Khái lược vũ trụ học nội môn (Esoteric Cosmology).
Thánh Đoàn - Đại Bạch Giai Huynh Đệ - Các Chân Sư Minh Triết.
20.12.2022
π - A Quest for Meaning
https://tinyurl.com/aquestformeaningvn
2. Tài liệu tham khảo
2
▪ Alice Bailey, Điểm đạo trong nhân loại và thái dương hệ
▪ Thầy Michael D. Robbins giảng “Điểm đạo trong nhân loại và thái dương hệ”
https://www.minhtrietmoi.org/WPress/diem-dao-trong-nhan-loai-va-thai-duong-he/
▪ Thái Dương Hệ theo Chân Sư D.K (Alice Bailey) https://www.minhtrietmoi.org
▪ Lịch sử ẩn giấu của nhân loại (phụ đề Việt ngữ) https://youtu.be/852QqiCJVOI
▪ Phillip Lindsay, “The Mysteries Unveiled” Course, Aquarian Wisdom Center
https://aquarianwisdomportugal.org/themysteriesunveiledcourse2022/
3. 3
THÁNH ĐOÀN - HUYỀN GIAI HÀNH TINH
Dẫn nhập
Khái Lược Vũ Trụ Học Nội Môn
Thánh Đoàn các Chân Sư Minh Triết
4. 4
Dẫn nhập
▪ Trong những thời điểm khủng hoảng của nhân loại, các vị Thầy đã xuất hiện từ
Thánh Đoàn đi vào thế giới như Đức Phật, Đức Christ, Socrates, Shri Krishna,
Mohammed…
▪ Huyền Giai Tinh Thần (Thánh Đoàn) có thể được hiểu như nguồn cội của năng
lượng yêu thương tràn ánh sáng trên cõi nội giới của sự sống, ở các cõi giới
tâm thức cao cả. Các Ngài trông nom cuộc tiến hóa của nhân loại, giúp dẫn dắt,
định hướng nhân loại đến sự thấu hiểu về nhất thể.
▪ Thánh Đoàn làm việc không ngừng để nâng cao tinh thần thế giới. Các Ngài là
nguồn cảm hứng cho những thay đổi chính đang được thực hiện trên thế giới.
Thông qua quá trình gây ấn tượng tinh thần, các Ngài tác động lên những nhà
lãnh đạo và những nhà tư tưởng tiến bộ. Công việc của các Ngài mở rộng đến
mọi phương diện của sự sống hành tinh – chính trị, giáo dục, tôn giáo, nghệ
thuật, khoa học, tâm lý học và kinh tế.
8. 8
“Chúng ta đang bước vào một thời đại khoa học, nhưng đó sẽ là
một nền khoa học ra khỏi sự bế tắc đang có hiện nay. Nền khoa
học này, khi đã đi vào lĩnh vực vô hình, sẽ bắt đầu làm việc ở cấp
nội tại rất nhiều hơn từ trước đến nay. Nó sẽ công nhận sự có
thực của các giác quan siêu cảm, vốn là sự nới rộng của ngũ quan
thuộc về thân xác. Khoa học sẽ bị buộc phải chấp nhận điều này,
vì rất nhiều người đáng tin cậy sẽ có chúng; có thể sống và làm
việc đồng thời trong các thế giới hữu hình và vô hình. Khối lượng
lớn các bằng chứng uy tín sẽ có giá trị không thể chối cãi. Khi thế
giới nội tại của các nguyên nhân được chứng minh là đang hiện
hữu (và điều này sẽ đến qua các bằng chứng không thể phủ nhận
từ các giác quan mở rộng của con người) thì khoa học sẽ bước
vào thời đại mới, và thay đổi tiêu điểm chú ý của nó. Khả năng
khám phá sẽ mở ra mênh mông, và chủ nghĩa vật chất (như từ
này được hiểu hiện nay) sẽ tan biến. Ngay cả từ "chủ nghĩa vật
chất" cũng sẽ trở nên lỗi thời, và con người sau này sẽ thấy buồn
cười về tầm nhìn giới hạn của thế giới chúng ta hiện nay, và tự
hỏi vì sao chúng ta đã suy nghĩ và cảm nhận như thế.”
~ Alice Bailey, Vận mệnh của các quốc gia, trang 134
9. 9
Quan điểm nội môn về vũ trụ tiến hóa
Tại Việt Nam, trước đây Bà
Nguyễn Thị Hai trình bày
khá đầy đủ về Vũ trụ học
theo giáo lý Thông Thiên
Học trong quyển sách Vũ
trụ và Con người, xuất
bản tại Sài gòn trong thập
niên 50 của thế kỷ trước,
chủ yếu dựa vào tài liệu
của A.E. Powell (The Solar
System). Ông Powell biên
soạn dựa vào các sách của
C.W. Leadbeater và Annie
Besant, cũng có đôi chỗ
khác biệt với giảng dạy của
Bà H.P. Blavatsky.
11. 11
Quan điểm nội môn về vũ trụ tiến hóa
Đầu thế kỷ 20, giáo lý mới của Đức DK có chỉnh lại một
vài điểm trong phần trình bày của Hội Thông Thiên học,
triển khai phần Cosmology rộng ra thêm rất nhiều.
Những gì chúng ta biết hiện nay vẫn chưa là chân lý cuối
cùng, còn rất nhiều điều chúng ta chưa hiểu, nhưng
những gì mà chúng ta có thể tiếp thu qua phần giảng dạy
của các bậc Đại đức cũng giúp khai sáng tâm trí, nhận
thức được con đường tiến hoá của nhân sinh.
12. 12
Kalachakra (Thời Luân – Chu kỳ
thời gian) là một pháp thiền phức
tạp, thuộc về bộ Mật tông cao cấp
nhất, Tối Thượng Du Già Mật Điển
(anuttarayoga). Kalachakra còn
bách khoa toàn thư về khoa học cổ
đại, về các chu kỳ nội tại (quy
nguyên) và ngoại tại (khai
nguyên) đã lặp đi lặp lại từ vô thỉ,
với sự tái sinh liên tục của vũ trụ.
Theo Phillip Lindsay, những cuốn
sách của H.P. Blavastky và Alice
Bailey chứa đựng ba phần năm
giáo lý Kalachakra của Tây Tạng.
