Nhận viết luận văn Đại học , thạc sĩ - Zalo: 0917.193.864
Tham khảo bảng giá dịch vụ viết bài tại: vietbaocaothuctap.net
Download luận văn tóm tắt ngành kinh tế phát triển với đề tài: Ứng dụng mô hình cân bằng tổng thể để phân tích tác động của sự biến động giá xăng dầu đến các ngành kinh tế Việt Nam, cho các bạn tham khảo
Tiểu luận tăng trưởng kinh tế của trung quốc_Nhận làm luận văn Miss Mai 0988....Nguyễn Thị Thanh Tươi
Dịch vụ làm luận văn tốt nghiệp, làm báo cáo thực tập tốt nghiệp, chuyên đề tốt nghiệp, tiểu luận, khóa luận, đề án môn học trung cấp, cao đẳng, tại chức, đại học và cao học (ngành kế toán, ngân hàng, quản trị kinh doanh…) Mọi thông tin về đề tài các bạn vui lòng liên hệ theo địa chỉ SĐT: 0988.377.480 ( Miss. Mai ) Email: dvluanvankt@gmail.com ( Bạn hãy gửi thông tin bài làm, yêu cầu giáo viên qua mail) Chúng tôi nhận làm các chuyên ngành thuộc khối kinh tế, giá cho mỗi bài khoảng từ 100.000 vnđ đến 500.000 vnđ
Download luận văn thạc sĩ ngành kinh tế phát triển với đề tài: Ứng dụng mô hình HARRY T. OSHIMA để đẩy mạnh tăng trưởng nông nghiệp vùng đồng bằng sông Cửu Long
Nhận viết luận văn Đại học , thạc sĩ - Zalo: 0917.193.864
Tham khảo bảng giá dịch vụ viết bài tại: vietbaocaothuctap.net
Download luận văn tóm tắt ngành kinh tế phát triển với đề tài: Ứng dụng mô hình cân bằng tổng thể để phân tích tác động của sự biến động giá xăng dầu đến các ngành kinh tế Việt Nam, cho các bạn tham khảo
Tiểu luận tăng trưởng kinh tế của trung quốc_Nhận làm luận văn Miss Mai 0988....Nguyễn Thị Thanh Tươi
Dịch vụ làm luận văn tốt nghiệp, làm báo cáo thực tập tốt nghiệp, chuyên đề tốt nghiệp, tiểu luận, khóa luận, đề án môn học trung cấp, cao đẳng, tại chức, đại học và cao học (ngành kế toán, ngân hàng, quản trị kinh doanh…) Mọi thông tin về đề tài các bạn vui lòng liên hệ theo địa chỉ SĐT: 0988.377.480 ( Miss. Mai ) Email: dvluanvankt@gmail.com ( Bạn hãy gửi thông tin bài làm, yêu cầu giáo viên qua mail) Chúng tôi nhận làm các chuyên ngành thuộc khối kinh tế, giá cho mỗi bài khoảng từ 100.000 vnđ đến 500.000 vnđ
Download luận văn thạc sĩ ngành kinh tế phát triển với đề tài: Ứng dụng mô hình HARRY T. OSHIMA để đẩy mạnh tăng trưởng nông nghiệp vùng đồng bằng sông Cửu Long
Cơ sở lý luận và thực tiễn về phát triển nông nghiệp. Quan niệm theo nghĩa hẹp: Nông nghiệp là ngành sản xuất của cải vật chất mà con người phải dựa vào quy luật sinh trưởng và phát triển cây trồng, vật nuôi để tạo ra sản phẩm như lương thực, thực phẩm. Nông nghiệp theo nghĩa hẹp bao gồm các ngành: trồng trọt, chăn nuôi và ngành dịch vụ nông nghiệp.
Cơ sở khoa học quản lý nhà nước về phát triển nông nghiệp. Nông nghiệp là ngành sản xuất vật chất cơ bản của xã hội, sử dụng đất đai để trồng trọt và chăn nuôi, khai thác cây trồng và vật nuôi làm tư liệu và nguyên liệu lao động chủ yếu để tạo ra lương thực thực phẩm và một số nguyên liệu cho công nghiệp. Nông nghiệp là một ngành sản xuất lớn, bao gồm nhiều chuyên ngành: trồng trọt, chăn nuôi, sơ chế nông sản; theo nghĩa rộng, còn bao gồm cả lâm nghiệp, thủy sản.
Cơ sơ lí luận và thực tiễn về phát triển nông nghiêp̣. Sự ổn định bước đầu của dân số thế giới từ khi loài người biết trồng trọt và tạo được cơ sở lương thực, thực phẩm. Với sự phát triển của KHKT, nông nghiệp ngày càng được mở rộng, các giống cây trồng, vật nuôi ngày càng đa dạng và phong phú. C.Mác đã khẳng định: “Con người trước hết phải có ăn rồi sau đó mới nói đến các hoạt động khác, … Nông nghiệp là ngành cung cấp tư liệu sinh hoạt cho con người, ...
