5. Lời giới thiệu
Sáu năm trước, vào năm 1989, tôi bắt đầu tự mình đi khắp đất nước
để tìm trí tuệ. Trong suốt những chuyến đi của mình, tôi đã phỏng vấn
và làm việc cùng hơn 200 nhà tâm lý học, triết gia, bác sĩ, nhà khoa học,
và các nhà thần nghiệm, những người đã tuyên bố rằng họ có những
câu trả lời mà tôi đang tìm kiếm. Đến lúc tôi viết What Really Matters:
Searching for Wisdom in America, tôi đã nhận thức rõ Ken Wilber là một
triết gia vô tiền khoáng hậu. Tôi tin rằng ông là một trong những tiếng
nói sâu sắc và có sức thuyết phục nhất trong sự đột khởi gần đây của
một trí tuệ Mỹ rất đặc trưng.
Đã gần 20 năm kể từ khi Ken Wilber xuất bản The Spectrum of
Consciousness. Tác phẩm được viết năm ông 23 tuổi, chỉ trong một sớm
một chiều, nó đã đưa ông lên vị thế của một triết gia toàn diện nhất
trong thời đại của chúng ta. Spectrum, tác phẩm được Wilber viết trong
vòng ba tháng sau khi bỏ học trong lúc đang theo chuyên ngành sinh
hóa học, đã đưa ra luận đề rằng sự phát triển của con người ngoại hiện
theo từng lớp sóng hay từng giai đoạn, sâu rộng hơn so với những gì
được tâm lý học phương Tây công nhận. Wilber lập luận rằng chỉ bằng
cách tìm đường vượt qua những làn sóng phát triển này thì chúng ta
mới có thể phát triển một cảm giác cá nhân tính lành mạnh, và sau
cùng mới trải nghiệm được một căn tính rộng lớn hơn, một căn tính
6. 6
siêu vượt đồng thời bao hàm bản ngã cá nhân. Để tóm lại, Wilber đã kết
hợp Freud và Đức Phật - điều mà tính đến thời điểm đó dường như là
không tưởng vì những khác biệt không thể hòa giải được giữa cả hai. Và
đây chỉ là cống hiến đầu tiên của riêng ông, bên cạnh nhiều cống hiến
khác sau này.
Tựa đề của cuốn sách này dễ khiến bạn đọc nghĩ rằng nó nhẹ nhàng.
Nhưng Một lược sử về vạn vật (A Brief History of Everything) làm đúng
những gì nó hứa. Nó bao phủ một phạm vi lịch sử rất rộng, từ Tiếng Nổ
Lớn đến tận xã hội hậu hiện đại cằn cỗi ngày nay. Dọc theo tiến trình
này, nó cố gắng tìm ra ý nghĩa trong những cách thức có tính mâu thuẫn
mà theo đó con người đã tiến hóa - cơ thể, cảm xúc, trí tuệ, đạo đức, và
tinh thần. Dù chứa đựng một phạm vi rộng lớn như vậy nhưng cuốn
sách này lại vô cùng cô đọng và tinh gọn.
Trên thực tế, điều khiến cho Một lược sử về vạn vật khác biệt với
cuốn Spectrum hay 11 tác phẩm sau đó của Wilber là nó không chỉ mở
rộng thêm những ý tưởng đã được đưa ra ở những tác phẩm trước, mà
giờ đây còn thể hiện chúng bằng dạng thức đối thoại đơn giản, dễ tiếp
cận. Hầu hết các sách của Wilber đều đòi hỏi người đọc phải biết đôi
chút về những truyền thống triết học của phương Đông và tâm lý học
phát triển ở phương Tây. Tuy nhiên, Một lược sử về vạn vật lại nhắm
đến nhóm đối tượng độc giả rộng lớn hơn - những người trong chúng
ta cố gắng đi tìm trí tuệ trong đời sống thường ngày, nhưng lại thấy
rối tinh rối mù trước hàng loạt con đường đi đến chân lý, mà chúng
lại thường mâu thuẫn với nhau - và mỗi cái lại có những thiếu sót
khác nhau. Với những độc giả muốn tìm hiểu thêm sau khi đọc xong
cuốn sách này, tôi đề cử tác phẩm lớn gần đây của Wilber, Sex, Ecology,
Spirituality, trong đó khám phá nhiều ý tưởng nói trên nhưng ở cấp độ
tỉ mỉ và chuyên sâu hơn.
Tôi chưa từng gặp một ai có thể mô tả con đường phát triển của
con người - sự tiến hóa của ý thức - một cách đầy đủ và có hệ thống như
Wilber. Trong suốt hành trình của mình, tôi đã gặp nhiều không đếm
xuể những người đưa ra tuyên bố hùng hồn về những phiên bản cụ thể
7. 7
của chân lý mà họ đang rao giảng. Tôi phát hiện ra rằng hầu như ai cũng
như ai, cũng đi đến những kết luận bằng cách chọn phe phái, tôn vinh
một tập hợp năng lực và giá trị này, đồng thời phủ nhận những cái khác.
Wilber đã chọn một cách tiếp cận có tính bao quát và đầy đủ hơn,
như bạn sẽ nhanh chóng nhận ra. Trong những trang tiếp theo, ông đưa
ra một tầm nhìn nhất quán, tôn vinh và kết hợp các chân lý từ hàng loạt
lĩnh vực khác biệt - vật lý và sinh học; các ngành khoa học hệ thống và
khoa học xã hội; nghệ thuật và mỹ học; tâm lý học phát triển và thần
nghiệm triết học - cũng như các phong trào triết học đối lập nhau từ
triết học Tân Plato (Neoplatonism) đến triết học hiện đại, từ triết học
duy tâm đến triết học hậu hiện đại.
Điều mà Wilber đã nhận ra là có thể một chân lý có giá trị hiệu lực,
nhưng nó chưa được đầy đủ, nó chỉ đúng trong phạm vi của nó, và đây
phải được xem như một phần của các chân lý khác cũng không kém
phần quan trọng. Có lẽ công cụ lợi hại nhất mà ông đưa vào cuốn Một
lược sử về vạn vật là quan niệm rằng có bốn góc trong “tứ nghiệm đồ”
(the four quadrants) của sự phát triển. Bằng việc nghiên cứu hàng trăm
bản đồ phát triển khác nhau trong sự phát triển về mặt sinh học, tâm
lý học, nhận thức và tinh thần, cũng như nhiều lĩnh vực khác - Wilber
đã nhận ra rằng chúng thường diễn tả những phiên bản rất khác nhau
của “chân lý”. Ví dụ, các hình thái ngoại hiện của sự phát triển là những
hình thái có thể đo lường được một cách khách quan và thực nghiệm.
Nhưng Wilber đã thể hiện rõ rằng loại chân lý này chỉ đưa bạn đến một
mức độ phát triển nào đó. Ông chỉ ra rằng mọi sự phát triển toàn diện
đều phải bao hàm một chiều kích nội tại - một chiều kích có tính chủ
quan và diễn giải, và phụ thuộc vào ý thức cũng như nội quan. Ngoài ra,
Wilber còn thấy rằng sự phát triển nội tại lẫn ngoại tại đều không chỉ
diễn ra ở cấp độ cá nhân, mà còn trong một bối cảnh xã hội và văn hóa.
Do đó mới có tứ nghiệm đồ.
Ông đã lập luận bằng một loạt ví dụ rất sống động rằng chúng ta
không thể giản hóa bất cứ hình thái chân lý nào trong bốn loại này
thành những loại còn lại. Để lấy một ví dụ, nhà hành vi học không thể
8. 8
hiểu trải nghiệm nội tại của con người chỉ bằng việc nhìn vào hành vi
bên ngoài - hay những yếu tố tương liên sinh lý học. Chân lý quả thật là
sẽ giải phóng chúng ta, nhưng chỉ khi nào chúng ta chịu thừa nhận rằng
có nhiều loại chân lý khác nhau.
Một lược sử về vạn vật là một tác phẩm vận hành trên nhiều cấp độ.
Nó là bản đồ phong phú nhất mà tôi đã từng được biết về cõi sống của
chúng ta, về chỗ đứng của nam giới và nữ giới ở trong đó. Wilber gợi
ý rằng trong tính biện chứng của sự tiến bộ, mỗi giai đoạn tiến hóa sẽ
siêu vượt những hạn chế của giai đoạn trước, nhưng đồng thời cũng
thể hiện ra những hạn chế mới. Quan niệm này vừa đề cao vừa làm tăng
giá trị cho sự vật lộn không ngừng nghỉ trong những công cuộc đi tìm
một cuộc sống ý thức hơn và toàn vẹn hơn. Wilber viết: “Không một
kỷ nguyên nào là có địa vị tối cao sau cùng. Tất cả chúng ta đều là thức
ăn của ngày mai. Quá trình sẽ tiếp diễn, và Tinh Thần sẽ được tìm thấy
trong chính quá trình này, chứ không phải trong một kỷ nguyên hay
một thời gian hay một vị trí cụ thể nào cả”.