Kalachakra Mandala (A Map of Shamballa)
14. Khoáng Vật
Mineral
Tinh Thần
Spiritual
Thực Vật
Vegetable
Động Vật
Animal
Con Người
Human
Sự tiến hóa của tâm thức
Evolution of Consciousness
Tâm thức trì trệ
Inert consciousness
Tâm thức hữu tình
Sentient consciousness
Tâm thức bản năng
Instinctual consciousness
Tự ngã thức
Self- consciousness
Tâm thức nhóm
Group consciousness
Đồng nhất với
phương diện
HÌNH TƯỚNG
Identified
with FORM aspect
Đồng nhất với
phương diện
SỰ SỐNG
Identified
with LIFE aspect
Biệt lập ngã tính
Individualization
Điểm đạo
Initiation
Trận chiến
Battlefield
Nguồn: Tài liệu môn Spiritual Ecology QU 330, trường nội môn Morya Federation
15. Bảy Giới - Seven Kingdoms
Nhân Loại
Humanity
5th
7th
6th
4th
3rd
1st
2nd
Sự Sống Hành Tinh
Planetary Lives
Giới Linh Hồn
Kingdom of Souls
Thực Vật
Vegetable
Khoáng Vật
Mineral
Sự Sống Thái Dương
Solar Lives
Động Vật
Animal
“Con người có các cội nguồn của mình
trong cả ba giới; tất cả đã đóng góp
vào thiết bị của y. Con người là đại-
thiên-địa của tiểu-thiên-địa thấp kém
hơn; con người là mắc xích hợp nhất
ba giới thấp với ba giới cao”.
(Alice Bailey, Tâm lý học nội môn I,
trang 231)
Sơ đồ từ tài liệu môn Spiritual Ecology
QU 330, trường nội môn Morya Federation
17. 17
I. Cõi Thiêng liêng (Divine), cõi Adi, hay là cảnh giới
của Thượng Đế (Logoic Plane).
II. Cõi Chân thần (Monadic Plane) – nơi Chân Thần
cư ngụ
III. Cõi Tinh thần (Spiritual Plane) hay Cõi Atma, cõi
Niết Bàn (Nirvana).
IV. Cõi Trực giác (Intuitional Plane) hay Cõi Bồ-đề
(Buddhic Plane).
V. Cõi trí hay Thượng giới, Cõi Manas. Gồm cõi trí
trừu tượng (abstract levels) hay vô sắc giới, bao
gồm các cõi phụ từ 1 đến 3 và cõi trí cụ thể hay sắc
giới (concrete levels) bao gồm các cõi phụ từ 4 đến
7.
VI. Cõi Trung giới, Cõi Cảm dục (Astral Plane).
VII. Cõi Hồng trần – Dĩ Thái (Physical Plane). Các cõi
phụ gồm:
- Chất dĩ thái thứ 1 hay cõi phụ nguyên tử
(atomic subplane),
- Chất dĩ thái thứ 2 hay cõi phụ hạ nguyên tử
(sub-atomic subplane),
- Chất dĩ thái thứ 3, Chất dĩ thái thứ 4,
- Chất khí, chất lỏng và chất rắn.
18. 18
Trên mỗi cõi phụ thứ nhất (cõi phụ nguyên tử —
atomic subplane) của mỗi cõi giới từ cõi Atma trở
xuống mỗi người đều có một hạt nguyên tử
trường tồn (permanent atom). Riêng trên cõi trí
có hai nguyên tử trường tồn: một trên cõi phụ
thứ nhất (Manasic Permanent Atom) và một trên
phân cảnh giới thứ 4 (Mental Unit).
Các thể biểu lộ của con người được làm bằng chất
liệu của cõi giới tương ứng.
Người tiến hóa cao và các bậc đệ tử có thể hoạt
động ở các phân cảnh giới cao của cõi trí (cõi
thượng trí hay trí trừu tượng) và cõi bồ đề.
Người bình thường hoạt động trong ba cõi thấp
của Thái dương hệ là cõi hồng trần, cõi cảm dục
và cõi trí cụ thể. Ba cõi giới này bao gồm tất cả 18
cõi phụ (7 cõi phụ của cõi hồng trần, 7 cõi phụ
của cõi tình cảm, 4 cõi phụ thấp của cõi trí (cõi hạ
trí hay trí cụ thể).
Nguồn: minhtrietmoi.org
19. 19
Mỗi cảnh giới gồm nhiều cấp vật chất
tiến từ một mức độ rung động nhất
định đến mức độ rung động ngày
càng cao hơn khi chúng ta tiến lên
qua các cảnh giới. Trạng thái vật chất
càng tinh vi, tần số rung động càng
cao.
Các cảnh giới xuyên thấu vào
nhau, các cõi gọi là “cao” xuyên thấu
vào bên trong cõi trọng trược
hơn. Các cõi thanh vươn ra xa hơn
các cõi trọng trược.
Bảy phân cảnh của Cõi Vũ trụ thấp
nhất này là bảy cõi giới chính của
Thái Dương hệ chúng ta, và mỗi cõi
giới này lại có bảy cõi phụ.
Nguồn: minhtrietmoi.org
20. 20
▪ Thái dương hệ của chúng ta hợp cùng
với sáu thái dương hệ khác tạo thành
một hệ thống lớn hơn, là biểu lộ của
đấng cao cả hơn là đấng Thượng Đế
Vũ Trụ (Cosmic Logos).
▪ Mỗi vị Thái dương Thượng đế lại là
một Trung tâm lực trong cơ thể của
đức Thượng Đế Vũ Trụ này.
▪ Tiếp nữa, bảy đấng Thượng đế Vũ trụ
lại hợp thành Đấng ParaBrahman Vũ
Trụ.
▪ Có lẽ quy mô của các đấng cao cả này
không dừng ở đây, vượt ngoài tầm
hiểu biết của con người trên trái đất
này.
