Nhận viết luận văn Đại học , thạc sĩ - Zalo: 0917.193.864
Tham khảo bảng giá dịch vụ viết bài tại: vietbaocaothuctap.net
Download luận văn thạc sĩ ngành chính trị học với đề tài: Văn hóa chính trị của thanh niên huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc hiện nay, cho các bạn có thể tham khảo
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Luận văn: Văn hóa chính trị của thanh niên huyện Yên Lạc, HAY
1. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN THỊ THẢO
VĂN HÓA CHÍNH TRỊ CỦA THANH NIÊN
HUYỆN YÊN LẠC, TỈNH VĨNH PHÚC HIỆN NAY
LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH TRỊ
HÀ NỘI, 2019
2. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN THỊ THẢO
VĂN HÓA CHÍNH TRỊ CỦA THANH NIÊN
HUYỆN YÊN LẠC, TỈNH VĨNH PHÚC HIỆN NAY
Ngành: Chính trị học
Mã số: 8310201
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS CAO THU HẰNG
HÀ NỘI, 2019
3. LỜI CAM ĐOAN
Đề tài nghiên cứu “Văn hóa chính trị của thanh niên huyện Yên Lạc,
tỉnh Vĩnh Phúc hiện nay” của luận văn này là kết quả của sự nỗ lực cố
gắng, tìm tòi và nghiên cứu của riêng bản thân tôi cùng với sự hướng dẫn tận
tình của người hướng dẫn khoa học PGS.TS Cao Thu Hằng. Tôi xin cam
đoan, kết quả nghiên cứu này chưa hề được công bố trong bất cứ công trình nào.
Nếu có gì sai sót tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Hà Nội, tháng … năm 2019
Học viên
Nguyễn Thị Thảo
4. MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1. VĂN HÓA CHÍNH TRỊ CỦA THANH NIÊN VIỆT NAM
HIỆN NAY:...................................................................................................... 8
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN........................................................................ 8
1.1. Văn hóa và văn hóa chính trị .................................................................. 8
1.2. Cấu trúc, đặc điểm, chức năng của văn hóa chính trị........................... 15
1.3. Thanh niên Việt Nam và vai trò của văn hóa chính trị đối với sự phát
triển của thanh niên Việt Nam hiện nay ...................................................... 25
Chương 2. VĂN HÓA CHÍNH TRỊ CỦA THANH NIÊN HUYỆN YÊN
LẠC, TỈNH VĨNH PHÚC: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP.................. 32
2.1. Môt số đặc điểm huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc và thanh niên trong
huyện............................................................................................................ 32
2.2. Thực trạng văn hóa chính trị thanh niên huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc
hiện nay........................................................................................................ 38
2.3. Một số giải pháp cơ bản nâng cao văn hóa chính trị cho thanh niên
huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc................................................................... 57
KẾT LUẬN.................................................................................................... 66
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO..................................................... 68
5. DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
VHCT : văn hóa chính trị
BTV : Ban Thường vụ
TNCS : thanh niên cộng sản
CNH: công nghiệp hóa
HĐH: hiện đại hóa
Nxb: nhà xuất bản
XHCN: xã hội chủ nghĩa
KT- XH: kinh tế - xã hội
KHHGĐ: kế hoạch hóa gia đình
ATGT: an toàn giao thông
UBND: ủy ban nhân dân
ĐVTN: đoàn viên thanh niên
GDTX và DN: giáo dục thường xuyên và dạy nghề
THPT: trung học phổ thông
LLCT: lực lượng chính trị
6. 1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng xác định: “Văn hóa vừa
là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội” [16- tr 128].
Chính vì vậy, nhận thức đúng đắn về văn hóa là một điều kiện không thể thiếu
trong hành trang tri thức tiến về tương lai của mỗi người, đặc biệt là thế hệ
thanh niên.
Hiện nay, Văn hóa chính trị có vai trò rất to lớn đối với mỗi quốc gia,
mỗi dân tộc trong việc tổ chức xã hội, định hướng điều chỉnh các hành vi và
quan hệ xã hội. Và văn hóa chính trị còn thúc đẩy hoạt động của giai cấp, của
cá nhân, góp phần nâng cao hiệu quả, chất lượng của hoạt động chính trị.
Bối cảnh xu thế toàn cầu hóa hiện nay đã mở ra nhiều cơ hội phát triển mọi
mặt song cũng tạo ra những thách thức mới cho mỗi quốc gia, mỗi dân tộc.
Từ đó sẽ tạo động lực cho sự hòa nhập, phát triển và ổn đinh của đất nước. Do
vậy, các quốc gia trên thế giới đã và đang chú trọng nâng cao văn hóa chính
cho người dân nói chung, trong đó đặc biệt là thanh niên.
Văn hóa chính trị ở nước ta có một quá trình hình thành và phát triển lâu
dài, gắn liền với lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc, dựa trên nền tảng
chủ nghĩa Mác Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, hướng tới mục tiêu “Dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Điều đó, đảm bảo
định hướng xã hội chủ nghĩa, thống nhất giữa tính cách mạng và khoa học,
truyền thống với hiện đại. Cũng chính từ đó đã tạo nên nét đặc sắc trong văn
hóa chính trị ở nước ta.
Với vai trò là một tổ chức chính trị xã hội rộng lớn của thanh niên, Đoàn
Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh đã không ngừng đổi mới về phương thức
và tổ chức hoạt động để đáp ứng ngày càng tốt hơn những đòi hỏi của thanh
niên cũng như của thực tiễn, góp phần đào tạo con người mới cho đất nước.
7. 2
Tuy nhiên, công tác Đoàn và phong trào thanh thiếu niên còn nhiều mặt hạn
chế; hoạt động của Đoàn còn nhiều lúng túng, hệ thống tổ chức Đoàn trong hệ
thống chính trị và các phong trào thanh niên chưa gây được ảnh hưởng sâu
rộng; nội dung, phương thức hoạt động chậm được đổi mới, chưa có biện
pháp thiết thực để lôi cuốn, tập hợp thanh niên. Tăng cường công tác tập hợp
vận động thanh niên, xây dựng tổ chức Đoàn vững mạnh toàn diện là một
trong những nội dung quan trọng, cấp bách của cấp bộ Đoàn trong thời kỳ đẩy
mạnh CNH, HĐH. Bên cạnh đó, lực lượng thanh niên ngày nay cũng đang phải
đối diện với nhiều thách thức và khó khăn cùng sự tác động của mặt trái kinh tế
thị trường.
Yên Lạc là một huyện của tỉnh Vĩnh Phúc. Hiện nay, trên địa bàn huyện
có 17 xã, thị trấn gồm: Đồng Văn, Tề Lỗ, Tam Hồng, Văn Tiến, Nguyệt Đức,
Hồng Phương, Liên Châu, Đại Tự, Trung Nguyên, Thị trấn Yên Lạc, Yên
Đồng, Đồng Cương, Trung Hà, Hồng Châu, Yên Phương, Bình Định, Trung
Kiên. Đây là một huyện tương đối lớn của Vĩnh Phúc. Nơi đây đang có những
bước phát triển vượt bậc nhờ đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại
hóa nông thôn. Đây cũng là vùng đất chứa đựng nhiều giá trị văn hóa truyền
thống của Vĩnh Phúc nói riêng và của Việt Nam nói chung.
Thực tiễn hiện nay cho thấy, văn hóa chính trị của thanh niên Yên Lạc
có những điểm tích cực nhất định. Thanh niên Yên Lạc ngày nay đa phần là
những bạn có lý tưởng chính trị đúng đắn, có niềm tin vào con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam; luôn đấu tranh chống lại những biểu hiện sai
trái của các thế lực thù địch; tham gia nhiệt tình các phong trào xã hội. Tuy
nhiên, bên cạnh đó, còn có một bộ phận thanh niên còn chưa có ý thức chính
trị đúng đắn, một số bạn còn đua đòi, dao động, chưa tin tưởng vào các hoạt
động của chính quyền, đoàn thể,... Tất cả những điều này ảnh hưởng đến sự
phát triển không chỉ của Yên Lạc, mà còn ảnh hưởng đến sự phát triển chung
8. 3
của tỉnh Vĩnh Phúc nói riêng, Việt Nam nói chung. Mục tiêu xây dựng một
nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, tạo
những tiền đề vững chắc đi lên chủ nghĩa xã hội chỉ có thể thành công khi
chúng ta xây dựng được một tầng lớp thanh niên có tình cảm, tri thức văn hóa
chính trị đúng đắn, có niềm tin vào sự tất yếu về con đường đi lên chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng và cùng tham gia các
hoạt động xã hội, chính trị...
Trước thực trạng văn hóa chính trị của thanh niên Yên Lạc như đã trình
bày trên và trước những nnhiệm vụ, vai trò quan trọng của thanh niên Yên
Lạc đối với sự phát triển của địa phương, của đất nước thì việc nâng cao hơn
nữa văn hóa chính trị cho thanh niên huyện Yên Lạc là một yêu cầu tất yếu,
nhằm đáp ứng những đòi hỏi bức thiết của sự nghiệp xây dựng đất nước. Vì lý
do đó tôi chọn đề tài: “Văn hóa chính trị của thanh niên huyện Yên Lạc,
tỉnh Vĩnh Phúc” để triển khai nghiên cứu.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Văn hóa chính trị là một trong những vấn đề được giới nghiên cứu đào
sâu, tìm hiểu nhiều. Hiện nay, trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học, nội dung
nói trên được đề cập nhiều ở nhiều các công trình khác nhau, cụ thể:
Tác giả Phạm Ngọc Quang đã cho xuất bản cuốn: “Văn hóa chính trị và
việc bồi dưỡng đội ngũ cán bộ lãnh đạo ở nước ta hiện nay” (1995). Trong
cuốn này, tác giả đã đi sâu bàn về lý luận văn hóa là gì và văn hóa chính trị là
gì. Đồng thời, tác giả còn chỉ ra thực trạng và giải pháp trong việc nâng cao
đội ngũ cán bộ lãnh đạo ở nước ta hiện nay.
Năm 2006, tác giả Lâm Quốc Tuấn đã xuất bản cuốn “Nâng cao văn
hóa chính trị của cán bộ lãnh đạo quản lý ở nước ta hiện nay”, (Nxb Văn hóa
Thông tin). Công trình đã đề cập đến một số khái niệm văn hóa, văn hóa
chính trị, đặc điểm của nó. Công trình cũng đã đánh giá được thực trạng văn
9. 4
hóa chính trị của đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý ở Việt Nam hiện nay và
nguyên nhân của chúng; từ đó, đưa ra những phương hướng, giải pháp nhằm
nâng cao văn hóa chính trị của cán bộ lãnh đạo quản lý ở nước ta hiện nay.
Bên cạnh các công trình nói trên, còn có một số công trình khác bài viết
liên quan đến văn hóa chính trị như:
Công trình “Vai trò của văn hóa trong hoạt động chính trị của Đảng ta
hiện nay” (1996) (GS.TS Trần Văn Bính chủ biên, Nxb Lao động, Hà Nội):
trong công trình này, tác giả đã làm rõ được vai trò của văn hóa trong hoạt
động chính của Đảng trong thực tiễn và từ đó, tác giả đưa ra các phương
hướng cũng như đề xuất một số giải pháp để nâng cao vai trò của văn hóa
trong việc tác động đến các hoạt động chính trị của đảng.
“Một số cách tiếp cận về văn hóa chính trị” (2008), TS. Lưu Văn
Quảng, đề tài nghiên cứu khoa học cấp cơ sở, Viện Chính trị học, Học viện
Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội: Trong đề tài, tác giả đã làm rõ được
các khái niệm, cấu trúc, đặc điểm cũng như phân loại được các cách tiếp cận
về văn hóa chính trị của các nhà nghiên cứu đi trước để từ đó có được những
nhận thức về cách tiếp cận văn hóa chính trị một cách hợp lý nhất.
“Bước đầu tìm hiểu những giá trị văn hóa chính trị truyền thống Việt
Nam” (2009), GS.TS Nguyễn Văn Huyên, PGS.TS. Nguyễn Văn Vĩnh và TS.
Nguyễn Hoài Văn (Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội): Nội dung cuốn sách
phân tích nhiều giá trị cốt lõi của VHCT truyền thống Việt Nam trong thời kỳ
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế hiện nay.