Ở một cấp độ khác, trong cuốn Một lược sử về vạn vật này, Wilber
còn đóng vai trò là người vạch trần và làm sáng tỏ - một nhà phê bình
rất sáng suốt của những bậc thầy, những kỹ thuật, những ý tưởng cũng
như những hệ thống, vốn hứa hẹn sẽ đưa bạn đến với chân lý toàn
diện, nhưng thường lại không được đầy đủ, lầm lạc, bị bóp méo, và sẽ
khiến bạn lạc lối. Thường thì bản thân chúng ta cũng là tòng phạm của
chúng. Vì sợ hãi trước những thay đổi và có năng lực tự lừa dối bản
thân gần như vô biên, chúng ta thường rất nhanh chóng bám chặt lấy
những câu trả lời đơn giản và những phép chữa nhanh, vốn là những
cái khiến cho tầm nhìn của chúng ta bị thu hẹp và sự phát triển của
chúng ta bị thui chột.
Wilber là một tiếng nói hiếm có. Ông đảm nhận công việc bằng
một trái tim chân thành và dành trọn tâm huyết cho chân lý. Ông đã
mở rộng thấu kính của mình để nhìn được bức tranh lớn nhất có thể,
nhưng không chấp nhận xem mọi thành tố đều như nhau. Ông không sợ
gây thù chuốc oán, nhưng vẫn rất kính cẩn trước nhiều tiếng nói khác.
9. 9
Kết quả của điều đó là Một lược sử về vạn vật hé lộ một tia sáng rất
mới mẻ, không chỉ đối với những câu hỏi lớn nhất trong đời sống, mà
còn là hàng tá vấn đề khó hiểu và gây bất an trong thời đại của chúng
ta - những vai trò đang thay đổi của nam giới và nữ giới; thực tế rằng
môi trường vẫn tiếp tục bị tàn phá; sự đa dạng và chủ thuyết đa văn
hóa; những ký ức bị ức chế về việc bị xâm phạm tình dục lúc còn bé
thơ; và vai trò của Internet trong thời đại thông tin - bên cạnh nhiều
vấn đề khác.
Tôi không thể hình dung ra cách nào tốt hơn để làm quen với Ken
Wilber ngoài việc đọc chính tác phẩm này. Nó đưa cuộc tranh luận về
sự tiến hóa, ý thức, và khả năng thay đổi của chúng ta lên một tầm cao
mới. Ở cấp độ thực tiễn hơn, nó sẽ giúp bạn tránh khỏi rất nhiều bước
đi hụt hẫng và những ngả rẽ sai lầm trên bất cứ con đường trí tuệ nào
mà bạn chọn đi theo.
Tony Schwartz
10.
11. Lời tựa cho tái bản
Một lược sử về vạn vật là một trong những cuốn sách được ưa
chuộng nhất mà tôi đã viết. Điều này đã khích lệ tôi rất nhiều vì nó
chứa đựng một lượng lớn nội dung về cái nhìn tích hợp mà tôi đã cố
gắng phát triển. “Tích hợp” đơn giản nghĩa là cách tiếp cận này cố gắng
bao hàm nhiều chân lý quan trọng nhất có thể từ nhiều lĩnh vực nghiên
cứu nhất có thể - từ Đông cũng như Tây, từ tiền hiện đại, hiện đại và hậu
hiện đại, từ những ngành khoa học “cứng” như vật lý đến những ngành
khoa học “mềm” hơn như linh đạo. Như một nhà phê bình từng nói,
cách tiếp cận mang tính tích hợp này “đề cao và kết hợp nhiều chân lý
hơn bất cứ cách tiếp cận nào từng có trong lịch sử”. Tất nhiên tôi muốn
tin điều đó là đúng, nhưng chính bạn đọc sẽ là những người phù hợp
nhất để đánh giá điều đó trong lúc bạn đọc những trang tiếp theo.
Kể cả nếu điều đó là đúng, thế thì sao nữa? “Một cách tiếp cận có
tính tích hợp” nghĩa là gì? Và nó có liên quan gì đến tôi trong thế giới
ngày nay? À, vậy thì hãy cùng điểm nhanh qua những ý nghĩa của nó
trong kinh doanh, khoa học, cũng như linh đạo.
Các học giả nghiên cứu các nền văn hóa khác nhau của nhân loại -
tiền hiện đại, hiện đại, và hậu hiện đại - càng ngày lại càng thấy ấn tượng
12. 12
trước sự đa dạng, phong phú của những văn hóa này: một cầu vồng
lộng lẫy, đa sắc, đa văn hóa của nhân loại với nhiều khác biệt trong tín
ngưỡng, đạo đức, giá trị và niềm tin. Nhưng cũng có nhiều học giả thấy
ấn tượng trước những điểm tương đồng của các văn hóa này. Một số
mẫu thức trong ngôn ngữ, nhận thức, và sinh lý học con người thì khá
giống nhau dù chúng có xuất hiện ở đâu đi nữa. Con người ở đâu cũng
có năng lực hình thành các hình ảnh, biểu tượng, và khái niệm; mặc dù
nội dung của những khái niệm có khác nhau, nhưng năng lực này là
phổ quát. Những mẫu thức phổ quát và có mặt ở khắp mọi văn hóa cho
chúng ta biết một số điều rất quan trọng về thân phận con người, vì nếu
bạn tìm được một cái gì đó mà hầu hết mọi người hay thậm chí tất cả
mọi người đều có chung, chắc hẳn là bạn đã tìm được một cái gì đó có ý
nghĩa sâu thẳm vô cùng.
Điều gì sẽ xảy ra nếu chúng ta lấy tất cả những mẫu thức chung này
và hợp chúng lại. Bức tranh tổng thể hiện ra sẽ là gì?
Nó sẽ rất giống với dự án bộ gen con người (hoàn thành việc lập
bản đồ các gen trong mã di truyền DNA của con người), chỉ có điều đây
sẽ là một dạng dự án về ý thức và văn hóa của con người: việc lập bản
đồ về những năng lực văn hóa mà con người ở bất cứ đâu cũng có. Điều
này sẽ cung cấp cho ta một bản đồ phi thường về những tiềm năng và
khả năng của con người. Và nó cũng sẽ giúp chúng ta nhận ra những
tiềm năng mà có thể chúng ta - bạn và tôi - vẫn chưa thể hiện trọn vẹn.
Nó sẽ là một bản đồ thể hiện những giai đoạn cao hơn trong sự phát
triển của chúng ta, một bản đồ của những triển vọng lớn lao hơn.
Có thể bạn sẽ ngạc nhiên khi nghe rằng dự án văn hóa và ý thức
này đã được triển khai và một khối lượng lớn công việc đã được hoàn
thành. Là thành quả làm việc của hàng ngàn nhà nghiên cứu từ khắp
nơi trên thế giới, dự án văn hóa và ý thức tiết lộ một loạt trạng thái ý
thức cao cấp hơn, những trạng thái của sự phát triển, những mẫu thức
của tinh thần, và những hình thái khoa học uyên thâm. Khi đặt cạnh
chúng, những phiên bản bị hạn chế của khoa học vốn được chấp nhận
13. 13
trong văn hóa duy vật khoa học của chúng ta ngày nay và sự tung hô
mà thế giới hậu hiện đại dành cho những bề mặt trông như những chú
lùn kém cỏi.
Rồi bạn sẽ thấy, những triển vọng và tiềm năng lớn hơn này là
những thành tố quyết định cho bức tranh tổng thể được thể hiện trong
những trang tiếp theo đây - một bức tranh tổng thể có vai trò như một
“lý thuyết về vạn vật”. “Lý thuyết về vạn vật” ở chỗ: Nếu chúng ta giả
định rằng mọi văn hóa của thế giới đều có những chân lý quan trọng
nhưng chưa được đầy đủ, thế thì phải làm sao để những chân lý này
ăn khớp với nhau và tạo thành một tấm dệt phong phú, một nhất-thể-
trong-đa-dạng, một cầu vồng đa sắc nhưng đồng thời cũng đơn nhất?
Một khi cầu vồng đã sáng tỏ, làm thế nào tôi có thể áp dụng nó
cho mình? Câu trả lời rất đơn giản: Một bản đồ đầy đủ hơn, chính xác
hơn về những tiềm năng của con người sẽ trực tiếp giúp cho việc kinh
doanh, chính trị, y học, giáo dục, và linh đạo được hiệu quả hơn. Mặt
khác, nếu bản đồ con người của bạn bị phiến diện, cắt xén, và thiếu liền
lạc, thế thì cách tiếp cận của bạn đối với kinh doanh, y học, và linh đạo…
cũng sẽ bị cắt xén, phiến diện, và thiếu liền lạc. Đầu vào rác rưởi thì đầu
ra cũng rác rưởi.
Do đó, bất kể lĩnh vực của bạn là gì, một “lý thuyết về vạn vật” sẽ
giúp cho nó trở nên hiệu quả hơn. Vậy nên không có gì là đáng ngạc
nhiên khi sự hứng thú đối với bản đồ đầy đủ hơn về những triển vọng
của con người này đã bùng nổ trong hầu như mọi lĩnh vực, từ chính
trị, kinh doanh, giáo dục, chăm sóc sức khỏe, pháp luật, sinh thái học,
khoa học cũng như tôn giáo. Những ai có hứng thú với những áp dụng
gần đây có thể tìm đọc A Theory of Everything - An Integral Vision for
Business, Politics, Science, and Spirituality.
Nhưng tất cả những nội dung cơ bản đều nằm ở đây, trong cuốn
sách này, và nó sẽ cung cấp cho bạn tất cả những gì cần thiết để xem liệu
nó có hữu dụng đối với bạn hay không. Và mặc dù bản đồ đầy đủ này
nghe thì có vẻ phức tạp, nhưng khi bạn đã nắm được nó - tôi sẽ chỉ bạn
làm thế nào trong những trang tiếp theo - bạn sẽ thấy nó đơn giản và dễ
14. 14
sử dụng đến bất ngờ, và đến khi bạn đọc xong, bạn sẽ có tất cả những
công cụ mà mình cần để vận dụng nếu bạn muốn.