Nguồn ảnh: Joshua David Stone
21. 21
Albert Hoffmann, 2020, Structure of the universe as portrayed by the New Revelation
https://halshs.archives-ouvertes.fr/halshs-02458481/document
22. 22
Sự sống vĩ đại biểu hiện trong vũ trụ qua hơi thở ra Manvantara – chu kỳ khai nguyên, tinh thần đi vào
biểu lộ, lâm phàm. Hành trình thu rút khỏi hình tướng và trở về với tinh thần, hơi hít vào, được gọi là
Pralaya – chu kỳ quy nguyên. Định luật chu kỳ hiện diện trong mọi quy mô của cuộc sống, sự tuần hoàn
của ngày và đêm, của các mùa trong năm, các vòng đời sinh và tử,…sự đến và đi của mọi thứ. Các chu kỳ
nhỏ nằm trong các chu kỳ lớn và đến lượt chúng lại nằm trong những chu kỳ vĩ đại hơn nữa...
26. 26
Nguồn: minhtrietmoi.org
Cuộc tiến hoá của một dãy hành tinh
bắt đầu từ bầu A, nhân loại trên bầu A lần
lượt trải qua bảy Giống dân chánh (căn
chủng—Rootrace). Sau đó là thời kỳ yên
nghỉ (pralaya) của bầu hành tinh. Kế đến
sự sống chuyển đến bầu B, cũng lần lượt
trải qua bảy giống dân chánh, tiếp theo là
pralaya của bầu hành tinh. Lần lượt đến
các bầu C,D,E,F,G. Khi sự sống đi hết một
vòng 7 bầu hành tinh như thế, ta gọi đó là
một Cuộc Tuần Hoàn (Round). Sau cuộc
tuần hoàn thứ nhất là thời kỳ yên nghỉ
dài hơn, gọi là Pralaya của một Round.
Tiếp đến, sự sống lại bắt đầu trên bầu A
trở lại để bắt đầu Cuộc Tuần Hoàn thứ
hai. Lần lượt tương tự cho đến Cuộc Tuần
Hoàn thứ bảy là hoàn thành chu kỳ tiến
hóa của một Dãy Hành tinh.
28. 28
a
Dòng thời gian của bảy căn chủng (giống dân chính) và các phụ chủng (Phillip Lindsay)
29. 29
Một hệ tiến hóa bao gồm bảy dãy hành tinh phát triển kế tiếp nhau. Trước tiên, sự sống
tiến hoá trên dãy hành tinh thứ nhất của hệ tiến hóa, xuyên qua bảy cuộc tuần hoàn.
Nguồn: minhtrietmoi.org
30. 30
Khi cuộc tuần hoàn thứ 7 chấm dứt, dãy hành tinh thứ nhất thay vì đi vào thời kỳ ngơi nghỉ
(pralaya) như trước đây thì các bầu của nó bắt đầu tan rã. Vật chất của chúng được sử dụng
để tạo ra dãy hành tinh thứ hai. Khi dãy hành tinh thứ hai được tạo ra xong thì các Chân
Thần của dãy hành tinh thứ nhất sẽ chuyển sang để tiếp tục quá trình tiến hóa dở dang.
Nguồn: minhtrietmoi.org
31. 31
Dãy hành tinh chúng ta có 7 bầu, trong đó có một bầu bằng vật chất hồng trần trọng trược là
Trái đất của chúng ta. Dãy Địa cầu là dãy hành tinh thứ tư trong loạt 7 dãy hành tinh của hệ
tiến hoá địa cầu. Dãy Mặt trăng cũng có cấu tạo như dãy Địa cầu, trong đó Mặt trăng là bầu vật
chất trọng trược nhất của Dãy Nguyệt Cầu. Nguồn: minhtrietmoi.org
32. 32
Nguồn: minhtrietmoi.org
Bảy dãy hành tinh của một hệ hành tinh tồn tại đồng thời nhau. Mỗi hệ tiến hoá chỉ có
một bầu hành tinh trọng trược. Mỗi hệ tiến hoá có bảy dãy hành tinh kế tục nhau, đánh số thứ
tự từ 1 đến 7; khi một dãy hoàn tất chu kỳ tiến hoá của nó thì sẽ chuyển di năng lượng,
nguyên khí của nó sang dãy kế tiếp.
34. Thái Dương Thượng Đế
(Solar Logos, Helios)
Đấng Thiên Nhân Vĩ đại (Grand
Heavenly Man) có hình thể hình
cầu. Vòng giới hạn của Ngài bao
gồm toàn thể chu vi của Thái dương
hệ và tất cả trong phạm vi ảnh
hưởng của Mặt Trời, bao gồm 7 hệ
hành tinh cùng với 3 hệ tổng hợp,
tạo thành số 10 của sự hiển lộ của
Thượng Đế.
Mặt Trời là thể hồng trần của Thái
Dương Thượng Đế, là thể biểu lộ
của Ngài, có vị trí như hạt nhân của
sự sống ở tâm nguyên tử. Sự sống
của Ngài quét qua 7 hệ thống tiến
hóa theo chu kỳ.
34
Nguồn: minhtrietmoi.org
10 hệ tiến hoá trong thái dương hệ của chúng ta
35. Hải vương tinh, Thiên vương tinh
và Thổ tinh - Ba hệ hành tinh này là
ba hệ hành tinh tổng hợp
(synthesizer), chúng sẽ tiếp nhận
nhân loại đã hoàn thành mục tiêu
tiến hoá (được saved) của các hệ
hành tinh khác khi các hệ hành tinh
đó đã hoàn tất chu trình tiến hoá
của mình.
Phương pháp điểm đạo không
được áp dụng trên 3 hành tinh tổng
hợp này.
35
Nguồn: minhtrietmoi.org
10 hệ tiến hoá trong thái dương hệ của chúng ta
36. 36
Thái Dương Thượng Đế có 7 trung tâm lực (luân xa),
mỗi luân xa chính là một vị Hành Tinh Thượng đế (Thiên
Nhân/Heavenly Man).
Mỗi vị Hành Tinh Thượng Đế lại bao gồm bên trong
mình các sự sống nhỏ bé hơn. Con người, thiên thần …
được xem như là các tế bào bên trong cơ thể của các
Ngài, và chính thực, chúng ta đang “sống, hiện hữu,
chuyển động bên trong Hành Tinh Thượng Đế của chúng
ta.”
