SlideShare a Scribd company logo
1 of 50
Download to read offline
NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ
- NGUYỄN TUÂN –
A. Tác giả
1. Tiểu sử
- Nguyễn Tuân (1910 – 1987) sinh ra ở làng mộc, tại phố Hàng Bạc, Thanh Xuân, Hà Nội. Mảnh
đất Hà Nội đã đem đến cho con người và văn chương Nguyễn Tuân nét tinh tế tài hoa. Tuy nhiên
ngay từ khi còn nhỏ ông đã theo gia đình sống nhiều năm ở các tỉnh và thành phố như Thanh
Hóa, Hà Tĩnh, Huế, Quảng Nam, Đà Nẵng, Phú Yên, Khánh Hòa. Những vùng đất ấy, đặc biệt là
Thanh Hóa đã để lại nhiều dấu ấn trong sáng tác của ông.
- Ông sinh ra trong một gia đình nhà Nho cuối thời, là con trai của cụ Nguyễn An Lan (tức ông
tú Hải Văn), một nhà Nho bất đắc chí nhưng hết mực tài hoa. Từ nhỏ đã được tiếp xúc với Nho
học. Trong gia đình, Nguyễn Tuân ảnh hưởng rất mạnh từ người cha của mình.
- Nguyễn Tuân là một trí thức giàu lòng yêu nước và tinh thần dân tộc. Lòng yêu nước của ông
có màu sắc riêng: gắn liền với những giá trị văn hóa cổ truyền của dân tộc. Ông yêu tha thiết
tiếng mẹ đẻ, những kiệt tác văn chương của Nguyễn Du, Đoàn Thị Điểm, Tú Xương, Tản Đà...
những phong cảnh đẹp của quê hương đất nước, những thú chơi tao nhã như uống trà, nhắm
rượu, chơi hoa, chơi chữ đẹp, đánh thơ, thả thơ... những món ăn truyền thống thể hiện khẩu vị
tinh tế của người Việt.
- Ở Nguyễn Tuân, ý thức cá nhân phát triển rất cao. Ông viết văn trước hết để khẳng định cá
tính độc đáo của mình. Ông ham du lịch, tự gán cho mình một chứng bệnh gọi là “chủ nghĩa xê
dịch”.
- Nguyễn Tuân là con người rất mực tài hoa. Tuy chỉ viết văn nhưng ông còn am hiểu nhiều môn
nghệ thuật khác: hội họa, điêu khắc, sân khấu, điện ảnh... Đồng thời Nguyễn Tuân còn là một
diễn viên kịch nói có tài và là một diễn viên điện ảnh đầu tiên ở nước ta. Ông thường vận dụng
con mắt của nhiều ngành nghệ thuật khác nhau để tăng cường khả năng quan sát, diễn tả của
nghệ thuật văn chương.
- Nguyễn Tuân là một nhà văn biết quý trọng thật sự nghề nghiệp của mình. Ngay từ trước Cách
mạng tháng Tám, ông đã quan niệm nghề văn là một cái gì đối lập với tính vụ lợi kiểu con buôn,
và ở đâu có đồng tiền phàm tục thì ở đấy không thể có cái đẹp. Đối với ông, nghệ thuật là một
hình thái lao động nghiêm túc, thậm chí “khổ hạnh” và ông đã lấy chính cuộc đời cầm bút hơn
nửa thế kỉ của mình để chứng minh cho quan niệm ấy.
2. Sự nghiệp văn học
a. Tác phẩm chính
- Bút danh của Nguyễn Tuân: Nguyễn Tuân, Nhất Lang, Thanh Thuỷ, Thanh Hà, Ngột Lôi Nhật,
Ngột Lôi Quật, Ân Ngũ Tuyên, Tuấn Thừa Sắc.
- Nguyễn Tuân không phải là nhà văn thành công ngay từ những tác phẩm đầu tay. Ông viết
văn từ năm 1930 nhưng thực sự nổi tiếng ở năm 1939. Ông đã thử bút qua nhiều thể loại: thơ, bút
kí, truyện ngắn hiện thực trào phúng. Nhưng mãi đến đầu năm 1938, ông mới nhận ra sở trường
của mình và thành công xuất sắc với các tác phẩm: “Một chuyến đi, Vang bóng một thời, Thiếu
quê hương, Chiếc lư đồng mắt cua...”. Tác phẩm Nguyễn Tuân trước Cách mạng tháng Tám chủ
yếu xoay quanh ba đề tài: chủ nghĩa xê dịch, vẻ đẹp vang bóng một thời, và đời sống trụy lạc.
– Trước 1945 : Một chuyến đi (1938), Vang bóng một thời (1939), Ngọn đèn dầu lạc (1939), Thiếu
quê hương (1940), Tàn đèn dầu lạc (1941), Chiếc lư đồng mắt cua (1941), Tùy bút I (1941), Tùy bút II
(1943), Tóc Chị Hoài (1943), Nguyễn (1945).
– Sau 1945 : Chùa Ðàn (1946), Ðường vui (1949), Tình chiến dịch (1950), Thắng càn (1963), Tùy bút
kháng chiến và hòa bình (Tập I/1955, tập II/1956), Sông Ðà (1960), Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi (1972),
Ký (1976), Hương vị và cảnh sắc đất nước (1978), Tuyển tập Nguyễn Tuân (1994).
b. Sự nghiệp văn học của Nguyễn Tuân chia làm 2 giai đoạn:
+ Trước năm 1945: Tác phẩm của ông chủ yếu xoay quanh 3 đề tài:
• Mảng đề tài “Chủ nghĩa xê dịch”: Chủ nghĩa xê dịch vốn là một lí thuyết vay mượn của phương
Tây, chủ trương đi không mục đích, chỉ luôn luôn thay đổi chỗ để tìm cảm giác mới lạ và thoát li
mọi trách nhiệm với gia đình và xã hội. Nguyễn Tuân đã tìm đến lí thuyết này trong tâm trạng
bất mãn và bất lực trước thời cuộc. Nhưng viết về chủ nghĩa xê dịch, Nguyễn Tuân lại có dịp bày
tỏ tấm lòng gắn bó tha thiết của ông đối với cảnh sắc và phong vị của đất nước mà ông đã ghi lại
được bằng một ngòi bút đầy trìu mến và tài hoa (Một chuyến đi).Ông quan niệm một cách độc
đáo là phải xê dịch để “thay đổi thực đơn cho các giác quan”
• Mảng đề tài “Vang bóng một thời”: Không tin tưởng ở hiện tại và tương lai, Nguyễn Tuân đi tìm
vẻ đẹp của quá khứ còn vang bóng một thời. Ấy là thời phong kiến đã qua nhưng dư âm còn vang
vọng lại. Ông không viết về trật tự xã hội, về tư tưởng đạo đức cũ, mà phục sinh lại vẻ đẹp riêng
của thời xưa với những phong tục đẹp, những thú tiêu dao hưởng lạc lành mạnh và tao nhã,
những cách ứng xử giữa người với người đầy nghi lễ nhịp nhàng... Ông đã âm thầm làm công
việc khơi lại đống tro tàn để lưu giữ những vẻ đẹp chỉ còn vang bóng. Đặt trong hoàn cảnh đất
nước đang bị thực dân Pháp cai trị, mảng đề tài này thể hiện sự quay lưng với thực tại. Tất cả
được thể hiện thông qua những con người thuộc lớp người nhà nho tài hoa bất đắc chí, tuy đã
thua cuộc nhưng không chịu làm lành với xã hội thực dân (trong số này cũng có những người có
khí phách ngang tàng như Huấn Cao (Chữ người tử tù) chẳng hạn).
• Mảng đề tài về đời sống trụy lạc: Do mồ côi về mặt tư tưởng, có những lúc Nguyễn Tuân rơi vào
chán nản, bế tắc. Ở những tác phẩm này, người ta thường thấy có một nhân vật “tôi” hoang
mang bế tắc, tìm cách thoát li trong đàn hát, trong rượu và thuốc phiện. Trong tình trạng khủng
hoảng tinh thần ấy, người ta thấy đôi khi vút lên từ cuộc đời nhem nhuốc, phàm tục niềm khao
khát một thế giới tinh khiết, thanh cao, được nâng đỡ trên đôi cánh của nghệ thuật (Chiếc lư
đồng mắt cua, Ngọn đèn dầu lạc,…).
+Sau năm 1945:
• Nguyễn Tuân đã được giác ngộ Cách mạng, ông không còn quay lưng với cuộc đời mà ông tìm
thấy sự hòa hợp với cuộc sống mới và con người mới. Từ sau Cách mạng tháng Tám 1945, ông
chân thành đem ngòi bút phục vụ cuộc chiến đấu của dân tộc, theo sát từng nhiệm vụ chính trị
của đất nước. Nhưng Nguyễn Tuân luôn luôn có ý thức phục vụ trên cương vị của một nhà văn,
đồng thời vẫn muốn phát huy cá tính và phong cách độc đáo của mình. Ông đã đóng góp cho nền
văn học mới nhiều trang viết sắc sảo và đầy nghệ thuật ca ngợi quê hương đất nước, ca ngợi
nhân dân lao động trong chiến đấu và sản xuất. ( Tùy bút sông Đà, Hà Nội ta đánh giặc Mỹ
giỏi,…)
3. Phong cách nghệ thuật
- Trước Cách mạng tháng Tám
+ Phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân có thể thâu tóm trong một chữ “ngông”. “Ngông” là thái
độ khinh đời, ngạo đời, dựa trên tài hoa, sự uyên bác và nhân cách hơn đời của mình. “Nguyễn
Tuân bước vào nghề văn như để “chơi ngông” với thiên hạ”. Nhu cầu “chơi ngông” buộc Nguyễn
Tuân phải đẩy mọi cái thông thường tới cực đoan, thậm chí tới kì thuyết, nghịch thuyết. Chủ
nghĩa độc đáo trong sinh hoạt tất dẫn đến lối sống lập dị, trong sáng tác tất dẫn đến bất chấp
nội dung ý nghĩa nghiêm túc, tha hồ phóng bút để ném ra những gì kì lạ, oái oăm, cầu kì, rắc
rối. Cái “ngông” đó không phải do chủ nghĩa cá nhân bế tắc mà do “thiên lương” của một trí thức
yêu nước, biết coi trọng nhân cách, muốn tách mình ra và “đặt mình lên trên những cái tầm
thường của những kẻ thỏa mãn với thân phận nô lệ” (Nguyễn Đăng Mạnh). Ngày xưa, Nguyễn
Công Trứ có câu thơ rất ngông:
“Trời đất cho ta một cái tài
Giắt lưng dành để tháng ngày chơi”. ( Cầm kì thi tửu bài 1)
+ Nguyễn Tuân là một người tài hoa uyên bác. Sự thật đó được chứng minh ở các điểm sau:
o Sự tài hoa
• Nhân vật: Các nhân vật trong sáng tác của Nguyễn Tuân không được đánhgiá các tiêu
chuẩn tốt xấu, đúng sai, thiện ác mà ông chỉ chú ý đến vẻ đẹp trong mỗi nhân vật. Nhìn
người ở phương diện tài hoa nghệ sĩ, tạo nên những nhân vật tài hoa để... đem đối lập với
những con người bình thường, phàm tục. Con người trong văn Nguyễn Tuân bao giờ cũng
đẹp với vẻ tài hoa nghệ sĩ trong nghề nghiệp của mình. Với Nguyễn Tuân những người
bình thường khi thực hiện những công việc bình thường trong phạm vi nghề nghiệp mà họ
đang làm nếu đạt tới một trình độ tinh xảo, nhuần nhuyễn, khéo léo mà người khác khó
lòng theo kịp thì được coi là một kẻ tài hoa: “mĩ thuật vốn không có bà con luận lí với thời
đại, một thằng ăn cắp cũng trở lên đẹp đẽ khi nó cắt túi người ta rất gọn, rất nhanh”.