Tiểu luận về cách mạng công nghiệp, 9 điểm. Cách mạng công nghiệp là cuộ c cách mạ ng trong lĩnh vự c sả n xuấ t; là sự thay đổi cơ bản các điều kiện kinh tế xã hội, văn hóa và kỹ thuật, xuất phát từ nước Anh sau đó lan tỏa ra toàn thế giới. Trong thời kỳ này, nền kinh tế giản đơn, quy mô nhỏ, dựa trên lao động chân tay được thay thế bằng công nghiệp và chế tạo máy móc quy mô lớn. Tên gọi "Cách mạng công nghiệp" thường dùng
Cơ sở lí luận và thực tiễn về địa lí nông nghiệp. Nông nghiệp theo nghĩa hẹp là sự hợp thành của trồng trọt và chăn nuôi, còn theo nghĩa rộng bao gồm cả lâm nghiệp và ngư nghiệp. Tựu chung lại, toàn bộ nền kinh tế có thể chia thành 3 khu vực, trong đó khu vực I bao gồm nông - lâm - ngư nghiệp.
Cơ sở khoa học quản lý nhà nước về kinh tế nông nghiệp. * Nông nghiệp là ngành kinh tế chịu sự tác động và chi phối mạnh của quy luật tự nhiên như: đất đai, khí hậu, thời tiết, sinh vật… Sản xuất nông nghiệp có tính chất liên ngành và diễn ra trong phạm vi không gian lớn, thời gian dài, từ cung cấp các điều kiện sản xuất đến chế biến và tiêu thụ sản phẩm.
This document is a group report on Ryanair that includes an overview of the company, its vision, mission, long-term strategy, and operating activities. The key points are:
- Ryanair is the largest European low-cost carrier, operating over 1,600 daily flights between 186 destinations across 30 countries.
- Its vision is to be Europe's largest airline in the next six years. Its mission is to provide the lowest fares and friendly, efficient service that satisfies customers.
- Ryanair's long-term strategy focuses on maintaining low fares, improving customer service, frequent point-to-point flights on short routes, and having the lowest operating costs through strategies like purchasing used aircraft and negotiating
This document provides an overview of Tiger Airways, a low-cost airline based in Singapore. It discusses Tiger Airways' establishment in 2003 and growth since then. It also outlines Tiger Airways' key strategies, including maintaining low costs through minimizing expenses, using a single aircraft type, and charging for extras. Additionally, it details Tiger Airways' strategic partnerships with other airlines that have expanded its network and commercial cooperation to key Asian markets without overstretching its own resources. The document provides examples of Tiger Airways' partnerships and alliances.
Vietnam Airlines was established in 1956 and has since grown significantly, both domestically and internationally. It now operates flights to over 28 international and 21 domestic destinations. In recent years, Vietnam Airlines has joined the SkyTeam alliance and regularly launches new routes and promotional programs to expand its network and serve customers. Some key developments include opening direct flights to the UK and Jakarta in 2011-2012, as well as ongoing route expansions and promotions within Southeast Asia.
Aeroflot is the largest airline in Russia, operating domestic and international flights mainly out of Moscow. It traces its history back to 1923 as the Soviet national airline. Following the dissolution of the USSR, Aeroflot was transformed from a state-run carrier into a semi-privatized company. In recent years, Aeroflot has modernized its fleet, expanded its route network, and joined the SkyTeam airline alliance in 2006. The document provides details on Aeroflot's operations from 2009 to 2013, including passenger numbers, new routes and aircraft, and partnerships.
The document summarizes the history and development of the SkyTeam airline alliance from 1999 to 2012. It traces the addition of new member airlines over time, including Air France, Delta Air Lines, Aeromexico, Korean Air, CSA Czech Airlines, Alitalia, Continental Airlines, KLM, Northwest Airlines, China Southern Airlines, Vietnam Airlines, TAROM, China Eastern Airlines, Saudia, Middle East Airlines, and others. It discusses how the alliance grew to serve over 400 million passengers annually on over 16,000 daily flights to over 800 destinations globally.
The Concorde was a supersonic jet developed jointly by Britain and France that entered commercial service in 1976. It could fly transatlantic routes in under half the time as subsonic jets. However, with only 20 built and high costs, it was an economic loss for its manufacturers. An 2000 crash in France increased safety costs and reduced passenger numbers. After the 9/11 attacks further reduced demand, both operating airlines retired the Concorde in 2003 due to high operating costs and a lack of maintenance support from Airbus. The Concorde's retirement marked the end of supersonic passenger flight.
The document discusses the Oneworld airline alliance, including:
1. It was launched in 1999 with founding members American Airlines, British Airways, Cathay Pacific, and Qantas and has since grown to include multiple other airlines.
