SlideShare a Scribd company logo
1 of 100
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
===========
ĐÀO THỊ QUỲNH HOA
Ý THỨC XÃ HỘI VIỆT NAM TRUYỀN THỐNG -
NHỮNG MẶT TÍCH CỰC VÀ HẠN CHẾ
KHI BƯỚC VÀO SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI ĐẤT NƯỚC
LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Triết học
Hà Nội- 12/2012
1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
===========
ĐÀO THỊ QUỲNH HOA
Ý THỨC XÃ HỘI VIỆT NAM TRUYỀN THỐNG
- NHỮNG MẶT TÍCH CỰC VÀ HẠN CHẾ
KHI BƯỚC VÀO SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI ĐẤT NƯỚC
Luận văn thạc sĩ chuyên ngành: Triết học
Mã số: 60.22.80
Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Đặng Thị Lan
Hà Nội- 12/2012
2
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU...................................................................................................1
Chương 1: Ý THỨC XÃ HỘI VÀ Ý THỨC XÃ HỘI VIỆT NAM
TRUYỀN THỐNG ...................................................................................9
1.1. Ý thức xã hội ..................................................................................9
1.1.1. Khái niệm ý thức xã hội ............................................................9
1.1.2. Bản chấtcủa ý thức xã hội......................................................14
1.1.3. Cáccấp độ của ý thức xã hội...................................................15
1.2. Ý thức xã hội Việt Nam truyền thống...........................................18
1.2.1. Khái niệm ý thức xã hội Việt Nam truyền thống......................18
1.2.2. Cơsở hình thành của ý thức xã hội Việt Nam truyền thống ....20
1.2.3. Mộtsố đặcđiểm của ý thức xã hội ViệtNam truyền thống ......31
Chương 2: Ý THỨC XÃ HỘI VIỆT NAM TRUYỀN THỐNG TRONG52
QUÁ TRÌNH ĐỔI MỚI ĐẤT NƯỚC.....................................................52
2.1. Một số nét khái quát về công cuộc đổi đất nước...........................52
2.2. Đánh giá những mặt tích cực và hạn chế của ý thức xã hội Việt
Nam truyền thống đối với sự nghiệp đổi mới đất nước ta hiện nay ....58
2.2.1. Những mặt tích cực của ý thức xã hội Việt Nam truyền thống . 58
2.2.2. Những mặt hạn chế của ý thức xã hội Việt Nam truyền thống . 65
2.3. Phương hướng phát huy những mặt tích cực và khắc phục những
mặt hạn chế của ý thức xã hội Việt Nam truyền thống ở nước ta hiện
nay.......................................................................................................70
2.4. Một số giải pháp nhằm phát huy những mặt tích cực và khắc phục
những mặt hạn chế của ý thức xã hội Việt Nam truyền thống............76
KẾT LUẬN.............................................................................................87
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.................................................89
5
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nhân loại đã đi hết chặng đường còn lại của thập niên đầu, bước vào
thập niên thứ hai của thế kỷ XXI, sẽ xuất hiện rất nhiều điều mới mẻ về khoa
học, công nghệ, lý luận... Cùng với quá trình đó, nền kinh tế vật chất dựa chủ
yếu trên cơ sở sản xuất nông nghiệp và công nghiệp, lấy việc khai thác tài
nguyên thiên nhiên, sản xuất, chế biến, phân phối, sử dụng sản phẩm vật chất
làm nền tảng đang chuyển dần sang nền kinh tế tri thức, trong đó việc sản
xuất, truyền tải, sử dụng tri thức chi phối toàn bộ các hoạt động kinh tế. Từ
nay, các giá trị kinh tế lớn nhất được làm ra không phải trong khu vực trực
tiếp sản xuất của cải vật chất mà trong khu vực khoa học - kỹ thuật, dịch vụ.
Vai trò của tài nguyên thiên nhiên và của cải vật chất sẵn có ngày càng giảm
so với tiềm năng trí tuệ, tinh thần, văn hoá. Nếu gần 40 năm trước, sự tiêu hao
vật chất và năng lượng với nhịp độ khó kiềm chế của nền văn minh công
nghiệp truyền thống đã khiến các nhà kinh tế thuộc câu lạc bộ Roma lên tiếng
kêu gọi các chính phủ ngừng tăng trưởng kinh tế (tăng trưởng zêrô) để ngăn
ngừa thảm hoạ diệt vong, thì cuộc cách mạng công nghệ thông tin đã đảo lộn
tình hình và đưa nhân loại tiến lên một nền văn minh mới, cao hơn: nền văn
minh trí tuệ, trong đó tăng trưởng không ô nhiễm môi trường sống. Trong xu
thế toàn cầu hoá đi đôi với cạnh tranh quyết liệt, nền kinh tế tri thức tạo nhiều
cơ hội thuận lợi cho những nuớc đi sau có thể dựa vào tiềm năng chất xám để
nhanh chóng đuổi kịp các nước khác, song cũng hàm chứa những thách thức
to lớn, những khó khăn, rủi ro và cạm bẫy không phải luôn luôn dễ nhìn và dễ
tránh. Trong lịch sử, chưa bao giờ các đặc điểm tâm lý, ý thức có ý nghĩa
quyết định đối với sự thịnh vượng, thậm chí sự tồn vong của một quốc gia
như hiện nay. Trong các điều kiện ấy, sẽ không có gì lạ nếu tới đây bên cạnh
một số nước tăng trưởng mau chóng thần kỳ có thể có những nuớc suy sụp
thảm hại và tụt hậu vô cùng.
1
Việt Nam đang tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện đất nước. Chúng
ta đã giành được những thành tựu to lớn và rất đáng tự hào. Tại Đại hội XI
của Đảng, đánh giá 20 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đảng ta nêu rõ: “Những thành tựu đạt
được trong 20 năm qua là to lớn và có ý nghĩa lịch sử. Chúng ta đã thực hiện
thành công chặng đường đầu của công cuộc đổi mới, đưa đất nước ra khỏi
tình trạng kém phát triển, đời sống nhân dân có nhiều thay đổi tích cực, sức
mạnh quốc gia về mọi mặt được tăng cường, độc lập, tự chủ và chế độ xã hội
chủ nghĩa được giữ vững, vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế
được nâng cao, tạo tiền đề để nước ta tiếp tục phát triển mạnh mẽ và bền vững
hơn trong giai đoạn mới” [13; 24]. Những thành tựu về chính trị, kinh tế, văn
hoá, xã hội, an ninh, quốc phòng và ngoại giao đã tạo thế và lực mới cho cách
mạng Việt Nam. Chính những thắng lợi to lớn đó là nhân tố quyết định tạo ra
thời cơ cho nước ta phát triển nhanh hơn trong thời gian tới. Tuy nhiên, khi
phải so sánh với các nước trong khu vực, theo báo cáo gần đây của Ngân hàng
Thế giới, với tốc độ phát triển hiện nay, Việt Nam cần 51 năm để đuổi kịp
Inđônêxia, 95 năm để đuổi kịp Thái Lan, 158 năm để đuổi kịp Xingapo.
Những con số làm ngạc nhiên và thất vọng nhiều người trong chúng ta! Truy
tìm những nguyên nhân gây ra sự chậm trễ này, người ta thấy có một phần từ
trong quá khứ, từ sự chưa sẵn sàng chủ động hội nhập và sự thiếu vắng một
nếp tư duy phát triển trong tâm thức và truyền thống của người Việt.
Vì vậy, phân tích để hiểu rõ những đặc điểm của ý thức xã hội Việt Nam
truyền thống (bao gồm những quan niệm, tư tưởng cùng với những tình cảm, tâm
trạng, truyền thống của dân tộc), những mặt tốt, những yếu tố tích cực, thúc đẩy
sự phát triển; cùng với những nhược điểm, những yếu tố chưa tốt, thậm chí tiêu
cực, đang hoặc sẽ níu kéo chúng ta lại sau là việc làm hết sức cần thiết để giúp
xây dựng một chiến lược phát triển đúng đắn, phù hợp với hoàn cảnh và điều
kiện thế giới ngày nay. Cần nhìn lại kỹ bản thân không chỉ để tự tin hơn, mà còn
để bớt chủ quan trước tình hình mới. Tự soi gương bao
2
giờ cũng có ích, nhưng không phải chỉ để thấy mình đẹp mà còn để thấy mình
có những khiếm khuyết gì cần phải sửa, thay vì cố tình bỏ qua hay che giấu.
Xuất phát từ những vấn đề trên, tác giả đã chọn vấn đề“Ý thức xã hội
Việt Nam truyền thống - những mặt tích cực và hạn chế khi bước vào sự
nghiệp đổi mới đất nước” làm đề tài nghiên cứu cho luận văn Thạc sĩ của
mình, với hy vọng sẽ có được một cái nhìn toàn diện và sâu sắc về một vấn đề
không còn mới mẻ nhưng có ý nghĩa vô cùng to lớn trong giai đoạn hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề tìm hiểu về ý thức và ý thức xã hội nói chung từ lâu đã thu hút
được sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu ở trong và ngoài nước. Việc giới
thiệu những kết quả nghiên cứu về ý thức, ý thức xã hội nói chung cũng được
thực hiện ở nước ta từ khá sớm so với các vấn đề triết học khác. Cuốn sách
“Tìm về cội nguồn của ngôn ngữ và ý thức” của GS. Trần Đức Thảo (Nxb.
Thông tin, Hà Nội, 1996) đã góp phần loại bỏ cách hiểu bản chất con người
chung chung, trừu tượng, phi lịch sử, cũng như cách hiểu bản chất con người
là do vô thức quyết định, đồng thời khẳng định chính ngôn ngữ và lao động xã
hội là nguồn gốc của ý thức. Các công trình nghiên cứu như bản dịch cuốn “Ý
thức xã hội và các hình thái ý thức xã hội” của Côngstăngtinốp (Nxb. Sự thật,
Hà Nội, 1956); “Ý thức xã hội” của Cục Tuyên huấn (Nxb. Quân đội nhân
dân, Hà Nội, 1956); “Cấu trúc và các quy luật của ý thức xã hội” của
B.A.Traghen (Nxb. Tiến bộ Mátxcơva, 1968); “Triết học xã hội” tập II của
A.G. Xpirkin (Nxb. Tuyên huấn, 1989)… đã tạo ra những cơ sở quan trọng
cho việc tiếp cận dưới góc độ triết học đối với vấn đề này. Các công trình kể
trên đã bàn về ý thức xã hội với tư cách là một nhân tố trong mối quan hệ với
tồn tại xã hội, chỉ ra sự thống nhất giữa ý thức xã hội và tồn tại xã hội; phân
tích kết cấu, các cấp độ và tính giai cấp của ý thức xã hội, đi sâu nghiên cứu
về các quy luật nội tại của ý thức xã hội, phân tích các quá trình phát sinh,
3
phát triển của ý thức xã hội. Song có rất ít công trình bàn đến ý thức xã hội
của một quốc gia, dân tộc cụ thể.
Ở nước ta, việc nghiên cứu về ý thức xã hội Việt Nam truyền thống
cũng chưa nhiều, chủ yếu được bàn đến trong các cuốn sách, luận án, bài viết
có liên quan. Trong cuốn sách “Giá trị truyền thống của dân tộc Việt Nam”
(Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011), GS. Trần Văn Giàu đã đi sâu phân
tích những điều kiện hình thành và phát triển các giá trị đạo đức truyền thống,
đồng thời chỉ ra các giá trị truyền thống của dân tộc như: yêu nước, cần cù,
anh hùng, sáng tạo, lạc quan, thương người, vì nghĩa. Xuyên suốt tác phẩm,
tác giả đã làm nổi bật luận điểm: Chủ nghĩa yêu nước là tư tưởng và tình cảm
chủ yếu của người Việt Nam xưa nay, là sợi chỉ đỏ xuyên qua toàn bộ lịch sử
Việt Nam. Ngoài ra còn phải kể đến một số công trình như:“Văn hoá sử
cương” của GS. Đào Duy Anh; “Đến hiện đạitừ truyền thống” của GS. Trần
Đình Hựu; “Bản sắc văn hoá Việt Nam” của GS. Phan Ngọc. Những công
trình này chủ yếu đi sâu phân tích đời sống tinh thần nói chung, phân tích một
số giá trị truyền thống tiêu biểu, khẳng định vai trò của những giá trị đó đối
với công cuộc dựng nước và giữ nước của dân tộc ta. Cuốn sách “Triết học
với sự nghiệp đổi mới” (Nxb. Sự Thật, 1990) của GS. Phạm Thành, GS. Lê
Hữu Tầng, GS. Hồ Văn Thông đã phân tích vai trò của tư duy triết học mácxít
trong công cuộc đổi mới tư duy lý luận để nhận thức những vấn đề mới của
cách mạng Việt Nam, từ đó xác định được hướng đi và cách giải quyết đúng
những vấn đề đó. Các công trình: “Ảnh hưởng các hệ tư tưởng và tôn giáo đối
với con ngườiViệt Nam hiện nay” của PGS.TS Nguyễn Tài Thư (Nxb. Chính
trị quốc gia, 1997); “Về tín ngưỡng tôn giáo Việt Nam hiện nay” của GS.
Đặng Nghiêm Vạn (Nxb. Khoa học xã hội, 1998) đã phân tích một số vấn đề
lý luận và thực tiễn cũng như các hình thái vận động và sự tác động của các
hệ tư tưởng và tôn giáo đối với con người Việt Nam. Cuốn sách “Phương
thức sản xuất châu Á - lý luận Mác - Lênnin và thực tiễn Việt Nam” (Nxb.
Khoa học xã hội, 1996) của GS. Văn Tạo đã giới thiệu khái quát quá trình
4
hình thành lý luận Mác - Lênnin về phương thức sản xuất châu Á, đồng thời
liên hệ với lịch sử Việt Nam và thực tiễn nông thôn Việt Nam để gợi ra một
số vấn đề có ý nghĩa khoa học và thực tiễn trong việc xem xét mối quan hệ
giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội. Cuốn sách “Sự biến đổi các thang giá trị
đạo đức trong nền kinh tế thị trường với việc xây dựng đạo đức mới cho cán
bộ quản lý ở nước ta hiện nay” (Nxb. Chính trị quốc gia, 1999) của PGS.
Nguyễn Chí Mỳ đã đề cập đến một số vấn đề đạo đức mới trong cơ chế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa và việc xây dựng đạo đức mới cho cán bộ
quản lý trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong cuốn
sách “Tiến bộ xã hội - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn” (GS. Nguyễn
Trọng Chuẩn chủ biên, Nxb. Khoa học xã hội, 2000), các tác giả đã luận giải
tiến bộ xã hội từ khía cạnh văn hoá, đạo đức và khẳng định vai trò của văn
hoá, đạo đức đối với sự phát triển bền vững của xã hội.
Bên cạnh đó cũng có rất nhiều các bài viết đề cập đến các vấn đề về
tính độc lập tương đối của ý thức xã hội như Ăngghen với tính độc lập tương
đối của ý thức xã hội của Phùng Đông, Tạp chí triết học, số 6/2001; Về những
nguyên nhân của việc cường điệu hay tuyệt đối hoá tính độc lập tương đối
của ý thức xã hội ở nước ta của Trần Văn Khánh, Tạp chí triết học, số 2/2001;
Vai trò của đạođức mới trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa ở nước ta hiện nay của Ngô Thị Thu Ngà, Tạp chí Triết học, số
6/2010; Vai trò của giá trị truyền thống trong sự hình thành và phát triển
nhân cách của Cao Thu Hằng, Tạp chí Triết học, số 6/2011…
Một số luận án, luận văn đã tập trung phân tích vai trò của ý thức xã hội
và thực trạng đời sống tinh thần của nước ta, đồng thời đưa ra những giải
pháp để nâng cao đời sống tinh thần hiện nay như Vấn đề vận dụng tính độc
lập tương đối của ý thức xã hội trong hoạt động thực tiễn, luận án tiến sĩ triết
học của tác giả Trần Văn Khánh, Viện Triết học, Hà Nội, 2001; Phạm trù đời
sống tinh thần xã hội và ý nghĩa của nó của tác giả Phùng Đông, luận án tiến
5
sĩ triết học, Viện Triết hoc, Hà Nội, 1997; Ảnh hưởng của tâm lý tiểu nông đối
với việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay
của tác giả Cao Thị Sính, luận án tiến sĩ triết học, 2011…
Gần đây, Viện Triết học đã tổ chức hội thảo khoa học với chủ đề “Tư
duy và lối sống của con người Việt Nam hiện nay trước yêu cầu đổi mới và
hội nhập quốc tế". Tại hội thảo này, các nhà khoa học đã khẳng định, phương
thức sản xuất chính là cơ sở hình thành nên lối sống và đó cũng là nhân tố
quyết định đến lối sống, đến việc định hướng các hoạt động và định hướng
các giá trị của con người. Lối sống của người Việt Nam được hình thành cùng
với lịch sử hình thành và phát triển của dân tộc Việt Nam, được quy định bởi
các điều kiện kinh tế, chính trị, địa lý. Do vậy, lối sống của người Việt Nam
cũng chính là hiện thân của các đặc điểm truyền thống của dân tộc và mang
bản sắc văn hóa Việt Nam. Đồng thời, các nhà khoa học cũng đã chỉ ra những
ưu điểm cần phát huy, cũng như những mặt hạn chế trong tư duy và lối sống
của người Việt cần sửa đổi cho phù hợp với yêu cầu của của sự nghiệp đổi
mới và hội nhập quốc tế.
Nhìn chung, những cuốn sách, luận văn, bài viết đã công bố về đề tài ý
thức xã hội hầu hết chỉ bàn đến ý thức xã hội với tư cách là một nhân tố trong
mối quan hệ với tồn tại xã hội, hoặc là đi sâu vào làm rõ các đặc điểm, tính
chất, cấu trúc của ý thức xã hội nói chung, hoặc chỉ bàn đến vai trò của ý thức
xã hội trong hoạt động thực tiễn nói chung, hay từ góc độ của ý thức xã hội để
xem xét những vấn đề như văn hoá, đạo đức, đời sống tinh thần, tôn giáo…
mà chưa tập trung nghiên cứu một cách có hệ thống về những đặc điểm của ý
thức xã hội Việt Nam truyền thống, từ đó để thấy được những mặt tích cực
cũng như hạn chế của nó khi bước vào sự nghiệp đổi mới đất nước.
Qua đó chúng ta có thể khẳng định rằng, việc nghiên cứu về ý thức xã
hội Việt Nam truyền thống không phải là một đề tài cũ. Bởi vì, nếu xét theo
quan điểm lịch sử cụ thể thì ở mỗi thời điểm khác nhau, mỗi lĩnh vực khác
6
nhau chúng ta sẽ có những đánh giá cụ thể. Thực tế đã chứng minh rằng, cho
đến nay vẫn chưa có nhiều công trình nghiên cứu một cách toàn diện và có hệ
thống từ góc độ triết học về những đặc điểm của ý thức xã hội Việt Nam
truyền thống. Vì vậy, vấn đề này cần được tiếp tục nghiên cứu.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích:
Trên cơ sở phân tích một số đặc điểm cơ bản của ý thức xã hội Việt
Nam truyền thống, chỉ rõ những giá trị và hạn chế của nó, luận văn nêu ra một
số phương hướng và biện pháp pháp nhằm phát huy những mặt tích cực và
khắc phục những mặt hạn chế của ý thức xã hội Việt Nam truyền thống khi
bước vào sự nghiệp đổi mới đất nước.
Nhiệm vụ:
+ Trình bày khái lược một số vấn đề lý luận chung về ý thức xã hội.
+ Làm rõ những tiền đề, điều kiện cho việc hình thành ý thức xã hội
Việt Nam truyền thống.
+ Phân tích một số đặc điểm cơ bản của ý thức Việt Nam truyền thống,
chỉ ra những mặt tích cực và hạn chế của nó.
+ Nêu ra một số phương hướng và giải pháp nhằm phát huy những mặt
tích cực, khắc phục những mặt hạn chế của ý thức xã hội Việt Nam truyền
thống khi bước vào sự nghiệp đổi mới đất nước.
4. Đốitượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Ý thức xã hội Việt Nam truyền thống.
Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu về ý thức xã hội Việt Nam truyền
thống là một đề tài rộng, trong khuôn khổ của luận văn này, tác giả không thể
phân tích tất cả các bình diện của ý thức xã hội Việt Nam truyền thống mà chỉ
tập trung vào một số khía cạnh: phân tích cơ sở hình thành và một số đặc
7
điểm tiêu biểu của ý thức xã hội Việt Nam truyền thống, chỉ ra những mặt
tích cực và hạn chế, đồng thời đề xuất một số giải pháp nhằm phát huy những
mặt tích cực và khắc phục những mặt hạn chế của ý thức xã hội Việt Nam
truyền thống trong công cuộc đổi mới đất nước hiện nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận: Luận văn dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin
về ý thức xã hội, cùng với tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng
Cộng sản Việt Nam về văn hoá, đạo đức, truyền thống dân tộc. Tác giả cũng
sử dụng những thành tựu của các công trình đi trước trong việc phân tích cơ
sở lý luận chung.
Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng các phương pháp của chủ
nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử như: phân tích - tổng
hợp; lôgíc - lịch sử; đối chiếu, so sánh, khái quát hoá…
6. Đóng góp của luận văn
- Luận văn góp phần làm rõ một số đặc điểm tiêu biểu của ý thức xã hội
Việt Nam truyền thống, từ đó chỉ ra những mặt tích cực và hạn chế của nó khi
bước vào công cuộc đổi mới đất nước.
- Bước đầu đề ra một số giải pháp nhằm phát huy những mặt tíchcực
và khắc phục những mặt hạn chế của ý thức Việt Nam truyền thống.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 2 chương, 6 tiết.
8
Chương 1
Ý THỨC XÃ HỘI VÀ Ý THỨC XÃ HỘI VIỆT NAM TRUYỀN THỐNG
1.1. Ý thức xã hội
1.1.1. Khái niệm ý thức xã hội
Trong lịch sử tư tưởng nói chung và lịch sử triết học nói riêng, việc
nghiên cứu ý thức và ý thức xã hội (với những hình thức thể hiện khác nhau
như: ý thức đạo đức, ý thức tôn giáo, ý thức dân tộc, ý thức giai cấp, ý thức cá
nhân, ý thức cộng đồng.v.v.) không phải là vấn đề hoàn toàn mới. Từ khi triết
học ra đời đến nay, xung quanh vấn đề ý thức và ý thức xã hội đã luôn là nơi
hội tụ của những khác biệt, tranh luận, đấu tranh giữa các trường phái triết
học và các nhà tư tưởng.
Lấy ý thức xã hội làm đối tượng nghiên cứu của mình, một trong những
nhiệm vụ của triết học là tập trung trả lời câu hỏi: Ý thức xã hội là gì?
Trong lịch sử tư tưởng của nhân loại, các nhà triết học trước C.Mác tuy
chưa đưa ra kiến giải khoa học về ý thức xã hội, nhưng ở các mức độ khác
nhau họ cũng đã đưa ra được những hiểu biết ban đầu về ý thức xã hội nói
chung, đặt tiền đề nhất định cho việc hình thành khái niệm khoa học ý thức xã
hội của chủ nghĩa Mác - Lênin.
Ở thời kỳ Hy Lạp - La Mã cổ đại, nhà triết học Anaxago (khoảng 500 -
428TCN) đã đưa ra khái niệm “Nuxơ” với hàm nghĩa là trí tuệ để chỉ tất cả
những hành vi hiện tồn nói chung của ý thức và tư duy; còn theo Platon (428 -
347 TCN) thì Nuxơ chính là “ý niệm”. Cùng thời kỳ này, các nhà triết học
phương Đông như Ấn Độ, Trung Quốc đã có những quan niệm khác nhau, dù
là duy tâm về ý thức. Tựu trung ở thời kỳ cổ đại, các nhà triết học duy tâm đã
tập trung vào luận giải ý thức với tư cách là bản nguyên sáng tạo của thế giới
và đề cao tính tích cực của ý thức khi gắn nó với hành vi, với hoạt động sống
của con người.
9
Triết học Tây Âu thế kỷ XVII - XVIII đã có những tiến bộ vượt bậc
hơn so với thời kỳ trước trong quan niệm về ý thức nói chung và ý thức xã hội
nói riêng, hầu hết các nhà triết học không chỉ thấy, mà còn đặc biệt đề cao vai
trò của ý thức đối với xã hội, đối với hoạt động của con người. Chẳng hạn như
Hônbách cho rằng, trong xã hội thì ý kiến, tư tưởng của con người có thể điều
khiển thế giới và ý kiến, tư tưởng của những nhà làm luật giữ vai trò quyết
định. Điđơrô cho rằng, những tư tưởng, quan điểm chính trị đóng vai trò
quyết định tính chất của chế độ xã hội.
Khác với một số nhà triết học cùng thời, Heghen - nhà triết học cổ điển
Đức đã quá đề cao vai trò của tư duy, ý thức đến mức tuyệt đối hoá nó. Ông
cho rằng, thế giới hiện thực chẳng qua chỉ là biểu hiện của ý niệm, của tinh
thần tuyệt đối, đó là quá trình tự nhận thức của bản thân ý niệm tuyệt đối. Phủ
nhận giá trị tiến bộ của tất cả những quan niệm đó đối với lịch sử phát triển
của xã hội và lịch sử nhận thức nói riêng sẽ là không công bằng, nhưng kể cả
quan niệm của những nhà triết học duy vật nhất trong số đó như Điđơrô đều
không đưa ra được giải thích khoa học về ý thức nói chung và ý thức xã hội
nói riêng. Điều này chỉ có được khi giải quyết vấn đề ý thức dựa trên kiến giải
duy vật về quan hệ giữa vật chất và ý thức.
Bước chuyển quan trọng trong lịch sử triết học khi bàn về vấn đề ý thức
xã hội được thực hiện bởi quan niệm của C. Mác và Ph. Ăngghen. Bằng tư
tưởng biện chứng duy vật, trên cơ sở tiếp thu, kế thừa có chọn lọc và phê phán
quan điểm của các nhà triết học trong lịch sử, C. Mác và Ph. Ăngghen đã
khẳng định: “Không phải ý thức quyết định đời sống mà chính đời sống quyết
định ý thức” [42; 37-38]. Nguyên lý quan trọng đó đã được thể hiện rất rõ
trong một số tác phẩm tiêu biểu của C. Mác và Ph. Ăngghen như: “Góp phần
phê phán triết học pháp quyền của Hêghen”; “Hệ tư tưởng Đức”; “Tuyên
ngôn của Đảng cộng sản”;“Luận cương về Phoiơbắc”;“Góp phần phêphán
khoa kinh tế chính trị”.v.v.
10
Chẳng hạn, trong tác phẩm “Góp phần phê phán triết học pháp quyền
của Heghen”, C. Mác nêu rõ: tôn giáo với tính cách là một hình thái ý thức xã
hội được bắt nguồn từ chính thế giới chứ không phải trên thượng giới. Do đó
“sự nghèo nàn của tôn giáo vừa là biểu hiện của sự nghèo nàn hiện thực, vừa
là sự phản kháng chống lại sự nghèo nàn hiện thực ấy” [40; 569]. Hoặc trong
tác phẩm “Hệtư tưởng Đức”, khi nói về nguồn gốc của ý thức xã hội, C. Mác
đã viết: “Chính con người là kẻ sản xuất ra những ý niệm… của mình, song
đây là những con người hiện thực, đang hành động, đúng như họ bị quy định
bởi một sự phát triển nhất định của những lực lượng sản xuất của họ và bởi sự
giao tiếp phù hợp với sự phát triển ấy, kể cả những hình thức rộng rãi nhất của
sự giao tiếp đó. Ý thức không bao giờ là cái gì khác hơn là sự tồn tại được
ý thức” [42; 258]. Như vậy, ở đây, C. Mác đã khẳng định chính con người đã
sản xuất ra những quan niệm, ý niệm, và những quan niệm, ý niệm đó được
xuất phát từ ngay chính đời sống hiện thực của con người chứ không phải
hiện thực là sự thể hiện của ý niệm tuyệt đối như quan niệm của Heghen. Do
đó, ý thức xã hội chẳng qua chỉ là sự phản ánh của tồn tại xã hội, do tồn tại xã
hội quyết định.
Viết về phạm trù ý thức xã hội, các tác giả của cuốn “Từđiển triết học”
cho rằng: “Ý thức xã hội - tức là sinh hoạt tinh thần của xã hội là do những
điều kiện sinh hoạt vật chất, do phương thức sản xuất vật chất quyết định”
[77; 1068].
Ở đây, người ta đã đồng nhất ý thức xã hội với sinh hoạt tinh thần của
xã hội và đời sống tinh thần do đời sống vật chất quyết định. Côngstăngtinốp
cho rằng: theo nghĩa rộng, khái niệm ý thức xã hội bao gồm những quan điểm
chính trị, pháp quyền, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật, triết học… của xã hội,
bao gồm tri thức khoa học (kể cả khoa học tự nhiên). Nói theo nghĩa tương
đối hẹp thì khái niệm ý thức xã hội chỉ là những tư tưởng, quan điểm và học
thuyết xã hội phản ánh tồn tại xã hội, chế độ xã hội. Có quan điểm cho rằng, ý
11
thức xã hội là mặt tinh thần của xã hội, bao gồm những quan điểm, tư tưởng
cùng những tâm trạng, truyền thống… nảy sinh từ tồn tại xã hội trong những
giai đoạn phát triển nhất định.
Như vậy, ý thức xã hội và đời sống tinh thần của xã hội có đồng nhất
với nhau không? Đây là câu hỏi khiến nhiều nhà nghiên cứu khoa học xã hội
nói chung quan tâm, đặc biệt là trong lĩnh vực triết học. Thực ra, đời sống tinh
thần xã hội và ý thức xã hội là hai phạm trù có mối quan hệ mật thiết với
nhau. Về bản chất, chúng đồng nhất với nhau, bởi vì trong quan niệm của chủ
nghĩa duy vật, phạm trù tinh thần được hiểu rất gần với phạm trù ý thức. Triết
học duy vật biện chứng khi rút ra vấn đề cơ bản của triết học đã mang lại cho
chúng ta một cơ sở lý luận để xem xét phạm trù ý thức xã hội. Bởi vì nếu xem
xét trên mặt nhận thức luận thì tinh thần và ý thức được hiểu là sản phẩm của
vật chất có tổ chức cao là bộ não con người, là hình ảnh chủ quan của thế giới
khách quan.
Đời sống tinh thần và ý thức xã hội còn có quá trình phát sinh, phát
triển như nhau. Ngay từ khi con người mới thoát thai khỏi đời sống động vật,
con người sống thành bầy đàn trong các cộng đồng người như thị tộc, bộ lạc,
khi đó trong xã hội chưa có sự phân biệt giữa lao động trí óc và lao động chân
tay, hoạt động tinh thần xen lẫn sinh hoạt vật chất. Hoạt động tinh thần của
con người ta thời kỳ đó có những hạn chế, nó tương ứng và phù hợp với trình
độ thấp kém của lực lượng sản xuất công xã lúc đó. Vì vậy, đời sống tinh thần
của con người biểu hiện rõ rệt ở phong tục tập quán, ở tín ngưỡng của họ.
Điều này cũng giải thích tại sao tôn giáo thời kỳ này nặng về thần thoại, nó
phản ánh sự sợ hãi, sự bất lực của con người trước sự hùng vĩ của những lực
lượng tự phát của tự nhiên.
Đời sống tinh thần của xã hội cũng bắt đầu và phát triển cùng với sự
phát triển của đời sống vật chất của xã hội, cho nên đời sống tinh thần và ý
thức xã hội không chỉ dừng lại ở đó mà tiếp tục phát triển theo sự phát triển
12
của sinh hoạt vật chất. Từ khi xã hội diễn ra sự phân công lao động, giai cấp
bắt đầu xuất hiện thì toàn bộ sinh hoạt xã hội của con người, bao gồm cả sinh
hoạt tinh thần dần trở nên phức tạp. Nhà nước, pháp luật ra đời, các hình thái
ý thức xã hội khác bắt đầu nảy sinh và phát triển, triết học xuất hiện. Và cứ
như vậy, cho đến nay, đời sống tinh thần và ý thức xã hội phát triển tương ứng
với sự phát triển của đời sống vật chất của xã hội. Vì vậy, chủ nghĩa duy
vật lịch sử cho rằng, ý thức xã hội, hệ tư tưởng của xã hội là do sự phát triển
của sản xuất, do hoạt động sản xuất của xã hội quyết định, dù không phải là
quyết định trực tiếp mà thông qua quan hệ sản xuất.
Tuy nhiên cũng có sự khác biệt giữa phạm trù tinh thần và phạm trù ý
thức xét trên góc độ nhận thức luận và về mặt kết cấu. Trên góc độ nhận thức
luận, có tác giả cho rằng tinh thần và ý thức khác nhau ở chỗ: tinh thần là cái
giống như ý thức được tồn tại trong đầu óc con người, nhưng nó còn được
hiện thực hoá, vật chất hoá. Đặc biệt, tinh thần còn để lại dấu vết trong những
mối quan hệ xã hội. Còn ý thức là cái đối lập với vật chất. Vì vậy, khi định
nghĩa phạm trù vật chất, V.I. Lênin đã dùng phương pháp đặc biệt - phương
pháp đem đối lập vật chất với ý thức. Chính vì vậy, khác với ý thức, trong mối
quan hệ với vật chất, tinh thần vừa là chủ thể, vừa là khách thể (vừa là cái
phản ánh vật chất, vừa là đối tượng của phản ánh vật chất).
Xét về kết cấu cụ thể thì phạm trù đời sống tinh thần rộng hơn phạm trù