Nguyễn Tuân tiếp cận mọi sự vật ở mặt văn hóa thẩm mĩ để khám phá và... khen chê.
Nguyễn Tuân luôn say mê truy tìm vẻ đẹp độc đáo của con người và cuộc sống. Ông tô
đậm cái phi thường, gây cảm giác mãnh liệt dữ dội. Nguyễn Tuân thường miêu tả những
cảnh đẹp tuyệt mĩ, tuyệt đích; cái đẹp ấy là sự hội tụ của cái đẹp thi vị trữ tình và vẻ đẹp
hoành tráng dữ dội đến dữ dằn.
• Ngôn từ: Nguyễn Tuân được mệnh danh là bậc phù thủy ngôn từ trong văn học Việt Nam.
Các nhà phê bình đã từng ca ngợi: “Ngôn ngữ của Nguyễn Tuân như những khớp xương,
có sự co duỗi nhịp nhàng”. Còn nhà văn Anh Đức so sánh: “Mỗi chữ Nguyễn Tuân giống
như một cái triện ngọc”.
o Sự uyên bác: Ngòi bút uyên bác của Nguyễn Tuân được tạo nên bởi kho tri thức vô cùng đồ
sộ về các ngành, khoa học và các bộ môn nghệ thuật. Vận dụng trí thức của nhiều ngành
văn hóa, nghệ thuật để quan sát hiện thực, sáng tạo hình tượng.
o Sự phóng túng: Khi viết văn, Nguyễn Tuân đặt cá tính lên hàng đầu, không chịu khuôn
mình theo bất kì một công thức, lối mòn nào. Chính vì thế mà Nguyễn Tuân sinh ra để dành
cho thể loại tùy bút - thể loại phóng túng nhất trong văn học Việt Nam.
+ Nguyễn Tuân là một con người có nhân cách đạo đức hơn đời: chỗ dựa ở thái độ “ngông” của
ông không chỉ ở sự tài hoa uyên bác mà còn ở tính cách “ngông” của ông. Cái gốc của nhân cách
đạo đức của Nguyễn Tuân là lòng yêu nước, tinh thần dân tộc, niềm tha thiết với cái đẹp của
văn nghệ, của phong tục tập quán, của thiên nhiên và những thú chơi tao nhã.
+ Trước Cách mạng, Nguyễn Tuân quan niệm cái đẹp chỉ có ở trong quá khứ gọi là “Vang bóng
một thời” và tài hoa người nghệ sỹ chỉ có ở những con người xuất chúng, thuộc thời trước còn
vương sót lại như Huấn Cao trong “Chữ người tử tù”, Bát Lê trong “Bữa rượu máu”.
=> Nguyễn Tuân là một cái tôi “ngông” vừa rất lạ, rất đặc biệt, vừa lấp lánh không gì sánh nổi
trên bầu trời văn học Việt Nam. Ông là một con tằm rong chơi qua ngàn dâu thắm, hóa kén
mọng, nhả tơ vàng, dệt nên nhiều lụa óng, lắm “trang hoa”, góp phần làm vẻ vang thêm cho nền
văn học sớm đã rộn ràng của nước nhà.
- Sau Cách mạng tháng Tám
+ Sự vận động, đổi mới trong phong cách nghệ thuật tồn tại song song với tính thống nhất, ổn
định của phong cách nghệ thuật. Quy luật sáng tạo đòi hỏi người nghệ sĩ phải biết vượt lên
chính mình và không được giẫm lên dấu chân người khác. Phong cách Nguyễn Tuân cũng có sự
vận động theo chiều hướng tích cực ấy. Trước và sau Cách mạng là cả một sự thay đổi kì diệu
trong văn ông. Cách mạng đã giải thoát cho tâm hồn và nghệ thuật Nguyễn Tuân, hướng nhà
văn tới cuộc sống và nhân dân.
+ Sau Cách mạng, Nguyễn Tuân đi đầu trong cuộc “lột xác văn chương”, ông hòa cái tôi nghệ
thuật của mình vào cái ta chung của cộng đồng, không còn nhấm nháp, say sưa chắt chiu cái
đẹp trong những tiểu thế giới tù túng, chật hẹp nữa. Nhà văn cảm nhận được cái khỏe đẹp, rộng
rãi, bao la của đất trời đổi mới. Cái nhìn của nhà văn với cuộc sống, con người trở nên đôn hậu
hơn. Quan niệm của ông về cái đẹp vì thế mà bớt đi sự phù phiếm, phiến diện, từng bước tiếp
cận với cái đẹp chân chính và tiến bộ. Ông đi tìm cái đẹp của chủ nghĩa anh hùng trong đời
sống của những con người lao động bình thường mà rất phi thường ở công cuộc xây dựng xã hội
chủ nghĩa miền Bắc lúc bấy giờ như “thứ vàng mười” đã qua thử lửa mà ta bắt gặp đâu đó qua
nhân vật Nhẫn (“Cỏ non” - Hồ Phương), anh thanh niên Long (“Lặng lẽ Sa Pa” - Nguyễn Thành
Long), chị Đào (“Mùa lạc” - Nguyễn Khải). Ông lái đò sông Đà trong tuỳ bút Người lái đò sông
Đà cũng là một con người như thế. Miêu tả tư thế vượt thác hiên ngang, anh dũng của ông lái
đò, Nguyễn Tuân ca ngợi phẩm chất của người lao động thời đại mới, chủ động trước thiên
nhiên, dám tấn công vào những thế lực dữ dội nhất của thiên nhiên. Đây là khám phá mới mẻ,
độc đáo của Nguyễn về hình ảnh con người mới.
=> Nếu như trước Cách mạng, Nguyễn Tuân có cái “ngông”, “khinh bạt”, “ngạo đời” với xung
quanh thì nay ông dùng cái nhìn ấy để đả kích, tấn công kẻ thù. Nhà văn để dành lối khinh bạt
ấy cho thực dân Pháp nhằm đả kích, mỉa mai chưa hề bao giờ tôi thấy dòng sông Đà đen như
thực dân Pháp đã đè ngửa con sông ta ra đổ mực Tây vào mà gọi bằng một cái tên Tây lếu láo
mà cứ như thế mà phết vào bản đồ lai chữ (Người lái đò sông Đà). Sự thay đổi sắc sảo trong ngòi
bút Nguyễn Tuân cũng là kết quả của quá trình “lột xác” đầy đau đớn của ông.
=> Trước và sau Cách mạng có sự thay đổi lớn trong thể loại văn Nguyễn Tuân. Nếu như trước
Cách mạng, ở các tập truyện ngắn Nguyễn Tuân được coi là bậc thầy với những nét độc đáo,
riêng biệt thì nét phong cách này được thể hiện rõ trong Chữ người tử tù – “một truyện ngắn
gần đạt tới sự toàn mĩ” (Vũ Ngọc Phan). Sau Cách mạng, thể loại tuỳ bút phát triển mạnh mẽ
hơn, Người lái đò sông Đà là một trong những thành công xuất sắc của tuỳ bút Nguyễn Tuân. Có
thể nói trong thể loại tuỳ bút trong làng văn Việt Nam đã xuất hiện Thạch Lam, Vũ Bằng…
nhưng chưa ai theo kịp được “thể phách Nguyễn Tuân”.
=> Nguyễn Tuân còn có đóng góp không nhỏ cho sự phát triển của ngôn ngữ văn học Việt Nam.
Ông có một kho từ vựng phong phú và một khả năng tổ chức câu văn xuôi đầy giá trị tạo hình,
lại có nhạc điệu trầm bổng, biết co duỗi nhịp nhàng. Nhận xét về phong cách nghệ thuật Nguyễn
Tuân, Anh Đức viết: “Không biết chừng nào mới lại có một nhà văn như thế, một nhà văn mà khi
ta gọi là một bậc thầy của ngôn từ ta không hề thấy ngại miệng, một nhà văn độc đáo, vô song
mà mỗi dòng, mỗi chữ tuôn ra đầu ngọn bút đều như có đóng một dấu triện riêng”.
 Với gần 50 năm hoạt động văn học liên tục, bằng ngòi bút đầy tài năng của mình, Nguyễn
Tuân đã có những đóng góp tto lớn, một vị trí quan trọng trong lịch sử văn học Việt Nam:
Thúc đẩy thể tùy bút, bút kí văn học đạt đến đỉnh cao, làm phong phú thêm ngôn ngữ dân tộc,
đem đến cho nền văn xuôi hiện đại Việt Nam một phong cách tài hoa và độc đáo.Nguyễn
Tuân đã thực sự “vang bóng một thời” và những trang văn tài hoa, độc đáo của ông cũng sẽ
bất tử mãi tử mãi trong lòng bạn đọc.
 Nhà văn Nguyễn Tuân “đặc Việt Nam” (chữ dùng của Vũ Ngọc Phan) từ quan niệm cho tới
thực tế sáng tác. Chất văn hóa như sợi chỉ đỏ xuyên suốt, là cái phần cơ bản nhất làm nên giá
trị vĩnh hằng cho văn nghiệp của ông.
 Vẻ đẹp của trang viết Nguyễn Tuân là kết quả tất yếu từ một cách viết mang chiều sâu, bề
rộng và tầm cao văn hóa. Lòng yêu nước và tinh thần dân tộc, đặc biệt biểu hiện ở thái độ
thành kính trân trọng tiếng mẹ đẻ và các giá trị truyền thống chính là động lực bên trong,
thôi thúc nhà văn không ngừng tìm tòi, khơi nguồn vốn cũ và sáng tạo nên giá trị mới. Ông
xứng đáng được mệnh danh là “chuyên viên cao cấp tiếng Việt”, là “người thợ kim hoàn của
chữ” (Ý của Tố Hữu). Trong lâu đài văn chương nghệ thuật dân tộc Việt Nam ở thế kỷ 20, rất
dễ nhận ra phần chạm trổ tinh xảo của người nghệ sĩ ngôn từ Nguyễn Tuân.
B. Tác phẩm
1. Hoàn cảnh ra đời
- Tuỳ bút “Người lái đò sông Đà” được in trong tập tuỳ bút “Sông Đà” (1960), gồm 15 bài tuỳ bút
và một bài thơ ở dạng phác thảo. Tác phẩm được viết trong thời kì xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
miền Bắc. Đó là kết quả viên mãn của chuyến đi thực tế gian khổ mà hào hùng của nhà văn đến
Tây Bắc trong kháng chiến chống Pháp, đặc biệt là chuyến đi thực tế năm 1958. Nguyễn Tuân
đến với nhiều vùng đất khác nhau, sống với bộ đội, công nhân và đồng bào các dân tộc. Ông được
thỏa mãn thú phiêu lãng xê dịch của mình. Thực tiễn xây dựng cuộc sống mới ở vùng cao đã đem
đến cho nhà văn nguồn cảm hứng sáng tạo.
- Ngoài phong cảnh Tây Bắc uy nghiêm, hùng vĩ và tuyệt vời thơ mộng, Nguyễn Tuân còn phát
hiện những điểm quý báu trong tâm hồn con người mà ông gọi là “thứ vàng mười đã được thử
lửa, là chất vàng mười của tâm hồn Tây Bắc.”