Bài viết của tác giả Hoàng Chí Bảo - “Xây dựng văn hóa trong chính
trị, quan niệm và giải pháp thực hiện” (đăng trên Báo điện tử của bộ Xây
Dựng năm 2015) cho rằng: xây dựng văn hóa chính trị là làm cho văn hóa
thẩm thấu vào chính trị, văn hóa và chính trị phải luôn song hành cùng nhau,
có văn hóa khắc sẽ có ý thức chính trị. Văn hóa chính trị là một trong những
10. 5
một những nội dung của nền dân chủ pháp quyền, người dân có quyền làm
chủ mọi lĩnh vực trong đời sống xã hội.
Tác giả Tạ Thành Chung cũng đi sâu nghiên cứu về văn hóa chính trị
thông qua luận án Tiến sĩ “ Văn hóa chính trị của công an nhân dân trong điều
kiện xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam hiện nay” năm 2017.Trong
luận án, tác giả cũng đi vào trình bày khái niệm, chỉ ra vai trò , đặc điểm , cấu
trúc của văn hóa chính của lực lượng công an nhân dân. Từ đó, tác giả đưa ra
giải pháp nhằm nâng cao văn hóa chính trị của đội ngũ công an nhân dân
trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam hiện nay.
Ngoài ra, còn có một số công trinh khoa học đăng trên tạp chí chuyên
ngành: “Văn hóa chính trị, một bình diện hợp thành của đối tượng và nội
dung nghiên cứu của chính trị học” của Hoàng Chí Bảo trong “ Một số vấn đề
về khoa học chính trị” (1992), Viện Mác – Lênin; “Văn hóa chính trị- một
cách nhìn trong thời kỳ đổi mới” (1998) của Trần Đình Huỳnh, Tạp chí Xây
dựng Đảng, số 10, 11; “Tiếp cận triết học về VHCT Việt Nam hiện nay”
(2005) của Nguyễn Văn Huyên, Thông tin Chính trị học, số 1; “Hệ giá trị văn
hóa truyền thống Việt Nam trong đổi mới và hội nhập” (2009) của Hoàng Chí
Bảo, Tạp chí cộng sản số 7/97; “Tư tưởng về một nền chính trị pháp quyền
trong VHCT truyền thống Việt Nam” (2010) của Nguyễn Hoài Văn, Tạp chí
Lý luận Chính trị, số 3...
Các công trình này đều đưa ra cách hiểu của mình về văn hóa chính trị.
Dù có sự tiếp cận khác nhau, song các công trình đều khẳng định, văn hóa
chính trị là một phương diện của văn hóa, xuất hiện cùng với sự xuất hiện của
các giai cấp. Các công trình cũng khẳng định vị trí, vai trò của văn hóa chính
trị, văn hóa chính trị truyền thống đối với đời sống xã hội, khẳng định sự cần
thiết nâng cao văn hóa chính trị cho các tầng lớp nhân dân.
11. 6
Tuy nhiên, với những điều đã trình bày trên cho thấy, chưa có một công
trình nào nghiên cứu chuyên sâu, có hệ thống về văn hóa chính trị của thanh
niên huyện Yên Lạc. Song, các công trình khoa học nêu trên đều là những tài
liệu tham khảo hữu ích phục vụ công tác nghiên cứu của luận văn của tác giả.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích: Trên cơ sở làm rõ lý luận chung về văn hóa chính trị của
thanh niên, thực trạng văn hóa chính trị của thanh niên huyện Yên Lạc, tỉnh
Vĩnh Phúc, luận văn đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao văn hóa
chính trị của thanh niên huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc hiện nay.
- Nhiệm vụ: Đề tài tập trung giải quyết những nhiệm vụ sau:
+ Làm rõ một số vấn đề lý luận về văn hóa chính trị của thanh niên Việt
Nam hiện nay.
+ Phân tích thực trạng văn hóa chính trị của thanh niên huyện Yên Lạc,
tỉnh Vĩnh Phúc hiện nay.
+Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nâng cao văn hóa chính trị của
thanh niên huyện Yên Lạc, Vĩnh Phúc hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: văn hóa chính trị của thanh niên huyện Yên
Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc.
- Phạm vi nghiên cứu của đề tài là: từ năm 2005ss đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận:
Cơ sở lý luận của đề tài là sự vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh những
quan điểm cơ bản của Chủ nghĩa Mác Lênin , các quan điểm của Đảng về
chính trị, văn hóa, văn hóa chính trị, về thanh niên...
- Phương pháp nghiên cứu khoa học:
12. 7
Đề tài sử dụng phương pháp của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ
nghĩa duy vật lịch sử và hệ thống các phương pháp cụ thể như: logic, lịch sử,
diễn dịch và quy nạp, phân tích và tổng hợp, so sánh và đối chiếu.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
- Ý nghĩa lý luận: góp phần làm sáng tỏ thêm một số vấn đề lý luận về
văn hóa chính trị, vai trò của văn hóa chính trị đối với thanh niên Việt Nam
hiện nay.
- Ý nghĩa thực tiễn: những kết quả nghiên cứu của luận văn có thể dùng
làm tài liệu tham khảo cho công tác nghiên cứu, giảng dạy về những vấn đề
liên quan đến văn hóa chính trị, văn hóa chính trị của thanh niên. Kết quả
nghiên cứu của luận văn cũng có ý nghĩa khuyến nghị trong việc nâng cao
văn hóa chính trị của thanh niên Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc nói riêng, thanh
niên Việt Nam nói chung.
7. Kết cấu của luận văn
Luận văn có phần mở đầu và kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, và
2 chương, 6 tiết.
13. 8
Chương 1
VĂN HÓA CHÍNH TRỊ CỦA THANH NIÊN VIỆT NAM HIỆN NAY:
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
1.1. Văn hóa và văn hóa chính trị
1.1.1. Khái niệm văn hóa
Ở phương Tây, từ văn hóa xuất hiện vào khoảng thế kỉ III TCN. Văn
hóa trong tiếng Latinh bắt nguồn từ chữ “Cultus” có nghĩa gốc là trồng trọt,
cày cấy, vun trồng. Vậy xét về nguồn gốc, văn hóa là khái niệm gắn với sự
phát triển nông nghiệp. Về sau, thuật ngữ văn hóa mở rộng thành “Cultus
animi” và được chuyển nghĩa, đề cập đến sự vun trồng tinh thần, trí tuệ, bồi
dưỡng tâm hồn con người. Văn hóa được người Hy Lạp cổ hiểu là một dạng
đặc thù của hoạt động con người, là tự nhiên đã được con người cải tạo và
qua đó khẳng định mình với tư cách là con người.
Lý luận văn hóa Mác -Lênin xem văn hóa là hiện tượng xã hội. Hoạt
động văn hóa làm một bộ phận của hoạt động thực tiễn xã hội. Mỗi một hình
thái kinh tế xã hội có một kiểu văn hóa xác định. Văn hóa mang tính lịch sử.
Văn hóa là dấu hiệu phân biệt giữa con người với động vật. Nó xuất hiện và
phát triển cùng với sự phát triển của xã hội loài người. Và tương ứng với hai
loại sản xuất vật chất và sản xuất tinh thần, văn hóa cũng được chia thành văn
hóa vật chất và văn hóa tinh thần. Trong đó, văn hóa vật chất là cơ sở, là nền
tảng, xét đến cùng có vai trò quyết định đối với sự phát triển của văn hóa tinh
thần. Song, ngược lại, văn hóa tinh thần cũng có tính độc lập tương đối, có vai
trò đối với sự phát triển xã hội.
Ở Việt Nam, có nhiều quan niệm khác nhau về văn hóa :Theo tác giả
Phạm Văn Đồng, văn hóa là “hiểu biết, khám phá và sáng tạo”, “văn hóa là
quá trình con người và cộng đồng con người ở từng nơi và ở mọi nơi đoàn kết
và phấn đấu qua biết bao gian khổ và hy sinh để từng bước, từng phần tự
14. 9
khẳng định mình, từng bước, từng phần thoát khỏi thân phận bị tha hóa, dần
dần trở thành con người tự do”.[19- tr.11]
Tác giả Đào Duy Anh quan niệm rằng: “Người ta thường cho văn hóa
chỉ là những học thuật, tư tưởng của loài người, nhân thế mà xem văn hóa có
tính chất cao thượng đặc biệt. Thực ra không phải như vậy. Học thuật, tư
tưởng cố nhiên là ở trong phạm vi của văn hóa, nhưng phàm sự sinh hoạt về
kinh tế, về chính trị, về xã hội cùng hết thảy các phong tục tập quán tâm
thường lại không phải là ở trong phạm vi văn hóa hay sao? Hai tiếng văn hóa
chẳng qua là chỉ chúng tất cả các phương diện sinh hoạt của loài người, cho
nên có thể nói rằng văn hóa tức là sinh hoạt”[1].
Tác giả Trần Ngọc Thêm đưa ra quan niệm văn hóa như sau: “Văn hóa
là một hệ thống hữu cơ có giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo
và tích lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn trong sự tương tác giữa con
người với môi trường tự nhiên và xã hội của mình”. [46- tr.20-tr.24]
Trong những năm gần đây, một số nhà nghiên cứu ở Việt Nam và kể cả
ở nước ngoài khi đề cập đến văn hóa, họ thường vận dụng định nghĩa văn hóa
do UNESCO đưa ra vào năm 1994. Theo UNESCO, văn hóa được hiểu theo
hai nghĩa: nghĩa rộng và nghĩa hẹp. Theo nghĩa rộng thì “Văn hóa là một phức
hệ- tổng hợp các đặc trưng diện mạo về tinh thần, vật chất, tri thức và tình
cảm… khắc họa nên bản sắc của một cộng đồng gia đình, xóm làng, vùng,
miền, quốc gia, xã hội… Văn hóa không chỉ bao gồm nghệ thuật, văn chương
mà còn cả lối sống, những quyền cơ bản của con người, những hệ thống giá
trị, những truyền thống, tín ngưỡng…” [8]; còn hiểu theo nghĩa hẹp thì “Văn
hóa là tổng thể những hệ thống biểu trưng (ký hiệu) chi phối cách ứng xử và
giao tiếp trong cộng đồng, khiến cộng đồng đó có đặc thù riêng” [33- tr.314 ]
Từ các cách tiếp cận khác nhau về văn hóa ta có thể đi tới một khái
niệm về văn hóa: Văn hóa là trình độ phát triển lịch sử nhất định của xã hội,
15. 10
trình độ phát triển năng lực và khả năng sáng tạo của con người biểu hiện
trong các phương thức tổ chức đời sống xã hội và hoạt động của con người
cũng như toàn bộ giá trị tinh thần và vật chất do loài người sáng tạo nên trong
tiến trình lịch sử vì lẽ sinh tồn và mục đích của cuộc sống.
1.1.2. Văn hóa chính trị
Trước khi đề cập đến văn hóa chính trị, cần thiết phải hiểu chính trị là
gì.
Theo Max Weber, nhà xã hội học Đức đầu thế kỉ XX, chính trị là khát
vọng tham gia quyền lực hay ảnh hưởng đến sự phân chia quyền lực giữa các
quốc gia, bên trong quốc gia, giữa các tập đoàn trong một quốc gia. Nghĩa là,
chính trị chỉ là những mong muốn, khát vọng và những tương tác khách quan,
sự ảnh hưởng của cộng đồng người đối với quyền lực, không phải là hoạt
động theo đuổi quyền lực.
Xuất phát từ quan niệm mang tính chức năng của chính trị, một số học
giả khác đã xem khả năng của con người đóng những vai trò khác nhau, hoàn
thành những chức năng khác nhau trong khuôn khổ của một thể chế chính trị.
Từ đó, họ cho rằng, bản chất chính trị là sự phân chia thẩm quyền và trách
nhiệm cũng như đảm bảo hiệu quả của chính trị và sự bền vững của chính thể.
Như vậy ở đây, chính trị được hiểu như sự khéo léo, khả năng đạt được sự
phân chia chức năng mà vẫn đảm bảo duy trì sự tác động qua lại của chúng.
