SlideShare a Scribd company logo
1 of 213
VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
LÊ ANH ĐỨC
TRANG PHỤC TRUYỀN THỐNG HIỆN NAY
CỦA NGƯỜI LÔ LÔ HOA Ở HUYỆN MÈO VẠC,
TỈNH HÀ GIANG
LUẬN ÁN TIẾN SĨ NHÂN HỌC
Hà Nội - 2019
VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
LÊ ANH ĐỨC
TRANG PHỤC TRUYỀN THỐNG HIỆN NAY
CỦA NGƯỜI LÔ LÔ HOA Ở HUYỆN MÈO VẠC,
TỈNH HÀ GIANG
Chuyên ngành: Nhân học
Mã số: 9 31 03 02
LUẬN ÁN TIẾN SĨ NHÂN HỌC
Người hướng dẫn khoa học:
1. TS. Lý Hành Sơn
2. PGS.TS. Phạm Văn Dương
Hà Nội - 2019
i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các số liệu được nêu và trích dẫn trong luận án là chính xác và trung
thực. Những kết quả nghiên cứu của luận án chưa từng được ai công
bố trong các công trình khác.
Tác giả luận án
Lê Anh Đức
ii
LỜI CẢM ƠN
Trước tiên, tôi bày tỏ sự biết ơn sâu sắc đến TS. Lý Hành Sơn và
PGS.TS. Phạm Văn Dương đã hướng dẫn, giúp đỡ tận tình cho tôi trong suốt
quá trình nghiên cứu và hoàn thành luận án này.
Tôi xin trân trọng cám ơn Khoa Dân tộc học và Nhân học, Học viện
Khoa học xã hội, các giảng viên trong và ngoài Khoa đã quan tâm, tham gia
đóng góp ý kiến và hỗ trợ tôi trong quá trình học tập, nghiên cứu để hoàn
thiện luận án.
Tôi xin chân thành cảm ơn đến chính quyền địa phương huyện Mèo
Vạc và huyện Đồng Văn tỉnh Hà Giang, huyện Bảo Lạc tỉnh Cao Bằng và
người dân Lô Lô nơi đây đã luôn quan tâm, giúp đỡ và tạo mọi điều kiện cung
cấp tài liệu, thông tin về trang phục truyền thống của người Lô Lô, làm cơ sở
quan trọng cho tôi nghiên cứu và hoàn thành luận án.
Tôi cũng gửi lời cám ơn trân trọng tới cơ quan nơi tôi công tác là Bảo
tàng Dân tộc học Việt Nam đã quan tâm hỗ trợ, tạo điều kiện tốt nhất cho tôi
trong suốt quá trình nghiên cứu, hoàn thành luận án.
Cuối cùng, tôi xin chân thành cám ơn những người thân trong gia đình,
bạn bè và các đồng nghiệp đã luôn quan tâm, cổ vũ, động viên, tiếp thêm nghị
lực cho tôi trong suốt quá trình nghiên cứu, hoàn thiện luận án.
Tác giả luận án
Lê Anh Đức
iii
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .........................................................................................................................1
Chương 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ LÝ THUYẾT
VÀ KHÁI QUÁT VỀ NGƯỜI LÔ LÔ HOA Ở HUYỆN MÈO VẠC........................13
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu về người Lô Lô ở Việt Nam và về trang phục....13
1.2. Cơ sở lý thuyết ........................................................................................................23
Chương 2. QUY TRÌNH LÀM RA TRANG PHỤC.................................................45
2.1. Nguồn nguyên liệu để sản xuất vải .........................................................................45
2.2. Chế biến sợi và dệt vải............................................................................................50
2.3. Trồng chàm, chế biến cao chàm và nhuộm vải, sợi................................................55
2.4. Kỹ thuật cắt may y phục và trang trí.......................................................................58
2.5. Kỹ thuật chế tác đồ trang sức..................................................................................61
Chương 3. CÁC THÀNH TỐ VÀ CHỨC NĂNG CỦA TRANG PHỤC ...............67
3.1. Các thành tố của bộ trang phục truyền thống..........................................................67
3.2. Hoa văn, màu sắc trên trang phục truyền thống và ý nghĩa....................................87
3.3. So sánh trang phục truyền thống hiện nay của hai nhóm Lô Lô Hoa và Lô Lô
Đen .................................................................................................................................95
3.4. Chức năng của trang phục truyền thống ...............................................................104
Chương 4. GIÁ TRỊ CỦA TRANG PHỤC TRUYỀN THỐNG, SỰ BIẾN ĐỔI
VÀ VẤN ĐỀ ĐẶT RA................................................................................................117
4.1. Giá trị trang phục truyền thống hiện nay của người Lô Lô Hoa...........................117
4.2. Sự biến đổi trang phục truyền thống hiện nay ......................................................126
4.3. Vấn đề đặt ra và một số kiến nghị góp phần bảo tồn, phát huy các giá trị trang
phục truyền thống của người Lô Lô.............................................................................141
KẾT LUẬN.................................................................................................................148
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU ĐÃ CÔNG BỐ CỦA
NGHIÊN CỨU SINH CÓ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN......................................152
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO..................................................................153
MỤC LỤC PHỤ LỤC................................................................................................163
iv
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU VÀ CHỮ VIẾT TẮT
Chữ viết tắt Giải nghĩa tiếng Việt
NCS Nghiên cứu sinh
Nxb Nhà xuất bản
PBT Phó bí thư
PCT Phó chủ tịch
PGS.TS Phó giáo sư tiến sĩ
PL Phụ lục
PV Phỏng vấn
TS Tiến sĩ
Tr Trang
UBND Ủy ban nhân dân
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Lô Lô là một dân tộc có dân số dưới 10 nghìn người trong 54 dân tộc ở
Việt Nam, thuộc nhóm ngôn ngữ Tạng-Miến cùng với các dân tộc Hà Nhì,
Phù Lá, Cống, La Hủ, Si La. Dân tộc Lô Lô thường được chia thành ba nhóm
địa phương: Lô Lô Đen, Lô Lô Hoa và Lô Lô Trắng. Tuy nhiên, phần lớn ý
kiến lại chủ yếu chia thành hai nhóm: Lô Lô Đen và Lô Lô Hoa. Hiện nay,
nhóm Lô Lô Hoa có khoảng 400 người, cư trú ở tỉnh Hà Giang. Còn người Lô
Lô Đen có hơn 4 nghìn người chủ yếu sinh sống ở hai huyện Bảo Lạc, Bảo
Lâm (tỉnh Cao Bằng) và một số thì cư trú ở hai huyện Đồng Văn và Mèo Vạc
(tỉnh Hà Giang). Song, dù có được chia thành mấy nhóm địa phương thì các
nhà nghiên cứu vẫn đánh giá dân tộc Lô Lô luôn có ý thức tự tôn dân tộc, có
tính cộng đồng và tinh thần đoàn kết cao, thể hiện rõ nét trong việc gìn giữ
các đặc trưng văn hóa trong đó có trang phục truyền thống.
Hà Giang có cả nhóm Lô Lô Đen và Lô Lô Hoa. Lô Lô Đen tập trung ở
xã Lũng Cú, huyện Đồng Văn và ở các xã Xín Cái, Thượng Phùng thuộc
huyện Mèo Vạc, còn nhóm Lô Lô Hoa cư trú tập trung ở thị trấn huyện Mèo
Vạc và một số ít ở các xã Lũng Táo, Sủng Là huyện Đồng Văn. Hai nhóm
này có tiếng nói và phong tục tập quán gần giống nhau. Nét khác biệt thể hiện
rõ nét ở bộ trang phục nữ từ màu sắc đến hình dáng và kỹ thuật trang trí.
Trang phục nói chung, trang phục truyền thống nói riêng là một trong
những thành tố văn hóa vật thể không thể thiếu đối với đời sống mỗi tộc
người. Ngoài chức năng che đậy nhằm bảo vệ con người về mặt sinh học,
trang phục truyền thống còn phản ánh rõ nét về đặc trưng văn hóa, nếp sống
tộc người, thể hiện trình độ phát triển và quan niệm thẩm mỹ của tộc người ấy
đến đâu,... Qua đó mà có thể phân biệt được bản sắc cũng như tập quán và lối
2
sống giữa các tộc người, thậm chí phân biệt được các nhóm địa phương khác
nhau trong cùng một tộc người. Thực tế hiện nay cho thấy, chỉ cần thông qua
bộ trang phục truyền thống có thể hiểu và biết phần nào về sự khác biệt giữa
nhóm Lô Lô Hoa và nhóm Lô Lô Đen trong tộc người Lô Lô ở nước ta.
Song có một vấn đề, đến nay tộc người Lô Lô tuy có dân số ít, nhưng
dân số nhóm Lô Lô Hoa càng ít hơn, chỉ khoảng 35 - 40% so với nhóm Lô Lô
Đen, mà lại chỉ sống tập trung ở thị trấn Mèo Vạc - nơi đã và đang chịu tác
động mạnh mẽ của đô thị hóa, giao lưu tiếp biến văn hóa và hội nhập với
người Kinh, nhất là gần đây còn chịu tác động gia tăng của sự phát triển các
dịch vụ phục vụ cho du lịch Công viên địa chất toàn cầu Cao nguyên đá
Đồng Văn. Tình trạng này đã làm cho nhiều đặc trưng văn hóa, trong đó có bộ
trang phục truyền thống của người Lô Lô Hoa bị mai một và biến đổi nhanh
trong vòng 10 năm trở lại đây, với xu hướng tiếp tục biến đổi.
Trong khi so với nhóm Lô Lô Đen, trang phục truyền thống của nhóm
Lô Lô Hoa có nhiều đặc trưng nổi trội và phong phú hơn, nhưng đang bị mai
một và biến đổi nhanh từ chất liệu, cách may khâu, chủng loại, đối tượng sử
dụng,... đến nhu cầu sử dụng. Còn nhóm Lô Lô Đen do vừa có dân số đông
vừa chủ yếu cư trú ở những nơi vùng sâu, nên họ gìn giữ và sử dụng bộ trang
phục truyền thống của mình được tốt hơn. Nay vẫn có nhiều người Lô Lô Đen
cả nam và nữ ở các huyện Đồng Văn, Bảo Lạc và Bảo Lâm thường xuyên
mặc bộ trang phục truyền thống trong sinh hoạt hàng ngày.
Có thể nói, trong bối cảnh giao lưu và hội nhập hiện nay, việc bảo tồn
và phát huy bộ trang phục truyền thống của nhóm Lô Lô Hoa ở nước ta là một
vấn đề cấp bách. Ngoài việc sưu tầm để lưu giữ, cần phải được tiến hành ngay
bằng các công trình nghiên cứu chuyên sâu và có hệ thống. Kết quả nghiên
cứu không chỉ bảo tồn bộ trang phục truyền thống của nhóm Lô Lô Hoa dưới
dạng văn bản, mà còn là luận cứ khoa học để đưa ra những giải pháp cụ thể
3
cho việc bảo tồn dưới nhiều hình thức, nhất là nâng cao hiệu quả tuyên truyền
để đồng bào có ý thức tự bảo quản và sử dụng trong những dịp cần thiết.
Xuất phát từ các lý do trên cùng với kết quả khảo sát sơ lược, chúng tôi
quyết định chọn vấn đề: Trang phục truyền thống hiện nay của người Lô Lô
Hoa ở huyện Mèo Vạc, tỉnh Hà Giang làm đề tài luận án tiến sĩ Nhân học của
mình. Theo đó, trang phục truyền thống hiện nay được hiểu là bộ trang phục
truyền thống của nhóm Lô Lô Hoa vẫn đang tồn tại và được người dân lưu
giữ hoặc sử dụng trong những dịp hệ trọng của gia đình và cộng đồng cư trú
như các dịp lễ hoặc tết cổ truyền,...
Đến nay đã có không ít công trình nghiên cứu từ nhiều góc độ về tộc
người Lô Lô ở tỉnh Hà Giang và trong cả nước, trong đó có quan tâm đến vấn
đề trang phục truyền thống của tộc người này. Đặc biệt, không ít công trình đã
khẳng định, trong đời sống xã hội và tín ngưỡng của đồng bào Lô Lô nói
chung và người Lô Lô Hoa nói riêng, trang phục luôn là một trong những
biểu hiện mang đậm bản sắc riêng của đồng bào. Tuy nhiên, ở nhóm Lô Lô
Hoa cũng như nhóm Lô Lô Đen, hầu hết các nghiên cứu mới chỉ dừng lại ở
việc phác thảo mang tính khái quát về bản sắc văn hóa chung, chưa đề cập
chuyên sâu về trang phục truyền thống của họ, nhất là bộ trang phục này của
nhóm Lô Lô Hoa. Trong khi, người Lô Lô ở tỉnh Hà Giang hiện nay tuy vẫn
còn lưu giữ được những nét đặc sắc cơ bản của bộ trang phục truyền thống,
nhưng cũng đã mai một và đang biến đổi do không tự làm ra vải, hầu hết đều
sử dụng các nguyên liệu công nghiệp để cắt may và trang trí sắc màu, thay đổi
mẫu mã hoa văn,... Do đó, thực hiện đề tài luận án này không chỉ có đóng góp
thêm tư liệu mới về tộc người Lô Lô cho nhiều ngành khoa học, mà còn có ý
nghĩa thực tiễn sâu sắc, đặc biệt là góp phần bảo tồn và phát huy các giá trị
truyền thống nghề thêu, ghép vải mang tính nổi bật ở tộc người Lô Lô, là
những khác biệt so với nhiều tộc người thiểu số ở nước ta.
4
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Nhận diện những đặc trưng về trang phục truyền thống đang tồn tại
hiện nay của người Lô Lô Hoa ở huyện Mèo Vạc, tỉnh Hà Giang. Trên cơ sở
đó, góp phần bảo tồn và phát huy các giá trị của trang phục truyền thống của
nhóm Lô Lô Hoa trong bối cảnh hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện được mục đích đã đề ra, đề tài luận án có các nhiệm vụ
nghiên cứu sau:
- Khảo sát, tìm hiểu về trang phục truyền thống hiện nay của người Lô
Lô Hoa ở huyện Mèo Vạc tỉnh Hà Giang, từ các công đoạn làm ra bộ y phục
và các đồ trang sức, trang trí hoa văn,... đến các thành tố của trang phục;
- Làm rõ các chức năng và giá trị của trang phục truyền thống đối với
đời sống của người Lô Lô Hoa ở địa bàn trên;
- Phân tích những biến đổi của bộ trang phục truyền thống từ Đổi mới
năm 1986 đến nay và những nguyên nhân dẫn đến sự biến đổi;
- Đề xuất một số kiến nghị nhằm bảo tồn và phát huy các giá trị văn
hoá đối với trang phục truyền thống hiện nay của người Lô Lô Hoa.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là trang phục truyền thống của người
Lô Lô Hoa ở huyện Mèo Vạc tỉnh Hà Giang mà hiện nay vẫn đang gìn giữ.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung nghiên cứu: Nội dung nghiên cứu của đề tài luận án được
giới hạn ở việc làm rõ những đặc trưng thể hiện qua trang phục truyền thống
hiện nay của nhóm Lô Lô Hoa ở huyện Mèo Vạc (Hà Giang), từ việc tạo ra
trang phục đến các thành tố và chức năng. Luận án còn đề cập tới biến đổi về
5
trang phục truyền thống của Lô Lô Hoa từ Đổi mới đến nay, nhất là từ khi
phát triển du lịch Công viên địa chất Cao nguyên đá Đồng Văn. Bởi vì những
bộ trang phục đó của đồng bào chưa được bảo quản và gìn giữ tốt, nhất là tập
quán khi người Lô Lô mất sẽ mặc bộ trang phục truyền thống và chôn theo.
- Về phạm vi không gian: Luận án đã chọn nơi sinh sống lâu đời và tập
trung của người Lô Lô Hoa ở thị trấn huyện Mèo Vạc tỉnh Hà Giang làm địa
bàn nghiên cứu chính. Theo đó, chúng tôi đã nhiều lần đến điền dã tại thị trấn
Mèo Vạc huyện Mèo Vạc, nhất là ở hai xóm Sảng Pả A thuộc thị trấn Mèo
Vạc - nơi tập trung phần lớn người Lô Lô Hoa. Ở Hà Giang nhóm Lô Lô Đen
phân bố khá rộng, nhưng Lô Lô Hoa chỉ tập trung đông nhất ở Mèo Vạc, qua
đó có thể tìm hiểu tốt nhất về trang phục, lối sống và bản sắc của họ.
Ngoài ra, còn khảo sát thêm trang phục của Lô Lô Đen và số ít Lô Lô
Hoa ở Xín Cái, Thượng Phùng huyện Mèo Vạc; xã Lũng Cú, Sủng Là huyện
Đồng Văn (Hà Giang); xã Hồng Trị, Kim Cúc huyện Bảo Lạc (Cao Bằng).
Việc chọn các điểm này là do có đông dân Lô Lô sinh sống ở nước ta.
Cụ thể, tại Hà Giang người Lô Lô Hoa tập trung đông ở xóm Sảng Pả A thị
trấn Mèo Vạc; Lô Lô Đen thì sống lâu đời và đông ở xóm Lô Lô Chải xã
Lũng Cú huyện Đồng Văn, còn ở Cao Bằng họ phân bố chủ yếu ở xã Hồng
Trị huyện Bảo Lạc với các bản Nà Van, Bản Chang, Cốc Sả,... Do đó, nghiên
cứu tại các địa điểm này chính là điều kiện cần và đủ để nêu bật được sự nổi
trội, phong phú về đặc điểm hoa văn, màu sắc cũng như giá trị thẩm mỹ thể
hiện ở bộ trang phục truyền thống của người Lô Lô Hoa ở huyện Mèo Vạc -
một trong những nội dung nghiên cứu chính của đề tài luận án.
- Phạm vi thời gian nghiên cứu của luận án được giới hạn từ Đổi mới
đất nước năm 1986. Theo đó, những yếu tố truyền thống của trang phục Lô
Lô Hoa được đề cập từ năm 1986 trở về trước và hiện nay vẫn đang được
đồng bào lưu giữ ở những người già; sự biến đổi của trang phục thì được
6
nghiên cứu từ Đổi mới (sau năm 1986) đến nay, đặc biệt là từ khi phát triển
du lịch ở huyện Mèo Vạc. Từ 1986 đến nay, biến đổi trang phục dần bắt đầu
từ khi xóa bỏ bao cấp và đổi mới quản lý, tạo nên sự thuận lợi cũng như thách
thức mới. Thời điểm này NCS cho là hợp lý để tìm hiểu về biến đổi trang
phục khi lớp người già có hiểu biết và tay nghề còn tồn tại; trong khi lớp trẻ
sinh ra có sự hội nhập và phát triển về mọi mặt. Hai thế hệ khác biệt này sẽ
cho chúng ta cái nhìn khách quan về biến đổi của trang phục theo thời gian.
Có thể nói, nghiên cứu trang phục truyền thống và biến đổi của người
Lô Lô Hoa theo giai đoạn từ 1986 đến nay cho phép dựng lại bức tranh về
trang phục đó từ truyền thống tới hiện tại. Nếu chỉ tính từ khi phát triển du
lịch ở huyện Mèo Vạc thì bộ trang phục ấy đã biến đổi nhiều. Bởi vì theo kết
quả khảo sát, đến giữa năm 2018 trong cộng đồng người Lô Lô Hoa huyện
Mèo Vạc chỉ còn giữ được 4 bộ trang phục truyền thống nguyên bản bằng sợi
bông và được làm từ các công cụ thủ công cách ngày nay khoảng 40 năm.
4. Phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở phương pháp luận
- Khi thực hiện đề tài luận án, tác giả luận án chủ yếu dựa trên quan
điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác-Lê nin để xem
xét về trang phục truyền thống và những đặc trưng của nó trong sự vận động
và biến đổi. Quá trình biến đổi của trang phục cần được phân tích dựa trên cơ
sở lịch sử, đó là so sánh đồng đại và lịch đại,... Vấn đề này luôn được chúng
tôi đặt ra trong quá trình nghiên cứu về sự biến đổi bộ trang phục truyền
thống của người Lô Lô Hoa trong mối quan hệ và so sánh giữa các địa điểm
nghiên cứu khác nhau, để thấy được những đặc điểm chung và riêng.
- Tác giả còn dựa vào Tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và
Nhà nước ta về vấn đề dân tộc, văn hóa dân tộc, chính sách dân tộc,... làm cơ
sở lý luận và phân tích, đánh giá những kết quả đạt được khi nghiên cứu trang
7
phục truyền thống của người Lô Lô Hoa, các giá trị văn hóa và việc bảo tồn
bộ trang phục này trong bối cảnh mới. Theo đó, không thể bỏ qua Nghị quyết
lần thứ 5 (Khóa VIII) về xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam, tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc và Nghị quyết lần thứ 9 (Khóa XI) của Ban chấp
hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng và phát triển văn hóa,
con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước.
- Khi thực hành nghiên cứu, tác giả chủ yếu tiếp cận từ góc nhìn Nhân
học, đặc biệt là Nhân học văn hóa. Trang phục nói chung, trang phục truyền
thống của người Lô Lô Hoa nói riêng luôn gắn với chủ thể là tộc người. Do
vậy, quá trình thực hiện đề tài luận án, tác giả luôn quán triệt mối quan hệ
giữa các thành tố và đặc điểm văn hóa của trang phục truyền thống đối với tộc
người Lô Lô trong tương quan với tộc người láng giềng tại địa bàn nghiên
cứu. Trên cơ sở ấy, tác giả còn đi sâu phân tích, xem xét những tác động của
các yếu tố trong đó có yếu tố chủ thể văn hóa đến sự biến đổi bộ trang phục
truyền thống. Có thể nói, tiếp cận Nhân học giúp làm rõ vai trò từng yếu tố
như kinh tế, gia đình, tín ngưỡng,... liên quan đến khía cạnh văn hóa trang
phục truyền thống của người Lô Lô Hoa; lý giải về những hiện tượng trong
tập quán và ứng xử xã hội qua sử dụng trang phục, khai thác tài nguyên tự
nhiên và quy trình sản xuất nguyên liệu hay ứng xử của người Lô Lô với
trang phục truyền thống trong các hoàn cảnh cụ thể.
- Nghiên cứu các công trình liên quan đến đề tài của các nhà khoa học
đi trước để kế thừa những thành quả lý luận, thuật ngữ khoa học, tiêu chí phân
loại trang phục,... Đó là những công trình nghiên cứu chuyên sâu về trang
phục của các tác giả Từ Chi, Lê Ngọc Thắng, Ngô Đức Thịnh, Hoàng
Lương,... Các công trình đó đã đưa ra những nhận định, đánh giá về văn hóa
tộc người qua phân tích trang phục truyền thống của đồng bào, tạo tiền đề và
cơ sở cho việc tiếp cận nghiên cứu về trang phục. Chẳng hạn, trong công trình
8
“Trang phục cổ truyền của người Thái ở Tây Bắc Việt Nam” Lê Ngọc Thắng
đã đưa ra tiêu chí cơ bản để phân loại trang phục; nêu lên những khái niệm
đầu tiên về chức năng của trang phục không những là một hiện tượng văn hóa
vật chất, dùng bảo vệ cơ thể con người, mà còn phản ánh nếp sống văn hóa
tộc người. Theo tác giả, trang phục khác hẳn so với công cụ sản xuất, nhà cửa
và một số yếu tố văn hóa vật chất khác, bởi trang phục có mối gắn kết mật
thiết với con người và không thể tách rời trong môi trường tự nhiên, bên cạnh
chức năng sinh học và chức năng xã hội cũng như chức năng thẩm mỹ.
4.2. Phương pháp nghiên cứu cụ thể
Trong quá trình thực hiện đề tài, tác giả luận án đã áp dụng các phương
pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp điền dã dân tộc học
Phương pháp điền dã dân tộc học được sử dụng chủ đạo, cụ thể là tiến
hành khảo sát thực địa nhằm khai thác trực tiếp các tài liệu, thông tin từ người
dân Lô Lô để hiểu một cách chân thực về đời sống và trang phục truyền thống
của họ. Từ khi thực hiện luận án, tác giả đã đi điền dã vào những thời điểm
khác nhau từ 2016 đến 2018 tại địa bàn người Lô Lô hai huyện Mèo Vạc,
Đồng Văn (Hà Giang), huyện Bảo Lạc (Cao Bằng) để thâm nhập vào cuộc
sống của người dân, tìm hiểu chu trình sinh hoạt, cách làm và sử dụng trang
phục của đồng bào. Trong các đợt điền dã, tác giả đã dùng các công cụ:
+ Phỏng vấn sâu những người am hiểu về trang phục và các tập quán
liên quan là công cụ thu thập dữ liệu bởi những câu hỏi thăm dò và những câu
hỏi đóng - mở. Tác giả luận án đã phỏng vấn một số già bản, trưởng bản, thầy
cúng, đặc biệt là những phụ nữ có kỹ năng, tay nghề và am hiểu các công việc
nhuộm, dệt, thêu, vá may trang phục, trang trí hoa văn trên trang phục,... Cụ
thể là đã tiến hành 15 cuộc phỏng vấn tại xóm Sảng Pả A, thị trấn Mèo Vạc;
xã Thượng Phùng có 7 người ở xóm Thèn Pả tham gia, xã Xín Cái có 12
9
người ở xóm Cờ Tảng; huyện Đồng Văn có: 3 người ở thôn Đoàn Kết xã
Sủng Là, và 10 người ở xóm Lô Lô Chải xã Lũng Cú. Ở Bảo Lạc phỏng vấn
10 người ở bản Nà Van xã Hồng Trị và 11 người ở bản Khuẩy Khon xã Kim
Cúc. Qua các cuộc phỏng vấn, tác giả có cái nhìn từ tổng thể đến cụ thể và chi
tiết về trang phục cũng như ý nghĩa của nó trong đời sống tộc người Lô Lô.
+ Tổ chức thảo luận nhóm là công cụ quan trọng của quá trình điền dã
khi nghiên cứu tại thực địa và là phương tiện hữu ích để thu thập các thông
tin, nhằm mô tả, so sánh, giải thích sâu hơn về trang phục truyền thống của
người Lô Lô, nhất là để đánh giá tính khách quan những quan điểm của người
dân Lô Lô ở mọi độ tuổi, nghề nghiệp, trình độ học vấn về các yếu tố liên
quan đến trang phục truyền thống như quy trình sản xuất, các thành tố, sự
biến đổi và nhu cầu lưu giữ, bảo tồn bộ trang phục này của tộc người mình
nói chung. Vì vậy, tác giả luận án đã mời các chị em phụ nữ và người già, đàn
ông để cùng thảo luận nhóm tại Sảng Pả A là 5 lần, ở xã Thượng Phùng 1 lần
và ở xã Xín Cái 2 lần, xã Lũng Cú 1 lần. Thảo luận ở huyện Bảo Lạc 2 lần: 1
ở xóm Nà Van xã Hồng Trị, 1 lần ở bản Khuẩy Khon xã Kim Cúc.
+ Quan sát tham dự nhằm bổ khuyết cho những hạn chế của việc phỏng
vấn sâu và thảo luận nhóm, bởi vì đây là công cụ thu thập thông tin, bao gồm
cả việc dùng thị giác và ghi chép lại mọi yếu tố liên quan đến bộ trang phục
truyền thống với yêu cầu quan sát và xem xét thật kỹ lưỡng, đầy đủ, đúng đắn
và chính xác những gì nhìn thấy để có những thông tin đáng tin cậy về bộ
trang phục này. Tác giả còn tham gia trực tiếp vào sinh hoạt của người dân Lô
Lô, quan sát việc sử dụng trang phục của người Lô Lô trong sinh hoạt hàng
ngày và các nghi lễ tôn giáo, cộng đồng.
+ Từ việc quan sát về cách cắt, thêu thùa hoa văn và táp vải màu, may
khâu,... tác giả có điều kiện sử dụng các kỹ thuật đo, vẽ, chụp ảnh, quay phim
để lưu lại chính xác kích thước, màu sắc, kiểu dáng và những chi tiết trang trí
10
trên trang phục truyền thống của người Lô Lô. Nhờ quan sát tham dự cùng
với các công cụ đo, vẽ..., tác giả luận án có thể phân tích và phiên giải được ý
nghĩa biểu tượng một số họa tiết hoa văn trang trí trên trang phục, ý nghĩa đời
sống tộc người thông qua đặc điểm bộ trang phục.
- Phương pháp phân loại
Tác giả đã sử dụng phương pháp phân loại để sắp xếp các tài liệu, tư
liệu thu thập được trong quá trình thực địa thành một hệ thống logic chặt chẽ
theo từng loại, từng đơn vị kiến thức, từng vấn đề của trang phục có chung
dấu hiệu bản chất hoặc cùng hướng biến đổi,... Việc này góp phần tìm hiểu về
bộ trang phục của người Lô Lô Hoa một cách khoa học và có hệ thống. Nhằm
làm sáng tỏ sự biến đổi trang phục của người Lô Lô Hoa theo thời gian, sự tác
động của môi trường xung quanh như con người, tập quán, kinh tế, xã hội và
sự tương đồng cũng như khác biệt giữa hai nhóm Lô Lô.
- Phương pháp so sánh
Phương pháp so sánh được triển khai theo nhiều hướng. Để thấy được
sự tiếp biến văn hóa trang phục ở các thời gian khác nhau trong việc tìm hiểu
về biến đổi. Từ không gian sống khác nhau để tìm thấy sự tương đồng và
khác biệt về bản sắc văn hóa thông qua trang phục người Lô Lô ở Mèo Vạc
và Đồng Văn của tỉnh Hà Giang và ở huyện Bảo Lạc tỉnh Cao Bằng,...
- Phương pháp chuyên gia
Kết hợp với phương pháp phân tích các tư liệu thu thập được, tác giả sử
dụng phương pháp chuyên gia để trao đổi với một số nhà quản lý, trí thức ở
địa phương và ý kiến của chuyên gia là nhà nghiên cứu nhằm bổ trợ, điều
chỉnh hợp lý hướng tiếp cận đối tượng cũng như đề xuất các kiến nghị bảo
tồn, phát huy trang phục truyền thống của người Lô Lô Hoa ở Mèo Vạc.
Ngoài ra, tác giả còn dùng phương pháp ký họa, tốc ký để ghi chép
nhanh bằng hình vẽ các họa tiết, hoa văn trên trang phục ngay tại nơi nghiên
11
cứu; khai thác thêm thông tin qua các bộ sưu tập về trang phục Lô Lô của Bảo
tàng Dân tộc học Việt Nam, Bảo tàng Văn hóa các dân tộc Việt Nam ở Thái
Nguyên, Bảo tàng tỉnh Hà Giang...; sử dụng các phương pháp hệ thống, phân
tích, tổng hợp... khi xử lý tư liệu, tài liệu thu thập được và viết luận án.
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
- Luận án là một công trình đầu tiên nghiên cứu chuyên sâu, có hệ
thống về trang phục truyền thống hiện nay của người Lô Lô Hoa ở huyện
Mèo Vạc tỉnh Hà Giang từ góc nhìn Nhân học.
- Luận án góp phần phục dựng lại quy trình làm ra trang phục truyền
thống đã bị mai một của người Lô Lô Hoa, nhất là làm rõ một số đặc trưng về
hoa văn và nghệ thuật khâu ghép vải trên trang phục của nhóm Lô Lô này.
- Luận án có đóng góp tư liệu mới về tình hình biến đổi và nguyên nhân
dẫn đến biến đổi bộ trang phục truyền thống của người Lô Lô Hoa ở huyện
Mèo Vạc, đồng thời dự báo về xu hướng biến đổi của bộ trang phục này để có
những giải pháp bảo tồn, phát huy các giá trị trong bối cảnh hội nhập và du
lịch, công nghiệp hóa và hiện đại hóa diễn ra ngày càng mạnh mẽ.
- Trên cơ sở đánh giá các kết quả nghiên cứu, luận án đã đưa ra một số
kiến nghị giải pháp nhằm bảo tồn và phát huy các giá trị bộ trang phục truyền
thống hiện nay của người Lô Lô Hoa nói riêng, tộc người Lô Lô nói chung.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
6.1. Ý nghĩa lý luận
- Các kết quả đạt được khi thực hiện đề tài luận án sẽ làm sáng tỏ thêm
mối quan hệ giữa trang phục truyền thống và bản sắc văn hóa tộc người, việc
gìn giữ trang phục đó cũng chính là gìn giữ bản sắc văn hóa tộc người.
- Luận án là nguồn tư liệu mới và phong phú về trang phục từ truyền
thống đến biến đổi hiện nay của người Lô Lô Hoa ở huyện Mèo Vạc, giúp ích
cho việc khái quát và đúc kết về đặc trưng văn hóa mặc ở các tộc người.
12
- Luận án góp phần hoàn thiện những vấn đề lý luận như khái niệm,
tiêu chí phân loại trang phục, cách tiếp cận trong phân tích và đánh giá các
đặc trưng văn hóa tộc người khi nghiên cứu về trang phục truyền thống và
biến đổi nó; đồng thời, tiếp tục khẳng định vai trò của phụ nữ tộc người thiểu
số đối với việc bảo tồn trang phục truyền thống của tộc người mình.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
- Luận án làm rõ thêm các giá trị bộ trang phục truyền thống hiện nay
của người Lô Lô Hoa ở huyện Mèo Vạc khi nó đang bị mai một và biến đổi,
qua đó góp phần nâng cao ý thức của người Lô Lô trong việc bảo tồn bộ trang
phục truyền thống cũng như các đặc trưng văn hóa của tộc người mình.
- Kết quả nghiên cứu có ý nghĩa với việc bảo tồn, phát huy bản sắc văn
hóa ở tộc người Lô Lô theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII (về
xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc) và Nghị quyết Trung ương 9 khóa XI (về xây dựng và phát triển văn hóa,
con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước) Ban chấp
hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam.
- Luận án là luận cứ khoa học giúp các cơ quan quản lý nhà nước về
dân tộc và văn hóa có cơ sở thực tiễn để đưa ra các chủ trương, chính sách
hợp lý trong quá trình gìn giữ và phát huy bản sắc văn hóa tộc người.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài Mở đầu, Kết luận, Danh mục các công trình đã công bố của tác
giả về luận án, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, luận án kết cấu 4 chương:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu, cơ sở lý thuyết và khái
quát về người Lô Lô Hoa ở huyện Mèo Vạc
Chương 2: Quy trình làm ra trang phục
Chương 3: Các thành tố và chức năng của trang phục
Chương 4: Giá trị của trang phục truyền thống, sự biến đổi,...
13
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ
KHÁI QUÁT VỀ NGƯỜI LÔ LÔ HOA Ở HUYỆN MÈO VẠC
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu về người Lô Lô ở Việt Nam và
về trang phục
1.1.1. Tình hình nghiên cứu của tác giả nước ngoài
Đối với các công trình nghiên cứu của các học giả ở trong nước và
nước ngoài về người Lô Lô ở nước ta, theo kết quả tìn kiếm chưa đầy đủ tại
một số thư viện như của chúng tội Thư viện Viện Dân tộc học, Thư viện quốc
gia, Thư viện Trường Đại học quốc gia Hà Hội, Thư viện Trường Đại học Sư
phạm Hà Nội,... đã tìm thấy hơn 60 ấn phẩm từ trước đến nay viết về người
Lô Lô ở Việt Nam. Trong đó, chỉ có 3 ấn phẩm của tác giả người nước ngoài,
chủ yếu do người Pháp viết từ những năm đầu thế kỷ XX; số ấn phẩm còn lại
là của các học giả trong nước.
Một trong các tác phẩm của học giả nước ngoài viết về tộc người Lô Lô
ở Việt Nam có thể kể đến là “Étude sur les langues parlées par les
populations de la haute rivière claire” (Nghiên cứu ngôn ngữ của cư dân
vùng thượng lưu sông Chảy) của A. Bonifacy [102] đăng trên BEFEO, số 1 -
2, có nội dung viết về đặc điểm ngôn ngữ của tộc người Lô Lô ở tỉnh Hà
Giang, do vậy tác giả chưa có điều kiện đề cập đến văn hóa vật chất trong đó
có trang phục của người Lô ở nơi đây.
Bên cạnh đó, đáng chú ý là hai tác phẩm: “Notions de grammaire Lo
Lo” (Những khái niệm về ngữ pháp của người Lô Lô) [103] và “Notes sur les
dialectes Lo-Lo” (Vài nét về thổ ngữ của người Lô-Lô) [104] của tác giả
người Pháp M. Alered Lietard đều được đăng tải ở trên Tạp chí BEFEO. Tuy
