển đổi từ trình
độ sản xuất cũ, lạc hậu trong xã hội sang trình độ sản xuất mới cao hơn. Mục
tiêu hướng tới là trình độ sản xuất tiên tiến của thời đại. Xét ở góc độ người
nghèo, giảm nghèo là quá trình tạo điều kiện giúp đỡ người nghèo có khả
năng tiếp cận các nguồn lực phục vụ sản xuất và đời sống, giúp họ từng bước
thoát khỏi tình trạng nghèo.
Cũng như các quốc gia trên thế giới, Việt Nam đã nhận thức được tầm
quan trọng của công tác xóa đói, giảm nghèo và coi đó là một trong những
nhiệm vụ trọng tâm, xuyên suốt trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của
đất nước nhằm hướng tới mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng,
dân chủ, văn minh. Từ Đại hội VII (năm 1991), Đảng ta đã đề ra chủ trương
xóa đói, giảm nghèo. Nghị quyết Đại hội Đảng VII đã chỉ rõ: “Cùng với quá
trình đổi mới, tăng trưởng kinh tế, phải tiến hành công tác xóa đói, giảm
nghèo” [17]. Và ở các kì đại hội tiếp theo, công tác xóa đói, giảm nghèo tiếp
tục nhận được sự quan tâm đặc biệt của Đảng ta. Dưới ánh sáng đường lối và
nghị quyết của Đảng, Quốc hội và Chính phủ đã cụ thể hóa thành kế hoạch,
chương trình và các giải pháp đồng bộ để thực hiện công tác xóa đói, giảm
9. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
9
nghèo. Chủ trương xóa đói, giảm nghèo là một chủ trương đúng đắn, hợp lòng
dân và nhận được sự ủng hộ, hỗ trợ hết sức nhiệt tình của người dân, các tổ
chức chính trị, xã hội, cộng đồng doanh nghiệp trong nước và các tổ chức
quốc tế. Nó đã trở thành phong trào sâu rộng ở khắp các địa phương và cơ sở.
Trong những năm qua, nhờ thực hiện các cơ chế, chính sách xóa đói,
giảm nghèo có hiệu quả, công cuộc xóa đói, giảm nghèo của Việt Nam đã đạt
được nhiều thành tựu đáng kể. Việt Nam đã được cộng đồng quốc tế đánh giá
là một trong những quốc gia giảm tỷ lệ đói, nghèo tốt nhất.
1.1.1.3. Các tiêu thức và chuẩn mực đánh giá nghèo đói
a. Các tiêu thức đánh giá đói nghèo
Do nghèo đói là một trạng thái kinh tế - xã hội phức tạp, nên hiện nay
chưa có một định nghĩa duy nhất về đói nghèo do vậy cũng không có một
phương pháp chung, thống nhất để đo lường được nó. Tuy nhiên nền kinh tế
quốc gia và quốc tế cần phải có một thước đo căn bản để đo lường đói nghèo,
do đó các cơ quan kinh tế quốc tế và Liên hợp quốc thường định nghĩa đói
nghèo theo hai tiêu chuẩn: tiêu chuẩn tiền tệ và tiêu chuẩn điều kiện sống.
* Tiêu chuẩn về tiền tệ: Theo tiêu chuẩn này, tiêu chuẩn nghèo là số
tiền cần thiết để mua lượng lương thực tối thiểu cung cấp đủ 2.100 calories
mỗi ngày mỗi người và số tiền cần thiết cho những nhu cầu phi lương thực
(chi phí lương thực chiếm 70% và phi lương thực 30%). Hoặc, chuẩn nghèo là
số thu nhập tương đương với sức mua. Hiện nay, Ngân hàng Thế giới quy
định chuẩn nghèo là số tiền thu nhập bình quân đầu người dưới 2
USD/người/ngày [25]. Định nghĩa của Ngân hàng Thế giới chỉ là một tiêu
chuẩn tương đối, bởi lẽ tùy thuộc nhiều vào sự lạm phát của đồng tiền và
chính sách tiền lương mỗi quốc gia. Hiện nay, các chính phủ lại có khuynh
hướng dùng định nghĩa ngưỡng nghèo bằng tiêu chuẩn này để giảm bớt tỷ lệ
nghèo của dân chúng vì những lý do chính trị và kinh tế, bởi lẽ khi tỷ lệ người
10. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
10
nghèo càng thấp thì chính phủ càng ít phải tài trợ các chương trình giúp đỡ
người nghèo.
Dựa vào tiêu chuẩn về tiền tệ, người ta đánh giá được hiện tương bất
bình đẳng trong xã hội của từng nhóm người, từng vùng trong một quốc gia
hoặc giữa các quốc gia với nhau. Có hai phương pháp phổ biến để đo lường
sự bất bình đẳng về kinh tế.
- Cách thứ nhất: Dựa vào mức chi tiêu trung bình giữa các tầng lớp dân
cư để thiết lập một hệ số gọi là hệ số Gini. Hệ số này nằm trong khoảng từ 0
(bình đẳng tuyệt đối) đến 1 (bất bình đẳng tuyệt đối) [29].
- Cách thứ hai: So sánh tỷ trọng chi tiêu của 20% dân số thuộc nhóm
nghèo nhất (trong tổng số chi tiêu của toàn thể dân số) với tỷ trọng chi tiêu
của 20% dân số thuộc nhóm giàu nhất [29].
Ngân hàng Thế giới sử dụng tiêu chuẩn “40%”, chuẩn này nhằm đánh
giá phân bố thu nhập của dân cư. Tiêu chuẩn này xét tỷ trọng thu nhập của
40% dân số có thu nhập thấp nhất trong tổng thu nhập của toàn bộ dân cư. Tỷ
trọng này nhỏ hơn 12% là có sự bất bình đẳng cao về thu nhập, nằm trong
khoảng từ 12%-17% là có sự bất bình đẳng vừa và lớn hơn 17% là có sự
tương đối bình đẳng [29].
* Tiêu chuẩn về mức sống: Lương thực là một nhu cầu căn bản để tồn
tại, nhưng khác với sinh vật, con người cần sống và phát triển với những nhu
cầu vật chất và tinh thần khác. Nghèo về lương thực là mức nghèo tận cùng,
nhưng nghèo còn được phát hiện dưới ba dạng khác là nhà ở, tiện nghi sinh
hoạt trong gia đình và đời sống văn hóa. Do đó, nghèo đói còn được tiếp cận
dưới khía cạnh mức sống.
Chương trình phát triển Liên hợp quốc và các quốc gia khối OECD gồm
30 quốc gia Âu Mỹ, Úc, Nhật Bản, Hàn Quốc thường dùng Chỉ số phát triển
con người HDI (Human development indicator) để đo lường mức sống của
11. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
11
người dân. Tuy nhiên, vì mức sống và nhu cầu của người dân ở các quốc gia
giàu, nghèo khác nhau, nên có hai công thức khác nhau, một áp dụng cho các
quốc giàu và một cho các quốc gia nghèo và đang phát triển.
HDI-1 áp dụng cho các nước nghèo và đang phát triển được tính dựa vào
3 yếu tố: tỷ lệ người dân sống dưới 40 tuổi, tỷ lệ người đi học, và tỷ lệ tiện
nghi (nước sạch, điều kiện y tế và tử vong trẻ em dưới 5 tuổi).
HDI-2 áp dụng cho các nước giàu cũng dựa vào 3 yếu tố trên nhưng gia
tăng phẩm lượng (tỷ lệ người sống dưới 60 tuổi, tỷ lệ người đi học, tiện nghi
tính theo tỷ lệ người dân có hơn phân nửa lợi tức đồng niên trung bình) và
thêm một yếu tố thứ tư là tỷ lệ người thất nghiệp dài hạn (không có việc làm ít
nhất 12 tháng).
b. Chuẩn mực đói nghèo của Việt Nam
Tiêu chuẩn nghèo của Việt Nam được hai cơ quan thuộc Chính phủ
(Tổng cục Thống kê và Bộ Lao động - Thương binh và xã hội) định nghĩa
theo hai tiêu chuẩn khác nhau và được liên tục điều chỉnh cho phù hợp với
điều kiện kinh tế - xã hội của từng thời kì. Chuẩn nghèo này dựa chủ yếu vào
tiêu chuẩn tiền tệ để xây dựng.
Bộ Lao động – Thương binh và xã hội là cơ quan tham mưu trực tiếp
giúp Chính phủ xây dựng chuẩn nghèo (chuẩn nghèo quốc gia) với mục đích
lập danh sách hộ nghèo từ cấp thôn, xã và danh sách các xã nghèo từ các
huyện trở lên để hưởng sự trợ giúp của Chính phủ từ các chương trình mục
tiêu quốc gia về xóa đói, giảm nghèo và các chính sách hỗ trợ khác; là cơ sở
để Chính phủ ban hành các chính sách giảm nghèo, chính sách an sinh xã hội.
Chuẩn nghèo của Bộ Lao động – Thương binh và xã hội được tính toán dựa
vào nhu cầu chi tiêu cơ bản cho lương thực, thực phẩm, nhà ở, mặc, y tế, giáo
dục, văn hóa, đi lại và giao tiếp xã hội, trong đó, tiêu chuẩn cho nhu cầu
lương thực, thực phẩm chiếm khoảng 60% và cho nhu cầu phi lương thực,
12. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
12
thực phẩm chiếm khoảng 40% tổng chi tiêu. Căn cứ vào tình hình phát triển
kinh tế - xã hội, chuẩn nghèo có sự thay đổi cho phù hợp với điều kiện cụ thể
của từng vùng, từng thời kì. Cụ thể, chuẩn nghèo quốc gia qua các thời kì
được thể hiện qua các bảng sau:
Bảng 1.1. Chuẩn nghèo quốc gia qua các giai đoạn
Loại
hộ
Khu vực
Thunhậpbìnhquân/ngƣời/tháng
1993-1995 1995-1997 1997-2000 2001-2005 2006-2010 2011 - 2015
Đói
Mọi vùng < 13kg gạo < 13kg gạo
Thành thị < 13kg gạo
Nông thôn < 8kg gạo
Nghèo
Thành thị < 20kg gạo < 25kg gạo < 25kg gạo 150.000 đồng 260.000 đồng 500.000 đồng
Nông thôn < 15kg gạo 200.000 đồng 400.000 đồng
- Miền núi,
hải đảo
< 15kg gạo < 15kg gạo 80.000 đồng
- Đồng bằng,
trung du
< 20kg gạo < 20kg gạo 100.000 đồng
Nguồn [29] ; [30]
Trên cơ sở chuẩn nghèo quốc gia của từng giai đoạn, trong các cuộc
khảo sát về mức sống, tỷ lệ hộ nghèo được tính dựa vào số thu nhập bình
quân đầu người một tháng của hộ được khảo sát. Chuẩn nghèo sau khi cập
nhật giá được sử dụng để tính tỷ lệ hộ nghèo qua các năm.