Các quan niệm trên, tuy có chứa một số những nhân tố hợp lý nhất
định, nhưng chưa nêu được nội dung cơ bản nhất của phạm trù chính trị, đó
là: chính trị là một thực thể tồn tại trong đời sống với những cấp độ khác nhau
(cá nhân, cộng đồng, giai cấp, dân tộc, nhân loại), liên quan đến công việc của
nhà nước.
Từ Nghiên cứu các quan điểm trước đó về chính trị, đồng thời vận
dụng một cách khoa học các phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện
16. 11
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-
Lênin đã đề xuất những nhận định đúng đắn về chính trị như sauː
“Chính trị là lợi ích, là quan hệ lợi ích, là đấu tranh giai cấp trước hết vì
lợi ích giai cấp. Cái căn bản nhất của chính trị là việc tổ chức quyền lực nhà
nước, là sự tham gia vào công việc Nhà nước, là định hướng cho nhà nước,
xác định hình thức, nội dung, nhiệm vụ của Nhà nước. Chính trị là biểu hiện
tập trung của kinh tế. Đồng thời, chính trị không thể không chiếm vị trí hàng
đầu so với kinh tế. Chính trị là lĩnh vực phức tạp, nhạy cảm nhất, liên quan tới
vận mệnh hàng triệu người. Giải quyết những vấn đề chính trị vừa là khoa
học, vừa là nghệ thuật. Chính trị là hoạt động trong lĩnh vực quan hệ giữa các
giai cấp, cũng như các dân tộc và các quốc gia với vấn đề giành, giữ, tổ chức
và sử dụng quyền lực Nhà nước; là sự tham gia của nhân dân vào công việc
của Nhà nước và xã hội, là hoạt động chính trị thực tiễn của giai cấp, các đảng
phái chính trị, các nhà nước nhằm tìm kiếm những khả năng thực hiện đương
lối và những mục tiêu đã đề ra nhằm thỏa mãn lợi ích”.[13- tr.6]
Quan điểm của Hồ Chí Minh về chính trị: “giữ vững và phát huy vai trò
lãnh đạo của Đảng. Củng cố và mở rộng Mặt trận dân tộc thống nhất, nòng
cốt là liên minh công nhân, nông dân và trí thức, do Đảng cộng sản lãnh đạo;
củng cố và tăng cường sức mạnh toàn bộ hệ thống chính trị cũng như từng
thành tố của nó”[21- tr72-75]
Như vậy, với những điều đã trình bày như trên, có thể xem chính trị là
hoạt động trong lĩnh vực quan hệ giữa các dân tộc, giai cấp, cũng như giữa
các quốc gia với vấn đề giành, giữ, tổ chức và sử dụng quyền lực nhà nước; là
hoạt động chính trị của thực tiễn giai cấp; là sự tham gia của nhân dân vào
công việc nhà nước và xã hội;, các đảng phái chính trị, các nhà nước nhằm
tìm kiếm những khả năng thực hiện đường lối và những mục tiêu đã đề ra
nhằm đạt được lợi ích.
17. 12
Về khái niệm văn hóa chính trị
Văn hóa chính trị là một phương diện của văn hóa trong xã hội có giai
cấp. Nó thể hiện khả năng, năng lực của con người trong việc giác ngộ lợi ích
dân tộc, lợi ích giai cấp, trong việc tổ chức, hoàn thiện hệ thống tổ chức
quyên lực, nhằm hiện thực hóa lợi ích của nhân dân hay lợi ích của giai cấp
phù hợp với mục tiêu chính trị và sự tiến bộ xã hội.
Quan điểm nổi bật nhất và đặc sắc nhất trong tư tưởng VHCT của Hồ
Chí Minh là xã hội mới phải có con người mới đại diện cho nó: “Muốn
XHCN, phải có: người XHCN. Muốn có người XHCN, phải có tư tưởng
XHCN” [32- tr.288 ] . Đối với Hồ Chí Minh, xây dựng thành công con người
mới XHCN là xác lập cơ sở bền vững của VHCT mới. Sự lựa chọn con
đường kết hợp giải phóng dân tộc với giải phóng giai cấp vô sản là sự lựa
chọn mang tính VHCT sâu sắc. Quan điểm về một xã hội mới phải là một xã
hội không có áp bức dân tộc, áp bức giai cấp, áp bức con người.
Tác giả Lâm Quốc Tuấn trong bài “ Văn hóa chính trị và sự phát triển
con người xã hội” định nghĩa : “Văn hóa chính trị là một phương diện của văn
hóa trong xã hội có giai cấp nói lên tri thức năng lực sáng tạo trong hoạt động
chính trị dựa trên nhận thức sâu sắc các quan hệ chính trị hiện thực để thực
hiện lợi ích cơ bản của giai cấp hay của xã hội phù hợp với sự phát triển lịch
sử, được phản ánh trong các hình thức, các kiểu tổ chức hoạt động chính trị
trong các thiết chế chính trị, trong các giá trị vật chất cũng như tinh thần do
chính trị sáng tạo”[48].
Hai nhà chính trị học người Mỹ là G.Almond và S.Verbas, những
người đầu tiên đưa ra khái niệm chính trị, đã chú trọng vào việc nghiên cứu
hoạt động chính trị và gắn liền quá trình chính trị với hành vi của con người.
Theo các ông, hành vi chính trị là một phần của hành vi xã hội, cho nên khi
phân tích hành vi chính trị phải gắn chặt với sự xem xét các nhân tố văn hóa,
tâm lý của cá nhân và toàn xã hội. Xuất phát từ hành vi chính trị của các cá
18. 13
thể, các ông cho rằng: “Văn hóa chính trị là tập hợp các lập trường và xu
hướng cá nhân của những người tham gia một hệ thống nào đó, là lĩnh vực
chủ quan làm cơ sở hành động chính trị và làm cho hoạt động chính trị có ý
nghĩa”[24-tr.216]
Văn hóa chính trị chỉ là một khía cạnh, một lĩnh vực của văn hóa. Hoạt
động chính trị được coi là văn hóa thì đều phải có một niềm tin chính trị và
một thể chế chính trị. Do vậy, văn hóa chính trị có thể được hiểu là hệ thống
các niềm tin về quyền lực, quyền và thẩm quyền - những yếu tố gắn với thiết
chế nhà nước. Cũng có thể hiểu rằng, văn hóa chính trị là những định hướng
chính trị, thái độ chính trị của chủ thể đối với hệ thống chính trị cũng như đối
với vai trò của bản thân chủ thể đó trong hệ thống chính trị. Còn theo Lucian
Pye và Sidney Verba - các nhà khoa học người Mỹ, thì “Văn hóa chính trị là
một hệ thống các niềm tin được hình thành trong thực tiễn chính trị”[tr25 -
26]
Con người khi tham gia đời sống chính trị, hoạt động chính trị phải có
sự hiểu biết nhất định. V.I.Lênin quan niệm: “Người không biết chữ là người
đứng ngoài chính trị” [54 – tr.218] . Trên cơ sở sự hiểu biết về chính trị và
những tri thức, các chủ thể chính trị mới có thể giác ngộ về lập trường, quan
điểm giai cấp đúng đắn, qua đó xác định đúng mục tiêu, thái độ và động cơ
chính trị, phát huy lòng quyết tâm, tính tự giác sự sáng tạo cả trong hoạt động
thực tiễn cũng như ở hành vi chính trị.
Tri thức về chính trị bao gồm tri thức lý luận chính trị và tri thức kinh
nghiệm chính trị. Tri thức kinh nghiệm chính trị là sản phẩm của một quá
trình quan sát, trải nghiệm, đúc rút tích lũy thông qua hoạt động thực tiễn của
các chủ thể chính trị, tạo thành vốn sống, thói quen, linh cảm, sự nhạy bén
chính trị, là cơ sở thực tiễn cho bước phát triển thành tri thức lý luận. Tri thức
lý luận chính trị là sự hệ thống hóa, khái quát hóa, chỉ ra cái bản chất, cái tất
yếu được nâng lên thành lý luận, thành quy tắc từ những kinh nghiệm chính
trị thực tiễn. Như vậy, hai cấp độ, hai hệ thống tri thức chính trị có mối quan
19. 14
hệ hữu cơ, bổ sung cho nhau, đòi hỏi trong hoạt động chính trị, các chủ thể
chính trị không được coi nhẹ hoặc tuyệt đối hóa mặt nào. Như vậy coi trọng
hóa tri thức lý luận, xem nhẹ kinh nghiệm thực tiễn sẽ dẫn đến chủ nghĩa
giáo điều và lý luận suông. Ngược lại, coi trọng hóa kinh nghiệm, xem
thường lý luận sẽ dẫn đến chủ nghĩa kinh nghiệm, hành động mù quáng, cảm
tính.
Như vậy, văn hóa chính trị là bộ phận của văn hóa chỉ ra tác động của
một loại hình văn hóa xã hội nhất định đối với hành vi chính trị của công dân
và đối với hệ thống chính trị. Văn hóa chính trị thể hiện qua sự hiểu biết chính
trị, tình cảm chính trị, giá trị chính trị, niềm tin và thái độ chính trị của các
công dân đối với các hiện tượng và hệ thống chính trị. Tinh thần cốt lõi của
văn hóa chính trị là các giá trị nhân văn trong xử lý chính trị. Chính trị giải
phóng con người khỏi sự áp bức bóc lột về phương diện giai cấp, dân tộc và
xã hội, phấn đấu để ngày càng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho
nhân dân là chính trị có văn hóa hay xử lý chính trị nhân văn. Như vậy văn
hóa chính trị được xây dựng trên nền tảng củatư tưởng Hồ Chí Minh và chủ
nghĩa Mác-Lênin .
Hiện nay, sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa
nước ta đòi hỏi việc xây dựng văn hóa chính trị đang đặt ra những yêu cầu
mới, như Văn kiện Đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng khẳng định:
“Xây dựng văn hóa trong chính trị và kinh tế. Chú trọng chăm lo xây dựng
văn hóa trong Đảng, trong các cơ quan nhà nước và đoàn thể; coi đây là nhân
tố quan trọng để xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh”[16-
tr.128]. Nghị quyết cũng xác định phải làm cho văn hóa thấm sâu vào mọi
lĩnh vực của đời sống, trong phát triển kinh tế - xã hội, trong tổ chức và hoạt
động chính trị, trong lãnh đạo, quản lý điều hành, kiểm tra, giám sát quyền
lực của nhân dân, lẫn tham chính chính trị của các cán bộ và công chức, của
công dân và mọi người dân.
20. 15
1.2. Cấu trúc, đặc điểm, chức năng của văn hóa chính trị
1.2.1. Cấu trúc của văn hoá chính trị
1.2.1.1. VHCT với tư cách là hệ thống các giá trị
Những giá trị chính trị là lí do, là định hướng và lí giải hành động của chủ
thể chính trị, thể hiện trạng thái, nhu cầu và triển vọng phát triển của xã hội cũng
như của các thành viên, các nhóm trong xã hội. Với ý nghĩa đó, VHCT là kết
quả tổng hợp của các giá trị sau.
Thứ nhất, tri thức và sự hiểu biết chính trị:
Là giá trị nền tảng của VHCT, được định lượng một cách phổ biến bởi tri
thức chính trị. Tri thức chính trị là sự hiểu biết của con người về chính trị và
trình độ học vấn chính trị. VHCT luôn cần và cần phải có học vấn chính trị. Tuy
văn hóa và học vấn là hai khái niệm không đồng nhất với nhau, nhưng lại có
mối quan hệ mật thiết với nhau. Trình độ học vấn giúp cho các chủ thể hiểu biết
và nhận thức rõ hơn về các giá trị văn hóa, từ đó xác định các nguyên tắc, lý
tưởng sống cho bản thân mình, lúc đó trình độ học vấn đã trở thành một khía
cạnh của nhân cách văn hóa. Ngược lại, văn hóa lại khẳng định những giá trị xã
hội của học vấn, chủ thể nào có trình độ học vấn mà không cống hiến cho xã
hội, thậm chí phá hoại xã hội thì học vấn đó đứng ngoài văn hóa. Như vậy Có
trình độ học vấn, quần chúng nhân dân đã nâng cao được ý thức và tự giác
,trách nhiệm, tham gia tích cực và có hiệu quả trong thực hiện chủ trương ,đường
lối, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước.