ý thức xã hội. Bởi vì phạm trù đời sống tinh thần còn bao gồm cả những hoạt
động tinh thần và những quan hệ tinh thần phong phú của xã hội. Do đó, nếu cho
rằng ý thức xã hội là mặt tinh thần của xã hội thì có thể dẫn đến cách hiểu là
đồng nhất ý thức xã hội với đời sống tinh thần xã hội. Vì vậy, theo chúng tôi: Ý
thức xã hội là một khái niệm thuộc lĩnh vực tinh thần của xã hội, bao gồm những
quan điểm, tư tưởng, học thuyết, lý thuyết, những tình cảm, tâm trạng, tâm lý,
truyền thống, tập quán… nảy sinh từ tồn tại xã hội và phản ánh tồn tại xã hội
trong những giai đoạn lịch sử nhất định. Cách hiểu nội dung khái
13
niệm như vậy vừa nói lên được nguồn gốc của ý thức xã hội là bắt nguồn từ
tồn tại xã hội, vừa khẳng định được bản chất của nó là phản ánh tồn tại xã hội.
1.1.2. Bản chấtcủa ý thức xã hội
Chủ nghĩa duy vật lịch sử chỉ rõ rằng, tồn tại xã hội quyết định ý thức
xã hội, ý thức xã hội là sự phản ánh của tồn tại xã hội, phụ thuộc vào tồn tại
xã hội. Mỗi khi tồn tại xã hội, nhất là phương thức sản xuất biến đổi thì những
tư tưởng và lý luận xã hội, quan điểm về chính trị, pháp quyền, triết học, đạo
đức, văn hoá, nghệ thuật… sớm muộn cũng biến đổi theo.
Ý thức xã hội là sự phản ánh tồn tại xã hội dưới những dạng thức như:
nhận thức (lý luận hay kinh nghiệm), tình cảm, tâm trạng, truyền thống v.v..
Các tác gia kinh điển của chủ nghĩa Mác đã đưa ra luận chứng khoa học rằng,
con người tạo ra tư tưởng và quan niệm của mình, nhưng không phải tạo ra
một cách tuỳ ý mà theo hình mẫu của các mối quan hệ hiện thực: “Ý thức
không bao giờ có thể là cái gì hơn là tồn tại được ý thức và tồn tại của con
người là quá trình sinh sống của con người” [42; 37].
Tuy nhiên, cũng cần phải nhận thấy rằng, ý thức xã hội không hình
thành sau khi tồn tại xã hội đã hình thành một thời gian, mà hình thành đồng
thời trong sự thống nhất với tồn tại xã hội. Chính vì xã hội, như chúng ta đã
biết là một thực tại chủ thể - khách thể, nên tồn tại xã hội và ý thức xã hội tựa
hồ “chồng’ vào nhau: thiếu năng lượng của ý thức xã hội thì tồn tại xã hội bất
động, thậm chí chết cứng. Ngay cả quá trình sản xuất vật chất - nền tảng của
tồn tại xã hội - tại một thời điểm, tồn tại độc lập với ý thức và quyết định ý
thức - cũng chỉ thoát khỏi quyền lực của ý thức một cách tương đối. Ở đây, ý
thức xã hội được thực hiện trong hai nguyên thể: năng lực phản ánh và năng
lực sáng tạo tích cực. Bản chất của ý thức xã hội lại chính là ở chỗ: nó chỉ có
thể phản ánh tồn tại xã hội trong điều kiện đồng thời cải tạo tồn tại ấy một
cách tích cực, sáng tạo. Lịch sử đã nhiều lần chứng minh rằng, tư tưởng, nhất
là tư tưởng chính trị - xã hội, có thể đi trước trạng thái hiện có của xã hội và
14
thậm chí cải tạo nó. Xã hội là một thực tại vật chất - tư tưởng. Tổng thể những
quan niệm khái quát, tư tưởng, lý luận, tình cảm, phong tục, truyền thống,…
tức là những cái hợp thành nội dung của ý thức xã hội và tạo thành thực tại
tinh thần lại là bộ phận hợp thành của tồn tại xã hội, bởi vì nó được đem lại
cho ý thức cá nhân riêng rẽ.
Nhưng khi nhấn mạnh tính thống nhất của tồn tại xã hội và ý thức xã
hội, không được bỏ qua tính khác biệt, tính độc lập tương đối của chúng.
Trong lịch sử, mối liên hệ lẫn nhau giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội trong
tính độc lập tương đối của chúng được thể hiện như sau: nếu như trong giai
đoạn đầu của sự phát triển xã hội, ý thức xã hội được hình thành dưới tác
động trực tiếp của tồn tại xã hội, thì về sau tác động này ngày càng mang tính
gián tiếp - thông qua nhà nước, các quan hệ chính trị, pháp quyền. Ngược lại,
ý thức xã hội tác động đến tồn tại xã hội một cách trực tiếp. Chính khả năng
của ý thức xã hội tác động trực tiếp như vậy đến tồn tại xã hội nằm trong năng
lực của ý thức phản ánh đúng tồn tại.
Như vậy, với tư cách là sự phản ánh và hoạt động tích cực - sáng tạo, ý
thức xã hội là thể thống nhất hai mặt không tách rời của cùng một quá trình:
khi ảnh hưởng đến tồn tại xã hội, ý thức xã hội có thể đánh giá, vạch ra ý
nghĩa ẩn giấu của tồn tại xã hội, dự báo, cũng có thể cải tạo tồn tại xã hội
thông qua hoạt động thực tiễn của con người. Vì vậy, ý thức xã hội của thời
đại không những có thể phản ánh tồn tại xã hội, mà còn có thể tích cực tạo
điều kiện cải tổ nó. Chức năng đó đã hình thành trong lịch sử của ý thức xã
hội, khiến cho ý thức xã hội trở thành một yếu tố tất yếu khách quan và tồn tại
thật sự trong bất kỳ cơ cấu xã hội nào.
1.1.3. Cáccấp độ của ý thức xã hội
Chúng ta có thể tiếp cận ý thức xã hội dưới nhiều góc độ khác nhau. Có
thể xem ý thức xã hội gắn với các hình thái ý thức xã hội, cũng có thể tiếp cận
15
ý thức xã hội dưới góc độ chủ thể mang ý thức để phân tíchý thức xã hội của
các nhóm, tập đoàn, giai cấp trong xã hội.
Nói chung, ý thức xã hội thường được phân chia theo chiều dọc thành
những cấp độ và theo chiều ngang thành các hình thái ý thức xã hội.
Ở đây, chúng ta có thể phân chia ý thức xã hội theo chiều dọc thành các
cấp độ: ý thức đời thường, ý thức lý luận, tâm lý xã hội và hệ tư tưởng xã
hội... Mỗi cấp độ phản ánh tồn tại xã hội một cách khác nhau.
Ýthức đời thường và ý thức lý luận:
Ýthức đời thường: là những hiểu biết về xã hội, những quan niệm sống
của con người được hình thành một cách trực tiếp từ cuộc sống xã hội, đáp
ứng yêu cầu thực tiễn hằng ngày của con người
Ý thức đời thường phản ánh sinh động, trực tiếp nhiều mặt của cuộc
sống. Những tri thức kinh nghiệm phong phú là tiền đề quan trọng cho sự
hình thành các lý thuyết khoa học.
Ýthức lý luận: là những tư tưởng, quan điểm xã hội mang tính hệ thống
hoá, được xây dựng nên bởi tư duy lý luận và được diễn tả dưới dạng hệ
thống các khái niệm khoa học, các học thuyết xã hội.
Ý thức lý luận có khả năng phản ánh hiện thực khách quan một cách
khái quát, sâu sắc và chính xác, vạch ra các mối liên hệ bản chất của các sự
vật và hiện tượng. Chính vì vậy, ý thức lý luận là nhân tố chủ yếu thể hiện
tính vượt trước của ý thức xã hội. Vai trò sáng tạo tích cực của ý thức lý luận
ngày càng tăng trong xã hội hiện đại.
So với các hình thái ý thức lý luận thì ý thức đời thường gần hơn với
hiện thực trực tiếp của đời sống. Vì vậy, nó phản ánh đầy đủ hơn đặc điểm
của toàn cảnh với tất cả những chi tiết cụ thể và sắc thái ý nghĩa của nó. Kinh
nghiệm của ý thức đời thường là kho tàng trong đó các khoa học cụ thể, triết
học và nghệ thuật tìm kiếm nội dung của mình. Như vậy, ý thức đời thường là
hình thái đầu tiên mà xã hội hiểu biết thế giới tự nhiên và xã hội, hình thái đó
có tính quy định khách quan ngay trong bản tính con người. Trong lịch sử, ý
16
thức đời thường có biến đổi về chất. Chẳng hạn, trong thời trung cổ, nếu ý
thức đời thường xa lạ những quan điểm khoa học, thì trong xã hội hiện đại, ý
thức thực tiễn - đời thường đã không còn là sự phản ánh thế giới mang tính
tôn giáo - huyền thoại ngây thơ nữa, ngược lại, nó chứa đựng những tri thức
khoa học, đồng thời khái quát các tri thức này thành hệ thống, nhờ vào những
phương tiện riêng của nó mà không thể quy thành những phương tiện khoa
học được.
Tâm lý xã hội và hệ tư tưởng xã hội
Tâm lý xã hội: là bộ phận của ý thức thông thường, bao gồm toàn bộ
những tình cảm, tâm trạng, ước muốn, thói quen, tập quán… của con người
được hình thành một cách tự phát dưới ảnh hưởng trực tiếp của điều kiện sinh
sống hằng ngày.
Tâm lý xã hội là hiện tượng phong phú, đa dạng phức tạp không những
vì được hình thành tự phát do điều kiện sinh sống và hoạt động trực tiếp hàng
ngày chi phối mà còn vì tính phức tạp và tinh tế của tâm lý con người. Tâm lý
xã hội thuộc lĩnh vực của con người nên tính dễ “lây lan” là một trong những
đặc trưng của nó. Yếu tố xúc cảm tâm lý làm cho tâm lý xã hội có tác dụng
kích thích hoạt động của con người một cách nhanh chóng. Vì vậy, sự hiểu
biết kịp thời và đúng đắn tâm trạng xã hội của quần chúng là một yêu cầu rất
quan trọng trong công tác vận động cách mạng, trong hoạt động quản lý và
lãnh đạo xã hội nói chung, trong công tác tư tưởng nói riêng. Một tư tưởng xã
hội chỉ trở thành sức mạnh hiện thực trong thực tiễn khi nó kết hợp với yếu tố
tâm lý trong ý thức con người và sức mạnh đó chỉ trở nên lâu bền khi nó đi
vào tập quán của xã hội.
Hệ tư tưởng xã hội: là những quan điểm, tư tưởng đã được hệ thống
hoá, khái quát hoá thành lý luận, thành các học thuyết chính trị - xã hội, phản
ánh lợi ích của một giai cấp nhất định.
Hệ tư tưởng ở cấp độ lý luận của ý thức nhưng không bao hàm toàn bộ
ý thức lý luận. Với tư cách là ý thức lý luận, hệ tư tưởng không phản ánh lý
17
luận một cách trực tiếp, toàn vẹn mà phản ánh gián tiếp bằng các công cụ khái
niệm, phạm trù của mình. Với tư cách là sản phẩm ý thức của một tập đoàn,
một giai cấp, hệ tư tưởng chứng minh và bảo vệ cho lợi ích của tập đoàn xã
hội, của giai cấp đó. Hệ tư tưởng hình thành một cách tự giác, trải qua quá
trình hoạt động tích cực của tư duy và mang tính giai cấp sâu sắc. Hệ tư tưởng
của giai cấp thống trị giữ vị trí là hệ tư tưởng thống trị xã hội, khi hệ tư tưởng
của các giai cấp thống trị đã lỗi thời, các giai cấp bị trị không chấp nhận hệ tư
tưởng của giai cấp thống trị. Do vậy, trong đấu tranh giai cấp, bao giờ cũng có
đấu tranh tư tưởng, đấu tranh ý thức hệ.
Trong tương quan giữa cấp độ đời thường và cấp độ lý luận của ý thức,
tâm lý xã hội giống như một bộ phận ở cấp độ đời thường của ý thức, trong đó
xuất hiện những quan điểm và sự đánh giá đa dạng, khoa học và không khoa
học, những thị hiếu và tư tưởng thẩm mỹ, những phong tục và truyền thống…
Hệ tư tưởng giống như cấp độ lý luận của ý thức, trong đó đưa ra sự đánh giá
một cách có hệ thống về hiện thực xã hội trên lập trường của một giai cấp,
nêu ra nhiệm vụ và mục đích chính trị - xã hội của họ, xây dựng hệ thống
những tư tưởng về quyền uy. Thuộc tính căn bản của hệ tư tưởng - với tư cách
là một hình thái lý luận đặc thù của ý thức - là phản ánh hiện thực không trực
tiếp - toàn vẹn như tâm lý xã hội, mà gián tiếp bằng những công cụ phạm trù
của mình.
Tâm lý xã hội và hệ tư tưởng xã hội tuy là hai trình độ, hai phương thức
phản ánh khác nhau của ý thức xã hội, nhưng chúng có mối liên hệ tác động
qua lại với nhau. Chúng có cùng một nguồn gốc là tồn tại xã hội, đều phản
ánh tồn tại xã hội. Tâm lý xã hội tạo điều kiện thuận lợi hoặc gây cản trở cho
sự hình thành, sự truyền bá, sự tiếp thu của con người đối với một hệ tư tưởng
nhất định.
1.2. Ý thức xã hội Việt Nam truyền thống
1.2.1. Khái niệm ý thức xã hội Việt Nam truyền thống
18
Ý thức xã hội Việt Nam truyền thống được hình thành trong quá trình
phát triển lâu dài của dân tộc, thấm sâu vào mọi lĩnh vực đời sống tinh thần
của dân tộc và được thể hiện trong nhận thức của mỗi người khi tham gia vào
hoạt động xã hội với tư cách là thành viên của cộng đồng dân tộc Việt Nam.
Cộng đồng Việt Nam được hình thành cách đây hàng nghìn năm. Thời
điểm hình thành dân tộc Việt Nam là vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu. Tuy
nhiên, hầu hết các nhà nghiên cứu cho rằng, dân tộc Việt Nam cũng như đa số
các dân tộc phương Đông khác như Trung Hoa, Nhật Bản, Triều tiên… được
hình thành từ rất sớm. Việt Nam được biết đến như cái nôi văn minh của loài
người và cũng được coi là một trong những trung tâm phát sinh nông nghiệp
sớm với nền văn minh lúa nước, nơi đã từng trải qua các cuộc cách mạng đồ
đá mới và cách mạng luyện kim. Trên nền tảng phát triển kinh tế - xã hội thời
Đông Sơn, trước những đòi hỏi của công cuộc trị thủy và chống xâm lăng,
nhà nước Văn Lang - nhà nước đầu tiên - đã ra đời vào khoảng thế kỷ thứ VII
trước Công nguyên. Bằng sức lao động cần cù, sáng tạo, cư dân Văn Lang,
(sau đó là Âu Lạc) đã tạo dựng nên một nền văn minh tỏa sáng khắp vùng
Đông Nam Á. Đi cùng với Nhà nước đầu tiên của lịch sử Việt Nam là một
nền kinh tế phong phú, một nền văn hóa cao mà mọi người biết đến với tên
gọi là văn minh Sông Hồng (còn gọi là văn minh Đông Sơn) với biểu tượng là
trống đồng Đông Sơn - thể hiện sự kết tinh lối sống, truyền thống và văn hóa
của người Việt cổ.
Vừa dựng nước, người Việt đã phải liên tiếp đương đầu với sự xâm
lăng của các thế lực bên ngoài. Độ dài thời gian và tần suất các cuộc kháng
chiến, khởi nghĩa và chiến tranh giải phóng dân tộc ở Việt Nam rất lớn. Kể từ
cuộc kháng chiến chống Tần (thế kỷ III trước Công nguyên) đến cuối thế kỷ
XX, đã có tới 12 thế kỷ Việt Nam phải tiến hành hàng trăm cuộc chiến tranh
giữ nước, khởi nghĩa và chiến tranh giải phóng dân tộc. Cuộc sống lao động
gian khổ đã tạo ra truyền thống lao động cần cù, sáng tạo; yêu cầu phải liên
19
kết lại để đấu tranh với những khó khăn, thách thức đã tạo ra sự gắn bó giữa con
người với thiên nhiên, giữa con người với nhau trong mối quan hệ gia đình, láng
giềng, dòng họ của người Việt cũng như trong cộng đồng nhà - làng - nước - dân
tộc. Lịch sử cũng cho con người Việt Nam truyền thống yêu nước, tương thân
tương ái, sống có đạo lý, nhân nghĩa; khi gặp hoạn nạn thì đồng cam cộng khổ,
cả nước một lòng; tính thích nghi và hội nhập; lối ứng xử mềm mỏng và truyền
thống hiếu học, trọng nghĩa, khoan dung. Đây chính là sức mạnh tiềm tàng, là
nội lực vô tận cho công cuộc xây dựng đất nước Việt Nam vì mục tiêu dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh hiện nay.
Ý thức xã hội Việt Nam truyền thống hình thành cùng với lịch sử dựng
nước và giữ nước của dân tộc. Có thể định nghĩa về ý thức xã hội Việt Nam
truyền thống như sau: Ý thức xã hội Việt Nam truyền thống là tổng hoà những
quan niệm, tư tưởng, lý luận cùng những tình cảm, ước muốn, tâm trạng, truyền
thống... của dân tộc Việt Nam, phản ánh điều kiện kinh tế, chính trị, lịch sử, đạo
đức, thẩm mỹ của dân tộc ta trong những giai đoạn lịch sử đã qua.
1.2.2. Cơsở hình thành của ý thức xã hội Việt Nam truyền thống
Chúng ta biết rằng, ý thức xã hội phản ánh tồn tại xã hội. Ý thức xã hội
của một dân tộc (cả về phương diện tâm lý và hệ tư tưởng xã hội) do đời sống
vật chất và điều kiện sinh hoạt vật chất của dân tộc đó quyết định. Ý thức xã
hội Việt Nam truyền thống là sự tổng hợp của các yếu tố: địa tự nhiên, địa
kinh tế, địa chính trị và địa văn hoá… của dân tộc Việt Nam.
Địa tự nhiên:
Việt Nam nằm trong khu vực địa lý được thiên nhiên và khí hậu dành
cho sự sưu đãi đặc biệt. Những vùng đồi núi và trung du trải dài, đất đai đa
dạng; những vùng đồng bằng màu mỡ với sự bồi đắp phù sa từ những con
sông lớn, tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển nghề nông nghiệp trồng
lúa nước từ rất sớm với văn hoá Hòa Bình và văn hoá Bắc Sơn. Bờ biển kéo
dài tạo điều kiện cho ngư dân phát triển nghề làm muối, đánh bắt tôm cá và
20
hải sản. Những dãy núi cao không chỉ là những cảnh đẹp hung vĩ mà bên
trong còn chứa đựng biết bao bí ẩn của thiên nhiên. Khí hậu của Việt Nam là
nhiệt đới, gió mùa, nóng ẩm, mưa nhiều, tạo điều kiện cho sự phát triển thảm
thực vật dày quanh năm, tạo nên sự đa dạng sinh thái.
Tuy nhiên, thiên nhiên nơi đây cũng ẩn chứa nhiều đe doạ sự tồn tại và
thử thách sức sống của con người Việt Nam. Vùng núi cao luôn là nơi “rừng
thiêng nước độc”, chứa đựng nhiều cạm bẫy và thú dữ. Biển cả và bão làm
đắm bao thuyền bè, cướp đi sinh mạng của biết bao ngư dân chài lưới. Thuỷ
triều ở những con sông lớn luôn là mối đe doạ đối với những người làm nông
nghiệp. Hằng năm, nước dâng cao phá vỡ đê, cuốn đi tất cả những thành quả
lao động của người nông dân. Khí hậu cũng luôn thất thường, khi thì mưa kéo
dài, xói mòn hết đồng ruộng; khi thì hạn hán nắng như đổ lửa, thiêu cháy
đồng ruộng, hoa màu và cây cỏ. Biết bao nhiêu loại dịch bệnh phát sinh, phá
hoại mùa màng, gây cản trở cho quá trình sản xuất.
Thiên nhiên đã buộc con người Việt Nam phải thích ứng với những ưu
đãi và sự khắc nghiệt của nó. Cứ mỗi lần sông Hồng dâng nước lên cao, thì
con người lại đắp đê cao hơn nữa từ đời này qua đời khác. Sử cũ chép lại năm
1100 đắp đê bên sông ở phường Cơ Xá (Thọ Xương - Hà Nội). Năm1248,
triều đình ra lệnh cho các lộ đắp đê từ đầu nguồn ra đến bờ biển để phòng
ngừa nước sông tràn ngập. Cùng với việc đắp đê, Sử cũ chép về nạn thuỷ tai:
năm 1243 có nước lớn, vỡ thành Đại La, năm 1245 vỡ đê Long Đàm, năm
1265 vỡ đê phường Cơ Xá khiến nhiều người và súc vật chết đuối, năm 1352
nước to vỡ đê Bát Tràng, Thổ Khối (Bắc Ninh), Khoái Châu (Hưng Yên),
Hồng Châu (Hải Dương)… cứ thế kéo dài hàng chục thế kỷ. Những công việc
đắp đập, làm mương, làm thuỷ lợi, khai hoang, lấn biển, đắp đê, phòng chống
bão lụt yêu cầu phải có sự chung sức, chung lòng của các thành viên trong
cộng đồng người Việt, từ đó làm nảy sinh những đức tính tốt như tinh thần
đoàn kết, ý thức quốc gia, cộng đồng sớm hình thành. Mặt khác, có thể làm
21
nảy sinh nhiều tư tưởng tiêu cực, đó là lối tư duy coi trọng kinh nghiệm, mê
tín dị đoan vì con người thấy mình quá nhỏ bé, bất lực trước sức mạnh vô
cùng to lớn của tự nhiên.
Địa kinh tế:
Căn cứ vào các tài liệu khảo cổ học, nhiều nhà nghiên cứu Việt Nam và
thế giới đã chứng minh một cách khá thuyết phục là Việt Nam được nhìn
nhận như một trong những cái nôi đầu tiên của lịch sử văn minh loài người
với tên gọi “văn minh lúa nước”.
Có thể thấy, ngay từ cuối thời kỳ nguyên thuỷ, con người Việt Nam đã
thực sự mở đầu công cuộc cải tạo tự nhiên với cây lúa bằng lao động sáng tạo
của mình từ nền kinh tế thu lượm chuyển sang nền kinh tế trồng trọt, sản xuất
và dự phòng. Sự ra đời của nhà nước Văn Lang đã đánh dấu một bước phát
triển mạnh mẽ có ý nghĩa thời đại trong lịch sử Việt Nam, đồng thời định hình
xây dựng nền văn minh sông Hồng lấy nông nghiệp trồng lúa nước và tổ chức
xóm làng làm cơ sở. Đời sống tinh thần của các cư dân Văn Lang thời kỳ này
cũng khá phong phú, đa dạng được thể hiện qua những nghi lễ sinh hoạt, qua
các phong tục, tập quán như thờ cúng tổ tiên, thờ các vị anh hùng, thủ lĩnh
nhằm khẳng định nguồn gốc, đề cao và biết ơn những người có công với cộng
đồng, dân tộc.
Nền kinh tế sản xuất nông nghiệp lúa nước là đặc thù riêng của dân tộc
Việt, là nền tảng tạo nên phương thức sản xuất châu Á ở Việt Nam. Từ khi
dựng nước cho đến thời kỳ Bắc thuộc và sau này là các triều đại phong kiến
độc lập, đời nào cũng xem trọng sản xuất nông nghiệp theo tôn chỉ “dĩ nông
vi bản”. Đặc trưng của phương thức sản xuất châu Á ở nước ta là đất đai từ
xưa đều thuộc quyền sở hữu của nhà nước, đứng đầu là ông vua. Nhà vua như
một “đại địa chủ” có quyền tối thượng về phân bố và sử dụng đất đai. Nhân
dân chỉ là người canh tác trên đất của nhà vua như người làm thuê và có nghĩa
vụ nộp thuế. Tuy nhiên, về hình thức, trong vấn đề ruộng đất, mọi quyền hành
22
về đất đai đều nằm trong tay nhà vua, nhưng thực chất là nhà vua đã uỷ quyền
cho triều đình, làng xã hoặc các tổ chức xã hội khác được quyền hưởng dụng,
tức là vẫn dưới hình thức công điền, công thổ trong sự quản lý của bộ máy
quan liêu. Đó chính là tàn dư của chế độ công xã nguyên thuỷ còn bảo lưu
trong xã hội. Do những điều kiện lịch sử riêng biệt mà chế độ ruộng công đã
được duy trì rất lâu, cho đến tận trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945.
Chính trên cơ sở chế độ sở hữu công xã ấy mà các phong tục, tập quán, lối tư
duy, ý thức của người Việt đã được định hình.
Địa chính trị:
Bên cạnh những đặc điểm của nền sản xuất nông nghiệp lúa nước, cách
thức tổ chức xã hội theo kiểu cộng đồng làng xã cũng được các học giả nhìn
nhận như là một nhân tố cơ bản góp phần hình thành nên những giá trị đặc thù
của cộng đồng người Việt.
Chúng ta đều biết rằng, cuộc sống nông nghiệp phụ thuộc vào thiên
nhiên, vì vậy, người nông dân phải liên kết với nhau, dựa vào nhau mà tồn tại.
Lịch sử cho thấy, việc tổ chức làng xã theo địa bàn cư trú là một sự phát triển
mới trong việc tổ chức xã hội, đặc biệt là khi công xã thị tộc tan rã và chuyển
thành công xã nông thôn thì các thành viên của làng không chỉ gắn bó với
nhau bằng các quan hệ máu mủ, họ hàng ruột thịt mà còn bằng những quan hệ
sản xuất, tổ chức xã hội và văn hoá.
Nhìn chung, làng Việt Nam chủ yếu vẫn dựa trên sản xuất nông nghiệp
là chính dù có tồn tại một số mô hình làng nghề, làng chài, làng học hay làng
buôn trong lịch sử… Về phương diện tổ chức, hình mẫu lý tưởng của các làng
Việt Nam truyền thống đều là tự trị về chính trị, tự cung, tự cấp về kinh tế,
đồng thuận về xã hội và các giá trị văn hoá. Trong đó, hai đặc tính đặc trưng
của làng xã Việt Nam được các học giả khái quát đó là tính cộng đồng và tính
tự trị.
23
Tính cộng đồng của làng Việt được biểu hiện trong mọi mối quan hệ
của công xã nông thôn, từ lao động, sản xuất cho đến đời sống tinh thần. Để
ứng phó với môi trường tự nhiên khắc nghiệt, khai thác và cải tạo tự nhiên,
đáp ứng nhu cầu của nghề trồng lúa nước, người dân Việt Nam đã liên kết lại
với nhau tạo nên sức mạnh của nhân lực số đông, trao đổi công cho nhau,
tương trợ, giúp đỡ nhau trong quá trình lao động. Điều này đã giúp hình thành
văn hoá cộng đồng trong người Việt. Biểu tượng của tính cộng đồng đã ăn sâu
vào gốc rễ, giá trị của làng Việt qua những hình tượng chung được dân làng
tôn thờ như cây đa, bến nước, cổng làng, đình làng…
Bên cạnh tính cộng đồng được khẳng định rõ trong các qua hệ nội bộ
của làng, tính tự trị cũng là biểu hiện đặc thù của mỗi làng, phân biệt giữa
làng này với làng khác. Có thể thấy, sau luỹ tre làng, biểu tượng cố kết của
nông thôn truyền thống, mỗi làng Việt là sự tồn tại tương đối biệt lập, một
tiểu vương quốc với đầy đủ công cụ quản lý và các vấn đề nội tại, phức tạp
của nó. Làng không chỉ chi phối đời sống vật chất mà còn định hướng đời
sống tinh thần của các thành viên trong cộng đồng làng. Vì vậy, các cụ ta
thường có câu “phép vua thua lệ làng”. Trên thực tế, vi phạm “phép vua” thì
sẽ bị xử lý ở mức độ pháp luật, trong khi một cá nhân vi phạm “lệ làng” thì sẽ
bị xử lý rất nặng, ngoài yếu tố pháp luật, còn có thể là dư luận, văn hoá và đạo
đức. Thậm chí hành vi sai lệch so với chuẩn mực làng, có thể khiến một cá
nhân bị loại bỏ khỏi cộng đồng, điều đáng sợ nhất trong suy nghĩ và hành
động của người Việt.
Về mặt cơ chế và luật pháp, ngay trong những thời kỳ đầu, tính tự quản
của làng Việt cũng được xác lập một cách khá độc đáo qua hệ thống các văn
bản hương ước. Hương ước là hệ thống các quy định về tổ chức của làng xoay
quanh hoạt động sản xuất và đời sống sinh hoạt, trong đó cũng bao hàm
những giáo huấn về thuần phong mỹ tục của làng. Hương ước được xây dựng
24
trên cơ sở các mối quan hệ giữa các thành viên trong làng, gắn với những điều
kiện địa lý, văn hoá, lịch sử đặc thù.
Với những đặc trưng tồn tại như một cơ cấu tự trị và bền vững, xuyên
suốt chiều dài lịch sử, bất kỳ một cá nhân, gia đình người Việt nào dường như
luôn bị hấp thụ và bị chi phối, dẫn dắt từ hành vi cho tới giá trị truyền thống
làng xã. Truyền thống làng xã vừa vô hình, vừa hữu hình, ảnh hưởng, chi
phối, ràng buộc mọi người bằng những điều luật hoặc là thành văn, hoặc là
bất thành văn mà mọi người đều phải tôn trọng và tuân thủ. Chính vì vậy,
cách thức tổ chức xã hội theo kiểu cộng đồng làng xã đã ảnh hưởng đến sự
hình thành ý thức dân tộc trên cả hai phương diện: tích cực và tiêu cực.
Cùng với mô hình tổ chức xã hội theo kiểu cộng đồng làng xã, lịch sử
đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc ta cũng là một trong những yếu
tố góp phần hình thành nên ý thức của cộng đồng người Việt. Từ xưa tới nay,
lịch sử đất nước ta dường như là một chuỗi dài những cuộc đấu tranh chống
giặc ngoại xâm. Ngay từ khi lập quốc đến khoảng thế kỷ thứ III trước Công
nguyên, nhà nước Văn Lang đã phải đứng trước nguy cơ xâm lược của nhà
Tần. Từ năm 179 trước Công nguyên đến năm 938, nước ta tiếp tục nằm dưới
sự đô hộ của phong kiến phương Bắc (tổng cộng 1.117 năm). Đây là thời kỳ
đầy máu và nước mắt nhưng cũng là thời kỳ biểu hiện sức mạnh quật cường
cũng như sự vươn lên thần kì của dân tộc ta và được kết thúc bằng chiến
thắng Bạch Đằng. Tiếp sau thời kỳ này là hàng loạt các cuộc kháng chiến
chống quân Tống, quân Nguyên - Mông, quân Minh và quân Thanh… Gần
đây là hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Trong các
cuộc chiến tranh tàn khốc ấy, ý thức cộng đồng và tinh thần yêu nước được
thể hiện ở tinh thần dám xả thân vì nước, sẵn sàng đặt lợi ích quốc gia, dân
tộc lên trên lợi ích riêng tư của bản thân mình. Biết bao con người của dân tộc
đã hiến dâng tuổi thanh xuân của mình cho đất nước và đã anh dũng hy sinh
nơi chiến trường. Biết bao người vợ, người mẹ đã tiễn chồng, tiễn con ra mặt
25
trận mà không bao giờ còn được đón họ trở về. Như vậy, tinh thần yêu nước
và ý thức cộng đồng đã được hun đúc từ chính lịch sử đau thương nhưng cũng
rất đỗi hào hùng của dân tộc và nó đã ngấm sâu vào tình cảm, tư tưởng của
mỗi người dân Việt Nam qua các thời đại, tạo nên một sức mạnh kỳ diệu làm
cho dân tộc ta đánh thắng hết kẻ thù này đến kẻ thù khác. Ở đây có một mối
quan hệ hết sức biện chứng đó là do phải gồng mình để vượt qua những thử
thách của thiên nhiên và giặc ngoại xâm mà những giá trị truyền thống đó đã
được hình thành, mặt khác khi nhứng giá trị đó đã được hình thành, chúng lại
trở thành động lực, sức mạnh, thành cốt cách, linh hồn, bản sắc của con người
Việt Nam. Đó là những di sản quý giá mà chúng ta không thể đánh mất.
Địa văn hoá:
Trên nền tảng một nền văn hoá bản địa có đặc sắc, có cá tính của mình,
cùng với vị trí địa lý thuận lợi (nằm trên ngã tư đường của các nền văn hoá,
văn minh), nhân dân Việt Nam đã biết mở hồn mình để đón nhận, tiếp thu tinh
hoa văn hoá của nhân loại, bao gồm cả văn hoá phương Đông và văn hoá
phương Tây.
Trước hết là văn hoá phương Đông, chủ yếu là văn hoá Trung Quốc và
văn hoá Ấn Độ, mà cốt lõi là Nho giáo, Phật giáo và Đạo giáo.
Nho giáo được truyền vào nước ta từ thời Bắc thuộc, nhưng bởi những
quy định chặt chẽ, cực đoan của chính quyền phong kiến Trung Quốc đô hộ, mặt
khác lại được sử dụng như một công cụ và vũ khí để áp bức, đồng hoá nhân dân
ta, nên ở thời kỳ này, Nho giáo phát triển chậm chạp, khó khăn và không được
người Việt chấp nhận. Khi giành được độc lập, từ thế kỷ X trở đi, Nho giáo đã
được nhìn nhận dưới một góc độ khác. Các triều đình phong kiến đã nhìn thấy
được những ưu điểm nổi bật của Nho giáo trong việc duy trì, quản lý xã hội và
xây dựng kỷ cương đất nước. Chính vì vậy, Nho giáo đã có cơ hội phát triển và
trở thành quốc giáo một thời gian dài trong lịch sử dân tộc.
26
Năm 1070, với sự kiện Lý Thánh Tông cho lập Văn Miếu thờ Chu
Công và Khổng Tử đã đánh dấu một cách chính thức sự tồn tại của Nho giáo
như một hệ tư tưởng thống trị, làm nền tảng cho mọi chính sách của nhà nước
phong kiến. Nho giáo độc tôn và trở thành tư tưởng chính thống dưới triều Lê.
Nhìn chung, Nho giáo hướng tới việc dùng đạo đức để ổn định xã hội, tuy
nhiên, Nho giáo du nhập vào Việt Nam đã mang một sắc thái khác. Nét độc
đáo của Văn hoá Việt Nam là khi tiếp nhận văn hoá bên ngoài, thường cải
biến cho phù hợp với hoàn cảnh, điều kiện lịch sử của dân tộc, hay nói cách
khác là cấu tạo lại theo cách riêng của mình. Chẳng hạn, chữ “nhân” trong
Nho giáo được hiểu theo nghĩa cứng nhắc, đòi hỏi muốn có nhân phải thực
hiện thông qua lễ, nghĩa, chính danh. Tuy nhiên, nền nông nghiệp lúa nước đã
hình thành ở người Việt lối tư duy trọng tình. Người Việt tâm đắc chữ “nhân”
trong Nho giáo nhưng nhân được hiểu giản dị là lòng thương người và hy sinh
vì mọi người. Ngay cả nhà nho nổi tiếng như Nguyễn Du cũng hiểu nhân một
cách thực sự giản dị và đời thường, như trường hợp ông nói đến suy nghĩ và
hành động của nàng Kiều:
“Bán mình là hiếu, cứu người là nhân”