nhiên, nội dung của cả hai ấn phẩm này vẫn chủ yếu đề cập đến ngôn ngữ của
14
tộc người Lô Lô, không có mục nào mang tính khảo tả về đặc điểm văn hóa
tinh thần cũng như về sinh hoạt vật chất trong đó có các yếu tố trang phục
truyền thống của tộc người này.
Có thể nhận thấy, các công trình nghiên cứu của học giả nước ngoài về
tộc người Lô Lô ở Việt Nam đã được thực hiện từ rất lâu, chủ yếu do các tác
giả người Pháp nghiên cứu và cũng chỉ đề cập tới đặc điểm ngôn ngữ là
chính, chưa có nghiên cứu nào nói tới các yếu tố văn hóa vật chất, trong đó có
trang phục truyền thống của người Lô Lô ở nước ta.
Ngoài ra, còn có những công trình nghiên cứu của học giả nước ngoài
cũng như học giả người Trung Quốc viết về người Di ở Trung Quốc có liên
quan tới tộc người Lô Lô ở Việt Nam. Tuy nhiên, người Di ở Trung Quốc là
một dân tộc lớn không chỉ với dân số đông đúc mà trong lịch sử đã là chủ
nhân của cố Vương quốc Nam Chiếu. Theo đó, người Di ở Trung Quốc hiện
nay gồm nhiều tộc người nhỏ trong đó có tộc người Lô Lô ở Việt Nam, đặc
biệt là còn được chia thành nhiều loại người di như Di Đen (Hắc Di), Di
Trắng (Bạch Di)..., thậm chí trong Di Trắng lại được chia ra Qu Nuo (Khúc
Nặc), A jia (A Giáp), Xía xi xía lùo (Áp tây áp lạc),... [61, 31-32]. Trong bối
cảnh quốc tế hiện nay đang rất nhạy cảm về vấn đề dân tộc và tôn giáo, tác
giả luận án chưa lần nào được gặp người Di ở bên Trung Quốc, trong khi
Trung Quốc đang ráo riết thực hiện chính sách biên giới mềm, các nhà khoa
học Trung Quốc đang đi sâu nghiên cứu về các mối quan hệ giữa các dân tộc
ở Trung Quốc với người đồng tộc ở nước ngoài để làm rõ về nguồn gốc lịch
sử, nhóm máu huyết thống, sự tương đồng văn hóa,... nhằm tạo ra tình hình
các tộc người đồng tộc ở ngoại quốc có ý thức hướng về chính quốc Trung
Quốc. Do đó, trong luận án này, nghiên cứu sinh (NCS) xin phép chỉ đề cập
tới những công trình của học giả nước ngoài viết về người Lô Lô ở Việt Nam,
mà không nhắc tới tộc người Di ở Trung Quốc, có nghĩa là không muốn làm
15
cho tộc người Lô Lô có dân số ít ở nước ta phải suy nghĩ về người đồng tộc
đông đúc của họ ở bên Trung Quốc khi có điều kiện tìm đọc luận án này.
Tuy nhiên, đáng lưu ý là một số nghiên cứu của học giả nước ngoài về
trang phục, văn hóa trang phục và cách tạo ra trang phục rất có ích trong việc
gợi mở cho nghiên cứu sinh về cách nhìn mới khi thực hiện đề tài luận án
này. Chẳng hạn như công trình “The Book of Looms” (Cuốn sách của khung
dệt) của Eric Broudy [100] đã chỉ ra cho chúng tôi có cách nhìn khi tiếp cận
với quy trình tạo ra vải sợi nói riêng, trang phục truyền thống của tộc người
nói chung không thể thiếu công đoạn dệt vải với công cụ chính là khung dệt.
Trong khi đó, công trình “Dress and Ethnicity - Change Across Space and
Time” (Ăn mặc và sắc tộc - Thay đổi không gian và thời gian) của Joanne B.
Eicher [101] lại giúp chúng tôi luôn lưu ý rằng, khi nghiên cứu về trang phục
và văn hóa trang phục không thể tách rời chủ thể của nó là tộc người và văn
hóa tộc người cũng như những sự biến đổi của trang phục theo thời gian và
không gian. Bên cạnh đó, công trình “Women of Visionary Art” (Phụ nữ của
nghệ thuật thị giác) của David Jay Brown và Rebecca Ann Hill [99] còn cho
chúng tôi thấy được vai trò của người phụ nữ trong việc tạo ra thẩm mỹ bằng
nghệ thuật trang trí, đồng thời là người trực tiếp gìn giữ và trao truyền nghệ
thuật ấy cho các thế hệ kế cận,...
1.1.2. Tình hình nghiên cứu của tác giả trong nước
Tổng quan khá chi tiết các nghiên cứu về tộc người Lô Lô ở Việt Nam
đã được tác giả Nguyễn Thị Thu thực hiện ở chương “Dân tộc Lô Lô”, trong
Vương Xuân Tình (Chủ biên, 2018), Các dân tộc ở Việt Nam, tập 4 quyển 1,
do Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật phát hành [65, tr.624-628]. Ở đây xin đề
cập một số công trình tiêu biểu.
1.1.2.1. Những nghiên cứu trên các lĩnh vực nguồn gốc lịch sử tộc
người, hoạt động kinh tế, sinh hoạt văn hóa và tập quán xã hội
16
Về nguồn gốc lịch sử tộc người Lô Lô ở nước ta, chủ yếu được đề cập
trong công trình Nguồn gốc lịch sử tộc người vùng biên giới phía Bắc Việt
Nam của Nguyễn Chí Huyên (Chủ biên), Hoàng Hoa Toàn, Lương Văn Bảo
[32]. Ngoài ra, một số công trình khảo tả về những vấn đề chung của tộc
người Lô Lô ở nước ta cũng có đề cập tới lĩnh vực này của đồng bào.
Riêng hoạt động sản xuất của người Lô Lô, có rất ít ấn phẩm mang tính
chuyên đề hoặc chuyên khảo, bởi vì chỉ có hai công trình có nội dung viết về
vấn đề này. Cụ thể là: Trồng trọt ruộng màu và thổ canh hốc đá ở người Lô
Lô Hà Giang của Nguyễn Anh Ngọc [44]; Tập quán canh tác truyền thống
của người Lô Lô của Mai Văn Tùng [81]. Do vậy, tập quán và tri thức sản
xuất kinh tế, trong đó có trồng bông và chàm của người Lô Lô hầu như chỉ
được đề cập đến trong những tác phẩm khảo tả về nhiều lĩnh vực, đó là các
tác phẩm: Sơ lược giới thiệu dân tộc Lô Lô huyện Đồng Văn, Hà Giang của
tác giả Lâm Tâm [63]; Người Lô Lô ở Bảo Lạc, tỉnh Cao Bằng của Hoàng
Hoa Toàn [78]; Các dân tộc ít người ở Việt Nam (Các tỉnh phía Bắc) của
Viện Dân tộc học [87] và đã tái bản năm 2014; Văn hóa và nếp sống Hà Nhì -
Lô Lô của Nguyễn Văn Huy [29]; Dân tộc Lô Lô ở Việt Nam do Khổng Diễn
và Trần Bình làm chủ biên [16],... Qua nội dung chi tiết của các công trình
này, không chỉ thấy được tình hình sản xuất nông nghiệp truyền thống luôn
đóng vai trò chủ đạo đối với đời sống kinh tế của người Lô Lô, mà còn phản
ánh được tính đa dạng các hình thức trồng trọt ở các địa bàn sinh sống của tộc
người Lô Lô, bao gồm canh tác nương rẫy với nhiều loại hình như nương ven
đồi hoặc sườn núi, nương ven suối, nương thổ canh hốc đá,...; làm ruộng bậc
thang ở các địa phương Lô Lô thuộc huyện Mèo Vạc (tỉnh Hà Giang) và các
huyện Bảo Lạc, Bảo Lâm (tỉnh Cao Bằng) đã xuất hiện từ lâu. Đặc biệt, một
số công trình đã chỉ ra rằng, trước đây tộc người Lô Lô ở tỉnh Hà Giang trong
đó có Lô Lô Hoa ở huyện Mèo Vạc có các loại nương để trồng bông, trồng
17
chàm,... làm nguyên liệu cho may mặc, nhưng nay tập quán này chỉ còn duy
trì đối với người Lô Lô ở tỉnh Cao Bằng.
Đáng lưu ý là các nghiên cứu riêng biệt về văn hóa vật chất chưa nhiều,
chẳng hạn, về nhà ở chỉ có Nhà ở của người Lô Lô Hà Giang của Lý Hành
Sơn [59]; Phong tục làm nhà của dân tộc Lô Lô của Nguyễn Văn Căn [9].
Các nghiên cứu này đã đề cập khá chi tiết về cấu trúc ngôi nhà truyền thống
và đặc điểm mặt bằng sinh hoạt trong ngôi nhà Lô Lô ở Việt Nam. Bên cạnh
đó, các công trình ấy còn khái quát về một số nghi lễ tín ngưỡng, kiêng kỵ
liên quan đến quá trình xây dựng và sinh sống trong nhà mới của tộc người
Lô Lô. Trong khi, nghiên cứu về ăn uống của người Lô Lô ở nước ta thì chưa
có ấn phẩm riêng nào, mà chỉ được đề cập trong các công trình viết về những
vấn đề chung của tộc người Lô Lô. Tương tự như vậy, đến nay cũng chưa có
nghiên cứu riêng về các yếu tố vật chất khác của tộc người Lô Lô như nông
cụ, phương tiện vận chuyển, đồ dùng sinh hoạt,...
Tuy nhiên, lĩnh vực văn hóa tinh thần nói chung, đặc biệt là các yếu tố
như văn học dân gian, dân ca, dân vũ,... của người Lô Lô luôn thu hút được
nhiều nghiên cứu nhất. Có thể kể tới một số ấn phẩm tiêu biểu như: Dân ca
Lô Lô và dân ca Giáy của tác giả Ngô Vĩnh Bình [5]; Truyện cổ Lô Lô của
Hoàng Nam và Lò Giàng Páo [40]; Dân ca trong lễ hội của người Lô Lô của
Lò Giàng Páo [56]; Lễ “gọi hồn - cầu thọ” của người Lô Lô ở Hà Giang của
Nguyễn Văn Căn [10]; Nghệ thuật múa của người Lô Lô ở Hà Giang của
Trịnh Minh Ngọc [46]; Múa tiễn đưa linh hồn - nét văn hóa tâm linh độc đáo
của người Lô Lô cũng của Trịnh Minh Ngọc [47],... Riêng ấn phẩm về trống
đồng liên quan đến tâm linh của người Lô Lô thì có 2 ấn phẩm là: Trống đồng
cổ với các dân tộc ở Hà Giang của Lò Giàng Páo [52]; Bàn thêm về di sản
trống đồng của người Lô Lô của Nguyễn Thị Hảo [23].
18
Các nghiên cứu về tập quán xã hội, nhất là về nghi lễ vòng đời của
người Lô Lô ở nước ta cũng chiếm số lượng đáng kể. Đó là các công trình
như: Một số vấn đề về hôn nhân, sinh đẻ của người Lô Lô ở miền núi phía
Bắc của Đào Huy Khuê [36]; Nghi lễ vòng đời của người Lô Lô ở Cao Bằng
của tác giả Đặng Thị Hoa [27]; Đôi nét về tang ma của người Lô Lô Đen ở xã
Lũng Cú, huyện Đồng Văn, tỉnh Hà Giang của Phạm Dương [17]; Nghi lễ
vòng đời của người Lô Lô ở Cao Bằng của Bàn Tuấn Năng [42]; Hôn nhân
của người Lô Lô ở huyện Bảo Lạc, tỉnh Cao Bằng: Truyền thống và biến đổi
của Mông Thị Xoan [93],... Các công trình vừa trình bày tuy đã đề cập đến
các nghi lễ trong chu kỳ đời người của người Lô Lô, trong đó Bàn Tuấn Năng
có nói tới việc hóa trang thành người rừng để múa ở đám tang, song vẫn thiếu
những nghiên cứu so sánh giữa các nhóm Lô Lô, nhất là chưa đề cập chuyên
sâu đến bộ lễ phục truyền thống của tộc người Lô Lô cũng như nhóm Lô Lô
Hoa và những biến đổi của các nghi lễ cùng lễ phục truyền thống trong bối
cảnh hội nhập hiện nay.
1.1.2.2. Những nghiên cứu về trang phục truyền thống của tộc người
Lô Lô và một số tộc người ở nước ta
- Những nghiên cứu về trang phục truyền thống của tộc người Lô Lô
Qua tổng quan cho thấy, nghiên cứu về trang phục truyền thống của tộc
người Lô Lô ở Việt Nam thu hút được khá nhiều tác giả trong nước quan tâm.
Có thể kể tới một số như: Nét độc đáo trong trang phục phụ nữ Lô Lô của tác
giả Quỳnh Lan [37]; Trang phục của phụ nữ Lô Lô của Tiến Thiều [72]; Nữ
phục Lô Lô đen ở Đồng Văn (Hà Giang) của Vũ Đình Giáp [21]; Đôi nét về
trang phục cổ truyền của người Lô Lô của Lý Hành Sơn [60]; Nữ phục truyền
thống Lô Lô Hoa của Lê Mai Oanh [50],... Bên cạnh đó, trang phục của người
Lô Lô còn được đề cập trong một số công trình như Trang phục cổ truyền các
dân tộc Việt Nam của Ngô Đức Thịnh [73]; Trang phục các tộc người nhóm
19
ngôn ngữ Tạng-Miến của Đỗ Thị Hòa [28],... Chưa kể các công trình mang tính
khảo tả về nhiều lĩnh vực văn hóa của tộc người Lô Lô cũng có đề cập khái
quát về trang phục truyền thống của tộc người này.
Qua các công trình về văn hóa trang phục của tộc người Lô Lô, hầu hết
các tác giả cho rằng trang phục truyền thống của đồng bào bao gồm: y phục
và trang sức. Trong đó, y phục được phân chia thành y phục nữ và y phục
nam. Y phục nữ gồm: khăn, áo, quần, tạp dề, dây lưng, xà cạp, váy, giầy dép;
y phục của đàn ông gồm: mũ, khăn, áo, quần, giầy dép. Còn trang sức của họ
có: vòng cổ, vòng tay, khuyên tai, cúc áo bằng đồng, nhẫn, dây chuyền, dây
xà tích bằng bạc, nón,... [60, tr.8-16]. Cũng theo các nghiên cứu, trang phục
truyền thống của người Lô Lô rất độc đáo. Chẳng hạn như khăn, theo Đỗ Thị
Hòa, khăn đội đầu của phụ nữ nhóm Lô Lô Hoa gồm hai loại: khăn mỏ thô
qua có kích thước rộng 20 - 22cm, dài 220 - 310cm, màu đen hoặc xanh chàm
với hai loại tua ở hai đầu là tua vải và tua chỉ xe; khăn mơ thúc do hai khổ vải
chắp nhau tạo thành, có kích thước rộng 40cm, dài khoảng 110 - 130cm kể cả
tua chỉ hai đầu; cả hai loại khăn đó đều được trang trí nhiều họa tiết hoa văn
đa dạng theo sở thích và óc thẩm mĩ của từng người. Còn khăn đội đầu của
người Lô Lô Đen gồm 3 loại, trong đó 1 khăn làm từ vải trắng dài 170cm,
rộng 30cm; 2 loại khăn còn lại làm bằng vải chàm với các kích thước
150x40cm và 130x15cm... [28, tr.20].
- Những nghiên cứu về trang phục của một số tộc người ở nước ta
Đến nay đã có rất nhiều nghiên cứu về trang phục của không ít tộc
người thiểu số ở nước ta. Hầu hết các nghiên cứu mang tính khảo tả về các
lĩnh vực văn hóa tộc người đều có ít nhất một mục hoặc một chương nói về
văn hóa vật chất, trong đó có đề cập khái quát tới trang phục truyền thống của
đồng bào. Do vậy, ở đây chỉ xin đề cập tới một số nghiên cứu mang tính
chuyên sâu từ góc nhìn Dân tộc học/Nhân học và chủ yếu tính từ đầu những
20
năm 90 thế kỷ XX về trang phục để thấy những cách tiếp cận, nhận định hoặc
luận điểm cũng như ý tưởng,... của tác giả nhằm tiếp thu, áp dụng, kế thừa
trong luận án. Như vậy, tác giả luận án không tham vọng bao quát tất các các
nghiên cứu về trang phục và các yếu tố liên quan, đồng thời chỉ tập trung vào
một số tộc người thiểu số ở nước ta.
Theo đó, nghiên cứu có tính chuyên khảo về trang phục của tộc người
thiểu số, có lẽ cần phải kể đến những công trình như Nghệ thuật trang phục
Thái của Lê Ngọc Thắng [66], đặc biệt là luận án tiến sĩ Sử học (1991) của tác
giả này [69, 70] với tiêu đề Trang phục cổ truyền của người Thái ở Tây Bắc
Việt Nam; Trang phục cổ truyền các dân tộc Việt Nam của Ngô Đức Thịnh
[73]; Tìm hiểu về trang phục Việt Nam của Đoàn Thị Tình [64]; Hoa văn trên
vải các dân tộc Đông Bắc Việt Nam do Diệp Trung Bình làm chủ biên [4];
Trang phục của người Nùng Việt Nam của Lê Văn Bé [3]; Trang phục cổ
truyền của người Dao ở Việt Nam của Nông Quốc Tuấn [80]; Trang phục của
người Dao ở Việt Nam của Nguyễn Khắc Tụng - Nguyễn Anh Cường [83];
Trang phục cổ truyền của người Hmông Hoa ở tỉnh Yên Bái của Trần Thị Thu
Thủy [76]; Trang phục của người Lào ở Tây Bắc Việt Nam của TS. Võ Mai
Phương [58]; Văn hóa trang phục của người Khmer Trà Vinh của Nguyễn Thị
Phương Khánh [34],... Đó chưa kể tới các bài viết cũng khá chi tiết về trang
phục của không ít dân tộc đã công bố trên các tạp chí chuyên ngành.
Trong tất cả các công trình vừa đề cập, có lẽ công trình Trang phục cổ
truyền của người Thái ở Tây Bắc Việt Nam của Lê Ngọc Thắng [69, 70] là lần
đầu tiên ở nước ta đề cập đến các vấn đề mang tính lý luận liên quan tới
nghiên cứu trang phục, từ cách tiếp cận nghiên cứu dưới góc nhìn Dân tộc
học, tiêu chí phân loại trang phục,... bàn luận về các chức năng cơ bản cũng
như giá trị của trang phục. Đây chính là cơ sở khoa học quý giá, được chúng
tôi kế thừa, áp dụng trong luận án. Các công trình khác, ngoài việc áp dụng
21
những cách tiếp cận của một số nhà khoa học đi trước, thì thế mạnh ở việc
khảo tả rất chi tiết với mục đích bảo tồn văn hóa tộc người thông qua bộ trang
phục truyền thống. Đây cũng là cách tiếp cận cần thiết được chúng tôi kế thừa
nhằm giúp bảo tồn trang phục truyền thống hiện nay của người Lô Lô Hoa ở
huyện Mèo Vạc dưới dạng lưu giữ bằng văn bản.
Một số trong các công trình kể trên đều đề cập tới quy trình tạo ra bộ
trang phục, tuy nhiên khi nghiên cứu tới quy trình dệt vải và tạo ra vải mặc để
may khâu y phục thì không thể không kể đến các ấn phẩm: Trồng bông dệt
vải, nghề “làng” của người Thái Mai Châu của Lê Ngọc Thắng [67]; Trồng
lanh và nghề dệt vải của người Hmông ở Đồng Văn, Hà Giang của Vương
Thị Bình [6]; Nghề dệt của người Thái ở Tây Bắc trong cuộc sống hiện đại
của Nguyễn Thị Thanh Nga [43],... Đặc biệt là công trình nghiên cứu về nghề
dệt của người Việt với tiêu đề Nghề dệt cổ truyền của người Việt ở đồng bằng
Bắc bộ Việt Nam của Lâm Bá Nam [39]. Nhìn chung, các công trình này rất
bổ ích, bởi vì giúp chúng tôi về cách tiếp cận cũng như về luận cư khoa học
trong việc thể hiện và phân tích các công đoạn tạo ra vải mặc của người Lô
Lô Hoa ở huyện Mèo Vạc. Ngoài ra, một số công trình về kỹ thuật trang trí
trên vải hoặc trên trang phục cũng rất hữu ích cho chúng tôi khi phân tích và
đánh giá các họa tiết hoa văn cũng như màu sắc trang trí trên trang phục của
người Lô Lô, đặc biệt là để nhận diện về kỹ thuật tạp vải tạo thành hoa văn
độc đáo ở người Lô Lô Hoa so với tộc người khác. Đó là các công trình như:
Hoa văn mặt chăn ở Mường Tấc, Phù Yên, Sơn La của Hoàng Lương [38];
Nghệ thuật trang phục Thái của Lê Ngọc Thắng [66]; Trang trí trên trang
phục nhìn từ góc độ văn hóa dân gian của Ngô Đức Thịnh [74]; Người
Mường ở Hòa Bình của Trần Từ [82]; Góp phần nghiên cứu Văn hóa và tộc
người của Nguyễn Từ Chi [13]; Đồ vải của người Thái ở tiểu vùng sông Mê
Công-Tiếp nối và biến đổi của Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam [2];...
22
1.1.3. Đánh giá về tình hình nghiên cứu và những vấn đề đặt ra cho
đề tài luận án cần tập trung nghiên cứu
Qua tổng quan tài liệu về trang phục Lô Lô ở nước ta có thể nói, bộ
trang phục truyền thống của người Lô Lô rất đa dạng, phụ thuộc vào từng
nhóm Lô Lô với các màu sắc riêng biệt, tạo nên sự tương phản về màu sắc,...
Theo các tác giả, trang phục nữ Lô Lô khá độc đáo với những nét riêng khó
có thể lẫn với các dân tộc xung quanh. Trong khi, trang phục nam giới và trẻ
em thì khá đơn giản, song cũng phần nào phản ánh được bản sắc người Lô Lô
cũng như sự thích nghi của họ với môi trường khí hậu và sinh thái nơi họ sinh
sống, sản xuất. Đặc biệt, có một số công trình đề cập tới trang phục của người
Lô Lô Hoa ở huyện Mèo Vạc như đã trình bày, song vẫn chưa nói tới quy
trình tạo ra trang phục, chức năng và giá trị cũng như sự biến đổi trang phục
truyền thống của người Lô Lô Hoa ở Mèo Vạc trong bối cảnh hiện nay, đặc
biệt là dưới tác động của sự phát triển du lịch tại “Công viên Địa chất cao
nguyên đá Đồng Văn”. Tuy nhiên vấn đề đặt ra ở chỗ do nội dung các nghiên
cứu trên về văn hóa mặc của tộc người Lô Lô ở nước ta: (1) Một mặt chưa thể
hiện được những đặc trưng văn hóa tộc người Lô Lô trong quá trình làm ra bộ
trang phục, đặc biệt là những giá trị tộc người kết tinh trong bộ trang phục ấy
thông qua các yếu tố thẩm mỹ và cách trạng phục, chẳng hạn như các loại hoa
văn và cách trang trí hóa văn, màu sắc trên trang phục,...; (2) Mặt khác, các
tác giả chưa quan tâm tới sự phong phú và đa dạng đối với những sự biến đổi
và tiếp thu các yếu tố mới, hiện đại tạo nên bộ trang phục truyền thống của
người Lô Lô trong bối cảnh Đổi mới đất nước năm 1986 đến nay, nhất là gần
đây có sự tác động ngày càng mạnh mẽ của các dịch vụ du lịch tại các địa bàn
sinh sống của người Lô Lô thuộc tỉnh Hà Giang.
Qua kết quả tổng quan tình hình nghiên cứu của các tác giả ở trong và
ngoài nước về tộc người Lô Lô ở Việt Nam và về trang phục truyền thống của
23
tộc người này có thể thấy, ngoài các công trình nghiên cứu với nội dung viết
về những vấn đề chung cũng có đề cập ít nhiều nhưng rất khái quát đến bộ
trang phục truyền thống của tộc người Lô Lô nói chung, nhóm Lô Lô Hoa nói
riêng thì chỉ có một vài công trình nghiên cứu mang tính chuyên đề hoặc bài
viết ngắn về trang phục truyền thống của tộc người này đã được công bố trên
các tạp chí hoặc trong kỷ yếu hội thảo, hội nghị khoa học. Điều này có nghĩa,
cho đến hiện nay vẫn chưa có một chuyên khảo nào mang tính hệ thống về
trang phục truyền thống của tộc người Lô Lô nói chung, của người Lô Lô Hoa
ở huyện Mèo Vạc, tỉnh Hà Giang nói riêng.
Hơn nữa, các công trình đã công bố viết về hoạt động kinh tế truyền
thống có liên quan tới việc gieo trồng các nguyên liệu bông, chàm cũng như
nghề thủ công gia đình làm ra vải mặc, kể cả về trang phục truyền thống của
tộc người Lô Lô vẫn còn rất khái quát, chưa thể hiện tổng thể mang tính hệ
thống các khâu: từ việc tạo ra vải và may khâu thành bộ trang phục, đặc điểm
văn hóa các thành tố bộ trang phục... đến cách sử dụng cũng như giá trị văn
hóa tộc người thể hiện qua trang phục. Đặc biệt, đến nay vẫn chưa có nghiên
cứu cụ thể về những biến đổi bộ trang phục truyền thống của người Lô Lô từ
Đổi mới đất nước năm 1986. Do đó, thực hiện đề tài luận án này không chỉ
cấp thiết, có ý nghĩa khoa học và thực tiễn sâu sắc, mà còn góp phần kế thừa
các thành tựu đã đạt được của các nhà khoa học đi trước trong nghiên cứu về
trang phục của người Lô Lô ở nước ta.
1.2. Cơ sở lý thuyết
1.2.1. Một số khái niệm cơ bản
- Trang phục
Năm 1991, tác giả Lê Ngọc Thắng đã đưa ra khái niệm: “Trang phục
gồm y phục (khăn, áo, nón, váy, quần...) và đồ trang sức (trâm, vòng cổ, hoa
tai, vòng tay, xà tích...) [70, tr.6] hoặc cụ thể hơn: “Trang phục là cách ăn
24
mặc của con người. Mỗi một thành phần dân tộc trên đất nước ta có một nếp
sống văn hóa đặc thù nên cách ăn mặc cũng phản ánh những sắc thái phong
phú, đa dạng đó” [66, tr.16].
Trong quá trình nghiên cứu của minh, Trần Thị Thu Thủy (2004) đã
đưa ra khái niệm “trang phục” gắn với chức năng và của nó như: ‘‘Trang
phục là những phương tiện vật chất bao gồm y phục, trang sức được con
người sử dụng trong sinh hoạt, lao động sản xuất, chiến đấu và các hoạt động
văn hóa xã hội khác; thể hiện cách ứng xử văn hóa trong mối quan hệ của
con người với môi trường tự nhiên và môi trường xã hội, nhằm thỏa mãn các
chức năng: sinh học, xã hội và thẩm mỹ của con người” [76, tr.48].
Bên cạnh đó, Nguyễn Anh Cường (2001) còn cho biết thêm: “Trang
phục bao gồm y phục và trang sức, là cách thể hiện ăn mặc của mọi con
người và của mỗi dân tộc. Mỗi dân tộc đều có những nét văn hóa mang tính
đặc thù mà bộ trang phục cổ truyền là một trong những khía cạnh thể hiện rõ
nét nhất tính tộc người” [11, tr.22].
Hơn nữa, TS. Võ Thị Mai Phương (2010) cũng khẳng định rằng trang
phục gồm y phục và trang sức: “Trang phục bao gồm y phục và trang sức của
một tộc người cụ thể. Trang phục là những vật thể cụ thể, song nó còn chứa
đựng nhiều thông tin văn hóa mang bản sắc tộc người” [58, tr.12-13].
Qua những cách khái niệm về trang phục ở trên có thể thấy, mỗi nhà
khoa học có góc nhìn khác nhau nhưng cơ bản là thống nhất theo nhận định
của Lê Ngọc Thắng ở chỗ trang phục bao gồm y phục và trang sức. Trong
luận án này, tác giả đồng thuận với những cách hiểu ở trên và cũng cho rằng:
trang phục bao gồm y phục, trang sức và phụ kiện đi kèm, có chức năng,
thuộc tính, được phân loại theo tính chất và mục đích sử dụng của con người.
Và trang phục thuộc loại hình văn hóa vật chất, song, chứa đựng nhiều thông
25
tin về văn hóa của tộc người. Bên cạnh đó, tác giả luận án cũng đồng tình với
Lê Ngọc Thắng cho rằng:
+ Y phục bao gồm khăn, áo, nón, váy, quần... Do đó, y phục là bộ phận
quan trọng nhất trong bộ trang phục, bao gồm những đồ để mặc như khăn, áo,
quần, váy... Chẳng hạn, áo dùng để che phần trên của cơ thể; quần để che
phần dưới của cơ thể tính từ bụng trở xuống, có hai ống để che hai chi dưới;
váy để che phần dưới của cơ thể từ bụng trở xuống, không chia thành hai ống
như quần; yếm để che phần ngực của phụ nữ nên có lúc gọi là áo ngực... Liên
quan đến y phục, còn có các từ ngữ như xiêm y (váy áo), y quan (áo mũ), nội
y (đồ mặc lót bên trong)...
+ Trang sức gồm trâm, vòng cổ, hoa tai, vòng tay, xà tích... Như vậy,
trang sức được hiểu là những phụ kiện trang trí được mang trên cơ thể con
người, với muc đích sử dụng rất phong phú. Con người có thể dùng trang sức
với quan niệm để làm đẹp, cũng có thể dùng theo quan niệm dân gian như bảo
vệ sức khỏe, chống tà ma,... Chất liệu và trang trí hoa văn trên trang sức thể
hiện trình độ kỹ thuật, mỹ thuật của tộc người ở từng thời kỳ. Trang sức được
coi là yếu tố văn hóa vật chất, nên được nghiên cứu đi kèm với y phục.
+ Bên cạnh đó, những phụ kiện đi kèm theo y phục được hiểu là những
đồ để làm tăng vẻ đẹp hay tăng giá trị của y phục. Đó là đồ để đội như mũ,
nón, khăn...; để đi như giày, dép, ủng, tất,...
Sự ra đời trang phục nói chung được xuất phát từ nhu cầu cuộc sống
của con người, phản ánh tiến trình phát triển xã hội loài người. Song, xuất
phát từ những sự khác biệt về lịch sử, trình độ văn minh, điều kiện kinh tế, địa
lý, khí hậu, tín ngưỡng, phong tục, tập quán,... của mỗi nền văn hóa mà trang
phục mỗi tộc người cũng có những nét riêng. Không nằm ngoài quy luật đó,
trang phục Lô Lô với những độc đáo riêng góp thêm vào kho tàng trang phục
Việt Nam những nét đặc sắc.
26
- Trang phục truyền thống và trang phục truyền thống hiện nay
Về khái niệm truyền thống, theo cuốn Từ điển tiếng Việt của Viện
Ngôn ngữ học, truyền thống là thói quen hình thành đã lâu đời trong lối sống
và nếp nghĩ, được truyền lại từ thế hệ này sang thế hệ khác [89, tr.1053]. Vì
vậy, khái niệm trang phục truyền thống trong luận án có thể hiểu là các thành
tố của bộ y phục và các đồ trang sức được tộc người tạo ra và sử dụng đã lâu
đời, được truyền lại từ thế hệ này sang thế hệ khác,... Theo chúng tôi, trang
phục truyền thống hiện nay được hiểu là trang phục truyền thống còn được
duy trì, bảo lưu trong bối cảnh hiện tại, bao gồm:
(i) Trang phục truyền thống nguyên bản, tức trang phục đó được gìn
giữ và trao truyền qua nhiều thế hệ mà hiện nay vẫn đang tồn tại;
(ii) Trang phục dạng truyền thống, nghĩa là trang phục đó đã có sự biến
đổi nhưng chưa thay đổi hẳn, nên vẫn giữ được những điểm cơ bản so với bộ
truyền thống nguyên bản về kiểu dáng các thành tố, các màu sắc chủ đạo, các
loại họa tiết hoa văn chủ yếu và cách trang trí trên các thành tố,...
Về mặt lôgic, tất cả mọi vật đều biến đổi nên việc nhận thức về trang
phục truyền thống tồn tại lâu đời cũng chỉ tương đối, bởi vì trong quá trình
tạo ra những bộ trang phục truyền thống cho bản thân mình và gia đình tuy
vẫn dập khuôn theo mẫu mã, chất liệu, các hoa văn trang trí,... mà thế thệ
trước trao truyền lại, nhưng thế hệ sau luôn có những sáng tạo cho phù hợp
với những thay đổi không ngừng về môi trường tự nhiên và xã hội, về việc
giao lưu tiếp thu nền văn hóa mới,... Vì thế, khi nghiên cứu về trang phục
truyền thống hiện nay của người Lô Lô Hoa ở huyện Mèo Vạc, chúng tôi coi
những bộ trang phục của nhóm Lô Lô này còn duy trì hoặc tuy mới được tạo
ra nhưng vẫn bảo lưu được các đặc điểm giống như bộ trang phục đó đã có từ
trước Đổi mới năm 1986, nhất là trước khi có sự thâm nhập và tác động của
kinh tế thị trường, phát triển các dịch vụ du lịch.
27
- Biến đổi trang phục
Về khái niệm, “biến đổi” là sự thay đổi thành khác trước [89, tr.65]. Do
đó trong luận án, biến đổi trang phục truyền thống được hiểu là trong bộ trang
phục truyền thống có sự thay đổi so với trước, theo đó có thể thay đổi về quy
trình tạo ra vải và trang phục, về các thành tố, các chất liệu, cách may khâu,
trang trí, màu sắc và họa tiết hoa văn, việc sử dụng ở các thế hệ và thường
xuyên hay chỉ trong các dịp lễ tết,...
- Chức năng trang phục
Theo các nhà ngôn ngữ học thì chức năng” là: “Tác dụng, vai trò bình
thường hoặc đặc trưng của một người nào, một cái gì đó” [89, tr.191]. Từ
cách hiểu này có thể thấy rằng, chức năng của trang phục chính là tác dụng
của trang phục được thể hiện trên nhiều khía cạnh khác nhau như bảo vệ cơ
thể, phản ánh đặc trưng văn hóa tộc người,...
Theo đó, trong công trình Trang phục cổ truyền của người Thái ở Tây
Bắc Việt Nam (1991), tác giả Lê Ngọc Thắng đã chỉ ra rằng, trang phục có ba
chức năng cơ bản: Chức năng bảo vệ con người, Chức năng xã hội và Chức
năng thẩm mỹ. Trong đó, có chức năng che đậy, bảo vệ con người trong môi
trường tự nhiên là chức năng xuất hiện sớm và xuyên suốt tiến trình phát triển
của tất cả các cộng đồng dân cư; chức năng xã hội còn được gọi là chức năng
văn hóa và chức năng thẩm mỹ của trang phục bao giờ cũng song hành tồn tại
và ngày càng phát triển. Sự tác động, ảnh hưởng qua lại giữa các chức năng
của trang phục phản ánh tiến trình phát triển của đời sống con người trên bình
diện cá nhân, cộng đồng của tất cả các dân tộc [70, tr.8-12].
Trong luận án, chúng tôi tiếp tục áp dụng và kế thừa cách hiểu về chức
năng trang phục cũng như cách phân loại và thể hiện các chức năng trang
phục truyền thống của người Lô Lô Hoa ở huyện Mèo Vạc theo ý tưởng và
cách tiếp cận của tác giả Lê Ngọc Thắng.
28
- Giá trị của trang phục
Theo các nhà ngôn ngữ học, “giá trị” được hiểu là: “Cái làm cho một
vật có ích lợi, có ý nghĩa, là đáng quý về một mặt nào đó” [89, tr.386]. Thực
tế cho thấy, có những giá trị có thể định lượng bởi một giá, nhưng cũng có
những giá trị không thể định giá - vô giá ví dụ như: lòng yêu nước, tình yêu
tình bạn, các tác phẩm nghệ thuật,... Vì vậy, giá trị là một khái niệm của nhiều
bộ môn khoa học khác nhau; trong mỗi bộ môn khoa học, khái niệm này sẽ có
nội hàm khác biệt nhau. Từ góc độ văn hóa học, tác giả Ngô Đức Thịnh
(2014) cho rằng, khái niệm “giá trị” được hiểu là yếu tố cốt lõi của văn hóa,
nó được sáng tạo và kết tinh trong quá trình lịch sử của mỗi cộng đồng, tương
ứng với môi trường tự nhiên và xã hội nhất định, hướng đến thỏa mãn những
nhu cầu và khát vọng của cộng đồng về những điều tốt đẹp (chân, thiện, mỹ),
từ đó bồi đắp và nâng cao bản chất Người [75, tr.23].
Trên cơ sở khái niệm chung nhìn từ góc độ ngôn ngữ học về “giá trị”
và khái niệm “giá trị” từ góc độ văn hóa học của Ngô Đức Thịnh, có thể định
nghĩa “giá trị của trang phục nói chung và của trang phục truyền thống nói
riêng” là những yếu tố có ý nghĩa và đáng quý mang tính văn hóa, xã hội, tín
ngưỡng,... được kết tinh trong trang phục của một cộng đồng, nhóm cư dân
hay một tộc người. Theo đó, trong nghiên cứu của mình, tác giả Lê Ngọc
Thắng đã đưa ra một số giá trị của trang phục Thái như: giá trị văn hóa, giá trị
lịch sử, trong đó theo tác giả, giá trị lịch sử của trang phục Thái chủ yếu phản
ánh mối quan hệ giữa tộc người Thái với các tộc người láng giềng, [70, tr.12-
15]. Đây là cơ sở khoa học đáng quý để luận án này kế thừa.
1.2.2. Cách phân loại trang phục
Bộ trang phục nói chung của bất kể tộc người với những cách phân loại
tuy khác nhau nhưng đều là vật cụ thể và có hai loại hình chính gồm y phục
và trang sức được thể hiện rõ trong khái niệm về trang phục. Theo đó, y phục
29
dùng để che thân thể và đây là chức năng có giá trị sử dụng chủ yếu không thể
thiếu đối với mỗi người và mỗi tộc người; trang sức là bộ phận dùng để trang
trí, làm đẹp với những loại khác nhau bằng kim loại, nhựa, đồ vật, thậm chí là
từ thực vật, động vật,... Vì thế, trang sức có thể gắn hoặc liên kết trực tiếp với
y phục như các loại chỉ màu hoặc tua rua cùng hạt cườm để trang trí, nhưng
cũng có thể tách rời khỏi y phục, tức vật riêng biệt không gắn liền với y phục
như vòng cổ, nhẫn, túi thổ cẩm. Song, cả hai loại hình trang phục này đều gắn
kết với người sử dụng khi người đó buộc phải sử dụng đến chúng.