Thái Dương Thượng Đế của chúng ta thuộc Cung 2—
Bác Ái – Minh Triết, nhuốm màu xand dương.
39. 39
Đức Chúa Tể Hoàn Cầu, Đấng cai quản thế giới, Đức
Ngọc Đế, Melchizedek, Đấng Thái Cổ, Chàng Thanh niên
mãi mãi thanh xuân, Đấng Đại Hi sinh, Đấng Điểm Đạo,
Đấng Đại Huấn Sư… Ngài có thể được xem như một Hóa
Thân (Avatar) của Đức Hành Tinh Thượng Đế của
chúng ta trên cõi hồng trần, và sẽ tiếp tục ở vai trò này
cho đến giữa cuộc tuần hoàn thứ năm.
Ngài giáng lâm trên Địa Cầu (bầu hành tinh thứ tư) đã
hơn 18 triệu năm, vào thời kỳ giữa căn chủng thứ ba
trong cuộc tuần hoàn thứ tư trên Địa Cầu (cuộc tuần
hoàn hiện nay). Tổng cộng lần đó có 108 vị Kumaras
đến Địa Cầu.
Ngài đến từ bầu thứ hai (bầu Kim Tinh) của Dãy hành
tinh thứ hai (Dãy Kim Tinh) của hệ tiến hóa Địa Cầu.
Xung quanh Ngài có ba vị Kumara công truyền
(Pratyeka Buddha - Độc Giác Phật) và ba vị Kumara bí
truyền.
Sanat Kumara
40. 40
Khi Đức Sanat Kumara giáng lâm trên địa cầu, Ngài
thành lập Thánh Đoàn và thành viên được tuyển chọn từ
“hàng ngũ những vị đã được điểm đạo trong dãy Nguyệt
cầu (chu kỳ tiến hóa trước chu kỳ của chúng ta), hoặc
những vị đã đến từ các hệ thống hành tinh khác, nhờ
một số dòng năng lượng mặt trời, được quy định theo
chiêm tinh”. Điều này phải vậy vì vào thời điểm đó nhân
loại chưa tiến hóa đủ cao để gia nhập Thánh Đoàn.
Sự thành lập Thánh Đoàn
Tuy nhiên, ngày nay đa phần các thành viên của Thánh Đoàn là nhân loại trên địa cầu “số
người thành đạo trong nhân loại chúng ta đang gia tăng nhanh chóng và giữ các chức vụ thứ
yếu dưới nhóm nội môn trung ương. Để quyết định các việc quan trọng, xung quanh Đức
Sanat Kumara có Hội Đồng Đức Chúa Tể Hoàn Cầu, bao gồm các đấng Cao Cả (các Đấng
Kumaras). Tổng hành dinh của Thánh Đoàn nằm tại Shamballa, “một trung tâm trong sa
mạc Gobi, mà các cổ thư gọi là “Bạch Đảo”, hiện hữu trong cõi dĩ thái thứ hai của cõi trần.
Thánh Đoàn là cơ quan đào tạo nên các vị Chân Sư tương lai, và trung tâm huyền bí của tất
cả mọi sinh hoạt tâm linh trên thế gian.
42. 42
Nhiều thời đại ngay sau khi Thánh Đoàn được thành lập, công việc thật chậm chạp, và
gây nản lòng. Nhưng vào giữa căn chủng thứ tư (giống dân Atlantis), một biến cố đã
xảy ra đòi hỏi một sự cách tân trong phương pháp của Thánh Đoàn. Một số thành viên
của Thánh Đoàn đã được gọi đi đến công tác cao hơn ở một nơi khác trong thái dương
hệ, và điều này, do cần thiết, đã đưa vào Thánh Đoàn một số người tiến hóa cao của
gia đình nhân loại Có ba điều đã được quyết định trong Phòng Hội Đồng của Đức Chúa
Tể Thế Gian.
(1) Đóng cánh cửa từ giới thú vật vào giới nhân loại. Số lượng nhân loại trên địa
cầu bị giới hạn, và động vật phải chờ thêm một cuộc tuần hoàn nữa khi cánh cửa
vào nhân loại được mở ra lần nữa để có thể thoát kiếp thú thành người.
(2) Mở ra một cánh cửa khác (Cửa Điểm Đạo), và cho phép các thành viên của gia
đình nhân loại, những ai tự nguyện tuân thủ giới luật cần thiết, và thực hiện sự nỗ
lực kỳ diệu cần thiết, để tiến nhập vào giới thứ năm hay giới tinh thần. Phương
thức điểm đạo sẽ tiếp tục được áp dụng cho đến giữa cuộc tuần hoàn thứ năm.
Sau đó thì phương thức tiến hóa thông thường sẽ được áp dụng trở lại.
Mở ra cánh cổng Điểm Đạo
43. 43
(3) Vạch ra rõ ràng đường phân chia giữa các thế lực vật chất và tinh thần,
giữa chánh và tà. Vấn đề thiện hay ác, ánh sáng hay bóng tối, đúng hay sai, đã
được phát biểu rõ ràng chỉ vì lợi ích của nhân loại, và để giúp con người có thể
dẹp bỏ được các chướng ngại giam hãm tinh thần, và nhờ đó đạt được sự tự do
tinh thần. Vấn đề này không có trong các giới dưới nhân loại, cũng không có đối
với các bậc siêu nhân.
Con người phải học qua kinh nghiệm và đau khổ sự thật về tính nhị nguyên của
toàn thể cuộc hiện tồn. Khi đã học như thế, y bèn chọn những gì liên quan đến
trạng thái tinh thần hữu thức viên mãn của thiên tính, và học cách tập trung chính
y vào trạng thái này. Khi đã đạt được sự giải thoát như thế, y thực sự nhận ra rằng
vạn vật là một, rằng vật chất và tinh thần là một thể thống nhất, không có gì tồn
tại ngoại trừ những gì được tìm thấy bên trong tâm thức của Hành Tinh Thượng
Đế, và - ở những chu kỳ rộng lớn hơn - trong tâm thức của Thái Dương Thượng
Đế.