Tư tưởng “trung quân” của Nho giáo biểu hiện sự trung thành tuyệt đối
với vua, thậm chí đó có thể là một ông vua bạo chúa. Ở nước ta, tư tưởng yêu
nước và tinh thần dân tộc là hệ tự tưởng xuyên suốt, đồng hành cùng dân tộc
qua những thăng trầm của lịch sử. Người Việt tiếp nhận tư tưởng “trung
quân” theo tinh thần “ái quốc”, “vị quốc”.
Như vậy, với tư cách là một học thuyết chính trị - xã hội luôn lấy đức
làm trọng, là công cụ quản lý xã hội của giai cấp thống trị Trung Quốc với rất
nhiều giáo lý phù hợp với Việt Nam, Nho giáo đã từng bước được giai cấp
thống trị Việt Nam tiếp nhận và đề cao, đặc biệt là trong quản lý đất nước.
Bằng ảnh hưởng của giai cấp thống trị, Nho giáo đã ăn sâu vào tâm lý người
Việt. Mặc dù còn có những quan niệm tiêu cực như: tâm lý thủ cựu, trọng
27
nam khinh nữ, phân biệt đẳng cấp,… nhưng với chủ chương nhập thế rất cao
cùng với nhiều yếu tố tích cực, đó là việc đề cao chữ nhân, lòng thương
người,… đã có tác động mạnh mẽ đến ý thức dân tộc.
Với tư tưởng từ bi bác ái, Phật giáo của nền văn hoá Ấn Độ đã dễ dàng
thâm nhập vào Việt Nam từ rất sớm (khoảng thế kỷ thứ II sau Công nguyên).
Các giáo lý của phật giáo cùng với việc các nhà sư sống hoà đồng với nhân
dân đã tạo nên sự gần gũi giữa Phật giáo và người dân. Bởi lẽ, người Việt
Nam từng chịu đau thương, mất mát qua các cuộc chiến tranh, sống lam lũ,
khổ cực và thường xuyên phải chống chọi với thiên nhiên khắc nghiệt, nên
mong muốn có một cuộc sống tốt đẹp hơn. Bằng thuyết luôn hồi nhân quả, ở
hiền gặp lành, Phật giáo đã khuyến khích con người ăn ở nhân đức để có được
cuộc sống tốt đẹp ở thế giới mai sau. Phật giáo đã góp phần nâng cao đời sống
đạo đức của người dân, họ tiếp nhận Phật giáo như một yếu tố tâm lý làm cân
bằng cuộc sống vốn khốn khó của mình. Phật giáo cũng củng cố khối đại
đoàn kết của dân tộc, củng cố cách sống nhân nghĩa, chân tình của người dân
Việt Nam.
Theo các sử liệu học, Phật giáo được du nhập vào Việt Nam từ rất sớm
bằng đường biển bởi các nhà sư Ấn Độ (khoảng thế kỷ thứ II sau Công
nguyên). Với gần hai nghìn năm tồn tại và phát triển trên mảnh đất người
Việt, Phật giáo không chỉ bám rễ, phát triển, mà còn góp phần tạo nên nền văn
hóa dân tộc Việt Nam với nhiều giá trị đặc sắc, biểu hiện qua các tầng văn hóa
khác nhau, từ nếp sống cung đình hoàng tộc cho tới văn hóa làng xã, cộng
đồng.
Ngay từ khi mới du nhập, Phật giáo nhanh chóng được người Việt tiếp
nhận và phát triển rất nhanh do các giáo lý của nhà Phật (từ bi, hỉ xả) khá phù
hợp với bản chất của người Việt và phong tục tập quán bản địa. Mặt khác,
trong thời kỳ Bắc thuộc, Phật giáo đã cung cấp một phần ý thức tư tưởng cho
các phong trào chống đô hộ của nhân dân. Thậm chí, dưới các triều đại Lý,
28
Trần, Phật giáo đã được tôn vinh và trở thành quốc giáo. Dưới thời nhà Trần,
Phật giáo trở thành yếu tố đoàn kết toàn dân cùng với triều đình xây dựng và
bảo vệ đất nước. Vì vậy, Phật giáo có ảnh hưởng khá sâu sắc đến người dân
nước ta và nhân cách trong Phật giáo cũng góp phần đáng kể trong việc hình
thành nhân cách của con người Việt Nam. Đó là lòng yêu thương con người,
sống giản dị, vị tha và đặc biệt linh hoạt, nhạy bén, chấp nhận biến đổi chứ
không chỉ ảo tưởng bảo thủ như Nho giáo.
Thực tế cho thấy, từ lâu nay, những tư tưởng Phật giáo đã hòa quyện
vào tư tưởng dân tộc, giáo lý Phật giáo kết hợp với các tín ngưỡng, phong tục
của nhân dân Việt Nam, phát triển trên tinh thần tiếp biến và dung nạp những
giá trị bản địa của nhân dân Việt Nam. Trong những giai đoạn đấu tranh, giải
phóng dân tộc, Phật giáo lại trở nên mạnh mẽ cùng với người Việt như là một
loại vũ khí bền bỉ, dẻo dai, chống lại sự xâm lược của và đồng hóa của các thế
lực kẻ thù với những tôn chỉ “giữ chùa để giữ làng, giữ làng để giữ chùa”.
Những tư tưởng Phật giáo Việt Nam không ru ngủ con người mà trái lại, tư
tưởng Phật giáo đã góp phần làm nên bản lĩnh của người Việt Nam, của làng
Việt Nam, của dân tộc Việt Nam, trước những thách thức nhiều kiểu loại,
nhiều cấp độ, nhiều tầng bậc, cộng sinh cùng cư dân bản địa, cùng ngôi làng
Việt, cùng đất nước Việt Nam.
Phật giáo Việt Nam nhấn mạnh tư tưởng “nhập thế” với sự minh chứng
từ những suy nghĩ và hành động của nhiều vị cao tăng tài trí, không chỉ với
tấm lòng từ, bi, hỉ, xả, mà chính họ bằng những việc làm thực tiễn của mình
đã được ghi danh vào lịch sử dân tộc như: Thiền sư Cảm Hành, Định Không,
Pháp Thuận, Đa Bảo, Viên Chiếu, Thích Quảng Đức,…và không thể không
kể đên công lao to lớn của một vị tu sĩ Phật giáo, người đã góp phần quan
trọng trong việc xây dựng nên vương triều phong kiến độc lập có quy mô văn
hiến đầu tiên của Việt Nam, người giúp Lý Thái Tổ dời đô từ Hoa Lư (Ninh
Bình) về Thăng Long (Hà Nội), đó là Thiền sư Vạn Hạnh.
29
Không lâu sau sự du nhập của Phật giáo, Đạo giáo (Lão giáo) vào Việt
Nam cũng có ảnh hưởng không nhỏ tới đời sống sinh hoạt, phong tục tập quán
của người Việt Nam. Mặc dù không có vị trí chính thống, nhưng tư tưởng,
sinh hoạt của Đạo giáo vẫn luôn tồn tại trong dân gian, thậm chí cả cung đình.
Mặc dù về tư tưởng, Đạo giáo tìm kiếm con đường xuất thế, giải thoát
con người vào cõi trường sinh, bất tử nhưng trên thực tế, việc thực hành Đạo
giáo lại khá phong phú về nội dung và hình thức. Từ thời đô hộ của nhà Hán,
Đường đã có một số quan lại cai trị Việt Nam theo Đạo giáo, nổi tiếng như
Cao Biền. Đến thời Ngô, Đinh, Tiền Lê, các vị vua Việt Nam đã không chỉ
sùng Phật mà còn sùng Đạo. Bên cạnh việc nhà vua sắc phong những Quốc sư
Phật giáo thì cũng sắc phong cả Quốc sư Đạo giáo.
Đạo giáo đi vào cuộc sống nhân dân qua việc thờ cúng các vị Thánh và
được thể hiện ở sự kết hợp giữa các yếu tố tôn giáo và văn hóa, tín ngưỡng
bản địa. Các vị Thánh này có thể là những nhân vật có thật (thường là các anh
hùng lịch sử có công với đất nước) hoặc có thể là những nhân vật tưởng tượng
như thờ thánh Mẫu. Khác với việc Phong Thần ở Trung Quốc, các vị “Thần”
và “ Thánh” ở Việt Nam không có ở cõi “trời” mà luôn ở cõi “người”, hiện
hữu và gần gũi với nhân dân từ trong tâm thức cho tới cuộc sống lao động,
sinh hoạt hằng ngày của con người. Dân gian vẫn truyền tụng câu nói: “Tháng
Tám giỗ Cha, tháng Ba giỗ Mẹ” khi người anh hùng Trần Hưng Đạo đã được
coi như Đức thánh cha của dân và công chúa Liễu Hạnh đã được trở thành
đức Thánh mẫu.
Có thể nói, sinh hoạt Đạo giáo đem lại cho người dân lao động tinh
thần đoàn kết, hữu ái, lạc quan trong cuộc sống thông qua tín ngưỡng dân
gian, sinh hoạt lễ hội và đời sống tâm linh phong phú. Điều đó cũng góp phần
tạo nên sự gắn kết bền vững trong cộng đồng, trong xóm làng, đất nước.
30
Tinh hoa văn hoá phương Tây: Vào thế kỉ XVIII - XIX, Việt Nam lâm
vào tình trạng khủng hoảng sâu sắc của ý thức hệ phong kiến được xây dựng
theo nguyên tắc Nho giáo và lấy Nho giáo làm quốc giáo. Do đó, đạo đức Nho
giáo cũng bị khủng hoảng nặng nề, kéo dài. Sự thất bại cuối cùng của các
cuộc khởi nghĩa Cần Vương chống Pháp cũng là sự thất bại không cứu vãn
nổi của hệ ý thức hệ phong kiến. Đầu thế kỉ XX, chủ nghĩa Mác - Lênin đã
được du nhập vào Việt Nam - nơi mà ý thức hệ phong kiến và ý thức hệ tư sản
đã thất bại. Chủ nghĩa Mác - Lênin đã nhanh chóng chiếm được con tim và
khối óc của người Việt Nam. Bởi vì nó là một học thuyết khoa học và cách
mạng, là thứ vũ khí vô địch đã giúp cho dân tộc ta giành lại độc lập, tự do cho
dân tộc ta.
1.2.3. Mộtsố đặcđiểm của ý thức xã hội ViệtNam truyền thống
Ý thức xã hội Việt Nam truyền thống được hình thành trong lịch sử
phát triển lâu dài của dân tộc với nhiều đặc điểm phong phú. Trong khuôn khổ
của luận văn này, tác giả chỉ tập trung phân tích một số đặc điểm nổi bật của ý
thức thức xã hội Việt Nam truyền thống.
Thứ nhất, thế giới quan duyvật và duytâm không rõ ràng.
Đây là thế giới quan duy vật - duy tâm hỗn hợp mang đậm màu sắc tôn
giáo và tín ngưỡng dân gian là phổ biến. Một người nào đó được xem là duy
vật là xét ở nét cơ bản, đi vào cụ thể thì điểm này là duy vật, điểm khác lại là
duy tâm.
Lập trường duy vật hoặc duy tâm trong lịch sử tư tưởng Việt Nam thể
hiện trong việc giải quyết mối quan hệ giữa tâm và vật, giữa linh hồn và thể
xác, giữa lý và khí... điều này được thể hiện trong tư duy của người Việt từ
thời tiền sử. Tư duy trừu tượng của họ không chỉ phát triển trong thế giới hiện
thực mà còn cố gắng giải thích cả thế giới siêu tự nhiên. Trong tư duy nguyên
thuỷ đã có sự phân đôi thế giới tự nhiên và siêu tự nhiên. Chẳng hạn, người
Sơn Vi đã chôn người chết trong nơi cư trú của họ. Điều đó nói lên rằng,
31
người nguyên thuỷ đã bắt đầu tin tưởng về một “thế giới bên kia”, mà ở đó,
những người chết vẫn tiếp tục lao động. Chính vì vậy mà họ đã chôn theo
công cụ bên cạnh người chết. Lập trường đó còn được thể hiện trong tín
ngưỡng thờ vật tổ của các cư dân thời nguyên thuỷ. Trên vách hang Đồng
Nội, người Hoà Bình đã khắc mặt một con thú ăn cỏ. Trong hang này, còn có
ba hình mặt người với sừng ở trên đầu. Người ta cho rằng, những hình mặt
người có sừng này có thể liên quan đến tín ngưỡng vật tổ phổ biến trong các
thị tộc nguyên thuỷ. Tục thờ thần mặt trời đã xuất hiện ở cư dân tiền Đông
Sơn. Nhiều ngôi mộ ở thời kỳ này đã quay đầu về hướng đông. Vì vậy có ý
kiến cho rằng, nhóm người ở đây có tục thờ mặt trời. Đến thời kỳ Đông Sơn,
ngay cả những phát minh về kỹ thuật cũng được thần bí hoá. Chẳng hạn, trong
sử thi “Đẻ đất đẻ nước”, hay chuyện “Chặt cây chu đồng” đều thần hoá việc
chế tác đồng.
Lập trường duy vật - duy tâm không ràng của người Việt còn thể hiện
trong việc giải thích nguyên nhân và nguồn gốc tạo nên những sự kiện cơ bản
của đất nước, xã hội và con người như an nguy của quốc gia dân tộc, trị loạn của
xã hội, hưng vong của các triều đại, vấn đề số mệnh và bản tính con người, vấn
đề đạo Trời và đạo người... Nét nổi bật trong tư tưởng người Việt thời kỳ Bắc
thuộc là ý thức - tư tưởng về mình và về vị trí của mình đối với non sông của tổ
tiên để lại, tức là ý thức về cộng đồng người Việt và chủ quyền đất nước. Ý thức
tư tưởng về cộng đồng người Việt xuất phát từ ý thức về việc có chung một
nguồn gốc (cùng một mẹ Âu Cơ sinh ra). Vì vậy, cần phải bảo vệ giống nòi trước
sự đồng hoá của kẻ thống trị phương Bắc. Ý thức này đã làm cơ sở cho huyền
thoại giải thích về nguồn gốc người Việt trở nên thân thiết và thấm sâu vào tiềm
thức mọi người. Về đạo trời và đạo người, Nguyễn Bỉnh Khiêm gọi đạo Trời là
sự phát triển của tự nhiên, còn sự phát triển của xã hội và vận mệnh của con
người được ông gọi là đạo người. Nhưng ông cho rằng, tất cả là do số, do mệnh,
do trời chi phối: “Cùng thông đắc tang mạc phi thiên” (Được, hỏng, cùng, thông
không gì là không do Trời định).
32
Quan niệm về "Thiên mệnh" (mệnh Trời) khá phổ biến trong lịch sử.
Sinh thời, vua Lê Thánh Tông tin ở tư tưởng mệnh trời của nhà Nho, đã giải
thích sự hưng vong của các triều đại là do trời; không những thế, ông còn cầu
đảo mỗi khi nước nhà gặp hạn hán, lụt lội, sâu bệnh phá hoại mùa màng và
các hiện tượng bất thường xảy ra trong thiên nhiên… và như thế chứng tỏ ông
tin ở một lực lượng tự nhiên chi phối con người và xã hội loài người. Đối lại
với quan điểm "mệnh trời" còn có quan điểm về "thời". Trần Quốc Tuấn nói
“tuỳ thời”, Nguyễn Trãi nói: “Thời sao! Thời sao! Thực không nên lỡ”. Ngô
Thì Nhậm đã kế thừa quan điểm của các bậc tiền bối và phát triển trên lập
trường của mình. Đối với Ngô Thì Nhậm, “thời” có vai trò quan trọng đối với
vận mệnh của một triều đại. Nắm được thời và hành động theo thời thì triều
đại nổi lên; bỏ mất thời và hành động trái thời thì triều đại mất. Mặt khác, ông
cho rằng, “thời” ở trong dòng biến chuyển liên tục nên đạo cũng phải thay đổi
cho phù hợp, các triều đại đã thay đổi liên tục là vì thế. Từ đó, ông đưa ra
nguyên tắc cụ thể cho những hành động của mình. Đó là tình thế khác thì cách
xử lý cũng phải khác: “Gặp thời thế, thế thời phải thế. Hoàn cảnh khác thì
phương tiện để đạt mục tiêu cũng phải khác, ông nói: “Nước chảy thì dùng
thuyền, đường hiểm thì dùng cương”, thời nào thì có công việc của thời ấy,
không thể bắt nay phải giống xưa.
Trong số những quan điểm chống đối “mệnh Trời” của nhà Nho, "báo
ứng" của nhà Phật, "âm khí" của nhà Đạo, thì mạnh hơn cả, bộc trực hơn cả là
quan điểm của quần chúng nhân dân. Bằng sự quan sát hàng ngày, bằng kinh
nghiệm cuộc sống và quan điểm thực tế, quần chúng nhân dân đã phản ứng lại
các quan điểm duy tâm bằng kinh nghiệm của mình.
Tuy nhiên, sự đấu tranh của chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm
chưa đạt tới trình độ sâu sắc và toàn diện.
Thứ hai, tưởng yêu nước, quan niệm độc lập dân tộc và quốc gia có
chủ quyền là nét bản chất và đặc sắc nhất trong ý thức xã hội Việt Nam
truyền thống.
33
Truyền thống yêu nước của nhân dân ta được hình thành rất sớm trong
lịch sử, trên cơ sở liên minh những bộ lạc anh em cùng tụ cư trên một cương
vực ổn định. Trong ý thức, quan niệm của người Việt Nam, Tổ quốc, đất nước
là một hình ảnh thiêng liêng, gần gũi và rất mực thân thiết. Nước được hiểu là
bờ cõinon sông, trong đó có quê cha đất tổ. Nước gắn vời làng, với nhà. Lòng
yêu nước của con người Việt Nam bắt nguồn một cách tự nhiên từ những tình
cảm bình dị và gần gũi nhất của con người đối với những người thân cùng
dòng giống, những người là “đồng bào”. Trong tình cảm của con người Việt
Nam, những thực thể “nước - nhà”, “làng - nước” thường gắn bó với nhau.
Nhà - gia đình, tế bào của xã hội, đơn vị xã hội đầu tiên trong đó con người
gắn bó với nhau bởi quan hệ hôn nhân và huyết thống. Con người Việt Nam
bắt đầu từ tình thương cha, nhớ mẹ, từ tình cảm gia đình ruột thịt, từ tình yêu
nam nữ, tình yêu cuộc sống trong lao động mà nảy sinh tình yêu quê hương,
đất nước. Do vậy, sự gắn bó giữa nhà và làng với nước có chiều sâu đặc biệt
trong mỗi con người Việt Nam. Làng Việt Nam là một thực thể kinh tế, chính
trị, văn hóa, tâm lý, tín ngưỡng,… và là một chỗ dựa tinh thần mạnh mẽ và có
ảnh hưởng rất lớn tới sự phát triển nhân cách của con người. Trong mỗi cá
nhân, từ nhận thức, tình cảm, ý chí, nhu cầu đến tính cách đều mang những
dấu ấn sâu sắc của tâm lý cộng đồng làng xã. Những thách đố từ phía thiên
tai, địch họa chẳng những không làm lung lạc phai nhạt tình yêu gia đình, quê
hương trong mỗi con người Việt Nam, trái lại, nó càng thúc đẩy và nâng tình
yêu gia đình, quê hương trong mỗi conngười lên một cấp độ cao hơn, củng cố
tính cộng đồng và mở ra những mối quan hệ liên làng, phá vỡ tính biệt lập
khép kín vốn có của làng xã trong xã hội phong kiến. Người Việt Nam có một
quan niệm độc đáo về quê hương: quê hương là nơi con người sinh ra và lớn
lên, nhưng còn một quê hương rộng lớn rất đỗi thiêng liêng là Tổ quốc. Cuộc
sống lao động và tình yêu thiên nhiên, cùng với cuộc sống đấu tranh bền bỉ,
gian khổ chống ngoại xâm đã thức tỉnh trong mỗi con người ý thức về mối
quan hệ gắn bó giữa gia đình, làng xóm với cộng đồng lớn là Tổ quốc. Mọi
34
người phải lo giữ gìn, bảo vệ lấy nơi sinh sống. Nước mất thì nhà tan, người
dân sẽ phải sống kiếp nô lệ. Có thể nói, sự gắn bó bền vững của gia đình Việt
Nam, của các cộng đồng làng xã Việt Nam là cái bệ đỡ vững chắc nhất, sâu rễ
bền gốc nhất cho tình cảm yêu nước, cho chủ nghĩa yêu nước Việt Nam.
Không có những gia đình, làng xã bền vững thì không thể có chủ nghĩa yêu
nước Việt Nam. Điều này cắt nghĩa vì sao mọi âm mưu “chia để trị”, mọi thủ
đoạn phân hóa, ly gián của kẻ thù xâm lược đề bị vô hiệu hóa. Với người Việ
Nam, phản bội Tổ quốc cũng là phản bội gia đình, làng xóm, làm ô nhục
thanh danh dòng họ. Ngược lại, người có công, hy sinh vì nước được suy tôn
là thành hoàng làng. Bên cạnh bàn thờ tổ tiên của mỗi gia đình còn có bàn thờ
Tổ quốc. Người Việt Nam dù sống ở miền xuôi hay miền ngược, miền Bắc
hay miền Nam - đều yêu mến cái nôi chung - Tổ quốc, tự hào về nòi giống
con Rồng, cháu Tiên của mình. Lòng yêu nước Việt Nam trải qua các giai
đoạn lịch sử đã phát triển thành chủ nghĩa yêu nước, thể hiện trong ý thức
trách nhiệm của mỗi người với nòi giống, với cộng đồng, với dân tộc, để từ đó
tìm ra những con đường, biện pháp đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng
đất nước.
Hai là, lòng yêu nước Việt Nam không chỉ thể hiện ở ý chí chống xâm
lược, mà còn bao hàm ý chí thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ.
Lãnh thổ Việt Nam là môi trường trực tiếp để cư dân Việt Nam sinh
sống. Lãnh thổ là niềm thiêng liêng, kiêu hãnh của cả dân tộc. Giang sơn -
lãnh thổ được chính bàn tay và trí tuệ của bao thế hệ người Việt Nam tạo
dựng lên. Bắt đầu từ việc khai phá miền sơn địa đất Tổ rồi qua chiều dài thời
gian, người Việt Nam đã bằng lao động, bằng mồ hôi, nước mắt và xương
máu của mình mở mang bờ cõi để có giang sơn gấm vóc như ngày nay.
Thế kỷ thứ VII trước Công nguyên đánh dấu sự ra đời của nước Văn
Lang mở đầu sự nghiệp dựng nước của các Vua Hùng và cũng mở đầu lịch sử
dựng nước và giữ nước của dân tộc ta. Nhà nước Văn Lang ra đời xuất phát từ
35
nhu cầu cố kết con người thành cộng đồng để vừa chống thiên tai, làm thủy
lợi vừa tăng cường sức mạnh chống ngoại xâm. Quốc gia Văn Lang xây dựng
kinh đô ở Phong Châu. Người dân Văn Lang trong thời kỳ này đã có ý thức
về vấn đề dựng nước và giữ nước.
Quá trình lập quốc gắn liền với quá trình khắc phục thiên tai, ứng phó
với lũ lụt. Truyền thuyết Sơn tinh và Thủy tinh là một trong những truyền
thuyết sớm nhất thể hiện lòng dũng cảm của nhân dân đắp đê chiến thắng lũ
lụt: Cứ mỗi lần Thủy tinh dâng nước lên, Sơn tinh càng đắp cao thêm núi,
quyết thắng Thủy tinh, bảo vệ nhân dân khỏi ngập lụt.
Nhưng Văn Lang vừa mới ra đời còn phải đảm đương nhiệm vụ thứ hai
là chống ngoại xâm. Truyền thuyết Thánh Gióng là câu chuyện nói về ý thức
giữ nước của dân tộc ta. Tư tưởng chống xâm lược và thôn tính của phong
kiến nước ngoài và của các bộ lạc khác được dần dần hình thành một cách tự
phát trong nhân dân. Truyện Thánh Gióng là huyền thoại mang sắc thái thể
hiện sức mạnh của con người Việt Nam ở địa bàn làng xã, thể hiện tinh thần
quật khởi của nhân dân ta chống ngoại xâm.
Dựng nước đi đôi với giữ nước là hai nhiệm vụ cơ bản của nhân dân ta
lúc đó. Ý thức dân tộc, tư tưởng làm chủ đất nước dần dần được hình thành.
Trong buổi bình minh lịch sử, ý thức dân tộc, tư tưởng làm chủ đất nước dần
dần được hình thành. trong buổi bình minh lịch sử, ý thức dân tộc của nhân
dân đóng vai trò quyết định đối với vận mệnh của đất nước.
Khoảng cuối đời Hùng Vương thứ 18, Văn Lang đứng trước nguy cơ xâm
lược của nhà Tần (Trung Quốc). Quá trình chuẩn bị kháng chiến chống xâm lược
đã xuất hiện nhu cầu liên minh giữa bộ lạc Lạc Việt (nước Văn Lang của vua
Hùng) với bộ lạc Tây Âu (của Thục Phán) dẫn tới việc thành lập nước Âu Lạc
vào năm 208 trước Công nguyên. Nước Âu Lạc với kinh đô là thành Cổ Loa là
một quốc gia thống nhất có sức mạnh tiếp nối nước Văn Lang làm nên kỷ
nguyên Văn Lang - Âu Lạc. Đắp thành Cổ Loa là một bằng chứng
36
về ý thức dân tộc. Qua các cuộc khởi nghĩa chống xâm lược của quân Tần và
của Triệu Đà, ý thức tự chủ của nhân dân được nâng cao thêm một bước, lòng
yêu nước được mở rộng trên phạm vi quốc gia Âu Lạc, yếu tố bộ lạc từng
bước mờ nhạt, thay vào đó là yêu tố dân tộc đang tùng bước hình thành.
Năm 179 trước Công nguyên, nước Âu Lạc bị rơi vào tay nhà Triệu
(Triệu Đà) mở đầu đêm trường Bắc thuộc lầm than của dân tộc. Thời kỳ Bắc
thuộc kéo dài 1.117 năm nhưng suốt thời kỳ lịch sử khắc nghiệt đó, nhân dân
Âu Lạc liên tục nổi dậy đấu tranh để giành độc lập dân tộc và chủ quyền quốc
gia. Từ khởi nghĩa của Hai Bà Trưng (mùa xuân năm 40 - 43), khởi nghĩa của
Bà Triệu (năm 248), khởi nghĩa của Lý Bí - Triệu Quang Phục (542 - 571),
khởi nghĩa của Lý Tự Tiên, Đinh Kiến (năm 687), khởi nghĩa của Mai Thúc
Loan (năm 722), khởi nghĩa của Phùng Hưng (766 - 791), khởi nghĩa của
Dương Thanh (819 - 820) đến khởi nghĩa của Dương Đình Nghệ (năm 930)
và đặc biệt là cuộc kháng chiến chống quân Nam Hán lần thứ hai do Ngô
Quyền lãnh đạo đã giành độc lập hoàn toàn vào năm 938. Chiến thắng Bạch
Đằng là đỉnh cao của lòng yêu nước, kết thúc trọn vẹn thời kỳ mất nước kéo
dài hơn một nghìn năm, mở ra một thời kỳ độc lập lâu dài cho dân tộc. Thời
kỳ Bắc thuộc, tương quan lực lượng rất chênh lệch, lại chịu ách thống trị nặng
nề, tàn bạo, nhưng ý thức dân tộc của nhân dân ta thể hiện rất mạnh mẽ. kẻ
thù muốn xóa bỏ dân tộc ta bằng chính sách thống trị hà khắc và chiến lược
đồng hóa hiểm độc. Song, kẻ thù phương Bắc không thể lay chuyển nổi ý chí
thống nhất toàn vẹn lãnh thổ của dân tộc ta.
Thống nhất Tổ quốc là một phần nhu cầu đạo lý, tình cảm, là điều kiện
của sự tồn tại độc lập và hạnh phúc của dân tộc ta. Con người Việt Nam đã
sớm ý thức được rằng, chỉ có thể giải phóng toàn vẹn đất nước khi toàn thể
cộng đồng người trên lãnh thổ được giải phóng. Ý thức thống nhất toàn vẹn
lãnh thổ được thể hiện sinh động bằng nhiều cuộc khởi nghĩa trong suốt đêm
trường Bắc thuộc, nhân dân ta quyết không chịu để cho kẻ thù xâm lược biến
37
Ý thức xã hội Việt Nam truyền thông - những mặt tích cực và hạn chế khi bước vào sự nghiệp đối mới đất nước
Ý thức xã hội Việt Nam truyền thông - những mặt tích cực và hạn chế khi bước vào sự nghiệp đối mới đất nước
Ý thức xã hội Việt Nam truyền thông - những mặt tích cực và hạn chế khi bước vào sự nghiệp đối mới đất nước
Ý thức xã hội Việt Nam truyền thông - những mặt tích cực và hạn chế khi bước vào sự nghiệp đối mới đất nước
Ý thức xã hội Việt Nam truyền thông - những mặt tích cực và hạn chế khi bước vào sự nghiệp đối mới đất nước
Ý thức xã hội Việt Nam truyền thông - những mặt tích cực và hạn chế khi bước vào sự nghiệp đối mới đất nước
Ý thức xã hội Việt Nam truyền thông - những mặt tích cực và hạn chế khi bước vào sự nghiệp đối mới đất nước
Ý thức xã hội Việt Nam truyền thông - những mặt tích cực và hạn chế khi bước vào sự nghiệp đối mới đất nước
Ý thức xã hội Việt Nam truyền thông - những mặt tích cực và hạn chế khi bước vào sự nghiệp đối mới đất nước
Ý thức xã hội Việt Nam truyền thông - những mặt tích cực và hạn chế khi bước vào sự nghiệp đối mới đất nước
Ý thức xã hội Việt Nam truyền thông - những mặt tích cực và hạn chế khi bước vào sự nghiệp đối mới đất nước
Ý thức xã hội Việt Nam truyền thông - những mặt tích cực và hạn chế khi bước vào sự nghiệp đối mới đất nước
Ý thức xã hội Việt Nam truyền thông - những mặt tích cực và hạn chế khi bước vào sự nghiệp đối mới đất nước
Ý thức xã hội Việt Nam truyền thông - những mặt tích cực và hạn chế khi bước vào sự nghiệp đối mới đất nước
Ý thức xã hội Việt Nam truyền thông - những mặt tích cực và hạn chế khi bước vào sự nghiệp đối mới đất nước
Ý thức xã hội Việt Nam truyền thông - những mặt tích cực và hạn chế khi bước vào sự nghiệp đối mới đất nước
Ý thức xã hội Việt Nam truyền thông - những mặt tích cực và hạn chế khi bước vào sự nghiệp đối mới đất nước
Ý thức xã hội Việt Nam truyền thông - những mặt tích cực và hạn chế khi bước vào sự nghiệp đối mới đất nước
Ý thức xã hội Việt Nam truyền thông - những mặt tích cực và hạn chế khi bước vào sự nghiệp đối mới đất nước
Ý thức xã hội Việt Nam truyền thông - những mặt tích cực và hạn chế khi bước vào sự nghiệp đối mới đất nước
Ý thức xã hội Việt Nam truyền thông - những mặt tích cực và hạn chế khi bước vào sự nghiệp đối mới đất nước
Ý thức xã hội Việt Nam truyền thông - những mặt tích cực và hạn chế khi bước vào sự nghiệp đối mới đất nước
Ý thức xã hội Việt Nam truyền thông - những mặt tích cực và hạn chế khi bước vào sự nghiệp đối mới đất nước
Ý thức xã hội Việt Nam truyền thông - những mặt tích cực và hạn chế khi bước vào sự nghiệp đối mới đất nước
Ý thức xã hội Việt Nam truyền thông - những mặt tích cực và hạn chế khi bước vào sự nghiệp đối mới đất nước
Ý thức xã hội Việt Nam truyền thông - những mặt tích cực và hạn chế khi bước vào sự nghiệp đối mới đất nước
Ý thức xã hội Việt Nam truyền thông - những mặt tích cực và hạn chế khi bước vào sự nghiệp đối mới đất nước
Ý thức xã hội Việt Nam truyền thông - những mặt tích cực và hạn chế khi bước vào sự nghiệp đối mới đất nước
Ý thức xã hội Việt Nam truyền thông - những mặt tích cực và hạn chế khi bước vào sự nghiệp đối mới đất nước
Ý thức xã hội Việt Nam truyền thông - những mặt tích cực và hạn chế khi bước vào sự nghiệp đối mới đất nước
Ý thức xã hội Việt Nam truyền thông - những mặt tích cực và hạn chế khi bước vào sự nghiệp đối mới đất nước
Ý thức xã hội Việt Nam truyền thông - những mặt tích cực và hạn chế khi bước vào sự nghiệp đối mới đất nước
Ý thức xã hội Việt Nam truyền thông - những mặt tích cực và hạn chế khi bước vào sự nghiệp đối mới đất nước
Ý thức xã hội Việt Nam truyền thông - những mặt tích cực và hạn chế khi bước vào sự nghiệp đối mới đất nước
Ý thức xã hội Việt Nam truyền thông - những mặt tích cực và hạn chế khi bước vào sự nghiệp đối mới đất nước
Ý thức xã hội Việt Nam truyền thông - những mặt tích cực và hạn chế khi bước vào sự nghiệp đối mới đất nước
Ý thức xã hội Việt Nam truyền thông - những mặt tích cực và hạn chế khi bước vào sự nghiệp đối mới đất nước
Ý thức xã hội Việt Nam truyền thông - những mặt tích cực và hạn chế khi bước vào sự nghiệp đối mới đất nước
Ý thức xã hội Việt Nam truyền thông - những mặt tích cực và hạn chế khi bước vào sự nghiệp đối mới đất nước
Ý thức xã hội Việt Nam truyền thông - những mặt tích cực và hạn chế khi bước vào sự nghiệp đối mới đất nước
Ý thức xã hội Việt Nam truyền thông - những mặt tích cực và hạn chế khi bước vào sự nghiệp đối mới đất nước
Ý thức xã hội Việt Nam truyền thông - những mặt tích cực và hạn chế khi bước vào sự nghiệp đối mới đất nước
Ý thức xã hội Việt Nam truyền thông - những mặt tích cực và hạn chế khi bước vào sự nghiệp đối mới đất nước
Ý thức xã hội Việt Nam truyền thông - những mặt tích cực và hạn chế khi bước vào sự nghiệp đối mới đất nước
Ý thức xã hội Việt Nam truyền thông - những mặt tích cực và hạn chế khi bước vào sự nghiệp đối mới đất nước
Ý thức xã hội Việt Nam truyền thông - những mặt tích cực và hạn chế khi bước vào sự nghiệp đối mới đất nước
Ý thức xã hội Việt Nam truyền thông - những mặt tích cực và hạn chế khi bước vào sự nghiệp đối mới đất nước
Ý thức xã hội Việt Nam truyền thông - những mặt tích cực và hạn chế khi bước vào sự nghiệp đối mới đất nước
Ý thức xã hội Việt Nam truyền thông - những mặt tích cực và hạn chế khi bước vào sự nghiệp đối mới đất nước
Ý thức xã hội Việt Nam truyền thông - những mặt tích cực và hạn chế khi bước vào sự nghiệp đối mới đất nước
Ý thức xã hội Việt Nam truyền thông - những mặt tích cực và hạn chế khi bước vào sự nghiệp đối mới đất nước
Ý thức xã hội Việt Nam truyền thông - những mặt tích cực và hạn chế khi bước vào sự nghiệp đối mới đất nước
Ý thức xã hội Việt Nam truyền thông - những mặt tích cực và hạn chế khi bước vào sự nghiệp đối mới đất nước
Ý thức xã hội Việt Nam truyền thông - những mặt tích cực và hạn chế khi bước vào sự nghiệp đối mới đất nước
Ý thức xã hội Việt Nam truyền thông - những mặt tích cực và hạn chế khi bước vào sự nghiệp đối mới đất nước
Ý thức xã hội Việt Nam truyền thông - những mặt tích cực và hạn chế khi bước vào sự nghiệp đối mới đất nước
Ý thức xã hội Việt Nam truyền thông - những mặt tích cực và hạn chế khi bước vào sự nghiệp đối mới đất nước
Ý thức xã hội Việt Nam truyền thông - những mặt tích cực và hạn chế khi bước vào sự nghiệp đối mới đất nước
Ý thức xã hội Việt Nam truyền thông - những mặt tích cực và hạn chế khi bước vào sự nghiệp đối mới đất nước
Ý thức xã hội Việt Nam truyền thông - những mặt tích cực và hạn chế khi bước vào sự nghiệp đối mới đất nước