Thứ hai, niềm tin và tình cảm chính trị
Muốn xây dựng VHCT tiến tiến, cách mạng - VHCT XHCN thì phải
xây dựng được niềm tin trên cơ sở khoa học, chính nghĩa, tiến bộ, phù hợp
với xu thế phát triển của nhân loại. Nếu chỉ có tri thức, mà không có tình
cảm, không tin vào hệ thống chính trị đương thời thì người ta cũng sẽ
không hành động. Chính vì vậy, bên cạnh việc nâng cao trình độ học vấn,
đẩy mạnh công tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho các chủ thể chính trị,
21. 16
đặc biệt là cho quần chúng nhân dân; thì việc nâng cao đời sống vật chất và
tinh thần cho quần chúng; cán bộ thật sự là những tấm gương sáng vì nhân
dân chính là những cơ sở cho niềm tin của quần chúng vào sự lãnh đạo của
giới cầm quyền.
Thứ ba, các truyền thống chính trị
Cơ sở lịch sử xã hội của VHCT được hình thành từ những nhân tố như:
truyền thống, các giá trị chính trị đã được các thế hệ trước tạo ra trong quá trình
lịch sử, địa chính trị, đạo đức, thẩm mỹ, tôn giáo.... Vậy tất cả những nhân tố
này quan hệ với nhau một cách biện chứng, bổ sung cho nhau, , hỗ trợ cho việc
hình thành VHCT của mỗi dân tộc, mỗi quốc gia. Đối với mỗi quốc gia, mỗi dân
tộc trong lịch sử hình thành và phát triển đều tạo nên những giá trị nhất định (tập
tục, truyền thống, thói quen chính trị) được cả cộng đồng thừa nhận.
Trong thời đại ngày nay, khi mà sự giao lưu giữa các nền văn hóa trở nên
cần thiết và mạnh mẽ thì những giá trị truyền thống là căn cứ để phân biệt những
giá trị đích thực của nền văn hóa dân tộc với các nền văn hoá khác. Khi đó tính
dân tộc trong VHCT càng phải đề cao hơn bao giờ hết.
Thứ tư, những lý tưởng cao đẹp mà con người phấn đấu đạt tới trong
chính trị
Những lý tưởng cao đẹp vừa đóng vai trò là xung lực nội tại để hoàn thiện
tư chất của chủ thể chính trị vươn tới những giá trị chân, thiện, mỹ trong hoạt
động chính trị. vừa đóng vai trò là động lực kích thích họat động chính trị,
Lý tưởng chính trị phụ thuộc phần lớn vào đạo đức và trí tuệ của chủ
thể. Ví dụ như lý tưởng chính trị cao cả, tột bậc của Chủ tịch Hồ Chí Minh
“là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do,
đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”[34- tr.161-162]
Để thực hiện lý tưởng chính trị của mình, chủ thể chính trị phải biết lựa
chọn những phương thức, phương tiện hoạt động chính trị phù hợp. Cách
22. 17
mạng XHCN nhằm thực hiện lý tưởng, mục tiêu giải phóng triệt để con người
thì những phương tiện mà chủ thể (giai cấp công nhân và nhân dân lao động)
sử dụng phải đáp ứng được những nhu cầu, khát vọng giải phóng đó.
Thứ năm, hệ tư tưởng chính trị
Với tư cách là nhân tố phản ánh khái quát lợi ích của giai cấp cũng như
phương thức, con đường để thực hiện lợi ích cơ bản của giai cấp, liên minh
giai cấp hoặc của nhân dân lao động nói chung (trong điều kiện của CNXH),
“hệ tư tưởng là yếu tố cốt lõi nhất, là định hướng cơ bản cho đời sống tinh
thần xã hội”[14]. Đóng vai trò quan trọng của VHCT, có tác dụng chi phối
các nhân tố khác trong VHCT, giữ vị trí trung tâm, cũng như trong toàn bộ
nền VHCT nói chung của một thể chế chính trị. Nó qui định nội dung, tính
chất, khuynh hướng phát triển và tính tích cực của VHCT trong một xã hội
nhất định. Ngoài ra còn có nhiều yếu tố khác tham gia vào sự hình thành
VHCT, đóng góp vào cấu trúc của VHCT như: bầu không khí tâm lý - đạo
đức, tôn giáo; bối cảnh yêu cầu của thời đại.
Như vậy, với tư cách là hệ thống các giá trị, VHCT không tồn tại thuần
túy mà luôn gắn liền với các chủ thể chính trị xác định. Do vậy, những yếu tố
cấu thành VHCT cũng như phương thức vận động của VHCT của các chủ thể
tuy thống nhất nhưng cũng có sự khác biệt nhất định.
Với ý nghĩa đó, VHCT là tổng hợp các giá trị như: tri thức, kinh nghiệm
hoạt động thực tiễn, tình cảm, niềm tin chính trị được hình thành trong thực tiễn
chính trị, tạo thành ý thức chính trị của các chủ thể, chi phối hành vi của các chủ
thể trong quá trình hiện thực hóa lợi ích chính trị căn bản của giai cấp mình, phù
hợp với xu thế phát triển của lịch sử, của tiến bộ xã hội.
1.2.1.2. VHCT với tư cách là sản phẩm hoạt động chính trị của các chủ
thể chính trị (cá nhân và tổ chức)
23. 18
VHCT là do con người trong quan hệ với chính trị sáng tạo nên. Các giá trị
chính trị thể hiện bản chất của các hoạt động chính trị của các chủ thể trong quá
trình thực hiện lợi ích giai cấp. Chính trong thực tiễn chính trị, các chủ thể tạo cho
mình hệ thống các giá trị VHCT, tạo nên đặc trưng, bản chất VHCT cho mình
Một là, VHCT cá nhân
VHCT cá nhân thường được nhìn nhận, đánh giá qua những yếu tố như:
trình độ hiểu biết và sự giác ngộ chính trị của mỗi cá nhân trong tư cách con
người chính trị của nó (công dân, một người cán bộ, một thủ lĩnh). Trình độ đó
được biểu hiện ở ý thức chính trị, thái độ, lập trường quan điểm chính trị; mức
độ nhận thức, đánh giá các sự kiện, các diễn biến chính trị; sự lựa chọn tham gia
của cá nhân vào các hoạt động chính trị thực tiễn; thái độ và mức độ phản ứng
hay hưởng ứng trước một tình huống chính trị nào đó trong đời sống xã hội.
VHCT cá nhân vừa góp phần tạo lập các giá trị, vừa góp phần hình thành dư
luận xã hội tích cực đấu tranh chống những hành vi gây tổn hại tới lợi ích chung
của xã hội.
Như vậy, VHCT cá nhân là chất lượng tổng hòa của nhiều giá trị và sự thực
thi các giá trị thông qua hoạt động của cá nhân mà trực tiếp và quan trọng nhất là
quá trình tiếp thu nền giáo dục của xã hội và sự rèn luyện trong thực tiễn lao động
và đấu tranh cách mạng.
Hai là, VHCT của tổ chức (văn hóa tổ chức)
VHCT của tổ chức do VHCT của cá nhân hợp thành. Nhưng để tạo nên
sự thống nhất giữa VHCT của các tổ chức,cá nhân thì văn hóa tổ chức phải là,
sự phối hợp, sự đoàn kết, sự thống nhất trong lý tưởng, mục tiêu và trong hành
động chính trị. Do vậy, để duy trì, phát triển văn hóa tổ chức thì phải thực hiện
và giữ vững các nguyên tắc chính trị với ý nghĩa là những chuẩn giá trị VHCT.
Văn hóa tổ chức gồm 2 phần đó phần vô hình và hữu hình trong đó gồm
niềm tin và các giá trị - được thừa nhận và thực hành bởi số đông các thành
24. 19
viên trong tổ chức. Và vì vậy, bất kỳ cá nhân nào cũng vừa hội tụ những giá trị
qui định phẩm chất cá nhân, vừa mang một phần, một khía cạnh, một yếu tố
trong văn hóa tổ chức.
1.2.2. Đặc điểm của văn hoá chính trị
Thứ nhất là, VHCT bao giờ cũng mang tính giai cấp
VHCT được hình thành trong thực tiễn đấu tranh giai cấp, do đó, nó
luôn bị chi phối bởi hệ tư tưởng, thế giới quan, những quan điểm chính trị của
giai cấp nhất định và nó phục vụ lợi ích của mỗi giai cấp. Không bao giờ có
những giá trị chính trị chung chung. Những quan hệ quyền lực là sự gắn bó
của phạm vi hoạt động chính trị và công việc nhà nước. Do vậy, bất cứ hành
vi nào của chủ thể chính trị khi đã chịu sự điều chỉnh của các chuẩn giá trị
VHCT cũng là hành vi hướng tới thực hiện lợi ích giai cấp và bảo vệ lợi ích
của giai cấp ấy một cách nhân văn.
Thứ hai là, VHCT mang tính lịch sử - cụ thể
VHCT được qui định bởi những nhân tố chủ quan và điều kiện khách
quan. Hai loại nhân tố này có nội dung, tính chất và phương thức qui định khác
nhau trong các thời kỳ lịch sử khác nhau, điều đó qui định tính lịch sử của
VHCT.
Sự truyền dẫn VHCT từ thế hệ này sang thế hệ khác cũng được thực
hiện theo khuôn mẫu và định hướng nhất định, thích hợp với nhận thức và
nhu cầu của mỗi cá nhân và toàn xã hội trong đời sống chính trị ở mỗi giai
đoạn lịch sử. Do vậy, VHCT còn phụ thuộc vào khả năng tạo lập, kế thừa và
sử dụng các giá trị VHCT của mỗi chủ thể nào đó trong từng giai đoạn lịch sử
nhất định.
Tính lịch sử, cụ thể của VHCT thể hiện cả ở chỗ: trong các điều kiện
lịch sử khác nhau, tính chất, nội dung, mức độ phát triển của VHCT không
giống nhau. Mặt khác cũng cho thấy, giá trị VHCT luôn có sự vận động và
25. 20
phát triển chứ không phải là cái gì bất biến. Mỗi thời đại khác nhau, văn hóa
chính trị có những biểu hiện, yêu cầu khác nhau. Văn hóa chính trị thời kỳ
phong kiến là trung quân, ở Việt Nam hiện nay là trung thành với Đảng, Nhà
nước và nhân dân. Tính lịch sử, cụ thể của văn hóa chính trị ảnh hưởng lớn
đến những thay đổi trong nhân cách xã hội của con người.
Thứ ba là, VHCT mang tính kế thừa
Tính kế thừa của VHCT trong sự phát triển được kết tinh từ những thành
tựu văn hóa, những di sản tinh thần của thời đại, của truyền thống, kết hợp với
kinh nghiệm thực tiễn, từ đó làm cho VHCT không ngừng được nâng lên.
Trong quá trình vận động và phát triển, các giá trị truyền thống không
biến mất, mà nó hóa thân vào các giá trị của thời sau theo qui luật kế thừa và
tái tạo. Các giá trị trước trở thành truyền thống khi được các thế hệ sau lựa
chọn, tiếp nhận và phát triển, đó chính là quan hệ giữa truyền thống và hiện
tại. Sự thích nghi của những giá trị cũ đối với sự thay đổi của thời đại là biểu
hiện tính liên tục của văn hóa. Bởi vậy, trong chính trị cũng phải luôn có sự
kế thừa về mặt giá trị, quay lưng với những giá trị truyền thống cũng có nghĩa
quay lưng lại với lịch sử dân tộc. Điều đó vừa là sự sa sút về bản lĩnh văn hóa
vừa trái với qui luật vận động và phát triển của văn hóa, và như thế ắt có sự
trả giá.
1.2.3. Chức năng của văn hoá chính trị
VHCT có những chức năng rất quan trọng trong việc nâng cao chất
lượng của chủ thể chính trị. Ý nghĩa động lực của VHCT biểu hiện qua các
chức năng của nó, đó là:
1.2.3.1. Chức năng điều chỉnh
VHCT góp phần định hướng , điều chỉnh cho hành vi và các quan hệ
xã hội, giáo dục, nâng cao nhận thức cho các chủ thể chính trị
26. 21
VHCT có vai trò to lớn trong việc điều chỉnh các quan hệ con người
với con người, con người với xã hội trong đời sống chính trị. Trong quá trình
điều chỉnh, một mặt, dựa vào những chuẩn mực giá trị, mô hình chính trị để
điều chỉnh hành động, hành vi của chủ thể phù hợp với “cái tốt, cái đúng”.