2. It provides details on current alliance members such as airberlin, Cathay Pacific, Japan Airlines, and Malaysia Airlines.
3. Membership criteria include meeting qualifications for frequent flyer program tiers like Ruby, Sapphire, and Emerald.
Star Alliance is the world's largest global airline alliance, founded in 1997 by 5 airlines. It has since expanded significantly, growing to 26 member airlines serving over 1,000 airports worldwide. Key benefits of membership include an extended global network through codesharing, cost reductions from shared facilities and purchases, and benefits for travelers like coordinated schedules, frequent flyer program awards across members, and priority services for elite members. The alliance aims to provide convenient global air travel for passengers while offering economic and operational advantages for its member airlines.
Southwest Airlines operates flights to 41 states in the US as well as some international destinations. Its mission is to provide high quality customer service with warmth and friendliness. It aims to be the hometown airline in every community it serves. Tactically, it cuts costs by quick turnarounds, standardized fleets, and smaller airports. It offers no-frills service with only peanuts for in-flight meals. Operationally, it focuses on quick turnarounds, standardized fleets, smaller airports, and no-frills service to reduce costs.
EasyJet is a low-cost European airline that has grown significantly in recent years. It now operates over 700 routes between 130 airports across 30 countries in Europe. EasyJet aims to offer affordable air travel and focuses on maintaining low operating costs through strategies like operating a young, fuel-efficient fleet and minimizing extras on flights. The airline looks to continue expanding its route network and driving ancillary revenues while keeping its cost advantage over competitors.
The document is a draft resolution from the UN General Assembly regarding sustainable development. It endorses the outcome document from the 2012 UN Conference on Sustainable Development in Rio de Janeiro. It reaffirms commitments to sustainable development principles and agreements from previous UN summits. It recognizes progress made but also gaps in implementing agreements. It stresses the need to take urgent action to achieve sustainable development goals and address new challenges like climate change and unemployment.
The document provides a history and overview of the Washington Consensus. It describes:
1) How the term was coined by the author in 1989 to describe 10 policy reforms that had broad consensus in Washington D.C., including fiscal discipline, tax reform, financial liberalization, and trade liberalization.
2) How the policies focused on stabilization and market-oriented reforms but were not intended to advocate "neoliberalism" or minimal government.
3) How the term later took on a life of its own and became associated with broader ideological debates, beyond its original limited meaning of reform policies agreed upon in Washington.
The document discusses agricultural development in Sub-Saharan Africa. It notes that African agriculture is characterized by extensive growth rather than intensive growth, as seen by slow increases in land productivity and cereal yields. This has resulted in Africa falling into a "Ricardian trap" of low output and poverty. Agricultural extension services are presented as a way to promote development with equity by transferring new technologies and improving land productivity, as occurred during the Green Revolution in Asia. The document argues extension services could help Africa escape from its current constraints on food production and economic growth.
This paper empirically tests the existence of Malthusian population dynamics in the pre-Industrial Revolution era, as suggested by economic theory. The theory proposes that during agricultural times, increases in resources like land productivity would lead to population growth rather than increases in income per capita. The study finds evidence supporting this theory, showing that between 1-1500 CE, regions with higher land productivity and earlier adoption of agriculture had higher population densities, in line with Malthusian population dynamics.
The document outlines Vietnam's Comprehensive Poverty Reduction and Growth Strategy. It establishes a steering committee, led by the Deputy Prime Minister, to oversee implementation of the strategy and related programs. The strategy aims to reduce poverty through broad-based economic growth that creates opportunities for poor communities. Key targets include cutting the poverty rate to below 15% by 2005 and 10% by 2010 through annual GDP growth of 7-8% and progress on social indicators like education and health access. The strategy recognizes that sustained growth is needed to fund anti-poverty efforts, while poverty reduction is essential for equitable and stable growth.
This document summarizes a study comparing the long-term impacts of British and French colonial rule in Cameroon. Cameroon was originally a German colony but was divided after WWI between British and French control. The arbitrary colonial boundary cut across ethnic and linguistic groups. The researchers use this discontinuity to compare outcomes today along the former border. Their results show that rural areas under British rule have higher wealth and better access to water, but there are no differences for urban areas or centrally-provided goods like education. The authors hypothesize this is due to differences in colonial-era institutions and policies between the British and French, as well as post-independence country policies.
This document discusses how different ecological conditions and historical trajectories in Southeast Asia led to differences in agrarian structures and subsequent economic development performance in Indonesia, the Philippines, and Thailand over the past few decades. In the late 19th century, unused lands in each country were exploited for surplus production differently under varying colonial regimes, resulting in different rural social and economic systems. Specifically, Indonesia developed plantations and bifurcated land ownership while the Philippines experienced widespread landlessness. Thailand maintained small, homogeneous landowning peasants. These divergent agrarian structures influenced each country's recent agricultural and economic growth.