More Related Content

Similar to Ý thức xã hội Việt Nam truyền thông - những mặt tích cực và hạn chế khi bước vào sự nghiệp đối mới đất nước

Những vấn đề lý luận cơ bản về phát triển xã hội1.pdf
Những vấn đề lý luận cơ bản về phát triển xã hội1.pdfNhững vấn đề lý luận cơ bản về phát triển xã hội1.pdf
Những vấn đề lý luận cơ bản về phát triển xã hội1.pdfstyle tshirt
 
Xây dựng đời sống văn hóa cơ sở trên địa bàn xã Đại Hưng, huyện Mỹ Đức, thành...
Xây dựng đời sống văn hóa cơ sở trên địa bàn xã Đại Hưng, huyện Mỹ Đức, thành...Xây dựng đời sống văn hóa cơ sở trên địa bàn xã Đại Hưng, huyện Mỹ Đức, thành...
Xây dựng đời sống văn hóa cơ sở trên địa bàn xã Đại Hưng, huyện Mỹ Đức, thành...anh hieu
 
Xây dựng đời sống văn hóa cơ sở trên địa bàn xã Đại Hưng, huyện Mỹ Đức, thành...
Xây dựng đời sống văn hóa cơ sở trên địa bàn xã Đại Hưng, huyện Mỹ Đức, thành...Xây dựng đời sống văn hóa cơ sở trên địa bàn xã Đại Hưng, huyện Mỹ Đức, thành...
Xây dựng đời sống văn hóa cơ sở trên địa bàn xã Đại Hưng, huyện Mỹ Đức, thành...hieu anh
 
Vấn đề thực hiện dân chủ ở nông thôn Hải Phòng hiện nay.pdf
Vấn đề thực hiện dân chủ ở nông thôn Hải Phòng hiện nay.pdfVấn đề thực hiện dân chủ ở nông thôn Hải Phòng hiện nay.pdf
Vấn đề thực hiện dân chủ ở nông thôn Hải Phòng hiện nay.pdfHanaTiti
 
Nâng cao hiệu quả giáo dục ý thức chính trị cho sinh viên các trƣờng cao đẳng...
Nâng cao hiệu quả giáo dục ý thức chính trị cho sinh viên các trƣờng cao đẳng...Nâng cao hiệu quả giáo dục ý thức chính trị cho sinh viên các trƣờng cao đẳng...
Nâng cao hiệu quả giáo dục ý thức chính trị cho sinh viên các trƣờng cao đẳng...jackjohn45
 
Luận Văn Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hoá và về vấn đề xây dựng nền văn hoá ti...
Luận Văn Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hoá và về vấn đề xây dựng nền văn hoá ti...Luận Văn Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hoá và về vấn đề xây dựng nền văn hoá ti...
Luận Văn Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hoá và về vấn đề xây dựng nền văn hoá ti...sividocz
 
lien-he-cac-van-de-trong-triet-hoc-vao-cuoc-song-thuc-tien.pdf
lien-he-cac-van-de-trong-triet-hoc-vao-cuoc-song-thuc-tien.pdflien-he-cac-van-de-trong-triet-hoc-vao-cuoc-song-thuc-tien.pdf
lien-he-cac-van-de-trong-triet-hoc-vao-cuoc-song-thuc-tien.pdfssuserb5d593
 
Vai trò của khoa học công nghệ trong sự phát triển của xã hội (TẢI FREE ZALO ...
Vai trò của khoa học công nghệ trong sự phát triển của xã hội (TẢI FREE ZALO ...Vai trò của khoa học công nghệ trong sự phát triển của xã hội (TẢI FREE ZALO ...
Vai trò của khoa học công nghệ trong sự phát triển của xã hội (TẢI FREE ZALO ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Một Số Vấn Đề Về Công Tác Tuyên Giáo Trong Điều Kiện Hiện Nay Ở Việt Nam
Một Số Vấn Đề Về Công Tác Tuyên Giáo Trong Điều Kiện Hiện Nay Ở Việt Nam Một Số Vấn Đề Về Công Tác Tuyên Giáo Trong Điều Kiện Hiện Nay Ở Việt Nam
Một Số Vấn Đề Về Công Tác Tuyên Giáo Trong Điều Kiện Hiện Nay Ở Việt Nam nataliej4
 
7.2021._giao_trinh_triet_hoc_mac_-_lenin_(khong_chuyen)_1.9m.doc
7.2021._giao_trinh_triet_hoc_mac_-_lenin_(khong_chuyen)_1.9m.doc7.2021._giao_trinh_triet_hoc_mac_-_lenin_(khong_chuyen)_1.9m.doc
7.2021._giao_trinh_triet_hoc_mac_-_lenin_(khong_chuyen)_1.9m.docKhanhNguyn38918
 
Tiểu luận triết học
Tiểu luận triết họcTiểu luận triết học
Tiểu luận triết họcNgà Nguyễn
 
GIAO TRINH TRIET HOC M-L - 2021 (1).pdf
GIAO TRINH TRIET HOC M-L - 2021 (1).pdfGIAO TRINH TRIET HOC M-L - 2021 (1).pdf
GIAO TRINH TRIET HOC M-L - 2021 (1).pdfNgnNK
 
Sử dụng phương pháp lôgic lịch sử vào nghiên cứu văn hóa làng xã việt nam 6...
Sử dụng phương pháp lôgic   lịch sử vào nghiên cứu văn hóa làng xã việt nam 6...Sử dụng phương pháp lôgic   lịch sử vào nghiên cứu văn hóa làng xã việt nam 6...
Sử dụng phương pháp lôgic lịch sử vào nghiên cứu văn hóa làng xã việt nam 6...jackjohn45
 
861301 861301 068-3121430232_đào quốc vĩnh
861301 861301 068-3121430232_đào quốc vĩnh861301 861301 068-3121430232_đào quốc vĩnh
861301 861301 068-3121430232_đào quốc vĩnhoQucVnhA0887
 
Tư tưởng triết học của nguyễn trãi đặc điểm và giá trị lịch sử
Tư tưởng triết học của nguyễn trãi   đặc điểm và giá trị lịch sửTư tưởng triết học của nguyễn trãi   đặc điểm và giá trị lịch sử
Tư tưởng triết học của nguyễn trãi đặc điểm và giá trị lịch sửMan_Ebook
 
Nhân sinh quan trong tư tưởng của Minh Mệnh - đặc điểm và ý nghĩa lịch sử
Nhân sinh quan trong tư tưởng của Minh Mệnh - đặc điểm và ý nghĩa lịch sửNhân sinh quan trong tư tưởng của Minh Mệnh - đặc điểm và ý nghĩa lịch sử
Nhân sinh quan trong tư tưởng của Minh Mệnh - đặc điểm và ý nghĩa lịch sửMan_Ebook
 

Similar to Ý thức xã hội Việt Nam truyền thông - những mặt tích cực và hạn chế khi bước vào sự nghiệp đối mới đất nước (20)

Những vấn đề lý luận cơ bản về phát triển xã hội1.pdf
Những vấn đề lý luận cơ bản về phát triển xã hội1.pdfNhững vấn đề lý luận cơ bản về phát triển xã hội1.pdf
Những vấn đề lý luận cơ bản về phát triển xã hội1.pdf
 
Xây dựng đời sống văn hóa cơ sở trên địa bàn xã Đại Hưng, huyện Mỹ Đức, thành...
Xây dựng đời sống văn hóa cơ sở trên địa bàn xã Đại Hưng, huyện Mỹ Đức, thành...Xây dựng đời sống văn hóa cơ sở trên địa bàn xã Đại Hưng, huyện Mỹ Đức, thành...
Xây dựng đời sống văn hóa cơ sở trên địa bàn xã Đại Hưng, huyện Mỹ Đức, thành...
 
Xây dựng đời sống văn hóa cơ sở trên địa bàn xã Đại Hưng, huyện Mỹ Đức, thành...
Xây dựng đời sống văn hóa cơ sở trên địa bàn xã Đại Hưng, huyện Mỹ Đức, thành...Xây dựng đời sống văn hóa cơ sở trên địa bàn xã Đại Hưng, huyện Mỹ Đức, thành...
Xây dựng đời sống văn hóa cơ sở trên địa bàn xã Đại Hưng, huyện Mỹ Đức, thành...
 
Vấn đề thực hiện dân chủ ở nông thôn Hải Phòng hiện nay.pdf
Vấn đề thực hiện dân chủ ở nông thôn Hải Phòng hiện nay.pdfVấn đề thực hiện dân chủ ở nông thôn Hải Phòng hiện nay.pdf
Vấn đề thực hiện dân chủ ở nông thôn Hải Phòng hiện nay.pdf
 
Nâng cao hiệu quả giáo dục ý thức chính trị cho sinh viên các trƣờng cao đẳng...
Nâng cao hiệu quả giáo dục ý thức chính trị cho sinh viên các trƣờng cao đẳng...Nâng cao hiệu quả giáo dục ý thức chính trị cho sinh viên các trƣờng cao đẳng...
Nâng cao hiệu quả giáo dục ý thức chính trị cho sinh viên các trƣờng cao đẳng...
 
Luận văn: Nâng cao hiệu quả giáo dục ý thức chính trị cho sinh viên
Luận văn: Nâng cao hiệu quả giáo dục ý thức chính trị cho sinh viênLuận văn: Nâng cao hiệu quả giáo dục ý thức chính trị cho sinh viên
Luận văn: Nâng cao hiệu quả giáo dục ý thức chính trị cho sinh viên
 
Luận Văn Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hoá và về vấn đề xây dựng nền văn hoá ti...
Luận Văn Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hoá và về vấn đề xây dựng nền văn hoá ti...Luận Văn Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hoá và về vấn đề xây dựng nền văn hoá ti...
Luận Văn Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hoá và về vấn đề xây dựng nền văn hoá ti...
 
lien-he-cac-van-de-trong-triet-hoc-vao-cuoc-song-thuc-tien.pdf
lien-he-cac-van-de-trong-triet-hoc-vao-cuoc-song-thuc-tien.pdflien-he-cac-van-de-trong-triet-hoc-vao-cuoc-song-thuc-tien.pdf
lien-he-cac-van-de-trong-triet-hoc-vao-cuoc-song-thuc-tien.pdf
 
Vai trò của khoa học công nghệ trong sự phát triển của xã hội (TẢI FREE ZALO ...
Vai trò của khoa học công nghệ trong sự phát triển của xã hội (TẢI FREE ZALO ...Vai trò của khoa học công nghệ trong sự phát triển của xã hội (TẢI FREE ZALO ...
Vai trò của khoa học công nghệ trong sự phát triển của xã hội (TẢI FREE ZALO ...
 