Mặt khác, nó tăng cường khả năng tự điều chỉnh của các chủ thể phù hợp, hài
hoà với lợi ích xã hội ,với lợi ích của các chủ thể khác.
Ý nghĩa điều chỉnh hành vi và các quan hệ chính trị của các chuẩn giá
trị VHCT cũng không thuần nhất, có những chuẩn giá trị có tính bắt buộc, qui
định rõ quyền lợi và nghĩa vụ, cống hiến và hưởng thụ cho các chủ thể chính
trị; có những chuẩn giá trị không mang tính bắt buộc. Nếu các chủ thể khi
tham gia vào đời sống chính trị, thực thi các chuẩn mực bởi sự nhận thức
được cái tất yếu, cái bắt buộc (tức tự do chính trị) thì sẽ tạo cho đời sống
chính trị một sự ổn định, có điều kiện phát triển. Phạm vi và chiều sâu của các
chuẩn giá trị VHCT cũng ngày càng phát triển theo trình độ phát triển của xã
hội.
VHCT là trình độ giác ngộ của các chủ thể chính trị trong các quan hệ
chính trị - xã hội. Khi VHCT ở trình độ cao thì khả năng tự điều chỉnh hành vi
của mỗi chủ thể phù hợp với lợi ích xã hội tốt hơn, các chủ thể có thể nhanh
chóng phát hiện ra những lệch lạc trong hành động không còn phù hợp với
mục đích và nhanh chóng điều chỉnh chúng. Đối với giới cầm quyền, tầm cao
VHCT không chỉ giúp họ trong xử lý các tình huống chính trị, giữ vững ổn
định chính trị, mà còn góp phần khắc phục tệ quan liêu, cửa quyền trong hệ
thống chính trị. Còn đối với quần chúng nhân dân, trình độ VHCT giúp họ
tham gia tự giác vào các quá trình chính trị thực tiễn dưới sự lãnh đạo của
Đảng và quản lý của Nhà nước, chủ động xử lý các mối quan hệ chính trị...
góp phần xây dựng và thực thi VHCT của Đảng ta.
1.2.3.2. Chức năng tổ chức và quản lý xã hội
27. 22
VHCT là kết quả của hoạt động sáng tạo của con người trong quá trình
hiện thực hóa mục tiêu, lý tưởng chính trị trong những điều kiện kinh tế chính trị
xã hội. Nhưng đến lượt nó, VHCT lại đóng vai trò quan trọng trong tổ chức và
quản lý xã hội. Điều này thể hiện ở:
Thứ nhất, đối với việc xây dựng và phát triển kinh tế
Ngày nay, sự phát triển của kinh tế - xã hội không chỉ phụ thuộc vào sức
mạnh của kinh tế mà còn phụ thuộc vào sức mạnh của văn hóa nói chung và
VHCT nói riêng. Vậy Hiệu quả của nền kinh tế phụ thuộc ngày càng nhiều vào giáo
dục và đào tạo; trình độ phát triển của khoa học và công nghệ; vào các giá trị tinh
thần của xã hội, các thể chế chính trị; vào trình độ, năng lực, phẩm chất của những
con người chính trị. Văn hóa là một yếu tố qui định bên trong của hoạt động sản
xuất , là một yếu tố quan trọng của kinh tế. Kinh tế không thể phát triển nếu thiếu
nền tảng văn hóa, VHCT trong nó và tác động vào nó.
Vai trò của văn hóa, VHCT đối với sự phát triển kinh tế còn ở những giá
trị đạo đức, tinh thần; nhờ những giá trị đó mà văn hóa và VHCT góp phần hạn
chế những mặt trái của kinh tế thị trường như nguy cơ “tha hóa” con người trong
lối sống thực dụng, vị kỷ, chủ nghĩa cá nhân.
Thứ hai, đối với việc giải quyết các vấn đề chính trị
Ý thức chính trị, các thiết chế quyền lực chính trị hoạt động chính trị
thực tiễn, đều liên quan đến VHCT, đều thể hiện trình độ VHCT của một lực
lượng xã hội, một giai cấp, một tổ chức hay một cá nhân nào đó. Đời sống
chính trị là một hệ thống các giá trị VHCT. Vì vậy, vấn đề chỉ ở chỗ, có phát
huy được vai trò của các giá trị VHCT trong việc giữ vững nền chính trị và sự
ổn định chính trị của mình hay không và các chủ thể chính trị sử dụng các giá
trị VHCT đó như thế nào? Nhân cách chính trị của nhà cầm quyền cũng có
ảnh hưởng lớn tới việc xây dựng và tổ chức thực hiện đường lối chính trị. Tri
thức và niềm tin chính trị của quần chúng góp phần tạo tính hiệu quả thực tiễn
28. 23
của đường lối chính trị. Nếu thiếu những điều đó thì xã hội cũng không có sự
ổn định chính trị.
VHCT truyền thống cũng là điểm tựa vững chắc cho ổn định chính trị.
Như vậy, phải làm sao cho các giá trị VHCT in dấu trong chế độ chính trị,
muốn làm được điều đó trong quá trình đổi mới hệ thống chính trị và giữ
vững ổn định chính trị phải thường xuyên gắn với các giá trị VHCT, phải
nâng cao trình độ VHCT cho các chủ thể chính trị.
Thứ ba, đối với việc giải quyết các vấn đề xã hội
Điều kiện tốt để giải quyết các vấn đề xã hội là tầm cao của VHCT .
Lấy giá trị văn hóa làm mục tiêu để thực hiện sự công bằng xã hội luôn
phải. Không có sự công bằng nào tách rời các giá trị văn hóa. Giá trị chân,
thiện,mỹ là nền tảng để thực hiện công bằng xã hội đầy đủ nhất. Nếu công
bằng xã hội đối lập với giá trị văn hóa, tách văn hóa khỏi công bằng xã hội
đều dẫn đến bất công. Giàu có chưa phải là cái tối ưu của công bằng nếu
thiếu tính nhân văn.
VHCT có ý nghĩa to lớn trong tổ chức và quản lý xã hội. Vì vậy, cần
phải phát huy vai trò của nó trong xây dựng và phát triển kinh tế, giải quyết
tốt các vấn đề xã hội và giữ vững ổn định chính trị. Đó cũng là một đòi hỏi
khách quan.
1.2.3.3. VHCT góp phần đẩy mạnh quá trình xã hội hóa chính trị mọi
hoạt động của các chủ thể
Chức năng này thể hiện kết quả tổng hợp của quá trình vận động của
các nhân tố cấu thành VHCT trong từng cá nhân, tập thể và cộng đồng. Sự
xâm nhập của VHCT vào từng chủ thể sẽ làm nảy sinh trong họ nhu cầu và
khả năng tham gia một cách tích cực, chủ động và tự giác vào các quá trình
chính trị. Trên qui mô xã hội, VHCT có vai trò to lớn trong việc hình thành và
29. 24
hoàn thiện các cơ chế thu hút quần chúng nhân dân tích cực tham gia họat
động chính trị, làm cho cuộc sống phát triển tích cực, tốt đẹp hơn.
Giá trị VHCT là một phương diện giá trị xã hội, là mục tiêu phấn đấu
của một cộng đồng; do đó, chúng tạo thành bản chất của một chế độ xã hội và
qui định các ứng xử phù hợp với mục tiêu của xã hội. Nó biến các giá trị cá
nhân thành giá trị xã hội; nhờ đó, mọi ý thức, hành vi chính trị trở thành nếp
sống, thói quen, thành nhu cầu không thể thiếu được trong cuộc sống hàng
ngày của chủ thể, không chịu sự áp đặt, cưỡng bức nào.
1.2.3.4. VHCT góp phần nâng cao tính chủ động, nhạy bén, sáng tạo
của các chủ thể, góp phần hoàn thiện các qui tắc ứng xử chính trị mang tính
nhân văn.
Môi trường VHCT vừa ảnh hưởng đến mỗi người trong xã hội, vừa đặt
ra những yêu cầu về trình độ phát triển nhân cách với chất lượng tương ứng.
Với trình độ VHCT cao, chủ thể chính trị sẽ không chịu sự chi phối hay áp
đặt, cưỡng bức của những thế lực bên ngoài, họ có thể thích ứng với tình
huống, vững vàng trước những biến động phức tạp, khó khăn, có sáng kiến,
có khả năng nhạy bén, chủ động, năng động trong các tình huống hay các quá
trình chính trị. Sự toàn diện, uyển chuyển và linh hoạt có ý nghĩa rất quan
trọng, con người sẽ ngày càng vươn tới một lối sống cân đối, hài hòa và tốt
đẹp hơn.
Việc cá nhân hướng suy nghĩ và hành động của mình vào những giá trị
này hay những giá trị khác sẽ tạo nên định hướng giá trị của họ. Cùng một lúc
con người theo đuổi nhiều giá trị liên quan đến bản thân, gia đình, công việc.
Việc định hướng giá trị có ý nghĩa rất quan trọng trong khẳng định vị trí của
cá nhân trong hệ thống các quan hệ xã hội. Do vậy, mỗi cá nhân phải tự điều
chỉnh mình cho phù hợp với các quan hệ xã hội. Chính VHCT giúp cho chủ
thể trong việc khẳng định xu hướng chính trị (nhu cầu chính trị, lý tưởng
30. 25
chính trị, động cơ chính trị). Mặt khác, hệ thống các chuẩn mực giá trị VHCT
cũng chính là hệ thống các qui tắc, dựa vào đó các chủ thể tổ chức các hệ
thống hành động, xử lý các quan hệ xã hội theo quĩ đạo chân, thiện, mỹ.
Tóm lại, nhận thức về bản chất của VHCT, đặc điêm, cấu trúc và chức
năng của VHCT là cơ sở lý luận, quan điểm nền tảng rất cần thiết cho việc
nhận thức về chất lượng VHCT của các chủ thể chính ở nước ta nói chung và
cho mỗi chủ thể cụ thể nói riêng, từ đó có căn cứ để xác định những giải pháp
thích hợp nhằm phát huy tốt vai trò của VHCT trong việc nâng cao VHCT
cho mỗi chủ thể.
1.3. Thanh niên Việt Nam và vai trò của văn hóa chính trị đối với
sự phát triển của thanh niên Việt Nam hiện nay
1.3.1. Một số đặc điểm của thanh niên Việt Nam hiện nay
Trong các văn bản pháp lý Việt Nam hiện hành, thuật ngữ thanh niên
cũng có phạm vi điều chỉnh không thống nhất. Theo Chiến lược phát triển thanh
niên Việt Nam đến năm 2010 do Thủ tướng Chính phủ kí phê duyệt kèm theo
quyết định số 70/3003/QĐ – TTG ngày 29-4- 2003 thì “thanh niên nước ta”
được cho là gồm những người Việt Nam trong độ tuổi từ 15 – 34 [46]. Chỉ hai
năm sau, Luật Thanh niên (Luật số 53/2005/QH11) được Quốc hội khóa XI
thông qua đã quy định tại điều 1: “Thanh niên quy định trong luật này là công
dân Việt Nam từ đủ 16 đến 30 tuổi”[11]. Đề tài đồng ý với quan điểm cho rằng,
thanh niên Việt Nam là những người nằm trong độ tuổi từ 16 đến 30.
Đó là về độ tuổi nói chung của thanh niên Việt Nam. Trong độ tuổi này,
thanh niên Việt Nam lại chia thành nhiều nhóm nhỏ theo các độ tuổi khác
nhau (và cũng không thống nhất). Ngoài tiêu chí độ tuổi, thanh niên còn có thể
chia thành các tiểu nhóm khác nhau như thanh niên thành thị, thanh niên nông
thôn (lấy địa bàn cư chú là tiêu chí phân biệt); hay thanh niên nông dân, công
nhân (lấy nghề nghiệp làm tiêu chí phân biệt)... Ngoài ra, các yếu tố khác như
31. 26
tộc người, tôn giáo, giới tính, giàu – nghèo...cũng có thể được coi là tiêu chí để
phân biệt nhóm thanh niên. Việc xem xét các khía cạnh khác nhau của thanh
niên Việt Nam như vậy có ý nghĩa quan trong trong việc đánh giá, xem xét, đề
xuất các chính sách liên quan đến thanh niên, đảm bảo tính cụ thể của đối tượng
nghiên cứu.