The document defines and explains the Gini coefficient, a measure of statistical dispersion used as a gauge of economic inequality. It is a ratio with a value between 0 and 1, with 0 representing perfect equality and 1 representing perfect inequality. The Gini coefficient is calculated based on the Lorenz curve, which plots cumulative incomes against the percentage of the population. The document provides various methods for calculating the Gini coefficient and discusses its advantages and limitations as a measure of inequality. It also includes a table ranking countries by their Gini coefficients.
This document provides an overview of applied econometrics in economic research. It discusses descriptive and empirical analysis, the basics of econometrics including concepts like association, causation, hypotheses testing, and typical estimation models. It also introduces some common problems that can arise like endogeneity, multicollinearity, and autocorrelation. Finally, it briefly covers typical software packages used and how to present regression results.
Hành vi tình dục không an toàn và các yếu tố liên quan trong nhóm nam quan hệ...Man_Ebook
Hành vi tình dục không an toàn và các yếu tố liên quan trong nhóm nam quan hệ tình dục đồng giới tại Hà Nội năm 2009-2010
Liên hệ tài tài liệu (Free): https://www.facebook.com/man.trl/
TÀI LIỆU DẠY THÊM HÓA HỌC 12 - SÁCH MỚI (BẢN HS+GV) (FORM BÀI TẬP 2025 CHUNG ...
Chap3 m2-tv
1. 96
4.4 Phát triển nhờ vào tài nguyên chưa được khai thác
Các hoạt động kinh tế, đặc biệt là xuất khẩu, ở các nước đang phát triển phụ
thuộc nhiều vào tài nguyên thiên nhiên (Bảng 2.3). Cho dù tài nguyên thiên nhiên này
càng khan hiếm nhưng một vài nước đang phát triển vẫn còn một trữ lượng lớn
khoáng sản, rừng và các tài nguyên thiên nhiên khác chưa được khai thác để sản xuất
các sản phẩm thô. Các nước như Úc, Canada, và Mỹ là những nước đã đạt được sự
tăng trưởng kinh tế trong giai đoạn đầu của quá trình phát triển chủ yếu nhờ vào việc
khai thác tài nguyên thiên nhiên. Liệu các nước đang phát triển có trữ lượng tài
nguyên thiên nhiên lớn ngày nay có thể đạt được sự tăng trưởng kinh tế nhờ vào
nguồn tài nguyên chưa được khai thác hay không? Phần này sẽ tiến hành phân tích
khả năng này dựa trên các lý thuyết về quá trình phát triển kinh tế của các nước giàu
tài nguyên thiên nhiên.
4.4.1 Chủ nghĩa thực dân và lý thuyết khai hoang
"Lý thuyết khai hoang" của nhà kinh tế học người Myanma, Hla Myint (1971:
ch.5) tập trung vào quá trình phát triển ở "những vùng đất hoang" nơi dân cư thưa
thớt, đất đai hoang hoá còn nhiều, và tài nguyên thiên nhiên còn phong phú. Những
vùng đất này có thể tìm thấy ở Đông Nam Á và châu Phi khi người phương tây xâm
chiếm. Khi nền kinh tế của các nước này được gắn kết với thị trường thế giới sau khi
bị xâm lược thì các nguồn tài nguyên thiên nhiên chưa được khai thác (trước đây
không có giá trị gì đối với cư dân bản địa) bắt đầu phát huy tác dụng vì chúng được sử
dụng để sản xuất các sản phẩm thô cho thị trường thế giới. Những tài nguyên thiên
nhiên này khi được khai thác bởi các doanh nghiệp phương tây sẽ đem lại một nguồn
thu nhập mới. Một ví dụ điển hình là Malaysia. Malaysia đã trở thành một nước xuất
khẩu hàng đầu các sản phẩm thô khi người Anh dùng vốn của mình và lao động đến từ
Trung Quốc và Ấn Độ tiến hành khai thác thiếc và cải tạo các khu rừng rậm thành các
đồn điền cao su.
Tuy nhiên quá trình phát triển "nhờ vào khai hoang" như vậy không tạo ra mức
thu nhập và mức sống cao hơn cho người bản địa. Theo Hla Myint, chính quyền thực
dân và tư bản ngoại quốc liên kết với nhau để hạn chế trình độ học vấn và tay nghề
của người dân bản địa nhằm duy trì nguồn lao động rẻ. Một khía cạnh nữa là những
thương nhân ngoại quốc cũng ra sức bóc lột người nông dân nhờ vào vị trí độc quyền
(Hla Myint, 1965: ch.3 và 5). Tương tự như vậy, các nhà tư bản ngoại quốc thông qua
các hoạt động khai mỏ và xây dựng đồn điền đã gây ra những tác động tiêu cực như
chia rẽ dân tộc và lãng phí một lượng lớn thu nhập có được từ khai thác tài nguyên để
nhập khẩu các hàng hoá xa xỉ từ nước ngoài. Lập luận này từng được ủng hộ rộng rãi
2. và được sử dụng để giải thích cho sự nghèo đói và kém phát triển ở những nước thuộc
địa trước kia (Singer, 1950; Boeke, 1953; Lewis, 1989).