Một điều cuối cùng: Toàn bộ ý tưởng về bản đồ đầy đủ hơn này là để
làm phong phú thêm, không phải để phủ nhận hiểu biết của chúng ta ở
hiện tại. Một số người cảm thấy bị đe dọa trước một cách tiếp cận tích
hợp, vì họ có cảm tưởng rằng bằng cách nào đó, nó có nghĩa là những
việc họ đang làm hiện giờ là sai. Nhưng thế thì cũng chẳng khác gì đầu
bếp chuyên món Pháp cảm thấy bị đe dọa bởi ẩm thực Mexico. Chúng ta
đang bổ sung thêm những phong cách mới, không phải là lên án những
cái đã có. Tôi thích cách nấu món Pháp, nhưng tôi cũng thích cách nấu
món Mexico. Khi ta đánh giá đúng cả hai, chúng vẫn sẽ là chúng. Hầu hết
sự kháng cự đối với cách tiếp cận tích hợp đều đến từ những đầu bếp
Pháp có thái độ khinh miệt đối với cách chế biến món Mexico - một thái
độ không mấy hữu ích.
Và vì thế, trong những trang tiếp theo, bạn sẽ tìm thấy một phong
cách “nấu nướng” quốc tế - một bữa ăn với các món đến từ mọi nơi trên
thế giới, đại diện cho những tiềm năng của con người, như một cầu
vồng đa sắc lấp lánh, một phổ phi thường về những tiềm năng sâu hơn
và cao hơn của chính bạn. Bản đồ này đơn giản chỉ là một lời mời gọi
bạn khám phá những địa hạt bao la trong ý thức của chính mình, những
tiềm năng gần như vô tận trong nhận thức nguyên thủy của chính bạn,
và qua đó đi đến chỗ nơi bạn chưa bao giờ rời khỏi: bản chất sâu thẳm
nhất của bạn và bản lai diện mục của bạn.
15. Một lưu ý dành cho độc giả
Trong tác phẩm The Hitchhiker’s Guide to the Galaxy của Douglas
Adams, có một siêu máy tính khổng lồ được thiết kế để đưa ra câu
trả lời tối hậu, câu trả lời tuyệt đối, câu trả lời sẽ giải thích đầy đủ về
“Thượng Đế, sự sống, vũ trụ, và tất cả mọi thứ”. Nhưng máy tính này
cần đến 7.500.000 năm để tính toán ra câu trả lời này, và khi nó đưa ra
câu trả lời, mọi người đã quên mất câu hỏi. Không còn ai nhớ câu hỏi tối
hậu, tuy nhiên câu trả lời tối hậu của máy tính đưa ra là: 42.
Thật tuyệt vời! Cuối cùng cũng có câu trả lời. Câu trả lời quá tuyệt
vời đến nỗi người ta tổ chức một cuộc thi để xem ai có thể tìm ra câu
hỏi. Nhiều câu hỏi rất sâu sắc đã được đưa ra, thế nhưng câu hỏi để
thắng giải lại là: Con người phải đi qua bao nhiêu con đường?
“Thượng Đế, sự sống, vũ trụ, và tất cả mọi thứ” gần như là chủ đề
của cuốn sách này, mặc dù câu trả lời dĩ nhiên không được dứt khoát
như là “42”. Nó đề cập đến vật chất, sự sống, tâm thức, tinh thần, và
những dòng chảy tiến hóa xâu chuỗi chúng lại thành một nhất thể trong
một mẫu thức liên kết tất cả mọi thứ.
Tôi viết cuốn sách này ở dạng đối thoại - câu hỏi và câu trả lời.
Nhiều phần hội thoại trong sách này đã diễn ra ngoài đời, nhưng phần
lớn chúng được viết ra để phục vụ cho cuốn sách. Những câu hỏi này
16. 16
khá là thực - chúng là những câu hỏi tôi thường được hỏi nhất về những
cuốn sách của mình nói chung và cuốn sách gần đây nhất của tôi nói
riêng (Sex, Ecology, Spirituality). Nhưng bạn đọc không cần phải đọc
trước bất cứ cuốn nào trong số này: Những chủ đề sau đây, tôi tin rằng
bản thân chúng đã đủ thú vị, và những hội thoại này không đòi hỏi bạn
phải có bất cứ kiến thức chuyên môn gì về các lĩnh vực được đề cập.
(Các học giả quan tâm đến tài liệu tham khảo, chú thích, và những lập
luận chi tiết có thể tìm đọc Sex, Ecology, Spirituality).
Các chương đầu của sách là về vũ trụ vật chất và sự đột khởi của sự
sống. Cái gì khiến hỗn mang trở thành trật tự? Sự sống khởi phát từ vật
chất như thế nào? Những dòng chảy nào đang diễn ra trong cuộc chơi
tiến hóa phi thường này? Có hay không một “tinh thần” sinh thái học?
Nó có ý nghĩa gì không?
Những chương giữa sẽ khám phá sự đột khởi của tâm thức và ý
thức, và chúng ta sẽ đi theo sự tiến hóa từ ý thức thông qua năm hay
sáu giai đoạn lớn trong sự phát triển ở con người, từ săn bắt hái lượm
đến nông nghiệp thô sơ, đến nông nghiệp, đến công nghiệp, sau đó là
thông tin. Địa vị của đàn ông và đàn bà trong từng giai đoạn này là thế
nào? Vì sao lại có một số giai đoạn đề cao nam giới, trong khi một số
khác đề cao nữ giới? Điều này có giúp được gì cho ta trong cuộc chiến
giữa hai giới ngày nay? Phải chăng những dòng chảy đang vận hành
trong sự tiến hóa của con người cũng chính là những dòng chảy của
cuộc chơi vũ trụ rộng lớn hơn? Sự phát triển của con người trong quá
khứ có quan hệ thế nào đến những vấn đề của nhân loại ngày nay? Nếu
chúng ta quên bài học quá khứ, liệu chúng ta có lặp lại những sai lầm
trước đây hay không?
Sau đó chúng ta sẽ nhìn vào Cảnh Giới Thiêng Liêng và liệu nó có
thể có liên hệ với những dòng chảy sáng tạo trong vật chất, sự sống, và
tâm thức như thế nào? Vì sao và làm thế nào mà xét trong lịch sử, tôn
giáo lại phải nhường đường cho tâm lý học? Ngày xưa, nếu trong tâm
bạn có gì bất ổn và bạn muốn tìm câu trả lời, bạn sẽ nói chuyện với một
vị linh mục; giờ đây bạn lại nói chuyện với nhà tâm lý trị liệu - và họ
17. 17
hiếm khi có cùng quan điểm với nhau. Tại sao lại thế? Điều gì đã xảy
ra? Phải chăng cả linh mục và nhà tâm lý trị liệu đều có điều gì đó quan
trọng để nói với chúng ta? Có khi nào họ không nên thù hằn đấu đá
nhau, mà nên xem nhau như anh em?
Trong cuộc sống của mình, chúng ta sẽ tìm đến ai để có câu trả lời?
Liệu chúng ta có đi hỏi siêu máy tính của Adams hay không? Hay liệu
chúng ta sẽ tìm đến tôn giáo? Chính trị? Khoa học? Các nhà tâm lý học?
Guru? Người bạn có năng lực ngoại cảm của bạn? Chúng ta sẽ đi đâu để
tìm đến nơi mà ta có thể đặt trọn niềm tin cho những câu hỏi quan trọng
nhất? Thực tế này nói lên điều gì? Có cách nào để xâu chuỗi những nguồn
khác nhau này lại hay không? Có cách nào để chúng nói cho ta nghe chân
lý của chúng bằng những cách cân bằng và hài hòa hay không? Liệu điều
này có còn khả thi trong thế giới vụn vỡ ngày nay hay không?
Những chương cuối sẽ đề cập đến bình địa - đến sự sụp đổ của
Hoàn Vũ vốn đa dạng phong phú nhưng lại trở thành một thế giới đơn
chiều kích phẳng lì và mờ nhạt, thế giới đơn sắc và ảm đạm của hiện
đại và hậu hiện đại. Nhưng chúng ta làm điều này không phải để lên
án thế giới hiện đại, mà đúng hơn là để khám phá ra Tinh Thần sáng
ngời đang diễn hóa, kể cả trong thời đại mà Thượng Đế của chúng ta đã
ngoảnh mặt quay lưng. Nam Thần ở đâu, Nữ Thần ở đâu trong những
ao tù nước đọng này?
Mỗi người chúng ta phải đi qua bao nhiêu con đường? Có thể cuối
cùng rồi sẽ có câu trả lời cho câu hỏi này, vì sự mưu cầu tri thức vẫn
như bong bóng khí nổi lên, và niềm vui vẫn không ngừng tuôn ra bề
mặt, với sự giải tỏa nơi việc nhận ra và giải phóng trong sự thức tỉnh.
Tất cả chúng ta đều biết cách để tự hỏi, và những câu hỏi này cất lên từ
chính Thượng Đế ở trong ta, và bằng một cách không thể hiểu nổi, dẫn
lối về nhà.
K. W.
Boulder, Colorado
Mùa xuân 1995
18.
19. Dẫn nhập
Cuốn này có bàn về tính dục không thưa ông?