Bảng 1.2. Chuẩn nghèo quốc gia đƣợc cập nhật theo biến động giá
Khu vực
Thu nhập bình quân/ngƣời/tháng (đồng)
Năm 2004 Năm 2006 Năm 2008 Năm 2010
Thành thị 218.000 260.000 370.000 440.000
Nông thôn 168.000 200.000 290.000 350.000
Nguồn [29]; [30]
Tổng cục Thống kê Việt Nam phối hợp cùng Ngân hàng Thế giới (WB)
xây dựng chuẩn nghèo từ năm 1993, được cập nhật theo sự biến động của giá
13. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
13
ở các năm có khảo sát mức sống với mục tiêu đánh giá tác động của các
chính sách xóa đói, giảm nghèo của quốc gia, đồng thời từng bước xây dựng
chuẩn nghèo quốc gia tiệm cận dần với chuẩn nghèo khu vực và thế giới.
Điểm khác ở chuẩn nghèo do Tổng cục Thống kê và WB so với chuẩn nghèo
quốc gia là: (i) chuẩn nghèo này chỉ có một mức cho cả hai khu vực thành thị
và nông thôn, (ii) số liệu chi tiêu của các hộ gia đình được sử dụng để tính tỷ
lệ người nghèo thay vì số liệu thu nhập, và (iii) tính tỷ lệ người nghèo, không
phải hộ nghèo. Tỷ lệ người nghèo này được gọi là tỷ lệ nghèo chung hoặc tỷ
lệ nghèo chi tiêu.
Bảng 1.3. Chuẩn nghèo của Tổng cục Thống kê và Ngân hàng Thế
giới qua các giai đoạn
Năm Chi tiêu bình quân/ngƣời/tháng (đồng)
1993 96.700
1998 149.000
2002 160.000
2004 173.000
2006 213.000
2008 280.000
Nguồn: [29]
Chuẩn nghèo này được áp dụng cho các cuộc điều tra về mức sống hộ
gia đình ở Việt Nam với sự hướng dẫn kỹ thuật của UNDP, WB và SIDA.
Các hộ được coi là nghèo nếu mức thu nhập và chi tiêu không đủ đảm bảo
yêu cầu trên. Tuy nhiên, tiêu chuẩn nghèo của Việt Nam còn cách quá xa so
với chuẩn nghèo của WB đưa ra với ngưỡng 2 USD/người/ngày. Do đó, Việt
Nam cần phải nỗ lực hơn nữa trong công cuộc xóa đói giảm nghèo để xây
dựng chuẩn nghèo tiếp cận với chuẩn nghèo quốc tế.
14. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
14
Hiện nay ở nước ta, một số địa phương có nền kinh tế - xã hội phát triển
đã áp dụng mức chuẩn nghèo cao hơn chuẩn nghèo chung của cả nước và chủ
động điều chỉnh chuẩn nghèo khi Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tăng cao.
- Tỉnh Bình Dương: Chuẩn nghèo áp dụng cho giai đoạn 2006 – 2008,
khu vực thành thị 500.000 đồng/người/tháng, khu vực nông thôn 400.000
đồng/người/tháng; giai đoạn 2009 – 2010, khu vực thành thị 780.000
đồng/người/tháng, khu vực nông thôn 600.000 đồng/người/tháng.
- Tỉnh Khánh Hòa: Chuẩn nghèo áp dụng cho giai đoạn 2009 – 2010,
khu vực miền núi, hải đảo 360.000 đồng/người/tháng, khu vực nông thôn
430.1 đồng/người/tháng, khu vực thành thị 500.000 đồng/người/tháng.
- Thành phố Hồ Chí Minh: Chuẩn nghèo áp dụng cho giai đoạn 2009 –
2015 là 12.000.000 đồng/người/năm (tương đương với 2 USD/người/ngày).
- Thành phố Hà Nội: Chuẩn nghèo áp dụng cho giai đoạn 2009 – 2013,
khu vực thành thị 500.000 đồng/người/tháng, khu vực nông thôn 330.000
đồng/người/tháng.
1.1.2. Cơ sở thực tiễn của đề tài
1.1.2.1. .1. Tình hình đói nghèo trên thế giới
a. Tình hình đói nghèo trên thế giới
Trong những thập niên vừa qua, với sự phát triển kinh tế, khoa học, kĩ
thuật, công nghệ, sự hỗ trợ của các tổ chức quốc tế và nỗ lực của các quốc
gia, công cuộc xóa đói, giảm nghèo của thế giới đã đạt được nhiều thành
công. Theo phương pháp thống kê mới của Ngân hàng Thế giới, mức thu
nhập được xếp vào diện nghèo khổ là 1,25 USD/người/ngày (theo chỉ số giá
cả năm 2005). Theo tiêu chuẩn này, số người nghèo trên thế giới đã giảm từ
1,9 tỷ người xuống còn 1,4 tỷ người trong vòng ¼ thế kỷ (1981-2005)[27].
Báo cáo ngày 26/8/2008 của WB cũng nêu rõ, khoảng 2,6 tỷ người trên thế
giới gia nhập đội ngũ người nghèo với mức thu nhập chưa đến 2 USD
15. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
15
người/ngày và tình trạng này hầu như không đổi kể từ năm 1981. Rất nhiều
người bị tổn thương vì túi tiền ngày càng eo hẹp do lạm phát cùng với tình
trạng giá xăng dầu và lương thực, thực phẩm tăng chóng mặt kể từ năm 2005
đến nay.
Theo WB, Châu Phi là khu vực có nhiều người nghèo cùng cực nhất thế
giới, với mức chi tiêu trung bình khoảng 70 Uscent/ngày, thấp hơn nhiều so
với các khu vực khác. Vùng Nam sa mạc Sahara là khu vực duy nhất mà tỷ lệ
người nghèo khổ hầu như vẫn “giậm chân tại chỗ”: 50% năm 2005 so với
51% năm 1981, thậm chí năm 1996 tăng lên mức đỉnh điểm là 58%. Nếu tính
theo đầu người, số người sống dưới mức nghèo khổ ở khu vực này còn tăng
gấp đôi, từ mức 202 triệu người năm 1981 lên 384 triệu người vào năm 2005
[27].
Theo thống kê của Ngân hàng Phát triển Châu Á, ở Châu Á có khoảng
600 triệu người thu nhập dưới 1 USD/ngày và 1,7 tỷ người có thu nhập 2
USD/ngày. Số người nghèo đói ở nông thôn chiếm 75%, ở khu vực đô thị
cũng không sáng sủa hơn khi cứ 3 người dân đô thị thì có 1 người phải sống
trong điều kiện thiếu tiện nghi trong các khu ổ chuột, không được hưởng các
dịch vụ y tế, giáo dục, hàng ngày phải đối mặt với cái đói, cái rét, bệnh tật và
thói hư tật xấu. Châu Á cũng là châu lục mà công tác xóa đói, giảm nghèo đạt
được những thành tựu vượt bậc, đặc biệt là khu vực Đông Á, trong đó có
Trung Quốc. Số người sống dưới mức nghèo khổ của Trung Quốc đã giảm
mạnh, từ 80% năm 1981 xuống còn từ 16 – 18% năm 2005 (từ 835 triệu
người xuống còn 208 triệu người) [27].
Nghiên cứu kinh tế Mỹ Latinh và Caribe giai đoạn 2007 – 2008 của Ủy
ban Kinh tế Mỹ Latinh và Caribe công bố vào năm 2008 đã chỉ ra tỷ lệ dân
nghèo của khu vực này chiếm 37,9%, tức 204 triệu người.
16. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
16
b. Kinh nghiệm xóa đói giảm nghèo của một số nước trên thế giới
* Trung Quốc: Trong những năm qua, bên cạnh sự phát triển vượt bậc
về kinh tế, Trung Quốc còn gặt hái được những thành công về xóa đói, giảm
nghèo. Số người nghèo của Trung Quốc giảm mạnh từ 80% năm 1981 xuống
còn từ 16 – 18% năm 2005 (từ 835 triệu người xuống còn 208 triệu người)
[27], đời sống vật chất và tinh thần của người dân được cải thiện rõ rệt. Qua
tổng kết kinh nghiệm thực tiễn, Chính phủ Trung Quốc đã từng bước hoàn
thiện hệ thống giải pháp, cơ chính sách phù hợp với điều kiện kinh tế đất
nước, địa phương và hoàn cảnh hộ gia đình nhằm loại trừ tính chủ quan, nóng
vội và đơn giản hóa vấn đề đói nghèo vốn là một vấn đề hết sức phực tạp lâu
dài. Chính phủ đã ban hành một loạt các chính sách phục vụ mục tiêu xóa đói,
giảm nghèo của quốc gia:
- Chính sách tam hóa “Sản lượng hóa - Công nghiệp hóa - Đô thị hóa”:
Chính sách này đã làm thay đổi căn bản cách nghĩ, cách làm của người dân và
cơ quan quản lý nhà nước. Cơ cấu kinh tế thay đổi, cải tạo kinh tế thuần nông
“ly nông, bất ly hương”, phát triển công nghiệp nông thôn vừa và nhỏ, sản
xuất hàng tiêu dùng, dịch vụ, chế biến xuất khẩu. Cơ cấu lao động chuyển
dịch dần từ nông nghiệp sang lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ, thu hút nhiều
lao động nông thôn.
- Chính sách “Công khai – Công bình – Công chính”: Chính sách này có
tác dụng minh bạch hóa các chính sách xóa đói, giảm nghèo của Chính phủ.
Người dân biết được quyền, nghĩa vụ của mình và giám sát được hoạt động
của các cơ quan nhà nước trong thực hiện chương trình xóa đói, giảm nghèo.
Cấp ủy đảng, chính quyền các địa phương nâng cao trách nhiệm, chủ động
sáng tạo tham thực hiện các chương trình giảm nghèo. Huy động và sử dụng
các nguồn lực có hiệu quả cho chương trình giảm nghèo.
17. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
17
Một số kinh nghiệm được rút ra trong công tác xóa đói, giảm nghèo của
Trung Quốc đó là:
- Thực hiện hình thức cuốn chiếu. Chẳng hạn, giai đoạn đầu chọn 500
thôn nghèo nhất, nhà nước tập trung đầu tư cho hai năm với nguồn lực đủ
mạnh để giải quyết những công trình bức xúc liên quan đến sản xuất, đời sống
dân sinh. Sau hai năm chuyển vốn đầu tư cho các thôn tiếp theo.
- Đối với gia đình nghèo, trước hết giúp họ cách thức làm ăn, phát triển
sản xuất để đảm bảo cuộc sống hàng ngày, sau đó mới đầu tư, cho vay vốn để
mở rộng sản xuất nhằm thoát nghèo bền vững.
- Thực hiện nhiều chính sách ưu đãi đối với các gia đình nghèo, địa
phương nghèo như: ưu đãi vay vốn, đào tạo nghề, tập huấn kiến thức sản xuất
cho người dân; phân công các cơ quan, tổ chức, các doanh nghiệp, các tỉnh
giàu giúp đỡ các địa phương nghèo về kinh nghiệm, vốn đầu tư, cán bộ; đầu
tư xây dựng hạ tầng cơ sở.... Xã hội hóa các chương trình giảm nghèo để thu
hút các cá nhân, tổ chức kinh tế, chính trị, xã hội cùng tham gia chương trình
giảm nghèo.
- Phối hợp chặt chẽ với các tổ chức quốc tế thực hiện các chương trình
giảm nghèo.
- Tạo nhiều cơ chế, chính sách thu hút đầu tư của các doanh nghiệp trong
và ngoài nước đầu tư ở các khu vực tự trị, tỉnh nghèo để tạo việc làm cho
người dân.