Như vậy, bộ phận được coi là thanh niên, được phân biệt với các bộ
phận dân cư khác, trên tiêu chí duy nhất là giới hạn độ tuổi.
Thanh niên là lứa tuổi đang nhập cuộc và khẳng định mình trong xã
hội. Họ cũng là lớp người chịu tác động và ảnh hưởng của các nhân tố kinh tế
- xã hội một cách sâu sắc.
Hiện nay, thanh niên Việt Nam luôn là người nhạy cảm, năng động,
sáng tạo, có tri thức, hoài bão và ước mơ, có ý chí, nghị lực... Tuổi trẻ Việt
Nam dưới dự lãnh đạo của Đảng đã thực sự là đội quân xung kính chiến lược
của đất nước. Trong giai đoạn cách mạng trước đây, trong sự nghiệp giải
phóng dân tộc cũng như trong thời kì xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, lớp lớp
các thế hệ trẻ Việt Nam tiếp nối nhau xả thân vì sự nghiệp chung. Trong mọi
hoàn cảnh, họ luôn là người kế tục trung thành và xuất sắc sự nghiệp kế tục
của Đảng.
Thanh niên Việt Nam còn là những thế hệ sống có lý tưởng, là thế hệ
thiết tha với độc lập Tổ quốc. Độc lập dân tộc chính là thành quả được đổi
bằng xương máu của nhiều thế hệ, trong đó có tầng lớp thanh niên.
Khẳng định vai trò quan trọng của thanh niên đối với mỗi cộng đồng,
quốc gia, dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: “một năm bắt đầu bằng
mùa xuân, cuộc đời bắt đầu bằng tuổi trẻ, tuổi trẻ là mùa xuân của dân tộc”.
Thanh niên có sứ mệnh đón nhận sự trao truyền giá trị, ủy thác trách nhiệm,
bàn giao nhiệm vụ, gửi gắm niềm tin của thế hệ đi trước. Vì vậy, có thể nói,
thanh niên chính là tương lai của cộng đồng, dân tộc. Nếu thế hệ thanh niên
32. 27
không được trang bị những kiến thức nền tảng, trong đó có kiến thức về văn
hóa chính trị thì số phận và tương lai của cồng đồng sẽ bị đe dọa nghiêm
trọng.
1.3.2. Vai trò của văn hóa chính trị đối với sự phát triển thanh niên
Việt Nam hiện nay
Vai trò của Văn hóa chính trị đối với sự phát triển của thanh niên thể
hiện trong tri thức chính trị
Tri thức chính trị là một trong những lĩnh vực cơ bản của tri thức xã hội
nói chung. Nếu tri thức của xã hội loài người nói chung là sự hiểu biết của
con người về thế giới tự nhiên, xã hội, thì tri thức chính trị là toàn bộ sự hiểu
biết có hệ thống của con người về đời sống chính trị.
Tri thức chính trị bao giờ cũng gắn liền với nhận thức của chủ thể chính
trị là đảng phái hay giai cấp. Tri thức chính trị bao giờ cũng hướng tới bảo vệ
lợi ích đảng phái hay giai cấp nhất định. Tri thức chính trị chính là sự nhận
thức, sự hiểu biết bản chất của sự vật, hiện tượng khách quan trong đời sống
chính trị được thể hiện thông qua trình độ học vấn về lý luận chính trị và kinh
nghiệm thực tiễn chính trị.
Tri thức chính trị bao gồm kinh nghiệm về chính trị và học vấn chính
trị là hệ thống kiến thức về hệ tư tưởng chính trị, các quan điểm chính trị, các
lý thuyết về công nghệ chính trị của con người , lý thuyết xây dựng các thể
chế, khoa học và thuật thực thi chính trị. Kinh nghiệm chính trị được đúc rút
từ hoạt động thực tiễn chính trị. Học vấn chính trị và kinh nghiệm chính
trị hoà quyện vào nhau tạo thành sức mạnh chính trị, định hướng quan hệ của
chủ thể trong hệ thống chính trị.
Vai trò của văn hóa chính trị đối với sự phát triển của thanh niên thể
hiện trong truyền thống văn hóa, chuẩn mực đạo đức:
33. 28
Văn hóa chính trị của thanh niên được hiểu là các hoạt động của thanh
niên trong việc gìn giữ và phát huy các truyền thống văn hóa, chuẩn mực đạo
đức có từ lâu đời của dân tộc và tư tưởng yêu nước được coi là một trong
những giá trị cốt lõi, xuyên suốt đối với sự phát triển của xã hội, tạo nên văn
hóa chính trị truyền thống Việt Nam đặc sắc.
Tư tưởng yêu nước của thanh niên là một giá trị cơ bản trong hệ giá trị
truyền thống của dân tộc Việt Nam, được hun đúc qua hàng ngàn năm lịch sử
đấu tranh chống giặc ngoại xâm, giành lại nền độc lập cho dân tộc. Chính vì
vậy, tư tưởng yêu nước đã thẩm thấu vào tình cảm, vào tư tưởng của dân tộc
qua mọi thời đại, làm nên một lịch sử oai hùng, giúp cho dân tộc ta đánh
thắng mọi kẻ thù xâm lược cho dù chúng có mạnh gấp ta nhiều lần. Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã nhận xét rằng: “Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước”. “Từ
xưa đến nay, mỗi khi đất nước bị xâm lăng thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết
thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó
khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước” [36]
Hàng ngàn năm nay, dân tộc Việt Nam liên tục trải qua những cuộc
chiến tranh điển hình về tính chất ác liệt và sự gian khổ hy sinh; phải đương
đầu với các thế lực xâm lược hung bạo và hiếu chiến, có tiềm lực kinh tế, quân
sự mạnh hơn gấp nhiều lần. Song, với lòng yêu nước nồng nàn, dân tộc Việt
Nam đã kiên cường đấu tranh giữ nước, bảo vệ bản sắc văn hóa dân tộc, không
để bị đồng hóa.
Yêu nước là biểu hiện cao quý của tư tưởng và tâm hồn Việt Nam, là
giá trị nhân cách của con người Việt Nam, được tôi luyện và hun đúc qua biết
bao biến cố của lịch sử và đã mãi trường tồn tỏa sáng cùng với sự đi lên của
dân tộc. Nếu hiểu văn hóa chính trị theo nghĩa trên thì bên cạnh các giá trị
truyền thống, như: lòng tự hào dân tộc, tinh thần đoàn kết, nhân nghĩa, hòa
hiếu,... thì tư tưởng yêu nước có thể nói là tư tưởng cốt lõi, mang đậm những
34. 29
giá trị văn hóa chính trị truyền thống Việt Nam, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt quá
trình hình thành và phát triển của dân tộc Việt Nam qua các thời đại.
Thứ hai, văn hóa chính trị có chức năng định hướng, điều chỉnh các
hành vi của thanh niên và các quan hệ xã hội. Chính trên cơ sở nhận thức
chính trị đúng đắn về mục tiêu lý tưởng, mọi người trong xã hội, đặc biệt la
thanh niên có thể xây dựng cho mình một đường lối, một mục tiêu chính trị
đặt ra. Cùng với trinh độ văn hóa chính trị xác định, thanh niên có thể chủ
động hành động theo những lý tưởng đã chọn, phù hợp với chuẩn mực xã hội.
Đặc biệt, trên nền tảng văn hóa chính trị cao, thanh niên có khả năng phát huy
những mặt tích cực, hạn chế những mặt tiêu cực của nhân tố khách quan,
nhân tố chủ quan của xã hội, nhân tố cá nhân, nhân tố cộng đồng, nhân tố bên
trong, nhân tố bên ngoài, hướng sự hoạt động của xã hội theo những mục tiêu
chính trị đã xác định, đồng thời có những điều chỉnh mục tiêu, phương hướng
thực hiện phù hợp với xu thế và những điều kiện, hoàn cảnh mới. Đồng thời,
cũng trên nền tảng văn hóa chính trị cao có thể điều chỉnh những hành vi thái
quá, ngăn chặn những cái đầu “nóng” trong quan hệ xã hội và quan hệ quốc tế
có thể dẫn tới sự đối đâu gay gắt, ảnh hưởng tiêu cực đến ổn định chính trị.
Với đối tượng thanh niên, văn hóa chính trị sẽ góp phần khắc phục những mặt
trái, những ảnh hưởng tiêu cực của kinh tế thị trường và mở cửa đến đạo đức,
lối sống, đồng thời khơi dậy, tính năng động, sáng tạo trong việc vận dụng cơ
hội, điều kiện thuận lợi cho phát triển và hoan thiện nhân cách.
Văn hóa chính trị còn có vai trò đẩy mạnh xã hội hóa về chính trị, làm
cho mọi công dân nói chung và thanh niên nói riêng quen với các hoạt động
chính trị. Trong xã hội phát triển – xã hội có văn hóa chính trị cao – một mặt,
mỗi thanh niên ý thức đầy đủ về vị trí của mình trong xã hội cũng như những
nghĩa vụ, bổn phận của mình đối với xã hội. Mặt khác, xã hội cũng phải tạo ra
và hoan thiện cơ chế để mỗi cá nhân công dân, mỗi thanh niên tham gia một
35. 30
cách tích cực, tự giác vào công việc nhà nước và xã hội. Nhờ đó, hoạt động
chính trị trở thành công việc hàng ngày của mỗi người, thành nề nếp sinh hoạt
xã hội. Đó là quá trình xã hội hóa về chính trị, từng bước thể hiện bản chất dân
chủ của chế độ xã hội chủ nghĩa.
Ngoài ra, văn hóa chính trị còn vai trò cổ vũ, động viên, thúc đẩy hoạt
động sáng tạo của con người, hình thành nhân cách của thanh niên, nhân cách
những nhà lãnh đạo chính trị. Trình độ, sự giác ngộ về lý tưởng và niềm tin
vào lý tưởng của mỗi cá nhân cùng những điều kiện thuận lợi cả về cơ chế và
những điều kiện vật chất kĩ thuật do xã hội tạo nên sẽ là nguồn gốc tạo nên
động lực cho những hoạt động sáng tạo có tính tích cực chính trị xã hội của
mỗi thanh niên. Đồng thời thông qua mỗi hoạt động chính trị, phong trào
chính trị, bản lĩnh chính trị của mỗi cá nhân thanh niên được rèn luyện, thử
thách để hình thành nhân cách công dân, nhân cách của những nhà hoạt động
chính trị.
36. 31
Tiểu kết chương 01
VHCT là một phương diện, một bộ phận của văn hóa trong xã hội có
giai cấp, nói lên chất lượng tổng hợp những giá trị tinh thần và vật chất với
hạt nhân là các giá trị chính trị nhâsn văn được con người sáng tạo và sử dụng
trong thực tiễn chính trị, để thực thi trong quan hệ về quyền lực chính trị,
quyền lực nhà nước nhằm thực hiện lợi ích chính trị cơ bản của giai cấp phù
hợp với sự phát triển lịch sử; là sự phản ánh trình độ trưởng thành nhân cách
chính trị của các chủ thể chính trị trong đời sống xã hội. VHCT của thanh
niên được đánh giá thông qua những tiêu chí phong phú, đa dạng, đó là tri
thức chính trị, bản lĩnh chính trị, năng lực hoạt động chính trị, đạo đức cách
mạng, phong cách làm việc.VHCT của thanh niên chịu sự tác động của nhiều
nhân tố như môi trường kinh tế, môi trường chính trị, môi trường văn hóa, xã
hội, môi trường tự nhiên. Từ việc làm rõ những vấn đề lí luận trên cơ sở phân
tích thực trạng VHCT của thanh niên của huyện Yên Lạc trong giai đoạn hiện
nay.
37. 32
Chương 2
VĂN HÓA CHÍNH TRỊ CỦA THANH NIÊN HUYỆN YÊN LẠC, TỈNH
VĨNH PHÚC: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
2.1. Môt số đặc điểm huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc và thanh niên
trong huyện
2.1.1. Khái quát về điều kiện tự nhiên, tình hình kinh tế, chính trị, văn
hóa, xã hội
Yên Lạc là một huyện đồng bằng nằm ở phía Nam tỉnh Vĩnh Phúc;
Huyện Yên Lạc có 17 đơn vị hành chính, gồm 16 xã và 01 thị trấn với tổng
diện tích 106,7km2
, dân số 161.573 người.