Một Số Vấn Đề Về Công Tác Tuyên Giáo Trong Điều Kiện Hiện Nay Ở Việt Nam
Một Số Vấn Đề Về Công Tác Tuyên Giáo Trong Điều Kiện Hiện Nay Ở Việt Nam Một Số Vấn Đề Về Công Tác Tuyên Giáo Trong Điều Kiện Hiện Nay Ở Việt Nam
Một Số Vấn Đề Về Công Tác Tuyên Giáo Trong Điều Kiện Hiện Nay Ở Việt Nam
 
7.2021._giao_trinh_triet_hoc_mac_-_lenin_(khong_chuyen)_1.9m.doc
7.2021._giao_trinh_triet_hoc_mac_-_lenin_(khong_chuyen)_1.9m.doc7.2021._giao_trinh_triet_hoc_mac_-_lenin_(khong_chuyen)_1.9m.doc
7.2021._giao_trinh_triet_hoc_mac_-_lenin_(khong_chuyen)_1.9m.doc
 
Tiểu luận triết học
Tiểu luận triết họcTiểu luận triết học
Tiểu luận triết học
 
GIAO TRINH TRIET HOC M-L - 2021 (1).pdf
GIAO TRINH TRIET HOC M-L - 2021 (1).pdfGIAO TRINH TRIET HOC M-L - 2021 (1).pdf
GIAO TRINH TRIET HOC M-L - 2021 (1).pdf
 
Luận văn: Vai trò đội ngũ trí thức Thành phố Hồ Chí Minh, HOT
Luận văn: Vai trò đội ngũ trí thức Thành phố Hồ Chí Minh, HOTLuận văn: Vai trò đội ngũ trí thức Thành phố Hồ Chí Minh, HOT
Luận văn: Vai trò đội ngũ trí thức Thành phố Hồ Chí Minh, HOT
 
Luận án: Vai trò đội ngũ trí thức TPHCM trong giai đoạn hiện nay
Luận án: Vai trò đội ngũ trí thức TPHCM trong giai đoạn hiện nayLuận án: Vai trò đội ngũ trí thức TPHCM trong giai đoạn hiện nay
Luận án: Vai trò đội ngũ trí thức TPHCM trong giai đoạn hiện nay
 
Sử dụng phương pháp lôgic lịch sử vào nghiên cứu văn hóa làng xã việt nam 6...
Sử dụng phương pháp lôgic   lịch sử vào nghiên cứu văn hóa làng xã việt nam 6...Sử dụng phương pháp lôgic   lịch sử vào nghiên cứu văn hóa làng xã việt nam 6...
Sử dụng phương pháp lôgic lịch sử vào nghiên cứu văn hóa làng xã việt nam 6...
 
861301 861301 068-3121430232_đào quốc vĩnh
861301 861301 068-3121430232_đào quốc vĩnh861301 861301 068-3121430232_đào quốc vĩnh
861301 861301 068-3121430232_đào quốc vĩnh
 
Tư tưởng triết học của nguyễn trãi đặc điểm và giá trị lịch sử
Tư tưởng triết học của nguyễn trãi   đặc điểm và giá trị lịch sửTư tưởng triết học của nguyễn trãi   đặc điểm và giá trị lịch sử
Tư tưởng triết học của nguyễn trãi đặc điểm và giá trị lịch sử
 
Luận án: Giáo dục giá trị văn hóa tinh thần cho sinh viên Việt Nam
Luận án: Giáo dục giá trị văn hóa tinh thần cho sinh viên Việt NamLuận án: Giáo dục giá trị văn hóa tinh thần cho sinh viên Việt Nam
Luận án: Giáo dục giá trị văn hóa tinh thần cho sinh viên Việt Nam
 
Nhân sinh quan trong tư tưởng của Minh Mệnh - đặc điểm và ý nghĩa lịch sử
Nhân sinh quan trong tư tưởng của Minh Mệnh - đặc điểm và ý nghĩa lịch sửNhân sinh quan trong tư tưởng của Minh Mệnh - đặc điểm và ý nghĩa lịch sử
Nhân sinh quan trong tư tưởng của Minh Mệnh - đặc điểm và ý nghĩa lịch sử
 

More from Dịch vụ Làm Luận Văn 0936885877

Báo cáo thực tập quản trị nhân sự tại công ty Bất Động Sản Win Home
Báo cáo thực tập quản trị nhân sự tại công ty Bất Động Sản Win HomeBáo cáo thực tập quản trị nhân sự tại công ty Bất Động Sản Win Home
Báo cáo thực tập quản trị nhân sự tại công ty Bất Động Sản Win HomeDịch vụ Làm Luận Văn 0936885877
 
Báo cáo thực tập Văn hóa doanh nghiệp tại công ty sữa Vinamilk
Báo cáo thực tập Văn hóa doanh nghiệp tại công ty sữa VinamilkBáo cáo thực tập Văn hóa doanh nghiệp tại công ty sữa Vinamilk
Báo cáo thực tập Văn hóa doanh nghiệp tại công ty sữa VinamilkDịch vụ Làm Luận Văn 0936885877
 
Luận văn thạc sĩ Giá trị đạo lý trong sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu với đời ...
Luận văn thạc sĩ Giá trị đạo lý trong sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu với đời ...Luận văn thạc sĩ Giá trị đạo lý trong sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu với đời ...
Luận văn thạc sĩ Giá trị đạo lý trong sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu với đời ...Dịch vụ Làm Luận Văn 0936885877
 
Luận văn văn hóa học ảnh hưởng của truyền thông đối với việc chọn nghề của họ...
Luận văn văn hóa học ảnh hưởng của truyền thông đối với việc chọn nghề của họ...Luận văn văn hóa học ảnh hưởng của truyền thông đối với việc chọn nghề của họ...
Luận văn văn hóa học ảnh hưởng của truyền thông đối với việc chọn nghề của họ...Dịch vụ Làm Luận Văn 0936885877
 
Luận văn thạc sĩ văn hóa học Di sản khảo cổ học trong bối cảnh Đương Đại
Luận văn thạc sĩ văn hóa học Di sản khảo cổ học trong bối cảnh Đương ĐạiLuận văn thạc sĩ văn hóa học Di sản khảo cổ học trong bối cảnh Đương Đại
Luận văn thạc sĩ văn hóa học Di sản khảo cổ học trong bối cảnh Đương ĐạiDịch vụ Làm Luận Văn 0936885877
 
Luận văn thạc sĩ ứng dụng thương mại điện tử trong bán lẻ Việt Nam
Luận văn thạc sĩ ứng dụng thương mại điện tử trong bán lẻ Việt NamLuận văn thạc sĩ ứng dụng thương mại điện tử trong bán lẻ Việt Nam
Luận văn thạc sĩ ứng dụng thương mại điện tử trong bán lẻ Việt NamDịch vụ Làm Luận Văn 0936885877
 
Luận văn thạc sĩ thương mại điện tử ý định mua sách trực tuyến
Luận văn thạc sĩ thương mại điện tử ý định mua sách trực tuyếnLuận văn thạc sĩ thương mại điện tử ý định mua sách trực tuyến
Luận văn thạc sĩ thương mại điện tử ý định mua sách trực tuyếnDịch vụ Làm Luận Văn 0936885877
 
Luận văn thạc sĩ chính trị học giáo dục Lý Luận Chính Trị Cho Cán Bộ Cấp Cơ Sở
Luận văn thạc sĩ chính trị học giáo dục Lý Luận Chính Trị Cho Cán Bộ Cấp Cơ SởLuận văn thạc sĩ chính trị học giáo dục Lý Luận Chính Trị Cho Cán Bộ Cấp Cơ Sở
Luận văn thạc sĩ chính trị học giáo dục Lý Luận Chính Trị Cho Cán Bộ Cấp Cơ SởDịch vụ Làm Luận Văn 0936885877
 
Luận văn Phát triển nông thôn Trong Xây Dựng Nông Thôn Mới
Luận văn Phát triển nông thôn Trong Xây Dựng Nông Thôn MớiLuận văn Phát triển nông thôn Trong Xây Dựng Nông Thôn Mới
Luận văn Phát triển nông thôn Trong Xây Dựng Nông Thôn MớiDịch vụ Làm Luận Văn 0936885877
 
Luận văn thạc sĩ ngành xã hội học về người có uy tín trên báo
Luận văn thạc sĩ ngành xã hội học về người có uy tín trên báoLuận văn thạc sĩ ngành xã hội học về người có uy tín trên báo
Luận văn thạc sĩ ngành xã hội học về người có uy tín trên báoDịch vụ Làm Luận Văn 0936885877
 
Luận văn thạc sĩ xã hội học Giao tiếp trong gia đình đô thị
Luận văn thạc sĩ xã hội học Giao tiếp trong gia đình đô thịLuận văn thạc sĩ xã hội học Giao tiếp trong gia đình đô thị
Luận văn thạc sĩ xã hội học Giao tiếp trong gia đình đô thịDịch vụ Làm Luận Văn 0936885877
 
Tiểu luận Thiết lập và thẩm định dự án đầu tư_ Dự án đầu tư cửa hàng bánh ngọt
Tiểu luận Thiết lập và thẩm định dự án đầu tư_ Dự án đầu tư cửa hàng bánh ngọtTiểu luận Thiết lập và thẩm định dự án đầu tư_ Dự án đầu tư cửa hàng bánh ngọt
Tiểu luận Thiết lập và thẩm định dự án đầu tư_ Dự án đầu tư cửa hàng bánh ngọtDịch vụ Làm Luận Văn 0936885877
 
Tiểu luận thẩm định dự án đầu tư trung tâm kỹ năng Anoz5
Tiểu luận thẩm định dự án đầu tư trung tâm kỹ năng Anoz5Tiểu luận thẩm định dự án đầu tư trung tâm kỹ năng Anoz5
Tiểu luận thẩm định dự án đầu tư trung tâm kỹ năng Anoz5Dịch vụ Làm Luận Văn 0936885877
 
Tiểu luận thẩm định dự án đầu tư quán ăn vặt Fastfood
Tiểu luận thẩm định dự án đầu tư quán ăn vặt FastfoodTiểu luận thẩm định dự án đầu tư quán ăn vặt Fastfood
Tiểu luận thẩm định dự án đầu tư quán ăn vặt FastfoodDịch vụ Làm Luận Văn 0936885877
 
Tiểu luận thẩm định dự án đầu tư cửa hàng thức ăn nhanh
Tiểu luận thẩm định dự án đầu tư cửa hàng thức ăn nhanhTiểu luận thẩm định dự án đầu tư cửa hàng thức ăn nhanh
Tiểu luận thẩm định dự án đầu tư cửa hàng thức ăn nhanhDịch vụ Làm Luận Văn 0936885877
 
Tiểu luận biểu hiện văn hóa doanh nghiệp của Tập Đoàn FPT
Tiểu luận biểu hiện văn hóa doanh nghiệp của Tập Đoàn FPTTiểu luận biểu hiện văn hóa doanh nghiệp của Tập Đoàn FPT
Tiểu luận biểu hiện văn hóa doanh nghiệp của Tập Đoàn FPTDịch vụ Làm Luận Văn 0936885877
 

More from Dịch vụ Làm Luận Văn 0936885877 (20)

Báo cáo thực tập quản trị nhân sự tại công ty Bất Động Sản Win Home
Báo cáo thực tập quản trị nhân sự tại công ty Bất Động Sản Win HomeBáo cáo thực tập quản trị nhân sự tại công ty Bất Động Sản Win Home
Báo cáo thực tập quản trị nhân sự tại công ty Bất Động Sản Win Home
 
Báo cáo thực tập Văn hóa doanh nghiệp tại công ty sữa Vinamilk
Báo cáo thực tập Văn hóa doanh nghiệp tại công ty sữa VinamilkBáo cáo thực tập Văn hóa doanh nghiệp tại công ty sữa Vinamilk
Báo cáo thực tập Văn hóa doanh nghiệp tại công ty sữa Vinamilk
 
Luận văn thạc sĩ Giá trị đạo lý trong sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu với đời ...
Luận văn thạc sĩ Giá trị đạo lý trong sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu với đời ...Luận văn thạc sĩ Giá trị đạo lý trong sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu với đời ...
Luận văn thạc sĩ Giá trị đạo lý trong sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu với đời ...
 
Luận văn văn hóa học ảnh hưởng của truyền thông đối với việc chọn nghề của họ...
Luận văn văn hóa học ảnh hưởng của truyền thông đối với việc chọn nghề của họ...Luận văn văn hóa học ảnh hưởng của truyền thông đối với việc chọn nghề của họ...
Luận văn văn hóa học ảnh hưởng của truyền thông đối với việc chọn nghề của họ...
 
Luận văn thạc sĩ văn hóa học Di sản khảo cổ học trong bối cảnh Đương Đại
Luận văn thạc sĩ văn hóa học Di sản khảo cổ học trong bối cảnh Đương ĐạiLuận văn thạc sĩ văn hóa học Di sản khảo cổ học trong bối cảnh Đương Đại
Luận văn thạc sĩ văn hóa học Di sản khảo cổ học trong bối cảnh Đương Đại
 
Luận văn thạc sĩ văn hóa học về chợ quê truyền thống
Luận văn thạc sĩ văn hóa học về chợ quê truyền thốngLuận văn thạc sĩ văn hóa học về chợ quê truyền thống
Luận văn thạc sĩ văn hóa học về chợ quê truyền thống
 
Luận văn thạc sĩ ứng dụng thương mại điện tử trong bán lẻ Việt Nam
Luận văn thạc sĩ ứng dụng thương mại điện tử trong bán lẻ Việt NamLuận văn thạc sĩ ứng dụng thương mại điện tử trong bán lẻ Việt Nam
Luận văn thạc sĩ ứng dụng thương mại điện tử trong bán lẻ Việt Nam
 
Luận văn thạc sĩ thương mại điện tử ý định mua sách trực tuyến
Luận văn thạc sĩ thương mại điện tử ý định mua sách trực tuyếnLuận văn thạc sĩ thương mại điện tử ý định mua sách trực tuyến
Luận văn thạc sĩ thương mại điện tử ý định mua sách trực tuyến
 
Luận văn thạc sĩ chính trị học giáo dục Lý Luận Chính Trị Cho Cán Bộ Cấp Cơ Sở
Luận văn thạc sĩ chính trị học giáo dục Lý Luận Chính Trị Cho Cán Bộ Cấp Cơ SởLuận văn thạc sĩ chính trị học giáo dục Lý Luận Chính Trị Cho Cán Bộ Cấp Cơ Sở
Luận văn thạc sĩ chính trị học giáo dục Lý Luận Chính Trị Cho Cán Bộ Cấp Cơ Sở
 
Luận văn Phát triển nông thôn Trong Xây Dựng Nông Thôn Mới
Luận văn Phát triển nông thôn Trong Xây Dựng Nông Thôn MớiLuận văn Phát triển nông thôn Trong Xây Dựng Nông Thôn Mới
Luận văn Phát triển nông thôn Trong Xây Dựng Nông Thôn Mới
 
Luận văn thạc sĩ phát triển nông thôn Kinh Tế Trang Trại
Luận văn thạc sĩ phát triển nông thôn Kinh Tế Trang TrạiLuận văn thạc sĩ phát triển nông thôn Kinh Tế Trang Trại
Luận văn thạc sĩ phát triển nông thôn Kinh Tế Trang Trại
 
Luận văn thạc sĩ ngành xã hội học về người có uy tín trên báo
Luận văn thạc sĩ ngành xã hội học về người có uy tín trên báoLuận văn thạc sĩ ngành xã hội học về người có uy tín trên báo
Luận văn thạc sĩ ngành xã hội học về người có uy tín trên báo
 
Luận văn thạc sĩ xã hội học Giao tiếp trong gia đình đô thị
Luận văn thạc sĩ xã hội học Giao tiếp trong gia đình đô thịLuận văn thạc sĩ xã hội học Giao tiếp trong gia đình đô thị
Luận văn thạc sĩ xã hội học Giao tiếp trong gia đình đô thị
 
Tiểu luận Thiết lập và thẩm định dự án đầu tư_ Dự án đầu tư cửa hàng bánh ngọt
Tiểu luận Thiết lập và thẩm định dự án đầu tư_ Dự án đầu tư cửa hàng bánh ngọtTiểu luận Thiết lập và thẩm định dự án đầu tư_ Dự án đầu tư cửa hàng bánh ngọt
Tiểu luận Thiết lập và thẩm định dự án đầu tư_ Dự án đầu tư cửa hàng bánh ngọt
 
Tiểu luận thẩm định dự án đầu tư trung tâm kỹ năng Anoz5
Tiểu luận thẩm định dự án đầu tư trung tâm kỹ năng Anoz5Tiểu luận thẩm định dự án đầu tư trung tâm kỹ năng Anoz5
Tiểu luận thẩm định dự án đầu tư trung tâm kỹ năng Anoz5
 
Tiểu luận thẩm định dự án đầu tư quán cafe
Tiểu luận thẩm định dự án đầu tư quán cafeTiểu luận thẩm định dự án đầu tư quán cafe
Tiểu luận thẩm định dự án đầu tư quán cafe
 
Tiểu luận thẩm định dự án đầu tư quán ăn vặt Fastfood
Tiểu luận thẩm định dự án đầu tư quán ăn vặt FastfoodTiểu luận thẩm định dự án đầu tư quán ăn vặt Fastfood
Tiểu luận thẩm định dự án đầu tư quán ăn vặt Fastfood
 
Tiểu luận thẩm định dự án đầu tư cửa hàng thức ăn nhanh
Tiểu luận thẩm định dự án đầu tư cửa hàng thức ăn nhanhTiểu luận thẩm định dự án đầu tư cửa hàng thức ăn nhanh
Tiểu luận thẩm định dự án đầu tư cửa hàng thức ăn nhanh
 
Tiểu luận văn hóa doanh nghiệp của Tập Đoàn TH
Tiểu luận văn hóa doanh nghiệp của Tập Đoàn THTiểu luận văn hóa doanh nghiệp của Tập Đoàn TH
Tiểu luận văn hóa doanh nghiệp của Tập Đoàn TH
 
Tiểu luận biểu hiện văn hóa doanh nghiệp của Tập Đoàn FPT
Tiểu luận biểu hiện văn hóa doanh nghiệp của Tập Đoàn FPTTiểu luận biểu hiện văn hóa doanh nghiệp của Tập Đoàn FPT
Tiểu luận biểu hiện văn hóa doanh nghiệp của Tập Đoàn FPT
 

Recently uploaded

GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢIPHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢImyvh40253
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
sách sinh học đại cương   -   Textbook.pdfsách sinh học đại cương   -   Textbook.pdf
sách sinh học đại cương - Textbook.pdfTrnHoa46
 
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...hoangtuansinh1
 
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIĐiện Lạnh Bách Khoa Hà Nội
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfhoangtuansinh1
 
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docxTHAO316680
 
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoáCác điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoámyvh40253
 
CD21 Exercise 2.1 KEY.docx tieng anh cho
CD21 Exercise 2.1 KEY.docx tieng anh choCD21 Exercise 2.1 KEY.docx tieng anh cho
CD21 Exercise 2.1 KEY.docx tieng anh chonamc250
 
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quanGNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quanmyvh40253
 
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfCampbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfTrnHoa46
 
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgspowerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgsNmmeomeo
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................TrnHoa46
 
Nhiễm khuẩn tiêu hóa-Tiêu chảy do vi khuẩn.pptx
Nhiễm khuẩn tiêu hóa-Tiêu chảy do vi khuẩn.pptxNhiễm khuẩn tiêu hóa-Tiêu chảy do vi khuẩn.pptx
Nhiễm khuẩn tiêu hóa-Tiêu chảy do vi khuẩn.pptxhoangvubaongoc112011
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...Nguyen Thanh Tu Collection
 
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdfBỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdfNguyen Thanh Tu Collection
 
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIGIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIĐiện Lạnh Bách Khoa Hà Nội
 

Recently uploaded (20)

GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
 
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢIPHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
sách sinh học đại cương   -   Textbook.pdfsách sinh học đại cương   -   Textbook.pdf
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
 
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
 
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
 
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
 
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoáCác điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
 
CD21 Exercise 2.1 KEY.docx tieng anh cho
CD21 Exercise 2.1 KEY.docx tieng anh choCD21 Exercise 2.1 KEY.docx tieng anh cho
CD21 Exercise 2.1 KEY.docx tieng anh cho
 
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quanGNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
 
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfCampbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
 
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgspowerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
 
Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................
 
Nhiễm khuẩn tiêu hóa-Tiêu chảy do vi khuẩn.pptx
Nhiễm khuẩn tiêu hóa-Tiêu chảy do vi khuẩn.pptxNhiễm khuẩn tiêu hóa-Tiêu chảy do vi khuẩn.pptx
Nhiễm khuẩn tiêu hóa-Tiêu chảy do vi khuẩn.pptx
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
 
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdfBỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
 
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIGIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
 

Ý thức xã hội Việt Nam truyền thông - những mặt tích cực và hạn chế khi bước vào sự nghiệp đối mới đất nước