- Coi trọng tập huấn, bồi dưỡng kiến thức cho cán bộ tham gia xóa đói,
giảm nghèo về kỹ thuật sản xuất.
* Malayxia: Năm 1970, tỷ lệ đói nghèo của Malayxia chiếm 49,3% dân
số [20]. Với mục tiêu tổng thể là xóa bỏ nghèo đói trên toàn quốc, chính sách
xóa đói, giảm nghèo của Malayxia chính thức được hình thành từ năm 1971
gắn liên với việc ban hành chính sách kinh tế mới của Chính phủ và nó luôn
18. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
18
được bổ sung, sửa đổi để phù hợp với chính sách phát triển kinh tế - xã hội
của đất nước qua từng thời kỳ. Qua hơn 30 năm thực hiện chính sách xóa đói,
giảm nghèo, tỷ lệ nghèo đói của Malayxia giảm xuống 7,2% vào năm 2000.
Để có được thành công trên, Chính phủ đã ban hành và thực hiện nhiều
chương trình cụ thể nhằm tạo cơ hội cho người nghèo tự tạo việc làm và các
hoạt động có thu nhập cao hơn như:
- Chương trình tái định cư nhằm đưa những người không có ruộng đất
hoặc những người có ruộng đất nhưng sản xuất không hiệu quả đến những
vùng đất mới, ở đó họ có thể làm việc trong các đồn điền cao su hoặc sản xuất
dầu cọ. Tại nơi ở mới, những người định cư được cung cấp đầy đủ nhà ở, hạ
tầng cơ sở để phục vụ sản xuất và đời sống.
- Chương trình cải tạo đất nông nghiệp thông qua việc dồn điền, đổi
thửa, chuyển đổi cơ cấu cây trồng và áp dụng các kỹ thuật canh tác hiện đại.
Ở một số nơi còn xây dựng mô hình hợp tác xã để tập trung nguồn lực sản
xuất nhằm thu được lợi ích trên quy mô lớn.
- Chương trình kết hợp phát triển nông nghiệp và nông thôn với chế biến
nông sản, khuyến khích phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch
vụ ở nông thôn.
- Chương trình sản xuất tăng vụ, liên canh, xen canh cây trồng trên cùng
một thửa đất để nâng cao hiệu quả và năng suất canh tác.
- Thành lập các chợ nông thôn ở trung tâm các đô thị để nông dân trực
tiếp bán sản phẩm của mình thay vì bán qua các khâu trung gian.
- Chương trình hỗ trợ về đào tạo, tín dụng, khoa học, kỹ thuật... cho
người dân ở nông thôn để họ tìm các công việc phi nông nghiệp ở các vùng
nông thôn hoặc thành thị.
Đồng thời Chính phủ cũng thực hiện các chính sách nhằm cải thiện chất
lượng cuộc sống của người nghèo như xây dựng hạ tầng cơ sở và các dịch vụ
19. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
19
xã hội (điện, đường giao thông, trường học, y tế...). Ngoài ra, công tác xóa
đói, giảm nghèo của Malayxia còn có sự tham gia tích cực của các tổ chức
quốc tế, các tổ chức phi chính phủ và tư nhân. Họ tham gia hỗ trợ về tín dụng,
đào tạo nghề, tìm kiếm việc làm, hỗ trợ nhà ở, điều kiện học tập cho người
nghèo.
Nhờ những nỗ lực của Chính phủ và người dân, công tác xóa đói, giảm
nghèo của Malayxia đã đạt được những thành tựu vượt bậc. Tỷ lệ hộ nghèo
giảm từ 49,3% năm 1970 xuống trên 4% năm 2002, vượt mục tiêu đề ra [20].
* Bra-xin: Theo Thống kê của Cục Địa lý và Thống kê quốc gia Bra-xin,
cuối những năm 1990, Bra-xin đã có 44 triệu người được liệt vào danh sách
người nghèo (thu nhập dưới 1 USD/ngày), chiếm 28% dân số cả nước. Trong
đó, 19% số người nghèo sống ở thành phố lớn, 25% số dân nghèo số tập trung
ở các thành phố vừa và nhỏ, 46% số người nghèo tập trung ở khu vực nông
thôn [12].
Tháng 1-2003, sau khi lên cầm quyền, lãnh đạo của Đảng Lao động cánh
tả Bra-xin, Lu-ít I-na-xi-u Lu-la Đờ Xin va, đã coi công tác xóa đói giảm
nghèo là mục tiêu hàng đầu. Chính phủ đã ban hành Chương trình “Nói không
với nạn đói”, thành lập Bộ Phát triển xã hội và Chống đói nghèo, cam kết sẽ
để cho tất cả người dân được ăn ba bữa mỗi ngày.
Chương trình “Nói không với nạn đói” không chỉ dừng lại ở việc cung
cấp thực phẩm cơ bản cho các hộ nghèo, mà còn khuyến khích phát triển
nông nghiệp gia đình, tạo cơ hội việc làm cho các vùng có dân cư nghèo, tăng
cường đầu tư cho giáo dục, cải thiện nguồn nước và điều kiện vệ sinh cho các
địa phương nghèo, mục đích để giúp các gia đình khó khăn nâng cao khả
năng thoát khỏi đói nghèo, hội nhập được với tiến trình phát triển xã hội. Chú
trọng vấn đề an sinh xã hội, phổ cập giáo dục và nâng cao sức khỏe là nền
tảng để giúp các gia đình nghèo ở Bra-xin thoát khỏi đói nghèo. Chính phủ áp
20. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
20
dụng chính sách giáo dục miễn phí, ràng buộc các gia đình được hưởng tiền
trợ cấp dành cho các gia đình có thu nhập thấp. Cụ thể, các gia đình phải đưa
trẻ em đi tiêm phòng và được khám tại các bệnh viện, động viên trẻ tiếp tục
đến trường; phụ nữ mang thai phải được đi khám thai đúng quy định. Chỉ khi
có giấy chứng nhận của cơ quan y tế và nhà trường, các gia đình nghèo mới
được phép lĩnh tiền trợ cấp
Theo Bộ Phát triển xã hội và chống đói nghèo, trong năm 2009, Chính
phủ đã chi từ ngân sách 10,5 tỷ USD để tài trợ cho 13 chương trình xóa đói,
giảm nghèo; kể từ năm 2003 trở lại đây, Bra-xin cũng chi hàng tỷ USD để trợ
cấp tiền hằng tháng cho 12 triệu hộ gia đình thuộc diện nghèo khó trên toàn
quốc [12]. Viện nghiên cứu Kinh tế ứng dụng Bra-xin dự đoán, nếu nước này
tiếp tục duy trì tốc độ xóa đói, giảm nghèo như từ năm 2003 trở lại đây, thì
đến năm 2016, tỷ lệ nghèo đói của Bra-xin sẽ giảm xuống còn 4%, hệ số Gini
giảm từ 0,544 năm 2008 xuống còn 0,488, sát với mức của các nước phát
triển.
Kinh nghiệm của Bra-xin rút về công tác xóa đói, giảm nghèo đó là: Bộ
máy hành chính phải chuyên nghiệp, hết lòng làm việc để phục vụ dân nghèo,
không vụ lợi cá nhân; Chính phủ cần đầu tư vào các ngành giáo dục, y tế, xây
dựng cơ sở hạ tầng một cách đồng bộ chứ không chỉ trông chờ vào riêng
chương trình xóa đói, giảm nghèo thì mới thực sự đưa người dân thoát nghèo;
Xây dựng các chương trình xóa đói, giảm nghèo sát với nhu cầu thực tế của
người dân, gắn chặt lợi ích và trách nhiệm của người nghèo.
1.1.2.2. .2. Tình hình đói nghèo của Việt Nam – Kinh nghiệm và thách
thức
a. Tình hình đói nghèo ở Việt Nam
Là một quốc gia nằm trong nhóm các nước đang phát triển, quy mô nền
kinh tế còn nhỏ bé, trên 70% dân số sống ở nông thôn (là nhóm có nguy cơ
cao về đói nghèo), Việt Nam là một trong những quốc gia được Liên hợp
21. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
21
quốc quan tâm về mục tiêu xóa đói, giảm nghèo. Với ý thức tự lực, tự cường
và tranh thủ có hiệu quả sự giúp đỡ của cộng đồng quốc tế, trong những năm
qua Việt Nam được thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả các Chương trình Mục
tiêu quốc gia (được cụ thể hóa từ tám Mục tiêu Thiên niên kỷ của Liên hợp
quốc). Trong đó mục tiêu xóa đói, giảm nghèo được xếp ở vị trí số 1 và đặt
dưới sự quan tâm đặc biệt của Đảng và nhà nước. Công cuộc xóa đói, giảm
nghèo của Việt Nam đã đạt được những thành tựu quan trọng, được Liên hợp
quốc ghi nhận như một tấm gương sáng trong khu vực và thế giới. Tỷ lệ hộ
nghèo của Việt Nam giảm từ 58% năm 1993 xuống còn 14,85% vào năm
2007 (theo chuẩn quốc gia), nếu theo tiêu chuẩn quốc tế, tỷ lệ này cũng chỉ
còn khoảng 20%. Tuy nhiên, tỷ lệ này vẫn còn ở mức cao so với bình quân
của khu vực và thế giới.
Căn cứ chuẩn nghèo quốc gia do Chính phủ ban hành cho giai đoạn 2006
– 2010 (thu nhập bình quân đầu người 1 tháng ở khu vực nông thôn là
200.1 đồng, ở khu vực thành thị là 260.000 đồng) và được cập nhật theo
biến động giá của các năm tương ứng (Chuẩn nghèo chi tiết tại Bảng 1.2),
tình trạng đói nghèo của Việt Nam theo tiêu chuẩn quốc gia được thể hiện
dưới bảng số liệu sau:
22. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
22
Bảng 1.4. Tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn quốc gia giai đoạn 2006 – 2008
Đơn vị tính: %
Tiêu chí Năm
2004
Năm
2006
Năm
2008
Chung cả nƣớc 18,1 15,5 13,4
Khuc vực thành thị - nông thôn
Thành thị 8,6 7,7 6,7
Nông thôn 21,2 17,0 16,1
Vùng địa lý
Đồng bằng sông Hồng 12,7 10,0 8,6
Trung du và miền núi phía Bắc 29,4 27,5 25,1
Bắc Trung bộ và duyên hải miền Trung 25,3 22,2 19,2
Tây Nguyên 29,2 24,0 21,0
Đông Nam bộ 4,6 3,1 2,5
Đồng bằng sông Cửu Long 15,3 13,0 11,4
Nguồn [29]
Đây là kết quả khảo sát mức sống hộ gia đình năm 2008 do Tổng cục
Thống kê tiến hành. Kết quả trên cho thấy: Tỷ lệ hộ nghèo cả nước năm 2008
là 13,4%, tiếp tục giảm so với năm 2006 (15,5%) và năm 2004 (18,1%) và
đồng loạt giảm ở các vùng. Vùng Trung du và miền núi phía Bắc là vùng
nghèo nhất với tỷ lệ hộ nghèo lớn gấp gần 2 lần so với mức bình quân chung
của cả nước (25,1% so với 13,4%), sau đó đến vùng Tây Nguyên, Bắc Trung
bộ và duyên hải miền Trung tương ứng với các mức 21% và 19,2%. Tỷ lệ hộ
nghèo ở khu vực nông thôn cao gần gấp 3 lần so với khu vực thành thị (16,1%
so với 6,7%).