- Qua tùy bút “Người lái đò sông Đà”, Nguyễn Tuân với lòng tự hào của mình đã khắc hoạ những
nét thơ mộng, hùng vĩ nhưng khắc nghiệt của thiên nhiên đất nước qua hình ảnh con sông Đà
hung bạo và trữ tình. Đồng thời, nhà văn cũng phát hiện và ca ngợi chất nghệ sĩ, sự tài ba trí
dũng của con người lao động mới: chất vàng mười của đất nước trong xây dựng chủ nghĩa xã hội
qua hình ảnh người lái đò sông Đà. Từ đó nhà văn ca ngợi sông Đà, núi rừng Tây Bắc vừa hùng
vĩ vừa thơ mộng, đồng bào Tây Bắc cần cù, dũng cảm, rất tài tử, tài hoa.
2. Ý nghĩa nhan đề
- Nhan đề “Người lái đò sông Đà” trước hết gợi cho người đọc về nhân vật trung tâm của tác
phẩm đó là ông lái đò – một người lao động bình dị tại vùng sông nước Tây Bắc. Ông lái đò vừa
có những vẻ đẹp của một người lao động bình thường, vừa có phẩm chất của một người nghệ sĩ
tài hoa. Đồng thời, nhan đề cũng nhấn mạnh đến một hình tượng không kém phần quan trọng
của tác phẩm là con sông Đà. Vẻ đẹp thiên nhiên của sông Đà hiện lên đầy hùng vĩ, hung bạo
nhưng cũng không kém phần thơ mộng, trữ tình.
- Qua nhan đề trên, Nguyễn Tuân muốn khẳng định vẻ đẹp kì thú độc đáo của thiên nhiên và
con người lao động ở vùng núi Tây Bắc trong công cuộc chinh phục thiên nhiên để kiến thiết quê
hương đất nước.
3. Ý nghĩa lời đề từ
- Lời đề từ đầu tiên: Nguyễn Tuân đã lấy câu thơ của nhà cách mạng Ba Lan Wladyslaw
Broniewski: “Đẹp vậy thay tiếng hát trên dòng sông”.
+ Tiếng hát trên dòng sông phải chăng là tiếng của những người chèo đò, vượt thác, kéo thuyền,
tiếng hát cất lên từ những tâm hồn con người Tây Bác tha thiết với thiên nhiên, đất nước, lạc
quan, yêu đời. Người lái đò sông Đà là một trong hai hình tượng trung tâm của thiên tùy bút.
+ Tiếng hát trên dòng sông là tiếng ca của những người lái đò trên sông nước Đà giang - những
người anh hùng lao động sông nước, nghệ sĩ ba lê giữa muôn trùng thác đá. Cuộc đời người lái đò
vô danh nơi ngọn thác khuất nẻo hoan vu là thiên anh hùng ca, là pho nghệ thuật tuyệt vời. Sáng
tạo nên nhân vật trung tâm của bản tráng ca ấy, Nguyễn đã cất lên tiếng hát say mê, phấn khích
và đầy ngưỡng mộ, thể hiện một quan niệm mới của Nguyễn về con người: Con người bất kể nơi
đâu, bất kể địa vị và nghề nghiệp, sống trọn với bản tính tự nhiên của mình là đều đáng được
ngưỡng mộ và tôn vinh.
-> Dù hiểu theo cách nào, lời đề từ cũng thể hiện tình yêu thiết tha của Nguyễn Tuân với thiên
nhiên và con người Tây Bắc.
- Lời đề từ thứ hai: Nguyễn Tuân mượn hai câu thơ của Nguyễn Quang Bích để nói về sông Đà:
“Chúng thủy giai Đông tẩu
Đà giang độc Bắc lưu”
(Mọi dòng sông đều chảy về Đông
Chỉ có một dòng sông Đà theo hướng Bắc)
+ Lời đề từ ngắn gọn nhưng hàm ẩn nhiều ý nghĩa sâu sắc. Trước hết, việc sử dụng những câu thơ
chữ Hán làm tăng thêm tính trang trọng, đồng thời nhấn mạnh đến ý nghĩa khác biệt, độc đáo,
những tương quan đối cực của một hiện tượng địa lý của miền Tây Bắc Tổ quốc - Sông Đà như
một sinh thể đa dạng, phức tạp. Mọi con sông đều chảy về phía Đông như quy luật của tự nhiên,
duy chỉ có sông Đà chảy về phương Bắc. Từ “độc” được sử dụng vô cùng hiệu quả để thể hiện sự
độc nhất, cá tính khác biệt của con sông.
+ Lời đề từ làm toát lên vẻ đệp hoang sơ nhưng không kém phần độc đáo của sông Đà, đồng thời
thể hiện sự mạnh mẽ của con sông khi chảy qua một vùng núi non hiểm trở. Lời đề từ không phải
của Nguyễn Tuân nhưng lại được sử dụng rất đắt giá trong vị trí lời đề từ của tùy bút. Câu thơ ấy
không chỉ bộc lộ vẻ đẹp độc đáo, dữ dội của sông Đà mà còn khẳng định phong cách “ngông” của
Nguyễn Tuân, một con người luôn tìm tòi cái mới, sáng tạo những gì chưa có bằng tài năng uyên
bác, cá tính con người của mình.
=> Lời đề từ của thiên bút kí đặc sắc còn hé lộ khát vọng mãnh liệt của Nguyễn Tuân trên hành
trình khám phá hiện tượng thiên nhiên kì thú, đó là thể hiện một dòng sông chữ, nghĩa là muốn
thể hiện một phong cách nghệ thuật độc đáo để khẳng định cái tôi tài hoa, uyên bác, không lặp
lại cũng như dòng chảy ngược hướng sông Đà khác với tất ca dòng sông khác. Những trang văn
“Người lái đò sông Đà” chính là những trang hoa, những tờ hoa kết tinh bao cái đẹp: cái đẹp của
thơ cơ, của hội họa và của những tác phẩm điêu khắc.
=> Hai lời đề từ một bên ca ngợi con người, một bên khẳng định vẻ đẹp thiên nhiên nhưng đều
hướng đến cái đẹp độc đáo của thiên nhiên con người Tây Bắc, thể hiện cảm hứng say mê tha
thiết cùng phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân.
4. Thể loại
- Tuỳ bút là một thể thuộc loại hình kí, rất gần với bút kí, kí sự mà đôi khi trong tiếng Việt vẫn
thường gọi là tạp văn. Nó vừa mang chất kí (ghi chép) lại vừa có chất thơ (trữ tình) lại vừa chứa
những triết học sâu xa.
- Nét nổi bật của tuỳ bút là qua việc ghi chép những con người và sự kiện cụ thể có thực, tác giả
đặc biệt chú trọng đến việc bộc lộ cảm xúc, suy tư và nhận thức, đánh giá của mình về con người
và cuộc sống hiện tại.
- So với các tiểu loại khác nhau của kí, tuỳ bút vẫn có không ít những yếu tố chính luận và chất
suy tưởng triết lí trong một số trường hợp nhằm bộc lộ quan điểm, lý tưởng, cảm xúc của một
người hoặc một lớp người trong xã hội
- Cấu trúc của tuỳ bút, nói chung, không bị ràng buộc, câu thúc bởi một cốt truyện cụ thể, song
nội dung của nó vẫn được triển khai theo một cảm hứng chủ đạo, một tư tưởng chủ đề nhất định
xuyên suốt tác phẩm. Ngôn ngữ tuỳ bút giàu hình ảnh và chất thơ nhằm bộc lộ rõ những đặc
điểm của sự vật sự việc được nói đến trong bài. Trong nền văn học Việt Nam hiện đại, Nguyễn
Tuân là nhà văn viết tuỳ bút nổi tiếng với tùy bút “Cô Tô”, “Sông Đà”,…
5. Chủ đề
- Qua hình tượng sông Đà và người lái đò, Nguyễn Tuân muốn thể hiện niềm yêu mến thiết tha
với thiên nhiên đất nước và ngợi ca những con người lao động mới - chất “vàng mười” của cuộc
sống.
Đẹp vậy thay, tiếng hát trên dòng sông”
Władysław Broniewski
“Chúng thuỷ giai đông tẩu - Đà giang độc bắc lưu”
(Lượt đoạn đầu: Tác giả trình bày mục đích chuyến đi thực tế Tây Bắc và sông Đà của mình chủ
yếu là để tìm hiểu những con người ở đây mà ông gọi “thứ vàng mười đã qua thử lửa của cách
mạng là kháng chiến, hiện nay đang góp phần vào việc đến thiết Tây Bắc. Tiếp đó, tác giả giới
thiệu tài tứ tuyệt vời của những người lái đò sông Đà trong nghệ thuật vượt thác leo ghềnh và liệt
kê một loạt con thác sông Đà từ Vạn Yên về xuôi, trong đó có những con thác vô cùng độc dữ,
nham hiểm”. Đáng sợ nhất là những cái hút nước “xoáy tít đáy” giữa lòng sông từng dìm xuống
và xé tan tác những bè gỗ, những con thuyền vô ý bị nó lôi tuột xuống…)
- Giới thiệu chung:
+ Thi đề dòng sông
o Xưa nay thơ văn viết về sông nước là không hiểm. Thậm chí có cả kiệt tác để đời. Ta
không thể quên được hai câu thơ của Lý Bạch:
"Nước bay thẳng xuống ba nghìn thước
Ngỡ dải ngân hà tuột khỏi mây”
o Còn trong “Bạch Đằng giang phú”, Trương Hán Siêu đã viết:
“Bát ngát sóng kình muôn dặm
Thướt tha đuôi trĩ một màu”.
o Nhưng dẫu sao, vẻ đẹp sông nước trong thơ xưa cũng chỉ là vẻ đẹp như của một bức
tranh và sự dữ dội cũng là sự dữ dội ở thế tĩnh. Còn với Nguyễn Tuân, ông bắt sự dữ
dội kia phải nổi lên thành hình khối và phải gào thét trong muôn vạn âm thanh,
phải náo động và sống động như một sinh thể. Nguyễn Tuân đã khiến cho người ta
khi đứng trước thiên nhiên ấy không hỉ chiêm ngưỡng mà còn khát khao chế ngự nó.