Có, và có cả hình minh họa nữa cơ.
Ông nói thật chứ?
Tôi chỉ đùa thôi. Nhưng đúng thật là có, tính dục là một trong những
chủ đề chính của cuốn sách, đặc biệt là quan hệ giữa giới và giới tính.
Có sự phân biệt giữa giới (sex) và giới tính (gender) ư?
Người ta thường dùng khái niệm giới (sex) hay tính dục để nói
đến khía cạnh sinh học của sự sinh sản ở người, còn giới tính (gender)
là từ để chỉ những khác biệt thuộc về văn hóa giữa nam và nữ, chúng
phát triển xoay quanh những khác biệt về sinh học và tính dục (sexual).
Những khác biệt về giới (sex) thường là những khác biệt giữa nam giới
(male) và nữ giới (female), còn những khác biệt văn hóa lại là giữa nam
tính (masculine) và nữ tính (feminine). Nam giới hay nữ giới có thể
được xem là thực tế sinh học được định sẵn, trong khi đó nam tính hay
nữ tính phần lớn lại là sản phẩm của văn hóa.
Thế thì mấu chốt là phải phân biệt được những đặc điểm của giới và
những đặc điểm của giới tính.
Có thể nói như vậy. Vì sự khác biệt giữa nam giới và nữ giới chủ
yếu là về mặt sinh học, chúng có tính phổ quát và giống nhau trong mọi
20. 20 KEN WILBER
văn hóa - dù ở đâu đi nữa thì nam giới vẫn sản sinh tinh trùng, còn nữ
giới thì sản xuất trứng, sinh con và tiết ra sữa. Nhưng sự khác biệt giữa
nam tính và nữ tính chủ yếu lại là sản phẩm do từng nền văn hóa khác
nhau nhào nặn thành.
Và quả thật, có tình trạng hỗn độn giữa hai giới ngày nay một mặt
là vì những khác biệt giữa nam giới và nữ giới là thuộc về sinh học và
có tính phổ quát, do đó hầu như không thể thay đổi gì được; mặt khác,
nam tính và nữ tính xét trên nhiều phương diện là sản phẩm của văn
hóa, và những vai trò này thực sự có thể bị thay đổi đáng kể. Văn hóa
của chúng ta hiện nay đang mắc vào một thế khó trong tiến trình nỗ lực
để thay đổi một số vai trò của hai giới.
Ví dụ như?
Ví dụ, dù thực tế là cơ thể của nam giới có cơ bắp hơn và khỏe mạnh
hơn của nữ giới, nhưng điều đó không có nghĩa hễ là đàn ông thì phải
mạnh mẽ và biết khẳng định mình, còn đàn bà ngược lại phải nhu mì
và kín đáo. Và chúng ta đang ở trong giai đoạn chuyển tiếp, khi các vai
trò của hai giới tính đang được tạo dựng và định nghĩa lại. Chính điều
này đã đẩy cả đàn ông và đàn bà vào thế phải hiềm khích, đả kích nhau
trong đủ mọi loại hình chiến tranh giữa hai giới.
Một phần của vấn đề này là, những vai trò thuộc về nam tính và nữ
tính thì có thể định nghĩa và chỉnh sửa lại - một sự đổi mới rất khẩn
thiết mà lẽ ra phải được làm từ lâu - nhưng những đặc tính của hai giới
là cái chúng ta không thể thay đổi gì nhiều được. Và trong lúc chúng ta
đang tìm cách để san bằng những khác biệt giữa nam tính và nữ tính,
rất có nguy cơ chúng ta đang hiểu lầm và tìm cách xóa bỏ những khác
biệt giữa nam giới và nữ giới. Cái thứ nhất là một ý tưởng rất tốt, tuy
nhiên cái sau là điều bất khả thi. Và tôi cho rằng điều mấu chốt là chúng
ta phải nhận biết được sự khác biệt này.
Tức là giữa đàn ông và đàn bà, có những khác biệt cần được thay
đổi, và có những khác biệt mà ta phải chấp nhận?
21. MỘT LƯỢC SỬ VỀ VẠN VẬT 21
Có vẻ là thế. Trong suốt quá trình tìm hiểu những khác biệt giữa
đàn ông và đàn bà, liên quan đến cả giới (sex) và giới tính (gender), vẫn
có những khác biệt nhất định, thậm chí về phương diện văn hóa, liên
tục xuất hiện trong nhiều văn hóa khác nhau. Nói cách khác, không chỉ
những khác biệt giữa hai giới (sex), mà cả những khác biệt giữa hai giới
tính (gender) cũng có khuynh hướng lặp đi lặp lại khi ta so sánh giữa
nhiều nền văn hóa.
Tôi có cảm tưởng như những khác biệt trên phương diện sinh học
giữa đàn ông và đàn bà đã trở thành một nền tảng kiên cố đến độ chúng
có thể xâm lấn vào cả cương vực của văn hóa, và do đó cũng biểu hiện
qua những khác biệt giữa hai giới tính. Thế nên, dù giới tính là sự nhào
nặn của văn hóa và không phải là cái được định sẵn về mặt sinh học,
nhưng vẫn có những hằng số nhất định xuất hiện ở nhiều nền văn hóa
khác nhau liên quan đến nam tính và nữ tính.
Thậm chí chỉ mới một thập niên trước đây, lập trường này vẫn còn
gây khá nhiều tranh cãi. Nhưng giờ đây có vẻ nó đã được chấp nhận rộng
rãi hơn.
Phải, kể cả những người đấu tranh đòi bình quyền nam nữ cực
đoan giờ đây cũng ủng hộ ý niệm rằng nhìn chung, vẫn có những khác
biệt rất rõ rệt giữa tập hợp giá trị của đàn ông và đàn bà - tức là chúng
bao hàm cả giới (sex) và giới tính (gender). Đàn ông có khuynh hướng
đề cao cá tính một cách thái quá, họ cũng nhấn mạnh sự tự chủ, quyền,
công lý, và sự tác hành (agency); còn đàn bà thường hướng đến sự nhận
thức về các mối quan hệ, chú trọng đến sự cộng thông (communion), sự
quan tâm, trách nhiệm và các mối quan hệ. Đàn ông thường muốn được
tự chủ và sợ các mối quan hệ ràng buộc, đàn bà ngược lại đề cao các mối
quan hệ và sợ sự tự chủ.
Tất nhiên, những khám phá của Carol Gilligan và Deborah Tannen
là cái đóng vai trò chủ đạo ở đây. Nhưng như bạn thấy đấy, điều đáng
ngạc nhiên là chỉ trong khoảng một thập niên, hầu hết các nhà nghiên
cứu chính thống và các nhà nghiên cứu ủng hộ phong trào nữ quyền
22. 22 KEN WILBER
nhìn chung đều đã đồng thuận về một số khác biệt căn bản trong tập
hợp giá trị của nam và nữ. Đây cũng là chỗ cốt yếu của một lĩnh vực
nghiên cứu mới được gọi là “tâm lý học tiến hóa” - những tác động của
sự tiến hóa về mặt sinh học đối với những đặc điểm tâm lý.
Và khó khăn bây giờ là: Làm thế nào để thừa nhận những khác biệt
này mà lại không căn cứ vào chúng để một lần nữa tước đi quyền lợi
của nữ giới. Vì thường thì ngay sau khi chúng ta công bố bất cứ khác
biệt gì giữa các nhóm người, các nhóm đặc quyền đặc lợi sẽ khai thác
những khác biệt này để thúc đẩy lợi thế của họ. Bạn cũng nhận thấy vấn
đề này chứ?
Vâng, nhưng có vẻ như ngày nay chúng ta đang thấy cái đối nghịch.
Dường như những khác biệt này đang được dùng để cho thấy đàn ông về
bản chất là những kẻ thô lỗ, những dị nhân testosterone suốt ngày than
phiền: “Tôi chẳng thể nào hiểu nổi đàn bà”. Thông điệp ngày nay là đàn
ông nên nhạy cảm hơn, biết quan tâm, ân cần hơn và chú trọng hơn đến
các mối quan hệ. Cái mà ông gọi là tập hợp giá trị của đàn ông đang bị
công kích nặng nề trên khắp thế giới. Thông điệp ngày nay là vì sao nam
giới lại không thể học hỏi từ nữ giới.
Phải thừa nhận cũng có hiện tượng “ăn miếng trả miếng” này. Ngày
xưa, nữ giới từng bị cắt nghĩa là một “người đàn ông chưa hoàn thiện”
(deficient men) - “sự đố kỵ vì thiếu dương vật” (penis envy) là một
trong những ví dụ kinh điển. Giờ đây, đàn ông bị định nghĩa là “người
đàn bà chưa hoàn thiện”, dựa trên những đặc điểm của nữ tính mà họ
không có thay vì những thuộc tính tốt đẹp mà họ sở hữu. Cả hai cách
tiếp cận này, theo tôi, đều không hay, chưa kể còn làm mất giá trị của
cả hai giới tính.
Như tôi đã có đề xuất, nan giải là ở chỗ phải giải quyết được hai vấn
đề rất khó: thứ nhất là, phải làm sao để chỉ ra những khác biệt chính
trong tập hợp quan hệ của phái nam và phái nữ (xem Gilligan), và thứ
hai là tìm ra những biện pháp để đánh giá chúng một cách công bằng
hơn, dù chỉ là tương đối.