  • 1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN =========== ĐÀO THỊ QUỲNH HOA Ý THỨC XÃ HỘI VIỆT NAM TRUYỀN THỐNG - NHỮNG MẶT TÍCH CỰC VÀ HẠN CHẾ KHI BƯỚC VÀO SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI ĐẤT NƯỚC LUẬN VĂN THẠC SĨ Chuyên ngành: Triết học Hà Nội- 12/2012 1
  • 2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN =========== ĐÀO THỊ QUỲNH HOA Ý THỨC XÃ HỘI VIỆT NAM TRUYỀN THỐNG - NHỮNG MẶT TÍCH CỰC VÀ HẠN CHẾ KHI BƯỚC VÀO SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI ĐẤT NƯỚC Luận văn thạc sĩ chuyên ngành: Triết học Mã số: 60.22.80 Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Đặng Thị Lan Hà Nội- 12/2012 2
  • 3. MỤC LỤC MỞ ĐẦU...................................................................................................1 Chương 1: Ý THỨC XÃ HỘI VÀ Ý THỨC XÃ HỘI VIỆT NAM TRUYỀN THỐNG ...................................................................................9 1.1. Ý thức xã hội ..................................................................................9 1.1.1. Khái niệm ý thức xã hội ............................................................9 1.1.2. Bản chấtcủa ý thức xã hội......................................................14 1.1.3. Cáccấp độ của ý thức xã hội...................................................15 1.2. Ý thức xã hội Việt Nam truyền thống...........................................18 1.2.1. Khái niệm ý thức xã hội Việt Nam truyền thống......................18 1.2.2. Cơsở hình thành của ý thức xã hội Việt Nam truyền thống ....20 1.2.3. Mộtsố đặcđiểm của ý thức xã hội ViệtNam truyền thống ......31 Chương 2: Ý THỨC XÃ HỘI VIỆT NAM TRUYỀN THỐNG TRONG52 QUÁ TRÌNH ĐỔI MỚI ĐẤT NƯỚC.....................................................52 2.1. Một số nét khái quát về công cuộc đổi đất nước...........................52 2.2. Đánh giá những mặt tích cực và hạn chế của ý thức xã hội Việt Nam truyền thống đối với sự nghiệp đổi mới đất nước ta hiện nay ....58 2.2.1. Những mặt tích cực của ý thức xã hội Việt Nam truyền thống . 58 2.2.2. Những mặt hạn chế của ý thức xã hội Việt Nam truyền thống . 65 2.3. Phương hướng phát huy những mặt tích cực và khắc phục những mặt hạn chế của ý thức xã hội Việt Nam truyền thống ở nước ta hiện nay.......................................................................................................70 2.4. Một số giải pháp nhằm phát huy những mặt tích cực và khắc phục những mặt hạn chế của ý thức xã hội Việt Nam truyền thống............76 KẾT LUẬN.............................................................................................87 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.................................................89 5
  • 4. MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Nhân loại đã đi hết chặng đường còn lại của thập niên đầu, bước vào thập niên thứ hai của thế kỷ XXI, sẽ xuất hiện rất nhiều điều mới mẻ về khoa học, công nghệ, lý luận... Cùng với quá trình đó, nền kinh tế vật chất dựa chủ yếu trên cơ sở sản xuất nông nghiệp và công nghiệp, lấy việc khai thác tài nguyên thiên nhiên, sản xuất, chế biến, phân phối, sử dụng sản phẩm vật chất làm nền tảng đang chuyển dần sang nền kinh tế tri thức, trong đó việc sản xuất, truyền tải, sử dụng tri thức chi phối toàn bộ các hoạt động kinh tế. Từ nay, các giá trị kinh tế lớn nhất được làm ra không phải trong khu vực trực tiếp sản xuất của cải vật chất mà trong khu vực khoa học - kỹ thuật, dịch vụ. Vai trò của tài nguyên thiên nhiên và của cải vật chất sẵn có ngày càng giảm so với tiềm năng trí tuệ, tinh thần, văn hoá. Nếu gần 40 năm trước, sự tiêu hao vật chất và năng lượng với nhịp độ khó kiềm chế của nền văn minh công nghiệp truyền thống đã khiến các nhà kinh tế thuộc câu lạc bộ Roma lên tiếng kêu gọi các chính phủ ngừng tăng trưởng kinh tế (tăng trưởng zêrô) để ngăn ngừa thảm hoạ diệt vong, thì cuộc cách mạng công nghệ thông tin đã đảo lộn tình hình và đưa nhân loại tiến lên một nền văn minh mới, cao hơn: nền văn minh trí tuệ, trong đó tăng trưởng không ô nhiễm môi trường sống. Trong xu thế toàn cầu hoá đi đôi với cạnh tranh quyết liệt, nền kinh tế tri thức tạo nhiều cơ hội thuận lợi cho những nuớc đi sau có thể dựa vào tiềm năng chất xám để nhanh chóng đuổi kịp các nước khác, song cũng hàm chứa những thách thức to lớn, những khó khăn, rủi ro và cạm bẫy không phải luôn luôn dễ nhìn và dễ tránh. Trong lịch sử, chưa bao giờ các đặc điểm tâm lý, ý thức có ý nghĩa quyết định đối với sự thịnh vượng, thậm chí sự tồn vong của một quốc gia như hiện nay. Trong các điều kiện ấy, sẽ không có gì lạ nếu tới đây bên cạnh một số nước tăng trưởng mau chóng thần kỳ có thể có những nuớc suy sụp thảm hại và tụt hậu vô cùng. 1
  • 5. Việt Nam đang tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện đất nước. Chúng ta đã giành được những thành tựu to lớn và rất đáng tự hào. Tại Đại hội XI của Đảng, đánh giá 20 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đảng ta nêu rõ: “Những thành tựu đạt được trong 20 năm qua là to lớn và có ý nghĩa lịch sử. Chúng ta đã thực hiện thành công chặng đường đầu của công cuộc đổi mới, đưa đất nước ra khỏi tình trạng kém phát triển, đời sống nhân dân có nhiều thay đổi tích cực, sức mạnh quốc gia về mọi mặt được tăng cường, độc lập, tự chủ và chế độ xã hội chủ nghĩa được giữ vững, vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao, tạo tiền đề để nước ta tiếp tục phát triển mạnh mẽ và bền vững hơn trong giai đoạn mới” [13; 24]. Những thành tựu về chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh, quốc phòng và ngoại giao đã tạo thế và lực mới cho cách mạng Việt Nam. Chính những thắng lợi to lớn đó là nhân tố quyết định tạo ra thời cơ cho nước ta phát triển nhanh hơn trong thời gian tới. Tuy nhiên, khi phải so sánh với các nước trong khu vực, theo báo cáo gần đây của Ngân hàng Thế giới, với tốc độ phát triển hiện nay, Việt Nam cần 51 năm để đuổi kịp Inđônêxia, 95 năm để đuổi kịp Thái Lan, 158 năm để đuổi kịp Xingapo. Những con số làm ngạc nhiên và thất vọng nhiều người trong chúng ta! Truy tìm những nguyên nhân gây ra sự chậm trễ này, người ta thấy có một phần từ trong quá khứ, từ sự chưa sẵn sàng chủ động hội nhập và sự thiếu vắng một nếp tư duy phát triển trong tâm thức và truyền thống của người Việt. Vì vậy, phân tích để hiểu rõ những đặc điểm của ý thức xã hội Việt Nam truyền thống (bao gồm những quan niệm, tư tưởng cùng với những tình cảm, tâm trạng, truyền thống của dân tộc), những mặt tốt, những yếu tố tích cực, thúc đẩy sự phát triển; cùng với những nhược điểm, những yếu tố chưa tốt, thậm chí tiêu cực, đang hoặc sẽ níu kéo chúng ta lại sau là việc làm hết sức cần thiết để giúp xây dựng một chiến lược phát triển đúng đắn, phù hợp với hoàn cảnh và điều kiện thế giới ngày nay. Cần nhìn lại kỹ bản thân không chỉ để tự tin hơn, mà còn để bớt chủ quan trước tình hình mới. Tự soi gương bao 2
  • 6. giờ cũng có ích, nhưng không phải chỉ để thấy mình đẹp mà còn để thấy mình có những khiếm khuyết gì cần phải sửa, thay vì cố tình bỏ qua hay che giấu. Xuất phát từ những vấn đề trên, tác giả đã chọn vấn đề“Ý thức xã hội Việt Nam truyền thống - những mặt tích cực và hạn chế khi bước vào sự nghiệp đổi mới đất nước” làm đề tài nghiên cứu cho luận văn Thạc sĩ của mình, với hy vọng sẽ có được một cái nhìn toàn diện và sâu sắc về một vấn đề không còn mới mẻ nhưng có ý nghĩa vô cùng to lớn trong giai đoạn hiện nay. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Vấn đề tìm hiểu về ý thức và ý thức xã hội nói chung từ lâu đã thu hút được sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu ở trong và ngoài nước. Việc giới thiệu những kết quả nghiên cứu về ý thức, ý thức xã hội nói chung cũng được thực hiện ở nước ta từ khá sớm so với các vấn đề triết học khác. Cuốn sách “Tìm về cội nguồn của ngôn ngữ và ý thức” của GS. Trần Đức Thảo (Nxb. Thông tin, Hà Nội, 1996) đã góp phần loại bỏ cách hiểu bản chất con người chung chung, trừu tượng, phi lịch sử, cũng như cách hiểu bản chất con người là do vô thức quyết định, đồng thời khẳng định chính ngôn ngữ và lao động xã hội là nguồn gốc của ý thức. Các công trình nghiên cứu như bản dịch cuốn “Ý thức xã hội và các hình thái ý thức xã hội” của Côngstăngtinốp (Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1956); “Ý thức xã hội” của Cục Tuyên huấn (Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1956); “Cấu trúc và các quy luật của ý thức xã hội” của B.A.Traghen (Nxb. Tiến bộ Mátxcơva, 1968); “Triết học xã hội” tập II của A.G. Xpirkin (Nxb. Tuyên huấn, 1989)… đã tạo ra những cơ sở quan trọng cho việc tiếp cận dưới góc độ triết học đối với vấn đề này. Các công trình kể trên đã bàn về ý thức xã hội với tư cách là một nhân tố trong mối quan hệ với tồn tại xã hội, chỉ ra sự thống nhất giữa ý thức xã hội và tồn tại xã hội; phân tích kết cấu, các cấp độ và tính giai cấp của ý thức xã hội, đi sâu nghiên cứu về các quy luật nội tại của ý thức xã hội, phân tích các quá trình phát sinh, 3
  • 7. phát triển của ý thức xã hội. Song có rất ít công trình bàn đến ý thức xã hội của một quốc gia, dân tộc cụ thể. Ở nước ta, việc nghiên cứu về ý thức xã hội Việt Nam truyền thống cũng chưa nhiều, chủ yếu được bàn đến trong các cuốn sách, luận án, bài viết có liên quan. Trong cuốn sách “Giá trị truyền thống của dân tộc Việt Nam” (Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011), GS. Trần Văn Giàu đã đi sâu phân tích những điều kiện hình thành và phát triển các giá trị đạo đức truyền thống, đồng thời chỉ ra các giá trị truyền thống của dân tộc như: yêu nước, cần cù, anh hùng, sáng tạo, lạc quan, thương người, vì nghĩa. Xuyên suốt tác phẩm, tác giả đã làm nổi bật luận điểm: Chủ nghĩa yêu nước là tư tưởng và tình cảm chủ yếu của người Việt Nam xưa nay, là sợi chỉ đỏ xuyên qua toàn bộ lịch sử Việt Nam. Ngoài ra còn phải kể đến một số công trình như:“Văn hoá sử cương” của GS. Đào Duy Anh; “Đến hiện đạitừ truyền thống” của GS. Trần Đình Hựu; “Bản sắc văn hoá Việt Nam” của GS. Phan Ngọc. Những công trình này chủ yếu đi sâu phân tích đời sống tinh thần nói chung, phân tích một số giá trị truyền thống tiêu biểu, khẳng định vai trò của những giá trị đó đối với công cuộc dựng nước và giữ nước của dân tộc ta. Cuốn sách “Triết học với sự nghiệp đổi mới” (Nxb. Sự Thật, 1990) của GS. Phạm Thành, GS. Lê Hữu Tầng, GS. Hồ Văn Thông đã phân tích vai trò của tư duy triết học mácxít trong công cuộc đổi mới tư duy lý luận để nhận thức những vấn đề mới của cách mạng Việt Nam, từ đó xác định được hướng đi và cách giải quyết đúng những vấn đề đó. Các công trình: “Ảnh hưởng các hệ tư tưởng và tôn giáo đối với con ngườiViệt Nam hiện nay” của PGS.TS Nguyễn Tài Thư (Nxb. Chính trị quốc gia, 1997); “Về tín ngưỡng tôn giáo Việt Nam hiện nay” của GS. Đặng Nghiêm Vạn (Nxb. Khoa học xã hội, 1998) đã phân tích một số vấn đề lý luận và thực tiễn cũng như các hình thái vận động và sự tác động của các hệ tư tưởng và tôn giáo đối với con người Việt Nam. Cuốn sách “Phương thức sản xuất châu Á - lý luận Mác - Lênnin và thực tiễn Việt Nam” (Nxb. Khoa học xã hội, 1996) của GS. Văn Tạo đã giới thiệu khái quát quá trình 4
  • 8. hình thành lý luận Mác - Lênnin về phương thức sản xuất châu Á, đồng thời liên hệ với lịch sử Việt Nam và thực tiễn nông thôn Việt Nam để gợi ra một số vấn đề có ý nghĩa khoa học và thực tiễn trong việc xem xét mối quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội. Cuốn sách “Sự biến đổi các thang giá trị đạo đức trong nền kinh tế thị trường với việc xây dựng đạo đức mới cho cán bộ quản lý ở nước ta hiện nay” (Nxb. Chính trị quốc gia, 1999) của PGS. Nguyễn Chí Mỳ đã đề cập đến một số vấn đề đạo đức mới trong cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và việc xây dựng đạo đức mới cho cán bộ quản lý trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong cuốn sách “Tiến bộ xã hội - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn” (GS. Nguyễn Trọng Chuẩn chủ biên, Nxb. Khoa học xã hội, 2000), các tác giả đã luận giải tiến bộ xã hội từ khía cạnh văn hoá, đạo đức và khẳng định vai trò của văn hoá, đạo đức đối với sự phát triển bền vững của xã hội. Bên cạnh đó cũng có rất nhiều các bài viết đề cập đến các vấn đề về tính độc lập tương đối của ý thức xã hội như Ăngghen với tính độc lập tương đối của ý thức xã hội của Phùng Đông, Tạp chí triết học, số 6/2001; Về những nguyên nhân của việc cường điệu hay tuyệt đối hoá tính độc lập tương đối của ý thức xã hội ở nước ta của Trần Văn Khánh, Tạp chí triết học, số 2/2001; Vai trò của đạođức mới trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay của Ngô Thị Thu Ngà, Tạp chí Triết học, số 6/2010; Vai trò của giá trị truyền thống trong sự hình thành và phát triển nhân cách của Cao Thu Hằng, Tạp chí Triết học, số 6/2011… Một số luận án, luận văn đã tập trung phân tích vai trò của ý thức xã hội và thực trạng đời sống tinh thần của nước ta, đồng thời đưa ra những giải pháp để nâng cao đời sống tinh thần hiện nay như Vấn đề vận dụng tính độc lập tương đối của ý thức xã hội trong hoạt động thực tiễn, luận án tiến sĩ triết học của tác giả Trần Văn Khánh, Viện Triết học, Hà Nội, 2001; Phạm trù đời sống tinh thần xã hội và ý nghĩa của nó của tác giả Phùng Đông, luận án tiến 5
  • 9. sĩ triết học, Viện Triết hoc, Hà Nội, 1997; Ảnh hưởng của tâm lý tiểu nông đối với việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay của tác giả Cao Thị Sính, luận án tiến sĩ triết học, 2011… Gần đây, Viện Triết học đã tổ chức hội thảo khoa học với chủ đề “Tư duy và lối sống của con người Việt Nam hiện nay trước yêu cầu đổi mới và hội nhập quốc tế". Tại hội thảo này, các nhà khoa học đã khẳng định, phương thức sản xuất chính là cơ sở hình thành nên lối sống và đó cũng là nhân tố quyết định đến lối sống, đến việc định hướng các hoạt động và định hướng các giá trị của con người. Lối sống của người Việt Nam được hình thành cùng với lịch sử hình thành và phát triển của dân tộc Việt Nam, được quy định bởi các điều kiện kinh tế, chính trị, địa lý. Do vậy, lối sống của người Việt Nam cũng chính là hiện thân của các đặc điểm truyền thống của dân tộc và mang bản sắc văn hóa Việt Nam. Đồng thời, các nhà khoa học cũng đã chỉ ra những ưu điểm cần phát huy, cũng như những mặt hạn chế trong tư duy và lối sống của người Việt cần sửa đổi cho phù hợp với yêu cầu của của sự nghiệp đổi mới và hội nhập quốc tế. Nhìn chung, những cuốn sách, luận văn, bài viết đã công bố về đề tài ý thức xã hội hầu hết chỉ bàn đến ý thức xã hội với tư cách là một nhân tố trong mối quan hệ với tồn tại xã hội, hoặc là đi sâu vào làm rõ các đặc điểm, tính chất, cấu trúc của ý thức xã hội nói chung, hoặc chỉ bàn đến vai trò của ý thức xã hội trong hoạt động thực tiễn nói chung, hay từ góc độ của ý thức xã hội để xem xét những vấn đề như văn hoá, đạo đức, đời sống tinh thần, tôn giáo… mà chưa tập trung nghiên cứu một cách có hệ thống về những đặc điểm của ý thức xã hội Việt Nam truyền thống, từ đó để thấy được những mặt tích cực cũng như hạn chế của nó khi bước vào sự nghiệp đổi mới đất nước. Qua đó chúng ta có thể khẳng định rằng, việc nghiên cứu về ý thức xã hội Việt Nam truyền thống không phải là một đề tài cũ. Bởi vì, nếu xét theo quan điểm lịch sử cụ thể thì ở mỗi thời điểm khác nhau, mỗi lĩnh vực khác 6
  • 10. nhau chúng ta sẽ có những đánh giá cụ thể. Thực tế đã chứng minh rằng, cho đến nay vẫn chưa có nhiều công trình nghiên cứu một cách toàn diện và có hệ thống từ góc độ triết học về những đặc điểm của ý thức xã hội Việt Nam truyền thống. Vì vậy, vấn đề này cần được tiếp tục nghiên cứu. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích: Trên cơ sở phân tích một số đặc điểm cơ bản của ý thức xã hội Việt Nam truyền thống, chỉ rõ những giá trị và hạn chế của nó, luận văn nêu ra một số phương hướng và biện pháp pháp nhằm phát huy những mặt tích cực và khắc phục những mặt hạn chế của ý thức xã hội Việt Nam truyền thống khi bước vào sự nghiệp đổi mới đất nước. Nhiệm vụ: + Trình bày khái lược một số vấn đề lý luận chung về ý thức xã hội. + Làm rõ những tiền đề, điều kiện cho việc hình thành ý thức xã hội Việt Nam truyền thống. + Phân tích một số đặc điểm cơ bản của ý thức Việt Nam truyền thống, chỉ ra những mặt tích cực và hạn chế của nó. + Nêu ra một số phương hướng và giải pháp nhằm phát huy những mặt tích cực, khắc phục những mặt hạn chế của ý thức xã hội Việt Nam truyền thống khi bước vào sự nghiệp đổi mới đất nước. 4. Đốitượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu: Ý thức xã hội Việt Nam truyền thống. Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu về ý thức xã hội Việt Nam truyền thống là một đề tài rộng, trong khuôn khổ của luận văn này, tác giả không thể phân tích tất cả các bình diện của ý thức xã hội Việt Nam truyền thống mà chỉ tập trung vào một số khía cạnh: phân tích cơ sở hình thành và một số đặc 7
  • 11. điểm tiêu biểu của ý thức xã hội Việt Nam truyền thống, chỉ ra những mặt tích cực và hạn chế, đồng thời đề xuất một số giải pháp nhằm phát huy những mặt tích cực và khắc phục những mặt hạn chế của ý thức xã hội Việt Nam truyền thống trong công cuộc đổi mới đất nước hiện nay. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu Cơ sở lý luận: Luận văn dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về ý thức xã hội, cùng với tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về văn hoá, đạo đức, truyền thống dân tộc. Tác giả cũng sử dụng những thành tựu của các công trình đi trước trong việc phân tích cơ sở lý luận chung. Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng các phương pháp của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử như: phân tích - tổng hợp; lôgíc - lịch sử; đối chiếu, so sánh, khái quát hoá… 6. Đóng góp của luận văn - Luận văn góp phần làm rõ một số đặc điểm tiêu biểu của ý thức xã hội Việt Nam truyền thống, từ đó chỉ ra những mặt tích cực và hạn chế của nó khi bước vào công cuộc đổi mới đất nước. - Bước đầu đề ra một số giải pháp nhằm phát huy những mặt tíchcực và khắc phục những mặt hạn chế của ý thức Việt Nam truyền thống. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 2 chương, 6 tiết. 8
  • 12. Chương 1 Ý THỨC XÃ HỘI VÀ Ý THỨC XÃ HỘI VIỆT NAM TRUYỀN THỐNG 1.1. Ý thức xã hội 1.1.1. Khái niệm ý thức xã hội Trong lịch sử tư tưởng nói chung và lịch sử triết học nói riêng, việc nghiên cứu ý thức và ý thức xã hội (với những hình thức thể hiện khác nhau như: ý thức đạo đức, ý thức tôn giáo, ý thức dân tộc, ý thức giai cấp, ý thức cá nhân, ý thức cộng đồng.v.v.) không phải là vấn đề hoàn toàn mới. Từ khi triết học ra đời đến nay, xung quanh vấn đề ý thức và ý thức xã hội đã luôn là nơi hội tụ của những khác biệt, tranh luận, đấu tranh giữa các trường phái triết học và các nhà tư tưởng. Lấy ý thức xã hội làm đối tượng nghiên cứu của mình, một trong những nhiệm vụ của triết học là tập trung trả lời câu hỏi: Ý thức xã hội là gì? Trong lịch sử tư tưởng của nhân loại, các nhà triết học trước C.Mác tuy chưa đưa ra kiến giải khoa học về ý thức xã hội, nhưng ở các mức độ khác nhau họ cũng đã đưa ra được những hiểu biết ban đầu về ý thức xã hội nói chung, đặt tiền đề nhất định cho việc hình thành khái niệm khoa học ý thức xã hội của chủ nghĩa Mác - Lênin. Ở thời kỳ Hy Lạp - La Mã cổ đại, nhà triết học Anaxago (khoảng 500 - 428TCN) đã đưa ra khái niệm “Nuxơ” với hàm nghĩa là trí tuệ để chỉ tất cả những hành vi hiện tồn nói chung của ý thức và tư duy; còn theo Platon (428 - 347 TCN) thì Nuxơ chính là “ý niệm”. Cùng thời kỳ này, các nhà triết học phương Đông như Ấn Độ, Trung Quốc đã có những quan niệm khác nhau, dù là duy tâm về ý thức. Tựu trung ở thời kỳ cổ đại, các nhà triết học duy tâm đã tập trung vào luận giải ý thức với tư cách là bản nguyên sáng tạo của thế giới và đề cao tính tích cực của ý thức khi gắn nó với hành vi, với hoạt động sống của con người. 9
  • 13. Triết học Tây Âu thế kỷ XVII - XVIII đã có những tiến bộ vượt bậc hơn so với thời kỳ trước trong quan niệm về ý thức nói chung và ý thức xã hội nói riêng, hầu hết các nhà triết học không chỉ thấy, mà còn đặc biệt đề cao vai trò của ý thức đối với xã hội, đối với hoạt động của con người. Chẳng hạn như Hônbách cho rằng, trong xã hội thì ý kiến, tư tưởng của con người có thể điều khiển thế giới và ý kiến, tư tưởng của những nhà làm luật giữ vai trò quyết định. Điđơrô cho rằng, những tư tưởng, quan điểm chính trị đóng vai trò quyết định tính chất của chế độ xã hội. Khác với một số nhà triết học cùng thời, Heghen - nhà triết học cổ điển Đức đã quá đề cao vai trò của tư duy, ý thức đến mức tuyệt đối hoá nó. Ông cho rằng, thế giới hiện thực chẳng qua chỉ là biểu hiện của ý niệm, của tinh thần tuyệt đối, đó là quá trình tự nhận thức của bản thân ý niệm tuyệt đối. Phủ nhận giá trị tiến bộ của tất cả những quan niệm đó đối với lịch sử phát triển của xã hội và lịch sử nhận thức nói riêng sẽ là không công bằng, nhưng kể cả quan niệm của những nhà triết học duy vật nhất trong số đó như Điđơrô đều không đưa ra được giải thích khoa học về ý thức nói chung và ý thức xã hội nói riêng. Điều này chỉ có được khi giải quyết vấn đề ý thức dựa trên kiến giải duy vật về quan hệ giữa vật chất và ý thức. Bước chuyển quan trọng trong lịch sử triết học khi bàn về vấn đề ý thức xã hội được thực hiện bởi quan niệm của C. Mác và Ph. Ăngghen. Bằng tư tưởng biện chứng duy vật, trên cơ sở tiếp thu, kế thừa có chọn lọc và phê phán quan điểm của các nhà triết học trong lịch sử, C. Mác và Ph. Ăngghen đã khẳng định: “Không phải ý thức quyết định đời sống mà chính đời sống quyết định ý thức” [42; 37-38]. Nguyên lý quan trọng đó đã được thể hiện rất rõ trong một số tác phẩm tiêu biểu của C. Mác và Ph. Ăngghen như: “Góp phần phê phán triết học pháp quyền của Hêghen”; “Hệ tư tưởng Đức”; “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản”;“Luận cương về Phoiơbắc”;“Góp phần phêphán khoa kinh tế chính trị”.v.v. 10
  • 14. Chẳng hạn, trong tác phẩm “Góp phần phê phán triết học pháp quyền của Heghen”, C. Mác nêu rõ: tôn giáo với tính cách là một hình thái ý thức xã hội được bắt nguồn từ chính thế giới chứ không phải trên thượng giới. Do đó “sự nghèo nàn của tôn giáo vừa là biểu hiện của sự nghèo nàn hiện thực, vừa là sự phản kháng chống lại sự nghèo nàn hiện thực ấy” [40; 569]. Hoặc trong tác phẩm “Hệtư tưởng Đức”, khi nói về nguồn gốc của ý thức xã hội, C. Mác đã viết: “Chính con người là kẻ sản xuất ra những ý niệm… của mình, song đây là những con người hiện thực, đang hành động, đúng như họ bị quy định bởi một sự phát triển nhất định của những lực lượng sản xuất của họ và bởi sự giao tiếp phù hợp với sự phát triển ấy, kể cả những hình thức rộng rãi nhất của sự giao tiếp đó. Ý thức không bao giờ là cái gì khác hơn là sự tồn tại được ý thức” [42; 258]. Như vậy, ở đây, C. Mác đã khẳng định chính con người đã sản xuất ra những quan niệm, ý niệm, và những quan niệm, ý niệm đó được xuất phát từ ngay chính đời sống hiện thực của con người chứ không phải hiện thực là sự thể hiện của ý niệm tuyệt đối như quan niệm của Heghen. Do đó, ý thức xã hội chẳng qua chỉ là sự phản ánh của tồn tại xã hội, do tồn tại xã hội quyết định. Viết về phạm trù ý thức xã hội, các tác giả của cuốn “Từđiển triết học” cho rằng: “Ý thức xã hội - tức là sinh hoạt tinh thần của xã hội là do những điều kiện sinh hoạt vật chất, do phương thức sản xuất vật chất quyết định” [77; 1068]. Ở đây, người ta đã đồng nhất ý thức xã hội với sinh hoạt tinh thần của xã hội và đời sống tinh thần do đời sống vật chất quyết định. Côngstăngtinốp cho rằng: theo nghĩa rộng, khái niệm ý thức xã hội bao gồm những quan điểm chính trị, pháp quyền, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật, triết học… của xã hội, bao gồm tri thức khoa học (kể cả khoa học tự nhiên). Nói theo nghĩa tương đối hẹp thì khái niệm ý thức xã hội chỉ là những tư tưởng, quan điểm và học thuyết xã hội phản ánh tồn tại xã hội, chế độ xã hội. Có quan điểm cho rằng, ý 11
  • 15. thức xã hội là mặt tinh thần của xã hội, bao gồm những quan điểm, tư tưởng cùng những tâm trạng, truyền thống… nảy sinh từ tồn tại xã hội trong những giai đoạn phát triển nhất định. Như vậy, ý thức xã hội và đời sống tinh thần của xã hội có đồng nhất với nhau không? Đây là câu hỏi khiến nhiều nhà nghiên cứu khoa học xã hội nói chung quan tâm, đặc biệt là trong lĩnh vực triết học. Thực ra, đời sống tinh thần xã hội và ý thức xã hội là hai phạm trù có mối quan hệ mật thiết với nhau. Về bản chất, chúng đồng nhất với nhau, bởi vì trong quan niệm của chủ nghĩa duy vật, phạm trù tinh thần được hiểu rất gần với phạm trù ý thức. Triết học duy vật biện chứng khi rút ra vấn đề cơ bản của triết học đã mang lại cho chúng ta một cơ sở lý luận để xem xét phạm trù ý thức xã hội. Bởi vì nếu xem xét trên mặt nhận thức luận thì tinh thần và ý thức được hiểu là sản phẩm của vật chất có tổ chức cao là bộ não con người, là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan. Đời sống tinh thần và ý thức xã hội còn có quá trình phát sinh, phát triển như nhau. Ngay từ khi con người mới thoát thai khỏi đời sống động vật, con người sống thành bầy đàn trong các cộng đồng người như thị tộc, bộ lạc, khi đó trong xã hội chưa có sự phân biệt giữa lao động trí óc và lao động chân tay, hoạt động tinh thần xen lẫn sinh hoạt vật chất. Hoạt động tinh thần của con người ta thời kỳ đó có những hạn chế, nó tương ứng và phù hợp với trình độ thấp kém của lực lượng sản xuất công xã lúc đó. Vì vậy, đời sống tinh thần của con người biểu hiện rõ rệt ở phong tục tập quán, ở tín ngưỡng của họ. Điều này cũng giải thích tại sao tôn giáo thời kỳ này nặng về thần thoại, nó phản ánh sự sợ hãi, sự bất lực của con người trước sự hùng vĩ của những lực lượng tự phát của tự nhiên. Đời sống tinh thần của xã hội cũng bắt đầu và phát triển cùng với sự phát triển của đời sống vật chất của xã hội, cho nên đời sống tinh thần và ý thức xã hội không chỉ dừng lại ở đó mà tiếp tục phát triển theo sự phát triển 12