Cuộc chiến giữa Ánh Sáng và Bóng Tối
44. 44
Quyết định này đã đưa đến cuộc chiến đấu rộng lớn, là đặc trưng của nền văn minh Atlantis,
và lên đến tột đỉnh trong cuộc hủy diệt được gọi là trận đại hồng thủy, mà mọi Thánh Kinh
trên thế giới đã đề cập. Các lực lượng ánh sáng và các lực lượng bóng tối đã được dàn trận
chống lại nhau, và điều này là để trợ giúp nhân loại. Cuộc tranh đấu vẫn còn tiếp diễn, và
Thế Chiến mà chúng ta đã vừa trải qua là một sự tái phát của nó.
Quyết định này đã tập trung một luồng ánh sáng to lớn vào nhân loại đáp ứng được trong
thời kỳ đó. Không có ánh sáng vĩ đại nào có thể xuất hiện mà không gợi lên sự phản lại của
lực lượng bóng tối, và do đó mọi việc đã là như vậy. Mọi sự tiến bộ phải được thực hiện với
cái giá của sự hy sinh những điều cũ; cái cũ phải được gợi lên để được hy sinh. Chính xác tại
thời điểm có thể tiến bộ thì đối thủ có thể xuất hiện.
Ba quyết định này của Thánh Đoàn đang và sẽ có một hiệu quả sâu xa lên nhân loại, nhưng
đang đạt được kết quả mong muốn, và diễn trình tiến hóa được thúc đẩy mau chóng, và có
một hiệu quả quan trọng sâu xa trên trạng thái trí tuệ của con người.
Cuộc chiến giữa Ánh Sáng và Bóng Tối
45. 45
Một số đông các sinh mệnh thiên thần đang hoạt động với tư cách là thành viên
của Thánh Đoàn. Nhiều vị này đã trải qua giai đoạn nhân loại cách đây nhiều kỷ
nguyên, hiện làm việc trong các hàng ngũ của cuộc tiến hóa vĩ đại song song với
trường tiến hóa nhân loại, và được gọi là trường tiến hóa thiên thần. Ngoài các
nhân tố khác, cuộc tiến hóa này bao gồm các vị thần kiến tạo phương diện ngoại
cảnh của hành tinh, và qua các vị thần kiến tạo này, các mãnh lực tạo nên mọi hình
thể. Do đó, các thiên thần hợp tác với nỗ lực của Thánh Đoàn quan tâm đến
phương diện hình tướng, trong khi các thành viên khác của Thánh Đoàn thì chăm
lo việc phát triển tâm thức bên trong hình tướng.
Giới thiên thần trong Thánh Đoàn
46. 46
Bằng quyền năng ý chí, mãnh lực tham thiền, minh triết trong các kế hoạch, và
kiến thức khoa học về năng lượng, các Ngài lèo lái những dòng thần lực, và điều
khiển những tác nhân kiến tạo hình thể đang tạo ra tất cả những gì thấy được và
không thấy được trong trường sáng tạo thuộc ba cõi thấp.
▪ Đứng đầu chi phối và điều động mọi sinh linh và toàn cuộc tiến hoá là Đấng
Thánh Đế Sanat Kumara, Nguồn cội của Ý chí (biểu hiện thành Bác ái) của
Hành Tinh Thượng Đế.
▪ Cộng tác với Ngài ở vai trò cố vấn, có ba Đấng là Pratyeka Buddha, hay là các
vị Hoạt Phật. Quanh Đức Chúa Tể Hoàn Cầu nhưng ẩn tàng ở cấp nội môn hơn,
có thêm ba vị Kumara bí truyền khác nữa, hợp thành bảy Đấng biểu hiện
của hành tinh. Công việc của các Ngài (Hội Đồng Chúa Tể Hoàn Cầu)đối với
chúng ta tất nhiên là còn bí ẩn. Ba vị Phật hay là các vị Kumara ở ngoại môn
hơn, là tổng thể của hoạt động hay là năng lượng hành tinh, và ba vị Kumara
nội môn thể hiện các loại năng lượng còn chưa biểu lộ đầy đủ trên hành tinh
chúng ta.
Thánh Đoàn - Shamballa
47. 47
Ngoài các Đấng chủ trì chính yếu kể trên trong Đại Hội Đồng ở Shamballa,
còn có một nhóm bốn Vị là đại diện trên Địa Cầu của Tứ Đại Thiên Vương
(Maharaja), tức là bốn vị Nghiệp Quả Tinh Quân trong thái dương hệ, các
Ngài đặc biệt quan tâm đến cuộc tiến hoá của giới nhân loại hiện nay. Các
Ngài lo về
▪ Sự phân phối nghiệp quả hay vận mệnh của con người, khi nó ảnh
hưởng đến các cá nhân, và thông qua các cá nhân, ảnh hưởng đến các
nhóm.
▪ Việc trông nom và sắp xếp các tiên thiên ký ảnh, việc lưu trữ sổ bộ.
▪ Việc tham dự vào các hội đồng thái dương hệ. Các Ngài thật sự là những
Đấng trung gian của hành tinh, đại diện cho Hành Tinh Thượng Đế của
chúng ta và tất cả những gì liên hệ đến Ngài trong hệ thống lớn hơn nữa.
Thánh Đoàn - Shamballa
48. 48
Cộng tác với các Nghiệp Quả Tinh Quân này, có những nhóm đông đảo các điểm
đạo đồ, chăm lo việc điều chỉnh đúng đắn:–
▪ Nghiệp quả của thế giới,
▪ Nghiệp quả của giống dân,
▪ Nghiệp quả của quốc gia,
▪ Nghiệp quả của nhóm,
▪ Nghiệp quả của cá nhân,
và chịu trách nhiệm với Hành Tinh Thượng Đế về việc vận dụng đúng đắn các
mãnh lực và các công tác xây dựng, giúp những Chân nhân thuộc các cung khác
nhau giáng trần hợp thời, đúng lúc.
Các nhân viên còn lại của Thánh Đoàn chia làm ba nhóm chính và bốn nhóm phụ,
mỗi nhóm được chủ trì bởi một trong những Đấng mà chúng ta gọi là ba vị Chúa
Cao Cả.
Thánh Đoàn - Shamballa
49. 49
Ba ngành của Thánh Đoàn
Các đấng Chủ Quản của Ba Ngành chính của
Thánh Đoàn là Đức Bàn Cổ (Manu), Đức
Chưởng Giáo (World Teacher), và Đức Văn
Minh Đại Đế (Maha-Chohan). Các Đấng Cao Cả
này đều đã được bảy lần điểm đạo.