Do mỗi loại trang phục khác nhau được tạo ra và sử dụng theo những
mục đích hoặc nhu cầu riêng, nên cho đến nay đã có không ít cách để phân
loại về sự khác biệt nhau của trang phục. Qua một số tài liệu đã công bố cho
thấy, trang phục có thể phân loại khi dựa theo một số tiêu chí tùy thuộc vào
mục đích của người nghiên cứu và nhu cầu của người sử dụng, chẳng hạn tác
giả Lê Ngọc Thắng (1990) đã dựa vào giới tính và chức năng xã hội mà phân
loại thành: trang phục nữ, trang phục nam, trang phục trong sinh hoạt và lao
động hàng ngày, trang phục trong hội hè và lễ tết, trang phục trong tình yêu,...
[66, tr.30-101]. Gần đây, tác giả Võ Mai Phương đã trực tiếp phân loại theo
các tiêu chí như: giới tính, lứa tuổi, đẳng cấp và địa vị xã hội, kỹ thuật ăn
mặc,... [58, tr.16]. Dựa trên cơ sở đó, có thể kể tới những tiêu chí cùng với
cách phân loại theo các tiêu chí ấy như dưới đây:
(i) Phân theo thời tiết có trang phục theo từng mùa trong năm, chẳng
hạn như ở nước ta thì ngoài trang phục mặc như đồ lót, thì có trang phục theo
các mùa Xuân, Hè, Thu, Đông;
(ii) Phân theo độ tuổi thì có trang phục trẻ sơ sinh, trang phục thiếu
niên hoặc trẻ em, trang phục thanh niên, trang phục trung niên, trang phục
người già,...;
(iii) Phân theo giới tính có trang phục nam giới, trang phục nữ giới;
30
(iv) Theo mục đích sử dụng có thể kể tới các loại trang phục như: trang
phục trong sinh hoạt hàng ngày, trang phục trong lao động sản xuất, trang
phục trong dịp tết và hội hè, trang phục trong lễ cưới, trang phục tang ma,...;
(v) Theo thành phần xã hội và địa vị xã hội thì thể hiện rõ nhất ở những
tộc người đã diễn ra quá trình phân hóa giai cấp, và trên cơ sở đó trang phục
được chia theo các tầng lớp khác nhau như trước đây có trang phục bình dân,
trang phục người giàu, trang phục của vua và hoàng hậu, trang phục của
hoàng tử, trang phục của quan văn hoặc quan võ,... còn hiện nay thì có trang
phục cán bộ công chức viên chức hay trang phục thường dân,...;
(vi) Theo tính đại chúng trong xã hội hiện nay có âu phục, quốc phục,
trang phục tộc người bao gồm các tộc người thiểu số và đa số như: Kinh, Tày,
Nùng, Sán Chay, Dao, Hmông, Lô Lô,...;
(vii) Phân loại trang phục theo nghề nghiệp trong xã hội hiện nay thì có
trang phục bộ đội, trang phục công an, trang phục cho những người làm việc
trong các ngành y học, tư pháp, hành nghề tôn giáo tín ngưỡng,...
(viii) Theo thời gian có trang phục truyền thống trước đây và hiện nay,
trang phục phổ thông, trang phục theo mốt mới,...
(ix) Theo công dụng thường có trang phục mặc đồ lót, trang phục mặc
thường ngày, trang phục mặc trong những ngày đặc biệt, đồng phục, trang
phục bảo hộ lao động, trang phục thể thao,...
Ngoài ra, còn có các trang phục theo giai đoạn lịch sử, theo mốt thời
trang của một thời gian cụ thể trong năm,... Như vậy, trong quá trình nghiên
về trang phục theo mốt mới hoặc trang phục truyền thống có thể áp dụng
nhiều cách cách phân loại, chẳng hạn phân loại theo giới tính gồm trang phục
nam và trang phục nữ hoặc phân loại theo mục đích sử dụng như trang phục
sử dụng thường ngày, trang phục sử dụng trong nghi lễ bao gồm các nghi lễ
cưới xin, ma chay, cúng tế,... Tuy nhiên, trong luận án về trang phục truyền
31
thống của người Lô Lô Hoa ở huyện Mèo Vạc tỉnh Hà Giang chỉ áp dụng
cách phân loại theo giới tính, bao gồm có trang phục nam và trang phục nữ.
1.2.3. Cơ sở lý thuyết
Để nghiên cứu trang phục của người Lô Lô Hoa ở huyện Mèo Vạc, tỉnh
Hà Giang, luận án đã áp dụng một số lý thuyết như: Lý thuyết chức năng, Lý
thuyết bản sắc văn hóa tộc người, Lý thuyết biến đổi văn hóa.
1.2.3.1. Lý thuyết chức năng
Bronislaw Malinowski (1922) - nhà nhân học người Anh - cha đẻ của
thuyết chức năng đã cho rằng các thiết chế xã hội và được mở rộng ra là các
thiết chế văn hóa của loài người tồn tại được qua thời gian là bởi vì chúng có
chức năng duy trì sự ổn định của cả hệ thống xã hội. Do đó, nhiệm vụ của các
nhà nhân học chính là nghiên cứu làm rõ các chức năng ấy của các thiết chế
xã hội và của văn hóa của loài người. Qua đây, có thể thấy rằng, không có gì
tồn tại mà không có chức năng. Vì thế, trang phục nói chung, trang phục
truyền thống nói riêng cũng tồn tại và biến đổi, vì nó không chỉ có chức năng
ban đầu như chức năng sinh học mà còn sản sinh thêm các chức năng khác
trong quá trình phát triển của xã hội loài người như chức năng phân biệt tộc
người, chức năng thẩm mỹ, chức năng xã hội,...
Luận án này vận dụng Lý thuyết chức năng không nằm ngoài mục đích
nhằm xem xét các đặc trưng văn hóa của nhóm Lô Lô Hoa ở huyện Mèo Vạc
thông qua trang phục truyền thống của họ. Song, cũng cần thấy rằng Thuyết
chức năng có những hạn chế nhất định đáng quan tâm. Đó là việc thuyết này
không nghiên cứu về nguồn gốc, không giải thích sự biến đổi văn hóa mà chỉ
nghiên cứu nó ở dạng tĩnh, và xem nó thể hiện thế nào, có chức năng, tác
dụng ra sao,... Vì vậy, để làm rõ được các vấn đề liên quan tới trang phục
truyền thống của người Lô Lô, luận án còn kết hợp sử dụng một số lý thuyết
khác để phân tích những đặc trưng văn hóa tộc người và sự biến đổi của nó.
32
1.2.3.2. Lý thuyết bản sắc văn hóa tộc người
Lý thuyết bản sắc văn hóa tộc người do F. Boas đưa ra với mục đích để
nghiên cứu về tính đặc thù của văn hóa tộc người. Theo nhận định của F.
Boas, mỗi tộc người có bản sắc văn hóa riêng, có nghĩa là có tính riêng trong
văn hóa giữa các tộc người. Cũng theo F. Boas, bản sắc văn hóa tộc người là
những nét nổi bật chỉ có ở tộc người này mà không có ở tộc người khác, đó là
những tinh hoa được sàng lọc, tích lũy trong cuộc sống của cộng đồng, được
cộng đồng tộc người ấy thừa nhận và tạo nên sức mạnh cho cộng đồng vượt
qua những khó khăn để tồn tại và phát triển. Do đó, các nhà nghiên cứu, đặc
biệt các nhà nhân học cần tôn trọng và nhấn mạnh tới bản sắc văn hóa ấy.
Như vậy, bản sắc văn hóa tộc người là tổng thể những yếu tố văn hóa
vật chất, văn hoá xã hội và văn hoá tinh thần mang tính đặc thù của tộc người,
giúp phân biệt giữa tộc người này với tộc người khác, giữa các nhóm khác.
Bản sắc văn hóa tộc người được hình thành lâu dài trong lịch sử gắn liền với
hoàn cảnh kinh tế, xã hội và môi trường địa lý tự nhiên trong đời sống của
từng tộc người và chúng có sức sống lâu bền, thậm chí ngay cả khi hoàn cảnh
sống của tộc người có những đổi thay. Bản sắc văn hóa tộc người còn thể hiện
bản lĩnh của tộc người. Trong quá trình phát triển, không ít hiện tượng văn
hóa lúc đầu chỉ là yếu tố vay mượn, nhưng dần dần qua thời gian, chúng được
“dân tộc hóa”, được sử dụng và tái tạo theo cách riêng của tộc người vay
mượn, ít nhiều mang bản sắc văn hóa của tộc người.
Lý thuyết bản sắc văn hóa tộc người giúp chúng tôi nhìn nhận những sắc
thái riêng trong văn hóa trang phục truyền thống của người Lô Lô Hoa ở
huyện Mèo Vạc. Người Lô Lô Hoa nơi đây cũng có những đặc trưng riêng về
văn hóa trang phục để phân biệt với nhóm Lô Lô Đen và với các tộc người
láng giềng. Gần đây khi bị ảnh hưởng của đô thị hóa, phát triển du lịch và hòa
nhập với các dân tộc láng giềng, trang phục truyền thống của người Lô Lô
33
Hoa có vay mượn nhiều yếu tố văn hóa mới. Nhưng khi tiếp thu, các yếu tố
văn hóa mới vẫn được họ tái tạo theo cách riêng, ít nhiều mang bản sắc văn
hóa Lô Lô,... Do vậy, áp dụng lý thuyết về bản sắc văn hóa tộc người để
nghiên cứu văn hóa trang phục của nhóm Lô Lô Hoa ở Mèo Vạc là hợp lý.
1.2.3.3. Lý thuyết biển đổi văn hóa
Biến đổi văn hóa được các nhà nhân học tiếp cận ở nhiều góc độ, coi là
thuyết biến đổi văn hóa. Chẳng hạn, những người ủng hộ Thuyết tiến hóa ở
cuối thế kỷ XIX như Edward B. Tylor (1881) và Lewis Henry Morgan (1877)
nhìn nhận các nền văn hóa phi phương Tây ở trạng thái tương đối tính. Họ
cho rằng, các xã hội có thể được sắp xếp trật tự trên một thước chia độ từ xã
hội nguyên thủy đến xã hội văn minh, trong đó các dân tộc dưới đáy thước
không giỏi giang như những người trên đỉnh thước. Theo họ, có một mô hình
biến đổi văn hóa tổng quát: tất cả các xã hội vận động theo một hướng và kết
quả là, qua thời gian, ngay cả các xã hội nguyên thủy cũng sẽ ngày càng xích
lại gần hơn với các xã hội phương Tây trên đỉnh thước chia độ.
Trong khi đó, những người theo Thuyết truyền bá văn hóa có quan điểm
cho rằng, một quá trình trọng yếu trong biến đổi văn hóa là vay mượn văn hóa
hay phương thức truyền bá các đặc điểm văn hóa từ xã hội này sang xã hội
khác. Ngoài ra, còn có một cách tiếp cận biến đổi văn hóa của các nhà nhân
học Bắc Mỹ là Thuyết sinh thái văn hóa, cho rằng môi trường sinh thái biến đổi thì
sẽ tác động vào văn hóa, làm cho văn hóa biến đổi theo.
Như vậy, biến đổi văn hóa nói chung là kết quả do sự tác động từ nhiều
yếu tố, nhưng chủ yếu là theo cả hai xu hướng vận động: tự thân vận động và
biến đổi từ bên trong của văn hóa và do tác động từ bên ngoài. Vì thế, có hiện
tượng tiếp biến văn hóa, là quá trình biến đổi văn hóa do sự tiếp xúc của hai
hệ thống văn hóa riêng rẽ mà kết quả làm cho chúng ngày càng giống nhau
hơn. Văn hóa biến đổi do sự vận động nội tại của nó chính là quá trình thích
34
ứng văn hóa, văn hóa tự biến đổi để thích nghi với bối cảnh xã hội, môi
trường sống. Trước khi biến đổi yếu tố văn hóa nào đó, chủ thể văn hóa chính
là người được quyền lựa chọn, bởi tiền đề biến đổi là lựa chọn, khi biến đổi
mang lại lợi ích thì sự biển đổi thường được lựa chọn. Văn hóa cũng biến đổi
do quá trình giao lưu, tiếp xúc với các nền văn hóa khác. Sự giao lưu, tiếp xúc
văn hóa tạo nên tương tác giữa các nền văn hóa, đó là sự du nhập nhưng đồng
thời cũng ảnh hưởng ngược lại với nền văn hóa vừa được chọn để du nhập.
Nghiên cứu về những biến đổi của trang phục, luận án đặt trang phục
truyền thống hiện nay người Lô Lô Hoa trong những bối cảnh lịch sử, kinh tế,
chính trị và xã hội cụ thể của tộc người này và địa phương nơi cư trú, trong
tương tác văn hóa giữa truyền thống và hiện đại, giữa trong vùng và phạm vi
rộng hơn nữa, trong biến đổi môi trường tự nhiên... Đồng thời, khi nghiên cứu
về sự biến đổi trang phục truyền thống người Lô Lô, luận án còn hướng tới
các biện pháp bảo tồn và phát huy yếu tố tích cực của trang phục. Với quan
điểm, bảo tồn gắn với việc nâng cao đời sống của chủ thể văn hóa, gắn với
phát triển kinh tế; bảo tồn trang phục truyền thống có thể đưa khoa học công
nghệ vào tạo ra những bộ trang phục với thời gian nhanh hơn, đẹp hơn, tốt
hơn. Nghĩa là, cần nhìn văn hóa trong sự biến đổi, bảo tồn cũng cần đặt trong
sự biến đổi, miễn sao sự biến đổi ấy là lựa chọn từ phía chủ thể văn hóa đó.
1.3. Khái quát về người Lô Lô Hoa ở huyện Mèo Vạc
1.3.1. Khái quát về điều kiện tự nhiên, dân cư, dân tộc ở Mèo Vạc
Huyện Mèo Vạc trước kia là xã Mèo Vạc huyện Đồng Văn cũ. Ngày
15/12/1962, tại Quyết định số 21/1962/QĐ-CP đã tách huyện Đồng Văn cũ
thành 3 huyện, gồm: Yên Minh, Mèo Vạc, Đồng Văn. Như vậy, về hành
chính nhà nước, huyện Mèo Vạc được thành lập vào ngày 15/12/1962 theo
quyết định trên của Chính phủ. Còn thị trấn Mèo Vạc, được thành lập ngày
20/8/1999 theo Quyết định số 74/1999/QĐ-CP của Chính phủ đã phê chuẩn.
35
Về điều kiện tự nhiên, theo Cục Thống kê tỉnh Hà Giang (2018), phía
Bắc của huyện Mèo Vạc giáp với Trung Quốc và huyện Đồng Văn (Hà
Giang); phía Đông giáp với huyện Bảo Lâm (Cao Bằng); phía Tây và Nam
giáp với huyện Yên Minh (Hà Giang). Toàn huyện Mèo Vạc có tổng diện tích
đất tự nhiên là 57.418,21 ha, trong đó đất nông nghiệp là 25.989,96 ha, đất
lâm nghiệp 19.675,25 ha, đất chuyên dùng 1.26,87 ha, đất ở là 514,94 ha [12,
tr.21]. Song, huyện lại nằm ở độ cao trung bình so với mặt nước biển tương
đối lớn, khoảng 1.150m, mà đỉnh cao nhất là 1.900m, thấp nhất là 275m, với
độ dốc trung bình từ 25o
- 35o
, nhất là có nhiều ngọn núi có độ dốc lên đến
60o
nên nếu nhìn xa thấy gần như thẳng đứng. Sự phức tạp của địa hình địa lý
huyện Mèo Vạc đã làm cho giao thông đi lại khó khăn, hạn chế đến việc giao
lưu kinh tế - văn hoá - xã hội giữa các địa phương trong huyện.
Do nằm ở trong vành đai nhiệt đới gió mùa, nên khí hậu ở huyện Mèo
Vạc chia làm hai mùa khá rõ rệt: mùa mưa từ tháng 4 đến tháng 9, thời gian
còn lại là mùa khô. Đặc biệt, mùa đông thường kéo dài từ tháng 10 đến tháng
4 năm sau, có nhiều ngày rét đậm làm cho nhiệt độ có thể xuống đến 2o
C, gây
ra mưa tuyết. Do điều kiện tự nhiên không thuận lợi, hệ thống sông suối rất ít,
nên vào mùa khô thường gây ra tình trạng thiếu nước sinh hoạt và nước sản
xuất. Trên địa bàn huyện chỉ có hai nhánh sông nhỏ của Sông Gâm là sông
Nho Quế và sông Nhiệm, trong khi hai nhánh sông này đều có độ dốc lớn,
nằm sâu dưới khe núi và nhiều gềnh thác, nên hiệu ích phục vụ sản xuất nông
nghiệp và sinh hoạt rất thấp, chỉ có khả năng khai thác thủy điện là chính. Vì
thế, trên sông Nho Quế hiện đã xây dựng 3 nhà máy thủy điện nhỏ.
Có thể nói, với huyện Mèo Vạc, điều kiện địa lý tự nhiên phức tạp, khí
hậu và thời tiết khắc nghiệt, đất canh tác ít, chủ yếu ở các vùng sườn núi cao,
đất dốc, bạc màu. Tình trạng thiếu nước vẫn thường xuyên xảy ra tại các xã
và thôn bản, đặc biệt là các xã thuộc khu vực núi đá. Cây trồng chính trên địa
36
bàn là cây ngô, vì vậy đời sống và thu nhập của người dân còn thấp, tỷ lệ hộ
nghèo và nguy cơ tái nghèo còn cao, đến hết năm 2015 tỷ lệ hộ nghèo theo
tiếp cận đa chiều còn 66,00% [85, tr.1].
Về đơn vị hành chính và dân cư, dân tộc, theo báo cáo của UBND
huyện Mèo Vạc, toàn huyện hiện có 17 xã, 1 thị trấn, với 199 thôn/bản, tổ khu
phố; trong đó, 17 xã đặc biệt khó khăn, 1 thị trấn thuộc khu vực II, 7 thôn/bản
đặc biệt khó khăn. Toàn huyện có 17 dân tộc sinh sống, với 15.288 hộ, 79.877
khẩu. Trong đó, 16 dân tộc thiểu số với số dân là 74.273 người, chiếm
96,39% dân số toàn huyện. Trong tổng số dân của huyện, dân tộc Hmông
chiếm 77,3% (59.541 người); Giáy và nhóm Xuồng là 5.187 người chiếm
(6,73%); dân tộc Dao 4.326 người (chiếm 5,61%); dân tộc Tày 2.371 người
(chiếm 3,06%); dân tộc Kinh 2.750 người (chiếm 3,57%); dân tộc Nùng 1.627
người (chiếm 2,11%); tiếp đến là các dân tộc Lô Lô, Cờ Lao, Hoa, Cao Lan,
Pu Péo, Sán Chay, Sán Dìu, Thái,... [85, tr.1]. Như vậy, dân tộc Lô Lô ở
huyện Mèo Vạc có số lượng ít so với các dân tộc khác, trong khi Lô Lô Hoa
tuy gọi là đông so với nơi khác nhưng vẫn ít so với Lô Lô Đen ở đây.
Với sự có mặt nhiều dân tộc, huyện Mèo Vạc nay là nơi lưu giữ một
nền văn hoá phong phú, với nhiều phong tục tập quán đa dạng, nhất là các làn
điệu dân ca, múa hát của các tộc người Lô Lô, Hmông, Giáy, Dao,... cùng với
một số cảnh quan thiên nhiên độc đáo như những dãy núi đá tai mèo cheo leo,
đỉnh Mã Pì Lèng hùng vĩ,... chưa kể đến Chợ tình Khâu Vai. Do đó, huyện
Mèo Vạc cho đến nay luôn hấp dẫn du khách đến tham quan và các nhà khoa
học đến nghiên cứu hoặc trải nghiệm bản sắc văn hoá tộc người.
1.3.2. Người Lô Lô Hoa ở huyện Mèo Vạc
1.3.2.1. Dân số, địa bàn cư trú
Theo kết quả Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, người Lô Lô ở
Việt Nam có 4.541 người, phân bố cư trú tại 30/63 tỉnh, thành phố. Song,
37
đồng bào từ lâu đời cư trú tập trung tại các tỉnh: Cao Bằng (2.373 người), Hà
Giang (1.426 người), Lai Châu (617 người) [1]. Đến năm 2016, dân tộc Lô Lô
có khoảng 5.000 người, phân bố cư trú vẫn chủ yếu ở Mèo Vạc, Đồng Văn
tỉnh Hà Giang và hai huyện Bảo Lạc, Bảo Lâm thuộc tỉnh Cao Bằng. Đây
cũng là một trong những dân tộc có dân số dưới 10 nghìn người ở nước ta.
Như đã đề cập, dân tộc Lô Lô ở Hà Giang hiện có hai nhóm là: Lô Lô
Đen và Lô Lô Hoa. Nhóm Lô Lô Hoa cư trú chủ yếu ở huyện Mèo Vạc, đông
nhất là xóm Sảng Pả A thị trấn huyện này, một số ít ở xóm Cờ Tẳng xã Xín
Cái huyện Mèo Vạc và thôn Đoàn Kết xã Sủng Là (huyện Đồng Văn). Theo
Lò Sì Páo (sinh năm 1962) - trưởng xóm Sảng Pả A, đến tháng 11/2018, dân
số xóm Sảng Pả A là 276 người, gồm 66 hộ đều là Lô Lô Hoa; trong khi, theo
báo cáo của UBND thị trấn Mèo Vạc, thị trấn này đến năm 2017 có 60 hộ 267
người Lô Lô Hoa. Cũng theo ông Lò Sì Páo, ở xã Xín Cái huyện Mèo Vạc
chủ yếu là người Lô Lô Đen, chỉ có 10 hộ với khoảng 40 người là Lô Lô Hoa.
Riêng thôn Đoàn Kết xã Sủng Là huyện Đồng Văn, theo báo cáo của ông Phó
chủ tịch phụ trách văn xã, đến tháng 11/2018 có 20 hộ với 74 nhân khẩu đều
là người Lô Lô Hoa. Như vậy, nhóm Lô Lô Hoa ở nước ta hiện nay có dân số
rất ít, cư trú chủ yếu tại thị trấn Mèo Vạc, chỉ một số ít sống ở xã Sủng Là
huyện Đồng Văn và xen kẽ với nhóm Lô Lô Đen ở xã Xín Cái. Rõ ràng, ở
Mèo Vạc, người Lô Lô Hoa không chỉ chiếm số đông về dân số, mà còn cư
trú tập trung ở thị trấn - nơi đang chịu ảnh hưởng mạnh của đô thị hóa, phát
triển du lịch và giao lưu văn hóa [Xem Phụ lục 5 (PL5), ảnh 1, 2].
Về nguồn gốc lịch sử, theo một số tài liệu, tộc người Lô Lô ở nước ta
nói chung và ở huyện Mèo Vạc nói riêng có nguồn gốc là một trong các tộc
người của Vương quốc Nam Chiếu trước đây, sinh sống chủ yếu ở vùng Tứ
Xuyên Trung Quốc, vì vậy ở bên Trung Quốc họ được gọi là người Di (Yìzú)
nhưng bao gồm nhiều tộc người với nhiều nhóm khác nhau trong đó có tộc
38
người Lô Lô. Căn cứ theo tài liệu sử sách cho thấy, sau khi Vương quốc Nam
Chiếu suy tàn do người Hán chiếm đóng, một nhóm người Nam Chiếu đã
chuyển cư sang Việt Nam vào khoảng thế kỷ VIII, đó chính là tổ tiên người
Lô Lô ở Việt Nam ngày nay. Trong khi, sách “Đại Việt Sử ký toàn thư” có
ghi chép rằng, từ năm 858 tới năm 866 Vương quốc Nam Chiếu đã từng xâm
chiếm Việt Nam, khi đó là một quận của nhà Đường, với tên gọi quận Giao
Châu, dưới sự cai quản của tiết độ sứ người Hán là Cao Biền [18, tr.109].
1.3.2.2. Hoạt động kinh tế
Giống như nhóm Lô Lô Đen và các tộc người khác ở huyện Mèo Vạc,
vài năm gần đây tuy chịu ảnh hưởng ngày càng tăng của sự phát triển du lịch
và giao lưu văn hóa, nhưng đến nay hoạt động kinh tế của người Lô Lô Hoa ở
trên địa bàn huyện này vẫn làm nông nghiệp là chính, trong đó chủ yếu trồng
trọt các loại nông sản và hoa màu nhằm tự túc phần lớn về lương thực, chăn
nuôi vẫn còn duy trì nhưng thường nuôi theo phương thức truyền thống, chưa
phát triển thành sản phẩm hàng hóa để bán. Như vậy, hoạt động nông nghiệp
hiện nay đã thay đổi, do trước kia họ có trồng bông, trồng chàm và khai thác
các loại thuốc nhuộm trong rừng để nhuộm sợi bông thành các chỉ màu dùng
cho việc thêu thùa trang trí hoa văn trên trang phục, nhưng nay đã mai một.
Đặc biệt là từ vài năm nay, ngày càng đông số hộ gia đình người Lô
Lô, đặc biệt là những hộ người Lô Lô Hoa sinh sống ở xóm Sảng Pả A thuộc
thị trấn Mèo Vạc thường xuyên tham gia vào các dịch vụ may thêu các đồ thổ
cẩm và trang phục truyền thống phục vụ cho khách du lịch kết hợp buôn bán
nhỏ trong những ngày chợ phiên diễn ra tại thị trấn. Chẳng hạn, theo ông Lò
Sì Páo, sinh năm 1962, người Lô Lô Hoa, nhiều năm làm trưởng xóm Sảng Pả
A “Chỉ riêng xóm Sảng Pả A hiện nay đã có tới 20 nghệ nhân giỏi thêu thùa
bộ trang phục truyền thống hiện nay của người Lô Lô cùng với các loại thổ
cẩm khác của tộc người này. Gần đây, ở vùng người Lô Lô ở huyện Mèo Vạc
Luận án: Trang phục truyền thống hiện nay của người Lô Lô Hoa
Luận án: Trang phục truyền thống hiện nay của người Lô Lô Hoa
Luận án: Trang phục truyền thống hiện nay của người Lô Lô Hoa
Luận án: Trang phục truyền thống hiện nay của người Lô Lô Hoa
Luận án: Trang phục truyền thống hiện nay của người Lô Lô Hoa
Luận án: Trang phục truyền thống hiện nay của người Lô Lô Hoa
Luận án: Trang phục truyền thống hiện nay của người Lô Lô Hoa
Luận án: Trang phục truyền thống hiện nay của người Lô Lô Hoa
Luận án: Trang phục truyền thống hiện nay của người Lô Lô Hoa
Luận án: Trang phục truyền thống hiện nay của người Lô Lô Hoa
Luận án: Trang phục truyền thống hiện nay của người Lô Lô Hoa
Luận án: Trang phục truyền thống hiện nay của người Lô Lô Hoa
Luận án: Trang phục truyền thống hiện nay của người Lô Lô Hoa
Luận án: Trang phục truyền thống hiện nay của người Lô Lô Hoa
Luận án: Trang phục truyền thống hiện nay của người Lô Lô Hoa
Luận án: Trang phục truyền thống hiện nay của người Lô Lô Hoa
Luận án: Trang phục truyền thống hiện nay của người Lô Lô Hoa
Luận án: Trang phục truyền thống hiện nay của người Lô Lô Hoa
Luận án: Trang phục truyền thống hiện nay của người Lô Lô Hoa
Luận án: Trang phục truyền thống hiện nay của người Lô Lô Hoa
Luận án: Trang phục truyền thống hiện nay của người Lô Lô Hoa
Luận án: Trang phục truyền thống hiện nay của người Lô Lô Hoa
Luận án: Trang phục truyền thống hiện nay của người Lô Lô Hoa
Luận án: Trang phục truyền thống hiện nay của người Lô Lô Hoa
Luận án: Trang phục truyền thống hiện nay của người Lô Lô Hoa
Luận án: Trang phục truyền thống hiện nay của người Lô Lô Hoa
Luận án: Trang phục truyền thống hiện nay của người Lô Lô Hoa
Luận án: Trang phục truyền thống hiện nay của người Lô Lô Hoa
Luận án: Trang phục truyền thống hiện nay của người Lô Lô Hoa
Luận án: Trang phục truyền thống hiện nay của người Lô Lô Hoa
Luận án: Trang phục truyền thống hiện nay của người Lô Lô Hoa
Luận án: Trang phục truyền thống hiện nay của người Lô Lô Hoa
Luận án: Trang phục truyền thống hiện nay của người Lô Lô Hoa
Luận án: Trang phục truyền thống hiện nay của người Lô Lô Hoa
Luận án: Trang phục truyền thống hiện nay của người Lô Lô Hoa
Luận án: Trang phục truyền thống hiện nay của người Lô Lô Hoa
Luận án: Trang phục truyền thống hiện nay của người Lô Lô Hoa
Luận án: Trang phục truyền thống hiện nay của người Lô Lô Hoa
Luận án: Trang phục truyền thống hiện nay của người Lô Lô Hoa
Luận án: Trang phục truyền thống hiện nay của người Lô Lô Hoa
Luận án: Trang phục truyền thống hiện nay của người Lô Lô Hoa
Luận án: Trang phục truyền thống hiện nay của người Lô Lô Hoa
Luận án: Trang phục truyền thống hiện nay của người Lô Lô Hoa
Luận án: Trang phục truyền thống hiện nay của người Lô Lô Hoa
Luận án: Trang phục truyền thống hiện nay của người Lô Lô Hoa
Luận án: Trang phục truyền thống hiện nay của người Lô Lô Hoa
Luận án: Trang phục truyền thống hiện nay của người Lô Lô Hoa
Luận án: Trang phục truyền thống hiện nay của người Lô Lô Hoa
Luận án: Trang phục truyền thống hiện nay của người Lô Lô Hoa
Luận án: Trang phục truyền thống hiện nay của người Lô Lô Hoa
Luận án: Trang phục truyền thống hiện nay của người Lô Lô Hoa
Luận án: Trang phục truyền thống hiện nay của người Lô Lô Hoa
Luận án: Trang phục truyền thống hiện nay của người Lô Lô Hoa
Luận án: Trang phục truyền thống hiện nay của người Lô Lô Hoa
Luận án: Trang phục truyền thống hiện nay của người Lô Lô Hoa
Luận án: Trang phục truyền thống hiện nay của người Lô Lô Hoa
Luận án: Trang phục truyền thống hiện nay của người Lô Lô Hoa
Luận án: Trang phục truyền thống hiện nay của người Lô Lô Hoa
Luận án: Trang phục truyền thống hiện nay của người Lô Lô Hoa
Luận án: Trang phục truyền thống hiện nay của người Lô Lô Hoa
Luận án: Trang phục truyền thống hiện nay của người Lô Lô Hoa
Luận án: Trang phục truyền thống hiện nay của người Lô Lô Hoa
Luận án: Trang phục truyền thống hiện nay của người Lô Lô Hoa
Luận án: Trang phục truyền thống hiện nay của người Lô Lô Hoa
Luận án: Trang phục truyền thống hiện nay của người Lô Lô Hoa
Luận án: Trang phục truyền thống hiện nay của người Lô Lô Hoa
Luận án: Trang phục truyền thống hiện nay của người Lô Lô Hoa
Luận án: Trang phục truyền thống hiện nay của người Lô Lô Hoa
Luận án: Trang phục truyền thống hiện nay của người Lô Lô Hoa
Luận án: Trang phục truyền thống hiện nay của người Lô Lô Hoa
Luận án: Trang phục truyền thống hiện nay của người Lô Lô Hoa
Luận án: Trang phục truyền thống hiện nay của người Lô Lô Hoa
Luận án: Trang phục truyền thống hiện nay của người Lô Lô Hoa
Luận án: Trang phục truyền thống hiện nay của người Lô Lô Hoa
Luận án: Trang phục truyền thống hiện nay của người Lô Lô Hoa
Luận án: Trang phục truyền thống hiện nay của người Lô Lô Hoa
Luận án: Trang phục truyền thống hiện nay của người Lô Lô Hoa
Luận án: Trang phục truyền thống hiện nay của người Lô Lô Hoa
Luận án: Trang phục truyền thống hiện nay của người Lô Lô Hoa
Luận án: Trang phục truyền thống hiện nay của người Lô Lô Hoa
Luận án: Trang phục truyền thống hiện nay của người Lô Lô Hoa
Luận án: Trang phục truyền thống hiện nay của người Lô Lô Hoa
Luận án: Trang phục truyền thống hiện nay của người Lô Lô Hoa
Luận án: Trang phục truyền thống hiện nay của người Lô Lô Hoa
Luận án: Trang phục truyền thống hiện nay của người Lô Lô Hoa
Luận án: Trang phục truyền thống hiện nay của người Lô Lô Hoa
Luận án: Trang phục truyền thống hiện nay của người Lô Lô Hoa
Luận án: Trang phục truyền thống hiện nay của người Lô Lô Hoa
Luận án: Trang phục truyền thống hiện nay của người Lô Lô Hoa
Luận án: Trang phục truyền thống hiện nay của người Lô Lô Hoa
Luận án: Trang phục truyền thống hiện nay của người Lô Lô Hoa
Luận án: Trang phục truyền thống hiện nay của người Lô Lô Hoa
Luận án: Trang phục truyền thống hiện nay của người Lô Lô Hoa
Luận án: Trang phục truyền thống hiện nay của người Lô Lô Hoa
Luận án: Trang phục truyền thống hiện nay của người Lô Lô Hoa
Luận án: Trang phục truyền thống hiện nay của người Lô Lô Hoa
Luận án: Trang phục truyền thống hiện nay của người Lô Lô Hoa
Luận án: Trang phục truyền thống hiện nay của người Lô Lô Hoa
Luận án: Trang phục truyền thống hiện nay của người Lô Lô Hoa
Luận án: Trang phục truyền thống hiện nay của người Lô Lô Hoa
Luận án: Trang phục truyền thống hiện nay của người Lô Lô Hoa
Luận án: Trang phục truyền thống hiện nay của người Lô Lô Hoa
Luận án: Trang phục truyền thống hiện nay của người Lô Lô Hoa
Luận án: Trang phục truyền thống hiện nay của người Lô Lô Hoa
Luận án: Trang phục truyền thống hiện nay của người Lô Lô Hoa
Luận án: Trang phục truyền thống hiện nay của người Lô Lô Hoa
Luận án: Trang phục truyền thống hiện nay của người Lô Lô Hoa
Luận án: Trang phục truyền thống hiện nay của người Lô Lô Hoa
Luận án: Trang phục truyền thống hiện nay của người Lô Lô Hoa
Luận án: Trang phục truyền thống hiện nay của người Lô Lô Hoa
Luận án: Trang phục truyền thống hiện nay của người Lô Lô Hoa
Luận án: Trang phục truyền thống hiện nay của người Lô Lô Hoa
Luận án: Trang phục truyền thống hiện nay của người Lô Lô Hoa
Luận án: Trang phục truyền thống hiện nay của người Lô Lô Hoa
Luận án: Trang phục truyền thống hiện nay của người Lô Lô Hoa
Luận án: Trang phục truyền thống hiện nay của người Lô Lô Hoa
Luận án: Trang phục truyền thống hiện nay của người Lô Lô Hoa
Luận án: Trang phục truyền thống hiện nay của người Lô Lô Hoa
Luận án: Trang phục truyền thống hiện nay của người Lô Lô Hoa
Luận án: Trang phục truyền thống hiện nay của người Lô Lô Hoa
Luận án: Trang phục truyền thống hiện nay của người Lô Lô Hoa
Luận án: Trang phục truyền thống hiện nay của người Lô Lô Hoa
Luận án: Trang phục truyền thống hiện nay của người Lô Lô Hoa
Luận án: Trang phục truyền thống hiện nay của người Lô Lô Hoa
Luận án: Trang phục truyền thống hiện nay của người Lô Lô Hoa
Luận án: Trang phục truyền thống hiện nay của người Lô Lô Hoa
Luận án: Trang phục truyền thống hiện nay của người Lô Lô Hoa
Luận án: Trang phục truyền thống hiện nay của người Lô Lô Hoa
Luận án: Trang phục truyền thống hiện nay của người Lô Lô Hoa
Luận án: Trang phục truyền thống hiện nay của người Lô Lô Hoa
Luận án: Trang phục truyền thống hiện nay của người Lô Lô Hoa
Luận án: Trang phục truyền thống hiện nay của người Lô Lô Hoa
Luận án: Trang phục truyền thống hiện nay của người Lô Lô Hoa
Luận án: Trang phục truyền thống hiện nay của người Lô Lô Hoa
Luận án: Trang phục truyền thống hiện nay của người Lô Lô Hoa
Luận án: Trang phục truyền thống hiện nay của người Lô Lô Hoa
Luận án: Trang phục truyền thống hiện nay của người Lô Lô Hoa
Luận án: Trang phục truyền thống hiện nay của người Lô Lô Hoa
Luận án: Trang phục truyền thống hiện nay của người Lô Lô Hoa
Luận án: Trang phục truyền thống hiện nay của người Lô Lô Hoa
Luận án: Trang phục truyền thống hiện nay của người Lô Lô Hoa
Luận án: Trang phục truyền thống hiện nay của người Lô Lô Hoa
Luận án: Trang phục truyền thống hiện nay của người Lô Lô Hoa
Luận án: Trang phục truyền thống hiện nay của người Lô Lô Hoa
Luận án: Trang phục truyền thống hiện nay của người Lô Lô Hoa
Luận án: Trang phục truyền thống hiện nay của người Lô Lô Hoa
Luận án: Trang phục truyền thống hiện nay của người Lô Lô Hoa
Luận án: Trang phục truyền thống hiện nay của người Lô Lô Hoa
Luận án: Trang phục truyền thống hiện nay của người Lô Lô Hoa
Luận án: Trang phục truyền thống hiện nay của người Lô Lô Hoa
Luận án: Trang phục truyền thống hiện nay của người Lô Lô Hoa
Luận án: Trang phục truyền thống hiện nay của người Lô Lô Hoa
Luận án: Trang phục truyền thống hiện nay của người Lô Lô Hoa
Luận án: Trang phục truyền thống hiện nay của người Lô Lô Hoa
Luận án: Trang phục truyền thống hiện nay của người Lô Lô Hoa
Luận án: Trang phục truyền thống hiện nay của người Lô Lô Hoa
Luận án: Trang phục truyền thống hiện nay của người Lô Lô Hoa
Luận án: Trang phục truyền thống hiện nay của người Lô Lô Hoa
Luận án: Trang phục truyền thống hiện nay của người Lô Lô Hoa
Luận án: Trang phục truyền thống hiện nay của người Lô Lô Hoa
Luận án: Trang phục truyền thống hiện nay của người Lô Lô Hoa
Luận án: Trang phục truyền thống hiện nay của người Lô Lô Hoa
Luận án: Trang phục truyền thống hiện nay của người Lô Lô Hoa
Luận án: Trang phục truyền thống hiện nay của người Lô Lô Hoa
Luận án: Trang phục truyền thống hiện nay của người Lô Lô Hoa
Luận án: Trang phục truyền thống hiện nay của người Lô Lô Hoa
Luận án: Trang phục truyền thống hiện nay của người Lô Lô Hoa
Luận án: Trang phục truyền thống hiện nay của người Lô Lô Hoa
Luận án: Trang phục truyền thống hiện nay của người Lô Lô Hoa