+ Sông Đà
o Không phải chỉ mỗi Nguyễn Tuân viết về sông Đà mà trước đó trong ca dao cũng
đã ca ngợi con sông truyền thuyết ấy “Núi cao sông hãy còn dài/ Năm năm báo
oán đời đời đánh ghen”. Đến trung đại Nguyễn Quang Bích lại viết “Chúng thủy
giai đông tẩu – Đà giang độc bắc lưu”. Và cho đến hiện tại, trong “Quê nhà chơi
mát cảm hứng”, sông Đà hiện lên dưới con mắt của Tản Đà “Nước rợn sông Đà con
cá nhẩy/ Mây trùm non Tản cái diều bay”
o Sông Đà đến với ngòi bút Nguyễn Tuân như một con người có đầy đủ những phẩm
chất và cá tính cực kì mạnh mẽ. Sông Đà hiện lên trong trang văn của ông là một con
người vừa hùng bạo lại vừa trữ tình tuyệt đẹp. Hai tính cách đối lập như một “cổ
nhân” khó chiều, và lại lịch của loài thủy quái ấy cũng không kém phần đặc biệt:
"Sông Đà khai sinh ở huyện Cảnh Đông tỉnh Vân Nam, lấy tên là Ly Tiên (theo Dư địa
chỉ của Nguyễn Trãi thì tên Trung Quốc của sông Đà lại là Bả Biên Giang) mà đi qua
một vùng núi ác, rồi đến gần nửa đường thì xin nhập quốc tịch Việt Nam, trưởng
thành mãi lên và đến ngã ba Trung Hà thi cham hoa vào công Hồng Từ biên giới
Trung Việt tới ngã ba Trung Hoa là 500 cây số lượn rồng rắn, và tính toàn thân Sông
Đà thi chiều dài là 883 nghìn thước mét chảy qua hai nước Việt Nam Trung Quốc
xóm giềng" (Trích tùy bút Người Lái Đò Sông Đà). Sông Đà đã hiện lên như thế, như
một đứa con mang hai dòng máu, mà lại thích gắn bó về một phía nên “nhập quốc
tịch” về Việt Nam. Dưới ngòi bút của “nhà ngôn ngữ học" Nguyễn Tuân, Sông Đà
không phải là thiên nhiên vô tri vô giác, mà là một sinh thể sống động, có tính cách
và cảm xúc như một con người. Bởi vì thế, “Sông Đà” cũng được viết hoa cả hai chữ
cái đầu tiên như một danh từ tên riêng.
o Viết về sông Đà, nghĩa là Nguyễn Tuân đã chấp nhận một thử thách bởi lẽ: Với người
Việt Nam thì vốn dĩ dòng sông ấy đã là một huyền thoại. Đó là huyền thoại về chủng
Thủy Tinh với nỗi oán hờn không lấy được người mình yêu nên cử năm năm báo oán
đời đời đánh ghen. Điều đó chứng tỏ trí tưởng tượng của người Việt Nam hẳn là phải
rất bay bổng còn tâm hồn người Việt Nam thì hẳn là rất lãng mạn thì mới có thể gắn
cho dòng sông thác lũ ấy hình ảnh người tình sỉ và vì thế, khi mà viết về sông Đà, bản
thân Nguyễn Tuân đã chấp nhận tìm đến một huyền thoại mới cho dòng sông này.
+ Người lái đò
o Sự vận động trong quan niệm thẩm mĩ của Nguyễn Tuân
+ Trước 1945: Say mê vẻ đẹp tài hoa nghệ sĩ trong những con người đặc tuyển, xuất
chúng của “một thời vang bóng”.
-> Cái đẹp và người tài thường cô đơn, lạc lõng giữa cuộc đời, đem đến cho người đọc
sự ngưỡng mộ, ngậm ngùi, tiếc nuối.
+ Sau 1945: Bất cứ người lao động nào khi đạt tới trình độ điêu luyện giỏi giang trong
công việc của mình thì đều có thể coi là nghệ sĩ và xứng đáng được tôn vinh ở vẻ đẹp
tài hoa, nghệ sĩ.
o Lai lịch: Ông không có tên, chỉ biết là người Lai Châu, đã ngoài 70 tuổi, đã dành 1
phần lớn đời mình làm nghề lái đò dọc trên sông Đà. Trên sông Đà, ông xuôi ngược
hơn 100 lần, chín tay giữ lái độ 60 lần.
o Sự am tường với công việc
- Trí nhớ của của ông đò rèn luyện cao độ bằng cách dùng mắt mà nhớ tỉ mỉ những
luồng nước của những con thác hiểm trở.
- Ông đò nắm chắc binh pháp của thần sông, thần đá, biết rõ từng cửa tử, cửa sinh trên
thạch trận sông Đà.
-> Ông đò là người lão luyện, thạo nghề, hiểu biết sâu sắc về hoàn cảnh lao động của
mình, làm chủ môi trường lao động của mình. Đây là điều kiện đầu tiên để ông đò chế
ngự thứ “kẻ thù số một” của người Tây Bắc.
o Ngoại hình mang dấu ấn nghề nghiệp: Bằng hệ thống ngôn ngữ miêu tả đầy cá tính,
giàu chất tạo hình, bằng lối so sánh độc đáo gợi cảm, trước hết Nguyễn Tuân đã làm
sống dậy trước mắt người đọc hình ảnh một ông lái đò có ngoại hình đặc biệt ấn
tượng
• Người ta nói rằng làm cái nghề lái đò trên sông hiểm ác lắm thác nhiều ghềnh này
tổn thọ lắm. Nhưng ông lái đò của Nguyễn Tuân đã cải chính một cách hùng hồn
cái điều ấy bằng hình ảnh một con người đã gần bảy mươi tuổi, cái đầu bạc nhưng
còn “quắc thước” lắm “đặt trên một thân hình cao to, gọn quánh như chất sừng,
chất mun”, “ông giơ đôi tay còn trẻ tráng quá” làm cho nhiều người lầm tưởng là
“mình đang đứng trước một chàng trai”...
• “Tay ông lêu nghêu như cái sào. Chân ông lúc nào cũng khuỳnh khuỳnh như kẹp
lấy một cuống lái tưởng tượng. Giọng ông ào ào như tiếng nước trước mặt ghềnh
sông”.
• Cặp mắt tinh anh, nhãn lực nhìn xa vời vợi. Trên ngực của ông nổi lên một số “củ
nâu” thương tích trên “chiến trường Sông Đà” mà Nguyễn Tuân ngưỡng mộ gọi là
“thứ Huân chương lao động siêu hạng”.
• Ông lái đò sông Đà này có “tay lái ra hoa” đã từng vượt qua bao trùng vây thạch
trận, giao phong sinh tử với “lũ đá nơi ải nước”. Sau hơn mười năm chèo đò và chỉ
huy một con thuyền có 6 mái chèo đã ngược xuôi sông Đà trăm chuyến, chở da
trâu, xương hổ, chè, cánh kiến về xuôi, ông nắm vững từng con thác, cái ghềnh,
nắm chắc binh pháp thần Sông, thần Đá.
o Những dòng này được nhà văn viết ra không chỉ để giới thiệu ngoại hình một con
người mà còn để ca ngợi sự gắn bó, yêu quý nghề ở chính người đó. Nguyễn Tuân là
nhà văn luôn nén câu văn của mình nhiều điều muốn nói “hàm lượng thông tin” ở đó
không bao giờ chỉ ở một tầng hiển ngôn.
[Vẻ đẹp hung bạo]
(Đá bờ sông) Hùng vĩ của Sông Đà không phải chỉ có thác đá. Mà nó còn là những cảnh đá bờ
sông, dựng vách thành, mặt sông chỗ ấy chỉ lúc đúng ngọ mới có mặt trời. Có vách đá thành chẹt
lòng Sông Đà như một cái yết hầu. Đứng bên này bờ nhẹ tay ném hòn đá qua bên kia vách. Có
quãng con nai con hổ đã có lần vọt từ bờ này sang bờ kia. Ngồi trong khoang đò qua quãng ấy,
đang mùa hè mà cũng thấy lạnh, cảm thấy mình như đứng ở hè một cái ngõ mà ngóng vọng lên
một khung cửa sổ nào trên cái tầng nhà thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn điện.
- (Lời dẫn) Nguyễn Tuân đến với sông Đà như đến với “cố nhân”, đến với người bạn tương
phùng tương đắc. Vẻ đẹp vừa dữ dội, mãnh liệt vừa thơ mộng tuyệt vời của sông Đà có sức
hút với ông hết sức mạnh mẽ. Ngòi bút của ông vì thế có cơ hội thăng hoa. Ông đã được
thỏa chí tung hoành trong trí tưởng tượng phong phú của chính mình và để lại trên trang
viết những dòng văn đậm chất Nguyễn Tuân.
- “Hùng vĩ của Sông Đà không phải chỉ có thác đá. Mà nó còn là những cảnh đá bờ sông,
dựng vách thành, mặt sông chỗ ấy chỉ lúc đúng ngọ mới có mặt trời”. Qua ngòi bút Nguyễn
Tuân, cảnh vách đá sông Đà thật hùng vĩ, tráng lệ.
+ Nhà văn dùng từ “vách thành” chứ không phải “thành vách” như thói quen dùng từ
thường lệ. Thế mới lạ, mới chảng giống ai. Lê Đạt từng chia sẻ: “Tôi tôn trọng những nhà
văn sinh sự với văn chương để tạo ra sự sinh của ngôn ngữ”. Nguyễn Tuân chính là người
như thế.
+ Bên cạnh đó, nghệ thuật so sánh hình ảnh “vách thành” đã phần nào thể hiện sự vững
chãi, thâm nghiêm và những sức mạnh bí ẩn đầy đe dọa của sông Đà với vách đá như
thành cao, vực thẳm như hào sâu.
-> (Nâng cao vấn đề) Cái tài của NT là ông không dùng một chữ “cao” nào mà ta vẫn cảm
nhận được độ cao hun hút của vách đá. Hơn thế nữa, nét độc đáo để những trang văn của
Nguyễn Tuân tồn tại và được người đọc ưu tiên nhắc đến nhiều như vậy, là bởi lẽ ông có
cái nhìn hết sức tinh vi và đặc sắc về mọi sự vật, từ những cái nhỏ bé nhất như cát nơi
sông Đà “nó đục thủng gan bàn chân lỗ rỗ như những vết hà đục thủng đáy thuyền gỗ…”,
cho đến những cái to lớn như những khối đá bờ sông “dựng vách thành” đầy hiểm trở.
- Hai bờ sừng sững như áp sát nhau, vách hẹp, sâu, dốc, thẳng đứng được đặc tả bằng một
loạt các liên tưởng, so sánh cụ thể, độc đáo “vách đá thành chẹt lòng Sông Đà như một cái
yết hầu” làm cho “mặt sông chỗ ấy chỉ lúc đúng ngọ mới có mặt trời”, hay “Đứng bên này bờ
nhẹ tay ném hòn đá qua bên kia vách. Có quãng con nai con hổ đã có lần vọt từ bờ này
sang bờ kia”.
+ Động từ “chẹt” cho thấy độ cao của vách đá, độ hẹp của dòng sông. Nguyễn Tuân đã mở
ra một cuộc phiêu lưu từ không gian đến thời gian, từ thời gian đến cảm giác để người đọc
có thể cảm nhận trọn vẹn sự hung bạo của sông Đà.
-> (Nâng cao vấn đề) Nhà văn đã dẫn dắt chúng ta đến một cuộc trải nghiệm để mở mang
tầm mắt, trí tưởng tượng bằng những so sánh đặc biệt phong phú và mới lạ của mình. Thế
mới nói, Nguyễn Tuân là nhà văn không bao giờ chịu trùng mình xuống để lặp lại những gì
quá quen thuộc. Đọc văn Nguyễn Tuân, chúng ta không thể ngồi yên để cảm từng câu chữ
mà chúng ta phải đi theo những so sánh, liên tưởng mà Nguyễn Tuân đã vạch ra. Như thế,
chúng ta mới cảm nhận được trọn vẹn từng câu từng chữ, cái thứ ánh sáng, cái vầng hào
quang phát ra từ ngôn từ của nhà văn. Những hình ảnh so sánh độc đáo về đá bờ sông như
chỉ có thể bắt gặp trong văn Nguyễn Tuân. Và chính chủ nghĩa xê dịch của bản thân đã
hình thành cho ông những liên tưởng độc đáo như thế này, những cảm giác về hình ảnh
phong phú như thế để ông có thể huy động vào. Tuy nhiên nếu chỉ dừng lại ở hình ảnh mà
không có bậc thầy về ngôn ngữ, không có thợ hoàn kim của câu chữ thì Nguyễn Tuân sẽ
không thể nào có thể miêu tả, so sánh được trọn vẹn cái thác sông Đà như vậy.