23. MỘT LƯỢC SỬ VỀ VẠN VẬT 23
Chẳng phải khi không tự nhiên lại tách loài người ra thành hai giới;
cố gắng biến họ thành một nghe như một việc làm ngu xuẩn. Nhưng kể
cả những lý thuyết gia bảo thủ nhất cũng phải thừa nhận rằng văn hóa
của chúng ta xưa nay xem trọng tập hợp giá trị của đàn ông. Và giờ đây,
chúng ta đang ở giữa một quá trình đầy tế nhị, khó khăn và thử thách,
và đôi khi chất chứa đầy hiềm khích, quá trình điều chỉnh lại cán cân
cho thăng bằng hơn chút đỉnh. Không phải là để xóa bỏ những khác
biệt, mà là để cân bằng chúng.
Và những khác biệt này có gốc rễ là những khác biệt thuộc về sinh
học giữa nam giới và nữ giới?
Dường như phần nào là thế. Nhất là những khác biệt về nội tiết tố.
Các nghiên cứu về testosterone - trong phòng thí nghiệm, trong việc
so sánh giữa các nền văn hóa, nghiên cứu phôi thai, và kể cả theo dõi
diễn biến ở nữ giới khi họ được tiêm testosterone vì những lý do y học
- tất cả đều dẫn đến một kết luận. Không muốn nói một cách thô thiển,
nhưng dường như nội tiết tố nam về cơ bản có hai, và chỉ hai động cơ
chính: làm tình hoặc là giết chóc.
Và nam giới phải mang trên mình cơn ác mộng sinh học này gần
như từ thuở chào đời, một cơn ác mộng mà nữ giới khó có thể hình
dung được (trừ khi họ được tiêm testosterone vì mục đích y học, điều
thường khiến họ phát điên. Như một người đã nói: “Tôi lúc nào cũng
nghĩ đến chuyện làm tình, không thể cưỡng lại được. Làm ơn, không có
cách nào để dừng điều này lại ư?”). Tệ hơn nữa, đàn ông đôi khi nhầm
lẫn và trộn lẫn hai thôi thúc này, hai ý muốn giao cấu và giết chóc hợp
lại một cách đầy nguy hiểm. Điều này hiếm khi dẫn đến cái kết tốt đẹp,
và nữ giới luôn sẵn lòng đứng ra làm chứng cho việc đó.
Còn ở nữ giới thì sao?
Có thể nói đó là oxytocin, nội tiết tố này thường được sản sinh ra
khắp cơ thể nữ giới dù chỉ với một cái chạm khẽ trên da. Oxytocin được
mệnh danh là “thần dược của các mối quan hệ”, nó gây ra những cảm
xúc mạnh mẽ về sự gắn kết, quan hệ, nuôi nấng, nâng niu, sờ nắm.
24. 24 KEN WILBER
Dễ nhận thấy rằng rất có khả năng nguồn gốc của cả hai nội tiết
tố này, testosterone và oxytocin, đều ở trong sự tiến hóa sinh học;
testosterone là để sinh tồn và duy trì nòi giống, còn oxytocin là để nuôi
con. Hầu hết sự giao phối trong thế giới động vật diễn ra chỉ trong
thoáng chốc. Trong suốt quá trình này, cả hai bên đều có nguy cơ thành
con mồi và bị nuốt chửng. “Đi ăn tối rồi về lên giường” trong bối cảnh
có thể mang một ý nghĩa mới, vì chính bạn là bữa tối. Trong quá trình
này chẳng có cái gọi là mặn nồng ân ái. Và đàn ông nói tóm gọn là thế.
Quý ông Nhạy Cảm - người đàn ông đích thực, người trong huyền thoại,
anh chàng “mít ướt” - là một phát minh rất, rất gần đây. Có thể nói cần
phải có thời gian thì người đàn ông ngày nay mới làm quen được với
vai trò mới này.
Nhưng những đòi hỏi thuộc về giới của việc nuôi con thì khá là
khác. Người mẹ phải liên tục trông chừng đứa bé sơ sinh, 24 giờ một
ngày, và đặc biệt là phải chú ý đến những dấu hiệu cho thấy đứa trẻ
đang đau đớn hay đói khát. Oxytocin giúp người mẹ làm điều này, để cô
luôn tập trung và cực kỳ gắn bó trong mối quan hệ mẹ con. Cảm xúc ở
đây không phải là làm tình hay giết chóc, mà là sự liên hệ, gắn bó liên
tục, một cách rất cẩn thận, lan tỏa, đầy sự quan tâm và nâng niu.
Thế thì Quý ông Nhạy Cảm là một vai trò giới tính đi ngược lại vai trò
bản năng của giới ư?
Cũng có thể nói là thế. Nhưng thế không có nghĩa là đàn ông không
thể hay không nên phấn đấu để trở nên nhạy cảm hơn. Ngày nay, đó là
điều bắt buộc. Nhưng thường thì nó chỉ đơn thuần có nghĩa là đàn ông
phải được giáo dục để có thể làm điều này. Đây là một vai trò họ phải học
thì mới làm được. Và có rất nhiều lý do vì sao đàn ông nên học vai trò
này, nhưng chúng ta nên bao dung và đừng chỉ trích họ thái quá vì họ
đang trong quá trình mò mẫm tìm đường giữa bối cảnh mới lạ lùng này.
Nhưng đối với nữ giới cũng thế. Một trong những đòi hỏi của
việc làm đàn bà thời nay là họ phải đấu tranh để giành quyền tự chủ,
và không được định nghĩa bản thân chỉ bằng hoặc chủ yếu bằng các
25. MỘT LƯỢC SỬ VỀ VẠN VẬT 25
mối quan hệ của họ. Tất nhiên, đây là tiếng gọi cao cả của phong trào nữ
quyền. Nữ giới ngày nay phải khẳng định bản thân thông qua sự tự chủ
và giá trị nội tại của chính mình, chứ không chỉ thông qua mối quan hệ
với một Tha Nhân. Nói thế không có nghĩa là chúng ta không nên xem
trọng các mối quan hệ như trước, mà người đàn bà phải tìm cách để tôn
vinh con người đã trưởng thành của chính mình chứ không chỉ biết xả
thân quên mình vì Tha Nhân.
Tức là cả đàn ông lẫn đàn bà ngày nay đang phải đi ngược lại những
yếu tố sinh học đã được định trước của giới mình?
Có thể nói là thế. Nhưng tiến hóa là thế: siêu vượt cái trước đó. Sự
tiến hóa luôn vật lộn để thiết lập những giới hạn mới, và sau đó lại phải
trải qua gian nan để phá vỡ những giới hạn này, để siêu vượt chúng và
trở thành những thể cách hoàn thiện hơn, thống nhất hơn và toàn diện
hơn. Và dù những vai trò truyền thống của nam giới và nữ giới từng là
rất cần thiết và thích đáng trước đây, ngày nay, chúng càng lúc càng trở
nên lỗi thời, chật hẹp và tù túng. Vì thế, cả nam giới lẫn nữ giới ngày
nay đang phải đấu tranh theo nhiều cách để siêu vượt những vai trò cũ
của mình mà không chỉ đơn giản là xóa bỏ chúng - và đây mới là thử
thách. Tiến hóa luôn luôn siêu vượt và bao hàm, vượt lên và đồng thời
kết nạp cái cũ.
Chính vì thế, cái gốc của đàn ông sẽ luôn là sự thôi thúc do
testosterone - làm tình hoặc giết chóc - nhưng những thôi thúc này có
thể được điều chỉnh thành những cách ứng xử phù hợp hơn. Ở một cấp
độ nào đó, đàn ông sẽ mãi mãi mang thôi thúc muốn phá vỡ các giới hạn,
dồn hết tâm huyết một cách cuồng dại, và trong quá trình đó cho ra đời
những khám phá mới, phát minh mới, cũng như những cách thức mới.
Còn nữ giới, như các nhà nữ quyền cấp tiến khẳng định, sẽ mãi
mãi là một sinh vật của những mối quan hệ, cốt lõi của họ vẫn mãi là
oxytocin. Nhưng trên cơ sở đó, họ vẫn có thể xây dựng được một tinh
thần tự trọng và tự chủ vững chắc hơn, biết đề cao giá trị của bản ngã đã
trưởng thành, kể cả khi họ vẫn nâng niu những mối quan hệ.
26. 26 KEN WILBER
Tức là với cả nam giới và nữ giới, mấu chốt vẫn là siêu vượt và bao
hàm. Và chúng ta đang ở tại một thời khắc trong quá trình tiến hóa khi
những vai trò chính của giới - sự đề cao thái quá năng lực tự chủ ở nam
giới và các mối quan hệ ở nữ giới đã phần nào bị siêu vượt. Nam giới giờ
đây đang học cách để chấp nhận các mối quan hệ, còn nữ giới học cách
chấp nhận sự tự chủ. Và đây là một quá trình đầy thử thách, cả hai giới
bây giờ dường như là cái gai trong mắt của nhau. Đó là lý do tôi nghĩ đôi
bên cần phải rộng lượng với nhau hơn. Điều này là rất quan trọng.
Ông có nói rằng xã hội chúng ta đã có một thời kỳ dài trọng nam
khinh nữ, và có lẽ đã đến lúc phải “cân bằng sổ sách” lại.