  • 16. của sinh hoạt vật chất. Từ khi xã hội diễn ra sự phân công lao động, giai cấp bắt đầu xuất hiện thì toàn bộ sinh hoạt xã hội của con người, bao gồm cả sinh hoạt tinh thần dần trở nên phức tạp. Nhà nước, pháp luật ra đời, các hình thái ý thức xã hội khác bắt đầu nảy sinh và phát triển, triết học xuất hiện. Và cứ như vậy, cho đến nay, đời sống tinh thần và ý thức xã hội phát triển tương ứng với sự phát triển của đời sống vật chất của xã hội. Vì vậy, chủ nghĩa duy vật lịch sử cho rằng, ý thức xã hội, hệ tư tưởng của xã hội là do sự phát triển của sản xuất, do hoạt động sản xuất của xã hội quyết định, dù không phải là quyết định trực tiếp mà thông qua quan hệ sản xuất. Tuy nhiên cũng có sự khác biệt giữa phạm trù tinh thần và phạm trù ý thức xét trên góc độ nhận thức luận và về mặt kết cấu. Trên góc độ nhận thức luận, có tác giả cho rằng tinh thần và ý thức khác nhau ở chỗ: tinh thần là cái giống như ý thức được tồn tại trong đầu óc con người, nhưng nó còn được hiện thực hoá, vật chất hoá. Đặc biệt, tinh thần còn để lại dấu vết trong những mối quan hệ xã hội. Còn ý thức là cái đối lập với vật chất. Vì vậy, khi định nghĩa phạm trù vật chất, V.I. Lênin đã dùng phương pháp đặc biệt - phương pháp đem đối lập vật chất với ý thức. Chính vì vậy, khác với ý thức, trong mối quan hệ với vật chất, tinh thần vừa là chủ thể, vừa là khách thể (vừa là cái phản ánh vật chất, vừa là đối tượng của phản ánh vật chất). Xét về kết cấu cụ thể thì phạm trù đời sống tinh thần rộng hơn phạm trù ý thức xã hội. Bởi vì phạm trù đời sống tinh thần còn bao gồm cả những hoạt động tinh thần và những quan hệ tinh thần phong phú của xã hội. Do đó, nếu cho rằng ý thức xã hội là mặt tinh thần của xã hội thì có thể dẫn đến cách hiểu là đồng nhất ý thức xã hội với đời sống tinh thần xã hội. Vì vậy, theo chúng tôi: Ý thức xã hội là một khái niệm thuộc lĩnh vực tinh thần của xã hội, bao gồm những quan điểm, tư tưởng, học thuyết, lý thuyết, những tình cảm, tâm trạng, tâm lý, truyền thống, tập quán… nảy sinh từ tồn tại xã hội và phản ánh tồn tại xã hội trong những giai đoạn lịch sử nhất định. Cách hiểu nội dung khái 13
  • 17. niệm như vậy vừa nói lên được nguồn gốc của ý thức xã hội là bắt nguồn từ tồn tại xã hội, vừa khẳng định được bản chất của nó là phản ánh tồn tại xã hội. 1.1.2. Bản chấtcủa ý thức xã hội Chủ nghĩa duy vật lịch sử chỉ rõ rằng, tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội, ý thức xã hội là sự phản ánh của tồn tại xã hội, phụ thuộc vào tồn tại xã hội. Mỗi khi tồn tại xã hội, nhất là phương thức sản xuất biến đổi thì những tư tưởng và lý luận xã hội, quan điểm về chính trị, pháp quyền, triết học, đạo đức, văn hoá, nghệ thuật… sớm muộn cũng biến đổi theo. Ý thức xã hội là sự phản ánh tồn tại xã hội dưới những dạng thức như: nhận thức (lý luận hay kinh nghiệm), tình cảm, tâm trạng, truyền thống v.v.. Các tác gia kinh điển của chủ nghĩa Mác đã đưa ra luận chứng khoa học rằng, con người tạo ra tư tưởng và quan niệm của mình, nhưng không phải tạo ra một cách tuỳ ý mà theo hình mẫu của các mối quan hệ hiện thực: “Ý thức không bao giờ có thể là cái gì hơn là tồn tại được ý thức và tồn tại của con người là quá trình sinh sống của con người” [42; 37]. Tuy nhiên, cũng cần phải nhận thấy rằng, ý thức xã hội không hình thành sau khi tồn tại xã hội đã hình thành một thời gian, mà hình thành đồng thời trong sự thống nhất với tồn tại xã hội. Chính vì xã hội, như chúng ta đã biết là một thực tại chủ thể - khách thể, nên tồn tại xã hội và ý thức xã hội tựa hồ “chồng’ vào nhau: thiếu năng lượng của ý thức xã hội thì tồn tại xã hội bất động, thậm chí chết cứng. Ngay cả quá trình sản xuất vật chất - nền tảng của tồn tại xã hội - tại một thời điểm, tồn tại độc lập với ý thức và quyết định ý thức - cũng chỉ thoát khỏi quyền lực của ý thức một cách tương đối. Ở đây, ý thức xã hội được thực hiện trong hai nguyên thể: năng lực phản ánh và năng lực sáng tạo tích cực. Bản chất của ý thức xã hội lại chính là ở chỗ: nó chỉ có thể phản ánh tồn tại xã hội trong điều kiện đồng thời cải tạo tồn tại ấy một cách tích cực, sáng tạo. Lịch sử đã nhiều lần chứng minh rằng, tư tưởng, nhất là tư tưởng chính trị - xã hội, có thể đi trước trạng thái hiện có của xã hội và 14
  • 18. thậm chí cải tạo nó. Xã hội là một thực tại vật chất - tư tưởng. Tổng thể những quan niệm khái quát, tư tưởng, lý luận, tình cảm, phong tục, truyền thống,… tức là những cái hợp thành nội dung của ý thức xã hội và tạo thành thực tại tinh thần lại là bộ phận hợp thành của tồn tại xã hội, bởi vì nó được đem lại cho ý thức cá nhân riêng rẽ. Nhưng khi nhấn mạnh tính thống nhất của tồn tại xã hội và ý thức xã hội, không được bỏ qua tính khác biệt, tính độc lập tương đối của chúng. Trong lịch sử, mối liên hệ lẫn nhau giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội trong tính độc lập tương đối của chúng được thể hiện như sau: nếu như trong giai đoạn đầu của sự phát triển xã hội, ý thức xã hội được hình thành dưới tác động trực tiếp của tồn tại xã hội, thì về sau tác động này ngày càng mang tính gián tiếp - thông qua nhà nước, các quan hệ chính trị, pháp quyền. Ngược lại, ý thức xã hội tác động đến tồn tại xã hội một cách trực tiếp. Chính khả năng của ý thức xã hội tác động trực tiếp như vậy đến tồn tại xã hội nằm trong năng lực của ý thức phản ánh đúng tồn tại. Như vậy, với tư cách là sự phản ánh và hoạt động tích cực - sáng tạo, ý thức xã hội là thể thống nhất hai mặt không tách rời của cùng một quá trình: khi ảnh hưởng đến tồn tại xã hội, ý thức xã hội có thể đánh giá, vạch ra ý nghĩa ẩn giấu của tồn tại xã hội, dự báo, cũng có thể cải tạo tồn tại xã hội thông qua hoạt động thực tiễn của con người. Vì vậy, ý thức xã hội của thời đại không những có thể phản ánh tồn tại xã hội, mà còn có thể tích cực tạo điều kiện cải tổ nó. Chức năng đó đã hình thành trong lịch sử của ý thức xã hội, khiến cho ý thức xã hội trở thành một yếu tố tất yếu khách quan và tồn tại thật sự trong bất kỳ cơ cấu xã hội nào. 1.1.3. Cáccấp độ của ý thức xã hội Chúng ta có thể tiếp cận ý thức xã hội dưới nhiều góc độ khác nhau. Có thể xem ý thức xã hội gắn với các hình thái ý thức xã hội, cũng có thể tiếp cận 15
  • 19. ý thức xã hội dưới góc độ chủ thể mang ý thức để phân tíchý thức xã hội của các nhóm, tập đoàn, giai cấp trong xã hội. Nói chung, ý thức xã hội thường được phân chia theo chiều dọc thành những cấp độ và theo chiều ngang thành các hình thái ý thức xã hội. Ở đây, chúng ta có thể phân chia ý thức xã hội theo chiều dọc thành các cấp độ: ý thức đời thường, ý thức lý luận, tâm lý xã hội và hệ tư tưởng xã hội... Mỗi cấp độ phản ánh tồn tại xã hội một cách khác nhau. Ýthức đời thường và ý thức lý luận: Ýthức đời thường: là những hiểu biết về xã hội, những quan niệm sống của con người được hình thành một cách trực tiếp từ cuộc sống xã hội, đáp ứng yêu cầu thực tiễn hằng ngày của con người Ý thức đời thường phản ánh sinh động, trực tiếp nhiều mặt của cuộc sống. Những tri thức kinh nghiệm phong phú là tiền đề quan trọng cho sự hình thành các lý thuyết khoa học. Ýthức lý luận: là những tư tưởng, quan điểm xã hội mang tính hệ thống hoá, được xây dựng nên bởi tư duy lý luận và được diễn tả dưới dạng hệ thống các khái niệm khoa học, các học thuyết xã hội. Ý thức lý luận có khả năng phản ánh hiện thực khách quan một cách khái quát, sâu sắc và chính xác, vạch ra các mối liên hệ bản chất của các sự vật và hiện tượng. Chính vì vậy, ý thức lý luận là nhân tố chủ yếu thể hiện tính vượt trước của ý thức xã hội. Vai trò sáng tạo tích cực của ý thức lý luận ngày càng tăng trong xã hội hiện đại. So với các hình thái ý thức lý luận thì ý thức đời thường gần hơn với hiện thực trực tiếp của đời sống. Vì vậy, nó phản ánh đầy đủ hơn đặc điểm của toàn cảnh với tất cả những chi tiết cụ thể và sắc thái ý nghĩa của nó. Kinh nghiệm của ý thức đời thường là kho tàng trong đó các khoa học cụ thể, triết học và nghệ thuật tìm kiếm nội dung của mình. Như vậy, ý thức đời thường là hình thái đầu tiên mà xã hội hiểu biết thế giới tự nhiên và xã hội, hình thái đó có tính quy định khách quan ngay trong bản tính con người. Trong lịch sử, ý 16
  • 20. thức đời thường có biến đổi về chất. Chẳng hạn, trong thời trung cổ, nếu ý thức đời thường xa lạ những quan điểm khoa học, thì trong xã hội hiện đại, ý thức thực tiễn - đời thường đã không còn là sự phản ánh thế giới mang tính tôn giáo - huyền thoại ngây thơ nữa, ngược lại, nó chứa đựng những tri thức khoa học, đồng thời khái quát các tri thức này thành hệ thống, nhờ vào những phương tiện riêng của nó mà không thể quy thành những phương tiện khoa học được. Tâm lý xã hội và hệ tư tưởng xã hội Tâm lý xã hội: là bộ phận của ý thức thông thường, bao gồm toàn bộ những tình cảm, tâm trạng, ước muốn, thói quen, tập quán… của con người được hình thành một cách tự phát dưới ảnh hưởng trực tiếp của điều kiện sinh sống hằng ngày. Tâm lý xã hội là hiện tượng phong phú, đa dạng phức tạp không những vì được hình thành tự phát do điều kiện sinh sống và hoạt động trực tiếp hàng ngày chi phối mà còn vì tính phức tạp và tinh tế của tâm lý con người. Tâm lý xã hội thuộc lĩnh vực của con người nên tính dễ “lây lan” là một trong những đặc trưng của nó. Yếu tố xúc cảm tâm lý làm cho tâm lý xã hội có tác dụng kích thích hoạt động của con người một cách nhanh chóng. Vì vậy, sự hiểu biết kịp thời và đúng đắn tâm trạng xã hội của quần chúng là một yêu cầu rất quan trọng trong công tác vận động cách mạng, trong hoạt động quản lý và lãnh đạo xã hội nói chung, trong công tác tư tưởng nói riêng. Một tư tưởng xã hội chỉ trở thành sức mạnh hiện thực trong thực tiễn khi nó kết hợp với yếu tố tâm lý trong ý thức con người và sức mạnh đó chỉ trở nên lâu bền khi nó đi vào tập quán của xã hội. Hệ tư tưởng xã hội: là những quan điểm, tư tưởng đã được hệ thống hoá, khái quát hoá thành lý luận, thành các học thuyết chính trị - xã hội, phản ánh lợi ích của một giai cấp nhất định. Hệ tư tưởng ở cấp độ lý luận của ý thức nhưng không bao hàm toàn bộ ý thức lý luận. Với tư cách là ý thức lý luận, hệ tư tưởng không phản ánh lý 17
  • 21. luận một cách trực tiếp, toàn vẹn mà phản ánh gián tiếp bằng các công cụ khái niệm, phạm trù của mình. Với tư cách là sản phẩm ý thức của một tập đoàn, một giai cấp, hệ tư tưởng chứng minh và bảo vệ cho lợi ích của tập đoàn xã hội, của giai cấp đó. Hệ tư tưởng hình thành một cách tự giác, trải qua quá trình hoạt động tích cực của tư duy và mang tính giai cấp sâu sắc. Hệ tư tưởng của giai cấp thống trị giữ vị trí là hệ tư tưởng thống trị xã hội, khi hệ tư tưởng của các giai cấp thống trị đã lỗi thời, các giai cấp bị trị không chấp nhận hệ tư tưởng của giai cấp thống trị. Do vậy, trong đấu tranh giai cấp, bao giờ cũng có đấu tranh tư tưởng, đấu tranh ý thức hệ. Trong tương quan giữa cấp độ đời thường và cấp độ lý luận của ý thức, tâm lý xã hội giống như một bộ phận ở cấp độ đời thường của ý thức, trong đó xuất hiện những quan điểm và sự đánh giá đa dạng, khoa học và không khoa học, những thị hiếu và tư tưởng thẩm mỹ, những phong tục và truyền thống… Hệ tư tưởng giống như cấp độ lý luận của ý thức, trong đó đưa ra sự đánh giá một cách có hệ thống về hiện thực xã hội trên lập trường của một giai cấp, nêu ra nhiệm vụ và mục đích chính trị - xã hội của họ, xây dựng hệ thống những tư tưởng về quyền uy. Thuộc tính căn bản của hệ tư tưởng - với tư cách là một hình thái lý luận đặc thù của ý thức - là phản ánh hiện thực không trực tiếp - toàn vẹn như tâm lý xã hội, mà gián tiếp bằng những công cụ phạm trù của mình. Tâm lý xã hội và hệ tư tưởng xã hội tuy là hai trình độ, hai phương thức phản ánh khác nhau của ý thức xã hội, nhưng chúng có mối liên hệ tác động qua lại với nhau. Chúng có cùng một nguồn gốc là tồn tại xã hội, đều phản ánh tồn tại xã hội. Tâm lý xã hội tạo điều kiện thuận lợi hoặc gây cản trở cho sự hình thành, sự truyền bá, sự tiếp thu của con người đối với một hệ tư tưởng nhất định. 1.2. Ý thức xã hội Việt Nam truyền thống 1.2.1. Khái niệm ý thức xã hội Việt Nam truyền thống 18
  • 22. Ý thức xã hội Việt Nam truyền thống được hình thành trong quá trình phát triển lâu dài của dân tộc, thấm sâu vào mọi lĩnh vực đời sống tinh thần của dân tộc và được thể hiện trong nhận thức của mỗi người khi tham gia vào hoạt động xã hội với tư cách là thành viên của cộng đồng dân tộc Việt Nam. Cộng đồng Việt Nam được hình thành cách đây hàng nghìn năm. Thời điểm hình thành dân tộc Việt Nam là vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu. Tuy nhiên, hầu hết các nhà nghiên cứu cho rằng, dân tộc Việt Nam cũng như đa số các dân tộc phương Đông khác như Trung Hoa, Nhật Bản, Triều tiên… được hình thành từ rất sớm. Việt Nam được biết đến như cái nôi văn minh của loài người và cũng được coi là một trong những trung tâm phát sinh nông nghiệp sớm với nền văn minh lúa nước, nơi đã từng trải qua các cuộc cách mạng đồ đá mới và cách mạng luyện kim. Trên nền tảng phát triển kinh tế - xã hội thời Đông Sơn, trước những đòi hỏi của công cuộc trị thủy và chống xâm lăng, nhà nước Văn Lang - nhà nước đầu tiên - đã ra đời vào khoảng thế kỷ thứ VII trước Công nguyên. Bằng sức lao động cần cù, sáng tạo, cư dân Văn Lang, (sau đó là Âu Lạc) đã tạo dựng nên một nền văn minh tỏa sáng khắp vùng Đông Nam Á. Đi cùng với Nhà nước đầu tiên của lịch sử Việt Nam là một nền kinh tế phong phú, một nền văn hóa cao mà mọi người biết đến với tên gọi là văn minh Sông Hồng (còn gọi là văn minh Đông Sơn) với biểu tượng là trống đồng Đông Sơn - thể hiện sự kết tinh lối sống, truyền thống và văn hóa của người Việt cổ. Vừa dựng nước, người Việt đã phải liên tiếp đương đầu với sự xâm lăng của các thế lực bên ngoài. Độ dài thời gian và tần suất các cuộc kháng chiến, khởi nghĩa và chiến tranh giải phóng dân tộc ở Việt Nam rất lớn. Kể từ cuộc kháng chiến chống Tần (thế kỷ III trước Công nguyên) đến cuối thế kỷ XX, đã có tới 12 thế kỷ Việt Nam phải tiến hành hàng trăm cuộc chiến tranh giữ nước, khởi nghĩa và chiến tranh giải phóng dân tộc. Cuộc sống lao động gian khổ đã tạo ra truyền thống lao động cần cù, sáng tạo; yêu cầu phải liên 19
  • 23. kết lại để đấu tranh với những khó khăn, thách thức đã tạo ra sự gắn bó giữa con người với thiên nhiên, giữa con người với nhau trong mối quan hệ gia đình, láng giềng, dòng họ của người Việt cũng như trong cộng đồng nhà - làng - nước - dân tộc. Lịch sử cũng cho con người Việt Nam truyền thống yêu nước, tương thân tương ái, sống có đạo lý, nhân nghĩa; khi gặp hoạn nạn thì đồng cam cộng khổ, cả nước một lòng; tính thích nghi và hội nhập; lối ứng xử mềm mỏng và truyền thống hiếu học, trọng nghĩa, khoan dung. Đây chính là sức mạnh tiềm tàng, là nội lực vô tận cho công cuộc xây dựng đất nước Việt Nam vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh hiện nay. Ý thức xã hội Việt Nam truyền thống hình thành cùng với lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc. Có thể định nghĩa về ý thức xã hội Việt Nam truyền thống như sau: Ý thức xã hội Việt Nam truyền thống là tổng hoà những quan niệm, tư tưởng, lý luận cùng những tình cảm, ước muốn, tâm trạng, truyền thống... của dân tộc Việt Nam, phản ánh điều kiện kinh tế, chính trị, lịch sử, đạo đức, thẩm mỹ của dân tộc ta trong những giai đoạn lịch sử đã qua. 1.2.2. Cơsở hình thành của ý thức xã hội Việt Nam truyền thống Chúng ta biết rằng, ý thức xã hội phản ánh tồn tại xã hội. Ý thức xã hội của một dân tộc (cả về phương diện tâm lý và hệ tư tưởng xã hội) do đời sống vật chất và điều kiện sinh hoạt vật chất của dân tộc đó quyết định. Ý thức xã hội Việt Nam truyền thống là sự tổng hợp của các yếu tố: địa tự nhiên, địa kinh tế, địa chính trị và địa văn hoá… của dân tộc Việt Nam. Địa tự nhiên: Việt Nam nằm trong khu vực địa lý được thiên nhiên và khí hậu dành cho sự sưu đãi đặc biệt. Những vùng đồi núi và trung du trải dài, đất đai đa dạng; những vùng đồng bằng màu mỡ với sự bồi đắp phù sa từ những con sông lớn, tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển nghề nông nghiệp trồng lúa nước từ rất sớm với văn hoá Hòa Bình và văn hoá Bắc Sơn. Bờ biển kéo dài tạo điều kiện cho ngư dân phát triển nghề làm muối, đánh bắt tôm cá và 20
  • 24. hải sản. Những dãy núi cao không chỉ là những cảnh đẹp hung vĩ mà bên trong còn chứa đựng biết bao bí ẩn của thiên nhiên. Khí hậu của Việt Nam là nhiệt đới, gió mùa, nóng ẩm, mưa nhiều, tạo điều kiện cho sự phát triển thảm thực vật dày quanh năm, tạo nên sự đa dạng sinh thái. Tuy nhiên, thiên nhiên nơi đây cũng ẩn chứa nhiều đe doạ sự tồn tại và thử thách sức sống của con người Việt Nam. Vùng núi cao luôn là nơi “rừng thiêng nước độc”, chứa đựng nhiều cạm bẫy và thú dữ. Biển cả và bão làm đắm bao thuyền bè, cướp đi sinh mạng của biết bao ngư dân chài lưới. Thuỷ triều ở những con sông lớn luôn là mối đe doạ đối với những người làm nông nghiệp. Hằng năm, nước dâng cao phá vỡ đê, cuốn đi tất cả những thành quả lao động của người nông dân. Khí hậu cũng luôn thất thường, khi thì mưa kéo dài, xói mòn hết đồng ruộng; khi thì hạn hán nắng như đổ lửa, thiêu cháy đồng ruộng, hoa màu và cây cỏ. Biết bao nhiêu loại dịch bệnh phát sinh, phá hoại mùa màng, gây cản trở cho quá trình sản xuất. Thiên nhiên đã buộc con người Việt Nam phải thích ứng với những ưu đãi và sự khắc nghiệt của nó. Cứ mỗi lần sông Hồng dâng nước lên cao, thì con người lại đắp đê cao hơn nữa từ đời này qua đời khác. Sử cũ chép lại năm 1100 đắp đê bên sông ở phường Cơ Xá (Thọ Xương - Hà Nội). Năm1248, triều đình ra lệnh cho các lộ đắp đê từ đầu nguồn ra đến bờ biển để phòng ngừa nước sông tràn ngập. Cùng với việc đắp đê, Sử cũ chép về nạn thuỷ tai: năm 1243 có nước lớn, vỡ thành Đại La, năm 1245 vỡ đê Long Đàm, năm 1265 vỡ đê phường Cơ Xá khiến nhiều người và súc vật chết đuối, năm 1352 nước to vỡ đê Bát Tràng, Thổ Khối (Bắc Ninh), Khoái Châu (Hưng Yên), Hồng Châu (Hải Dương)… cứ thế kéo dài hàng chục thế kỷ. Những công việc đắp đập, làm mương, làm thuỷ lợi, khai hoang, lấn biển, đắp đê, phòng chống bão lụt yêu cầu phải có sự chung sức, chung lòng của các thành viên trong cộng đồng người Việt, từ đó làm nảy sinh những đức tính tốt như tinh thần đoàn kết, ý thức quốc gia, cộng đồng sớm hình thành. Mặt khác, có thể làm 21
  • 25. nảy sinh nhiều tư tưởng tiêu cực, đó là lối tư duy coi trọng kinh nghiệm, mê tín dị đoan vì con người thấy mình quá nhỏ bé, bất lực trước sức mạnh vô cùng to lớn của tự nhiên. Địa kinh tế: Căn cứ vào các tài liệu khảo cổ học, nhiều nhà nghiên cứu Việt Nam và thế giới đã chứng minh một cách khá thuyết phục là Việt Nam được nhìn nhận như một trong những cái nôi đầu tiên của lịch sử văn minh loài người với tên gọi “văn minh lúa nước”. Có thể thấy, ngay từ cuối thời kỳ nguyên thuỷ, con người Việt Nam đã thực sự mở đầu công cuộc cải tạo tự nhiên với cây lúa bằng lao động sáng tạo của mình từ nền kinh tế thu lượm chuyển sang nền kinh tế trồng trọt, sản xuất và dự phòng. Sự ra đời của nhà nước Văn Lang đã đánh dấu một bước phát triển mạnh mẽ có ý nghĩa thời đại trong lịch sử Việt Nam, đồng thời định hình xây dựng nền văn minh sông Hồng lấy nông nghiệp trồng lúa nước và tổ chức xóm làng làm cơ sở. Đời sống tinh thần của các cư dân Văn Lang thời kỳ này cũng khá phong phú, đa dạng được thể hiện qua những nghi lễ sinh hoạt, qua các phong tục, tập quán như thờ cúng tổ tiên, thờ các vị anh hùng, thủ lĩnh nhằm khẳng định nguồn gốc, đề cao và biết ơn những người có công với cộng đồng, dân tộc. Nền kinh tế sản xuất nông nghiệp lúa nước là đặc thù riêng của dân tộc Việt, là nền tảng tạo nên phương thức sản xuất châu Á ở Việt Nam. Từ khi dựng nước cho đến thời kỳ Bắc thuộc và sau này là các triều đại phong kiến độc lập, đời nào cũng xem trọng sản xuất nông nghiệp theo tôn chỉ “dĩ nông vi bản”. Đặc trưng của phương thức sản xuất châu Á ở nước ta là đất đai từ xưa đều thuộc quyền sở hữu của nhà nước, đứng đầu là ông vua. Nhà vua như một “đại địa chủ” có quyền tối thượng về phân bố và sử dụng đất đai. Nhân dân chỉ là người canh tác trên đất của nhà vua như người làm thuê và có nghĩa vụ nộp thuế. Tuy nhiên, về hình thức, trong vấn đề ruộng đất, mọi quyền hành 22
  • 26. về đất đai đều nằm trong tay nhà vua, nhưng thực chất là nhà vua đã uỷ quyền cho triều đình, làng xã hoặc các tổ chức xã hội khác được quyền hưởng dụng, tức là vẫn dưới hình thức công điền, công thổ trong sự quản lý của bộ máy quan liêu. Đó chính là tàn dư của chế độ công xã nguyên thuỷ còn bảo lưu trong xã hội. Do những điều kiện lịch sử riêng biệt mà chế độ ruộng công đã được duy trì rất lâu, cho đến tận trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Chính trên cơ sở chế độ sở hữu công xã ấy mà các phong tục, tập quán, lối tư duy, ý thức của người Việt đã được định hình. Địa chính trị: Bên cạnh những đặc điểm của nền sản xuất nông nghiệp lúa nước, cách thức tổ chức xã hội theo kiểu cộng đồng làng xã cũng được các học giả nhìn nhận như là một nhân tố cơ bản góp phần hình thành nên những giá trị đặc thù của cộng đồng người Việt. Chúng ta đều biết rằng, cuộc sống nông nghiệp phụ thuộc vào thiên nhiên, vì vậy, người nông dân phải liên kết với nhau, dựa vào nhau mà tồn tại. Lịch sử cho thấy, việc tổ chức làng xã theo địa bàn cư trú là một sự phát triển mới trong việc tổ chức xã hội, đặc biệt là khi công xã thị tộc tan rã và chuyển thành công xã nông thôn thì các thành viên của làng không chỉ gắn bó với nhau bằng các quan hệ máu mủ, họ hàng ruột thịt mà còn bằng những quan hệ sản xuất, tổ chức xã hội và văn hoá. Nhìn chung, làng Việt Nam chủ yếu vẫn dựa trên sản xuất nông nghiệp là chính dù có tồn tại một số mô hình làng nghề, làng chài, làng học hay làng buôn trong lịch sử… Về phương diện tổ chức, hình mẫu lý tưởng của các làng Việt Nam truyền thống đều là tự trị về chính trị, tự cung, tự cấp về kinh tế, đồng thuận về xã hội và các giá trị văn hoá. Trong đó, hai đặc tính đặc trưng của làng xã Việt Nam được các học giả khái quát đó là tính cộng đồng và tính tự trị. 23
  • 27. Tính cộng đồng của làng Việt được biểu hiện trong mọi mối quan hệ của công xã nông thôn, từ lao động, sản xuất cho đến đời sống tinh thần. Để ứng phó với môi trường tự nhiên khắc nghiệt, khai thác và cải tạo tự nhiên, đáp ứng nhu cầu của nghề trồng lúa nước, người dân Việt Nam đã liên kết lại với nhau tạo nên sức mạnh của nhân lực số đông, trao đổi công cho nhau, tương trợ, giúp đỡ nhau trong quá trình lao động. Điều này đã giúp hình thành văn hoá cộng đồng trong người Việt. Biểu tượng của tính cộng đồng đã ăn sâu vào gốc rễ, giá trị của làng Việt qua những hình tượng chung được dân làng tôn thờ như cây đa, bến nước, cổng làng, đình làng… Bên cạnh tính cộng đồng được khẳng định rõ trong các qua hệ nội bộ của làng, tính tự trị cũng là biểu hiện đặc thù của mỗi làng, phân biệt giữa làng này với làng khác. Có thể thấy, sau luỹ tre làng, biểu tượng cố kết của nông thôn truyền thống, mỗi làng Việt là sự tồn tại tương đối biệt lập, một tiểu vương quốc với đầy đủ công cụ quản lý và các vấn đề nội tại, phức tạp của nó. Làng không chỉ chi phối đời sống vật chất mà còn định hướng đời sống tinh thần của các thành viên trong cộng đồng làng. Vì vậy, các cụ ta thường có câu “phép vua thua lệ làng”. Trên thực tế, vi phạm “phép vua” thì sẽ bị xử lý ở mức độ pháp luật, trong khi một cá nhân vi phạm “lệ làng” thì sẽ bị xử lý rất nặng, ngoài yếu tố pháp luật, còn có thể là dư luận, văn hoá và đạo đức. Thậm chí hành vi sai lệch so với chuẩn mực làng, có thể khiến một cá nhân bị loại bỏ khỏi cộng đồng, điều đáng sợ nhất trong suy nghĩ và hành động của người Việt. Về mặt cơ chế và luật pháp, ngay trong những thời kỳ đầu, tính tự quản của làng Việt cũng được xác lập một cách khá độc đáo qua hệ thống các văn bản hương ước. Hương ước là hệ thống các quy định về tổ chức của làng xoay quanh hoạt động sản xuất và đời sống sinh hoạt, trong đó cũng bao hàm những giáo huấn về thuần phong mỹ tục của làng. Hương ước được xây dựng 24