- Nhà văn Nguyễn Tuân đã xê dịch đến nhiều vùng đất mới và Hà Nội và những thành phố
lớn là nơi mà tác giả đã đặt chân đến và khám phá nó. Điều đó đã cho Nguyễn Tuân hiểu
rõ được cảm giác “đang mùa hè mà cũng thấy lạnh, cảm thấy mình như đứng ở hè một cái
ngõ mà ngóng vọng lên một khung cửa sổ nào trên cái tầng nhà thứ mấy nào vừa tắt phụt
đèn điện.”.
+ Ông đã lấy hè phố để tả mặt sông, lấy nhà cao để gợi ra vách đá, lấy đèn điện để tả ánh
sáng trên khúc sông. Phải chăng ông thấy lạnh bởi khí đá sắc như dao, hay vì dưới chân
toàn là nước, hơi nước bị cầm tù ngàn năm dưới núi đá mà sinh âm u?
+ Có thể thấy, đọc văn Nguyễn Tuân, từ thành phố đến nông thôn, từ người thành thị đến
nông dân đều có thể cảm nhận được hết những so sánh mà nhà văn đã đặt ra trong văn
của mình.
-> (Nâng cao vấn đề) Qua những hình ảnh liên tưởng đầy thú vị ấy ta thấy được một
Nguyễn Tuân không ngừng đổi mới, luôn luôn tỉ mẩn, cần mẫn trong việc xây đắp, vun xới
cho những trang văn của mình. Và đó cũng chính là thiên chức của người nghệ sĩ chân
chính. Một người nghệ sĩ chân chính chưa bao giờ và không bao giờ bằng lòng với những gì
mình đang có, họ luôn luôn phải tạo ra một sự sáng tạo, những người nghệ sĩ khi tìm đến
văn học thì phải có phong cách riêng. Người sáng tạo là nhà văn và người tạo nên số phận
cho tác phẩm là độc giả nhưng độc giả sẽ đào thải những tác phẩm văn học có sự trùng lặp
và quá quen thuộc. Một tác phẩm văn học muốn khơi gợi, ngưng trị, lôi cuốn người đọc
phải có sự khác lạ và người cầm bút lao động chân chính sẽ không bao giờ dừng làm mới
cho những trang văn của mình. Đó là lí do tại sao Nguyễn Tuân là một định nghĩa về người
nghệ sĩ thực thụ.
(Mặt ghềnh Hát Loóng) Lại như quãng mặt ghềnh Hát Loóng, dài hàng cây số nước xô đá, đá xô
sóng, sóng xô gió. Cuốn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ xuýt bất cứ
người lái đò sông Đà nào tóm được qua đấy. Quãng này mà khinh suất tay lái thì cũng dễ lật
ngửa bụng thuyền ra.
- (Lời dẫn) Chưa dừng lại ở đó, nhà văn còn khiến người đọc bất ngờ khi miêu tả tính cách
hung bạo ở cái dữ dằn của “nước – đá – sóng và gió”. Nếu ai đã từng thả mình trong nhịp
điệu du dương của tiếng sóng xô bờ như nhịp đập của trái tim người phụ nữ thổn thức yêu
đương trong “Sóng” của Xuân Quỳnh thì khi đến với tiếng sóng sông Đà của Nguyễn Tuân
sẽ hình thành cho mình thứ cảm xúc hoàn toàn khác, bởi nước, đá, sóng, gió nơi đây đã hợp
lại thành một mặt ghềnh dữ dội cứ nối tiếp “hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô
gió. Cuốn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ xuýt bất cứ người lái
đò sông Đà nào tóm được qua đấy”. Bản giao hưởng này khiến cho ta nhớ tới sử thi “Ô – đi
– xê” của Hermero. Trong bản sử thi đó, tiếng hát mê hồn của những nàng tiên cá Si – men
cũng là tiếng hát của thần chết. Bởi lẽ tất cả các thủy thủ khi nghe tiếng hát này đều nhảy
xuống biển.
+ Động từ “xô” được ngăn cách bởi nhiều dấu phẩy liên tiếp tạo nên sự trùng điệp, làm cho
dòng sông đã hung bạo lại càng dữ tợn hơn.
+ Các động từ, tính từ mạnh “xô, cuồn cuộn” cho thấy sự chuyển động dữ dội, sức mạnh
khủng khiếp của ghềnh thác, cảm giác cả ghềnh sông như sôi lên cuộn chảy dữ dằn như
một lũ cuồng quân.
+ Từ láy “gùn ghè” và hình ảnh so sánh mang đậm sắc thái nhân hóa về việc sóng gió trên
mặt ghềnh Hát Loóng “lúc nào cũng đòi nợ xuýt” bất cứ người lái đò nào đi ngang qua
quãng ấy đã thể hiện sinh động sự hung hãn, lì lợm và cuồng bạo của dòng sông ngày đêm
hăm dọa, uy hiếp con người. Nó như một kẻ bất chấp tất cả để lấy đi tính mạng của những
ai đi qua đây bởi “Quãng này mà khinh suất tay lái thì cũng dễ lật ngửa bụng thuyền ra”.
-> Đọc câu văn của Nguyễn Tuân miêu tả về sông Đà, bất chợt khiến ta nhớ đến dòng sông
Hương vùng thượng nguồn trong trang kí Hoàng Phủ Ngọc Tường – dòng sông như “một
bản trường ca của rừng già, rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn, mãnh liệt qua những ghềnh
thác, cuộn xoáy như cơn lốc vào những đáy vực bí ẩn”. Những ngòi bút tài hoa đã tạo nên
trang viết “nở hoa” – trang viết có khả năng khơi dậy trong trí tưởng tượng của người đọc
về hai dòng sông hùng vĩ, dữ dội cuồn cuộn trôi đi giữa cơ thể đất nước.
(Cái hút nước) Lại như quãng Tà Mường Vát phía dưới Sơn La. Trên sông bỗng có những cái hút
nước giống như cái giếng bê tông thả xuống sông để chuẩn bị làm móng cầu. Nước ở đây thở và
kêu như cửa cống cái bị sặc. Trên mặt cái hút xoáy tít đáy; cũng đang quay lừ lừ những cánh quạ
đàn. Không thuyền nào dám men gần những cái hút nước ấy, thuyền nào qua cũng chèo nhanh để
lướt quãng sông, y như là ô tô sang số ấn ga cho nhanh để vút qua một quãng đường mượn cạp ra
ngoài bờ vực. Chèo nhanh và tay lái cho vững mà phóng qua cái giếng sâu, những cái giếng sâu
nước ặc ặc lên như vừa rót dầu sôi vào. Nhiều bè gỗ rừng đi nghênh ngang vô ý là những cái giếng
hút ấy nó lôi tuột xuống. Có những thuyền đã bị cái hút nó hút xuống, thuyền trồng ngay cây
chuối ngược rồi vụt biến đi, bị dìm và đi ngầm dưới lòng sông đến mươi phút sau mới thấy tan
xác ở khuỷnh sông dưới. Tôi sợ hãi mà nghĩ đến một anh bạn quay phim táo tợn nào muốn truyền
cảm giác lạ cho khán giả, đã dũng cảm dám ngồi vào một cái thuyền thúng tròn vành rồi cho cả
thuyền cả mình cả máy quay xuống đáy cái hút Sông Đà - từ đáy cái hút nhìn ngược lên vách
thành hút mặt sông chênh nhau tới một cột nước cao đến vài sải. Thế rồi thu ảnh. Cái thuyền
xoay tít, những thước phim màu cũng quay tít, cái máy lia ngược contre-plongée lên một cái mặt
giếng mà thành giếng xây toàn bằng nước sông xanh ve một áng thuỷ tinh khối đúc dày, khối pha
lê xanh như sắp vỡ tan ụp vào cả máy cả người quay phim cả người đang xem. Cái phim ảnh thu
được trong lòng giếng xoáy tít đáy, truyền cảm lại cho người xem phim ký sự thấy mình đang lấy
gân ngồi giữ chặt ghế như ghì lấy mép một chiếc lá rừng bị vứt vào một cái cốc pha lê nước khổng
lồ vừa rút lên cái gậy đánh phèn.
- (Lời dẫn) Sau khi đã đi qua quãng đá bờ sông "dựng vách thành chẹt lòng sông Đà như một
cái yết hầu", quãng mặt ghềnh Hát Loóng "cuồn cuộn luồng gió, gùn ghè suốt năm như lúc
nào cũng đòi nợ xuýt", thì đến khúc sông quãng Tà MV, những cái hút nước như "cái bẫy"
nối nhau giăng mắc trên sông Đà sẵn sàng nhấn chìm mọi thuyền bè đi ngang qua đó.
- Trước hết, hút nước sông Đà được miêu tả qua hình ảnh so sánh: "Trên sông bỗng có
những cái hút nước giống như cái giếng bê tông thả xuống sông để chuẩn bị làm móng
cầu."
+ Từ "bỗng" gợi tả một sự đột ngột, bất ngờ, nó làm cho người ta không khỏi hoang mang.
Dòng nước đương xuôi êm đềm bỗng dưng không thấy một vật nào nổi trên mặt mà dòng
nước tới đó cứ xoáy tít thành những vòng tròn hút tới tận đáy.
+ Tả độ sâu của hút nước, Nguyễn Tuân so sánh như cái "giếng bê tông thả xuống để chuẩn
bị làm móng cầu". Qua sự so sánh này, ta thấy cái hút nước lớn, khổng lồ, nhìn vào trong
chỉ thấy đen ngòm, sâu hoắm, tối tăm, giống như miệng con thủy quái đang há hốc để chực
nuốt chửng bất cứ vật gì qua quãng này.
- Ấn tượng hút nước sông Đà khúc thượng nguồn còn nằm ở những âm thanh sống động:
“Nước ở đây thở và kêu như cửa cống cái bị sặc. Trên mặt cái hút xoáy tít đáy; cũng đang
quay lừ lừ những cánh quạ đàn. Không thuyền nào dám men gần những cái hút nước ấy,
thuyền nào qua cũng chèo nhanh để lướt quãng sông, y như là ô tô sang số ấn ga cho
nhanh để vút qua một quãng đường mượn cạp ra ngoài bờ vực. Chèo nhanh và tay lái cho
vững mà phóng qua cái giếng sâu, những cái giếng sâu nước ặc ặc lên như vừa rót dầu sôi
vào”.
+ Tự bản thân những chữ "thở", "kêu" cùng từ láy tượng hình "lừ lừ", láy tượng thanh tăng
nghĩa "ặc ặc" cùng những chi tiết so sánh mang sắc thái nhân hóa đã nói lên cường lực ghê
gớm của những cái hút nước.
-> Dòng nước thở hồng hộc, thanh âm thống thiết, thét gào giữa núi rừng Tây Bắc điệp
trùng. Dòng sông đà vì thế mà trở nên hùng dũng, uy lực hơn rất nhiều. Nó hiện ra như cái
vòi một con quái vật khổng lồ tàn ác đang giân dữ đến ghê người, chỉ chực hút tất cả
những thuyền bè sơ ý nghênh ngang qua đó. Đến đây, ta dường như nghe trong cái âm
vang của Đà giang dưới ngòi bút Nguyễn Tuân một chút hội ngộ với Homero trong cuốn sử
thi “Ô đi xê” bất hủ, khi viết về cái hung bạo của chốn eo biển xa xôi nào đó thời cổ đại:
"Biển khơi chuyển động, sôi lên như nước trong cái chảo đặt trên một bếp lửa hồng".
- Giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh đã từng nhận định: "Nguyễn Tuân là nhà văn của những cảm
giác mạnh". Thật vậy, để hình dung trọn vẹn về hút nước Sông Đà, Nguyễn Tuân đã đưa
người đọc đến tận cùng cảm giác.
+ Đó trước hết là cảnh thuyền qua quãng sông ấy: "Thuyền nào qua cũng chèo nhanh để
lướt quãng sông, y như là ô tô sang số ấn ga cho nhanh để vút qua một quãng đường mượn
cạp ra ngoài bờ vực."
+ Giữa chốn núi rừng hoang sơ, nhà văn đã thổi vào không khí của phố thị khi so sánh
chiếc thuyền với ô tô. Tác giả ví con thuyền phải qua vùng nước xoáy thật nhanh giống
như ô tô sang số, nhấn ga cho nhanh để "vút qua một quãng đường mượn cạp ra ngoài bờ
vực".
+ Từ đó khẳng định những cái hút nước này chính là mối đe dọa mà bất cứ ai cũng phải
khiếp sợ. Muốn đi ngang qua đây phải thật điêu luyện, thật bình tĩnh nhưng cũng phải thật
nhanh chóng mới có thể "thoát chết".
- Nhưng trong khi người điều khiển ô tô còn có thể đạp phanh, nhấn ga thì con thuyền qua
quãng này chỉ có thể dựa vào tài nghệ của ông lái đò mà thôi. Hút nước còn gây nguy hiểm
cho thuyền bè: "Có những thuyền đã bị cái hút nó hút xuống, thuyền trồng ngay cây chuối
ngược rồi vụt biến đi, bị dìm và đi ngầm dưới lòng sông đến mươi phút sau mới thấy tan
tác ở khuỷnh sông dưới".
+ Câu văn không chỉ cho thấy ở Nguyễn Tuân một trí tưởng tượng độc đáo hay sự sáng tạo
mà đó còn là vốn sống vô cùng phong phú. Đó là những hình ảnh chỉ có trong tưởng tượng
nhưng lại đưa đến một ấn tượng thật sâu đậm về sức mạnh khủng khiếp của hút nước sông
Đà. Trước những cái hút nước ấy, sự sống và cái chết của con người bỗng trở nên mong
manh, đi qua đó luôn có nguy cơ bị cướp đi sinh mạng.
+ Cách miêu tả ấy gợi ra cho người đọc con sông Đà như một loài thủy quái hung hăng còn
con thuyền như một vật hiến tế hiền lành đến tội nghiệp đem tấm thân nhỏ bé để cống nạp
cho tử thần.
- Dừng lại ở đó thôi thì chưa đủ, nhà văn còn mang đến một giả tưởng li kì mà để có được nó,
Nguyễn Tuân ắt phải có vốn kiến thức về kĩ thuật điện ảnh: "Một anh bạn quay phim táo
tợn nào muốn truyền cảm giác lạ cho khán giả, đã dũng cảm dám ngồi vào một cái thuyền
thúng tròn vành rồi cho cả thuyền cả mình cả máy quay xuống đáy cái hút Sông Đà…"
+ Từ dưới đáy sâu của hút ước, anh phóng viên lia ngược ống kính lên một cách sống động,
truyền cảm từ hình khối của "một thành giếng xây toàn bằng nước" cho đến màu sắc của
dòng sông "nước xanh ve" như một khối thủy tinh khổng lồ, đặc biệt, khối thủy tinh ấy đổ
ụp xuống cả người, cả máy quay và cả bạn đọc đang theo dõi.
+ Chỉ bằng một vài câu văn, Nguyễn Tuân đã dẫn dụ người đọc vào trò chơi cảm giác, kéo
họ xuống tận đáy hút nước xoát tít, sâu hoắm cùng anh bạn quay phim táo tợn, dũng cảm
ngồi vào cái thuyền thúng mà thả mình vào xoáy nước, để cho xoát nước hút xuống tận
đáy sông Đà.
+ Những thước phim đó khi chiếu lên, người xem có cảm giác hãi hùng, phải "lấy gân ngồi
giữ chặt ghế", thậm chí cảm giác sợ hãi chân thực của con người khi đứng trong lòng một
khối "pha lê xanh như sắp vỡ tan" và bất cứ lúc nào cũng có thể đổ ụp vào người.
-> (Nâng cao vấn đề) Có thể thấy, khi gặp hiện tượng thiên nhiên kì thú, những cảnh tượng
dữ dội, phi thường, ngòi bút Nguyễn Tuân cũng muốn ganh đua với tạo hóa, dốc hết kho
chữ nghĩa phong phú của mình ra làm sống dậy tính cách độc đáo, phi thường của đối
tượng. Những cái hút nước sông Đà quả là rùng rợn, hiểm nguy, buộc người đọc phải huy
động tất cả các giác quan để cảm nhận đến cùng vẻ đẹp hùng vĩ của nó. Sông Đà hiện lên
như một loài thủy quái đáng sợ, hung bạo khiến các giác quan của người đọc cũng đẩy lên
cao trào. Để có được tất cả những áng văn có thể xem như "thước phim" ấy, Nguyễn Tuân
đã dụng công miêu tả bằng trải nghiệm khác nhau trong vị thế của người quay phim và cả
vị thế của người xem phim để dùng ngòi bút mà thách thức mọi sự hùng vĩ của đất trời
cũng như làm choáng ngợp những con mắt thưởng ngoạn của độc giả. Có thể thấy cả 2 góc
nhìn đều mang đến cho độc giả những cảm nhận khác lạ. Mỗi một góc nhìn đều mang đến
những trải nghiệm mới lạ và nói như nhà văn Nguyễn Minh Châu “Cuộc đời có nhiều góc
nhìn và buộc chúng ta phải sống bằng những cái nhìn đa chiều”. Đến với văn Nguyễn
Tuân, ta cũng phần nào tiếp cận với những góc nhìn nhiều chiều và điều đó đã giúp chúng
ta nhận thấy rằng khi nhìn bất kì sự vật nào cũng đừng nên cho lăng kính của mình một
góc nhìn mà phải nhìn sự vật theo nhiều góc khác nhau để có thể nhìn cho rõ được sự vật.
Hơn thế nữa, nhà văn đã sử dụng những hình ảnh liên tưởng thú vị, rợn ngợp đến cảm giác
muốn khám phá tận cùng nơi đáy sâu của những cái hút nước.
Cuộc sống của người lái đò Sông Đà quả là một cuộc chiến đấu hằng ngày với thiên nhiên, một
thứ thiên nhiên Tây Bắc có nhiều lúc trọng nó thành ra diện mạo và tâm địa một thứ kẻ thù số
một. Nhìn cái thiên nhiên ấy, có những lúc thấy nó không “thơ đời Đường” nhàn hạ, mà thấy nó
chính là một cuộc đấu tranh với thiên nhiên để giành sự sống từ tay nó về tay mình. Tôi xin ghi ở
đoạn này cái hình ảnh chiến đấu gian lao của người lái đò trên chiến trường Sông Đà, trên một
quãng thuỷ chiến ở mặt trận Sông Đà.
(Thác nước) [Âm thanh] …Còn xa lắm mới đến cái thác dưới. Nhưng đã thấy tiếng nước réo gần
mãi lại réo to mãi lên. Tiếng nước thác nghe như là oán trách gì, rồi lại như là van xin, rồi lại
như là khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo. Thế rồi nó rống lên như tiếng một ngàn con trâu
mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa, đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa cùng
gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng.
- Sông Đà không chỉ hùng vĩ, dữ dội ở cảnh “đá bờ sông dựng vách thành”, cảnh mặt ghềnh
Hát Loóng “nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm”,
cảnh những cáu hút nước “xoáy tít đáy” mà còn nguy hiểm ở trùng trùng điệp điệp những
thác nước sông Đà.
“Đường lên Mường Lễ bao xa
Trăm bảy cái thác, trăm ba cái ghềnh.”
- Say mê khám phá con sông, NT dõi theo dòng thác hung vĩ của SĐ ngay từ khi nó chưa
xuất hiện. Nguyễn Tuân đã miêu tả âm thanh của tiếng nước thác bằng một hệ thống từ
ngữ phong phú, truyền cảm.
- Cùng với nghệ thuật nhân hóa được sử dựng một cách đắc địa, nhà văn đã truyền hồn sống
cho dòng sông, biến thác nước sông Đà thực sự trở thành một loại thủy quái đang giận dữ,
gầm gào, đe dọa con người ngay cả khi nó chưa xuất hiện.
- Khi thì nhà văn nghe thấy nó như “oán trách gì”, rồi lại như là “van xin”, khi lại thấy nó
đang “khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo”. Nhà văn đã tung ra hàng loạt những ngôn từ
sống động để miêu tả âm thanh thác nước theo những cung bậc tăng dần của cảm xúc giận
dữ. Đó vừa là cách nhà văn nói đến khoảng cách rút ngắn dần khi tiếp cận con sông, vừa là
cách tạo ấn tượng về sự dữ dội của sông Đà và tăng dần cảm giác hồi hộp, sợ hãi trong tâm
trí người đọc.
- Sông Đà đã trở thành một sinh thể có tâm trạng phức tạp, tính cách dữ dội khôn lường. Âm
thanh nước thác tăng dần về âm lượng, dữ dội quyết liệt về mức độ, phong phú về sắc thái
cũng giống bản nhạc có trường độ, cường độ, cao độ.
- Đặc sắc nhất là những phép so sánh kì thú trong một câu văn dài đầy ắp những hình ảnh
dữ dội “Thế rồi nó rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng
vầu rừng tre nứa nổ lửa, đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da
cháy bùng bùng”.
- Âm thanh thác nước bất ngờ được phóng to hết cỡ “rống lến” và được so sánh với âm thanh
của tiếng hàng ngàn con trâu mộng gợi ấn tượng về khúc nhạc hùng tráng của thiên nhiên
đang ở đỉnh điểm của sự phấn khích man dại và cuồng loạn. Thật là một cảnh trí có sức
hấp dẫn kì lạ đối với người thưởng văn bởi cả nỗi sợ hãi và niềm say mê, khao khát chiêm
ngưỡng.
- Là một kẻ thích chơi ngông, nhà văn đã thể hiện sự tài hoa độc đáo của mình khi lấy hình
ảnh gợi tả âm thanh, lấy lửa tả nước, lấy rừng tả sông, đặt những hình ảnh tương phản vốn
rất “kị” nhau trong một trường liên tưởng độc đáo, thú vị.
- Vậy mà hiệu quả của nó thật bất ngờ, nhà văn đã khiến âm thanh của thác nước không chỉ
được cảm nhận bằng thính giác, không chỉ được hình dung qua trí tưởng tượng mà còn
hiện ra trong những ấn tượng đặc biệt sống động của xúc giác, thị giác. Nguyễn Tuân phải
chăng đã lục lọi đến tận cùng kho cảm giác và liên tưởng phong phú, bộn bề, nhằm tìm ra
những chữ nghĩa chính xác nhất, có khả năng động người đọc nhiều nhất?