More Related Content

What's hot

Chương 4 TRUYỀN THỐNG VĂN HÓA VÀ NHỮNG GIÁ TRỊ CƠ BẢN CỦA TRUYỀN THỐNG VĂN H...
Chương 4 TRUYỀN THỐNG VĂN HÓA VÀ NHỮNG GIÁ TRỊ CƠ BẢN  CỦA TRUYỀN THỐNG VĂN H...Chương 4 TRUYỀN THỐNG VĂN HÓA VÀ NHỮNG GIÁ TRỊ CƠ BẢN  CỦA TRUYỀN THỐNG VĂN H...
Chương 4 TRUYỀN THỐNG VĂN HÓA VÀ NHỮNG GIÁ TRỊ CƠ BẢN CỦA TRUYỀN THỐNG VĂN H...Minh Chanh
 
Bài giảng: Quyền lực chính trị - TS Trịnh Thị Xuyến
Bài giảng: Quyền lực chính trị - TS Trịnh Thị XuyếnBài giảng: Quyền lực chính trị - TS Trịnh Thị Xuyến
Bài giảng: Quyền lực chính trị - TS Trịnh Thị Xuyếncuonganh247
 
Tiểu luận kinh tế vi mô - Cung cầu lúa gạo
Tiểu luận kinh tế vi mô - Cung cầu lúa gạoTiểu luận kinh tế vi mô - Cung cầu lúa gạo
Tiểu luận kinh tế vi mô - Cung cầu lúa gạoNgọc Hưng
 
LUẬN VĂN: ẢNH HƯỞNG CỦA CÔNG GIÁO ĐẾN ĐỜI SỐNG VĂN HÓA TINH THẦN CỦA NGƯỜI DÂ...
LUẬN VĂN: ẢNH HƯỞNG CỦA CÔNG GIÁO ĐẾN ĐỜI SỐNG VĂN HÓA TINH THẦN CỦA NGƯỜI DÂ...LUẬN VĂN: ẢNH HƯỞNG CỦA CÔNG GIÁO ĐẾN ĐỜI SỐNG VĂN HÓA TINH THẦN CỦA NGƯỜI DÂ...
LUẬN VĂN: ẢNH HƯỞNG CỦA CÔNG GIÁO ĐẾN ĐỜI SỐNG VĂN HÓA TINH THẦN CỦA NGƯỜI DÂ...OnTimeVitThu
 

What's hot (20)

Đề tài: Thực hiện chính sách dân tộc thời kỳ đổi mới ở Việt Nam
Đề tài: Thực hiện chính sách dân tộc thời kỳ đổi mới ở Việt NamĐề tài: Thực hiện chính sách dân tộc thời kỳ đổi mới ở Việt Nam
Đề tài: Thực hiện chính sách dân tộc thời kỳ đổi mới ở Việt Nam
 
Chương 4 TRUYỀN THỐNG VĂN HÓA VÀ NHỮNG GIÁ TRỊ CƠ BẢN CỦA TRUYỀN THỐNG VĂN H...
Chương 4 TRUYỀN THỐNG VĂN HÓA VÀ NHỮNG GIÁ TRỊ CƠ BẢN  CỦA TRUYỀN THỐNG VĂN H...Chương 4 TRUYỀN THỐNG VĂN HÓA VÀ NHỮNG GIÁ TRỊ CƠ BẢN  CỦA TRUYỀN THỐNG VĂN H...
Chương 4 TRUYỀN THỐNG VĂN HÓA VÀ NHỮNG GIÁ TRỊ CƠ BẢN CỦA TRUYỀN THỐNG VĂN H...
 
Luận văn: Sinh hoạt Tín ngưỡng của người Hoa Triều Châu, HAY
Luận văn: Sinh hoạt Tín ngưỡng của người Hoa Triều Châu, HAYLuận văn: Sinh hoạt Tín ngưỡng của người Hoa Triều Châu, HAY
Luận văn: Sinh hoạt Tín ngưỡng của người Hoa Triều Châu, HAY
 
Đề tài: Xây dựng đời sống văn hóa cơ sở phường Ninh Phong, HAY
Đề tài: Xây dựng đời sống văn hóa cơ sở phường Ninh Phong, HAYĐề tài: Xây dựng đời sống văn hóa cơ sở phường Ninh Phong, HAY
Đề tài: Xây dựng đời sống văn hóa cơ sở phường Ninh Phong, HAY
 
Đề tài: Quản lý di tích lịch sử đền thờ Hai Bà Trưng tại Hà Nội, HOT
Đề tài: Quản lý di tích lịch sử đền thờ Hai Bà Trưng tại Hà Nội, HOTĐề tài: Quản lý di tích lịch sử đền thờ Hai Bà Trưng tại Hà Nội, HOT
Đề tài: Quản lý di tích lịch sử đền thờ Hai Bà Trưng tại Hà Nội, HOT
 
Phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc
Phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộcPhát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc
Phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc
 
Đề tài: Bảo tồn văn hóa truyền thống của người Dao Thanh Phán, 9đ
Đề tài: Bảo tồn văn hóa truyền thống của người Dao Thanh Phán, 9đĐề tài: Bảo tồn văn hóa truyền thống của người Dao Thanh Phán, 9đ
Đề tài: Bảo tồn văn hóa truyền thống của người Dao Thanh Phán, 9đ
 
Bài giảng: Quyền lực chính trị - TS Trịnh Thị Xuyến
Bài giảng: Quyền lực chính trị - TS Trịnh Thị XuyếnBài giảng: Quyền lực chính trị - TS Trịnh Thị Xuyến
Bài giảng: Quyền lực chính trị - TS Trịnh Thị Xuyến
 
Luận án: Vai trò của chính quyền về chính sách tôn giáo ở Thanh Hoá
Luận án: Vai trò của chính quyền về chính sách tôn giáo ở Thanh HoáLuận án: Vai trò của chính quyền về chính sách tôn giáo ở Thanh Hoá
Luận án: Vai trò của chính quyền về chính sách tôn giáo ở Thanh Hoá
 
Luận văn: Xây dựng đời sống văn hóa nông thôn mới ở Vĩnh Long
Luận văn: Xây dựng đời sống văn hóa nông thôn mới ở Vĩnh LongLuận văn: Xây dựng đời sống văn hóa nông thôn mới ở Vĩnh Long
Luận văn: Xây dựng đời sống văn hóa nông thôn mới ở Vĩnh Long
 
Luận văn: Quản lý nhà nước về văn hóa ở thị xã Phú Thọ, HOT, 9đ
Luận văn: Quản lý nhà nước về văn hóa ở thị xã Phú Thọ, HOT, 9đLuận văn: Quản lý nhà nước về văn hóa ở thị xã Phú Thọ, HOT, 9đ
Luận văn: Quản lý nhà nước về văn hóa ở thị xã Phú Thọ, HOT, 9đ
 
Đề tài: Xây dựng đời sống văn hóa công nhân KCN Cái Lân, HAY
Đề tài: Xây dựng đời sống văn hóa công nhân KCN Cái Lân, HAYĐề tài: Xây dựng đời sống văn hóa công nhân KCN Cái Lân, HAY
Đề tài: Xây dựng đời sống văn hóa công nhân KCN Cái Lân, HAY
 
Đề tài: Quản lý về thiết chế văn hóa ở huyện Kiến Thụy, Hải Phòng
Đề tài: Quản lý về thiết chế văn hóa ở huyện Kiến Thụy, Hải PhòngĐề tài: Quản lý về thiết chế văn hóa ở huyện Kiến Thụy, Hải Phòng
Đề tài: Quản lý về thiết chế văn hóa ở huyện Kiến Thụy, Hải Phòng
 
Luận án: Bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hoá (1998 - 2014)
Luận án: Bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hoá (1998 - 2014)Luận án: Bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hoá (1998 - 2014)
Luận án: Bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hoá (1998 - 2014)
 
Tiểu luận kinh tế vi mô - Cung cầu lúa gạo
Tiểu luận kinh tế vi mô - Cung cầu lúa gạoTiểu luận kinh tế vi mô - Cung cầu lúa gạo
Tiểu luận kinh tế vi mô - Cung cầu lúa gạo
 
LUẬN VĂN: ẢNH HƯỞNG CỦA CÔNG GIÁO ĐẾN ĐỜI SỐNG VĂN HÓA TINH THẦN CỦA NGƯỜI DÂ...
LUẬN VĂN: ẢNH HƯỞNG CỦA CÔNG GIÁO ĐẾN ĐỜI SỐNG VĂN HÓA TINH THẦN CỦA NGƯỜI DÂ...LUẬN VĂN: ẢNH HƯỞNG CỦA CÔNG GIÁO ĐẾN ĐỜI SỐNG VĂN HÓA TINH THẦN CỦA NGƯỜI DÂ...
LUẬN VĂN: ẢNH HƯỞNG CỦA CÔNG GIÁO ĐẾN ĐỜI SỐNG VĂN HÓA TINH THẦN CỦA NGƯỜI DÂ...
 