Lý thuyết này cùng với "lý thuyết về sự phụ thuộc" – lý thuyết theo quan điểm
tân Mác xít cho rằng nghèo đói được tạo ra ở Thế giới thứ ba là để duy trì tỷ lệ lợi tức
tư bản ở mức cao cho các nước phát triển (Baran, 1957; Furtado, 1963; Frank, 1967) -
là cơ sở lý luận để ủng hộ các chính sách công nghiệp hoá thay thế nhập khẩu và quốc
hữu hoá các nhà máy, mỏ tài nguyên của tư bản nước ngoài nắm giữ (Phần 8.2.4).
Tuy nhiên, nhà kinh tế học người Jamaica W.A.Lewis (1970: ch.1) đã phản đối
mạnh mẽ các lý thuyết này. Ông cho rằng không phải các đồn điền rộng lớn mà chính
những người nông dân nhỏ lẻ đã đóng góp phần lớn làm tăng xuất khẩu các sản phẩm
nhiệt đới từ cuối thế kỷ 19 đến đầu thế kỷ 20. Thu nhập của người nông dân, nếu
không muốn nói là tiền lương, đã tăng lên khi sức lao động của các thành viên trong
gia đình và tài nguyên đất đai được sử dụng nhiều hơn. Hơn thế nữa, ông cho rằng thu
nhập tạo ra từ hoạt động khai mỏ và từ các đồn điền cũng có tác dụng thúc đẩy công
nghiệp hoá tại nước bản địa. Cho dù ông thừa nhận rằng có một số chính sách thực
dân đã bóp nghẹt sự phát triển của nền kinh tế nước bản địa nhưng chính quyền thực
dân không cố tình hạn chế cung cấp các hàng hoá công cộng như giáo dục và giao
thông để bóp nghẹt sự phát triển của nước bản địa. Chính quyền thực dân không thể
tiến hành các hoạt động đầu tư công trên quy mô lớn được đơn giản là vì lúc bấy giờ
khả năng tài chính của họ còn rất yếu. Vì vậy, ông cho rằng nếu như sự bùng nổ trong
xuất khẩu các sản phẩm nhiệt đới không bị gián đoạn bởi cuộc Đại khủng hoảng thế
giới trong những năm 1930 thì nhiều nước thuộc địa đã có thể chuyển đổi thành công
từ các nước có nền kinh tế dựa vào tài nguyên thiên nhiên là chính sang các nước công
nghiệp.
Hla Myint và Lewis có những cách giải thích hoàn toàn khác nhau về mục đích
và hậu quả của các chính sách thực dân. Tuy nhiên, cả hai nhà kinh tế lớn này (cả hai
đều sinh ra ở Thế giới thứ ba) đều thừa nhận rằng sự tăng trưởng kinh tế dựa vào việc
khai thác các nguồn tài nguyên thiên nhiên còn để hoang sơ có thể đem lại sự tăng
trưởng kinh tế bền vững và phúc lợi cho người dân bản địa hay không phụ thuộc rất
nhiều vào việc huy động được các nguồn thu từ khai thác tài nguyên thiên nhiên để
đầu tư vào nguồn vốn nhân lực và cải thiện cơ sở hạ tầng, thể chế nhằm làm cho cơ
chế thị trường vận hành một cách có hiệu quả.
97
4.4.2 Lý thuyết sản phẩm chủ lực
Lý thuyết sản phẩm chủ lực do nhà lịch sử kinh tế người Cananda đưa ra (Innis,
1933; Watkins, 1963) có cơ sở giống như lý thuyết khai hoang khi giải thích về quá
3. trình phát triển của những vùng đất hoang hoá do tác động của thương mại quốc tế.
Tuy nhiên, lý thuyết này (dựa trên lịch sử của các nước phát triển) tập trung vào mô
hình dịch chuyển trong phát triển kinh tế ở những vùng đất hoang hoá bắt đầu từ giai
đoạn khai thác tài nguyên thiên nhiên để xuất khẩu cho tới giai đoạn tăng trưởng
thương mại và công nghiệp. "Sản phẩm chủ lực" ở đây có nghĩa là một loại hàng thô
đóng vai trò quan trọng trong xuất khẩu ở những vùng đất hoang hóa. Khi dân số tăng
lên do việc làm và thu nhập tăng nhờ xuất khẩu hàng chủ lực, tiêu dùng trong nước và
các hoạt động chế biến, giao thông vận tải liên quan tới việc sản xuất và xuất khẩu
hàng chủ lực sẽ tăng lên. Điều này sẽ kích thích thương mại và công nghiệp phát triển.