Đây là cái người ta thường gọi là “chế độ gia trưởng”, một từ ngày
nay thường được dùng với thái độ khinh miệt. Cách lý giải đơn giản
nhất và ngây thơ nhất là chính đàn ông đã áp đặt chế độ này lên đàn
bà - một thực trạng rất tàn bạo và đáng kinh tởm. Mọi thứ lẽ ra có thể
dễ dàng đi theo chiều hướng khác. Và giải pháp đơn giản là đàn ông chỉ
việc nói: “Ồ, xin lỗi nhé, chúng tôi không có ý chà đạp và đàn áp các cô
suốt 5.000 năm qua. Chả hiểu trước đây chúng tôi nghĩ gì mà lại làm
thế? Chúng ta bắt đầu lại được chứ?”.
Nhưng than ôi, tôi không nghĩ rằng chuyện đơn giản đến thế. Có vẻ
như “chế độ gia trưởng” là một sự sắp đặt không thể tránh khỏi do một
số hoàn cảnh bắt buộc và nó là một phần quan trọng trong sự phát triển
của nhân loại. Và giờ đây chúng ta đã đạt đến một cột mốc nơi mà sự
sắp đặt này là không cần thiết nữa. Thế nên trên một số phương diện
cơ bản, chúng ta có thể bắt đầu “tháo dỡ” chế độ phụ hệ, hay “cân bằng
lại sổ sách” những tập hợp giá trị của nam giới và nữ giới sao cho hợp
lý hơn. Nhưng nói thế không đồng nghĩa với việc dỡ bỏ một thực trạng
tàn bạo mà lẽ ra đã có thể khác. Nói đúng hơn thì chúng ta phải vượt lên
một thực trạng không còn cần thiết nữa.
Và đó là một cách rất khác để nhìn nhận vấn đề.
Vâng. Nếu chúng ta chọn câu trả lời thông thường - rằng một lũ đàn
ông thèm khát quyền lực và thích những trò tàn ác đã áp đặt chế độ
27. MỘT LƯỢC SỬ VỀ VẠN VẬT 27
gia trưởng lên đàn bà - thế tức là chúng ta bị mắc kẹt với những định
nghĩa sau đây về hai giới. Đó là, đàn ông là lũ lợn đáng kinh tởm, còn
đàn bà là bầy cừu ngây thơ. Việc cho rằng đàn ông cố ý đàn áp một nửa
còn lại của nhân loại đã vẽ lên một bức tranh rất tăm tối về đàn ông. Dù
có testosterone hay không, bản chất của đàn ông, xét toàn bộ, không
đơn giản chỉ có hiểm độc như thế.
Nhưng thực ra, cái khiến ta thấy cách giải thích cho chế độ gia
trưởng này thật khó tin chính là nó vẽ ra một chân dung người đàn ông
quá tài tình đến mức hão huyền. Theo cách giải thích này, nam giới bằng
một cách nào đó, đã hợp sức với nhau để đàn áp một nửa nhân loại, và
đáng kinh ngạc hơn nữa là họ đã thành công mỹ mãn trong mọi nền văn
hóa đã biết. Bạn nghĩ xem, đàn ông xưa nay chưa bao giờ thiết lập được
một chính quyền độc đoán nào tồn tại được quá vài trăm năm. Nhưng
theo lời những người ủng hộ phong trào nữ quyền, bằng cách nào đó,
họ đã triển khai thành công sự thống trị trên khắp mọi nơi suốt 5.000
năm qua - có người còn nói cả trăm ngàn năm nữa cơ. Mấy gã điên này,
cũng phải nể họ thật.
Tuy nhiên vấn đề thực sự của “thuyết áp đặt” - tức đàn ông đã đàn
áp đàn bà ngay từ ngày đầu - là chân dung người đàn bà mà nó vẽ ra
trông thật u tối. Nếu đàn bà mạnh mẽ và thông minh, sao họ lại để mình
bị đàn áp như thế? Trong bức tranh này, cơ bản mà nói đàn bà chỉ là
những con cừu, nhu nhược và/ hoặc ngu xuẩn, không như đàn ông.
Thay vì nhìn mọi việc như vậy, tại mỗi giai đoạn trong sự tiến hóa của
nhân loại, nam giới và nữ giới đã cùng nhau tạo ra những hình thái xã
hội để phục vụ cho sự tương tác qua lại. Còn bức tranh này lại cắt nghĩa
nữ giới như một sản phẩm do Tha Nhân nhào nặn ra. Nói cách khác,
những người đòi bình quyền nam nữ đang thừa nhận và củng cố thêm
cho chân dung nữ giới mà họ muốn xóa bỏ. Nhưng đàn ông đơn giản
không phải lợn, và đàn bà cũng không phải là cừu như họ mô tả.
Vì thế, một trong những việc tôi cố gắng làm, dựa trên những khám
phá gần đây của giới nghiên cứu về phong trào nữ quyền, là tìm ra
những quyền lực không thể hiện rõ mà nữ giới từng nắm trong tay để
28. 28 KEN WILBER
tác động đến, và cùng tạo ra các cấu trúc xã hội đa dạng xuyên suốt lịch
sử, kể cả cái được gọi là chế độ gia trưởng. Điều này giúp giải phóng hai
giới khỏi những định nghĩa như đàn ông là lũ đáng khinh, còn đàn bà
thì như bầy đàn bị chăn dắt, bị tẩy não, lợi dụng.
Trong tác phẩm của mình, ông đã truy ra năm hay sáu kỷ nguyên gì
đấy trong quá trình tiến hóa của nhân loại, đồng thời nghiên cứu kỹ địa
vị của nam giới và nữ giới trong từng giai đoạn.
Phải. Khi điều tra các giai đoạn trong sự tiến hóa nhận thức của
con người, một trong những điều tôi muốn làm là nghiên cứu địa vị của
nam giới và nữ giới trong từng giai đoạn. Và tôi tin rằng nhờ vậy mà
mình đã có một vài kết luận quan trọng.
Bằng ngôn ngữ đơn giản, ông có thể giải thích rõ hơn về cách tiếp
cận này?
Điều chúng tôi muốn làm là: Trước tiên, tách biệt những hằng số
sinh học không thay đổi nhiều dù là ở văn hóa nào. Những hằng số này
thoạt trông rất đơn giản và thậm chí là tầm thường, như: nhìn chung
thì lợi thế của đàn ông là sức mạnh cơ thể và sự nhanh nhẹn về mặt
vận động, còn đàn bà thì sinh con và cho con bú. Nhưng những khác
biệt sinh học đơn giản này hóa ra lại có một tác động rất lớn đến những
khác biệt văn hóa hay giới tính nảy sinh xung quanh chúng.
Ông có thể cho ví dụ?
Ví dụ, nếu sinh kế của một nền văn hóa cụ thể nào đó là cưỡi ngựa
và du mục thì sao? Như Janet Chafetz đã chỉ ra, những người đàn bà
tham gia vào các hoạt động này có nguy cơ sảy thai rất cao. Theo thuyết
tiến hóa của Darwin, việc không tham gia vào hoạt động sản xuất là có
lợi cho họ. Hoạt động sản xuất do đó chỉ do đàn ông đảm nhiệm. Và sự
thật là có đến hơn 90% các xã hội du mục theo “chế độ gia trưởng”.
Nhưng chúng ta không nhất thiết phải giải thích khuynh hướng này là
đàn áp. Bằng chứng cho thấy, ngược lại, nữ giới đã tự nguyện tham gia
vào sự sắp đặt này.
29. MỘT LƯỢC SỬ VỀ VẠN VẬT 29
Mặt khác, nếu chúng ta rơi vào những hành động ngây thơ và có
tính phản xạ, và cho rằng nếu đàn bà trong những xã hội này không
sống đúng theo cách mà những người đấu tranh vì nữ quyền nghĩ lẽ ra
họ nên sống, thế tức là họ đã và đang bị đàn áp, thế thì chúng ta lại trở
lại với cuộc đua đàn ông con lợn, đàn bà con cừu. Cách nghĩ này đã hạ
thấp nhân phẩm của cả hai giới, bạn có nghĩ vậy không?
Không ai phủ nhận rằng trong những sắp đặt này, có nhiều cái khó
khăn và thậm chí là khủng khiếp. Tuy nhiên, cái chúng ta đã biết là khi
giữa hai giới có sự phân cực và tách biệt sâu sắc thì cả hai giới đều phải
đau khổ. Trên thực tế, bằng chứng cho thấy đàn ông trong xã hội gia
trưởng phải chịu khó nhọc hơn rất nhiều so với đàn bà. Chúng ta có thể
bàn sâu hơn vì sao, nếu bạn thích. Nhưng ý thức hệ và lối chính trị lợi
dụng vị thế của nạn nhân (victim politics) sẽ không giúp ích gì trong
khía cạnh này. Việc đánh đổi quyền lực của nữ giới để lấy thân phận nạn
nhân là một thất sách. Nó giả định và đồng thời củng cố cho cái mà nó
muốn vượt qua.
Ông nói ông muốn làm hai việc, thứ nhất là nghiên cứu những khác
biệt sinh học có tính phổ quát giữa hai giới.
Phải, và thứ hai là nghiên cứu cách những hằng số sinh học này tự
biểu hiện và phát triển qua năm hay sáu giai đoạn trong sự tiến hóa về
mặt văn hóa của nhân loại. Đại ý là, với cách tiếp cận này, chúng ta có
thể phân lập những nhân tố đã dẫn đến những hình thái xã hội “bình
đẳng” hơn. Tức là những xã hội mà ở đó tập hợp giá trị của nam giới và
nữ giới có địa vị tương đối ngang nhau. Những xã hội này chưa hề cào
bằng, mà chỉ cân bằng hai giới. Và do đó, trong những nỗ lực hiện tại
của chúng ta để đạt đến một quan điểm hòa hợp hơn, chúng ta sẽ hiểu
rõ hơn những gì mình cần, cũng như những gì không cần phải thay đổi.