[Trực diện] Tới cái thác rồi. Ngoặt khúc sông lượn, thấy sóng bọt đã trắng xóa cả một chân trời
đá. Đá ở đây từ ngàn năm vẫn mai phục hết trong lòng sông, hình như mỗi lần có chiếc thuyền
nào xuất hiện ở quãng ầm ầm mà quạnh hiu này, mỗi lần có chiếc nào nhô vào đường ngoặt sông
là một số hòn bèn nhổm cả dậy để vồ lấy thuyền. Mặt hòn đá nào trông cũng ngỗ ngược, hòn nào
cũng nhăn nhúm méo mó hơn cả cái mặt nước chỗ này. Mặt sông rung rít lên như tuyếc-bin thuỷ
điện nơi đáy hầm đập. Mặt sông trắng xóa càng làm bật rõ lên những hòn những tảng mới trông
tưởng như nó đứng nó ngồi nó nằm tùy theo sở thích tự động của đá to đá bé. Nhưng hình như
Sông Đà đã giao việc cho mỗi hòn.
- Khi thác hiện ra, sau câu văn ngắn giống như tiếng reo ngỡ ngàng, thích thú “Tới cái thác
rồi”, nhà văn đã đồng thời tả cả đá và nước thác trong hình ảnh “sóng bọt đã trắng xóa cả
một chân trời đá”.
- Tính từ “trắng xóa” lặp lại nhiều lần gây ấn tượng về sóng, về gió, về bọt nước trào sôi
mãnh liệt, gợi tả làn hơi nước như mờ đi trên mặt sông, trên một diện rộng mênh mông
của mặt sôn, cùng với hình ảnh “chân trời đá”, câu văn miêu tả của Nguyễn Tuân đã làm
hiện ra sự hùng vĩ tới choáng ngợp của thác đá sông Đà ngay trong những ấn tượng đầu
tiên khi vừa gặp mặt.
- Đá sông Đà cùng với nước, với sóng và gió kết hợp với nhau cùng lúc tấn công uy hiếp con
người đã được nhà văn miêu tả qua một hình ảnh nhân hóa đặc sắc “Đá ở đây từ ngàn năm
vẫn mai phục hết trong lòng sông, hình như mỗi lần có chiếc thuyền nào xuất hiện ở quãng
ầm ầm mà quạnh hiu này, mỗi lần có chiếc nào nhô vào đường ngoặt sông là một số hòn
bèn nhổm cả dậy để vồ lấy thuyền”.
- Sử dụng thuật ngữ của quân sự, trên cơ sở những quan sát thực tế, Nguyễn Tuân đã gợi
dậy cái bí ẩn hiểm ác của đá sông Đà trong sự vĩnh hằng của thiên nhiên khi “ngàn năm
mai phục”, khi dữ dằn đột ngột hiện ra sau cái dập dềnh của sóng để “nhổm cả dậy để vồ
lấy thuyền”.
- Nếu chỉ dừng lại ở đó thì sông Đà sẽ không có được những câu ví “đắt” như “mang diện
mạo và tâm địa một thứ kẻ thù số một” của con người được. Bởi trùng vi thạch trận trên
sông mới là nơi hấp dẫn nhất, lôi cuốn nhất của sông Đà. Nơi mà đá mai phục hết trong
lòng sông “mặt hòn nào trông cũng ngỗ ngược”, “nhăn nhúm”, “méo mó”. Mỗi hòn đều có
nhiệm vụ riêng, chúng “đứng, nằm, ngồi” tùy thích miễn sao hoàn thành tốt nhiệm vụ.
(Trùng vi thạch trận) Mới thấy rằng đây là nó bày thạch trận trên sông. Đám tảng đám hòn chia
làm ba hàng chắn ngang trên sông đòi ăn chết cái thuyền một cái thuyền đơn độc không còn biết
lùi đi đâu để tránh một cuộc giáp lá cà có đá dàn trận địa sẵn. Hàng tiền vệ, có hai hòn canh một
cửa đá trông như là sơ hở nhưng chính hai đứa giữ vai trò dụ cái thuyền đối phương đi vào sâu
nữa, vào tận tuyến giữa rồi nước sóng luồng với đánh khuỷu quật vu hồi lại. Nếu lọt vào đây rồi
mà cái thuyền du kích ấy vẫn chọc thủng được tuyến hai, thì nhiệm vụ của những boongke chìm
và pháo đài đá nổi ở tuyến ba phải đánh tan cái thuyền lọt lưới đá tuyến trên, phải tiêu diệt tất
cả thuyền trưởng thuỷ thủ ngay ở chân thác. Thạch trận dàn bày vừa xong thì cái thuyền vụt tới.
Phối hợp với đá, nước thác reo hò làm thanh viện cho đá, những hòn bệ vệ oai phong lẫm liệt. Một
hòn ấy trông nghiêng thì y như là đang hất hàm hỏi cái thuyền phải xưng tên tuổi trước khi giao
chiến. Một hòn khác lùi lại một chút và thách thức cái thuyền có giỏi thì tiến gần vào. Ông đò hai
tay giữ mái chèo khỏi bị hất lên khỏi sóng trận địa phóng thẳng vào mình. Mặt nước hò la vang
dậy quanh mình, ùa vào mà bẻ gãy cán chèo võ khí trên cánh tay mình. Sóng nước như thể quân
liều mạng vào sát nách mà đá trái mà thúc gối vào bụng và hông thuyền. Có lúc chúng đội cả
thuyền lên. Nước bám lấy thuyền như đổ vật túm thắt lưng ông đò đòi lật ngửa mình ra giữa trận
nước vang trời thanh la não bạt. Sóng thác đã đánh đến miếng đòn hiểm độc nhất, cả cái luồng
nước vô sở bất chí ấy bóp chặt lấy hạ bộ người lái đò […]. Mặt sông trong tích tắc lòe sáng lên như
một cửa bể đom đóm rừng ùa xuống mà châm lửa vào đầu sóng. Nhưng ông đò cố nén vết thương,
hai chân vẫn kẹp chặt lấy cuống lái, mặt méo bệch đi như cái luồng sóng đánh hồi lung, đánh đòn
tỉa, đánh đòn âm vào chỗ hiểm. Tăng thêm mãi lên tiếng hỗn chiến của nước của đá thác. Nhưng
trên cái thuyền sáu bơi chèo, vẫn nghe rõ tiếng chỉ huy ngắn gọn tỉnh táo của người cầm lái. Vậy
là phá xong cái trùng vi thạch trận vòng thứ nhất. Không một phút nghỉ tay nghỉ mắt, phải phá
luôn vòng vây thứ hai và đổi luôn chiến thuật. Ông lái đã nắm chắc binh pháp của thần sông
thần đá. Ông đã thuộc quy luật phục kích của lũ đá nơi ải nước hiểm trở này. Vòng đầu vừa rồi,
nó mở ra năm cửa trận, có bốn cửa tử một cửa sinh cửa, sinh nằm lập lờ phía tả ngạn sông. Vòng
thứ hai này tăng thêm nhiều cửa tử để đánh lừa con thuyền vào, và cửa sinh lại bố trí lệch qua
phía bờ hữu ngạn. Cưỡi lên thác Sông Đà, phải cưỡi đến cùng như là cưỡi hổ. Dòng thác hùm beo
đang hồng hộc tế mạnh trên sông đá. Nắm chặt lấy được cái bờm sóng đúng luồng rồi, ông đò ghì
cương lái, bám chắc lấy luồng nước đúng mà phóng nhanh vào cửa sinh, mà lái miết một đường
chéo về phía cửa đá ấy. Bốn năm bọn thuỷ quân cửa ải nước bên bờ trái liền xô ra cảnh níu
thuyền lôi vào tập đoàn cửa tử. Ông đò vẫn nhớ mặt bọn này, đứa thì ông tránh mà rảo bơi chèo
lên, đứa thì ông đè sấn lên mà chặt đôi ra để mở đường tiến. Những luồng tử đã bỏ hết lại sau
thuyền. Chỉ còn vẳng reo tiếng hò của sóng thác luồng sinh. Chúng vẫn không ngớt khiêu khích,
mặc dầu cái thằng đá tướng đứng chiến ở cửa vào đã tiu nghỉu cái mặt xanh lè thất vọng thua cái
thuyền đã đánh trúng vào cửa sinh nó trấn lấy. Còn một trùng vây thứ ba nữa. Ít cửa hơn, bên
phải bên trái đều là luồng chết cả. Cái luồng sống ở chặng ba này lại ở ngay giữa bọn đá hậu vệ
của con thác. Cứ phóng thẳng thuyền, chọc thủng cửa giữa đó. Thuyền vút qua cổng đá cánh mở
cánh khép. Vút, vút, cửa ngoài, cửa trong, lại cửa trong cùng, thuyền như một mũi tên tre xuyên
nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vào từ động lái được lượn được. Thế là hết thác.
Sông Đà
- Những hòn đá ấy chính là tay chân của con
sông Đà ghê gớm này, chúng dường như có
linh tính, bày binh bố trận, lại giở trò khiêu
khích, dường như có thù với tất cả những
người đi qua khúc này, hoặc giả như lũ sơn
tặc, biến những người lái đò thành miếng mồi
ngon, quả là không thể khinh thường. Chúng là
những tay lão luyện, đứa nào cũng chọn riêng
cho mình một nhiệm vụ, dưới sự phân chia
binh pháp của “thần sông thần đá”, lập thành
hẳn ba “trùng vi thạch trận”, chỗ thì dàn hàng
ngang chặn lối, chỗ lại đứng giữa khiêu khích,
Người lái đò (Vẻ đẹp trí dũng, tài hoa)
- Cuộc sống của người lái đò sông Đà là một
cuộc chiến đấu hằng ngày. Và ngày nào cũng
phải giành những cái sống từ tay nhưng con
thác. Vẻ đẹp này được ngòi bút NT thể hiện
qua hình ảnh ông lái đò vượt thác: Vẻ đẹp tài
hoa nghệ sĩ của ông lái đò là sự tài ba dũng
mãnh của một vị thuyền trưởng dày dạn kinh
nghiệm thủy chiến. Chất tài hoa nghệ sĩ của
ông lái đò là ở bản lĩnh chiến đấu và tinh thần
dũng cảm phi thường. Cảnh vượt thác của ông
lái đò đã thể hiện rõ vẻ đẹp và cốt cách ấy.
Người anh hùng sông nước xuất hiện trên nền
dẫn dụ, chỗ thì đòi đánh “giáp lá cà”, chỗ nhảy
ra phục kích. Sơ đồ chiến thuật của sông Đà
vừa gợi người đọc nhớ tới trận “Đồ Bát Quái”
của Khổng Minh, vừa gợi đến sơ đồ chiến thuật
rất hiện đại của quân sự. Thông qua đôi mắt
của Nguyễn Tuân, con sông Đà hiện lên như
một kẻ thù không đội trời chung với con người,
mỗi trận chiến đều là kẻ sống ta chết, không
chừa lối thoát.
thiên nhiên dữ dội, hùng vĩ, không gian lớn lao
hiểm trở với đá dựng vách thành thâm
nghiêm, bí ẩn, với sóng gió mặt ghềnh cuồn
cuộn gào thét, những hút nước ghê rợn, những
thanh âm dữ dội cuồng loạn.