Tuy nhiên, cần phải có nhiều thời gian trước khi đạt tới một ngưỡng tại đó tính kinh tế
quy mô phát huy tác dụng trong ngành thương mại và công nghiệp. Nếu như các
nguồn tài nguyên thiên nhiên bị cạn kiệt trước khi đạt tới ngưỡng này thì không thể
đạt được sự tăng trưởng kinh tế bền vững.
Chính vì vậy, để có thể chuyển đổi thành công từ phát triển dựa trên khai thác
tài nguyên thiên nhiên là chính sang phát triển dựa vào thương mại và công nghiệp
cần phải có sự chuyển đổi từ sản phẩm chủ lực này sang sản phẩm chủ lực khác cho
tới khi nền kinh tế đạt tới ngưỡng có thể phát triển thương mại và công nghiệp. Ở
Canada, sự chuyển đổi này bắt đầu từ cá tuyết và lông thú khai thác ở khu vực duyên
hải phía đông rồi chuyển sang gỗ khai thác ở các khu rừng nằm sâu trong lục địa và
tiếp tục sang lúa mỳ trồng ở Đại bình nguyên. Thông qua quá trình này, thị trường
trong nước được mở rộng với sự phát triển của mạng lưới thương mại, giao thông vận
tải, các nhà máy chế biến gỗ, lúa mỳ cũng như các nhà máy sản xuất hàng tiêu dùng
nội địa.
Sự chuyển đổi này được thực hiện bởi những người nông dân, thương nhân,
chủ mỏ, những người có động lực thúc đẩy là lợi nhuận. Tuy nhiên, để chuyển một
nền kinh tế dựa vào tài nguyên thiên nhiên là chủ yếu sang giai đoạn phát triển bền
vững cần phải có sự hỗ trợ của hàng hoá công cộng. Sự chuyển đổi thành công từ các
sản phẩm thuỷ sản sang gỗ và lúa mỳ nói trên sẽ không thể thành hiện thực nếu không
có sự đầu tư vào cơ sở hạ tầng giao thông vận tải ví dụ như hệ thống giao thông đường
thuỷ và hệ thống đường sắt. Hệ thống hạ tầng thể chế ví dụ như đăng ký và cấp đất
cũng cần phải được phát triển để mở rộng phạm vi canh tác ra phía tây. Khi khả năng
mở rộng đất đai không còn nhiều thì cần phải phát triển các hệ thống nghiên cứu nông
nghiệp và khuyến nông để duy trì xuất khẩu lúa mỳ (North, 1955). Có rất nhiều loại
cơ sở hạ tầng vật chất, con người, và thể chế cần phải được xây dựng để có thể phát
triển thương mại và công nghiệp.
98
4. Cơ chế phát triển theo lý thuyết sản phẩm chủ lực đã chuyển đổi thành công
các vùng đất hoang hoá ở Bắc Mỹ và Úc thành những nền kinh tế tăng trưởng bền
vững giúp gia tăng phúc lợi kinh tế cho mọi người (ngoại trừ những thiệt hại mà người
thổ dân phải chịu). Chưa có nước nào ở châu Á và ở châu Phi làm được điều tương tự.
Sự thất bại ở những nước này có thể được lý giải bởi chính sách bóc lột của chủ nghĩa
thực dân, sự cản trở của cuộc Đại khủng hoảng, hoặc các yếu tố khác. Tuy nhiên, rõ
ràng qua lý thuyết khai hoang và lý thuyết sản phẩm chủ lực nếu chỉ đơn thuần khai
thác tài nguyên thiên nhiên sẽ không thể có được sự tăng trưởng bền vững cũng như
không thể nâng cao mức sống của cư dân bản địa. Vấn đề đối với các nước đang phát
triển vẫn còn trữ lượng lớn tài nguyên lớn là phải tìm ra cách để có thể sử dụng thu
nhập từ việc khai thác tài nguyên đầu tư vào vốn nhân lực và vốn cố định. Khi đó các
nước này mới có thể chuyển sang giai đoạn phát triển kinh tế bền vững được.
99
4.4.3 Căn bệnh Hà Lan
Dù sự sẵn có của tài nguyên thiên nhiên là một tài sản quan trọng cho phát triển
kinh tế, đôi khi nó cũng chính là nguyên nhân dẫn tới sự trì trệ kinh tế. Hiện tượng này
gọi là "căn bệnh Hà Lan" vì những gì Hà Lan đã phải trải qua sau khi phát hiện một
lượng lớn khí tự nhiên ở vùng Biển Bắc vào cuối những năm 1950. Việc khai thác
nguồn tài nguyên mới này đã đem lại sự cải thiện đáng kể trong cán cân thương mại
của Hà Lan nhưng nó cũng chính là nguyên nhân dẫn tới sự sụt giảm ngành công
nghiệp trong nước và gia tăng thất nghiệp. Vì thặng dư thương mại tăng nên tỷ giá hối
đoái cũng tăng theo làm suy giảm khả năng cạnh tranh của hàng nông nghiệp và công
nghiệp trên thị trường thế giới (Corden và Neary, 1982).