Căn cứ vào chuẩn nghèo của Ngân hàng Thế giới (WB) và Tổng cục
Thống kê xây dựng từ năm 1993, được cập nhập theo biến động của giá ở các
năm (Chuẩn nghèo chi tiết tại Bảng 1.3), tỷ lệ hộ nghèo chung của cả nước
23. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
23
được Tổng cục Thống kê công bố trong Báo cáo kết quả khảo sát mức sống
hộ gia đình năm 2008 là 14,5%.
Bảng 1.5. Tỷ lệ hộ nghèo theo tiêu chuẩn của NHTG và WB
Đơn vị tính: %
Tiêu chí 1998 2002 2004 2006 2008
Chung cả nƣớc 37,4 28,9 19,5 16,0 14,5
Khuc vực thành thị - nông thôn
Thành thị 9,5 6,6 3,6 3,9 3,3
Nông thôn 44,9 35,6 25,0 20,4 18,7
Vùng địa lý
Đồng bằng sông Hồng 30,7 21,5 11,8 8,9 8,0
Trung du và miền núi phía Bắc 64,5 47,9 38,3 32,3 31,6
Bắc Trung bộ và duyên hải miền
Trung 42,5 35,7 25,9 22,3 18,4
Tây Nguyên 52,4 51,8 33,1 28,6 24,1
Đông Nam bộ 7,6 8,2 3,6 3,8 2,3
Đồng bằng sông Cửu Long 36,9 23,4 15,9 10,3 12,3
Nguồn [29]
Tại Bảng 1.5 ta thấy, tỷ lệ nghèo cũng có xu hướng giảm qua các năm.
Tỷ lệ hộ nghèo theo tiêu chuẩn của WB và TCTK (tính theo mức chi tiêu bình
quân đầu người 1 tháng của hộ) cao hơn so với tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn
quốc gia (tính theo thu nhập bình quân đầu người 1 tháng của hộ).
Từ kết quả khảo sát cho thấy, tỷ lệ hộ nghèo ở khu vực nông thôn, miền
núi, vùng sâu, vùng xa vẫn còn ở mức cao, gấp từ 1,7 đến hơn 2 lần so với
mức trung bình của cả nước. Đó là những vùng khó khăn, có nhiều yếu tố bất
lợi như điều kiện tự nhiên khắc nghiệt, kết cấu hạ tầng thấp kém, trình độ dân
trí thấp, trình độ sản xuất mạnh mún, sơ khai. Tỷ lệ hộ nghèo là người dân tộc
thiểu số vẫn còn ở mức cao, năm 2006, khoảng 52% hộ dân tộc thiểu số sống
dưới mức nghèo khổ, trong khi đó tỷ lệ người nghèo của nhóm dân tộc Kinh
24. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
24
và Hoa mới chỉ gần 10%. Hộ nghèo là người dân tộc thiểu số có xu hướng
tăng theo thời gian, năm 1993, chỉ có 18% số hộ nghèo là gia đình dân tộc
thiểu số, con số này tăng lên đến 29% năm 2004, 39% năm 2005, và gần đây
nhất là 47% năm 2006 [23]. Ngoài ra, còn xuất hiện một số đối tượng nghèo
mới ở những vùng đang đô thị hóa và nhóm nhập cư vào đô thị, họ thường
gặp khó khăn hơn trong việc tạo thu nhập và phải chấp nhận mức thu nhập
thấp hơn lao động sở tại (do bị thu hồi đất sản xuất, không có trình độ...).
Các hộ nghèo có nhân khẩu bình quân cao hơn hộ giàu, nhóm hộ nghèo
nhất có số nhân khẩu bình quân một hộ là 4,4 người, cao gấp 1,2 lần so với
nhóm hộ giàu nhất [29]. Các hộ nghèo thường đông con, ít lao động hơn hơn
các các hộ giàu, nhóm hộ nghèo nhất có tỷ lệ người từ 0 – 14 tuổi cao (31%)
trong khi nhóm hộ giàu nhất chỉ chiếm 17%, số người trong nhóm tuổi từ 15 –
59 tuổi của nhóm người giàu nhất chiếm 72% trong khi ở nhóm người nghèo
nhất là 57% [29]. Khả năng tiếp cận các dịch vụ giáo dục, y tế của người
nghèo rất hạn chế. Chi tiêu cho giáo dục bình quân một người đi học trong
năm của nhóm hộ giàu nhất là gần 3,8 triệu đồng, cao gấp 5,4 lần so với nhóm
hộ nghèo nhất. Chi tiêu cho y tế cho một người khám chữa bệnh ở nhóm hộ
giàu nhất là gần 1,7 triệu đồng, cao gấp 3 lần so với nhóm hộ nghèo [29].
Hiện tượng bất bình đẳng giàu nghèo đang trở thành một vấn đề kinh tế -
xã hội đáng quan tâm. Chênh lệch giàu nghèo giữa các nhóm hộ giàu và nhóm
hộ nghèo có xu hướng gia tăng. Theo khảo sát mức sống năm 2008, hệ số
chênh lệch về thu nhập bình quân 1 người một tháng giữa nhóm hộ giàu nhất
và nhóm hộ nghèo nhất năm 2008 là 8,9 lần, tăng so với các năm trước (năm
2002 là 8,1 lần, năm 2004 là 8,3 lần, năm 2006 là 8,4 lần).
Cách biệt giàu nghèo trong cùng một vùng trung bình từ 7 đến gần 9 lần.
Tuy nhiên, nếu so sánh mức thu nhập trung bình người nghèo nhất ở nông
thôn 251.200 đồng so với người giàu nhất ở thành thị 3.752.400 đồng, cách
25. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
25
biệt này lên đến 14,9 lần. Nếu quan sát vào mức chi của người nghèo, trừ khu
vực Đông Nam bộ, tất cả người nghèo ở các khu vực khác đều mắc nợ (chi
lớn hơn thu). Do thu nhập không đủ để đảm bảo phục vụ cho nhu cầu chi tiêu
khiến người nghèo lâm vào tình trạng thiếu dinh dưỡng, thiếu các tiện nghị
sinh hoạt tối thiểu của đời sống vật chất và tinh thần.
Bảng 1.6. Thu nhập và chi tiêu trung bình hằng tháng của nhóm
nghèo nhất và nhóm giàu nhất năm 2008
(số chi tiêu trong dấu ngoặc)
Nhóm nghèo
nhất
(nghìn đồng)
Nhóm giàu
nhất
(nghìn đồng)
Chênh lệch
thu nhập
(số lần)
Trung bình cả nƣớc 275(329,7) 2458,2(1390,8) 8,9
Thành thị 453,2(496,6) 3752,4(2220,5) 8,3
Nông thôn 251,2(306,1) 1733,6(899,4) 6,9
Phân theo vùng
Đồng bằng sông Hồng 332,2(382,3) 2559,1(1298,3) 7,7
Trung du, miền núi phí Bắc 219,2(274,8) 1558,2(890,9) 7,1
Bắc Trung bộ và Duyên hải
miền trung 237(327,8) 1647(977,2) 6,9
Tây Nguyên 222,1(281) 1828,8(1072,6) 8,2
Đông Nam Bộ 549,5(521,8) 4286,2(2503,1) 7,8
Đồng bằng sông Cửu Long 301,2(359,7) 2182,8(1067,7) 7,2
Nguồn [29]
Nếu dựa vào hệ số Gini hoặc tiêu chuẩn “40%”, thì bất bình đẳng giàu
nghèo cũng có xu hướng tăng qua các năm. Theo khảo sát mức sống hộ năm
2008: Hệ số Ghini về thu nhập tính chung cho cả nước là 0,43 (năm 2002 là
0,418, năm 2004 và 2006 là 0,42); Tỷ trọng thu nhập của 40% dân số có thu
nhập thấp nhất trong tổng thu nhập của toàn bộ dân cư là 16,4% (năm 2002 là
17,98%, năm 2004 và 2006 là 17,4%) [29]
26. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
26
Tuy đã đạt được những thành công, công cuộc xóa đói, giảm nghèo ở
Việt Nam vẫn còn nhiều khiếm khuyết. Tính bền vững không cao, nguy cơ tái
nghèo vẫn còn, tỷ lệ hộ dân có thu nhập quanh mức chuẩn nghèo còn lớn do
đó khi có sự thay đổi về chuẩn nghèo, gặp thiên tai, dịch bệnh, tác động của
kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế rất dễ dẫn tới tái nghèo. Chênh
lệch giàu nghèo và bất bình đẳng đang có xu hướng tăng. Tình trạng đói
nghèo và chậm phát triển ở Việt Nam giai đoạn 2011 – 2015 được dự báo sẽ
tập trung ở các “túi nghèo”, “lõi nghèo” như các vùng dân tộc thiểu số, vùng
sâu, vùng xa, vùng núi cao, vùng bãi ngang ven biển hay nghèo đô thị. Ở một
số địa phương, công tác xóa đói, giảm nghèo còn mắc bệnh thành tích, báo
cáo sai sự thật hoặc còn tiêu cực trong thực hiện chính sách. Phương pháp
thực hiện thiếu thiết thực, ít hiệu quả, phô trương hình thức, như chỉ quan tâm
đến hỗ trợ đời sống, ít quan tâm đến công tác hướng nghiệp, dạy nghề,
chuyển giao công nghệ, hướng dẫn người dân cách thức sản xuất kinh doanh
để thoát nghèo, vươn lên làm giàu... Vì vậy, trong những năm tới đây, công
cuộc xóa đói, giảm nghèo của Việt Nam vẫn còn nhiều thách thức, đòi hỏi cần
phải có sự nỗ lực của các cấp, các ngành, các địa phương nhằm thực hiện mục
tiêu giảm nghèo nhanh và bền vững.
b. Nguyên nhân dẫn đến đói nghèo ở Việt Nam
Đói nghèo là một hiện tượng kinh tế - xã hội, vừa là vấn đề của lịch sử
để lại, vừa là vấn đề của sự phát triển. Có rất nhiều nguyên nhân gây ra đói
nghèo cho người dân, trong đề tài này, tôi chỉ xin đưa ra một số nguyên nhân
chủ yếu sau:
* Nguyên nhân chủ quan: Là những nguyên nhân xuất phát từ bản thân
người dân, bao gồm:
- Nguồn lực hạn chế: Người nghèo thường thiếu các nguồn lực sản xuất
(tư liệu lao động và nhân lực), họ bị rơi vào vòng luẩn quẩn của nghèo đói và
27. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
27
thiếu nguồn lực. Thiếu nguồn lực, người nghèo không thể đầu tư vào sản xuất
và mở rộng sản xuất, không tạo được thu nhập để thoát nghèo và tái đầu tư.
Các hộ nghèo thường rất ít đất đai, với xu hướng đô thị hóa như hiện
nay, tình trạng không có đất sản xuất đang có xu hướng gia tăng. Thiếu đất
đai sẽ ảnh hưởng đến an ninh lương thực và đa dạng hóa sản xuất của người
nghèo. Đa số người nghèo do thiếu đất sản xuất nên sản xuất chỉ mang tính tự
cấp, tự túc; sử dụng phương thức sản xuất truyền thống nên giá trị sản phẩm
không cao, năng suất cây trồng, vật nuôi thấp nên thiếu tính cạnh tranh trên
thị trường.