Luận văn: Quản lý Nhà nước về di tích lịch sử - văn hóa tỉnh Đắk Lắk
Luận văn: Quản lý Nhà nước về di tích lịch sử - văn hóa tỉnh Đắk LắkLuận văn: Quản lý Nhà nước về di tích lịch sử - văn hóa tỉnh Đắk Lắk
Luận văn: Quản lý Nhà nước về di tích lịch sử - văn hóa tỉnh Đắk Lắk
 
Đề tài nét tương đồng và khác biệt trong văn hóa mặc, ĐIỂM 8
Đề tài  nét tương đồng và khác biệt trong văn hóa mặc, ĐIỂM 8Đề tài  nét tương đồng và khác biệt trong văn hóa mặc, ĐIỂM 8
Đề tài nét tương đồng và khác biệt trong văn hóa mặc, ĐIỂM 8
 
Đề tài: Quản lý lễ hội truyền thống Phủ Quảng Cung ở Nam Định
Đề tài: Quản lý lễ hội truyền thống Phủ Quảng Cung ở Nam ĐịnhĐề tài: Quản lý lễ hội truyền thống Phủ Quảng Cung ở Nam Định
Đề tài: Quản lý lễ hội truyền thống Phủ Quảng Cung ở Nam Định
 
Luận án: Sự biến đổi văn hóa làng nghề truyền thống ở Hà Nội
Luận án: Sự biến đổi văn hóa làng nghề truyền thống ở Hà NộiLuận án: Sự biến đổi văn hóa làng nghề truyền thống ở Hà Nội
Luận án: Sự biến đổi văn hóa làng nghề truyền thống ở Hà Nội
 

Similar to Luận án: Trang phục truyền thống hiện nay của người Lô Lô Hoa

Khoá Luận Tốt Nghiệp Hôn Nhân Của Người Tày Ở Vùng Biên Giới Huyện Phục Hòa, ...
Khoá Luận Tốt Nghiệp Hôn Nhân Của Người Tày Ở Vùng Biên Giới Huyện Phục Hòa, ...Khoá Luận Tốt Nghiệp Hôn Nhân Của Người Tày Ở Vùng Biên Giới Huyện Phục Hòa, ...
Khoá Luận Tốt Nghiệp Hôn Nhân Của Người Tày Ở Vùng Biên Giới Huyện Phục Hòa, ...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0936 885 877
 
Luận văn: Ngữ âm tiếng Ta Ôi ở huyện A Lưới, Huế, HAY - Gửi miễn phí qua zalo...
Luận văn: Ngữ âm tiếng Ta Ôi ở huyện A Lưới, Huế, HAY - Gửi miễn phí qua zalo...Luận văn: Ngữ âm tiếng Ta Ôi ở huyện A Lưới, Huế, HAY - Gửi miễn phí qua zalo...
Luận văn: Ngữ âm tiếng Ta Ôi ở huyện A Lưới, Huế, HAY - Gửi miễn phí qua zalo...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
NGHIÊN CỨU SO SÁNH DỊNG HỌ CỦA NHĨM HMƠNG TRẮNG VÀ HMƠNG HOA Ở XÃ BẠCH NGỌC.pdf
NGHIÊN CỨU SO SÁNH DỊNG HỌ CỦA NHĨM HMƠNG TRẮNG VÀ HMƠNG HOA Ở XÃ BẠCH NGỌC.pdfNGHIÊN CỨU SO SÁNH DỊNG HỌ CỦA NHĨM HMƠNG TRẮNG VÀ HMƠNG HOA Ở XÃ BẠCH NGỌC.pdf
NGHIÊN CỨU SO SÁNH DỊNG HỌ CỦA NHĨM HMƠNG TRẮNG VÀ HMƠNG HOA Ở XÃ BẠCH NGỌC.pdfHanaTiti
 
Luận án: So sánh dòng họ của nhóm Hmông Trắng và Hmông Hoa - Gửi miễn phí qua...
Luận án: So sánh dòng họ của nhóm Hmông Trắng và Hmông Hoa - Gửi miễn phí qua...Luận án: So sánh dòng họ của nhóm Hmông Trắng và Hmông Hoa - Gửi miễn phí qua...
Luận án: So sánh dòng họ của nhóm Hmông Trắng và Hmông Hoa - Gửi miễn phí qua...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Khoá Luận Tốt Nghiệp Người Việt Di Cư Tự Do Ở Cộng Hòa Dân Chủ Nhân Dân Lào (...
Khoá Luận Tốt Nghiệp Người Việt Di Cư Tự Do Ở Cộng Hòa Dân Chủ Nhân Dân Lào (...Khoá Luận Tốt Nghiệp Người Việt Di Cư Tự Do Ở Cộng Hòa Dân Chủ Nhân Dân Lào (...
Khoá Luận Tốt Nghiệp Người Việt Di Cư Tự Do Ở Cộng Hòa Dân Chủ Nhân Dân Lào (...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0936 885 877
 
[123doc] - tin-nguong-tho-cung-to-tien-va-nhung-gia-tri-cua-no-trong-doi-song...
[123doc] - tin-nguong-tho-cung-to-tien-va-nhung-gia-tri-cua-no-trong-doi-song...[123doc] - tin-nguong-tho-cung-to-tien-va-nhung-gia-tri-cua-no-trong-doi-song...
[123doc] - tin-nguong-tho-cung-to-tien-va-nhung-gia-tri-cua-no-trong-doi-song...NuioKila
 
Luận văn: Ẩm thực của người Nùng ở tỉnh Lạng Sơn, HAY, 9đ - Gửi miễn phí qua ...
Luận văn: Ẩm thực của người Nùng ở tỉnh Lạng Sơn, HAY, 9đ - Gửi miễn phí qua ...Luận văn: Ẩm thực của người Nùng ở tỉnh Lạng Sơn, HAY, 9đ - Gửi miễn phí qua ...
Luận văn: Ẩm thực của người Nùng ở tỉnh Lạng Sơn, HAY, 9đ - Gửi miễn phí qua ...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Văn hóa rừng ở Tây Bắc Lào và Tây Bắc Việt Nam.pdf
Văn hóa rừng ở Tây Bắc Lào và Tây Bắc Việt Nam.pdfVăn hóa rừng ở Tây Bắc Lào và Tây Bắc Việt Nam.pdf
Văn hóa rừng ở Tây Bắc Lào và Tây Bắc Việt Nam.pdfHanaTiti
 
Văn hóa người Hà Nhì Đen (Nghiên cứu so sánh nhóm cư trú ở Y Tý, Bát Xát, Lào...
Văn hóa người Hà Nhì Đen (Nghiên cứu so sánh nhóm cư trú ở Y Tý, Bát Xát, Lào...Văn hóa người Hà Nhì Đen (Nghiên cứu so sánh nhóm cư trú ở Y Tý, Bát Xát, Lào...
Văn hóa người Hà Nhì Đen (Nghiên cứu so sánh nhóm cư trú ở Y Tý, Bát Xát, Lào...jackjohn45
 
Sử dụng phương pháp lôgic lịch sử vào nghiên cứu văn hóa làng xã việt nam 6...
Sử dụng phương pháp lôgic   lịch sử vào nghiên cứu văn hóa làng xã việt nam 6...Sử dụng phương pháp lôgic   lịch sử vào nghiên cứu văn hóa làng xã việt nam 6...
Sử dụng phương pháp lôgic lịch sử vào nghiên cứu văn hóa làng xã việt nam 6...jackjohn45
 
Luận văn: Sinh kế hiện nay của người Xơ Đăng ở tỉnh Kon Tum - Gửi miễn phí qu...
Luận văn: Sinh kế hiện nay của người Xơ Đăng ở tỉnh Kon Tum - Gửi miễn phí qu...Luận văn: Sinh kế hiện nay của người Xơ Đăng ở tỉnh Kon Tum - Gửi miễn phí qu...
Luận văn: Sinh kế hiện nay của người Xơ Đăng ở tỉnh Kon Tum - Gửi miễn phí qu...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 

Similar to Luận án: Trang phục truyền thống hiện nay của người Lô Lô Hoa (20)

Khoá Luận Tốt Nghiệp Hôn Nhân Của Người Tày Ở Vùng Biên Giới Huyện Phục Hòa, ...
Khoá Luận Tốt Nghiệp Hôn Nhân Của Người Tày Ở Vùng Biên Giới Huyện Phục Hòa, ...Khoá Luận Tốt Nghiệp Hôn Nhân Của Người Tày Ở Vùng Biên Giới Huyện Phục Hòa, ...
Khoá Luận Tốt Nghiệp Hôn Nhân Của Người Tày Ở Vùng Biên Giới Huyện Phục Hòa, ...
 
Luận án: Hôn nhân của người Tày ở vùng biên giới tỉnh Cao Bằng
Luận án: Hôn nhân của người Tày ở vùng biên giới tỉnh Cao BằngLuận án: Hôn nhân của người Tày ở vùng biên giới tỉnh Cao Bằng
Luận án: Hôn nhân của người Tày ở vùng biên giới tỉnh Cao Bằng
 
Luận án: Văn hóa gia đình truyền thống của người Lào, HAY
Luận án: Văn hóa gia đình truyền thống của người Lào, HAYLuận án: Văn hóa gia đình truyền thống của người Lào, HAY
Luận án: Văn hóa gia đình truyền thống của người Lào, HAY
 
Luận văn: Ngữ âm tiếng Ta Ôi ở huyện A Lưới, Huế, HAY - Gửi miễn phí qua zalo...
Luận văn: Ngữ âm tiếng Ta Ôi ở huyện A Lưới, Huế, HAY - Gửi miễn phí qua zalo...Luận văn: Ngữ âm tiếng Ta Ôi ở huyện A Lưới, Huế, HAY - Gửi miễn phí qua zalo...
Luận văn: Ngữ âm tiếng Ta Ôi ở huyện A Lưới, Huế, HAY - Gửi miễn phí qua zalo...
 
Tập quán trong sinh đẻ và nuôi dạy trẻ nhỏ của người Hmông, 9đ
Tập quán trong sinh đẻ và nuôi dạy trẻ nhỏ của người Hmông, 9đTập quán trong sinh đẻ và nuôi dạy trẻ nhỏ của người Hmông, 9đ
Tập quán trong sinh đẻ và nuôi dạy trẻ nhỏ của người Hmông, 9đ
 
Luận văn: Nghi lễ hôn nhân của người Tu Dí ở tỉnh Lào Cai, HAY
Luận văn: Nghi lễ hôn nhân của người Tu Dí ở tỉnh Lào Cai, HAYLuận văn: Nghi lễ hôn nhân của người Tu Dí ở tỉnh Lào Cai, HAY
Luận văn: Nghi lễ hôn nhân của người Tu Dí ở tỉnh Lào Cai, HAY
 
NGHIÊN CỨU SO SÁNH DỊNG HỌ CỦA NHĨM HMƠNG TRẮNG VÀ HMƠNG HOA Ở XÃ BẠCH NGỌC.pdf
NGHIÊN CỨU SO SÁNH DỊNG HỌ CỦA NHĨM HMƠNG TRẮNG VÀ HMƠNG HOA Ở XÃ BẠCH NGỌC.pdfNGHIÊN CỨU SO SÁNH DỊNG HỌ CỦA NHĨM HMƠNG TRẮNG VÀ HMƠNG HOA Ở XÃ BẠCH NGỌC.pdf
NGHIÊN CỨU SO SÁNH DỊNG HỌ CỦA NHĨM HMƠNG TRẮNG VÀ HMƠNG HOA Ở XÃ BẠCH NGỌC.pdf
 
Luận án: So sánh dòng họ của nhóm Hmông Trắng và Hmông Hoa - Gửi miễn phí qua...
Luận án: So sánh dòng họ của nhóm Hmông Trắng và Hmông Hoa - Gửi miễn phí qua...Luận án: So sánh dòng họ của nhóm Hmông Trắng và Hmông Hoa - Gửi miễn phí qua...
Luận án: So sánh dòng họ của nhóm Hmông Trắng và Hmông Hoa - Gửi miễn phí qua...
 
Khoá Luận Tốt Nghiệp Người Việt Di Cư Tự Do Ở Cộng Hòa Dân Chủ Nhân Dân Lào (...
Khoá Luận Tốt Nghiệp Người Việt Di Cư Tự Do Ở Cộng Hòa Dân Chủ Nhân Dân Lào (...Khoá Luận Tốt Nghiệp Người Việt Di Cư Tự Do Ở Cộng Hòa Dân Chủ Nhân Dân Lào (...
Khoá Luận Tốt Nghiệp Người Việt Di Cư Tự Do Ở Cộng Hòa Dân Chủ Nhân Dân Lào (...
 
Luận văn: Ứng xử của người Cơ Lao với tài nguyên thiên nhiên, 9đ
Luận văn: Ứng xử của người Cơ Lao với tài nguyên thiên nhiên, 9đLuận văn: Ứng xử của người Cơ Lao với tài nguyên thiên nhiên, 9đ
Luận văn: Ứng xử của người Cơ Lao với tài nguyên thiên nhiên, 9đ
 
[123doc] - tin-nguong-tho-cung-to-tien-va-nhung-gia-tri-cua-no-trong-doi-song...
[123doc] - tin-nguong-tho-cung-to-tien-va-nhung-gia-tri-cua-no-trong-doi-song...[123doc] - tin-nguong-tho-cung-to-tien-va-nhung-gia-tri-cua-no-trong-doi-song...
[123doc] - tin-nguong-tho-cung-to-tien-va-nhung-gia-tri-cua-no-trong-doi-song...
 
Đề tài: Đời sống văn hóa của các hộ gia đình nông dân Khmer, HAY
Đề tài: Đời sống văn hóa của các hộ gia đình nông dân Khmer, HAYĐề tài: Đời sống văn hóa của các hộ gia đình nông dân Khmer, HAY
Đề tài: Đời sống văn hóa của các hộ gia đình nông dân Khmer, HAY
 
Luận văn: Ẩm thực của người Nùng ở tỉnh Lạng Sơn, HAY, 9đ - Gửi miễn phí qua ...
Luận văn: Ẩm thực của người Nùng ở tỉnh Lạng Sơn, HAY, 9đ - Gửi miễn phí qua ...Luận văn: Ẩm thực của người Nùng ở tỉnh Lạng Sơn, HAY, 9đ - Gửi miễn phí qua ...
Luận văn: Ẩm thực của người Nùng ở tỉnh Lạng Sơn, HAY, 9đ - Gửi miễn phí qua ...
 
Văn hóa rừng ở Tây Bắc Lào và Tây Bắc Việt Nam.pdf
Văn hóa rừng ở Tây Bắc Lào và Tây Bắc Việt Nam.pdfVăn hóa rừng ở Tây Bắc Lào và Tây Bắc Việt Nam.pdf
Văn hóa rừng ở Tây Bắc Lào và Tây Bắc Việt Nam.pdf
 
Luận văn: Tang ma của người Cống ở huyện Mường Tè, Lai Châu
Luận văn: Tang ma của người Cống ở huyện Mường Tè, Lai ChâuLuận văn: Tang ma của người Cống ở huyện Mường Tè, Lai Châu
Luận văn: Tang ma của người Cống ở huyện Mường Tè, Lai Châu
 
Văn hóa người Hà Nhì Đen (Nghiên cứu so sánh nhóm cư trú ở Y Tý, Bát Xát, Lào...
Văn hóa người Hà Nhì Đen (Nghiên cứu so sánh nhóm cư trú ở Y Tý, Bát Xát, Lào...Văn hóa người Hà Nhì Đen (Nghiên cứu so sánh nhóm cư trú ở Y Tý, Bát Xát, Lào...
Văn hóa người Hà Nhì Đen (Nghiên cứu so sánh nhóm cư trú ở Y Tý, Bát Xát, Lào...
 
Sử dụng phương pháp lôgic lịch sử vào nghiên cứu văn hóa làng xã việt nam 6...
Sử dụng phương pháp lôgic   lịch sử vào nghiên cứu văn hóa làng xã việt nam 6...Sử dụng phương pháp lôgic   lịch sử vào nghiên cứu văn hóa làng xã việt nam 6...
Sử dụng phương pháp lôgic lịch sử vào nghiên cứu văn hóa làng xã việt nam 6...
 
Luận án: Hôn nhân hiện nay của người ê-đê ở tỉnh Đắk Lắk
Luận án: Hôn nhân hiện nay của người ê-đê ở tỉnh Đắk LắkLuận án: Hôn nhân hiện nay của người ê-đê ở tỉnh Đắk Lắk
Luận án: Hôn nhân hiện nay của người ê-đê ở tỉnh Đắk Lắk
 
Đề tài: Quản lý văn hóa xã Chàng Sơn, Thạch Thất, Hà Nội, HOT
Đề tài: Quản lý văn hóa xã Chàng Sơn, Thạch Thất, Hà Nội, HOTĐề tài: Quản lý văn hóa xã Chàng Sơn, Thạch Thất, Hà Nội, HOT
Đề tài: Quản lý văn hóa xã Chàng Sơn, Thạch Thất, Hà Nội, HOT
 
Luận văn: Sinh kế hiện nay của người Xơ Đăng ở tỉnh Kon Tum - Gửi miễn phí qu...
Luận văn: Sinh kế hiện nay của người Xơ Đăng ở tỉnh Kon Tum - Gửi miễn phí qu...Luận văn: Sinh kế hiện nay của người Xơ Đăng ở tỉnh Kon Tum - Gửi miễn phí qu...
Luận văn: Sinh kế hiện nay của người Xơ Đăng ở tỉnh Kon Tum - Gửi miễn phí qu...
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864

Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864 (20)

200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
 
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
 
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhuadanh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
 
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay NhấtKinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
 
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểmKho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại họcKho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
 
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tửKho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểmKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu HọcKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhấtKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểmKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin HọcKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập KhẩuKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
 

Recently uploaded

TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...Nguyen Thanh Tu Collection
 
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...Nguyen Thanh Tu Collection
 
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
sách sinh học đại cương   -   Textbook.pdfsách sinh học đại cương   -   Textbook.pdf
sách sinh học đại cương - Textbook.pdfTrnHoa46
 
Nhiễm khuẩn tiêu hóa-Tiêu chảy do vi khuẩn.pptx
Nhiễm khuẩn tiêu hóa-Tiêu chảy do vi khuẩn.pptxNhiễm khuẩn tiêu hóa-Tiêu chảy do vi khuẩn.pptx
Nhiễm khuẩn tiêu hóa-Tiêu chảy do vi khuẩn.pptxhoangvubaongoc112011
 
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfCampbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfTrnHoa46
 
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢIPHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢImyvh40253
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng ĐồngGiới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng ĐồngYhoccongdong.com
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quanGNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quanmyvh40253
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảo
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảoKiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảo
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảohoanhv296
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfhoangtuansinh1
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoáCác điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoámyvh40253
 
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIGIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIĐiện Lạnh Bách Khoa Hà Nội
 

Recently uploaded (20)

TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
 
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
 
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
 
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
sách sinh học đại cương   -   Textbook.pdfsách sinh học đại cương   -   Textbook.pdf
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
 
Nhiễm khuẩn tiêu hóa-Tiêu chảy do vi khuẩn.pptx
Nhiễm khuẩn tiêu hóa-Tiêu chảy do vi khuẩn.pptxNhiễm khuẩn tiêu hóa-Tiêu chảy do vi khuẩn.pptx
Nhiễm khuẩn tiêu hóa-Tiêu chảy do vi khuẩn.pptx
 
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
 
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfCampbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
 
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢIPHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng ĐồngGiới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
 
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quanGNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
 
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảo
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảoKiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảo
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảo
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoáCác điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
 
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIGIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
 