Giá trị gia tăng trong khu vực nông nghiệp và công nghiệp bị sụt giảm do xuất
khẩu tài nguyên tăng lên có mức độ lớn hơn nhiều so với khoản thu nhập tăng thêm từ
hoạt động xuất khẩu tài nguyên. Trong khi đó vì ngành khai thác dầu khí cũng như các
khoáng sản khác có đặc trưng là ngành sử dụng nhiều vốn (Bairoch, 1975: ch.3) nên
số việc làm tăng thêm trong ngành này không đủ cho số người bị mất việc làm trong
khu vực nông nghiệp và công nghiệp.
Một số người thất nghiệp có thể tìm được việc làm trong các ngành như xây
dựng và dịch vụ do khu vực khai thác tài nguyên thiên nhiên tăng trưởng đã kéo theo
nhu cầu việc làm trong ngành xây dựng và dịch vụ tăng lên. Tuy nhiên, quá trình tái
phân bổ lao động giữa các ngành như thế này thường diễn ra rất chậm.
Sự nguy hiểm đe dọa các nước giàu tài nguyên thiên nhiên là những cuộc
khủng hoảng về tài nguyên thiên nhiên ví dụ như cuộc khủng hoảng dầu mỏ lần thứ
nhất 1973-5 và lần thứ hai 1979-81 đã làm cho giá tài nguyên thiên nhiên và thu nhập
5. từ xuất khẩu tài nguyên thiên nhiên tăng lên cao nhưng thường chỉ diễn ra tro ng một
khoảng thời gian ngắn. Tỷ giá hối đoái tăng mạnh trong giai đoạn khủng hoảng sẽ có
tác động nghiêm trọng tới các ngành nông nghiệp và công nghiệp trong nước gây ra
thiệt hại đáng kể đối với tài sản cố định và kỹ năng quản lý, lao động cần thiết cho các
ngành sản xuất ngoài ngành khai khoáng. Việc phục hồi lại các ngành này là rất khó
khăn. Khi cuộc khủng hoảng qua đi, nhu cầu đối với các sản phẩm dịch vụ sẽ giảm
mạnh. Điều này tất yếu sẽ dẫn tới sự suy thoái kinh tế và thất nghiệp gia tăng. Nếu
một số ngành sản xuất quan trọng (hoặc ngành nông nghiệp), những ngành có vai trò
bổ sung chiến lược đối với các ngành khác, bị suy thoái thì nền kinh tế khó có thể
quay trở lại được lúc ban đầu và thậm chí còn bị rơi vào trạng thái cân bằng ở mức
thấp (Krugman, 1987, 1991; Matsuyama, 1991).
Căn bệnh Hà Lan đã từng xảy ra ở Nigeria. Nigeria là một nước xuất khẩu dầu
mỏ lớn và đã hưởng lợi lớn từ hai cuộc khủng hoảng dầu mỏ. Giống như các nước
đang phát triển khác, tỷ giá hối đoái chính thức của Nigeria được giữ cố định. Tuy
nhiên phần lớn thu nhập tăng lên từ xuất khẩu dầu mỏ được đầu tư cho các dự án hào
nhoáng và dành cho chi tiêu của chính phủ. Cầu hữu hiệu tăng lên đã gây ra lạm phát.
Tỷ giá hối đoái thực tế tăng mạnh vì tỷ giá hối đoái chính thức được giữ cố định và
lạm phát trong nước tăng nhanh hơn rất nhiều so với lạm phát trên thế giới. Chính vì
vậy, các ngành sản xuất ngoài ngành khai thác dầu mỏ, đặc biệt là ngành nông nghiệp,
bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Làng xóm ở khu vực nông thôn trở nên hoang vắng và
lượng thất nghiệp ở khu vực thành thị tăng mạnh vì mọi người đổ xô ra thành phố
kiếm việc làm trong khu vực dịch vụ. Vấn đề còn nghiêm trọng hơn vì chính phủ
Nigeria đã tiến hành xây dựng các ngành công nghiệp quy mô lớn, sử dụng nhiều vốn
bằng tiền thu được từ xuất khẩu dầu mỏ và các khoản tín dụng nước ngoài đổ về do
khi mọi người kỳ vọng giá dầu mỏ tiếp tục tăng thì khả năng thanh toán của Nigeria là
rất khả quan. Sau khi cuộc khủng hoảng dầu mỏ lần thứ hai qua đi năm 1981, Nigeria
phải đối mặt với một khu vực nông thôn hoang vắng và các đô thị tràn ngập người thất
nghiệp. Tình trạng này rất giống với tình trạng bị rơi vào cái bẫy ở mức cân bằng thấp
trong lý thuyết về sự bổ sung chiến lược.