Có thể chúng ta sẽ biết coi trọng những khác biệt giữa hai tập hợp
giá trị của nam giới và nữ giới. Kể cả những nhà nữ quyền cấp tiến cũng
thừa nhận rằng những khác biệt này có lẽ sẽ tồn tại mãi mãi. Nhưng
chúng ta có thể học để tránh tình trạng bên trọng, bên khinh. Làm sao
để làm được điều này là một trong những chủ đề chúng ta nên bàn đến.
30. 30 KEN WILBER
Phạm vi khảo luận
Những giai đoạn phát triển của con người là một phần trong một
dự phóng lớn hơn để nghiên cứu tiến hóa nói chung, và trong rất nhiều
lĩnh vực - cơ thể, tinh thần, văn hóa, tâm linh - từ tiềm thức đến tự ý
thức và siêu ý thức. Ông đã làm điều này trong cả chục cuốn sách, từ The
Spectrum of Consciousness đến The Atman Project, đến Up from Eden
và sau đó là Sex, Ecology, Spirituality. Mục đích của chúng ta là điểm qua
những ý tưởng này - về sự tiến hóa của ý thức, sự phát triển về mặt tâm
linh, vai trò của nam giới và nữ giới, sinh thái học và vị thế của chúng ta
trong Hoàn Vũ - và xem liệu chúng ta có thể thảo luận chúng một cách
đơn giản và ngắn gọn hay không. Liệu ta có thể làm chúng trở nên dễ tiếp
cận hơn hay không?
Chúng ta có thể xuất phát từ thực tế rất đáng ngạc nhiên rằng dường
như có một sợi dây xâu chuỗi quá trình tiến hóa từ vật chất đến sự sống
và đến tinh thần. Có những mô thức chung, hay những quy luật, những
thói quen cứ lặp đi lặp lại trong mọi lĩnh vực. Chúng ta có thể bắt đầu
bằng cách nhìn vào những mô thức lạ thường này, vì dường như chúng
nắm giữ trong mình bí mật của tiến hóa.
Ông cũng đã nghiên cứu những giai đoạn cao hơn trong sự tiến hóa
của ý thức, những giai đoạn này có lẽ tốt nhất nên gọi là tinh thần.
Phải. Đó là sự tiếp nối của nhiều chủ đề do Schelling, Hegel,
Aurobindo, và nhiều lý thuyết gia về tiến hóa khác của Đông lẫn Tây
gợi ra. Ý tôi là, theo những ngôi sao trí tuệ này, cách tốt nhất để hình
dung tiến hóa là xem nó như Tinh-Thần-trong-quá-trình-diễn-hóa,
hay Thượng-Đế-trong-quá-trình-thành-tựu. Theo quan niệm này, Tinh
Thần ngoại hiện tại mọi giai đoạn phát triển, do đó nó biểu hiện mình
và nhận biết được mình ngày càng rõ rệt hơn ở mỗi lần ngoại hiện. Tinh
Thần không phải là một giai đoạn cụ thể, không phải một ý thức hệ
được ưa chuộng nào đó, cũng không phải bất cứ nam thần hay nữ thần
nào, mà đúng hơn là toàn bộ quá trình tự ngoại hiện mình. Đó là một
quá trình vô tận hiện hữu đầy đủ ở mọi giai đoạn, nhưng sau mỗi lần,
sự tiến hóa mở ra, nó lại được thể hiện rõ hơn.
31. MỘT LƯỢC SỬ VỀ VẠN VẬT 31
Và đúng vậy, theo các truyền thống triết học lớn của nhân loại,
chúng ta có thể nhìn vào những giai đoạn cao hơn của quá trình tiến
hóa và ngoại hiện này – những giai đoạn cao hơn hay sâu hơn, nơi Tinh
Thần tự ý thức được nó, tự giác ngộ và bắt đầu nhận biết được bản chất
của chính nó.
Trong trí tưởng tượng của chúng ta, những giai đoạn cao hơn này
thường rất huyền bí và “lạ lẫm”, nhưng phần lớn chúng đều rất cụ thể,
rõ ràng như có thể sờ ngắm được. Mỗi người chúng ta đều có thể đạt
đến những giai đoạn này. Mỗi người chúng ta đều mang trong mình
những tiềm năng sâu thẳm này.
Ông đã nhận ra rằng các truyền thống tâm linh lớn của nhân loại rơi
vào hai nhóm chính rất khác nhau.
Đúng vậy, nếu chúng ta nhìn vào những nỗ lực của con người để
hiểu Thần Tính - từ cả Đông và Tây, Bắc và Nam - chúng ta sẽ nhận ra
rằng có hai loại hình linh đạo rất khác biệt. Và tôi gọi chúng là Xuất Thế
và Quy Thế.
Con đường Xuất Thế thuần túy mang tính siêu việt và thoát tục. Nó
thường rất khắt khe về đạo đức, khổ hạnh và nhấn mạnh việc luyện tập
yoga, đồng thời xem nhẹ hoặc thậm chí phủ nhận cơ thể, các giác quan,
tính dục, và nhục dục. Nó tìm kiếm sự cứu rỗi trong một thế giới khác;
nó xem mọi biểu hiện ở thế giới này hay cõi luân hồi là xấu xa và hão
huyền; và nó tìm cách để thoát khỏi vòng luân hồi. Trên thực tế, mọi loại
hình Quy Thế trong mắt nó đều là xấu xa và hão huyền. Con đường Xuất
Thế tôn vinh cái Đơn Nhất chứ không phải cái Đa Tạp; Tính Không chứ
không phải Hình Thái, Thiên Đường chứ không phải Mặt Đất.
Còn con đường Quy Thế lại khuyên bảo ta điều ngược lại. Nó lấy thế
giới này làm cốt lõi, và tôn vinh cái Đa Tạp thay vì cái Đơn Nhất. Nó ca
tụng trái đất, thân thể, các giác quan, và thường cả tính dục. Nó thậm
chí còn đồng nhất Tinh Thần và thế giới qua cảm nhận của giác quan,
với Gaia, với sự trình hiện và nhìn thấy trong từng bình minh, từng lúc
trăng lên, tất cả Tinh Thần mà con người có thể đòi hỏi. Nó thường rất
32. 32 KEN WILBER
nội tại và hoài nghi bất cứ thứ gì siêu vượt. Trên thực tế, trong mắt
những người Quy Thế, mọi loại hình Xuất Thế đều là xấu xa.
Một trong những điểm chúng ta muốn thảo luận là lịch sử “chiến
tranh” giữa những người Quy Thế và Xuất Thế. Họ đều là hiện thân của
cái ác trong mắt nhau.
Phải, đây là một cuộc chiến đầy thù oán và đẫm máu đã kéo dài ít
nhất 2.000 năm. Ở phương Tây, ước chừng từ thời của Augustine đến
Copernicus, lý tưởng của chúng ta là Xuất Thế thuần túy, thế giới bên
kia là cốt lõi. Chúng ta sẽ không bao giờ tìm được sự cứu rỗi và giải
thoát sau cùng trong thân xác, trên trái đất này, hay trong cuộc đời này.
Ý tôi là, có thể cuộc sống hiện tại của bạn vẫn ổn, nhưng mọi thứ sẽ trở
nên thú vị hơn nhiều một khi bạn chết. Một khi bạn về thế giới bên kia.
Nhưngrồi,vớisựtrỗidậycủachủnghĩahiệnđạivàhậuhiệnđại,chúng
ta đã chứng kiến một sự đảo ngược triệt để và hoàn toàn - những người
Xuất Thế đã bị cho ra rìa, và thay vào chỗ họ là những người Quy Thế.
Ông gọi đây là “sự thống trị của những người Quy Thế”, và đây là một
trong những chủ đề lớn mà chúng ta sẽ bàn đến. Ông chỉ ra rằng gần như
toàn bộ thế giới hiện đại và hậu hiện đại bị chi phối bởi quan niệm và thế
giới quan Nội Thế.
Phải, họ cho rằng thế giới của giác quan, của kinh nghiệm và của
vật chất là thế giới duy nhất. Con người không có bất kỳ tiềm năng
nào cao hơn hay sâu hơn - không có bất cứ giai đoạn tiến hóa nào của
ý thức là cao hơn và siêu vượt - chỉ có những thứ đã có thể cảm nhận
bằng giác quan và sờ nắm được bằng tay. Trong thế giới này không hề
tồn tại bất cứ năng lượng Xuất Thế nào, cũng như bất cứ sự siêu vượt
nào. Và thực tế là những người Quy Thế thường khinh miệt mọi nỗ lực
Xuất Thế hay siêu vượt. Nhẹ nhất thì chúng bị coi là lầm lạc, còn nặng
nề hơn là xấu xa.
Nhưng theo tôi hiểu thì ông muốn hòa nhập và bao hàm những gì tốt
đẹp nhất của cả hai hướng Xuất Thế và Quy Thế, có phải không?
33. MỘT LƯỢC SỬ VỀ VẠN VẬT 33
Phải. Tôi tin rằng chúng ta có thể học được một số điều rất quan
trọng từ cả hai.