2.1.1.1. Điều kiện tự nhiên
* Vị trí địa lý:
Nằm bên bờ tả ngạn sông Hồng (bờ phía bắc sông). phía bắc giáp
thành phố Vĩnh Yên, phía tây giáp huyện Vĩnh Tường, góc phía tây Bắc giáp
huyện Tam Dương, , phía đông nam giáp huyện Mê Linh , phía đông bắc giáp
huyện Bình Xuyên, các huyện thị này đều thuộc tỉnh Vĩnh Phúc (trừ Mê Linh
đã được sáp nhập về Hà Nội năm 2008). Nằm trên ranh giới của Yên Lạc với
Mê Linh có con sông Cà Lồ, nối sông Hồng với sông Cầu. Riêng phía nam,
huyện Yên Lạc giáp với huyện Phúc Thọ của thành phố Hà Nội, mà ranh giới
là sông Hồng.
* Giao thông:
Quy hoạch mạng lưới giao thông theo Quy hoạch của tỉnh về đường bộ,
xây dựng trục đường tâm linh, đường Bình Xuyên-Yên Lạc-Vĩnh Tường,
đường đê sông Hồng kết hợp với giao thông, đường tránh Vĩnh Yên, Quốc lộ
2C…. và tuyến giao thông đường thuỷ, bến cảnh. Đầu tư xây dựng mới, cải
tạo, mở rộng, nâng cấp các tuyến đường giao thông tỉnh lộ, huyện lộ và
38. 33
đường liên xã nhằm khai thác triệt để tiềm năng kinh tế, các cụm công nghiệp
làng nghề, phục vụ cho công tác quốc phòng, lưu thông hàng hóa và nhu cầu
đi lại của nhân dân.
Phát triển mạng lưới giao thông đồng bộ hợp lý, kết hợp giữa giao
thông đối ngoại với giao thông nội huyện nhằm tạo ra những cơ hội thuận lợi
cho thu hút phát triển công nghiệp-dịch vụ, đô thị và xây dựng nông thôn mới
trên địa bàn.
2.1.1.2. Điều kiện kinh tế - xã hội
Kinh tế : Tốc độ tăng giá trị sản xuất, giai đoạn 2006-2010, trên địa bàn
huyện khá cao. Mặc dù gặp nhiều khó khăn do tác động của khủng hoảng
kinh tế, nhưng tăng trưởng giá trị sản xuất của huyện vẫn cao và vượt chỉ tiêu
kế hoạch đặt ra. Như thể hiện trong bảng 2.1, tăng trưởng giá trị sản xuất bình
quân đạt 14.2%/năm, trong đó, năm cao nhất đạt trên 17.34% (năm 2006),
năm thấp nhất chỉ đạt 8.57% (năm 2009). Tăng trưởng kinh tế cao nên giá trị
sản xuất bình quân đầu người của huyện không ngừng gia tăng theo thời gian.
Nếu năm 2000 giá trị sản xuất đạt 2.55 triệu đồng/người thì năm 2010 đã là
8.6 triệu đồng/người (giá cố định 1994), tăng gấp 3 lần. Tăng trưởng kinh tế
cao, liên tục là cơ sở để huyện đầu tư phát triển KT-XH, xây dựng cơ sở hạ
tầng, phát triển nông thôn mới theo hướng văn minh hiện đại.[49]
Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới được các cấp
ủy Đảng, chính quyền và nhân dân trên địa bàn huyện triển khai rất tích cực,
có nhiều cách làm hay và sáng tạo, huy động được toàn dân tham gia, là đơn
vị dẫn đầu toàn tỉnh trong phong trào xây dựng nông thôn mới, huyện đang
phấn đấu về đích sớm nhất của tỉnh, trở thành huyện nông thôn mới.
* Văn hóa- du lịch, giáo dục, y tế:
Các lĩnh vực văn hóa, xã hội trên địa bàn đạt được nhiều tiến bộ mới,
nhất là giáo dục và đào tạo phát triển cả về quy mô, chất lượng và số lượng;
39. 34
số học sinh giỏi các cấp và thi đỗ vào các trường cao đẳng, đại học luôn đứng
trong tốp dẫn đầu của tỉnh. Có nhiều học sinh đạt giải cao trong các kỳ thi
quốc gia, khu vực và quốc tế. Công tác khám, chữa bệnh, chăm sóc sức khỏe
nhân dân ngày càng đáp ứng tốt yêu cầu. Công tác giải quyết việc làm, xóa
đói giảm nghèo đạt được nhiều kết quả tích cực. Các chính sách an sinh xã
hội luôn được quan tâm thực hiện tốt. Phong trào văn hóa văn nghệ, thông tin,
thể dục thể thao ngày càng phát triển sôi nổi, nhất là phong trào văn nghệ
quần chúng ở cơ sở. Đời sống nhân dân được nâng cao và ngày càng cải
thiện. Tỷ lệ hộ nghèo giảm nhanh, từ 9,8% đầu nhiệm kỳ đến nay còn 2,67%,
thấp hơn mức bình quân chung của tỉnh.
- Giáo dục: Duy trì hệ thống trường lớp công lập, đẩy mạnh xã hội hoá,
khuyến khích phát triển hệ thống trường tư thục ở các cấp học để nâng cao
dân trí, đào tạo lao động, phát hiện và bồi dưỡng nhân tài. Nâng cao chất
lượng đào tạo và chất lượng giáo dục phổ thông. Đến năm 2015 có 100% số
trường đạt chuẩn quốc gia, trong đó 40% số trường thuộc các cấp học đạt
chuẩn mức 2, trên 20% trường chất lượng cao.
Năm học 2014- 2015, ngành Giáo dục và Đào tạo huyện Yên Lạc tiếp
tục đạt được những thành tích đáng tự hào. Cùng với sự phát triển ổn định về
quy mô hệ thống, các điều kiện đảm bảo chất lượng giáo dục tiếp tục được
tăng cường, chất lượng giáo dục đại trà, chất lượng giáo dục toàn diện có
nhiều chuyển biến tích cực. Đặc biệt, công tác phát hiện, bồi dưỡng học sinh
giỏi được khẳng định là thế mạnh của giáo dục Yên Lạc.
Không chỉ quan tâm bồi dưỡng học sinh đại trà, học sinh giỏi các môn
văn hóa, ngành GD&ĐT huyện Yên Lạc còn quan tâm đến công tác giảng dạy
các bộ môn âm nhạc, mỹ thuật, thể dục thể thao, qua đó, việc phát hiện, bồi
dưỡng học sinh năng khiếu văn nghệ, thể thao được chú trọng và đạt thành
tích cao. Trong hội thi Giai điệu tuổi hồng cấp tỉnh năm học 2014-2015, toàn
40. 35
huyện đạt 6 giải, trong đó có 1 giải nhất, 4 giải nhì, 1 giải ba; tham gia Hội
khỏe Phù Đổng cấp tỉnh, đạt 75 huy chương, đứng vị trí nhất toàn đoàn, trong
đó, có 31 huy chương vàng, 26 huy chương bạc, 18 huy chương đồng. Đặc
biệt, có 73 vận động viên được chọn vào đội tuyển của tỉnh chuẩn bị tham gia
Hội khỏe Phù Đổng toàn quốc.[41]
– Y tế: Xã hội hóa các hoạt động y tế. Phát triển và hoàn thiện hệ
thống khám chữa bệnh và chăm sóc sức khỏe cho nhân dân; nâng cao chất
lượng khám chữa bệnh của các cơ sở y tế, tăng cường công tác quản lý sức
khỏe tại cộng đồng.
Đến năm 2015, duy trì 100% số xã đạt chuẩn quốc gia về y tế cơ sở,
giảm tỷ lệ trẻ suy dinh dưỡng xuống dưới 10%, tỷ lệ tăng dân số tự nhiên
dưới 1% ; đạt 5 bác sĩ/10.000 dân, 100% trạm y tế cơ sở có bác sĩ. Tỷ lệ tử
vong trẻ em dưới 1 tuổi là 0,01% [ 50]
Năm 2017, TTYT huyện Yên Lạc thu hút hơn 70 nghìn lượt bệnh nhân
(tăng hơn 5.000 nghìn lượt bệnh nhân so với năm 2014). Đến nay, trung tâm
đã thực hiện được gần 70% kỹ thuật theo phân tuyến; thực hiện được nhiều kỹ
thuật vượt tuyến. Tỷ lệ thực hiện kỹ thuật theo phân tuyến tăng gần 20% so
với năm 2014, trong đó, có nhiều kỹ thuật hiện đại như: Chụp CT Scanner,
chạy thận nhân tạo, phẫu thuật ngoại khoa, phẫu thuật sản phụ khoa... Thông
qua việc thường xuyên triển khai chương trình phối hợp với các bác sĩ hàng
đầu của các đơn vị y tế trung ương KCB bảo hiểm y tế cho người bệnh có nhu
cầu ngay tại trung tâm đã góp phần giảm tỷ lệ chuyển tuyến.
Cùng với những thành tựu trong điều trị và phòng, chống dịch bệnh,
TTYT huyện Yên Lạc đạt được nhiều kết quả nổi bật trong công tác phòng,
chống HIV/AIDS; DS - KHHGĐ; phòng, chống suy dinh dưỡng trẻ em; tỷ lệ
người dân tham gia bảo hiểm y tế đạt cao, chiếm 85%... Hệ thống y tế cơ sở
tuyến xã, thị trấn ngày càng được củng cố vững mạnh [51].
41. 36
– Văn hóa: Tăng cường đầu tư xây dựng Trung tâm văn hoá xã và thôn
làng, củng cố hệ thống thư viện, đài truyền thanh, phong trào thể dục thể thao.
Phấn đấu mỗi thôn có một điểm sinh hoạt văn hóa, mỗi làng truyền thống có
một trung tâm văn hoá – thể thao làm nơi luyện tập thể thao, vui chơi giải trí.
Giữ vững chỉ tiêu trên 90% gia đình văn hóa, trên 90% làng văn hóa, 100% cơ
quan đạt tiêu chuẩn đơn vị văn hóa. Xây dựng 17 làng văn hóa trọng điểm
theo tiêu chí nông thôn mới.
– Giảm nghèo một cách bền vững, xuống dưới 3% vào năm 2015 (theo
chuẩn giai đoạn 2006-2010).
– Số lao động qua đào tạo năm 2010 là đạt 62% [29]
Yên Lạc là đất phát tích, với số lượng di tích phong phú: 197 di tích
phân bố đều trong 17 xã, thị trấn với 83 làng truyền thống, trong đó di tích
xếp hạng cấp Quốc gia là 11, xếp hạng cấp tỉnh là 51, đã và đang được tôn
tạo, bảo vệ, phát huy các giá trị văn hoá của di tích. Có nhiều di tích gắn liền
với tên tuổi, công trạng của các nhân vật lịch sử, các danh nhân văn hoá (Yên
Lạc có 22 danh nho, trong đó có 20 vị danh nho được khắc tên trên bia "Bản
huyện tiên hiền tính danh khoa thứ kí" được thờ từ triều Lý đến hết triều Lê.
Tính đến kỳ cuối cùng triều Nguyễn thì Yên Lạc có cả thảy 26 vị hiền tài).
Một số lễ hội còn giữ được gần như nguyên vẹn tinh thần và phương
thức tổ chức, được nhân dân nô nức tham gia như: Lễ hội bơi chải làng Rau,
đánh phết làng Thụ Ích (Liên Châu), nấu cơm thi làng Đinh Xá (Nguyệt Đức),
lễ hội đâm trâu, lễ hội Miền đền Bắc Cung (Tam Hồng).
Là huyện nhiều năm được tỉnh chọn cử là điểm chỉ đạo về quản lý Văn
hoá - Thông tin, những năm qua sự nghiệp văn hoá đã phát triển rõ nét: Giáo
dục 6 năm liền dẫn đầu tỉnh Vĩnh Phúc, số lượng giáo viên giỏi, chiến sĩ thi
đua, học sinh giỏi cấp tỉnh, quốc gia và quốc tế, trường chuẩn quốc gia dẫn
đầu tỉnh (31 trường). Đến nay toàn huyện có 29925/31170 gia đình đạt danh
42. 37
hiệu gia đình văn hoá, đạt tỉ lệ 96% trong đó có 100 gia đình đạt danh hiệu gia
đình Văn hoá cấp tỉnh.78/83 làng đạt danh hiệu làng văn hoá (đạt 94%), trong
đó có 45 làng đạt danh hiệu làng văn hoá cấp tỉnh [29].