Rất nhiều nước như Mêhicô cũng đã gặp phải vấn đề tương tự như Nigeria
(Gelb cùng cộng sự, 1988; Little cùng cộng sự, 1993). Tuy nhiên, một nước đã không
bị mắc căn bệnh Hà Lan nói trên chính là Indonesia (Pinto 1987). Giống như Nigeria,
các khoản thu của chính phủ và thu từ xuất khẩu của Indonesia phụ thuộc nhiều vào
dầu mỏ. Tuy nhiên, trong hai cuộc khủng hoảng dầu mỏ, chính phủ Indonesia đã tăng
cường đầu tư cho hệ thống thuỷ lợi và hệ thống nghiên cứu nông nghiệp cũng như trợ
giá cho phân bón và các yếu tố đầu vào khác. Chính vì vậy, các cơ sở sản xuất nông
100
6. nghiệp của Indonesia được tăng cường. Điều này được minh chứng bằng khả năng tự
chủ về gạo của nước này. Đồng thời Indonesia thực hiện chính sách tài khoá chặt nên
đã kiềm chế được lạm phát. Đồng nội tệ bị phá giá liên tục (1978, 1983, 1986) cùng
với sự tự do hoá thương mại quốc tế và đầu tư nước ngoài đã giúp phát triển các
ngành sản xuất sử dụng nhiều lao động mà Indonesia có lợi thế so sánh (Oguro và
Kohama, 1995; Thorbeck, 1998).
Sự khác biệt lớn về tăng trưởng kinh tế giữa Nigeria và Indonesia được thể hiện
trong Bảng 2.1, 2.2 và 2.3. Sự tương phản giữa Nigeria và Indonesia không phải là
duy nhất mà là sự điểm chung giữa khu vực châu Phi cận Sahara và khu vực Đông Á
(Thorbeck, 1995a). Điều này cho thấy trữ lượng tài nguyên thiên nhiên lớn không nhất
thiết sẽ đem lại sự phát triển kinh tế mà có khi lại còn gây ra cản trở. Đồng thời, rõ
ràng là các nước giàu tài nguyên thiên nhiên có thể thoát khỏi căn bệnh Hà Lan nếu có
các chính sách thích hợp.
101
Ghi chú:
1. Allen cho rằng những cải tiến của địa chủ không làm tăng năng suất nhưng làm
giảm đầu vào lao động đáng kể. Quan điểm của ông phù hợp với quan điểm của Mác
cho rằng nhập các thửa ruộng nhỏ của nhiều nông dân lại thành các trang trại lớn cho
địa chủ đã tạo ra lực lượng lao động dự trữ cho công nghiệp (ch.5, phần 1). Theo
Allen, có rất ít lao động bị mất vịêc làm trong khu vực nông nghiệp vào thế kỷ 18 có
thể tìm được việc làm khác trong khu vực công nghiệp.
2. Phần này chủ yếu dựa trên Kikuchi và Hayami (1985). Để biết thêm về cơ chế
chuyển giao công nghệ nông nghiệp giữa các nước, xem Hayami và Ruttan (1985:ch 9
và 10).
3. Sự chuyển giao công nghệ nông nghiệp giữa các khu vực là nguyên nhân chủ yếu
làm tăng năng suất trong nông nghiệp kể từ thời tiền sử đến nay (Sauer, 1952). Đối
với gạo, sự chuyển giao các giống ngắn ngày và chịu được hạn hán từ vương quốc
Champa ở miền trung khu vực Indo-China đến miền trung và miền nam của Trung
Quốc đã làm cho sản xuất gạo tăng lên trong các đời nhà Sung, Yuang và nhà Minh
(thế kỷ 12 đến thế kỷ 17) vì các giống mới này cho phép canh tác hai vụ (Ho, 1956;
Barker và Herdt, 1985: 17). Tuy nhiên, sự chuyển giao những công nghệ tiền hiện đại
này diễn ra rất chậm chạp so với sự chuyển giao công nghệ trong kỷ nguyên sản xuất
nông nghiệp dựa trên khoa học bởi vì thời đó quá trình này không được hỗ trợ bởi các
nghiên cứu khoa học và hệ thống khuyến nông có tổ chức.
7. 4. Để biết thêm chi tiết về sự trì trệ trong năng suất ở những khu vực sản xuất gạo tiên
tiến trong vùng nhiệt đới, xem Hayami và Otsuka (1994) và Pingali cùng cộng sự
(1997).
102