  • 28. trên cơ sở các mối quan hệ giữa các thành viên trong làng, gắn với những điều kiện địa lý, văn hoá, lịch sử đặc thù. Với những đặc trưng tồn tại như một cơ cấu tự trị và bền vững, xuyên suốt chiều dài lịch sử, bất kỳ một cá nhân, gia đình người Việt nào dường như luôn bị hấp thụ và bị chi phối, dẫn dắt từ hành vi cho tới giá trị truyền thống làng xã. Truyền thống làng xã vừa vô hình, vừa hữu hình, ảnh hưởng, chi phối, ràng buộc mọi người bằng những điều luật hoặc là thành văn, hoặc là bất thành văn mà mọi người đều phải tôn trọng và tuân thủ. Chính vì vậy, cách thức tổ chức xã hội theo kiểu cộng đồng làng xã đã ảnh hưởng đến sự hình thành ý thức dân tộc trên cả hai phương diện: tích cực và tiêu cực. Cùng với mô hình tổ chức xã hội theo kiểu cộng đồng làng xã, lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc ta cũng là một trong những yếu tố góp phần hình thành nên ý thức của cộng đồng người Việt. Từ xưa tới nay, lịch sử đất nước ta dường như là một chuỗi dài những cuộc đấu tranh chống giặc ngoại xâm. Ngay từ khi lập quốc đến khoảng thế kỷ thứ III trước Công nguyên, nhà nước Văn Lang đã phải đứng trước nguy cơ xâm lược của nhà Tần. Từ năm 179 trước Công nguyên đến năm 938, nước ta tiếp tục nằm dưới sự đô hộ của phong kiến phương Bắc (tổng cộng 1.117 năm). Đây là thời kỳ đầy máu và nước mắt nhưng cũng là thời kỳ biểu hiện sức mạnh quật cường cũng như sự vươn lên thần kì của dân tộc ta và được kết thúc bằng chiến thắng Bạch Đằng. Tiếp sau thời kỳ này là hàng loạt các cuộc kháng chiến chống quân Tống, quân Nguyên - Mông, quân Minh và quân Thanh… Gần đây là hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Trong các cuộc chiến tranh tàn khốc ấy, ý thức cộng đồng và tinh thần yêu nước được thể hiện ở tinh thần dám xả thân vì nước, sẵn sàng đặt lợi ích quốc gia, dân tộc lên trên lợi ích riêng tư của bản thân mình. Biết bao con người của dân tộc đã hiến dâng tuổi thanh xuân của mình cho đất nước và đã anh dũng hy sinh nơi chiến trường. Biết bao người vợ, người mẹ đã tiễn chồng, tiễn con ra mặt 25
  • 29. trận mà không bao giờ còn được đón họ trở về. Như vậy, tinh thần yêu nước và ý thức cộng đồng đã được hun đúc từ chính lịch sử đau thương nhưng cũng rất đỗi hào hùng của dân tộc và nó đã ngấm sâu vào tình cảm, tư tưởng của mỗi người dân Việt Nam qua các thời đại, tạo nên một sức mạnh kỳ diệu làm cho dân tộc ta đánh thắng hết kẻ thù này đến kẻ thù khác. Ở đây có một mối quan hệ hết sức biện chứng đó là do phải gồng mình để vượt qua những thử thách của thiên nhiên và giặc ngoại xâm mà những giá trị truyền thống đó đã được hình thành, mặt khác khi nhứng giá trị đó đã được hình thành, chúng lại trở thành động lực, sức mạnh, thành cốt cách, linh hồn, bản sắc của con người Việt Nam. Đó là những di sản quý giá mà chúng ta không thể đánh mất. Địa văn hoá: Trên nền tảng một nền văn hoá bản địa có đặc sắc, có cá tính của mình, cùng với vị trí địa lý thuận lợi (nằm trên ngã tư đường của các nền văn hoá, văn minh), nhân dân Việt Nam đã biết mở hồn mình để đón nhận, tiếp thu tinh hoa văn hoá của nhân loại, bao gồm cả văn hoá phương Đông và văn hoá phương Tây. Trước hết là văn hoá phương Đông, chủ yếu là văn hoá Trung Quốc và văn hoá Ấn Độ, mà cốt lõi là Nho giáo, Phật giáo và Đạo giáo. Nho giáo được truyền vào nước ta từ thời Bắc thuộc, nhưng bởi những quy định chặt chẽ, cực đoan của chính quyền phong kiến Trung Quốc đô hộ, mặt khác lại được sử dụng như một công cụ và vũ khí để áp bức, đồng hoá nhân dân ta, nên ở thời kỳ này, Nho giáo phát triển chậm chạp, khó khăn và không được người Việt chấp nhận. Khi giành được độc lập, từ thế kỷ X trở đi, Nho giáo đã được nhìn nhận dưới một góc độ khác. Các triều đình phong kiến đã nhìn thấy được những ưu điểm nổi bật của Nho giáo trong việc duy trì, quản lý xã hội và xây dựng kỷ cương đất nước. Chính vì vậy, Nho giáo đã có cơ hội phát triển và trở thành quốc giáo một thời gian dài trong lịch sử dân tộc. 26
  • 30. Năm 1070, với sự kiện Lý Thánh Tông cho lập Văn Miếu thờ Chu Công và Khổng Tử đã đánh dấu một cách chính thức sự tồn tại của Nho giáo như một hệ tư tưởng thống trị, làm nền tảng cho mọi chính sách của nhà nước phong kiến. Nho giáo độc tôn và trở thành tư tưởng chính thống dưới triều Lê. Nhìn chung, Nho giáo hướng tới việc dùng đạo đức để ổn định xã hội, tuy nhiên, Nho giáo du nhập vào Việt Nam đã mang một sắc thái khác. Nét độc đáo của Văn hoá Việt Nam là khi tiếp nhận văn hoá bên ngoài, thường cải biến cho phù hợp với hoàn cảnh, điều kiện lịch sử của dân tộc, hay nói cách khác là cấu tạo lại theo cách riêng của mình. Chẳng hạn, chữ “nhân” trong Nho giáo được hiểu theo nghĩa cứng nhắc, đòi hỏi muốn có nhân phải thực hiện thông qua lễ, nghĩa, chính danh. Tuy nhiên, nền nông nghiệp lúa nước đã hình thành ở người Việt lối tư duy trọng tình. Người Việt tâm đắc chữ “nhân” trong Nho giáo nhưng nhân được hiểu giản dị là lòng thương người và hy sinh vì mọi người. Ngay cả nhà nho nổi tiếng như Nguyễn Du cũng hiểu nhân một cách thực sự giản dị và đời thường, như trường hợp ông nói đến suy nghĩ và hành động của nàng Kiều: “Bán mình là hiếu, cứu người là nhân” Tư tưởng “trung quân” của Nho giáo biểu hiện sự trung thành tuyệt đối với vua, thậm chí đó có thể là một ông vua bạo chúa. Ở nước ta, tư tưởng yêu nước và tinh thần dân tộc là hệ tự tưởng xuyên suốt, đồng hành cùng dân tộc qua những thăng trầm của lịch sử. Người Việt tiếp nhận tư tưởng “trung quân” theo tinh thần “ái quốc”, “vị quốc”. Như vậy, với tư cách là một học thuyết chính trị - xã hội luôn lấy đức làm trọng, là công cụ quản lý xã hội của giai cấp thống trị Trung Quốc với rất nhiều giáo lý phù hợp với Việt Nam, Nho giáo đã từng bước được giai cấp thống trị Việt Nam tiếp nhận và đề cao, đặc biệt là trong quản lý đất nước. Bằng ảnh hưởng của giai cấp thống trị, Nho giáo đã ăn sâu vào tâm lý người Việt. Mặc dù còn có những quan niệm tiêu cực như: tâm lý thủ cựu, trọng 27
  • 31. nam khinh nữ, phân biệt đẳng cấp,… nhưng với chủ chương nhập thế rất cao cùng với nhiều yếu tố tích cực, đó là việc đề cao chữ nhân, lòng thương người,… đã có tác động mạnh mẽ đến ý thức dân tộc. Với tư tưởng từ bi bác ái, Phật giáo của nền văn hoá Ấn Độ đã dễ dàng thâm nhập vào Việt Nam từ rất sớm (khoảng thế kỷ thứ II sau Công nguyên). Các giáo lý của phật giáo cùng với việc các nhà sư sống hoà đồng với nhân dân đã tạo nên sự gần gũi giữa Phật giáo và người dân. Bởi lẽ, người Việt Nam từng chịu đau thương, mất mát qua các cuộc chiến tranh, sống lam lũ, khổ cực và thường xuyên phải chống chọi với thiên nhiên khắc nghiệt, nên mong muốn có một cuộc sống tốt đẹp hơn. Bằng thuyết luôn hồi nhân quả, ở hiền gặp lành, Phật giáo đã khuyến khích con người ăn ở nhân đức để có được cuộc sống tốt đẹp ở thế giới mai sau. Phật giáo đã góp phần nâng cao đời sống đạo đức của người dân, họ tiếp nhận Phật giáo như một yếu tố tâm lý làm cân bằng cuộc sống vốn khốn khó của mình. Phật giáo cũng củng cố khối đại đoàn kết của dân tộc, củng cố cách sống nhân nghĩa, chân tình của người dân Việt Nam. Theo các sử liệu học, Phật giáo được du nhập vào Việt Nam từ rất sớm bằng đường biển bởi các nhà sư Ấn Độ (khoảng thế kỷ thứ II sau Công nguyên). Với gần hai nghìn năm tồn tại và phát triển trên mảnh đất người Việt, Phật giáo không chỉ bám rễ, phát triển, mà còn góp phần tạo nên nền văn hóa dân tộc Việt Nam với nhiều giá trị đặc sắc, biểu hiện qua các tầng văn hóa khác nhau, từ nếp sống cung đình hoàng tộc cho tới văn hóa làng xã, cộng đồng. Ngay từ khi mới du nhập, Phật giáo nhanh chóng được người Việt tiếp nhận và phát triển rất nhanh do các giáo lý của nhà Phật (từ bi, hỉ xả) khá phù hợp với bản chất của người Việt và phong tục tập quán bản địa. Mặt khác, trong thời kỳ Bắc thuộc, Phật giáo đã cung cấp một phần ý thức tư tưởng cho các phong trào chống đô hộ của nhân dân. Thậm chí, dưới các triều đại Lý, 28
  • 32. Trần, Phật giáo đã được tôn vinh và trở thành quốc giáo. Dưới thời nhà Trần, Phật giáo trở thành yếu tố đoàn kết toàn dân cùng với triều đình xây dựng và bảo vệ đất nước. Vì vậy, Phật giáo có ảnh hưởng khá sâu sắc đến người dân nước ta và nhân cách trong Phật giáo cũng góp phần đáng kể trong việc hình thành nhân cách của con người Việt Nam. Đó là lòng yêu thương con người, sống giản dị, vị tha và đặc biệt linh hoạt, nhạy bén, chấp nhận biến đổi chứ không chỉ ảo tưởng bảo thủ như Nho giáo. Thực tế cho thấy, từ lâu nay, những tư tưởng Phật giáo đã hòa quyện vào tư tưởng dân tộc, giáo lý Phật giáo kết hợp với các tín ngưỡng, phong tục của nhân dân Việt Nam, phát triển trên tinh thần tiếp biến và dung nạp những giá trị bản địa của nhân dân Việt Nam. Trong những giai đoạn đấu tranh, giải phóng dân tộc, Phật giáo lại trở nên mạnh mẽ cùng với người Việt như là một loại vũ khí bền bỉ, dẻo dai, chống lại sự xâm lược của và đồng hóa của các thế lực kẻ thù với những tôn chỉ “giữ chùa để giữ làng, giữ làng để giữ chùa”. Những tư tưởng Phật giáo Việt Nam không ru ngủ con người mà trái lại, tư tưởng Phật giáo đã góp phần làm nên bản lĩnh của người Việt Nam, của làng Việt Nam, của dân tộc Việt Nam, trước những thách thức nhiều kiểu loại, nhiều cấp độ, nhiều tầng bậc, cộng sinh cùng cư dân bản địa, cùng ngôi làng Việt, cùng đất nước Việt Nam. Phật giáo Việt Nam nhấn mạnh tư tưởng “nhập thế” với sự minh chứng từ những suy nghĩ và hành động của nhiều vị cao tăng tài trí, không chỉ với tấm lòng từ, bi, hỉ, xả, mà chính họ bằng những việc làm thực tiễn của mình đã được ghi danh vào lịch sử dân tộc như: Thiền sư Cảm Hành, Định Không, Pháp Thuận, Đa Bảo, Viên Chiếu, Thích Quảng Đức,…và không thể không kể đên công lao to lớn của một vị tu sĩ Phật giáo, người đã góp phần quan trọng trong việc xây dựng nên vương triều phong kiến độc lập có quy mô văn hiến đầu tiên của Việt Nam, người giúp Lý Thái Tổ dời đô từ Hoa Lư (Ninh Bình) về Thăng Long (Hà Nội), đó là Thiền sư Vạn Hạnh. 29
  • 33. Không lâu sau sự du nhập của Phật giáo, Đạo giáo (Lão giáo) vào Việt Nam cũng có ảnh hưởng không nhỏ tới đời sống sinh hoạt, phong tục tập quán của người Việt Nam. Mặc dù không có vị trí chính thống, nhưng tư tưởng, sinh hoạt của Đạo giáo vẫn luôn tồn tại trong dân gian, thậm chí cả cung đình. Mặc dù về tư tưởng, Đạo giáo tìm kiếm con đường xuất thế, giải thoát con người vào cõi trường sinh, bất tử nhưng trên thực tế, việc thực hành Đạo giáo lại khá phong phú về nội dung và hình thức. Từ thời đô hộ của nhà Hán, Đường đã có một số quan lại cai trị Việt Nam theo Đạo giáo, nổi tiếng như Cao Biền. Đến thời Ngô, Đinh, Tiền Lê, các vị vua Việt Nam đã không chỉ sùng Phật mà còn sùng Đạo. Bên cạnh việc nhà vua sắc phong những Quốc sư Phật giáo thì cũng sắc phong cả Quốc sư Đạo giáo. Đạo giáo đi vào cuộc sống nhân dân qua việc thờ cúng các vị Thánh và được thể hiện ở sự kết hợp giữa các yếu tố tôn giáo và văn hóa, tín ngưỡng bản địa. Các vị Thánh này có thể là những nhân vật có thật (thường là các anh hùng lịch sử có công với đất nước) hoặc có thể là những nhân vật tưởng tượng như thờ thánh Mẫu. Khác với việc Phong Thần ở Trung Quốc, các vị “Thần” và “ Thánh” ở Việt Nam không có ở cõi “trời” mà luôn ở cõi “người”, hiện hữu và gần gũi với nhân dân từ trong tâm thức cho tới cuộc sống lao động, sinh hoạt hằng ngày của con người. Dân gian vẫn truyền tụng câu nói: “Tháng Tám giỗ Cha, tháng Ba giỗ Mẹ” khi người anh hùng Trần Hưng Đạo đã được coi như Đức thánh cha của dân và công chúa Liễu Hạnh đã được trở thành đức Thánh mẫu. Có thể nói, sinh hoạt Đạo giáo đem lại cho người dân lao động tinh thần đoàn kết, hữu ái, lạc quan trong cuộc sống thông qua tín ngưỡng dân gian, sinh hoạt lễ hội và đời sống tâm linh phong phú. Điều đó cũng góp phần tạo nên sự gắn kết bền vững trong cộng đồng, trong xóm làng, đất nước. 30
  • 34. Tinh hoa văn hoá phương Tây: Vào thế kỉ XVIII - XIX, Việt Nam lâm vào tình trạng khủng hoảng sâu sắc của ý thức hệ phong kiến được xây dựng theo nguyên tắc Nho giáo và lấy Nho giáo làm quốc giáo. Do đó, đạo đức Nho giáo cũng bị khủng hoảng nặng nề, kéo dài. Sự thất bại cuối cùng của các cuộc khởi nghĩa Cần Vương chống Pháp cũng là sự thất bại không cứu vãn nổi của hệ ý thức hệ phong kiến. Đầu thế kỉ XX, chủ nghĩa Mác - Lênin đã được du nhập vào Việt Nam - nơi mà ý thức hệ phong kiến và ý thức hệ tư sản đã thất bại. Chủ nghĩa Mác - Lênin đã nhanh chóng chiếm được con tim và khối óc của người Việt Nam. Bởi vì nó là một học thuyết khoa học và cách mạng, là thứ vũ khí vô địch đã giúp cho dân tộc ta giành lại độc lập, tự do cho dân tộc ta. 1.2.3. Mộtsố đặcđiểm của ý thức xã hội ViệtNam truyền thống Ý thức xã hội Việt Nam truyền thống được hình thành trong lịch sử phát triển lâu dài của dân tộc với nhiều đặc điểm phong phú. Trong khuôn khổ của luận văn này, tác giả chỉ tập trung phân tích một số đặc điểm nổi bật của ý thức thức xã hội Việt Nam truyền thống. Thứ nhất, thế giới quan duyvật và duytâm không rõ ràng. Đây là thế giới quan duy vật - duy tâm hỗn hợp mang đậm màu sắc tôn giáo và tín ngưỡng dân gian là phổ biến. Một người nào đó được xem là duy vật là xét ở nét cơ bản, đi vào cụ thể thì điểm này là duy vật, điểm khác lại là duy tâm. Lập trường duy vật hoặc duy tâm trong lịch sử tư tưởng Việt Nam thể hiện trong việc giải quyết mối quan hệ giữa tâm và vật, giữa linh hồn và thể xác, giữa lý và khí... điều này được thể hiện trong tư duy của người Việt từ thời tiền sử. Tư duy trừu tượng của họ không chỉ phát triển trong thế giới hiện thực mà còn cố gắng giải thích cả thế giới siêu tự nhiên. Trong tư duy nguyên thuỷ đã có sự phân đôi thế giới tự nhiên và siêu tự nhiên. Chẳng hạn, người Sơn Vi đã chôn người chết trong nơi cư trú của họ. Điều đó nói lên rằng, 31
  • 35. người nguyên thuỷ đã bắt đầu tin tưởng về một “thế giới bên kia”, mà ở đó, những người chết vẫn tiếp tục lao động. Chính vì vậy mà họ đã chôn theo công cụ bên cạnh người chết. Lập trường đó còn được thể hiện trong tín ngưỡng thờ vật tổ của các cư dân thời nguyên thuỷ. Trên vách hang Đồng Nội, người Hoà Bình đã khắc mặt một con thú ăn cỏ. Trong hang này, còn có ba hình mặt người với sừng ở trên đầu. Người ta cho rằng, những hình mặt người có sừng này có thể liên quan đến tín ngưỡng vật tổ phổ biến trong các thị tộc nguyên thuỷ. Tục thờ thần mặt trời đã xuất hiện ở cư dân tiền Đông Sơn. Nhiều ngôi mộ ở thời kỳ này đã quay đầu về hướng đông. Vì vậy có ý kiến cho rằng, nhóm người ở đây có tục thờ mặt trời. Đến thời kỳ Đông Sơn, ngay cả những phát minh về kỹ thuật cũng được thần bí hoá. Chẳng hạn, trong sử thi “Đẻ đất đẻ nước”, hay chuyện “Chặt cây chu đồng” đều thần hoá việc chế tác đồng. Lập trường duy vật - duy tâm không ràng của người Việt còn thể hiện trong việc giải thích nguyên nhân và nguồn gốc tạo nên những sự kiện cơ bản của đất nước, xã hội và con người như an nguy của quốc gia dân tộc, trị loạn của xã hội, hưng vong của các triều đại, vấn đề số mệnh và bản tính con người, vấn đề đạo Trời và đạo người... Nét nổi bật trong tư tưởng người Việt thời kỳ Bắc thuộc là ý thức - tư tưởng về mình và về vị trí của mình đối với non sông của tổ tiên để lại, tức là ý thức về cộng đồng người Việt và chủ quyền đất nước. Ý thức tư tưởng về cộng đồng người Việt xuất phát từ ý thức về việc có chung một nguồn gốc (cùng một mẹ Âu Cơ sinh ra). Vì vậy, cần phải bảo vệ giống nòi trước sự đồng hoá của kẻ thống trị phương Bắc. Ý thức này đã làm cơ sở cho huyền thoại giải thích về nguồn gốc người Việt trở nên thân thiết và thấm sâu vào tiềm thức mọi người. Về đạo trời và đạo người, Nguyễn Bỉnh Khiêm gọi đạo Trời là sự phát triển của tự nhiên, còn sự phát triển của xã hội và vận mệnh của con người được ông gọi là đạo người. Nhưng ông cho rằng, tất cả là do số, do mệnh, do trời chi phối: “Cùng thông đắc tang mạc phi thiên” (Được, hỏng, cùng, thông không gì là không do Trời định). 32
  • 36. Quan niệm về "Thiên mệnh" (mệnh Trời) khá phổ biến trong lịch sử. Sinh thời, vua Lê Thánh Tông tin ở tư tưởng mệnh trời của nhà Nho, đã giải thích sự hưng vong của các triều đại là do trời; không những thế, ông còn cầu đảo mỗi khi nước nhà gặp hạn hán, lụt lội, sâu bệnh phá hoại mùa màng và các hiện tượng bất thường xảy ra trong thiên nhiên… và như thế chứng tỏ ông tin ở một lực lượng tự nhiên chi phối con người và xã hội loài người. Đối lại với quan điểm "mệnh trời" còn có quan điểm về "thời". Trần Quốc Tuấn nói “tuỳ thời”, Nguyễn Trãi nói: “Thời sao! Thời sao! Thực không nên lỡ”. Ngô Thì Nhậm đã kế thừa quan điểm của các bậc tiền bối và phát triển trên lập trường của mình. Đối với Ngô Thì Nhậm, “thời” có vai trò quan trọng đối với vận mệnh của một triều đại. Nắm được thời và hành động theo thời thì triều đại nổi lên; bỏ mất thời và hành động trái thời thì triều đại mất. Mặt khác, ông cho rằng, “thời” ở trong dòng biến chuyển liên tục nên đạo cũng phải thay đổi cho phù hợp, các triều đại đã thay đổi liên tục là vì thế. Từ đó, ông đưa ra nguyên tắc cụ thể cho những hành động của mình. Đó là tình thế khác thì cách xử lý cũng phải khác: “Gặp thời thế, thế thời phải thế. Hoàn cảnh khác thì phương tiện để đạt mục tiêu cũng phải khác, ông nói: “Nước chảy thì dùng thuyền, đường hiểm thì dùng cương”, thời nào thì có công việc của thời ấy, không thể bắt nay phải giống xưa. Trong số những quan điểm chống đối “mệnh Trời” của nhà Nho, "báo ứng" của nhà Phật, "âm khí" của nhà Đạo, thì mạnh hơn cả, bộc trực hơn cả là quan điểm của quần chúng nhân dân. Bằng sự quan sát hàng ngày, bằng kinh nghiệm cuộc sống và quan điểm thực tế, quần chúng nhân dân đã phản ứng lại các quan điểm duy tâm bằng kinh nghiệm của mình. Tuy nhiên, sự đấu tranh của chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm chưa đạt tới trình độ sâu sắc và toàn diện. Thứ hai, tưởng yêu nước, quan niệm độc lập dân tộc và quốc gia có chủ quyền là nét bản chất và đặc sắc nhất trong ý thức xã hội Việt Nam truyền thống. 33
  • 37. Truyền thống yêu nước của nhân dân ta được hình thành rất sớm trong lịch sử, trên cơ sở liên minh những bộ lạc anh em cùng tụ cư trên một cương vực ổn định. Trong ý thức, quan niệm của người Việt Nam, Tổ quốc, đất nước là một hình ảnh thiêng liêng, gần gũi và rất mực thân thiết. Nước được hiểu là bờ cõinon sông, trong đó có quê cha đất tổ. Nước gắn vời làng, với nhà. Lòng yêu nước của con người Việt Nam bắt nguồn một cách tự nhiên từ những tình cảm bình dị và gần gũi nhất của con người đối với những người thân cùng dòng giống, những người là “đồng bào”. Trong tình cảm của con người Việt Nam, những thực thể “nước - nhà”, “làng - nước” thường gắn bó với nhau. Nhà - gia đình, tế bào của xã hội, đơn vị xã hội đầu tiên trong đó con người gắn bó với nhau bởi quan hệ hôn nhân và huyết thống. Con người Việt Nam bắt đầu từ tình thương cha, nhớ mẹ, từ tình cảm gia đình ruột thịt, từ tình yêu nam nữ, tình yêu cuộc sống trong lao động mà nảy sinh tình yêu quê hương, đất nước. Do vậy, sự gắn bó giữa nhà và làng với nước có chiều sâu đặc biệt trong mỗi con người Việt Nam. Làng Việt Nam là một thực thể kinh tế, chính trị, văn hóa, tâm lý, tín ngưỡng,… và là một chỗ dựa tinh thần mạnh mẽ và có ảnh hưởng rất lớn tới sự phát triển nhân cách của con người. Trong mỗi cá nhân, từ nhận thức, tình cảm, ý chí, nhu cầu đến tính cách đều mang những dấu ấn sâu sắc của tâm lý cộng đồng làng xã. Những thách đố từ phía thiên tai, địch họa chẳng những không làm lung lạc phai nhạt tình yêu gia đình, quê hương trong mỗi con người Việt Nam, trái lại, nó càng thúc đẩy và nâng tình yêu gia đình, quê hương trong mỗi conngười lên một cấp độ cao hơn, củng cố tính cộng đồng và mở ra những mối quan hệ liên làng, phá vỡ tính biệt lập khép kín vốn có của làng xã trong xã hội phong kiến. Người Việt Nam có một quan niệm độc đáo về quê hương: quê hương là nơi con người sinh ra và lớn lên, nhưng còn một quê hương rộng lớn rất đỗi thiêng liêng là Tổ quốc. Cuộc sống lao động và tình yêu thiên nhiên, cùng với cuộc sống đấu tranh bền bỉ, gian khổ chống ngoại xâm đã thức tỉnh trong mỗi con người ý thức về mối quan hệ gắn bó giữa gia đình, làng xóm với cộng đồng lớn là Tổ quốc. Mọi 34
  • 38. người phải lo giữ gìn, bảo vệ lấy nơi sinh sống. Nước mất thì nhà tan, người dân sẽ phải sống kiếp nô lệ. Có thể nói, sự gắn bó bền vững của gia đình Việt Nam, của các cộng đồng làng xã Việt Nam là cái bệ đỡ vững chắc nhất, sâu rễ bền gốc nhất cho tình cảm yêu nước, cho chủ nghĩa yêu nước Việt Nam. Không có những gia đình, làng xã bền vững thì không thể có chủ nghĩa yêu nước Việt Nam. Điều này cắt nghĩa vì sao mọi âm mưu “chia để trị”, mọi thủ đoạn phân hóa, ly gián của kẻ thù xâm lược đề bị vô hiệu hóa. Với người Việ Nam, phản bội Tổ quốc cũng là phản bội gia đình, làng xóm, làm ô nhục thanh danh dòng họ. Ngược lại, người có công, hy sinh vì nước được suy tôn là thành hoàng làng. Bên cạnh bàn thờ tổ tiên của mỗi gia đình còn có bàn thờ Tổ quốc. Người Việt Nam dù sống ở miền xuôi hay miền ngược, miền Bắc hay miền Nam - đều yêu mến cái nôi chung - Tổ quốc, tự hào về nòi giống con Rồng, cháu Tiên của mình. Lòng yêu nước Việt Nam trải qua các giai đoạn lịch sử đã phát triển thành chủ nghĩa yêu nước, thể hiện trong ý thức trách nhiệm của mỗi người với nòi giống, với cộng đồng, với dân tộc, để từ đó tìm ra những con đường, biện pháp đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước. Hai là, lòng yêu nước Việt Nam không chỉ thể hiện ở ý chí chống xâm lược, mà còn bao hàm ý chí thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ. Lãnh thổ Việt Nam là môi trường trực tiếp để cư dân Việt Nam sinh sống. Lãnh thổ là niềm thiêng liêng, kiêu hãnh của cả dân tộc. Giang sơn - lãnh thổ được chính bàn tay và trí tuệ của bao thế hệ người Việt Nam tạo dựng lên. Bắt đầu từ việc khai phá miền sơn địa đất Tổ rồi qua chiều dài thời gian, người Việt Nam đã bằng lao động, bằng mồ hôi, nước mắt và xương máu của mình mở mang bờ cõi để có giang sơn gấm vóc như ngày nay. Thế kỷ thứ VII trước Công nguyên đánh dấu sự ra đời của nước Văn Lang mở đầu sự nghiệp dựng nước của các Vua Hùng và cũng mở đầu lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta. Nhà nước Văn Lang ra đời xuất phát từ 35
  • 39. nhu cầu cố kết con người thành cộng đồng để vừa chống thiên tai, làm thủy lợi vừa tăng cường sức mạnh chống ngoại xâm. Quốc gia Văn Lang xây dựng kinh đô ở Phong Châu. Người dân Văn Lang trong thời kỳ này đã có ý thức về vấn đề dựng nước và giữ nước. Quá trình lập quốc gắn liền với quá trình khắc phục thiên tai, ứng phó với lũ lụt. Truyền thuyết Sơn tinh và Thủy tinh là một trong những truyền thuyết sớm nhất thể hiện lòng dũng cảm của nhân dân đắp đê chiến thắng lũ lụt: Cứ mỗi lần Thủy tinh dâng nước lên, Sơn tinh càng đắp cao thêm núi, quyết thắng Thủy tinh, bảo vệ nhân dân khỏi ngập lụt. Nhưng Văn Lang vừa mới ra đời còn phải đảm đương nhiệm vụ thứ hai là chống ngoại xâm. Truyền thuyết Thánh Gióng là câu chuyện nói về ý thức giữ nước của dân tộc ta. Tư tưởng chống xâm lược và thôn tính của phong kiến nước ngoài và của các bộ lạc khác được dần dần hình thành một cách tự phát trong nhân dân. Truyện Thánh Gióng là huyền thoại mang sắc thái thể hiện sức mạnh của con người Việt Nam ở địa bàn làng xã, thể hiện tinh thần quật khởi của nhân dân ta chống ngoại xâm. Dựng nước đi đôi với giữ nước là hai nhiệm vụ cơ bản của nhân dân ta lúc đó. Ý thức dân tộc, tư tưởng làm chủ đất nước dần dần được hình thành. Trong buổi bình minh lịch sử, ý thức dân tộc, tư tưởng làm chủ đất nước dần dần được hình thành. trong buổi bình minh lịch sử, ý thức dân tộc của nhân dân đóng vai trò quyết định đối với vận mệnh của đất nước. Khoảng cuối đời Hùng Vương thứ 18, Văn Lang đứng trước nguy cơ xâm lược của nhà Tần (Trung Quốc). Quá trình chuẩn bị kháng chiến chống xâm lược đã xuất hiện nhu cầu liên minh giữa bộ lạc Lạc Việt (nước Văn Lang của vua Hùng) với bộ lạc Tây Âu (của Thục Phán) dẫn tới việc thành lập nước Âu Lạc vào năm 208 trước Công nguyên. Nước Âu Lạc với kinh đô là thành Cổ Loa là một quốc gia thống nhất có sức mạnh tiếp nối nước Văn Lang làm nên kỷ nguyên Văn Lang - Âu Lạc. Đắp thành Cổ Loa là một bằng chứng 36
  • 40. về ý thức dân tộc. Qua các cuộc khởi nghĩa chống xâm lược của quân Tần và của Triệu Đà, ý thức tự chủ của nhân dân được nâng cao thêm một bước, lòng yêu nước được mở rộng trên phạm vi quốc gia Âu Lạc, yếu tố bộ lạc từng bước mờ nhạt, thay vào đó là yêu tố dân tộc đang tùng bước hình thành. Năm 179 trước Công nguyên, nước Âu Lạc bị rơi vào tay nhà Triệu (Triệu Đà) mở đầu đêm trường Bắc thuộc lầm than của dân tộc. Thời kỳ Bắc thuộc kéo dài 1.117 năm nhưng suốt thời kỳ lịch sử khắc nghiệt đó, nhân dân Âu Lạc liên tục nổi dậy đấu tranh để giành độc lập dân tộc và chủ quyền quốc gia. Từ khởi nghĩa của Hai Bà Trưng (mùa xuân năm 40 - 43), khởi nghĩa của Bà Triệu (năm 248), khởi nghĩa của Lý Bí - Triệu Quang Phục (542 - 571), khởi nghĩa của Lý Tự Tiên, Đinh Kiến (năm 687), khởi nghĩa của Mai Thúc Loan (năm 722), khởi nghĩa của Phùng Hưng (766 - 791), khởi nghĩa của Dương Thanh (819 - 820) đến khởi nghĩa của Dương Đình Nghệ (năm 930) và đặc biệt là cuộc kháng chiến chống quân Nam Hán lần thứ hai do Ngô Quyền lãnh đạo đã giành độc lập hoàn toàn vào năm 938. Chiến thắng Bạch Đằng là đỉnh cao của lòng yêu nước, kết thúc trọn vẹn thời kỳ mất nước kéo dài hơn một nghìn năm, mở ra một thời kỳ độc lập lâu dài cho dân tộc. Thời kỳ Bắc thuộc, tương quan lực lượng rất chênh lệch, lại chịu ách thống trị nặng nề, tàn bạo, nhưng ý thức dân tộc của nhân dân ta thể hiện rất mạnh mẽ. kẻ thù muốn xóa bỏ dân tộc ta bằng chính sách thống trị hà khắc và chiến lược đồng hóa hiểm độc. Song, kẻ thù phương Bắc không thể lay chuyển nổi ý chí thống nhất toàn vẹn lãnh thổ của dân tộc ta. Thống nhất Tổ quốc là một phần nhu cầu đạo lý, tình cảm, là điều kiện của sự tồn tại độc lập và hạnh phúc của dân tộc ta. Con người Việt Nam đã sớm ý thức được rằng, chỉ có thể giải phóng toàn vẹn đất nước khi toàn thể cộng đồng người trên lãnh thổ được giải phóng. Ý thức thống nhất toàn vẹn lãnh thổ được thể hiện sinh động bằng nhiều cuộc khởi nghĩa trong suốt đêm trường Bắc thuộc, nhân dân ta quyết không chịu để cho kẻ thù xâm lược biến 37