Luận án: Trang phục truyền thống hiện nay của người Lô Lô Hoa

  • 1. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI LÊ ANH ĐỨC TRANG PHỤC TRUYỀN THỐNG HIỆN NAY CỦA NGƯỜI LÔ LÔ HOA Ở HUYỆN MÈO VẠC, TỈNH HÀ GIANG LUẬN ÁN TIẾN SĨ NHÂN HỌC Hà Nội - 2019
  • 2. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI LÊ ANH ĐỨC TRANG PHỤC TRUYỀN THỐNG HIỆN NAY CỦA NGƯỜI LÔ LÔ HOA Ở HUYỆN MÈO VẠC, TỈNH HÀ GIANG Chuyên ngành: Nhân học Mã số: 9 31 03 02 LUẬN ÁN TIẾN SĨ NHÂN HỌC Người hướng dẫn khoa học: 1. TS. Lý Hành Sơn 2. PGS.TS. Phạm Văn Dương Hà Nội - 2019
  • 3. i LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu được nêu và trích dẫn trong luận án là chính xác và trung thực. Những kết quả nghiên cứu của luận án chưa từng được ai công bố trong các công trình khác. Tác giả luận án Lê Anh Đức
  • 4. ii LỜI CẢM ƠN Trước tiên, tôi bày tỏ sự biết ơn sâu sắc đến TS. Lý Hành Sơn và PGS.TS. Phạm Văn Dương đã hướng dẫn, giúp đỡ tận tình cho tôi trong suốt quá trình nghiên cứu và hoàn thành luận án này. Tôi xin trân trọng cám ơn Khoa Dân tộc học và Nhân học, Học viện Khoa học xã hội, các giảng viên trong và ngoài Khoa đã quan tâm, tham gia đóng góp ý kiến và hỗ trợ tôi trong quá trình học tập, nghiên cứu để hoàn thiện luận án. Tôi xin chân thành cảm ơn đến chính quyền địa phương huyện Mèo Vạc và huyện Đồng Văn tỉnh Hà Giang, huyện Bảo Lạc tỉnh Cao Bằng và người dân Lô Lô nơi đây đã luôn quan tâm, giúp đỡ và tạo mọi điều kiện cung cấp tài liệu, thông tin về trang phục truyền thống của người Lô Lô, làm cơ sở quan trọng cho tôi nghiên cứu và hoàn thành luận án. Tôi cũng gửi lời cám ơn trân trọng tới cơ quan nơi tôi công tác là Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam đã quan tâm hỗ trợ, tạo điều kiện tốt nhất cho tôi trong suốt quá trình nghiên cứu, hoàn thành luận án. Cuối cùng, tôi xin chân thành cám ơn những người thân trong gia đình, bạn bè và các đồng nghiệp đã luôn quan tâm, cổ vũ, động viên, tiếp thêm nghị lực cho tôi trong suốt quá trình nghiên cứu, hoàn thiện luận án. Tác giả luận án Lê Anh Đức
  • 5. iii MỤC LỤC MỞ ĐẦU .........................................................................................................................1 Chương 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ KHÁI QUÁT VỀ NGƯỜI LÔ LÔ HOA Ở HUYỆN MÈO VẠC........................13 1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu về người Lô Lô ở Việt Nam và về trang phục....13 1.2. Cơ sở lý thuyết ........................................................................................................23 Chương 2. QUY TRÌNH LÀM RA TRANG PHỤC.................................................45 2.1. Nguồn nguyên liệu để sản xuất vải .........................................................................45 2.2. Chế biến sợi và dệt vải............................................................................................50 2.3. Trồng chàm, chế biến cao chàm và nhuộm vải, sợi................................................55 2.4. Kỹ thuật cắt may y phục và trang trí.......................................................................58 2.5. Kỹ thuật chế tác đồ trang sức..................................................................................61 Chương 3. CÁC THÀNH TỐ VÀ CHỨC NĂNG CỦA TRANG PHỤC ...............67 3.1. Các thành tố của bộ trang phục truyền thống..........................................................67 3.2. Hoa văn, màu sắc trên trang phục truyền thống và ý nghĩa....................................87 3.3. So sánh trang phục truyền thống hiện nay của hai nhóm Lô Lô Hoa và Lô Lô Đen .................................................................................................................................95 3.4. Chức năng của trang phục truyền thống ...............................................................104 Chương 4. GIÁ TRỊ CỦA TRANG PHỤC TRUYỀN THỐNG, SỰ BIẾN ĐỔI VÀ VẤN ĐỀ ĐẶT RA................................................................................................117 4.1. Giá trị trang phục truyền thống hiện nay của người Lô Lô Hoa...........................117 4.2. Sự biến đổi trang phục truyền thống hiện nay ......................................................126 4.3. Vấn đề đặt ra và một số kiến nghị góp phần bảo tồn, phát huy các giá trị trang phục truyền thống của người Lô Lô.............................................................................141 KẾT LUẬN.................................................................................................................148 DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU ĐÃ CÔNG BỐ CỦA NGHIÊN CỨU SINH CÓ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN......................................152 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO..................................................................153 MỤC LỤC PHỤ LỤC................................................................................................163
  • 6. iv DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU VÀ CHỮ VIẾT TẮT Chữ viết tắt Giải nghĩa tiếng Việt NCS Nghiên cứu sinh Nxb Nhà xuất bản PBT Phó bí thư PCT Phó chủ tịch PGS.TS Phó giáo sư tiến sĩ PL Phụ lục PV Phỏng vấn TS Tiến sĩ Tr Trang UBND Ủy ban nhân dân
  • 7. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Lô Lô là một dân tộc có dân số dưới 10 nghìn người trong 54 dân tộc ở Việt Nam, thuộc nhóm ngôn ngữ Tạng-Miến cùng với các dân tộc Hà Nhì, Phù Lá, Cống, La Hủ, Si La. Dân tộc Lô Lô thường được chia thành ba nhóm địa phương: Lô Lô Đen, Lô Lô Hoa và Lô Lô Trắng. Tuy nhiên, phần lớn ý kiến lại chủ yếu chia thành hai nhóm: Lô Lô Đen và Lô Lô Hoa. Hiện nay, nhóm Lô Lô Hoa có khoảng 400 người, cư trú ở tỉnh Hà Giang. Còn người Lô Lô Đen có hơn 4 nghìn người chủ yếu sinh sống ở hai huyện Bảo Lạc, Bảo Lâm (tỉnh Cao Bằng) và một số thì cư trú ở hai huyện Đồng Văn và Mèo Vạc (tỉnh Hà Giang). Song, dù có được chia thành mấy nhóm địa phương thì các nhà nghiên cứu vẫn đánh giá dân tộc Lô Lô luôn có ý thức tự tôn dân tộc, có tính cộng đồng và tinh thần đoàn kết cao, thể hiện rõ nét trong việc gìn giữ các đặc trưng văn hóa trong đó có trang phục truyền thống. Hà Giang có cả nhóm Lô Lô Đen và Lô Lô Hoa. Lô Lô Đen tập trung ở xã Lũng Cú, huyện Đồng Văn và ở các xã Xín Cái, Thượng Phùng thuộc huyện Mèo Vạc, còn nhóm Lô Lô Hoa cư trú tập trung ở thị trấn huyện Mèo Vạc và một số ít ở các xã Lũng Táo, Sủng Là huyện Đồng Văn. Hai nhóm này có tiếng nói và phong tục tập quán gần giống nhau. Nét khác biệt thể hiện rõ nét ở bộ trang phục nữ từ màu sắc đến hình dáng và kỹ thuật trang trí. Trang phục nói chung, trang phục truyền thống nói riêng là một trong những thành tố văn hóa vật thể không thể thiếu đối với đời sống mỗi tộc người. Ngoài chức năng che đậy nhằm bảo vệ con người về mặt sinh học, trang phục truyền thống còn phản ánh rõ nét về đặc trưng văn hóa, nếp sống tộc người, thể hiện trình độ phát triển và quan niệm thẩm mỹ của tộc người ấy đến đâu,... Qua đó mà có thể phân biệt được bản sắc cũng như tập quán và lối
  • 8. 2 sống giữa các tộc người, thậm chí phân biệt được các nhóm địa phương khác nhau trong cùng một tộc người. Thực tế hiện nay cho thấy, chỉ cần thông qua bộ trang phục truyền thống có thể hiểu và biết phần nào về sự khác biệt giữa nhóm Lô Lô Hoa và nhóm Lô Lô Đen trong tộc người Lô Lô ở nước ta. Song có một vấn đề, đến nay tộc người Lô Lô tuy có dân số ít, nhưng dân số nhóm Lô Lô Hoa càng ít hơn, chỉ khoảng 35 - 40% so với nhóm Lô Lô Đen, mà lại chỉ sống tập trung ở thị trấn Mèo Vạc - nơi đã và đang chịu tác động mạnh mẽ của đô thị hóa, giao lưu tiếp biến văn hóa và hội nhập với người Kinh, nhất là gần đây còn chịu tác động gia tăng của sự phát triển các dịch vụ phục vụ cho du lịch Công viên địa chất toàn cầu Cao nguyên đá Đồng Văn. Tình trạng này đã làm cho nhiều đặc trưng văn hóa, trong đó có bộ trang phục truyền thống của người Lô Lô Hoa bị mai một và biến đổi nhanh trong vòng 10 năm trở lại đây, với xu hướng tiếp tục biến đổi. Trong khi so với nhóm Lô Lô Đen, trang phục truyền thống của nhóm Lô Lô Hoa có nhiều đặc trưng nổi trội và phong phú hơn, nhưng đang bị mai một và biến đổi nhanh từ chất liệu, cách may khâu, chủng loại, đối tượng sử dụng,... đến nhu cầu sử dụng. Còn nhóm Lô Lô Đen do vừa có dân số đông vừa chủ yếu cư trú ở những nơi vùng sâu, nên họ gìn giữ và sử dụng bộ trang phục truyền thống của mình được tốt hơn. Nay vẫn có nhiều người Lô Lô Đen cả nam và nữ ở các huyện Đồng Văn, Bảo Lạc và Bảo Lâm thường xuyên mặc bộ trang phục truyền thống trong sinh hoạt hàng ngày. Có thể nói, trong bối cảnh giao lưu và hội nhập hiện nay, việc bảo tồn và phát huy bộ trang phục truyền thống của nhóm Lô Lô Hoa ở nước ta là một vấn đề cấp bách. Ngoài việc sưu tầm để lưu giữ, cần phải được tiến hành ngay bằng các công trình nghiên cứu chuyên sâu và có hệ thống. Kết quả nghiên cứu không chỉ bảo tồn bộ trang phục truyền thống của nhóm Lô Lô Hoa dưới dạng văn bản, mà còn là luận cứ khoa học để đưa ra những giải pháp cụ thể
  • 9. 3 cho việc bảo tồn dưới nhiều hình thức, nhất là nâng cao hiệu quả tuyên truyền để đồng bào có ý thức tự bảo quản và sử dụng trong những dịp cần thiết. Xuất phát từ các lý do trên cùng với kết quả khảo sát sơ lược, chúng tôi quyết định chọn vấn đề: Trang phục truyền thống hiện nay của người Lô Lô Hoa ở huyện Mèo Vạc, tỉnh Hà Giang làm đề tài luận án tiến sĩ Nhân học của mình. Theo đó, trang phục truyền thống hiện nay được hiểu là bộ trang phục truyền thống của nhóm Lô Lô Hoa vẫn đang tồn tại và được người dân lưu giữ hoặc sử dụng trong những dịp hệ trọng của gia đình và cộng đồng cư trú như các dịp lễ hoặc tết cổ truyền,... Đến nay đã có không ít công trình nghiên cứu từ nhiều góc độ về tộc người Lô Lô ở tỉnh Hà Giang và trong cả nước, trong đó có quan tâm đến vấn đề trang phục truyền thống của tộc người này. Đặc biệt, không ít công trình đã khẳng định, trong đời sống xã hội và tín ngưỡng của đồng bào Lô Lô nói chung và người Lô Lô Hoa nói riêng, trang phục luôn là một trong những biểu hiện mang đậm bản sắc riêng của đồng bào. Tuy nhiên, ở nhóm Lô Lô Hoa cũng như nhóm Lô Lô Đen, hầu hết các nghiên cứu mới chỉ dừng lại ở việc phác thảo mang tính khái quát về bản sắc văn hóa chung, chưa đề cập chuyên sâu về trang phục truyền thống của họ, nhất là bộ trang phục này của nhóm Lô Lô Hoa. Trong khi, người Lô Lô ở tỉnh Hà Giang hiện nay tuy vẫn còn lưu giữ được những nét đặc sắc cơ bản của bộ trang phục truyền thống, nhưng cũng đã mai một và đang biến đổi do không tự làm ra vải, hầu hết đều sử dụng các nguyên liệu công nghiệp để cắt may và trang trí sắc màu, thay đổi mẫu mã hoa văn,... Do đó, thực hiện đề tài luận án này không chỉ có đóng góp thêm tư liệu mới về tộc người Lô Lô cho nhiều ngành khoa học, mà còn có ý nghĩa thực tiễn sâu sắc, đặc biệt là góp phần bảo tồn và phát huy các giá trị truyền thống nghề thêu, ghép vải mang tính nổi bật ở tộc người Lô Lô, là những khác biệt so với nhiều tộc người thiểu số ở nước ta.
  • 10. 4 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 2.1. Mục đích nghiên cứu Nhận diện những đặc trưng về trang phục truyền thống đang tồn tại hiện nay của người Lô Lô Hoa ở huyện Mèo Vạc, tỉnh Hà Giang. Trên cơ sở đó, góp phần bảo tồn và phát huy các giá trị của trang phục truyền thống của nhóm Lô Lô Hoa trong bối cảnh hiện nay. 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để thực hiện được mục đích đã đề ra, đề tài luận án có các nhiệm vụ nghiên cứu sau: - Khảo sát, tìm hiểu về trang phục truyền thống hiện nay của người Lô Lô Hoa ở huyện Mèo Vạc tỉnh Hà Giang, từ các công đoạn làm ra bộ y phục và các đồ trang sức, trang trí hoa văn,... đến các thành tố của trang phục; - Làm rõ các chức năng và giá trị của trang phục truyền thống đối với đời sống của người Lô Lô Hoa ở địa bàn trên; - Phân tích những biến đổi của bộ trang phục truyền thống từ Đổi mới năm 1986 đến nay và những nguyên nhân dẫn đến sự biến đổi; - Đề xuất một số kiến nghị nhằm bảo tồn và phát huy các giá trị văn hoá đối với trang phục truyền thống hiện nay của người Lô Lô Hoa. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận án là trang phục truyền thống của người Lô Lô Hoa ở huyện Mèo Vạc tỉnh Hà Giang mà hiện nay vẫn đang gìn giữ. 3.2. Phạm vi nghiên cứu - Về nội dung nghiên cứu: Nội dung nghiên cứu của đề tài luận án được giới hạn ở việc làm rõ những đặc trưng thể hiện qua trang phục truyền thống hiện nay của nhóm Lô Lô Hoa ở huyện Mèo Vạc (Hà Giang), từ việc tạo ra trang phục đến các thành tố và chức năng. Luận án còn đề cập tới biến đổi về
  • 11. 5 trang phục truyền thống của Lô Lô Hoa từ Đổi mới đến nay, nhất là từ khi phát triển du lịch Công viên địa chất Cao nguyên đá Đồng Văn. Bởi vì những bộ trang phục đó của đồng bào chưa được bảo quản và gìn giữ tốt, nhất là tập quán khi người Lô Lô mất sẽ mặc bộ trang phục truyền thống và chôn theo. - Về phạm vi không gian: Luận án đã chọn nơi sinh sống lâu đời và tập trung của người Lô Lô Hoa ở thị trấn huyện Mèo Vạc tỉnh Hà Giang làm địa bàn nghiên cứu chính. Theo đó, chúng tôi đã nhiều lần đến điền dã tại thị trấn Mèo Vạc huyện Mèo Vạc, nhất là ở hai xóm Sảng Pả A thuộc thị trấn Mèo Vạc - nơi tập trung phần lớn người Lô Lô Hoa. Ở Hà Giang nhóm Lô Lô Đen phân bố khá rộng, nhưng Lô Lô Hoa chỉ tập trung đông nhất ở Mèo Vạc, qua đó có thể tìm hiểu tốt nhất về trang phục, lối sống và bản sắc của họ. Ngoài ra, còn khảo sát thêm trang phục của Lô Lô Đen và số ít Lô Lô Hoa ở Xín Cái, Thượng Phùng huyện Mèo Vạc; xã Lũng Cú, Sủng Là huyện Đồng Văn (Hà Giang); xã Hồng Trị, Kim Cúc huyện Bảo Lạc (Cao Bằng). Việc chọn các điểm này là do có đông dân Lô Lô sinh sống ở nước ta. Cụ thể, tại Hà Giang người Lô Lô Hoa tập trung đông ở xóm Sảng Pả A thị trấn Mèo Vạc; Lô Lô Đen thì sống lâu đời và đông ở xóm Lô Lô Chải xã Lũng Cú huyện Đồng Văn, còn ở Cao Bằng họ phân bố chủ yếu ở xã Hồng Trị huyện Bảo Lạc với các bản Nà Van, Bản Chang, Cốc Sả,... Do đó, nghiên cứu tại các địa điểm này chính là điều kiện cần và đủ để nêu bật được sự nổi trội, phong phú về đặc điểm hoa văn, màu sắc cũng như giá trị thẩm mỹ thể hiện ở bộ trang phục truyền thống của người Lô Lô Hoa ở huyện Mèo Vạc - một trong những nội dung nghiên cứu chính của đề tài luận án. - Phạm vi thời gian nghiên cứu của luận án được giới hạn từ Đổi mới đất nước năm 1986. Theo đó, những yếu tố truyền thống của trang phục Lô Lô Hoa được đề cập từ năm 1986 trở về trước và hiện nay vẫn đang được đồng bào lưu giữ ở những người già; sự biến đổi của trang phục thì được
  • 12. 6 nghiên cứu từ Đổi mới (sau năm 1986) đến nay, đặc biệt là từ khi phát triển du lịch ở huyện Mèo Vạc. Từ 1986 đến nay, biến đổi trang phục dần bắt đầu từ khi xóa bỏ bao cấp và đổi mới quản lý, tạo nên sự thuận lợi cũng như thách thức mới. Thời điểm này NCS cho là hợp lý để tìm hiểu về biến đổi trang phục khi lớp người già có hiểu biết và tay nghề còn tồn tại; trong khi lớp trẻ sinh ra có sự hội nhập và phát triển về mọi mặt. Hai thế hệ khác biệt này sẽ cho chúng ta cái nhìn khách quan về biến đổi của trang phục theo thời gian. Có thể nói, nghiên cứu trang phục truyền thống và biến đổi của người Lô Lô Hoa theo giai đoạn từ 1986 đến nay cho phép dựng lại bức tranh về trang phục đó từ truyền thống tới hiện tại. Nếu chỉ tính từ khi phát triển du lịch ở huyện Mèo Vạc thì bộ trang phục ấy đã biến đổi nhiều. Bởi vì theo kết quả khảo sát, đến giữa năm 2018 trong cộng đồng người Lô Lô Hoa huyện Mèo Vạc chỉ còn giữ được 4 bộ trang phục truyền thống nguyên bản bằng sợi bông và được làm từ các công cụ thủ công cách ngày nay khoảng 40 năm. 4. Phương pháp nghiên cứu 4.1. Cơ sở phương pháp luận - Khi thực hiện đề tài luận án, tác giả luận án chủ yếu dựa trên quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác-Lê nin để xem xét về trang phục truyền thống và những đặc trưng của nó trong sự vận động và biến đổi. Quá trình biến đổi của trang phục cần được phân tích dựa trên cơ sở lịch sử, đó là so sánh đồng đại và lịch đại,... Vấn đề này luôn được chúng tôi đặt ra trong quá trình nghiên cứu về sự biến đổi bộ trang phục truyền thống của người Lô Lô Hoa trong mối quan hệ và so sánh giữa các địa điểm nghiên cứu khác nhau, để thấy được những đặc điểm chung và riêng. - Tác giả còn dựa vào Tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về vấn đề dân tộc, văn hóa dân tộc, chính sách dân tộc,... làm cơ sở lý luận và phân tích, đánh giá những kết quả đạt được khi nghiên cứu trang
  • 13. 7 phục truyền thống của người Lô Lô Hoa, các giá trị văn hóa và việc bảo tồn bộ trang phục này trong bối cảnh mới. Theo đó, không thể bỏ qua Nghị quyết lần thứ 5 (Khóa VIII) về xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam, tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc và Nghị quyết lần thứ 9 (Khóa XI) của Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước. - Khi thực hành nghiên cứu, tác giả chủ yếu tiếp cận từ góc nhìn Nhân học, đặc biệt là Nhân học văn hóa. Trang phục nói chung, trang phục truyền thống của người Lô Lô Hoa nói riêng luôn gắn với chủ thể là tộc người. Do vậy, quá trình thực hiện đề tài luận án, tác giả luôn quán triệt mối quan hệ giữa các thành tố và đặc điểm văn hóa của trang phục truyền thống đối với tộc người Lô Lô trong tương quan với tộc người láng giềng tại địa bàn nghiên cứu. Trên cơ sở ấy, tác giả còn đi sâu phân tích, xem xét những tác động của các yếu tố trong đó có yếu tố chủ thể văn hóa đến sự biến đổi bộ trang phục truyền thống. Có thể nói, tiếp cận Nhân học giúp làm rõ vai trò từng yếu tố như kinh tế, gia đình, tín ngưỡng,... liên quan đến khía cạnh văn hóa trang phục truyền thống của người Lô Lô Hoa; lý giải về những hiện tượng trong tập quán và ứng xử xã hội qua sử dụng trang phục, khai thác tài nguyên tự nhiên và quy trình sản xuất nguyên liệu hay ứng xử của người Lô Lô với trang phục truyền thống trong các hoàn cảnh cụ thể. - Nghiên cứu các công trình liên quan đến đề tài của các nhà khoa học đi trước để kế thừa những thành quả lý luận, thuật ngữ khoa học, tiêu chí phân loại trang phục,... Đó là những công trình nghiên cứu chuyên sâu về trang phục của các tác giả Từ Chi, Lê Ngọc Thắng, Ngô Đức Thịnh, Hoàng Lương,... Các công trình đó đã đưa ra những nhận định, đánh giá về văn hóa tộc người qua phân tích trang phục truyền thống của đồng bào, tạo tiền đề và cơ sở cho việc tiếp cận nghiên cứu về trang phục. Chẳng hạn, trong công trình
  • 14. 8 “Trang phục cổ truyền của người Thái ở Tây Bắc Việt Nam” Lê Ngọc Thắng đã đưa ra tiêu chí cơ bản để phân loại trang phục; nêu lên những khái niệm đầu tiên về chức năng của trang phục không những là một hiện tượng văn hóa vật chất, dùng bảo vệ cơ thể con người, mà còn phản ánh nếp sống văn hóa tộc người. Theo tác giả, trang phục khác hẳn so với công cụ sản xuất, nhà cửa và một số yếu tố văn hóa vật chất khác, bởi trang phục có mối gắn kết mật thiết với con người và không thể tách rời trong môi trường tự nhiên, bên cạnh chức năng sinh học và chức năng xã hội cũng như chức năng thẩm mỹ. 4.2. Phương pháp nghiên cứu cụ thể Trong quá trình thực hiện đề tài, tác giả luận án đã áp dụng các phương pháp nghiên cứu sau: - Phương pháp điền dã dân tộc học Phương pháp điền dã dân tộc học được sử dụng chủ đạo, cụ thể là tiến hành khảo sát thực địa nhằm khai thác trực tiếp các tài liệu, thông tin từ người dân Lô Lô để hiểu một cách chân thực về đời sống và trang phục truyền thống của họ. Từ khi thực hiện luận án, tác giả đã đi điền dã vào những thời điểm khác nhau từ 2016 đến 2018 tại địa bàn người Lô Lô hai huyện Mèo Vạc, Đồng Văn (Hà Giang), huyện Bảo Lạc (Cao Bằng) để thâm nhập vào cuộc sống của người dân, tìm hiểu chu trình sinh hoạt, cách làm và sử dụng trang phục của đồng bào. Trong các đợt điền dã, tác giả đã dùng các công cụ: + Phỏng vấn sâu những người am hiểu về trang phục và các tập quán liên quan là công cụ thu thập dữ liệu bởi những câu hỏi thăm dò và những câu hỏi đóng - mở. Tác giả luận án đã phỏng vấn một số già bản, trưởng bản, thầy cúng, đặc biệt là những phụ nữ có kỹ năng, tay nghề và am hiểu các công việc nhuộm, dệt, thêu, vá may trang phục, trang trí hoa văn trên trang phục,... Cụ thể là đã tiến hành 15 cuộc phỏng vấn tại xóm Sảng Pả A, thị trấn Mèo Vạc; xã Thượng Phùng có 7 người ở xóm Thèn Pả tham gia, xã Xín Cái có 12
  • 15. 9 người ở xóm Cờ Tảng; huyện Đồng Văn có: 3 người ở thôn Đoàn Kết xã Sủng Là, và 10 người ở xóm Lô Lô Chải xã Lũng Cú. Ở Bảo Lạc phỏng vấn 10 người ở bản Nà Van xã Hồng Trị và 11 người ở bản Khuẩy Khon xã Kim Cúc. Qua các cuộc phỏng vấn, tác giả có cái nhìn từ tổng thể đến cụ thể và chi tiết về trang phục cũng như ý nghĩa của nó trong đời sống tộc người Lô Lô. + Tổ chức thảo luận nhóm là công cụ quan trọng của quá trình điền dã khi nghiên cứu tại thực địa và là phương tiện hữu ích để thu thập các thông tin, nhằm mô tả, so sánh, giải thích sâu hơn về trang phục truyền thống của người Lô Lô, nhất là để đánh giá tính khách quan những quan điểm của người dân Lô Lô ở mọi độ tuổi, nghề nghiệp, trình độ học vấn về các yếu tố liên quan đến trang phục truyền thống như quy trình sản xuất, các thành tố, sự biến đổi và nhu cầu lưu giữ, bảo tồn bộ trang phục này của tộc người mình nói chung. Vì vậy, tác giả luận án đã mời các chị em phụ nữ và người già, đàn ông để cùng thảo luận nhóm tại Sảng Pả A là 5 lần, ở xã Thượng Phùng 1 lần và ở xã Xín Cái 2 lần, xã Lũng Cú 1 lần. Thảo luận ở huyện Bảo Lạc 2 lần: 1 ở xóm Nà Van xã Hồng Trị, 1 lần ở bản Khuẩy Khon xã Kim Cúc. + Quan sát tham dự nhằm bổ khuyết cho những hạn chế của việc phỏng vấn sâu và thảo luận nhóm, bởi vì đây là công cụ thu thập thông tin, bao gồm cả việc dùng thị giác và ghi chép lại mọi yếu tố liên quan đến bộ trang phục truyền thống với yêu cầu quan sát và xem xét thật kỹ lưỡng, đầy đủ, đúng đắn và chính xác những gì nhìn thấy để có những thông tin đáng tin cậy về bộ trang phục này. Tác giả còn tham gia trực tiếp vào sinh hoạt của người dân Lô Lô, quan sát việc sử dụng trang phục của người Lô Lô trong sinh hoạt hàng ngày và các nghi lễ tôn giáo, cộng đồng. + Từ việc quan sát về cách cắt, thêu thùa hoa văn và táp vải màu, may khâu,... tác giả có điều kiện sử dụng các kỹ thuật đo, vẽ, chụp ảnh, quay phim để lưu lại chính xác kích thước, màu sắc, kiểu dáng và những chi tiết trang trí
  • 16. 10 trên trang phục truyền thống của người Lô Lô. Nhờ quan sát tham dự cùng với các công cụ đo, vẽ..., tác giả luận án có thể phân tích và phiên giải được ý nghĩa biểu tượng một số họa tiết hoa văn trang trí trên trang phục, ý nghĩa đời sống tộc người thông qua đặc điểm bộ trang phục. - Phương pháp phân loại Tác giả đã sử dụng phương pháp phân loại để sắp xếp các tài liệu, tư liệu thu thập được trong quá trình thực địa thành một hệ thống logic chặt chẽ theo từng loại, từng đơn vị kiến thức, từng vấn đề của trang phục có chung dấu hiệu bản chất hoặc cùng hướng biến đổi,... Việc này góp phần tìm hiểu về bộ trang phục của người Lô Lô Hoa một cách khoa học và có hệ thống. Nhằm làm sáng tỏ sự biến đổi trang phục của người Lô Lô Hoa theo thời gian, sự tác động của môi trường xung quanh như con người, tập quán, kinh tế, xã hội và sự tương đồng cũng như khác biệt giữa hai nhóm Lô Lô. - Phương pháp so sánh Phương pháp so sánh được triển khai theo nhiều hướng. Để thấy được sự tiếp biến văn hóa trang phục ở các thời gian khác nhau trong việc tìm hiểu về biến đổi. Từ không gian sống khác nhau để tìm thấy sự tương đồng và khác biệt về bản sắc văn hóa thông qua trang phục người Lô Lô ở Mèo Vạc và Đồng Văn của tỉnh Hà Giang và ở huyện Bảo Lạc tỉnh Cao Bằng,... - Phương pháp chuyên gia Kết hợp với phương pháp phân tích các tư liệu thu thập được, tác giả sử dụng phương pháp chuyên gia để trao đổi với một số nhà quản lý, trí thức ở địa phương và ý kiến của chuyên gia là nhà nghiên cứu nhằm bổ trợ, điều chỉnh hợp lý hướng tiếp cận đối tượng cũng như đề xuất các kiến nghị bảo tồn, phát huy trang phục truyền thống của người Lô Lô Hoa ở Mèo Vạc. Ngoài ra, tác giả còn dùng phương pháp ký họa, tốc ký để ghi chép nhanh bằng hình vẽ các họa tiết, hoa văn trên trang phục ngay tại nơi nghiên
  • 17. 11 cứu; khai thác thêm thông tin qua các bộ sưu tập về trang phục Lô Lô của Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam, Bảo tàng Văn hóa các dân tộc Việt Nam ở Thái Nguyên, Bảo tàng tỉnh Hà Giang...; sử dụng các phương pháp hệ thống, phân tích, tổng hợp... khi xử lý tư liệu, tài liệu thu thập được và viết luận án. 5. Đóng góp mới về khoa học của luận án - Luận án là một công trình đầu tiên nghiên cứu chuyên sâu, có hệ thống về trang phục truyền thống hiện nay của người Lô Lô Hoa ở huyện Mèo Vạc tỉnh Hà Giang từ góc nhìn Nhân học. - Luận án góp phần phục dựng lại quy trình làm ra trang phục truyền thống đã bị mai một của người Lô Lô Hoa, nhất là làm rõ một số đặc trưng về hoa văn và nghệ thuật khâu ghép vải trên trang phục của nhóm Lô Lô này. - Luận án có đóng góp tư liệu mới về tình hình biến đổi và nguyên nhân dẫn đến biến đổi bộ trang phục truyền thống của người Lô Lô Hoa ở huyện Mèo Vạc, đồng thời dự báo về xu hướng biến đổi của bộ trang phục này để có những giải pháp bảo tồn, phát huy các giá trị trong bối cảnh hội nhập và du lịch, công nghiệp hóa và hiện đại hóa diễn ra ngày càng mạnh mẽ. - Trên cơ sở đánh giá các kết quả nghiên cứu, luận án đã đưa ra một số kiến nghị giải pháp nhằm bảo tồn và phát huy các giá trị bộ trang phục truyền thống hiện nay của người Lô Lô Hoa nói riêng, tộc người Lô Lô nói chung. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án 6.1. Ý nghĩa lý luận - Các kết quả đạt được khi thực hiện đề tài luận án sẽ làm sáng tỏ thêm mối quan hệ giữa trang phục truyền thống và bản sắc văn hóa tộc người, việc gìn giữ trang phục đó cũng chính là gìn giữ bản sắc văn hóa tộc người. - Luận án là nguồn tư liệu mới và phong phú về trang phục từ truyền thống đến biến đổi hiện nay của người Lô Lô Hoa ở huyện Mèo Vạc, giúp ích cho việc khái quát và đúc kết về đặc trưng văn hóa mặc ở các tộc người.