Mặt khác, khi giữa hai bên có sự phân ly, hay khi bên này cố gắng
phủ nhận bên kia, điều đó thường dẫn đến những kết quả phiến diện, có
nhiều hạn chế mà lại có tính áp bức.
Tôi tin là vậy. Ai cũng biết mặt trái của con đường Xuất Thế thuần
túy: Nó rất khắt khe về mặt đạo đức và làm cuộc sống trở nên ngột ngạt.
Nó thường phủ nhận, xem thường và thậm chí đàn áp cơ thể con người,
các giác quan, trái đất, tính dục và nhiều thứ khác.
Trong lúc đó, con đường Quy Thế nhắc nhở rằng chúng ta có thể
hân hoan tìm thấy Tinh Thần trong chính cơ thể, nhục dục, trái đất, sự
sống, sinh lực và sự đa dạng. Nhưng bản thân nó cũng có nhiều hạn chế.
Nếu không có bất cứ sự siêu vượt nào cả, và thế thì chẳng có cách nào
để vượt lên thế giới của giác quan; không có cách nào để khám phá ra
một liên kết sâu hơn, rộng hơn và cao hơn giữa chúng ta và mọi sinh
linh khác. Chúng ta bị giới hạn trong bề mặt của các giác quan, trong vẻ
ngoài nông cạn, cái khiến chúng ta trở nên xa cách hơn là hợp nhất. Khi
không có bất cứ sự siêu vượt hay Xuất Thế, chúng ta chỉ có Nội Thế, và
đây là một cõi sống rất nông cạn, rời rạc, và bị tha hóa.
Ông gọi cõi Nội Thế này là “bình địa” (flatland).
Phải, bình địa. Những con người hiện đại và hậu hiện đại chúng ta
hầu như chỉ sống trong Nội Thế thuần túy này, một thế giới phẳng lì và
mờ nhạt của vô số những hình thái cảm quan, một thế giới nông cạn
với những bề mặt ảm đạm và u ám. Dù là với chủ nghĩa tư bản hay chủ
nghĩa Marx, chủ nghĩa công nghiệp hay tâm lý học sinh thái, khoa học
gia trưởng hay chủ nghĩa nữ quyền sinh thái - trong hầu hết trường
hợp, Thượng Đế của chúng ta, bất kể là Nam Thần hay Nữ Thần, phải là
cái chúng ta có thể cảm nhận được bằng giác quan, nhìn thấy bằng mắt,
thờ phụng với những xúc cảm mạnh mẽ, một Thượng Đế mà chúng ta
có thể thử thật, giả bằng cách cắn răng vào ông ta, một Thượng Đế có
hình hài rõ ràng.
34. 34 KEN WILBER
Dù chúng ta có tin rằng mình có tâm linh hay không, những người
sống trong bình địa chúng ta chỉ thờ phụng tại ngôi đền của Thượng
Đế Nội Thế, Thượng Đế của các giác quan, của thế giới xúc cảm, thế
giới đơn sắc của vị trí, thế giới mà ta có thể cầm nắm. Đối với chúng
ta, chẳng có thứ gì cao hơn hay sâu hơn ngoài vị Thượng Đế đang leng
keng ngoài kia trong tầm mắt của chúng ta.
Ông có chỉ ra rằng những truyền thống triết học Phi nhị nguyên, ở cả
phương Đông và phương Tây, đã cố gắng để hòa giải cả hai con đường
Xuất Thế và Quy Thế này.
Phải, họ cố gắng cân bằng giữa siêu vượt và nội tại, cái Đơn Nhất và
cái Đa Tạp, Tính Không và Hình Thái, niết bàn và luân hồi, Thiên Đường
và Mặt Đất.
“Phi nhị nguyên” là sự tích hợp của Xuất Thế và Quy Thế?
Đúng thế.
Thế thì đây cũng là một điểm nữa mà chúng ta sẽ thảo luận - dòng
chảy của hai trường phái linh đạo Xuất Thế và Quy Thế, và làm thế nào
chúng ta có thể tích hợp cả hai trong đời sống thường ngày của mình.
Tôi nghĩ rằng điều này rất quan trọng, vì, xin nhắc lại, cả hai con
đường đều có những điều cực kỳ quan trọng để chúng ta học hỏi. Chính
trong sự hợp nhất của hai dòng chảy Xuất Thế và Quy Thế, chúng ta sẽ
tìm thấy sự hài hòa, chứ không phải trong cuộc chiến giữa đôi bên. Có
vẻ như chỉ khi Xuất Thế và Quy Thế hợp nhất, ta mới cứu được cả hai.
Và nếu chúng ta - nếu bạn và tôi - không góp sức để mang lại sự hợp
nhất này, thế thì rất có khả năng chúng ta chẳng những sẽ hủy diệt trái
đất duy nhất mà còn sẽ mất cả Thiên Đường, nơi lẽ ra ta có thể đến.
37. MÔ HÌNH KẾT NỐI
Vậy thì chúng ta sẽ khởi đầu với Tiếng Nổ Lớn (Big Bang) và sau đó
vẽ lại quá trình tiến hóa từ vật chất đến sự sống và đến tâm thức (mind).
Với sự đột sinh của tâm thức, của ý thức nhân loại, chúng ta sẽ xem xét
năm hay sáu giai đoạn trong sự tiến hóa của con người. Và tất cả những
điều này đều được đặt trong bối cảnh LINH ĐẠO (SPIRITUALITY) - về ý
nghĩa của linh đạo, về những hình thái khác nhau của linh đạo xuất hiện
trong lịch sử và trong tương lai. Đúng không nào?
Đúng là vậy! Nói chung đó là một loại lịch sử ngắn về tất cả mọi
sự. Điều này mới nghe qua thật là quá hoành tráng, nhưng nó dựa
trên những điều mà tôi gọi là “những định hướng tổng quát hóa”
(generalizing orientations), vốn sẽ đơn giản hóa mọi thứ đi rất nhiều.
Một định hướng tổng quát hóa là gì?
Nếu chúng ta quan sát những lĩnh vực khác nhau của tri thức con
người - từ vật lý cho đến sinh học, tâm lý học, xã hội học, thần học, và
tôn giáo - chúng ta sẽ nhận ra một số chủ đề chung và thực sự có rất
ít sự bất đồng quan điểm giữa các chủ đề chung đó. Ví dụ như trong
sự phát triển về tinh thần đạo đức, không phải ai cũng đồng ý với các
Chương 1
38. Mục lục
Lời giới thiệu 5
Lời tựa cho tái bản 11
Một lưu ý dành cho độc giả 15
Dẫn nhập 19
PHẦN MỘT
TINH-THẦN-TRONG-QUÁ-TRÌNH-DIỄN-HÓA 35
Chương 1 Mô hình kết nối 37
Chương 2 Sinh mạch bí ẩn 57
Chương 3 Về vấn đề con người 75
Chương 4 Đại cách mạng hậu hiện đại 91
Chương 5 Bốn góc của Hoàn Vũ 107
Chương 6 Hai tay của Thượng Đế 125
Chương 7 Thích nghi với Hoàn Vũ 153
Chương 8 Chân, Thiện, Mỹ 173
PHẦN HAI
NHỮNG CẢNH GIỚI KHÁC NHAU CỦA TINH-THẦN-
TRONG-QUÁ-TRÌNH-DIỄN-HÓA 191
Chương 9 Sự tiến hóa của ý thức 193
Chương 10 Trên đường đi ra toàn cầu: phần 1 219
Chương 11 Trên đường đi ra toàn cầu: phần 2 249
Chương 12 Những cảnh giới siêu ý thức: phần 1 271
Chương 13 Những cảnh giới siêu ý thức: phần 2 299
PHẦN BA
RA NGOÀI NỘI THẾ 327
Chương 14 Xuất Thế và Quy Thế 329
Chương 15 Hoàn Vũ sụp đổ 351
Chương 16 Bản ngã và Sinh thái 379
Chương 17 Quy Thế áp đảo 403
Chương 18 Một tầm nhìn tích hợp 423
Lời bạt 461
Phụ lục 490
39. Chịu trách nhiệm xuất bản - Giám đốc: Bùi Việt Bắc
Chịu trách nhiệm nội dung - Tổng biên tập: Lý Bá Toàn
Biên tập: Th.S Nguyễn Khắc Oánh
Sửa bản in: Bảo Châu - Duy Lộc
Bìa: Hà Thảo
Trình bày: Phượng Nguyễn
HỘI LUẬT GIA VIỆT NAM
NHÀ XUẤT BẢN HỒNG ĐỨC
65 Tràng Thi - Quận Hoàn Kiếm - Hà Nội
Email: nhaxuatbanhongduc65@gmail.com
Điện thoại: 024.39260024 - Fax: 024.39260031
CÔNG TY TNHH PHAN LỆ & FRIENDS
Khu TMDV - Tòa nhà Gold View A1-06.04
346 Bến Vân Đồn, P.1, Q.4, TP. HCM
028 36369928 - 0129 9274566
www.phanbook.vn; info@phanbook.vn
In 1.000 cuốn, khổ 16 x 24cm, tại Công ty Cổ phần In Khuyến học phía Nam
Lô B5-8, đường D4, KCN Tân Phú Trung, Củ Chi, TP. HCM
Số ĐKKHXB: 499-2023/CXBIPH/07-12/HĐ
Quyết định xuất bản số 396/QĐ-NXBHĐ do NXB Hồng Đức cấp ngày 2-3-2023
In xong và nộp lưu chiểu năm 2023
ISBN: 978-604-398-208-4