❖ 1. Đức Bàn Cổ (The Manu)
Ngài được gọi là Đức Bàn Cổ Vaivasvata, và là
Bàn Cổ của căn chủng thứ năm. Ngài là con
người lý tưởng hay tư tưởng gia lý tưởng, ấn
định kiểu mẫu cho giống dân Aryan hiện nay, và
đã chủ trì vận mệnh của giống dân này từ lúc
nó còn phôi thai, cách đây gần một trăm ngàn
năm trước. Các vị Bàn Cổ khác đã đến và đã ra
đi, và địa vị của Ngài sẽ do một vị khác thay thế,
trong một tương lai tương đối gần. Bấy giờ Ngài
sẽ chuyển sang một công tác khác cao cả hơn.
50. 50
Cung 1 – Ý Chí, Quyền Lực, qua luân xa đầu của Hành Tinh Thượng Đế, qua
đầu Sanat Kumara đến Ngài.
Đức Bàn Cổ Vaivasvata ở trong vùng núi Hy-mã-lạp-sơn, và đã quy tụ
chung quanh Ngài ở Shigatse một số người đang liên hệ trực tiếp với các
sự vụ của giống dân Aryan ở Ấn Độ, Âu Châu và Mỹ Châu, và những người
sau này sẽ lo cho căn chủng thứ sáu sắp đến.
Các kế hoạch được thảo ra cho nhiều thời đại tới đây, các trung tâm năng
lượng được hình thành hàng ngàn năm trước khi cần đến, và với sự tiên tri
sáng suốt của các Đấng Thiêng Liêng này không có điều gì là kết cuộc bất
ngờ, mà tất cả đều vận chuyển trong các chu kỳ trật tự, theo quy luật và
định luật, dù rằng ở bên trong các giới hạn nghiệp quả.
1. Đức Bàn Cổ (The Manu)
51. 51
▪ Công việc của Đức Bàn Cổ phần lớn liên quan đến chính quyền, đến chính trị
hành tinh, và đến việc thành lập, điều hành và giải tán các kiểu mẫu và hình thể
các giống dân.
▪ Ý chí và chủ đích của Hành Tinh Thượng Đế được giao phó cho Ngài. Ngài biết
đâu là mục tiêu trước mắt của chu kỳ tiến hoá mà Ngài phải chủ trì, và công tác
của Ngài cốt ở việc thực hiện hoàn tất ý chí này.
▪ Ngài cộng tác chặt chẽ với các thiên thần kiến tạo vì Ngài được giao cho công
việc ấn định kiểu mẫu chủng tộc, việc tách riêng ra các nhóm mà từ đó các
giống dân sẽ phát triển, việc điều động các thần lực để dời chuyển vỏ địa cầu,
việc nâng cao và hạ thấp các lục địa, hướng dẫn trí tuệ của các chính khách ở
khắp nơi để việc quản trị nhân loại sẽ tiến triển như mong muốn, và mang lại
các điều kiện để tạo nên những gì cần thiết cho việc phát triển một kiểu mẫu
nào đó. Một công cuộc như thế nay chúng ta có thể thấy đang diễn ra ở Bắc Mỹ
và Úc Châu.
1. Đức Bàn Cổ (The Manu)
52. 52
Ngài là Đấng Cao Cả mà người Thiên Chúa giáo gọi là Đức
Christ; ở Đông phương, Ngài cũng được biết dưới danh
hiệu Đức Bồ-Tát, Đức Di Lạc, và là Đấng mà người tín đồ
Hồi giáo thuần thành tìm kiếm, dưới danh xưng Imam
Mahdi.
Chính Ngài trước đây đã giáng lâm giữa nhân loại, và nay
Ngài đang được mong chờ. Ngài là Đức Chúa Từ Bi, Bác
Ái, cũng như vị tiền nhiệm của Ngài, Đức Phật đã là Đức
Chúa Minh Triết.
Cung 2, trực tiếp từ luân xa tim của Hành Tinh Thượng
Đế, qua tim của Sanat Kumara, đến Ngài và lưu chuyển
thông qua Ngài. Ngài làm việc bằng tham thiền tập trung
trong luân xa tim.
2. Đức Christ – Maitreya – Vị Huấn Sư Thế Giới
53. 53
Ngài là Đức Chưởng Giáo Thế Gian, Chân sư của các Chân
sư, là Huấn sư của các Thiên thần, và Ngài được giao phó
việc hướng dẫn vận mệnh tinh thần của nhân loại, và
việc phát triển nhận thức trong mỗi người.
Ngài đã làm việc ở vị trí này từ năm 600 trước Công
Nguyên, hoạt động chặt chẽ với Đức Bàn Cổ và Đức
Mahachohan như một tam bộ.
Ngài là Đấng Điểm Đạo chủ trì hai cuộc điểm đạo đầu
tiên.
Ngài phủ bóng (phú linh) Đức Jesus, vị đệ tử của Ngài,
trong 3 năm cuối đời của Đức Jesus. Ngài đã dự định phủ
bóng Krishnamurti.
2. Đức Christ – Maitreya – Vị Huấn Sư Thế Giới
54. 54
Ngài có thể giữ chức vụ với nhiệm kỳ qua nhiều căn
chủng. Ngài là toàn bộ trạng thái thông tuệ. Đức Văn
Minh hiện nay không phải là vị đầu tiên giữ chức vụ
này khi thành lập Thánh Đoàn vào thời kỳ Lemuria.
Bấy giờ chức vụ này được đảm nhận bởi một trong các
vị Kumara, hay là các Hỏa Chân Quân, đã lâm phàm
cùng với Sanat Kumara.
Ngài nhận chức vụ này trong khoảng phân chủng thứ
nhì của căn chủng Atlantis. Ngài đã đạt quả vị Chân sư
trên dãy nguyệt cầu, và chính do tác động của Ngài mà
một số đông nhân loại tiến hoá cao hiện nay đã lâm
phàm vào khoảng giữa căn chủng Atlantis.