  • 18. 12 - Luận án góp phần hoàn thiện những vấn đề lý luận như khái niệm, tiêu chí phân loại trang phục, cách tiếp cận trong phân tích và đánh giá các đặc trưng văn hóa tộc người khi nghiên cứu về trang phục truyền thống và biến đổi nó; đồng thời, tiếp tục khẳng định vai trò của phụ nữ tộc người thiểu số đối với việc bảo tồn trang phục truyền thống của tộc người mình. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn - Luận án làm rõ thêm các giá trị bộ trang phục truyền thống hiện nay của người Lô Lô Hoa ở huyện Mèo Vạc khi nó đang bị mai một và biến đổi, qua đó góp phần nâng cao ý thức của người Lô Lô trong việc bảo tồn bộ trang phục truyền thống cũng như các đặc trưng văn hóa của tộc người mình. - Kết quả nghiên cứu có ý nghĩa với việc bảo tồn, phát huy bản sắc văn hóa ở tộc người Lô Lô theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII (về xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc) và Nghị quyết Trung ương 9 khóa XI (về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước) Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam. - Luận án là luận cứ khoa học giúp các cơ quan quản lý nhà nước về dân tộc và văn hóa có cơ sở thực tiễn để đưa ra các chủ trương, chính sách hợp lý trong quá trình gìn giữ và phát huy bản sắc văn hóa tộc người. 7. Kết cấu của luận án Ngoài Mở đầu, Kết luận, Danh mục các công trình đã công bố của tác giả về luận án, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, luận án kết cấu 4 chương: Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu, cơ sở lý thuyết và khái quát về người Lô Lô Hoa ở huyện Mèo Vạc Chương 2: Quy trình làm ra trang phục Chương 3: Các thành tố và chức năng của trang phục Chương 4: Giá trị của trang phục truyền thống, sự biến đổi,...
  • 19. 13 Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ KHÁI QUÁT VỀ NGƯỜI LÔ LÔ HOA Ở HUYỆN MÈO VẠC 1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu về người Lô Lô ở Việt Nam và về trang phục 1.1.1. Tình hình nghiên cứu của tác giả nước ngoài Đối với các công trình nghiên cứu của các học giả ở trong nước và nước ngoài về người Lô Lô ở nước ta, theo kết quả tìn kiếm chưa đầy đủ tại một số thư viện như của chúng tội Thư viện Viện Dân tộc học, Thư viện quốc gia, Thư viện Trường Đại học quốc gia Hà Hội, Thư viện Trường Đại học Sư phạm Hà Nội,... đã tìm thấy hơn 60 ấn phẩm từ trước đến nay viết về người Lô Lô ở Việt Nam. Trong đó, chỉ có 3 ấn phẩm của tác giả người nước ngoài, chủ yếu do người Pháp viết từ những năm đầu thế kỷ XX; số ấn phẩm còn lại là của các học giả trong nước. Một trong các tác phẩm của học giả nước ngoài viết về tộc người Lô Lô ở Việt Nam có thể kể đến là “Étude sur les langues parlées par les populations de la haute rivière claire” (Nghiên cứu ngôn ngữ của cư dân vùng thượng lưu sông Chảy) của A. Bonifacy [102] đăng trên BEFEO, số 1 - 2, có nội dung viết về đặc điểm ngôn ngữ của tộc người Lô Lô ở tỉnh Hà Giang, do vậy tác giả chưa có điều kiện đề cập đến văn hóa vật chất trong đó có trang phục của người Lô ở nơi đây. Bên cạnh đó, đáng chú ý là hai tác phẩm: “Notions de grammaire Lo Lo” (Những khái niệm về ngữ pháp của người Lô Lô) [103] và “Notes sur les dialectes Lo-Lo” (Vài nét về thổ ngữ của người Lô-Lô) [104] của tác giả người Pháp M. Alered Lietard đều được đăng tải ở trên Tạp chí BEFEO. Tuy nhiên, nội dung của cả hai ấn phẩm này vẫn chủ yếu đề cập đến ngôn ngữ của
  • 20. 14 tộc người Lô Lô, không có mục nào mang tính khảo tả về đặc điểm văn hóa tinh thần cũng như về sinh hoạt vật chất trong đó có các yếu tố trang phục truyền thống của tộc người này. Có thể nhận thấy, các công trình nghiên cứu của học giả nước ngoài về tộc người Lô Lô ở Việt Nam đã được thực hiện từ rất lâu, chủ yếu do các tác giả người Pháp nghiên cứu và cũng chỉ đề cập tới đặc điểm ngôn ngữ là chính, chưa có nghiên cứu nào nói tới các yếu tố văn hóa vật chất, trong đó có trang phục truyền thống của người Lô Lô ở nước ta. Ngoài ra, còn có những công trình nghiên cứu của học giả nước ngoài cũng như học giả người Trung Quốc viết về người Di ở Trung Quốc có liên quan tới tộc người Lô Lô ở Việt Nam. Tuy nhiên, người Di ở Trung Quốc là một dân tộc lớn không chỉ với dân số đông đúc mà trong lịch sử đã là chủ nhân của cố Vương quốc Nam Chiếu. Theo đó, người Di ở Trung Quốc hiện nay gồm nhiều tộc người nhỏ trong đó có tộc người Lô Lô ở Việt Nam, đặc biệt là còn được chia thành nhiều loại người di như Di Đen (Hắc Di), Di Trắng (Bạch Di)..., thậm chí trong Di Trắng lại được chia ra Qu Nuo (Khúc Nặc), A jia (A Giáp), Xía xi xía lùo (Áp tây áp lạc),... [61, 31-32]. Trong bối cảnh quốc tế hiện nay đang rất nhạy cảm về vấn đề dân tộc và tôn giáo, tác giả luận án chưa lần nào được gặp người Di ở bên Trung Quốc, trong khi Trung Quốc đang ráo riết thực hiện chính sách biên giới mềm, các nhà khoa học Trung Quốc đang đi sâu nghiên cứu về các mối quan hệ giữa các dân tộc ở Trung Quốc với người đồng tộc ở nước ngoài để làm rõ về nguồn gốc lịch sử, nhóm máu huyết thống, sự tương đồng văn hóa,... nhằm tạo ra tình hình các tộc người đồng tộc ở ngoại quốc có ý thức hướng về chính quốc Trung Quốc. Do đó, trong luận án này, nghiên cứu sinh (NCS) xin phép chỉ đề cập tới những công trình của học giả nước ngoài viết về người Lô Lô ở Việt Nam, mà không nhắc tới tộc người Di ở Trung Quốc, có nghĩa là không muốn làm
  • 21. 15 cho tộc người Lô Lô có dân số ít ở nước ta phải suy nghĩ về người đồng tộc đông đúc của họ ở bên Trung Quốc khi có điều kiện tìm đọc luận án này. Tuy nhiên, đáng lưu ý là một số nghiên cứu của học giả nước ngoài về trang phục, văn hóa trang phục và cách tạo ra trang phục rất có ích trong việc gợi mở cho nghiên cứu sinh về cách nhìn mới khi thực hiện đề tài luận án này. Chẳng hạn như công trình “The Book of Looms” (Cuốn sách của khung dệt) của Eric Broudy [100] đã chỉ ra cho chúng tôi có cách nhìn khi tiếp cận với quy trình tạo ra vải sợi nói riêng, trang phục truyền thống của tộc người nói chung không thể thiếu công đoạn dệt vải với công cụ chính là khung dệt. Trong khi đó, công trình “Dress and Ethnicity - Change Across Space and Time” (Ăn mặc và sắc tộc - Thay đổi không gian và thời gian) của Joanne B. Eicher [101] lại giúp chúng tôi luôn lưu ý rằng, khi nghiên cứu về trang phục và văn hóa trang phục không thể tách rời chủ thể của nó là tộc người và văn hóa tộc người cũng như những sự biến đổi của trang phục theo thời gian và không gian. Bên cạnh đó, công trình “Women of Visionary Art” (Phụ nữ của nghệ thuật thị giác) của David Jay Brown và Rebecca Ann Hill [99] còn cho chúng tôi thấy được vai trò của người phụ nữ trong việc tạo ra thẩm mỹ bằng nghệ thuật trang trí, đồng thời là người trực tiếp gìn giữ và trao truyền nghệ thuật ấy cho các thế hệ kế cận,... 1.1.2. Tình hình nghiên cứu của tác giả trong nước Tổng quan khá chi tiết các nghiên cứu về tộc người Lô Lô ở Việt Nam đã được tác giả Nguyễn Thị Thu thực hiện ở chương “Dân tộc Lô Lô”, trong Vương Xuân Tình (Chủ biên, 2018), Các dân tộc ở Việt Nam, tập 4 quyển 1, do Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật phát hành [65, tr.624-628]. Ở đây xin đề cập một số công trình tiêu biểu. 1.1.2.1. Những nghiên cứu trên các lĩnh vực nguồn gốc lịch sử tộc người, hoạt động kinh tế, sinh hoạt văn hóa và tập quán xã hội
  • 22. 16 Về nguồn gốc lịch sử tộc người Lô Lô ở nước ta, chủ yếu được đề cập trong công trình Nguồn gốc lịch sử tộc người vùng biên giới phía Bắc Việt Nam của Nguyễn Chí Huyên (Chủ biên), Hoàng Hoa Toàn, Lương Văn Bảo [32]. Ngoài ra, một số công trình khảo tả về những vấn đề chung của tộc người Lô Lô ở nước ta cũng có đề cập tới lĩnh vực này của đồng bào. Riêng hoạt động sản xuất của người Lô Lô, có rất ít ấn phẩm mang tính chuyên đề hoặc chuyên khảo, bởi vì chỉ có hai công trình có nội dung viết về vấn đề này. Cụ thể là: Trồng trọt ruộng màu và thổ canh hốc đá ở người Lô Lô Hà Giang của Nguyễn Anh Ngọc [44]; Tập quán canh tác truyền thống của người Lô Lô của Mai Văn Tùng [81]. Do vậy, tập quán và tri thức sản xuất kinh tế, trong đó có trồng bông và chàm của người Lô Lô hầu như chỉ được đề cập đến trong những tác phẩm khảo tả về nhiều lĩnh vực, đó là các tác phẩm: Sơ lược giới thiệu dân tộc Lô Lô huyện Đồng Văn, Hà Giang của tác giả Lâm Tâm [63]; Người Lô Lô ở Bảo Lạc, tỉnh Cao Bằng của Hoàng Hoa Toàn [78]; Các dân tộc ít người ở Việt Nam (Các tỉnh phía Bắc) của Viện Dân tộc học [87] và đã tái bản năm 2014; Văn hóa và nếp sống Hà Nhì - Lô Lô của Nguyễn Văn Huy [29]; Dân tộc Lô Lô ở Việt Nam do Khổng Diễn và Trần Bình làm chủ biên [16],... Qua nội dung chi tiết của các công trình này, không chỉ thấy được tình hình sản xuất nông nghiệp truyền thống luôn đóng vai trò chủ đạo đối với đời sống kinh tế của người Lô Lô, mà còn phản ánh được tính đa dạng các hình thức trồng trọt ở các địa bàn sinh sống của tộc người Lô Lô, bao gồm canh tác nương rẫy với nhiều loại hình như nương ven đồi hoặc sườn núi, nương ven suối, nương thổ canh hốc đá,...; làm ruộng bậc thang ở các địa phương Lô Lô thuộc huyện Mèo Vạc (tỉnh Hà Giang) và các huyện Bảo Lạc, Bảo Lâm (tỉnh Cao Bằng) đã xuất hiện từ lâu. Đặc biệt, một số công trình đã chỉ ra rằng, trước đây tộc người Lô Lô ở tỉnh Hà Giang trong đó có Lô Lô Hoa ở huyện Mèo Vạc có các loại nương để trồng bông, trồng
  • 23. 17 chàm,... làm nguyên liệu cho may mặc, nhưng nay tập quán này chỉ còn duy trì đối với người Lô Lô ở tỉnh Cao Bằng. Đáng lưu ý là các nghiên cứu riêng biệt về văn hóa vật chất chưa nhiều, chẳng hạn, về nhà ở chỉ có Nhà ở của người Lô Lô Hà Giang của Lý Hành Sơn [59]; Phong tục làm nhà của dân tộc Lô Lô của Nguyễn Văn Căn [9]. Các nghiên cứu này đã đề cập khá chi tiết về cấu trúc ngôi nhà truyền thống và đặc điểm mặt bằng sinh hoạt trong ngôi nhà Lô Lô ở Việt Nam. Bên cạnh đó, các công trình ấy còn khái quát về một số nghi lễ tín ngưỡng, kiêng kỵ liên quan đến quá trình xây dựng và sinh sống trong nhà mới của tộc người Lô Lô. Trong khi, nghiên cứu về ăn uống của người Lô Lô ở nước ta thì chưa có ấn phẩm riêng nào, mà chỉ được đề cập trong các công trình viết về những vấn đề chung của tộc người Lô Lô. Tương tự như vậy, đến nay cũng chưa có nghiên cứu riêng về các yếu tố vật chất khác của tộc người Lô Lô như nông cụ, phương tiện vận chuyển, đồ dùng sinh hoạt,... Tuy nhiên, lĩnh vực văn hóa tinh thần nói chung, đặc biệt là các yếu tố như văn học dân gian, dân ca, dân vũ,... của người Lô Lô luôn thu hút được nhiều nghiên cứu nhất. Có thể kể tới một số ấn phẩm tiêu biểu như: Dân ca Lô Lô và dân ca Giáy của tác giả Ngô Vĩnh Bình [5]; Truyện cổ Lô Lô của Hoàng Nam và Lò Giàng Páo [40]; Dân ca trong lễ hội của người Lô Lô của Lò Giàng Páo [56]; Lễ “gọi hồn - cầu thọ” của người Lô Lô ở Hà Giang của Nguyễn Văn Căn [10]; Nghệ thuật múa của người Lô Lô ở Hà Giang của Trịnh Minh Ngọc [46]; Múa tiễn đưa linh hồn - nét văn hóa tâm linh độc đáo của người Lô Lô cũng của Trịnh Minh Ngọc [47],... Riêng ấn phẩm về trống đồng liên quan đến tâm linh của người Lô Lô thì có 2 ấn phẩm là: Trống đồng cổ với các dân tộc ở Hà Giang của Lò Giàng Páo [52]; Bàn thêm về di sản trống đồng của người Lô Lô của Nguyễn Thị Hảo [23].
  • 24. 18 Các nghiên cứu về tập quán xã hội, nhất là về nghi lễ vòng đời của người Lô Lô ở nước ta cũng chiếm số lượng đáng kể. Đó là các công trình như: Một số vấn đề về hôn nhân, sinh đẻ của người Lô Lô ở miền núi phía Bắc của Đào Huy Khuê [36]; Nghi lễ vòng đời của người Lô Lô ở Cao Bằng của tác giả Đặng Thị Hoa [27]; Đôi nét về tang ma của người Lô Lô Đen ở xã Lũng Cú, huyện Đồng Văn, tỉnh Hà Giang của Phạm Dương [17]; Nghi lễ vòng đời của người Lô Lô ở Cao Bằng của Bàn Tuấn Năng [42]; Hôn nhân của người Lô Lô ở huyện Bảo Lạc, tỉnh Cao Bằng: Truyền thống và biến đổi của Mông Thị Xoan [93],... Các công trình vừa trình bày tuy đã đề cập đến các nghi lễ trong chu kỳ đời người của người Lô Lô, trong đó Bàn Tuấn Năng có nói tới việc hóa trang thành người rừng để múa ở đám tang, song vẫn thiếu những nghiên cứu so sánh giữa các nhóm Lô Lô, nhất là chưa đề cập chuyên sâu đến bộ lễ phục truyền thống của tộc người Lô Lô cũng như nhóm Lô Lô Hoa và những biến đổi của các nghi lễ cùng lễ phục truyền thống trong bối cảnh hội nhập hiện nay. 1.1.2.2. Những nghiên cứu về trang phục truyền thống của tộc người Lô Lô và một số tộc người ở nước ta - Những nghiên cứu về trang phục truyền thống của tộc người Lô Lô Qua tổng quan cho thấy, nghiên cứu về trang phục truyền thống của tộc người Lô Lô ở Việt Nam thu hút được khá nhiều tác giả trong nước quan tâm. Có thể kể tới một số như: Nét độc đáo trong trang phục phụ nữ Lô Lô của tác giả Quỳnh Lan [37]; Trang phục của phụ nữ Lô Lô của Tiến Thiều [72]; Nữ phục Lô Lô đen ở Đồng Văn (Hà Giang) của Vũ Đình Giáp [21]; Đôi nét về trang phục cổ truyền của người Lô Lô của Lý Hành Sơn [60]; Nữ phục truyền thống Lô Lô Hoa của Lê Mai Oanh [50],... Bên cạnh đó, trang phục của người Lô Lô còn được đề cập trong một số công trình như Trang phục cổ truyền các dân tộc Việt Nam của Ngô Đức Thịnh [73]; Trang phục các tộc người nhóm
  • 25. 19 ngôn ngữ Tạng-Miến của Đỗ Thị Hòa [28],... Chưa kể các công trình mang tính khảo tả về nhiều lĩnh vực văn hóa của tộc người Lô Lô cũng có đề cập khái quát về trang phục truyền thống của tộc người này. Qua các công trình về văn hóa trang phục của tộc người Lô Lô, hầu hết các tác giả cho rằng trang phục truyền thống của đồng bào bao gồm: y phục và trang sức. Trong đó, y phục được phân chia thành y phục nữ và y phục nam. Y phục nữ gồm: khăn, áo, quần, tạp dề, dây lưng, xà cạp, váy, giầy dép; y phục của đàn ông gồm: mũ, khăn, áo, quần, giầy dép. Còn trang sức của họ có: vòng cổ, vòng tay, khuyên tai, cúc áo bằng đồng, nhẫn, dây chuyền, dây xà tích bằng bạc, nón,... [60, tr.8-16]. Cũng theo các nghiên cứu, trang phục truyền thống của người Lô Lô rất độc đáo. Chẳng hạn như khăn, theo Đỗ Thị Hòa, khăn đội đầu của phụ nữ nhóm Lô Lô Hoa gồm hai loại: khăn mỏ thô qua có kích thước rộng 20 - 22cm, dài 220 - 310cm, màu đen hoặc xanh chàm với hai loại tua ở hai đầu là tua vải và tua chỉ xe; khăn mơ thúc do hai khổ vải chắp nhau tạo thành, có kích thước rộng 40cm, dài khoảng 110 - 130cm kể cả tua chỉ hai đầu; cả hai loại khăn đó đều được trang trí nhiều họa tiết hoa văn đa dạng theo sở thích và óc thẩm mĩ của từng người. Còn khăn đội đầu của người Lô Lô Đen gồm 3 loại, trong đó 1 khăn làm từ vải trắng dài 170cm, rộng 30cm; 2 loại khăn còn lại làm bằng vải chàm với các kích thước 150x40cm và 130x15cm... [28, tr.20]. - Những nghiên cứu về trang phục của một số tộc người ở nước ta Đến nay đã có rất nhiều nghiên cứu về trang phục của không ít tộc người thiểu số ở nước ta. Hầu hết các nghiên cứu mang tính khảo tả về các lĩnh vực văn hóa tộc người đều có ít nhất một mục hoặc một chương nói về văn hóa vật chất, trong đó có đề cập khái quát tới trang phục truyền thống của đồng bào. Do vậy, ở đây chỉ xin đề cập tới một số nghiên cứu mang tính chuyên sâu từ góc nhìn Dân tộc học/Nhân học và chủ yếu tính từ đầu những
  • 26. 20 năm 90 thế kỷ XX về trang phục để thấy những cách tiếp cận, nhận định hoặc luận điểm cũng như ý tưởng,... của tác giả nhằm tiếp thu, áp dụng, kế thừa trong luận án. Như vậy, tác giả luận án không tham vọng bao quát tất các các nghiên cứu về trang phục và các yếu tố liên quan, đồng thời chỉ tập trung vào một số tộc người thiểu số ở nước ta. Theo đó, nghiên cứu có tính chuyên khảo về trang phục của tộc người thiểu số, có lẽ cần phải kể đến những công trình như Nghệ thuật trang phục Thái của Lê Ngọc Thắng [66], đặc biệt là luận án tiến sĩ Sử học (1991) của tác giả này [69, 70] với tiêu đề Trang phục cổ truyền của người Thái ở Tây Bắc Việt Nam; Trang phục cổ truyền các dân tộc Việt Nam của Ngô Đức Thịnh [73]; Tìm hiểu về trang phục Việt Nam của Đoàn Thị Tình [64]; Hoa văn trên vải các dân tộc Đông Bắc Việt Nam do Diệp Trung Bình làm chủ biên [4]; Trang phục của người Nùng Việt Nam của Lê Văn Bé [3]; Trang phục cổ truyền của người Dao ở Việt Nam của Nông Quốc Tuấn [80]; Trang phục của người Dao ở Việt Nam của Nguyễn Khắc Tụng - Nguyễn Anh Cường [83]; Trang phục cổ truyền của người Hmông Hoa ở tỉnh Yên Bái của Trần Thị Thu Thủy [76]; Trang phục của người Lào ở Tây Bắc Việt Nam của TS. Võ Mai Phương [58]; Văn hóa trang phục của người Khmer Trà Vinh của Nguyễn Thị Phương Khánh [34],... Đó chưa kể tới các bài viết cũng khá chi tiết về trang phục của không ít dân tộc đã công bố trên các tạp chí chuyên ngành. Trong tất cả các công trình vừa đề cập, có lẽ công trình Trang phục cổ truyền của người Thái ở Tây Bắc Việt Nam của Lê Ngọc Thắng [69, 70] là lần đầu tiên ở nước ta đề cập đến các vấn đề mang tính lý luận liên quan tới nghiên cứu trang phục, từ cách tiếp cận nghiên cứu dưới góc nhìn Dân tộc học, tiêu chí phân loại trang phục,... bàn luận về các chức năng cơ bản cũng như giá trị của trang phục. Đây chính là cơ sở khoa học quý giá, được chúng tôi kế thừa, áp dụng trong luận án. Các công trình khác, ngoài việc áp dụng
  • 27. 21 những cách tiếp cận của một số nhà khoa học đi trước, thì thế mạnh ở việc khảo tả rất chi tiết với mục đích bảo tồn văn hóa tộc người thông qua bộ trang phục truyền thống. Đây cũng là cách tiếp cận cần thiết được chúng tôi kế thừa nhằm giúp bảo tồn trang phục truyền thống hiện nay của người Lô Lô Hoa ở huyện Mèo Vạc dưới dạng lưu giữ bằng văn bản. Một số trong các công trình kể trên đều đề cập tới quy trình tạo ra bộ trang phục, tuy nhiên khi nghiên cứu tới quy trình dệt vải và tạo ra vải mặc để may khâu y phục thì không thể không kể đến các ấn phẩm: Trồng bông dệt vải, nghề “làng” của người Thái Mai Châu của Lê Ngọc Thắng [67]; Trồng lanh và nghề dệt vải của người Hmông ở Đồng Văn, Hà Giang của Vương Thị Bình [6]; Nghề dệt của người Thái ở Tây Bắc trong cuộc sống hiện đại của Nguyễn Thị Thanh Nga [43],... Đặc biệt là công trình nghiên cứu về nghề dệt của người Việt với tiêu đề Nghề dệt cổ truyền của người Việt ở đồng bằng Bắc bộ Việt Nam của Lâm Bá Nam [39]. Nhìn chung, các công trình này rất bổ ích, bởi vì giúp chúng tôi về cách tiếp cận cũng như về luận cư khoa học trong việc thể hiện và phân tích các công đoạn tạo ra vải mặc của người Lô Lô Hoa ở huyện Mèo Vạc. Ngoài ra, một số công trình về kỹ thuật trang trí trên vải hoặc trên trang phục cũng rất hữu ích cho chúng tôi khi phân tích và đánh giá các họa tiết hoa văn cũng như màu sắc trang trí trên trang phục của người Lô Lô, đặc biệt là để nhận diện về kỹ thuật tạp vải tạo thành hoa văn độc đáo ở người Lô Lô Hoa so với tộc người khác. Đó là các công trình như: Hoa văn mặt chăn ở Mường Tấc, Phù Yên, Sơn La của Hoàng Lương [38]; Nghệ thuật trang phục Thái của Lê Ngọc Thắng [66]; Trang trí trên trang phục nhìn từ góc độ văn hóa dân gian của Ngô Đức Thịnh [74]; Người Mường ở Hòa Bình của Trần Từ [82]; Góp phần nghiên cứu Văn hóa và tộc người của Nguyễn Từ Chi [13]; Đồ vải của người Thái ở tiểu vùng sông Mê Công-Tiếp nối và biến đổi của Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam [2];...
  • 28. 22 1.1.3. Đánh giá về tình hình nghiên cứu và những vấn đề đặt ra cho đề tài luận án cần tập trung nghiên cứu Qua tổng quan tài liệu về trang phục Lô Lô ở nước ta có thể nói, bộ trang phục truyền thống của người Lô Lô rất đa dạng, phụ thuộc vào từng nhóm Lô Lô với các màu sắc riêng biệt, tạo nên sự tương phản về màu sắc,... Theo các tác giả, trang phục nữ Lô Lô khá độc đáo với những nét riêng khó có thể lẫn với các dân tộc xung quanh. Trong khi, trang phục nam giới và trẻ em thì khá đơn giản, song cũng phần nào phản ánh được bản sắc người Lô Lô cũng như sự thích nghi của họ với môi trường khí hậu và sinh thái nơi họ sinh sống, sản xuất. Đặc biệt, có một số công trình đề cập tới trang phục của người Lô Lô Hoa ở huyện Mèo Vạc như đã trình bày, song vẫn chưa nói tới quy trình tạo ra trang phục, chức năng và giá trị cũng như sự biến đổi trang phục truyền thống của người Lô Lô Hoa ở Mèo Vạc trong bối cảnh hiện nay, đặc biệt là dưới tác động của sự phát triển du lịch tại “Công viên Địa chất cao nguyên đá Đồng Văn”. Tuy nhiên vấn đề đặt ra ở chỗ do nội dung các nghiên cứu trên về văn hóa mặc của tộc người Lô Lô ở nước ta: (1) Một mặt chưa thể hiện được những đặc trưng văn hóa tộc người Lô Lô trong quá trình làm ra bộ trang phục, đặc biệt là những giá trị tộc người kết tinh trong bộ trang phục ấy thông qua các yếu tố thẩm mỹ và cách trạng phục, chẳng hạn như các loại hoa văn và cách trang trí hóa văn, màu sắc trên trang phục,...; (2) Mặt khác, các tác giả chưa quan tâm tới sự phong phú và đa dạng đối với những sự biến đổi và tiếp thu các yếu tố mới, hiện đại tạo nên bộ trang phục truyền thống của người Lô Lô trong bối cảnh Đổi mới đất nước năm 1986 đến nay, nhất là gần đây có sự tác động ngày càng mạnh mẽ của các dịch vụ du lịch tại các địa bàn sinh sống của người Lô Lô thuộc tỉnh Hà Giang. Qua kết quả tổng quan tình hình nghiên cứu của các tác giả ở trong và ngoài nước về tộc người Lô Lô ở Việt Nam và về trang phục truyền thống của
  • 29. 23 tộc người này có thể thấy, ngoài các công trình nghiên cứu với nội dung viết về những vấn đề chung cũng có đề cập ít nhiều nhưng rất khái quát đến bộ trang phục truyền thống của tộc người Lô Lô nói chung, nhóm Lô Lô Hoa nói riêng thì chỉ có một vài công trình nghiên cứu mang tính chuyên đề hoặc bài viết ngắn về trang phục truyền thống của tộc người này đã được công bố trên các tạp chí hoặc trong kỷ yếu hội thảo, hội nghị khoa học. Điều này có nghĩa, cho đến hiện nay vẫn chưa có một chuyên khảo nào mang tính hệ thống về trang phục truyền thống của tộc người Lô Lô nói chung, của người Lô Lô Hoa ở huyện Mèo Vạc, tỉnh Hà Giang nói riêng. Hơn nữa, các công trình đã công bố viết về hoạt động kinh tế truyền thống có liên quan tới việc gieo trồng các nguyên liệu bông, chàm cũng như nghề thủ công gia đình làm ra vải mặc, kể cả về trang phục truyền thống của tộc người Lô Lô vẫn còn rất khái quát, chưa thể hiện tổng thể mang tính hệ thống các khâu: từ việc tạo ra vải và may khâu thành bộ trang phục, đặc điểm văn hóa các thành tố bộ trang phục... đến cách sử dụng cũng như giá trị văn hóa tộc người thể hiện qua trang phục. Đặc biệt, đến nay vẫn chưa có nghiên cứu cụ thể về những biến đổi bộ trang phục truyền thống của người Lô Lô từ Đổi mới đất nước năm 1986. Do đó, thực hiện đề tài luận án này không chỉ cấp thiết, có ý nghĩa khoa học và thực tiễn sâu sắc, mà còn góp phần kế thừa các thành tựu đã đạt được của các nhà khoa học đi trước trong nghiên cứu về trang phục của người Lô Lô ở nước ta. 1.2. Cơ sở lý thuyết 1.2.1. Một số khái niệm cơ bản - Trang phục Năm 1991, tác giả Lê Ngọc Thắng đã đưa ra khái niệm: “Trang phục gồm y phục (khăn, áo, nón, váy, quần...) và đồ trang sức (trâm, vòng cổ, hoa tai, vòng tay, xà tích...) [70, tr.6] hoặc cụ thể hơn: “Trang phục là cách ăn
  • 30. 24 mặc của con người. Mỗi một thành phần dân tộc trên đất nước ta có một nếp sống văn hóa đặc thù nên cách ăn mặc cũng phản ánh những sắc thái phong phú, đa dạng đó” [66, tr.16]. Trong quá trình nghiên cứu của minh, Trần Thị Thu Thủy (2004) đã đưa ra khái niệm “trang phục” gắn với chức năng và của nó như: ‘‘Trang phục là những phương tiện vật chất bao gồm y phục, trang sức được con người sử dụng trong sinh hoạt, lao động sản xuất, chiến đấu và các hoạt động văn hóa xã hội khác; thể hiện cách ứng xử văn hóa trong mối quan hệ của con người với môi trường tự nhiên và môi trường xã hội, nhằm thỏa mãn các chức năng: sinh học, xã hội và thẩm mỹ của con người” [76, tr.48]. Bên cạnh đó, Nguyễn Anh Cường (2001) còn cho biết thêm: “Trang phục bao gồm y phục và trang sức, là cách thể hiện ăn mặc của mọi con người và của mỗi dân tộc. Mỗi dân tộc đều có những nét văn hóa mang tính đặc thù mà bộ trang phục cổ truyền là một trong những khía cạnh thể hiện rõ nét nhất tính tộc người” [11, tr.22]. Hơn nữa, TS. Võ Thị Mai Phương (2010) cũng khẳng định rằng trang phục gồm y phục và trang sức: “Trang phục bao gồm y phục và trang sức của một tộc người cụ thể. Trang phục là những vật thể cụ thể, song nó còn chứa đựng nhiều thông tin văn hóa mang bản sắc tộc người” [58, tr.12-13]. Qua những cách khái niệm về trang phục ở trên có thể thấy, mỗi nhà khoa học có góc nhìn khác nhau nhưng cơ bản là thống nhất theo nhận định của Lê Ngọc Thắng ở chỗ trang phục bao gồm y phục và trang sức. Trong luận án này, tác giả đồng thuận với những cách hiểu ở trên và cũng cho rằng: trang phục bao gồm y phục, trang sức và phụ kiện đi kèm, có chức năng, thuộc tính, được phân loại theo tính chất và mục đích sử dụng của con người. Và trang phục thuộc loại hình văn hóa vật chất, song, chứa đựng nhiều thông
  • 31. 25 tin về văn hóa của tộc người. Bên cạnh đó, tác giả luận án cũng đồng tình với Lê Ngọc Thắng cho rằng: + Y phục bao gồm khăn, áo, nón, váy, quần... Do đó, y phục là bộ phận quan trọng nhất trong bộ trang phục, bao gồm những đồ để mặc như khăn, áo, quần, váy... Chẳng hạn, áo dùng để che phần trên của cơ thể; quần để che phần dưới của cơ thể tính từ bụng trở xuống, có hai ống để che hai chi dưới; váy để che phần dưới của cơ thể từ bụng trở xuống, không chia thành hai ống như quần; yếm để che phần ngực của phụ nữ nên có lúc gọi là áo ngực... Liên quan đến y phục, còn có các từ ngữ như xiêm y (váy áo), y quan (áo mũ), nội y (đồ mặc lót bên trong)... + Trang sức gồm trâm, vòng cổ, hoa tai, vòng tay, xà tích... Như vậy, trang sức được hiểu là những phụ kiện trang trí được mang trên cơ thể con người, với muc đích sử dụng rất phong phú. Con người có thể dùng trang sức với quan niệm để làm đẹp, cũng có thể dùng theo quan niệm dân gian như bảo vệ sức khỏe, chống tà ma,... Chất liệu và trang trí hoa văn trên trang sức thể hiện trình độ kỹ thuật, mỹ thuật của tộc người ở từng thời kỳ. Trang sức được coi là yếu tố văn hóa vật chất, nên được nghiên cứu đi kèm với y phục. + Bên cạnh đó, những phụ kiện đi kèm theo y phục được hiểu là những đồ để làm tăng vẻ đẹp hay tăng giá trị của y phục. Đó là đồ để đội như mũ, nón, khăn...; để đi như giày, dép, ủng, tất,... Sự ra đời trang phục nói chung được xuất phát từ nhu cầu cuộc sống của con người, phản ánh tiến trình phát triển xã hội loài người. Song, xuất phát từ những sự khác biệt về lịch sử, trình độ văn minh, điều kiện kinh tế, địa lý, khí hậu, tín ngưỡng, phong tục, tập quán,... của mỗi nền văn hóa mà trang phục mỗi tộc người cũng có những nét riêng. Không nằm ngoài quy luật đó, trang phục Lô Lô với những độc đáo riêng góp thêm vào kho tàng trang phục Việt Nam những nét đặc sắc.