Tóm lại, như trên đã phân tích, những đặc điểm về tự nhiên, lịch sử,
truyền thống văn hóa cùng những điều kiện về kinh tê xã hội có những tác
động lớn trong việc hình thành VHCT của đội ngũ thanh niên ở huyện Yên
Lạc, đồng thời cũng đặt ra những yêu cầu, trách nhiệm to lớn đối với thanh
niên, phải không ngừng nâng cao trình độ, hoàn thiện nhân cách, tức là nâng
cao VHCT để đưa huyện Yên Lạc ngày càng giàu đẹp, văn minh, đi lên cùng
đất nước.
2.1.2. Khái quát về đội ngũ thanh niên của huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh
Phúc
Đoàn thanh niên huyện Yên Lạc có 33 cơ sở với tổng số 11.516 đoàn
viên. Thanh niên trong độ tuổi là 39.703/161.573 tổng dân số toàn huyện
chiếm tỷ lệ 24.6%. Tỷ lệ thanh niên được tập hợp là 28.190/39.703 chiếm
71% [5] . Là lực lượng chiếm đa số trong huyện, có sức khoẻ, có trình độ học
vấn cao, năng động sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm,
không ngại khó, ngại khổ, tích cực lao động sản xuất, xung kích xây dựng
nông thôn mới. Đại đa số thanh niên sống có mục tiêu, lý tưởng, tin tưởng vào
sự lãnh đạo của Đảng, chấp hành tốt các quy định của Nhà nước, đã và đang
xung kích, tình nguyện đóng góp tài năng, sức trẻ của mình vào sự phát triển
kinh tế - xã hội của huyện nhà.
Tuy nhiên, hiện nay một bộ phận thanh niên lười lao động, lười học
tập, ngại khó, ngại khổ, chưa làm tròn trách nhiệm và nghĩa vụ của mình ở gia
đình, địa phương, đơn vị; cũng còn không ít thanh niên không có chí hướng rõ
ràng, chưa hiểu biết đầy đủ truyền thống cách mạng của Đảng và dân tộc;
không có ý chí vươn lên làm giàu cho bản thân và xã hội, có những thanh niên
43. 38
có biểu hiện giảm sút niềm tin, bị lôi kéo, bản lĩnh non kém, kích động tham
gia vào các hoạt động vi phạm pháp luật…
Như vậy các cấp chính quyền , đảng, các cơ quan, tổ chức, trong huyện
đã có nhiều nỗ lực để phổ biến, giáo dục pháp luật cho thanh niên, nhưng hiệu
quả của công tác này còn chưa cao. Hơn nữa, kết quả khó có thể định lượng
bởi có nhiều trường hợp biết luật, hiểu luật nhưng vẫn cố tình vi phạm. Theo
kết quả khảo sát cho thấy, hiện nay trên địa bàn huyện Yên Lạc tồn tại một số
loại tệ nạn xã hội như cờ bạc, cá độ (57%), nghiện Internet, văn hóa phẩm đồi
trụy (chiếm 42,6%), ma túy (39,9%), đua xe và uống rượu bia (17,6%), mại
dâm (8,8%) [6]
Thanh niên là lực lượng xã hội hùng hậu, có sức khoẻ, có trình độ học
vấn, có tiềm năng sáng tạo, có khả năng tiếp cận và làm chủ khoa học hiện
đại. Do vậy, hơn lúc nào hết trình độ VHCT của đội ngũ thanh niên huyện
Yên Lạc phải được nhìn nhận một cách đúng đắn, phải được quan tâm một
cách kĩ lưỡng.
2.2. Thực trạng văn hóa chính trị thanh niên huyện Yên Lạc, tỉnh
Vĩnh Phúc hiện nay
2.2.1. Những ưu điểm trong văn hóa chính trị của thanh niên huyện Yên
Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc và nguyên nhân của chúng
Ưu điểm thể hiện trong niềm tin chính trị
Trước những biến đổi nhiều mặt, có những mặt trái và phức tạp, nhìn
chung, thanh niên Yên Lạc vẫn tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, thắng lợi
của sự nghiệp đổi mới và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Thanh niên luôn
đi đầu trong việc thực hiện, ủng hộ đường lối chính sách của Đảng và nhà
nước. Lòng tự hào dân tộc, tinh thần yêu nước, yêu CNXH của thanh niên
được tăng cường và do đó kiên quyết chống lại mọi âm mưu, thủ đoạn của
44. 39
chiến lược diễn biến hoà bình của thế lực thù địch, đây là tư tưởng và niềm tin
chính trị của thanh niên ở mức độ cao.
Dám nghĩ, dám nói, dám làm theo quan niệm mà mình tin là đúng,
không bị bất cứ áp lực nào làm nhụt chí, và dám chịu trách nhiệm về hành vi
của mình. Thanh niên Yên Lạc không ỷ lại, không dựa dẫm vào người khác,
có tính độc lập cao,. Không cầu an, không ngại khó, không chùn bước trước
những trở lực. Thanh niên Yên Lạc luôn có ý thức tự khẳng định, không bằng
lòng dễ dãi với kiểu sống mờ nhạt, vô thưởng vô phạt, có trên đời cũng như
không.
Trong những năm qua, trên cơ sở do các cấp bộ Đoàn trên địa bàn
huyện mở ra, số lượng thanh niên được tập hợp là 29.703/41.835 tổng số
thanh niên trong độ tuổi, đạt tỷ lệ 71%. Sinh hoạt chi đoàn tiếp tục thu hút
được một số lượng lớn thanh niên. Trong năm 2017, với 40 lớp học cảm tình
Đoàn, Đoàn đã kết nạp 1.550 đoàn viên, phát 1.550 thẻ đoàn viên và 1.550 sổ
đoàn viên; các chương trình rèn luyện đoàn viên, tổ chức “Ngày đoàn
viên”,... luôn được các thanh niên tham gia, hưởng ứng nhiệt tình.
Thông qua tuyên truyền sâu rộng trong đoàn viên, thanh niên về kỷ
niệm 20 năm ngày tái lập tỉnh Vĩnh Phúc, 70 năm ngày thành lập Đảng bộ
huyện Yên Lạc, 87 năm ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, về cương
lĩnh, đường lối của Đảng, về vai trò lãnh đạo của Đảng; xung kích đấu tranh
bảo vệ Cương lĩnh chính trị, đường lối của Đảng, thanh niên Yên Lạc tham
gia đầy đủ. Thông qua các buổi tổ chức sinh hoạt chi đoàn, chi hội tuyên
truyền về truyền thống, lịch sử của Đảng, quê hương, đất nước, của Đoàn,
nhiều đoàn viên thanh niên đã có tri thức, niềm tin đúng đắn về sự phát triển
của Việt Nam, đã phấn đấu vươn lên. Năm 2017, có 232 đoàn viên ưu tú tham
gia học lớp cảm tình đảng, 212 đoàn viên ưu tú được đảng xem xét kết nạp.
45. 40
Tỷ lệ đảng viên trẻ được kết nạp hàng năm đạt 65% số đoàn viên thanh niên
phấn đấu trở thành đảng viên [5].
Như vậy với sự tin tưởng vào đường lối lãnh đạo của Đảng, nhà nước
phần đông thanh niên Yên Lạc vẫn giữ được phẩm chất đạo đức cách mạng,
lối sống lành mạnh, giản dị, gần gũi, gắn bó với mọi thế hệ với cơ sở, chăm lo
đến sự nghiệp chung, cố gắng thực hiện và hoàn thành trách nhiệm, bổn phận
của mình một cách tốt nhất.
Ưu điểm thể hiện trong tri thức chính trị:
Thanh niên có vị trí quan trọng to lớn trong sự phát triển của đời sống
chính trị - xã hội. Trước hết, họ là các chủ thể, là đội ngũ tiên phong trong
việc nắm bắt và tuyên truyền những chủ trương, đường lối chính sách có ý
nghĩa chiến lược và thực hiện thành công các chủ trương, đường lối đó trong
thực tiễn. Vì vậy, phẩm chất toàn diện và chất lượng hoạt động của đội ngũ
thanh niên này vừa có ảnh hưởng trực tiếp và lâu dài, góp phần vào sự phát
triển của huyện. Như vậy Để hoàn thành nhiệm vụ nặng nề được giao phó,
người thanh niên phải là những người vừa có đức có tài. Hai mặt đó phải
thống nhất biện chứng trong một cấu trúc nhân cách thống nhất. Chúng ta
không thể xây dựng thành công CNXH nếu như không xây dựng được một
đội ngũ thanh niên chính trị với những yêu cầu rất cao về trình độ trí tuệ, về
phẩm chất và tư cách đạo đức ngang tầm với những đòi hỏi của một sự nghiệp
mới, một thời đại mới.
Trình độ, kiến thức và ý thức xã hội của đoàn viên thanh niên Yên Lạc
ngày càng được nâng cao, nhiều thanh niên thể hiện tinh thần dám nghĩ, dám
làm. Tình hình đoàn viên thanh niên của huyên Yên Lạc thống kê năm 2017:
tổng số đoàn viên thanh niên trong độ tuổi 39.703 đoàn viên trong đó:đoàn
viên thanh niên đang học cấp 3 la 4500 chiếm 11,3%; đoàn viên thanh niên có
trình độ đại học, cao đẳng, trung cấp chuyên nghiêp 11870 chiếm 29,8% , số
46. 41
đoàn viên thanh niên đang theo học tại các trường đại học, cao đẳng, trung
cấp nghề là 4600 đoàn chiếm 11,5%, số đoàn viên thanh niên có trình độ thạc
sĩ là 700 đoàn viên chiếm 1,7%, số đoàn viên thanh niên chỉ tốt nghiệp cấp 2
chiếm một số lượng nhỏ 300 đoàn viên chiếm 0,7%, còn lại là số đoàn viên
thanh niên đã tốt nghiệp cấp 3 đang làm việc cho các nhà máy, xí nghiệp, ….
Chiếm 45% [7] . Với một trình độ tri thức văn hóa như vậy, nên về cơ bản,
thanh niên Yên Lạc có sự hiểu biết, nhận thức đúng đắn về các vấn đề chính
trị trong nước và thế giới. Thanh niên Yên Lạc luôn đấu tranh chống lại các
biểu hiện sai trái, thù địch của các thế lực phản động; tham gia nhiệt tình các
phong trào chính trị - xã hội do địa phương, các cấp hội đoàn tổ chức.
Phần đông thanh niên đã ý thức được việc nâng cao và hoàn thiện dần
không chỉ về trình độ chuyên môn nghiệp vụ, nâng cao tay nghề, mà còn cả
về trình độ lý luận chính trị, hình thành những đức tính tốt bằng nhiều hình
thức và biện pháp. Vì vậy, họ đã góp phần quan trọng trong công cuộc đổi
mới, tạo nên những chuyển biến tích cực và những thành tựu to lớn về kinh
tế, chính trị, xã hội của huyện Yên Lạc trong những năm qua.
Từ năm 2005 đến nay, thanh niên huyện Yên Lạc đã nhận thức tốt công
tác tuyên truyền, phổ biến quán triệt chủ trương, đường lối, các Chỉ thị, Nghị
quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, các sự kiện chính trị
quan trọng của đất nước, các ngày kỷ niệm quan trọng của Đảng, Đoàn và các
đoàn thể chính trị-xã hội; các thành tựu kinh tế-xã hội đạt được trong sự
nghiệp đổi mới. Đoàn viên thanh niên của huyện có nhận thức đúng đắn về
chủ trương, đường lối của đảng, về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam. Hầu như thanh niên chủ động học tập, có ý thức
tích cực và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Chẳng hạn, việc triển
khai thực hiện chỉ thị 03 của Bộ chính trị khóa XI và chỉ thị số 05 của Bộ chính
trị khóa XII được BTV huyện Đoàn cụ thể hóa bằng cuộc vận động ”Tuổi trẻ