Hộ nghèo có ít hoặc không có vốn để đầu tư phát triển sản xuất. Họ cũng
ít khả năng tiếp cận các nguồn vốn tín dụng. Nguồn vốn hạn chế làm cho
người nghèo không có khả năng đổi mới phương thức sản xuất, áp dụng tiến
bộ khoa học – kỹ thuật. Mặt khác, do không có tài sản thế chất, họ phải dựa
vào tín chấp nên các khoản vay được nhỏ, không đủ để đầu tư phát triển sản
xuất. Ngoài ra, đa số người nghèo không có khả năng xây dựng kế hoạch sản
xuất cụ thể hoặc sử dụng đồng vốn không đúng mục đích nên khó có điều
kiện tiếp cận được nguồn vốn.
- Trình độ học vấn: Người nghèo thường ít có điều kiện được học hành
nên trình độ học vấn thấp, ít có cơ hội kiếm được việc làm tốt, thu nhập cao
và ổn định. Mức thu nhập của họ chỉ đảm bảo duy trì các nhu cầu tối thiểu
của cuộc sống, không có điều kiện để nâng cao trình độ trong tương lai để
vươn lên thoát nghèo. Trình độ học vấn thấp còn ảnh hưởng đến nhận thức
đối với các vấn đề giáo dục, sinh đẻ, nuôi dưỡng con cái... do đó còn ảnh
hưởng đến cả thế hệ tương lai. Trình độ học vấn thấp cũng hạn chế đến khả
năng tìm kiếm việc làm ở các lĩnh vực phi nông nghiệp, những công việc
mang lại thu nhập cao và ổn định. Mặt khác, do trình độ học vấn thấp nên
28. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
28
người nghèo không có đủ điều kiện để tiếp cận với pháp luật, chưa đảm bảo
được quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
- Các nguyên nhân về nhân khẩu học: Đông con vừa là nguyên nhân vừa
là hệ quả của nghèo đói. Tỷ lệ sinh con trong các gia đình nghèo và khu vực
nông thôn thường là rất cao. Dân số tăng nhanh, quy mô gia đình nhiều con ở
khu vực ngoại thành, miềm núi, vùng sâu, vùng xa là áp lực lớn đối với vấn
đề giải quyết việc làm và xóa đói giảm nghèo. Tỷ lệ người ăn theo trong các
hộ nghèo còn cao, thiếu lao động cũng chính là nguyên nhân dẫn đến đói
nghèo của hộ.
- Rủi ro do đau ốm, bệnh tật: Người nghèo thường không có điều kiện để
nâng cao thể chất, chăm sóc khi ốm đau. Nên khi ốm đau họ phải gánh chịu
hai gánh nặng đó là: mất lao động nên mất đi thu nhập; gánh nặng chi phí
khám chữa bệnh.
- Ý chí vươn lên thoát nghèo còn thấp, vẫn còn thái độ tiêu cực với cuộc
sống. Nhiều người không thật sự muốn làm ăn, quanh năm chỉ trông chờ vào
sự cứu trợ của chính quyền. Một số khác do vấn đề về tâm lý (làm ăn thất bát,
gia đình đổ vỡ...) nên không thiết tha với cuộc sống và trở nên rất tiêu cực
(nghiện rượu, cờ bạc...). Đây là những trường hợp rất khó để thoát nghèo cho
dù các chính sách của Chính phủ có tốt đến đâu.
* Nguyên nhân khách quan: Là những nguyên nhân xuất phát từ điều
kiện tự nhiên và xã hội.
- Những vùng có điều kiện tự nhiên khắc nghiệt thường có tỷ lệ người
nghèo cao hơn so với những vùng có điều kiện thuận lợi. Địa hình vùng núi,
vùng sâu, vùng xa, vùng bãi ngang ven sông, vùng duyên hải là những khu
vực không có điều kiện thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp do địa hình chia
cắt, đất đai cằn cỗi, độ dốc cao, giao thông đi lại khó khăn. Mặt khác, do cơ
cấu sản xuất đa phần dựa vào nghề nông, người nghèo dễ bị ảnh hưởng bởi
29. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
29
thiên tai và điều kiện thời tiết không thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp.
Người dân ở những vùng này khó khăn trong việc tiếp cận và sử dụng các
dịch vụ công ích của nhà nước như y tế, giáo dục, các dịch vụ khuyến nông...
Không những thế, những vùng này thường xa chợ, xa trung tâm dân cư nên
người dân rất thiếu thông tin về thị trường, giá cả nên khó khăn khi tìm kiếm
đầu vào và đầu ra cho hoạt động sản xuất, họ thường bị các tư thương ép giá,
mua vật tư với giá cao và bán những sản phẩm với giá rẻ.
- Rủi ro do thiên tai, dịch bệnh và các rủi ro khác: Các hộ cận nghèo và
nghèo rất dễ bị tổn thương nếu thiên tai xảy ra. Do nguồn thu nhập thấp, bấp
bênh, không có tích lũy nên khả năng đối phó và khắc phục những biến cố
trong cuộc sống (mất mùa, thiên tai, dịch bệnh...) của họ rất kém. Với khả
năng kinh tế mong manh, các hộ gia đình nghèo nếu gặp những biến cố bất lợi
sẽ tạo nên những bất ổn trong cuộc sống của họ, dễ đưa họ lâm vào tình trạng
nghèo túng. Các rủi ro trong sản xuất, kinh doanh của những hộ nghèo cũng
rất cao do không có trình độ tay nghề và kinh nghiệm làm ăn.
- Tác động chính sách vĩ mô của Chính phủ:
+ Trước thời kì đổi mới: Chính sách của nhà nước thất bại. Sau khi
thống nhất đất nước, nhà nước áp dụng chính sách tập thể hóa nông nghiệp,
cải tạo công thương và chính sách giá tiền lương đã đem lại kết quả không
như mong đợi, làm cho nền kinh tế vốn đã kiệt quệ sau chiến tranh ngày càng
trở nên suy kiệt, lạm phát có lúc tăng lên đến 700%. Việc áp dụng chế độ sở
hữu toàn dân, sở hữu nhà nước và tập thể các tư liệu sản xuất chủ yếu trong
một thời gian dài đã làm thui chột động lực sản xuất. Huy động nguồn lực
nông dân quá mức, “ngăn sông cấm chợ” đã làm tách rời sản xuất với thị
trường, sản xuất nông nghiệp đơn điệu, công nghiệp sản xuất theo kế hoạch,
thương nghiệp tư nhân không được phát triển, thương nghiệp quốc doanh
thiếu hàng hóa làm cho thu nhập đa số người dân giảm sút trong khi tỷ lệ tăng
30. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
30
dân số ở mức cao. Lao động dư thừa ở nông thôn không được khuyến khích
ra thành thị lao động, không được đào tạo nghề để chuyển sang khu vực công
nghiệp, sử dụng biện pháp hành chính (quản lý bằng hộ khẩu) để ngăn cản
nông dân di cư, nhập cư vào thành phố. Do khó khăn về kinh tế, trước đổi
mới, nguồn vốn đầu tư thấp và thiếu hiệu quả vào các công trình nhà nước
đầu tư nên tỷ lệ thất nghiệp tăng cao.
+ Sau đổi mới:
Cơ cấu đầu tư chưa hợp lý. Tỷ lệ đầu tư cho nông nghiệp và nông thôn
còn thấp. Chú trọng đầu tư vào các ngành công nghiệp thay thế hàng nhập
khẩu, chưa chú trọng đầu tư vào những ngành thu hút nhiều lao động. Các
doanh nghiệp vừa và nhỏ có khả năng tạo nhiều việc làm chưa được khuyến
khích và tạo cơ hội phát triển. Cơ sở hạ tầng ở vùng sâu, vùng xa, vùng đói
nghèo vừa thiếu, không đồng bộ và chưa được đầu tư đúng mức nên việc tiếp
cận đến các vùng này còn hết sức khó khăn. Vốn đầu tư phát triển cơ sở hạ
tầng của nhà nước chưa đáp ứng được yêu cầu.
Tự do hóa thương mại tạo ra những động lực tốt cho nền kinh tế phát
triển, góp phần xóa đói giảm nghèo trên diện rộng. Tuy nhiên việc phân phối
lợi ích tăng trưởng trong các nhóm dân cư chưa hợp lý. Thông thường, người
giàu hưởng lợi từ tăng trưởng nhiều hơn những người nghèo, điều này dẫn
đến khoảng cách giàu nghèo trong xã hội không ngừng tăng lên. Mặc khác, tư
do hóa thương mại cũng làm cho tính cạnh tranh trên thị trường giữa các
doanh nghiệp ngày càng trở nên gay gắt, nhiều doanh nghiệp lâm vào tình
trạng phá sản, đẩy công nhân vào cảnh thất nghiệp và dẫn đến đói nghèo.
Trên đây là một số nguyên nhân ảnh hưởng đến đói nghèo ở Việt Nam.
Trong các nguyên nhân gây ra nghèo đói, có một số nguyên nhân khá ổn định,
có ý nghĩa phổ biến, thay đổi không lớn như thiếu vốn, thiếu kinh nghiệm,
bệnh tật... Các nguyên nhân về điều kiện tự nhiên có sự thay đổi theo địa
31. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
31
phương. Tác động của chính phủ và nền kinh tế thị trường cũng có sự thay đổi
theo từng thời kì, từng thời điểm lịch sử. Ngay cả trong các hộ cũng có những
nguyên nhân chủ quan, khách quan khác nhau gây nên tình trạng đói nghèo
của hộ. Vì vậy, xác định được những nguyên nhân tác động đến hộ, đâu là
những nguyên nhân căn bản nhất, từ đó vạch ra những giải pháp và biện pháp
thiết thực là vấn đề hết sức quan trọng trong công tác xóa đói giảm nghèo.
c. Kinh nghiệm của một số địa phương trong công tác xóa đói giảm
nghèo
* Tỉnh Thừa Thiên Huế: Quán triệt và thực hiện chủ trương của Đảng,
nghị quyết của tỉnh về xóa đói, giảm nghèo, trong những năm qua, Thừa
Thiên Huế đã tập trung các nguồn lực, thực hiện nhiều chính sách xóa đói,
giảm nghèo trên địa bàn, đem lại nhiều kết quả quan trọng, bảo đảm kinh tế -
xã hội của địa phương phát triển theo hướng bền vững. Kết quả đạt được cụ
thể:
- Tỷ lệ hộ nghèo giảm từ 21,17% cuối năm 2005 xuống còn 12,1% cuối
năm 2008. Riêng tỷ lệ hộ nghèo ở 2 huyện miền núi giảm khá nhanh, huyện
Nam Đông từ 24,9% năm 2005 xuống còn 11,4% năm 2008; huyện A Lưới từ
48,7% năm 2005 giảm còn 27% năm 2008 [13].
- Tập trung đầu tư xóa nhà tạm tại vùng dân tộc thiểu số và vùng kinh tế
khó khăn. Đến đầu năm 2009, tỉnh đã hỗ trợ xây dựng được 9.425 ngôi nhà
mới cho hộ đồng bào dân tộc thiểu số và hộ nghèo với tổng kinh phí trên 110
tỷ đồng, đạt 135% kế hoạch đề ra [13].