3. Đức Văn Minh Đại Đế (Mahachohan)
55. 55
Công việc của Ngài liên quan đến sự bồi dưỡng và tăng
cường mối quan hệ giữa tinh thần và vật chất, giữa sự
sống và hình thể, những gì chúng ta gọi là nền văn
minh.
Ngài vận dụng các mãnh lực của thiên nhiên, và do đó
phần lớn là nguồn phát ra điện năng như hiện chúng ta
biết. Ngài là phản ánh của trạng thái thứ ba hay sáng
tạo, nên năng lượng của Hành Tinh Thượng Đế lưu
chuyển đến Ngài từ trung tâm cổ họng, và bằng nhiều
cách, Ngài đã giúp cho công việc của các vị Huynh đệ
Ngài có thể thực hiện được. Những kế hoạch và ý muốn
của các Vị này đều được chuyển đến Ngài, và những chỉ
thị truyền qua Ngài đến với một số lớn các tác nhân
thiên thần.
3. Đức Văn Minh Đại Đế (Mahachohan)
56. 56
Chân Sư Rakoczi (Chân Sư R.) hay Saint Germain,
sống ở vùng núi Carpathian, Hungary. Ngài hiện giữ
vị trí Mahachohan.
Cung 7 Nghi lễ - Huyền Thuật
Tiền kiếp: Roger Bacon triết gia người Anh (1214 –
1294), và Francis Bacon (1561 – 1626) triết gia
người Anh.
Ngài phụ trách các vấn đề chủng tộc ở Châu Âu, giám
sát sự phát triển trí tuệ ở Mĩ/Úc.
Ngài làm việc với các nghi thức và nghi lễ bí truyền,
Hội Tam Điểm, Hội Hoa Hồng Thập Tự.
3. Đức Văn Minh Đại Đế (Mahachohan)
57. 57
Một số Chân Sư trong xác phàm sống ở dãy Himalaya, ở Shigatse, cách xa con
người. Một số lớn các vị rải rác trên khắp thế giới, ở những nơi chốn khác nhau
trên các quốc gia khác nhau, không được nhận ra và không được biết đến.
Các Ngài tạo nên nơi chốn của mình thành một tiêu điểm cho năng lượng của
Chúa Tể Hoàn Cầu và ban rải tình thương và minh triết thiêng liêng đến xung
quanh.
59. 59
Các Đạo Viện 7 Cung
Vai trò của các Chân Sư là thúc đẩy sự tiến hóa tâm thức và hợp tác với Thiên Cơ
Tiến Hóa, tùy theo hạn định của nhóm nội môn của vị Chân Sư đó – và vì thế, tùy
theo các năng lực của Chân Sư.
Có 49 đạo viện phản ánh 7 x 7 nhóm – không phải tất cả đều biểu lộ.
Có 63 Chân Sư trên hành tinh và các Ngài vận dụng sức mạnh lớn lao, có khả năng
điều dẫn những sự thông tuệ trong dòng tiến hóa thiên thần, nhân danh nhân
loại.
60. 60
Chân Sư M. (Morya)
▪ Chân Sư Cung 1 – Ý Chí Quyền Lực.
▪ Ngài làm việc chặt chẽ với Đức Manu, thực
hiện các kế hoạch của Đức Bàn Cổ và sẽ
đảm nhiệm vị trí Đức Manu cho giống dân
chính thứ sáu.
▪ Ngài sống ở một làng hẻo lánh xa xôi tại
Shigatse, trên dãy Himalaya, gần nhà của
Chân Sư K.H. Hai Ngài đã hợp tác cùng
nhau trong suốt nhiều thế kỷ.
61. 61
Chân Sư K.H (Kuthumi)
▪ Chân Sư Cung 2 – Bác Ái Minh Triết.
▪ Ngài quan tâm phần lớn đến việc làm sống lại các
nền triết học vĩ đại, minh triết thiêng liêng và các
tổ chức từ thiện.
▪ Ngài hoạt động để kích thích biểu hiện bác ái còn
ngủ ngầm trong trái tim mọi người và đánh thức
tâm thức nhân loại với nhận thức về chân lý cơ
bản vĩ đại của tình huynh đệ.
62. 62
Chân Sư D.K. (Djwhal Khul)
▪ Chân Sư Cung 2 – Bác Ái Minh Triết.
▪ Ngài trở thành Chân Sư năm 1875, là sứ giả
của các Chân Sư (Messenger of Masters).
▪ Ngài đã truyền dẫn phần lớn Bộ Giáo Lý Bí
Nhiệm cho Helena P. Blavatsy và các cuốn sách
của Alice A. Bailey.
▪ Ngài hiểu biết về các cung nhiều nhất trong số
các Chân Sư.
▪ Ngài truyền năng lượng cảm hứng cho nhiều
phong trào chữa lành và từ thiện trên thế giới,
Hội Chữ Thập Đỏ, Liên Hiệp Quốc.
63. 63
Chân Sư Venetian
▪ Chohan Cung 3 – Thông Tuệ Linh Hoạt.
▪ Công việc của Ngài liên quan mật thiết với sự
phát triển văn hóa nhân loại qua nghệ thuật,
kiến trúc và khoa học.
▪ Ngài quan tâm đến việc đào tạo tư duy nghệ
thuật (artist mind) trong tương lai, giúp nhân
loại đáp ứng nhiều hơn với ảnh hưởng của các
thiên thần cõi cao (higher devas).
▪ Vị trí của Ngài kết nối trực tiếp với Đức
Mahachohan và là cầu nối với tất cả các cung
và các đạo viện của các Chân Sư khác.
Paolo Veronese, một trong những
họa sĩ lớn người Ý trường phái
Venice vào thế kỷ 16
64. 64
Chân Sư Serapis
▪ Chohan Cung 4 – Hài Hòa Mỹ Lệ qua Xung
Đột.
▪ Chân Sư người Ai Cập.
▪ Ngài truyền năng lượng cho các phong trào
nghệ thuật của thế giới, sự phát triển của âm
nhạc, hội họa, kịch nghệ.
▪ Ngài dành phần lớn thời gian cho công việc của
các deva (dòng tiến hóa thiên thần), cho đến
khi tác nhân của họ hỗ trợ sự thiên khải lớn
trong thế giới âm nhạc và hội họa sắp tới.