  • 32. 26 - Trang phục truyền thống và trang phục truyền thống hiện nay Về khái niệm truyền thống, theo cuốn Từ điển tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học, truyền thống là thói quen hình thành đã lâu đời trong lối sống và nếp nghĩ, được truyền lại từ thế hệ này sang thế hệ khác [89, tr.1053]. Vì vậy, khái niệm trang phục truyền thống trong luận án có thể hiểu là các thành tố của bộ y phục và các đồ trang sức được tộc người tạo ra và sử dụng đã lâu đời, được truyền lại từ thế hệ này sang thế hệ khác,... Theo chúng tôi, trang phục truyền thống hiện nay được hiểu là trang phục truyền thống còn được duy trì, bảo lưu trong bối cảnh hiện tại, bao gồm: (i) Trang phục truyền thống nguyên bản, tức trang phục đó được gìn giữ và trao truyền qua nhiều thế hệ mà hiện nay vẫn đang tồn tại; (ii) Trang phục dạng truyền thống, nghĩa là trang phục đó đã có sự biến đổi nhưng chưa thay đổi hẳn, nên vẫn giữ được những điểm cơ bản so với bộ truyền thống nguyên bản về kiểu dáng các thành tố, các màu sắc chủ đạo, các loại họa tiết hoa văn chủ yếu và cách trang trí trên các thành tố,... Về mặt lôgic, tất cả mọi vật đều biến đổi nên việc nhận thức về trang phục truyền thống tồn tại lâu đời cũng chỉ tương đối, bởi vì trong quá trình tạo ra những bộ trang phục truyền thống cho bản thân mình và gia đình tuy vẫn dập khuôn theo mẫu mã, chất liệu, các hoa văn trang trí,... mà thế thệ trước trao truyền lại, nhưng thế hệ sau luôn có những sáng tạo cho phù hợp với những thay đổi không ngừng về môi trường tự nhiên và xã hội, về việc giao lưu tiếp thu nền văn hóa mới,... Vì thế, khi nghiên cứu về trang phục truyền thống hiện nay của người Lô Lô Hoa ở huyện Mèo Vạc, chúng tôi coi những bộ trang phục của nhóm Lô Lô này còn duy trì hoặc tuy mới được tạo ra nhưng vẫn bảo lưu được các đặc điểm giống như bộ trang phục đó đã có từ trước Đổi mới năm 1986, nhất là trước khi có sự thâm nhập và tác động của kinh tế thị trường, phát triển các dịch vụ du lịch.
  • 33. 27 - Biến đổi trang phục Về khái niệm, “biến đổi” là sự thay đổi thành khác trước [89, tr.65]. Do đó trong luận án, biến đổi trang phục truyền thống được hiểu là trong bộ trang phục truyền thống có sự thay đổi so với trước, theo đó có thể thay đổi về quy trình tạo ra vải và trang phục, về các thành tố, các chất liệu, cách may khâu, trang trí, màu sắc và họa tiết hoa văn, việc sử dụng ở các thế hệ và thường xuyên hay chỉ trong các dịp lễ tết,... - Chức năng trang phục Theo các nhà ngôn ngữ học thì chức năng” là: “Tác dụng, vai trò bình thường hoặc đặc trưng của một người nào, một cái gì đó” [89, tr.191]. Từ cách hiểu này có thể thấy rằng, chức năng của trang phục chính là tác dụng của trang phục được thể hiện trên nhiều khía cạnh khác nhau như bảo vệ cơ thể, phản ánh đặc trưng văn hóa tộc người,... Theo đó, trong công trình Trang phục cổ truyền của người Thái ở Tây Bắc Việt Nam (1991), tác giả Lê Ngọc Thắng đã chỉ ra rằng, trang phục có ba chức năng cơ bản: Chức năng bảo vệ con người, Chức năng xã hội và Chức năng thẩm mỹ. Trong đó, có chức năng che đậy, bảo vệ con người trong môi trường tự nhiên là chức năng xuất hiện sớm và xuyên suốt tiến trình phát triển của tất cả các cộng đồng dân cư; chức năng xã hội còn được gọi là chức năng văn hóa và chức năng thẩm mỹ của trang phục bao giờ cũng song hành tồn tại và ngày càng phát triển. Sự tác động, ảnh hưởng qua lại giữa các chức năng của trang phục phản ánh tiến trình phát triển của đời sống con người trên bình diện cá nhân, cộng đồng của tất cả các dân tộc [70, tr.8-12]. Trong luận án, chúng tôi tiếp tục áp dụng và kế thừa cách hiểu về chức năng trang phục cũng như cách phân loại và thể hiện các chức năng trang phục truyền thống của người Lô Lô Hoa ở huyện Mèo Vạc theo ý tưởng và cách tiếp cận của tác giả Lê Ngọc Thắng.
  • 34. 28 - Giá trị của trang phục Theo các nhà ngôn ngữ học, “giá trị” được hiểu là: “Cái làm cho một vật có ích lợi, có ý nghĩa, là đáng quý về một mặt nào đó” [89, tr.386]. Thực tế cho thấy, có những giá trị có thể định lượng bởi một giá, nhưng cũng có những giá trị không thể định giá - vô giá ví dụ như: lòng yêu nước, tình yêu tình bạn, các tác phẩm nghệ thuật,... Vì vậy, giá trị là một khái niệm của nhiều bộ môn khoa học khác nhau; trong mỗi bộ môn khoa học, khái niệm này sẽ có nội hàm khác biệt nhau. Từ góc độ văn hóa học, tác giả Ngô Đức Thịnh (2014) cho rằng, khái niệm “giá trị” được hiểu là yếu tố cốt lõi của văn hóa, nó được sáng tạo và kết tinh trong quá trình lịch sử của mỗi cộng đồng, tương ứng với môi trường tự nhiên và xã hội nhất định, hướng đến thỏa mãn những nhu cầu và khát vọng của cộng đồng về những điều tốt đẹp (chân, thiện, mỹ), từ đó bồi đắp và nâng cao bản chất Người [75, tr.23]. Trên cơ sở khái niệm chung nhìn từ góc độ ngôn ngữ học về “giá trị” và khái niệm “giá trị” từ góc độ văn hóa học của Ngô Đức Thịnh, có thể định nghĩa “giá trị của trang phục nói chung và của trang phục truyền thống nói riêng” là những yếu tố có ý nghĩa và đáng quý mang tính văn hóa, xã hội, tín ngưỡng,... được kết tinh trong trang phục của một cộng đồng, nhóm cư dân hay một tộc người. Theo đó, trong nghiên cứu của mình, tác giả Lê Ngọc Thắng đã đưa ra một số giá trị của trang phục Thái như: giá trị văn hóa, giá trị lịch sử, trong đó theo tác giả, giá trị lịch sử của trang phục Thái chủ yếu phản ánh mối quan hệ giữa tộc người Thái với các tộc người láng giềng, [70, tr.12- 15]. Đây là cơ sở khoa học đáng quý để luận án này kế thừa. 1.2.2. Cách phân loại trang phục Bộ trang phục nói chung của bất kể tộc người với những cách phân loại tuy khác nhau nhưng đều là vật cụ thể và có hai loại hình chính gồm y phục và trang sức được thể hiện rõ trong khái niệm về trang phục. Theo đó, y phục
  • 35. 29 dùng để che thân thể và đây là chức năng có giá trị sử dụng chủ yếu không thể thiếu đối với mỗi người và mỗi tộc người; trang sức là bộ phận dùng để trang trí, làm đẹp với những loại khác nhau bằng kim loại, nhựa, đồ vật, thậm chí là từ thực vật, động vật,... Vì thế, trang sức có thể gắn hoặc liên kết trực tiếp với y phục như các loại chỉ màu hoặc tua rua cùng hạt cườm để trang trí, nhưng cũng có thể tách rời khỏi y phục, tức vật riêng biệt không gắn liền với y phục như vòng cổ, nhẫn, túi thổ cẩm. Song, cả hai loại hình trang phục này đều gắn kết với người sử dụng khi người đó buộc phải sử dụng đến chúng. Do mỗi loại trang phục khác nhau được tạo ra và sử dụng theo những mục đích hoặc nhu cầu riêng, nên cho đến nay đã có không ít cách để phân loại về sự khác biệt nhau của trang phục. Qua một số tài liệu đã công bố cho thấy, trang phục có thể phân loại khi dựa theo một số tiêu chí tùy thuộc vào mục đích của người nghiên cứu và nhu cầu của người sử dụng, chẳng hạn tác giả Lê Ngọc Thắng (1990) đã dựa vào giới tính và chức năng xã hội mà phân loại thành: trang phục nữ, trang phục nam, trang phục trong sinh hoạt và lao động hàng ngày, trang phục trong hội hè và lễ tết, trang phục trong tình yêu,... [66, tr.30-101]. Gần đây, tác giả Võ Mai Phương đã trực tiếp phân loại theo các tiêu chí như: giới tính, lứa tuổi, đẳng cấp và địa vị xã hội, kỹ thuật ăn mặc,... [58, tr.16]. Dựa trên cơ sở đó, có thể kể tới những tiêu chí cùng với cách phân loại theo các tiêu chí ấy như dưới đây: (i) Phân theo thời tiết có trang phục theo từng mùa trong năm, chẳng hạn như ở nước ta thì ngoài trang phục mặc như đồ lót, thì có trang phục theo các mùa Xuân, Hè, Thu, Đông; (ii) Phân theo độ tuổi thì có trang phục trẻ sơ sinh, trang phục thiếu niên hoặc trẻ em, trang phục thanh niên, trang phục trung niên, trang phục người già,...; (iii) Phân theo giới tính có trang phục nam giới, trang phục nữ giới;
  • 36. 30 (iv) Theo mục đích sử dụng có thể kể tới các loại trang phục như: trang phục trong sinh hoạt hàng ngày, trang phục trong lao động sản xuất, trang phục trong dịp tết và hội hè, trang phục trong lễ cưới, trang phục tang ma,...; (v) Theo thành phần xã hội và địa vị xã hội thì thể hiện rõ nhất ở những tộc người đã diễn ra quá trình phân hóa giai cấp, và trên cơ sở đó trang phục được chia theo các tầng lớp khác nhau như trước đây có trang phục bình dân, trang phục người giàu, trang phục của vua và hoàng hậu, trang phục của hoàng tử, trang phục của quan văn hoặc quan võ,... còn hiện nay thì có trang phục cán bộ công chức viên chức hay trang phục thường dân,...; (vi) Theo tính đại chúng trong xã hội hiện nay có âu phục, quốc phục, trang phục tộc người bao gồm các tộc người thiểu số và đa số như: Kinh, Tày, Nùng, Sán Chay, Dao, Hmông, Lô Lô,...; (vii) Phân loại trang phục theo nghề nghiệp trong xã hội hiện nay thì có trang phục bộ đội, trang phục công an, trang phục cho những người làm việc trong các ngành y học, tư pháp, hành nghề tôn giáo tín ngưỡng,... (viii) Theo thời gian có trang phục truyền thống trước đây và hiện nay, trang phục phổ thông, trang phục theo mốt mới,... (ix) Theo công dụng thường có trang phục mặc đồ lót, trang phục mặc thường ngày, trang phục mặc trong những ngày đặc biệt, đồng phục, trang phục bảo hộ lao động, trang phục thể thao,... Ngoài ra, còn có các trang phục theo giai đoạn lịch sử, theo mốt thời trang của một thời gian cụ thể trong năm,... Như vậy, trong quá trình nghiên về trang phục theo mốt mới hoặc trang phục truyền thống có thể áp dụng nhiều cách cách phân loại, chẳng hạn phân loại theo giới tính gồm trang phục nam và trang phục nữ hoặc phân loại theo mục đích sử dụng như trang phục sử dụng thường ngày, trang phục sử dụng trong nghi lễ bao gồm các nghi lễ cưới xin, ma chay, cúng tế,... Tuy nhiên, trong luận án về trang phục truyền
  • 37. 31 thống của người Lô Lô Hoa ở huyện Mèo Vạc tỉnh Hà Giang chỉ áp dụng cách phân loại theo giới tính, bao gồm có trang phục nam và trang phục nữ. 1.2.3. Cơ sở lý thuyết Để nghiên cứu trang phục của người Lô Lô Hoa ở huyện Mèo Vạc, tỉnh Hà Giang, luận án đã áp dụng một số lý thuyết như: Lý thuyết chức năng, Lý thuyết bản sắc văn hóa tộc người, Lý thuyết biến đổi văn hóa. 1.2.3.1. Lý thuyết chức năng Bronislaw Malinowski (1922) - nhà nhân học người Anh - cha đẻ của thuyết chức năng đã cho rằng các thiết chế xã hội và được mở rộng ra là các thiết chế văn hóa của loài người tồn tại được qua thời gian là bởi vì chúng có chức năng duy trì sự ổn định của cả hệ thống xã hội. Do đó, nhiệm vụ của các nhà nhân học chính là nghiên cứu làm rõ các chức năng ấy của các thiết chế xã hội và của văn hóa của loài người. Qua đây, có thể thấy rằng, không có gì tồn tại mà không có chức năng. Vì thế, trang phục nói chung, trang phục truyền thống nói riêng cũng tồn tại và biến đổi, vì nó không chỉ có chức năng ban đầu như chức năng sinh học mà còn sản sinh thêm các chức năng khác trong quá trình phát triển của xã hội loài người như chức năng phân biệt tộc người, chức năng thẩm mỹ, chức năng xã hội,... Luận án này vận dụng Lý thuyết chức năng không nằm ngoài mục đích nhằm xem xét các đặc trưng văn hóa của nhóm Lô Lô Hoa ở huyện Mèo Vạc thông qua trang phục truyền thống của họ. Song, cũng cần thấy rằng Thuyết chức năng có những hạn chế nhất định đáng quan tâm. Đó là việc thuyết này không nghiên cứu về nguồn gốc, không giải thích sự biến đổi văn hóa mà chỉ nghiên cứu nó ở dạng tĩnh, và xem nó thể hiện thế nào, có chức năng, tác dụng ra sao,... Vì vậy, để làm rõ được các vấn đề liên quan tới trang phục truyền thống của người Lô Lô, luận án còn kết hợp sử dụng một số lý thuyết khác để phân tích những đặc trưng văn hóa tộc người và sự biến đổi của nó.
  • 38. 32 1.2.3.2. Lý thuyết bản sắc văn hóa tộc người Lý thuyết bản sắc văn hóa tộc người do F. Boas đưa ra với mục đích để nghiên cứu về tính đặc thù của văn hóa tộc người. Theo nhận định của F. Boas, mỗi tộc người có bản sắc văn hóa riêng, có nghĩa là có tính riêng trong văn hóa giữa các tộc người. Cũng theo F. Boas, bản sắc văn hóa tộc người là những nét nổi bật chỉ có ở tộc người này mà không có ở tộc người khác, đó là những tinh hoa được sàng lọc, tích lũy trong cuộc sống của cộng đồng, được cộng đồng tộc người ấy thừa nhận và tạo nên sức mạnh cho cộng đồng vượt qua những khó khăn để tồn tại và phát triển. Do đó, các nhà nghiên cứu, đặc biệt các nhà nhân học cần tôn trọng và nhấn mạnh tới bản sắc văn hóa ấy. Như vậy, bản sắc văn hóa tộc người là tổng thể những yếu tố văn hóa vật chất, văn hoá xã hội và văn hoá tinh thần mang tính đặc thù của tộc người, giúp phân biệt giữa tộc người này với tộc người khác, giữa các nhóm khác. Bản sắc văn hóa tộc người được hình thành lâu dài trong lịch sử gắn liền với hoàn cảnh kinh tế, xã hội và môi trường địa lý tự nhiên trong đời sống của từng tộc người và chúng có sức sống lâu bền, thậm chí ngay cả khi hoàn cảnh sống của tộc người có những đổi thay. Bản sắc văn hóa tộc người còn thể hiện bản lĩnh của tộc người. Trong quá trình phát triển, không ít hiện tượng văn hóa lúc đầu chỉ là yếu tố vay mượn, nhưng dần dần qua thời gian, chúng được “dân tộc hóa”, được sử dụng và tái tạo theo cách riêng của tộc người vay mượn, ít nhiều mang bản sắc văn hóa của tộc người. Lý thuyết bản sắc văn hóa tộc người giúp chúng tôi nhìn nhận những sắc thái riêng trong văn hóa trang phục truyền thống của người Lô Lô Hoa ở huyện Mèo Vạc. Người Lô Lô Hoa nơi đây cũng có những đặc trưng riêng về văn hóa trang phục để phân biệt với nhóm Lô Lô Đen và với các tộc người láng giềng. Gần đây khi bị ảnh hưởng của đô thị hóa, phát triển du lịch và hòa nhập với các dân tộc láng giềng, trang phục truyền thống của người Lô Lô
  • 39. 33 Hoa có vay mượn nhiều yếu tố văn hóa mới. Nhưng khi tiếp thu, các yếu tố văn hóa mới vẫn được họ tái tạo theo cách riêng, ít nhiều mang bản sắc văn hóa Lô Lô,... Do vậy, áp dụng lý thuyết về bản sắc văn hóa tộc người để nghiên cứu văn hóa trang phục của nhóm Lô Lô Hoa ở Mèo Vạc là hợp lý. 1.2.3.3. Lý thuyết biển đổi văn hóa Biến đổi văn hóa được các nhà nhân học tiếp cận ở nhiều góc độ, coi là thuyết biến đổi văn hóa. Chẳng hạn, những người ủng hộ Thuyết tiến hóa ở cuối thế kỷ XIX như Edward B. Tylor (1881) và Lewis Henry Morgan (1877) nhìn nhận các nền văn hóa phi phương Tây ở trạng thái tương đối tính. Họ cho rằng, các xã hội có thể được sắp xếp trật tự trên một thước chia độ từ xã hội nguyên thủy đến xã hội văn minh, trong đó các dân tộc dưới đáy thước không giỏi giang như những người trên đỉnh thước. Theo họ, có một mô hình biến đổi văn hóa tổng quát: tất cả các xã hội vận động theo một hướng và kết quả là, qua thời gian, ngay cả các xã hội nguyên thủy cũng sẽ ngày càng xích lại gần hơn với các xã hội phương Tây trên đỉnh thước chia độ. Trong khi đó, những người theo Thuyết truyền bá văn hóa có quan điểm cho rằng, một quá trình trọng yếu trong biến đổi văn hóa là vay mượn văn hóa hay phương thức truyền bá các đặc điểm văn hóa từ xã hội này sang xã hội khác. Ngoài ra, còn có một cách tiếp cận biến đổi văn hóa của các nhà nhân học Bắc Mỹ là Thuyết sinh thái văn hóa, cho rằng môi trường sinh thái biến đổi thì sẽ tác động vào văn hóa, làm cho văn hóa biến đổi theo. Như vậy, biến đổi văn hóa nói chung là kết quả do sự tác động từ nhiều yếu tố, nhưng chủ yếu là theo cả hai xu hướng vận động: tự thân vận động và biến đổi từ bên trong của văn hóa và do tác động từ bên ngoài. Vì thế, có hiện tượng tiếp biến văn hóa, là quá trình biến đổi văn hóa do sự tiếp xúc của hai hệ thống văn hóa riêng rẽ mà kết quả làm cho chúng ngày càng giống nhau hơn. Văn hóa biến đổi do sự vận động nội tại của nó chính là quá trình thích
  • 40. 34 ứng văn hóa, văn hóa tự biến đổi để thích nghi với bối cảnh xã hội, môi trường sống. Trước khi biến đổi yếu tố văn hóa nào đó, chủ thể văn hóa chính là người được quyền lựa chọn, bởi tiền đề biến đổi là lựa chọn, khi biến đổi mang lại lợi ích thì sự biển đổi thường được lựa chọn. Văn hóa cũng biến đổi do quá trình giao lưu, tiếp xúc với các nền văn hóa khác. Sự giao lưu, tiếp xúc văn hóa tạo nên tương tác giữa các nền văn hóa, đó là sự du nhập nhưng đồng thời cũng ảnh hưởng ngược lại với nền văn hóa vừa được chọn để du nhập. Nghiên cứu về những biến đổi của trang phục, luận án đặt trang phục truyền thống hiện nay người Lô Lô Hoa trong những bối cảnh lịch sử, kinh tế, chính trị và xã hội cụ thể của tộc người này và địa phương nơi cư trú, trong tương tác văn hóa giữa truyền thống và hiện đại, giữa trong vùng và phạm vi rộng hơn nữa, trong biến đổi môi trường tự nhiên... Đồng thời, khi nghiên cứu về sự biến đổi trang phục truyền thống người Lô Lô, luận án còn hướng tới các biện pháp bảo tồn và phát huy yếu tố tích cực của trang phục. Với quan điểm, bảo tồn gắn với việc nâng cao đời sống của chủ thể văn hóa, gắn với phát triển kinh tế; bảo tồn trang phục truyền thống có thể đưa khoa học công nghệ vào tạo ra những bộ trang phục với thời gian nhanh hơn, đẹp hơn, tốt hơn. Nghĩa là, cần nhìn văn hóa trong sự biến đổi, bảo tồn cũng cần đặt trong sự biến đổi, miễn sao sự biến đổi ấy là lựa chọn từ phía chủ thể văn hóa đó. 1.3. Khái quát về người Lô Lô Hoa ở huyện Mèo Vạc 1.3.1. Khái quát về điều kiện tự nhiên, dân cư, dân tộc ở Mèo Vạc Huyện Mèo Vạc trước kia là xã Mèo Vạc huyện Đồng Văn cũ. Ngày 15/12/1962, tại Quyết định số 21/1962/QĐ-CP đã tách huyện Đồng Văn cũ thành 3 huyện, gồm: Yên Minh, Mèo Vạc, Đồng Văn. Như vậy, về hành chính nhà nước, huyện Mèo Vạc được thành lập vào ngày 15/12/1962 theo quyết định trên của Chính phủ. Còn thị trấn Mèo Vạc, được thành lập ngày 20/8/1999 theo Quyết định số 74/1999/QĐ-CP của Chính phủ đã phê chuẩn.
  • 41. 35 Về điều kiện tự nhiên, theo Cục Thống kê tỉnh Hà Giang (2018), phía Bắc của huyện Mèo Vạc giáp với Trung Quốc và huyện Đồng Văn (Hà Giang); phía Đông giáp với huyện Bảo Lâm (Cao Bằng); phía Tây và Nam giáp với huyện Yên Minh (Hà Giang). Toàn huyện Mèo Vạc có tổng diện tích đất tự nhiên là 57.418,21 ha, trong đó đất nông nghiệp là 25.989,96 ha, đất lâm nghiệp 19.675,25 ha, đất chuyên dùng 1.26,87 ha, đất ở là 514,94 ha [12, tr.21]. Song, huyện lại nằm ở độ cao trung bình so với mặt nước biển tương đối lớn, khoảng 1.150m, mà đỉnh cao nhất là 1.900m, thấp nhất là 275m, với độ dốc trung bình từ 25o - 35o , nhất là có nhiều ngọn núi có độ dốc lên đến 60o nên nếu nhìn xa thấy gần như thẳng đứng. Sự phức tạp của địa hình địa lý huyện Mèo Vạc đã làm cho giao thông đi lại khó khăn, hạn chế đến việc giao lưu kinh tế - văn hoá - xã hội giữa các địa phương trong huyện. Do nằm ở trong vành đai nhiệt đới gió mùa, nên khí hậu ở huyện Mèo Vạc chia làm hai mùa khá rõ rệt: mùa mưa từ tháng 4 đến tháng 9, thời gian còn lại là mùa khô. Đặc biệt, mùa đông thường kéo dài từ tháng 10 đến tháng 4 năm sau, có nhiều ngày rét đậm làm cho nhiệt độ có thể xuống đến 2o C, gây ra mưa tuyết. Do điều kiện tự nhiên không thuận lợi, hệ thống sông suối rất ít, nên vào mùa khô thường gây ra tình trạng thiếu nước sinh hoạt và nước sản xuất. Trên địa bàn huyện chỉ có hai nhánh sông nhỏ của Sông Gâm là sông Nho Quế và sông Nhiệm, trong khi hai nhánh sông này đều có độ dốc lớn, nằm sâu dưới khe núi và nhiều gềnh thác, nên hiệu ích phục vụ sản xuất nông nghiệp và sinh hoạt rất thấp, chỉ có khả năng khai thác thủy điện là chính. Vì thế, trên sông Nho Quế hiện đã xây dựng 3 nhà máy thủy điện nhỏ. Có thể nói, với huyện Mèo Vạc, điều kiện địa lý tự nhiên phức tạp, khí hậu và thời tiết khắc nghiệt, đất canh tác ít, chủ yếu ở các vùng sườn núi cao, đất dốc, bạc màu. Tình trạng thiếu nước vẫn thường xuyên xảy ra tại các xã và thôn bản, đặc biệt là các xã thuộc khu vực núi đá. Cây trồng chính trên địa
  • 42. 36 bàn là cây ngô, vì vậy đời sống và thu nhập của người dân còn thấp, tỷ lệ hộ nghèo và nguy cơ tái nghèo còn cao, đến hết năm 2015 tỷ lệ hộ nghèo theo tiếp cận đa chiều còn 66,00% [85, tr.1]. Về đơn vị hành chính và dân cư, dân tộc, theo báo cáo của UBND huyện Mèo Vạc, toàn huyện hiện có 17 xã, 1 thị trấn, với 199 thôn/bản, tổ khu phố; trong đó, 17 xã đặc biệt khó khăn, 1 thị trấn thuộc khu vực II, 7 thôn/bản đặc biệt khó khăn. Toàn huyện có 17 dân tộc sinh sống, với 15.288 hộ, 79.877 khẩu. Trong đó, 16 dân tộc thiểu số với số dân là 74.273 người, chiếm 96,39% dân số toàn huyện. Trong tổng số dân của huyện, dân tộc Hmông chiếm 77,3% (59.541 người); Giáy và nhóm Xuồng là 5.187 người chiếm (6,73%); dân tộc Dao 4.326 người (chiếm 5,61%); dân tộc Tày 2.371 người (chiếm 3,06%); dân tộc Kinh 2.750 người (chiếm 3,57%); dân tộc Nùng 1.627 người (chiếm 2,11%); tiếp đến là các dân tộc Lô Lô, Cờ Lao, Hoa, Cao Lan, Pu Péo, Sán Chay, Sán Dìu, Thái,... [85, tr.1]. Như vậy, dân tộc Lô Lô ở huyện Mèo Vạc có số lượng ít so với các dân tộc khác, trong khi Lô Lô Hoa tuy gọi là đông so với nơi khác nhưng vẫn ít so với Lô Lô Đen ở đây. Với sự có mặt nhiều dân tộc, huyện Mèo Vạc nay là nơi lưu giữ một nền văn hoá phong phú, với nhiều phong tục tập quán đa dạng, nhất là các làn điệu dân ca, múa hát của các tộc người Lô Lô, Hmông, Giáy, Dao,... cùng với một số cảnh quan thiên nhiên độc đáo như những dãy núi đá tai mèo cheo leo, đỉnh Mã Pì Lèng hùng vĩ,... chưa kể đến Chợ tình Khâu Vai. Do đó, huyện Mèo Vạc cho đến nay luôn hấp dẫn du khách đến tham quan và các nhà khoa học đến nghiên cứu hoặc trải nghiệm bản sắc văn hoá tộc người. 1.3.2. Người Lô Lô Hoa ở huyện Mèo Vạc 1.3.2.1. Dân số, địa bàn cư trú Theo kết quả Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, người Lô Lô ở Việt Nam có 4.541 người, phân bố cư trú tại 30/63 tỉnh, thành phố. Song,
  • 43. 37 đồng bào từ lâu đời cư trú tập trung tại các tỉnh: Cao Bằng (2.373 người), Hà Giang (1.426 người), Lai Châu (617 người) [1]. Đến năm 2016, dân tộc Lô Lô có khoảng 5.000 người, phân bố cư trú vẫn chủ yếu ở Mèo Vạc, Đồng Văn tỉnh Hà Giang và hai huyện Bảo Lạc, Bảo Lâm thuộc tỉnh Cao Bằng. Đây cũng là một trong những dân tộc có dân số dưới 10 nghìn người ở nước ta. Như đã đề cập, dân tộc Lô Lô ở Hà Giang hiện có hai nhóm là: Lô Lô Đen và Lô Lô Hoa. Nhóm Lô Lô Hoa cư trú chủ yếu ở huyện Mèo Vạc, đông nhất là xóm Sảng Pả A thị trấn huyện này, một số ít ở xóm Cờ Tẳng xã Xín Cái huyện Mèo Vạc và thôn Đoàn Kết xã Sủng Là (huyện Đồng Văn). Theo Lò Sì Páo (sinh năm 1962) - trưởng xóm Sảng Pả A, đến tháng 11/2018, dân số xóm Sảng Pả A là 276 người, gồm 66 hộ đều là Lô Lô Hoa; trong khi, theo báo cáo của UBND thị trấn Mèo Vạc, thị trấn này đến năm 2017 có 60 hộ 267 người Lô Lô Hoa. Cũng theo ông Lò Sì Páo, ở xã Xín Cái huyện Mèo Vạc chủ yếu là người Lô Lô Đen, chỉ có 10 hộ với khoảng 40 người là Lô Lô Hoa. Riêng thôn Đoàn Kết xã Sủng Là huyện Đồng Văn, theo báo cáo của ông Phó chủ tịch phụ trách văn xã, đến tháng 11/2018 có 20 hộ với 74 nhân khẩu đều là người Lô Lô Hoa. Như vậy, nhóm Lô Lô Hoa ở nước ta hiện nay có dân số rất ít, cư trú chủ yếu tại thị trấn Mèo Vạc, chỉ một số ít sống ở xã Sủng Là huyện Đồng Văn và xen kẽ với nhóm Lô Lô Đen ở xã Xín Cái. Rõ ràng, ở Mèo Vạc, người Lô Lô Hoa không chỉ chiếm số đông về dân số, mà còn cư trú tập trung ở thị trấn - nơi đang chịu ảnh hưởng mạnh của đô thị hóa, phát triển du lịch và giao lưu văn hóa [Xem Phụ lục 5 (PL5), ảnh 1, 2]. Về nguồn gốc lịch sử, theo một số tài liệu, tộc người Lô Lô ở nước ta nói chung và ở huyện Mèo Vạc nói riêng có nguồn gốc là một trong các tộc người của Vương quốc Nam Chiếu trước đây, sinh sống chủ yếu ở vùng Tứ Xuyên Trung Quốc, vì vậy ở bên Trung Quốc họ được gọi là người Di (Yìzú) nhưng bao gồm nhiều tộc người với nhiều nhóm khác nhau trong đó có tộc
  • 44. 38 người Lô Lô. Căn cứ theo tài liệu sử sách cho thấy, sau khi Vương quốc Nam Chiếu suy tàn do người Hán chiếm đóng, một nhóm người Nam Chiếu đã chuyển cư sang Việt Nam vào khoảng thế kỷ VIII, đó chính là tổ tiên người Lô Lô ở Việt Nam ngày nay. Trong khi, sách “Đại Việt Sử ký toàn thư” có ghi chép rằng, từ năm 858 tới năm 866 Vương quốc Nam Chiếu đã từng xâm chiếm Việt Nam, khi đó là một quận của nhà Đường, với tên gọi quận Giao Châu, dưới sự cai quản của tiết độ sứ người Hán là Cao Biền [18, tr.109]. 1.3.2.2. Hoạt động kinh tế Giống như nhóm Lô Lô Đen và các tộc người khác ở huyện Mèo Vạc, vài năm gần đây tuy chịu ảnh hưởng ngày càng tăng của sự phát triển du lịch và giao lưu văn hóa, nhưng đến nay hoạt động kinh tế của người Lô Lô Hoa ở trên địa bàn huyện này vẫn làm nông nghiệp là chính, trong đó chủ yếu trồng trọt các loại nông sản và hoa màu nhằm tự túc phần lớn về lương thực, chăn nuôi vẫn còn duy trì nhưng thường nuôi theo phương thức truyền thống, chưa phát triển thành sản phẩm hàng hóa để bán. Như vậy, hoạt động nông nghiệp hiện nay đã thay đổi, do trước kia họ có trồng bông, trồng chàm và khai thác các loại thuốc nhuộm trong rừng để nhuộm sợi bông thành các chỉ màu dùng cho việc thêu thùa trang trí hoa văn trên trang phục, nhưng nay đã mai một. Đặc biệt là từ vài năm nay, ngày càng đông số hộ gia đình người Lô Lô, đặc biệt là những hộ người Lô Lô Hoa sinh sống ở xóm Sảng Pả A thuộc thị trấn Mèo Vạc thường xuyên tham gia vào các dịch vụ may thêu các đồ thổ cẩm và trang phục truyền thống phục vụ cho khách du lịch kết hợp buôn bán nhỏ trong những ngày chợ phiên diễn ra tại thị trấn. Chẳng hạn, theo ông Lò Sì Páo, sinh năm 1962, người Lô Lô Hoa, nhiều năm làm trưởng xóm Sảng Pả A “Chỉ riêng xóm Sảng Pả A hiện nay đã có tới 20 nghệ nhân giỏi thêu thùa bộ trang phục truyền thống hiện nay của người Lô Lô cùng với các loại thổ cẩm khác của tộc người này. Gần đây, ở vùng người Lô Lô ở huyện Mèo Vạc