- Đầu tư đồng bộ kết cấu hạ tầng ở các vùng nông thôn, miền núi. Đến
năm 2009, 100% số xã trong tỉnh có trường tiểu học, trung học cơ sở, có trạm
y tế (100% trạm y tế có bác sĩ), có đường ô tô đến trung tâm xã. Hệ thống
đường giao thông liên thôn, liên xã đều được bê tông hóa và nhựa hóa; 100%
32. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
32
số xã có điện sinh hoạt với hơn 98% số hộ được dùng điện; 87% số hộ được
sử dụng nước sạch; 100% số xã được phủ sóng truyền hình [13].
Qua quá trình thực hiện công tác xóa đói, giảm nghèo, Thưa Thiên Huế
rút ra một số bài học kinh nghiệm như sau:
- Thứ nhất, phải xác định xóa đói, giảm nghèo là một trong những chính
sách ưu tiên trong phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, là mục tiêu hàng đầu
của các mục tiêu thiên niên kỷ.
- Thứ hai, xây dựng lộ trình thực hiện các chính sách, cơ chế đặc thù, các
biện pháp đột phá nhằm thực hiện có hiệu quả công tác xóa đói, giảm nghèo
trên địa bàn. Tích cực giải quyết việc làm gắn với đào tạo nguồn nhân lực
nhằm nâng cao kiến thức tay nghề, đủ điều kiện tham gia thị trường lao động
chất lượng cao cho lao động nông thôn.
- Thứ ba, xã hội hóa các hoạt động xóa đói, giảm nghèo, phát động thành
phong trào sâu rộng trong quần chúng nhân dân. Tăng cường công tác khuyến
nông, khuyến lâm, khuyến ngư và hỗ trợ phát triển các làng nghề truyền
thống.
- Thứ tư, thiết lập có chế phân bổ ngân sách công bằng, minh bạch và có
khuyến khích cao, tạo điều kiện cho các địa phương chủ động trong việc huy
động nguồn lực tại chỗ cũng như lồng ghép với các nguồn khác, góp phần
nâng cao hiệu quả hoạt động chương trình. Tăng cường công tác kiểm tra,
giám sát việc sử dụng nguồn lực đảm bảo đúng mục tiêu, đúng đối tượng,
không thất thoát; kiên quyết xử lý những tập thể, cá nhân sử dụng nguồn kinh
phí không đúng mục đích, lãng phí.
* Tỉnh Hậu Giang: Công tác xóa đói, giảm nghèo được tỉnh coi là một
trong những biện pháp quan trọng góp phần thúc đẩy kinh tế phát triển từ gốc.
Trong những năm qua, hoạt động xóa đói, giảm nghèo được tiến hành theo
hướng sau:
33. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
33
- Một là, tiến hành rà soát và đánh giá nghiêm túc tình hình kinh tế - xã
hội, tỷ lệ hộ nghèo trong tỉnh, tìm hiểu nguyên nhân, lý do của thực trạng
nghèo đói, lấy đây là căn cứ đưa ra những chủ trương, chính sách giúp đỡ
người nghèo một cách hợp lý và hiệu quả, đề ra các giải pháp phát triển kinh
tế phù hợp với điều kiện và khả năng của người nghèo.
- Hai là, tận dụng những ưu thế, tiềm năng tự nhiên sẵn có để đề ra các
giải pháp xóa đói, giảm nghèo thiết thực. Chỉ đạo người dân đầu tư phát triển
các đặc sản nông nghiệp của địa phương như Dứa Cầu Đúc (Vị Thanh), Bưởi
Năm Roi (Châu Thành), Cá Ngát (Châu Thành), Cá Thát Lát mình trắng
(Long Mỹ)... đưa các đặc sản này thành thương hiệu đăng ký bản quyền.
- Ba là, tích cực chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng dần tỉ trọng
công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp, tạo thêm nhiều việc làm mới cho người
lao động.
- Bốn là, tập trung đầu tư và phát triển công tác đào tạo nghề gắn với giải
quyết việc làm, nhằm mục tiêu thoát nghèo bền vững thông qua các hoạt động
chủ yếu: đẩy mạnh đào tạo nghề cho người lao động nông thôn, bộ đội xuất
ngũ, người tàn tật, người dân tộc và người nghèo có sự phối hợp chặt chẽ của
các sở, ban, ngành đoàn thể và các thành phần kinh tế cùng tham gia; kết hợp
đào tạo nghề ngắn hạn với dài hạn nhằm mục đích phục vụ cho nhu cầu trước
mắt, vừa phục vụ cho nhu cầu lâu dài, từng bước nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực; triển khai các mô hình, dự án cho vay vốn; tích cực thực hiện các
chính sách hỗ trợ hộ Khơ-me theo Quyết định số 134/2004/QĐ-TTg của
Chính phủ.
Nhờ vận dụng sáng tạo các chủ trương, chính sách của Đảng và nhà
nước và điều kiện thực tiễn của địa phương, triển khai có hiệu quả các chương
trình, dự án xóa đói, giảm nghèo và chủ động lồng ghép công tác xóa đói,
giảm nghèo với hoạt động của các ngành, cơ sở, Mặt trận Tổ quốc và các
34. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
34
đoàn thể, khơi dậy sự chủ động tích cực của người dân, tỉnh Hậu Giang đã
huy động được sức mạnh tổng hợp từ các nguồn lực xã hội nhằm đem lại lợi
ích kinh tế cao, nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống nhiều hộ nghèo. Theo
kết quả phúc tra hộ nghèo cuối năm 2007, có 7.315 hộ thoát nghèo, số hộ
nghèo còn lại trên địa bàn tỉnh còn hơn 26.000 hộ, chiếm 15,5%, giảm 3,4%
so với đầu năm 2007 và vượt 0,4% kế hoạch đề ra [22].
* Tỉnh Gia Lai: Vào giữa thập niên 90 của thế kỷ 20, Gia Lai là một
trong những tỉnh nghèo của khu vực Tây Nguyên, tỷ lệ hộ nghèo chiếm
35,7%, trong đó đại đa số là đồng bào dân tộc thiểu số, khoảng cách chênh
lệch giữa mức sống thành thị và nông thôn, giữa đồng bào kinh và đồng bào
dân tộc thiểu số ngày càng có xu hướng gia tăng. Trước thực trạng đó, ngày
20/1/1995, Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh đã ban hành Nghị quyết số 09-
NQ/TU về tiếp tục thực hiện cuộc vận động xóa đói, giảm nghèo. Sau hơn 10
năm tổ chức thực hiện, công tác xóa đói, giảm nghèo của Giai Lai đã đạt được
những kết quả cụ thể sau:
- Tạo được sự thống nhất nhận thức, quyết tâm chính trị và hành động
trong toàn Đảng bộ và sự đồng thuận của nhân dân về chủ trương xóa đói,
giảm nghèo.
- Huy động các nguồn lực cho công tác xóa đói, giảm nghèo. Hơn 10
năm bằng nhiều hình thức, tỉnh đã huy động được trên 7.264 tỷ đồng đầu tư
cho công tác xóa đói, giảm nghèo.
Những thành tựu của cuộc vận động xóa đói, giảm nghèo đã thúc đẩy
nền kinh tế của Giai Lai phát triển bình quân trong 5 năm 2001 – 2005 đạt
11,55%, năm 2006 đạt 13,3%. Tỷ lệ hộ nghèo giảm từ 35,7% năm 1995
xuống còn 10% (theo chuẩn cũ) và đến cuối năm 2007 còn 27,2% (theo chuẩn
mới) [1]. Bộ mặt nông thôn, vùng sâu, vùng xa, các xã đặc biệt khó khăn ngày
càng đổi mới, nhất là hạ tầng kỹ thuật phục vụ cho sản xuất, sinh hoạt. Chất
35. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
35
lượng cuộc sống của người dân, nhất là nhóm hộ nghèo, đồng bào dân tộc
thiểu số và phụ nữ ở các xã nghèo, vùng sâu, vùng xa ngày càng được nâng
cao. Với những thành tựu đã đạt được, cuộc vận động xóa đói, giảm nghèo
còn giúp Gia Lai rút ra những bài học kinh nghiệm quan trọng, làm nền tảng
cho giai đoạn xóa đói, giảm nghèo tiếp theo:
- Một là, sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, chính quyền phải có sự thống
nhất, chặt chẽ và thường xuyên bám sát vào chương trình mục tiêu xóa đói,
giảm nghèo. Xây dựng chương trình, mục tiêu và biện pháp xóa đói, giảm
nghèo phải rõ ràng, sát thực, phù hợp với khả năng và điều kiện thực tiễn của
địa phương.
- Hai là, luôn sử dụng thế kiềng ba chân trong công tác xóa đói, giảm
nghèo: bản thân đối tượng, cộng đồng và nhà nước. Trong đó, chú trọng phát
huy vai trò, sức mạnh của cộng đồng và quyết tâm tự vươn lên của chính
người nghèo.
- Ba là, trong công tác khuyến nông, khuyến lâm phải chú ý mở các lớp
tập huấn riêng cho người nghèo về cách thức làm ăn, kết hợp cho vay vốn đầu
tư sản xuất với hình thức tín chấp.
- Bốn là, phát huy hơn nữa vai trò của các đơn vị, ban, ngành được Ban
Thường vụ Tỉnh ủy phân công phụ trách các xã điểm. Trong đó, chú trọng
công tác tham mưu cho cấp ủy, chính quyền địa phương những giải pháp tích
cực nhằm thực hiện tốt chương trình xóa đói, giảm nghèo trên địa bàn.
d. Những thành tựu và bài học kinh nghiệm về giảm nghèo của Việt
Nam
Xóa đói, giảm nghèo là một trong những chủ trương lớn của Đảng và
nhà nước nhằm cải thiện đời sống vật chất và tình thần của người nghèo, góp
phần thu hẹp khoảng cách chênh lệch về mức sống giữa nông thôn và thành
thị, giữa các vùng, các dân tộc và các nhóm dân cư; đồng thời cũng để thực
36. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
36
hiện Mục tiêu thiên niên kỷ của Liên hợp quốc và Việt Nam đã cam kết. Để
thực hiện chủ trương đó, trong những năm qua, Chính phủ đã xây dựng và
ban hành nhiều chương trình phục vụ cho công tác xóa đói, giảm nghèo.
Trong đó có bốn chương trình lớn đó là Chương trình 135, Chương trình 134,
Chương trình mục tiêu Quốc gia giảm nghèo, Chương trình thực hiện Nghị
quyết 30a. Và gần đây nhất, để công tác giảm nghèo được bền vững, Chính
phủ đã ban hành Nghị quyết số 80/NQ-CP về định hướng giảm nghèo bền
vững thời kỳ từ năm 2011 đến năm 2020.