65. 65
Chân Sư Hilarion
▪ Chohan Cung 5 – Tri Thức Cụ Thể và Khoa Học
▪ Tiền kiếp Ngài là Thánh Paul thành Tarsus. Kiếp hiện tại
Ngài khoác thể xác người Crete (Hy Lạp) nhưng dành phần
lớn thời gian ở Ai Cập.
▪ Ngài đã truyền dẫn cho Mabel Collins viết tác phẩm “Ánh
Sáng trên Đường Đạo”. Ngài làm việc với những người đang
phát triển trực giác, kiểm soát, chuyển hóa các phong trào
lớn giúp tháo gỡ màn che về cõi nội giới vô hình, kích thích
các nhóm nghiên cứu Tâm Linh.
▪ Ngài giám sát những nhà thông linh ngoại cảm bậc cao và hỗ
trợ giúp họ phát triển quyền năng vì lợi ích tập thể, khai mở
cho những người tìm đạo về cõi nội giới vi tế nằm đằng sau
vật chất dày đặc.
66. 66
Chân Sư Jesus
▪ Chohan Cung 6 – Dâng hiến và Lý tưởng
▪ Ngài là tiêu điểm năng lượng tuôn chảy qua các Nhà Thờ
Cơ Đốc Giáo. Ngài được biết đến nhiều trong các câu
chuyện của Kinh Thánh.
▪ Ngài nhận cuộc điểm đạo thứ 5 và đạt quả vị Chân Sư vào
thế kỷ 1 sau Công Nguyên, khi là Appollonius xứ Tyana.
▪ Hiện tại Ngài khoác thể xác người Syrian, sống ở vùng
Đất Thánh (Holy Land) này, di chuyển nhiều khắp Châu
Âu.
▪ Ngài đảm nhiệm công việc chuẩn bị tư tưởng cho người
dân phương Tây cho sự tái lâm sắp tới của Đức Christ –Vị
Huấn Sư Thế Giới.
67. 67
Chohan Cung 7 - ?
▪ Cung 7 – Trật tự, Nghi lễ và Huyền
Thuật
▪ Từ khi Chân Sư R. chuyển sang đảm
nhận vị trí Mahachohan vào đầu thế
kỷ 20, chúng ta chưa được tiết lộ
danh tính của vị Chohan Cung 7 mới
này.
▪ Chân Sư D.K có đề cập đến một số
Chân Sư Cung 7 nhưng không nói rõ
ai là Chohan.
68. 68
Sự Hiển Lộ của Thánh Đoàn
Trong những thập kỷ tới, các thành viên Thánh Đoàn sẽ bắt đầu quá trình ngoại hiện,
chuyển dịch ra ngoài trên cõi hồng trần. Các Ngài sẽ bước đi giữa nhân loại để giúp mở
ra thời đại mới và chuẩn bị tâm thức nhân loại cho sự tái lâm của Vị Huấn Sư Thế Giới.
Quá trình ngoại hiện sẽ gây nên những biến đổi lớn lao. Nhờ sự dẫn dắt của Thánh
Đoàn, các vấn đề của nhân loại sẽ được chuyển hướng đến ánh sáng và hiện thực hóa
Thiên Cơ. Công việc này sẽ thể hiện đáng kể nhất qua việc thiết lập các mối liên giao
nhân loại đúng đắn và thiện chí giữa mọi người trên thế giới. Sự hiển lộ của Thánh Đoàn
được dự định sẽ diễn ra trong ba giai đoạn:
1. Trong giai đoạn đầu, các điểm đạo đồ bậc ba hoặc dưới bậc ba sẽ hiển lộ.
2. Trong những giai đoạn sau, các thành viên cao cấp của Thánh Đoàn sẽ hiển lộ.
3. Trong giai đoạn cuối cùng, Đấng Christ (Đức Maitreya) sẽ hiển lộ. Cuối cùng, sau
đó, tại thời điểm và khoảnh khắc thích hợp mà chỉ Ngài biết, Ngài sẽ tuyên bố
danh tính, mục đích, và sứ mệnh của mình một cách công khai tới thế giới. Vào
lúc đó, Ngài cũng sẽ giới thiệu các Chân Sư đã cùng ngoại hiện với mình.
69. 69
The Great Invocation - Đại Khấn Nguyện
Để chuẩn bị cho sự ngoại hiện của Thánh Đoàn, ta có thể hỗ trợ bằng việc xướng đọc Đại
Khấn Nguyện hàng ngày, một trong những bài cầu nguyện mạnh mẽ nhất đã được trao
cho nhân loại, giúp ích cho sự chuyển hóa của hành tinh. Tất cả những ai đọc nó đều tạo
ra những thay đổi mạnh mẽ trong chính bản thân và môi trường xung quanh.
From the point of Light within the Mind of God
Let light stream forth into the minds of men.
Let Light descend on Earth.
From the point of Love within the Heart of God
Let love stream forth into the hearts of men.
May Christ return to Earth.
From the centre where the Will of God is known
Let purpose guide the little wills of men —
The purpose which the Masters know and
serve.
From the centre which we call the race of men
Let the Plan of Love and Light work out.
And may it seal the door where evil dwells.
Let Light and Love and Power restore the Plan
on Earth
OM OM OM
Từ nguồn Ánh sáng trong Trí Thượng Đế
Cầu xin Ánh sáng tràn vào Trí Con người
Cầu xin Ánh sáng giáng xuống trần gian
Từ nguồn Tình thương trong Tâm Thượng đế
Cầu xin Tình thương tràn vào Tâm Con người
Cầu xin Đấng Christ trở lại trần gian
Từ Trung tâm biết được Ý chí Thượng đế
Cầu xin Thiên Ý dẫn dắt ý chí nhỏ bé của Con người
Thiên Ý mà các Chân sư đều biết và phụng sự
Từ trung tâm mà chúng ta gọi là loài người
Câu xin Thiên Cơ, Tình thương và Ánh sáng được thực thi
Và cầu mong Thiên cơ đóng kín cửa vào nẻo ác
Cầu xin Ánh sáng, Tình thương và Quyền năng phục hồi Thiên cơ
trên Trần gian
OM OM OM