Chương trình 135 (triển khai từ năm 1998 đến 2010) với mục tiêu thúc
đẩy phát triển kinh tế - xã hội, xóa đói, giảm nghèo ở những vùng đặc biệt
khó khăn và hỗ trợ xóa nhà tạm, cấp đất ở, đất sản xuất cho hộ nghèo đã đầu
tư 23.166,7 tỷ đồng để thực hiện 5 hợp phần lớn triển khai đến 2.410 xã thuộc
320 huyện, thị của 49 tỉnh, thành phố trong cả nước [18]. Chương trình 134
(triển khai từ năm 2004 đến nay) đã đầu tư 4.482 tỷ đồng [18] để hỗ trợ xóa
nhà tạm, cấp đất ở và đất sản xuất cho hộ nghèo. Tổng mức ngân sách được
phân bổ cho Chương trình mục tiêu Quốc gia giảm nghèo (giai đoạn 2006 -
2010) khoảng 43.488 tỷ đồng; ngân sách phân bổ trực tiếp cho Chương trình
mục tiêu Quốc gia giảm nghèo là 3.456 tỷ đồng, trong đó có 2.140 tỷ đồng từ
nguồn hỗ trợ trực tiếp của Chính phủ [39]. Theo Báo cáo đánh giá giữ kỳ
Chương trình mục tiêu Quốc gia giảm nghèo (giai đoạn 2006 - 2008), đến
cuối năm 2008, Chương trình mục tiêu Quốc gia giảm nghèo mới giải ngân
được 696,6 tỷ đồng đạt 33% kế hoạch (mức dự kiến là 60% đến năm 2008)
[39].
Sau gần hai thập kỷ thực hiện công cuộc giảm nghèo (từ 1993) và gần 10
năm thực hiện chiến lược toàn diện về tăng trưởng và giảm nghèo, Việt Nam
đã đạt được những thành tựu ấn tượng trong giảm nghèo. Tăng trưởng kinh tế
diễn ra trên diện rộng đã đem lại những cải thiện đáng kể về chất lượng cuộc
37. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
37
sống cho hầu hết người dân. Trên cơ sở áp dụng chuẩn nghèo tính theo chi
tiêu của Tổng cục Thống kê và Ngân hàng Thế giới, tỷ lệ nghèo đã giảm liên
tục trong vòng gần hai thập kỷ qua, từ 58% năm 1993 xuống còn 37,4% năm
1998, 28,9% năm 2002, 16% năm 2006, 14,5% năm 2008 với khoảng gần 30
triệu hộ đã thoát nghèo [40]. Nếu áp dụng chuẩn nghèo của Chính phủ, tỷ lệ
hộ nghèo cả nước giảm từ 22% năm 2005 xuống còn 9,45% năm 2010 (vượt
mục tiêu của Chính phủ đề ra là 10 – 11%) theo chuẩn nghèo giai đoạn 2006
– 2010 [6]. Kết cấu hạ tầng thiết yếu phục vụ sản xuất và đời sống dân sinh ở
các thôn, bản, xã đặc biệt khó khăn và các huyện nghèo đã đầu tư đồng bộ.
Thu nhập, đời sống của đại đa số người dân được nâng cao và cải thiện, nhất
là đồng bào dân tộc thiểu số, phụ nữ và trẻ em. Thu nhập bình quân đầu người
đã vượt mốc của một nước nghèo (1.000USD) và trở thành nước có thu nhập
trung bình. Đây là một thành tựu ấn tượng đã được cộng đồng quốc tế ghi
nhận là điểm sáng và cũng là thành tựu nổi bật trong công cuộc đổi đất nước
từ năm 1986 đến nay.
Ngay cả những người chưa thoát nghèo cũng có chất lượng cuộc sống
được cải thiện đáng kể trong giai đoạn này. Cụ thể, sự thiếu hụt tiêu dùng của
người nghèo cũng đã giảm liên tục từ 18,5% năm 1993 xuống mức thấp nhất
là 3,5% năm 2008 [40]. Các chỉ số phi thu nhập thể hiện sự tiếp cận của người
nghèo đến các dịch vụ xã hội cơ bản và cơ sở hạ tầng (giáo dục, y tế, điện,
đường, nước sạch...) cũng khẳng định xu hướng tích cực này. Nổi bật là nếu
năm 1993, chưa đến 37% người nghèo được sử dụng điện, thì đến nay gần
90% người nghèo đã có điện sử dụng.
Với những thành tựu đã đạt được, Việt Nam cũng đã tích lũy được
những kinh nghiệm quan trọng về giảm nghèo, đó là:
- Giảm nghèo không chỉ đơn thuần là một chính sách xã hội, mà được
nâng lên tầm là mục tiêu phát triển có tính ưu tiên của Việt Nam. Đặt trong
38. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
38
mối quan hệ hài hòa với tăng trưởng kinh tế, chính sách giảm nghèo luôn
được đặt trên nền tảng phát triển kinh tế của từng thời kỳ, và ngược lại, sự
liên kết chính sách cũng có vai trò quan trọng để đóng góp, thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế. Bởi vậy, một trong những thành tựu nổi bật của Việt Nam
được cộng đồng quốc tế ghi nhận là vừa bảo đảm duy trì tốc độ tăng trưởng
kinh tế nhanh, ổn định đồng thời cũng vừa hạn chế được tốc độ gia tăng bất
bình đẳng xã hội.
- Dựa trên ý chí quyết tâm và sự đồng thuận của toàn bộ hệ thống chính
trị, các cơ chế, chính sách giảm nghèo được ban hành một cách tích cực và có
tính toàn diện, phù hợp với đặc điểm, bản chất nghèo của đối tượng thụ
hưởng, đồng thời hướng trọng tâm đến các cơ chế, chính sách tạo ra tiền đề
cần thiết giúp người nghèo phát huy năng lực bản thân để tự vươn lên cải
thiện đời sống, quyết tâm thoát nghèo (đầu tư cơ sở hạ tầng, vay vốn phát
triển sản xuất, dạy nghề, hỗ trợ tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản như y tế,
văn hóa giáo dục, nhà ở, nước sinh hoạt...);
- Quá trình điều hành, tổ chức thực hiện các chương trình, dự án giảm
nghèo năng động, linh hoạt với các mục tiêu cụ thể và nhiều giải pháp phù
hợp có tính đến yếu tố vùng miền, tập quán dân cư, cộng đồng (các chương
trình giảm nghèo ngành, các chương trình phát triển kinh tế - xã hội vùng…);
- Việc xác định đối tượng nghèo, phân loại nguyên nhân nghèo và diễn
biến nghèo của các nhóm dân cư khác nhau giúp cho các chính sách giảm
nghèo được xây dựng có trọng tâm, trọng điểm, phù hợp với đối tượng và
mang lại hiệu quả tác động thực tế;
- Sự nghiệp giảm nghèo của Việt Nam đã huy động được sự tham gia
của các cấp, các ngành, của toàn xã hội với nhiều hình thức huy động nguồn
lực tham gia rất phong phú, từ nhiều kênh, nhiều nguồn khác nhau; đồng thời
39. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
39
tranh thủ được sự giúp đỡ và các nguồn lực hỗ trợ của cộng đồng quốc tế cả
về vốn, kỹ thuật và kinh nghiệm.
e. Những thách thức xóa đói giảm nghèo của Việt Nam
Gần 2 thập kỷ nỗ lực đã giúp Việt Nam cơ bản giải quyết được tình
trạng trầm trọng của nghèo đói trên diện rộng, tuy nhiên nó cũng dẫn đến
những thay đổi căn bản về động thái nghèo. Động thái nghèo của Việt Nam
đang diễn biến với hai đặc điểm nổi bật:
- Nghèo kinh niên tập trung vào đối tượng là đồng bào dân tộc thiểu số
với tỷ lệ ước khoảng 47,1% [40]. Xét về mặt địa lý, nghèo kinh niên tập trung
ở khu vực đặc biệt khó khăn, vùng Bắc Trung Bộ chiếm tỷ lệ lớn nhất trong
nhóm nghèo kinh niên (32,6%), tiếp theo là các vùng núi phía Bắc (24,9%),
Tây Nguyên (21,8) và Đồng bằng sông Cửu Long (10,4%), trong kho đó, tỷ lệ
này khá thấp ở Đồng bằng sông Hồng (3,8%), rất thấp ở miền Đông Nam Bộ
(0,8%) [40]. Đây là nhóm dân cư có tốc độ giảm nghèo chậm, nhóm dân tộc
Kinh/Hoa có mức giảm nghèo từ 53,9% năm 1993 xuống chỉ còn 9% năm
2008, trong khi đó, tỷ lệ giảm nghèo của các dân tộc thiểu số giảm chậm hơn
từ 86,4% năm 1993 xuống còn 53,3% năm 2008 [40] và nhóm này luôn đứng
trước nguy cơ tái nghèo.
- Tình trạng nghèo và chậm phát triển của Việt Nam tập trung chủ yếu
ở khu vực miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng bãi ngang ven biển; trong đó
“lõi nghèo” tập trung nhiều ở khu vực các tỉnh miền núi phía Bắc (29,4%),
Tây Nguyên (22,2%), Bắc Trung Bộ và duyên hải miền Trung (20,4%). Trong
khi đó, vùng Đông Nam Bộ tỷ lệ hộ nghèo chiếm 2,3%, Đồng bằng sông
Hồng chiếm 8,3% (tính theo chuẩn nghèo của Chính phủ giai đoạn 2011 -
2015)[29]. Bên cạnh đó, người nghèo đô thị đang ngày càng trở thành vấn đề
cần được quan tâm trên bản đồ nghèo đói của Việt Nam.
40. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
40
Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI đã xác định một trong
những nhiệm vụ chủ yếu của phát triển đất nước trong giai đoạn 2011 – 2015
là “Tạo bước tiến rõ rệt về thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo đảm an
sinh xã hội, giảm tỷ lệ hộ nghèo”. Và Nghị quyết số 80/NQ-CP cũng đã xác
định “Giảm nghèo bền vững là một trọng tâm của Chiến lược phát triển kinh
tế - xã hội năm 2011 – 2020 nhằm cải thiện và từng bước nâng cao điều kiện
sống của người nghèo, trước hết là ở khu vực miền núi, vùng đồng bào dân
tộc thiểu số; tạo sự chuyển biến mạnh mẽ, toàn diện ở các vùng nghèo; thu
hẹp khoảng cách chênh lệch giữa thành thị và nông thôn, giữa các vùng, các
dân tộc và các nhóm dân cư”. Sự nghiệp giảm nghèo được đặt trước giai
đoạn phát triển mới mà ở đó mục tiêu giảm nghèo bền vững là một thành tố
liên hệ mật thiết với định hướng chiến lược để đến năm 2020, Việt Nam cơ
bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Công cuộc xóa đói,
giảm nghèo phải có cách tiếp cận mới, tính đầy đủ hơn nhu cầu tối thiểu về
vật chất, tinh thần của người dân và tiếp cận dần với chuẩn nghèo thế giới. Từ
đó, không ít thách thức mới đã và đang đặt ra đối với mục tiêu giảm nghèo
bền vững của Việt Nam, đó là:
- Vấn đề tái nghèo, cận nghèo: Hiện nay có một tỷ lệ khá lớn hộ thoát
nghèo song thu nhập, mức sống vẫn ở ngưỡng sát trên chuẩn nghèo. Với việc
áp dụng chuẩn nghèo mới và tình hình giá cả hàng hóa liên tục tăng cao thì
nguy cơ những hộ mới thoát nghèo hoặc ở mức cận nghèo dễ dàng rơi vào
tình trạng nghèo khi gặp những biến động, rủi ro trong cuộc sống như thiên
tai, dịch bệnh, ốm đau… Đây là thách thức lớn nhất để bảo vệ thành quả giảm
nghèo, và cũng là thách thức đối với việc đạt được chỉ tiêu giảm hộ nghèo
2%/năm theo mục tiêu mà Nghị quyết Đại hội Đảng XI đề ra.
- Với xu hướng nghèo tập trung vào đối tượng đồng bào dân tộc thiểu
số và khu vực miền núi, vùng sâu, vùng xa, công tác giảm nghèo trong thời
41. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
41
gian tới sẽ càng khó khăn hơn vì đây là khu vực dân cư chịu tác động mạnh
mẽ của phong tục tập quán bản địa và cơ sở hạ tầng còn nhiều khó khăn. Mặt
khác, việc thiết kế các chính sách xóa đói giảm nghèo cho nhóm đối tượng
này thời gian qua còn nặng tính bao cấp tạo nên tâm lý ỷ lại, trông chờ vào
nhà nước; một bộ phận dân cư còn mặc cảm, tự ty, cam chịu đói nghèo, thiếu
ý chí vươn lên thoát nghèo bằng năng lực của chính mình.
- Vấn đề giảm nghèo và thực hiện công bằng xã hội: Khoảng cách về
thu nhập giữa các nhóm dân cư, các vùng địa lý ngày càng doãng rộng trong
bối cảnh chỉ số giá tiêu dùng (CPI) ngày càng tăng cao đương nhiên đưa tới
hệ lụy là làm giảm cơ hội tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản của người nghèo.
Đây là thách thức đặt ra đối với chất lượng và hiệu quả của việc thực hiện
chính sách giảm nghèo trong thời gian tới.
- Khả năng phát sinh hình thức nghèo mới: Quá trình hội nhập sâu vào
nền kinh tế thế giới cùng tốc độ đô thị hóa tăng nhanh tạo ra luồng dịch
chuyển mạnh mẽ lao động – dân cư từ nông thôn ra thành thị. Bên cạnh đó,
vấn đề nông dân không có đất sản xuất do chuyển đổi đất nông nghiệp thành
đất công nghiệp, đất dịch vụ và khu đô thị sẽ dẫn tới sự gia tăng người nghèo
đô thị. Lạm phát và sự gia tăng chóng mặt của giá cả khiến rổ hàng hóa thiết
yếu của người nghèo đô thị teo tóp rất nhanh và đặt ra nhiều vấn đề nan giải
để giảm nghèo với đối tượng đặc thù này từ góc nhìn nghèo đa chiều.
- Trong thời gian qua, việc thực hiện các chương trình, dự án giảm
nghèo còn dàn trải, trùng lắp, thiếu tính đồng bộ. Đây là bài toán chi phí -
hiệu quả cần được xử lý cả trên phương diện chính sách vĩ mô và quá trình tổ
chức thực hiện, nhằm tập hợp và sử dụng một cách hiệu quả nhất nguồn lực
giảm nghèo.
- Hiệu quả giảm nghèo và vấn đề tiếp cận với chuẩn quốc tế: Để giảm
nghèo hiệu quả đòi hỏi việc thiết kế chính sách giảm nghèo trong thời gian tới
42. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
42
phải tiếp cận dần với chuẩn quốc tế, trong đó quan trọng nhất là tiêu chí đo
nghèo để xác định đúng đối tượng người nghèo. Đây là thách thức đòi hỏi
việc xây dựng và sử dụng chuẩn nghèo phải khoa học, khách quan, linh hoạt
theo hướng tính toán, cập nhật đầy đủ nhu cầu chi tiêu tối thiểu của con
người, đồng thời cần xem xét một cách thỏa đáng các vấn đề về y tế, môi
trường, bình đẳng về cơ hội, và các yếu tố phi thu nhập như nhân lực, tài sản,
khả năng tiếp cận các dịch vụ hỗ trợ… để phản ánh được bản chất nghèo
trong giai đoạn mới.
1.2. Phƣơng pháp nghiên cứu
1.2.1. Câu hỏi nghiên cứu
Một là, tại sao phải nghiên cứu đói nghèo trên địa bàn huyện Ba Bể? Ba
Bể là một trong hai huyện nghèo nhất của tỉnh Bắc Kạn, là một trong 62
huyện nghèo nhất cả nước. Trong những năm qua, được sự quan tâm của
Đảng và Nhà nước, cùng với sự nỗ lực phấn đấu của Đảng bộ, chính quyền và
nhân dân các dân tộc trong huyện, kinh tế - xã hội của Ba Bể đã có bước phát
triển vượt bậc, đời sống vật chất và tinh thần của người dân được cải thiện, số
hộ nghèo liên tục giảm. Tuy nhiên, tỷ lệ hộ nghèo và cận nghèo vẫn còn cao,
công tác xóa đói, giảm nghèo chưa mang tính bền vững. Chính vì vậy, tôi lựa
chọn Ba Bể là địa bàn thực hiện đề tài nghiên cứu thực trạng đói nghèo và đề
xuất một số giải pháp giảm nghèo bền vững cho huyện Ba Bể.
Hai là, nguyên nhân nào dẫn đến đói nghèo của hộ? Làm thế nào để
khẳng định một cách chính xác những tác động đó? Đâu là tác động chính?
Đâu là tác động phụ? Để làm được điều này, chúng ta phải sử dụng phầm
mềm tin học và ước lượng thống kê để tránh đưa ra những kết luận mang tính
chủ quan của người nghiên cứu. Trong đề tài này, để giải quyết những vấn đề
nêu trên, tôi sử dụng Hàm sản xuất Cobb-Douglas để phân tích.
43. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
43
Ba là, làm thế nào để các giải pháp đưa ra phù hợp với thực tiễn và đạt
được mục tiêu giảm nghèo bền vững cho người dân? Đây là vấn đề mà bất cứ
đề tài khoa học nào cũng cần phải đạt được. Tuy nhiên, trên thực tế nhiều giải
pháp khi đưa ra không sát với yêu cầu thực tế do việc xác định nguyên nhân
chưa chính xác. Vì vậy, khi nghiên cứu về đói nghèo, chúng ta phải tìm và
phân tích nguyên nhân dẫn đến đói nghèo, từ đó đề xuất các giải pháp chính
xác khắc phục những nguyên nhân chính, có ảnh hưởng nhiều nhất đến tình
trạng đói nghèo của hộ.
1.2.2. Các phương pháp nghiên cứu
1.2.2.1. Phương pháp nghiên cứu chung
Đây là phương pháp tổng quát bao gồm quan điểm duy vật biện chứng
duy vật lịch sử để thấy rõ các hiện tượng kinh tế - xã hội trong trạng thái vận
động và có các mối liên hệ chặt chẽ với nhau. Nó cho phép phân tích, đánh
giá một cách khách quan các vấn đề nghiên cứu như cơ cấu kinh tế của địa
phương, cơ sở vật chất kỹ thuật có ảnh hưởng đến sự phát triển của cơ cấu
kinh tế đó, phong tục tập quán liên quan trực tiếp và giám tiếp đến XĐGN.
1.2.2.2. Phương pháp thu thập thông tin
a. Phương pháp thu thập thông tin thứ cấp
- Từ các sách, công trình nghiên cứu, các báo cáo về xóa đói, giảm
nghèo của các nhà nghiên cứu, các cơ quan chức năng của Việt Nam và các tổ
chức quốc tế.
- Từ các Nghị quyết Đại hội Đảng của Đảng bộ tỉnh Bắc Kạn khoá X,
Đại hội Đảng bộ huyện Ba Bể, các báo cáo tổng kết hằng năm của Ủy ban
nhân dân huyện, báo cáo của phòng LĐTB&XH và Chi cục Thống kê huyện.
- Từ báo cáo tổng kết công tác xóa đói, giảm nghèo; báo cáo kết quả rà
soát hộ nghèo của Sở Lao động, thương binh và xã hội tỉnh.
44. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
44
(n – 1)S2
U1
δ2
≤ ≤
b. Phương pháp thu thập thông tin sơ cấp
- Phương pháp xác định mẫu điều tra
Việc chọn hộ điều tra phải mang tính đại diện cho vùng nghiên cứu. Số
lượng hộ điều tra được xác định bằng công thức sau:
t2
δ2
n =
∆2
Trong đó:
n là số hộ cần tiến hành điều tra.
t là hệ số tin cậy (t = 1,95 với mức ý nghĩa α = 5 %).
∆ là phạm vi sai số cho phép.
Để ước lượng δ ta dùng phương sai chọn mẫu (S2
được tính cho 30 hộ
điều tra thử) và ước lượng theo công thức sau:
(n – 1)S2
U2
Trong đó:
S2
là phương sai mẫu.
n là dung lượng mẫu.
U1, U2 là chênh lệch mẫu và được tra từ bảng phân phối χ2
.
- Phương pháp chọn mẫu điều tra: Tôi sử dụng phương pháp chọn mẫu
hai cấp để chọn mẫu điều tra (là phương pháp kết hợp tính tối ưu của phương
pháp chọn mẫu đơn giản, phân cấp và chọn mẫu cả nhóm). Căn cứ số đơn vị
hành chính trực thuộc và vị trí địa lý của huyện, tôi chia các xã, thị trấn thành
3 nhóm đại diện cho ba vùng địa lý (địa hình núi đá vôi, địa hình núi đất và
địa hình thung lũng dọc các sông, suối, xen giữa các dãy núi cao); từ mỗi
45. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
45
nhóm chọn ngẫu nhiên 1 xã để tiến hành điều tra. Tại các xã được lựa chọn,
căn cứ vào danh sách hộ nghèo năm 2010 được Ủy ban nhân dân huyện phê
duyệt, chọn ra các hộ nghèo bằng phương pháp lựa chọn mẫu ngẫu nhiên đơn
giản. Kết quả, đã lựa chọn được 150 hộ, trong đó: xã Nam Mẫu 36 hộ, xã Yến
Dương 42 hộ, xã Khang Ninh 72 hộ.
- Phương pháp thu thập thông tin bằng phiếu điều tra: Căn cứ vào dự
kiến bảng biểu và các thông tin cần thiết phục vụ cho việc đánh giá thực trạng
về thu nhập và đói nghèo của hộ, tôi xây dựng mẫu phiếu điều tra thông tin
của hộ năm 2010. Phiếu điều tra sẽ cho phép thu thập được các thông tin định
tính và định lượng đến tình hình kinh tế của hộ.
- Phương pháp chuyên gia, chuyên khảo: Thu thập thông tin từ các cán
bộ địa phương, người lãnh đạo trong cộng đồng. Phương pháp này cho phép
khai thác được những kiến thức bản địa của người dân địa phương.
c. Phương pháp xử lý số liệu thống kê
Việc xây dựng hệ thống bảng biểu, hệ thống chỉ tiêu, tính toán số liệu
được thực hiện trên chương trình phần mềm Excel làm cơ sở cho những kết
luận phục vụ mục tiêu nghiên cứu của đề tài.
1.2.2.3. Phương pháp tổng hợp và xử lý số liệu
a. Đối với thông tin thứ cấp
Lựa chọn, phân loại và sử dụng thông tin theo thứ tự ưu tiên về độ quan
trọng của thông tin. Đối với các thông tin là số liệu thì lập các bảng biểu.
b. Đối với thông tin sơ cấp
Số liệu thu được từ quá trình điều tra sẽ được nhập vào máy tính sau đó
sử dụng phần mềm Excel để tổng hợp xử lý.