- Ở trùng vi thứ nhất sông Đà bày ra năm cửa
trận, có bốn cửa tử, một cửa sinh, cửa sinh
nằm lập lờ phía tả ngạn sông. Hàng tiền vệ, có
hai hòn canh một cửa đá đóng vai trò dụ chiếc
thuyền vào tuyến giữa. Vừa vào trận địa,
chúng tấn công chiếc thuyền tới tấp với sự
thanh viện của nước thác. Chúng tạo ra thứ
âm thanh cuồng loạn “trận nước vang trời
thanh la não bạt”. Chúng chuyển động dữ dội
“hò la vang dậy, ùa vào mà bẽ gãy cán chèo,
như quân liều mạng vào sát nách mà đá trái
thúc gối vào bụng vào hông thuyền”. Chúng
tung ra các món đòn hiểm độc “đòn tỉa” (đánh
từng phía), “đòn âm” (đánh ngầm dưới nước),
“đánh hồi lùng” (đánh tới tấp tập trung). Đá
đánh người lái đò với lũ bất nhân là nước, hai
thế lực hùa vào nhau tạo ra trận hỗn chiến với
sức tàn phá khủng khiếp.
- Ở trùng vi thạch trận này - thác đá sông Đà
đã chuẩn bị dàn trận địa sẵn, đó là trận địa
với bốn cửa tử, một cửa sinh. Ở đây nước phối
hợp với đá reo hò làm thanh viện; những hòn
đá bệ vệ, oai phong lẫm liệt; một hòn ấy trông
như đang hất hàm hỏi cái thuyền phải xưng
tên tuổi trước khi giao chiến và thách thức cái
thuyền có giỏi thì tiến gần vào. Bằng các từ
ngữ: “reo hò, bệ vệ, oai phong lẫm liệt, hất hàm
hỏi, thách thức…”, người đọc cảm nhận được
không khí trận chiến nóng bỏng gay cấn hồi
hộp, kịch tính. Đó chính là biệt tài phù thuỷ
ngôn ngữ của Nguyễn Tuân. Thác đá sông Đà
rất khôn ngoan. Chúng không chỉ đánh trên
mặt trận giáp lá cà mà còn đánh bằng cả nghệ
thuật tâm lý chiến. Trước đó chúng đã dùng
âm thanh của thác khiêu khích “giọng gằn mà
chế nhạo”. Còn giờ đây chúng lại nhờ “nước
thác làm thanh viện cho đá”. Với bản tính
hung hãn như một loài thủy quái, sông Đà đã
đánh phủ đầu người lái đò với những đòn thế
vô cùng hiểm hóc. Sông Đà cậy thế quân đông
tướng mạnh nên đã “ùa vào mà bẻ gãy cán
chèo”, “liều mạng vào sát nách mà đá trái”,
“thúc gối vào bụng và hông thuyền”, có lúc
chúng “đội cả thuyền lên”. Một loạt động từ
được Nguyễn Tuân huy động để miêu tả cách
đánh của sông Đà làm người đọc không khỏi
rùng mình trước sự hung bạo của thiên nhiên:
“ùa vào, bẻ gãy, đá trái, thúc gối, độ…”. Bị tấn
công bất ngờ nhưng người lái đò vẫn bình tĩnh.
Với chiến thuật phòng ngự để dưỡng sức cho
những trùng vi sắp tới, “ông đò hai tay giữ mái
chèo khỏi bị hất lên khỏi sóng”; lúc này sông
Đà lại chuyển thế bám lấy thuyền và sử dụng
đòn vật “túm lấy thắt lưng ông lái đò đòi lật
ngửa mình ra”. Không để cho ông đò có cơ hội
xoay xở, sông Đà lại chuyển thể đánh miếng
đòn hiểm độc nhất “cả cái luồng nước vô sở bất
chí ấy bóp chặt lấy hạ bộ người lái đò”. Dính
miếng đòn hiểm, mắt ông hoa lên, tưởng như
“một cửa bể đom đóm rừng ùa xuống châm lửa
lên đầu sóng”. Đòn đau khiến ông đò “mặt méo
bệch đi”. Đó là cái méo bệch vốn do cái lạnh
của nước làm nhăn nheo lại thêm miếng đòn
đau làm ông khách sông Đà mặt như tím tái,
ngây dại. Sự đau đớn của ông đò còn được gián
tiếp miêu tả trong một cảm nhận của thị giác
và xúc giác “mặt sông trong tích tắc lòa sáng
như một cửa bể đom đóm rừng ùa xuống mà
châm lửa vào đầu sóng”. Phép điệp động từ
“đánh hồi lùng, đánh đòn tỉa, đánh đòn âm
vào chỗ hiểm” gợi lên cơn đau dồn dập, hành
hạ người lái đò. Nhưng ông đò nén đau, giọng
ông vẫn bình tĩnh, tỉnh táo, sắc lạnh chỉ huy
sáu bơi chèo còn lại vượt cửa tử vào cửa sinh.
“Vậy là phá xong cái trùng vi thạch trận thứ
nhất”. Đó là một trận chiến không cân sức, con
sông Đà hùng vĩ và hung bạo vô cùng, người
lái đò hiện lên nhỏ bé, với chiếc mái chèo
nhưng với sức mạnh thật lớn lao.
- Vượt qua trùng vây thứ nhất, người lái đò lại
tiếp tục chiến đấu với trùng vi thạch trận thứ
hai: “Tăng thêm nhiều cửa tử để đánh lừa con
thuyền vào, và cửa sinh lại bố trí lệch qua phía
bờ hữu ngạn. Dòng thác hùm beo hồng hộc tế
mạnh trên sông đá đánh khuýp quật vu hồi
chiếc thuyền”. Tại trận chiến đánh giáp lá cà
này, chúng quyết sinh quyết tử với ông lái đò.
Khi chiếc thuyền đã vượt qua, bọn sóng nước
cửa tử “vẫn không ngớt khiêu khích, mặc dầu
cái thằng đá tướng đứng chiến ở cửa vào đã
tiu nghỉu cái mặt xanh lè thất vọng”.
- So với trùng vi một thì trùng vi này khó
khăn hơn, đá nước sóng tăng thêm nhiều cửa
tử "dòng thác hùm beo đang hồng hộc tế
mạnh", "bốn năm thủy quân không ngớt khiêu
khích"... . Nhưng không vì thế mà ông đò nao
núng. Với kinh nghiệm mười năm chiến
trường sông nước, người lái đò đã “nắm chắc
binh pháp của thần sông thần đá, ông đã
thuộc quy luật phục kích của lũ đá”. Ông đò
cũng tự triết lý với mình “cưỡi lên thác sông
Đà là cưỡi đến cùng như là cưỡi hổ”, vì thế
“không một phút nghỉ tay nghỉ mắt phải phá
luôn vòng vây thứ hai và đổi luôn chiến thuật”.
Ở trận này ông đò đánh phủ đầu với kế hoạch
đánh nhanh thắng nhanh. Như một vận động
viên đua ngựa, ông đò “nắm chắc được cái bờm
sóng đúng luồng rồi, ông đò ghì cương lái”, ông
“phóng nhanh”, “lái miết”… tốc độ di chuyển
mau lẹ. Nhưng sông Đà cũng không phải dạng
vừa. Chúng xô ra định níu chiếc thuyền vào
tập đoàn cửa tử. Ông đò đã cảnh giác sẵn nên
“đứa thì ông tránh mà rảo bơi chèo”, “đứa thì
đè sấn lên chặt đôi ra để mở đường tiến”. Hàng
loạt động từ được huy động như một đội quân
ngôn ngữ hùng hậu hò reo theo từng nhịp tiến
của ông đò: “nắm, ghì, phóng, lái, tránh, rảo,
đè, chặt…”. Trước sự chiến đấu dũng mãnh,
phi thường của ông đò thì “cái thằng đá tướng
đứng chiến ở cửa vào đã tiu nghỉu cái mặt
xanh lè thất vọng”. Hình tượng tảng đá lớn,
rêu phủ xanh dưới ngòi bút Nguyễn Tuân lại
trở thành một sinh thể có hồn với vẻ mặt xanh
lì - mặt cắt không còn hạt máu - với nỗi sợ hãi
khủng khiếp vì không ngờ gặp phải đối thủ
đáng gờm như thế. Và trùng vi thạch trận thứ
hai đã được ông đò phá xong.
- Đến trùng vi thạch trận thứ ba: “Ít cửa hơn,
bên phải bên trái đều là luồng chết cả. Cái
luồng sống ở chặng ba này lại ở ngay giữa bọn
đá hậu vệ của con thác” nhưng vẫn không
thắng nổi người lái đò dũng cảm, mưu trí.
Cuối cùng sông Đà vẫn nhận lấy cái kết đắng
trong trận chiến thiên nhiên - con người. Qua
đây ta thấy con Sông Đà như một loài thủy
quái, hung hăng, bạo ngược, một thứ thiên
nhiên Tây Bắc với “diện mạo và tâm địa một
- Trùng vây thứ ba là một không gian của trận
địa để nhằm tiêu diệt đối phương: bên phải
bên trái đều là “luồng chết cả”, cái luồng sống
nằm ở giữa ngay con thác. Bên cạnh đó là cách
thức bố phòng tấn công như trong chiến trận:
“bọn đá hậu vệ” canh cửa hòng “bắt chết” cái
thuyền. Trên cái phông nền chiến trận cẩn
mật và đầy thách thức ấy, ông lái đò hiện lên
như vị tướng cầm quân với chiến thuật tài ba.
ông mưu trí phóng thăng con thuyền, chọc
thứ kẻ thù số một” nhưng cũng mang một màu
sắc riêng biệt không thể nhầm lẫn với bất kì
con sông nào khác.
thủng cửa giữa đỏ. Thuyền vút qua công đá
cánh mở’ cánh khép. Vút, vút, cửa ngoài, cửa
trong, lại cừa trong cùng. Chiếc thuyền như
một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước,
vừa xuyên vừa tự động lái được, lượn được.
Dường như tác giả tập trung cao độ bút lực
vào đoạn văn này. Những ẩn dụ, so sánh, nhân
hóa được tác giả sử dụng sáng tạo gợi lên cảm
giác mãnh liệt đầy ấn tượng. Lối ngắt nhịp gãy
vụn ra đã diễn tả tình thế gay go, quyết liệt và
khẩn trương. Để tả tốc độ thuyền lao đi, tác giả
không dùng từ “vươn” mà dùng từ "vút”, lặp lại
nhiều lần, kết hợp với hình ảnh so sánh:
“thuyền như một mũi tên tre” để diễn tả tốc độ
cực lớn của chiếc thuyền. Từ “tự động”, đã biểu
đạt khá chính xác sức phản ứng linh hoạt,
nhạy bén, điêu luyện của ông đò. Nguyễn Tuân
đã tung ra một đội quân ngôn ngữ thật hùng
hậu, đa dạng, biến ảo thần kỳ với liên tục
những phép tu từ vô cùng sinh động: so sánh
ngầm, nhân hóa, cường điệu... Câu chữ tuôn
chảy ào ạt, điệp điệp trùng trùng tạo ra một
bức tranh chiến trận hoành tráng về không
gian, ấn tượng về hình ảnh hiểm nguy, gay cấn
về tình huống... Kết hợp với phong cách sử
dụng nhiều loại hình nghệ thuật, trong đoạn
viết này Nguyễn Tuân đã cho ta thấy cách viết
của ông như kịch bản phim và qua bàn tay đạo
diễn, nó tạo ra sự sống động hồi hộp âu lo,
thán phục... với biết bao cảm xúc nảy nở trong
lòng người đọc. Ở vòng vây này, ông đò đã
chiến thắng không chỉ bằng sự mưu trí, dũng
cảm mà hơn thế bằng tay lái điêu luyện thành
thục “tay lái ra hoa”. Con thuyền lướt nhanh
trên đầu sóng, sóng của Sông Đà và sóng của
ngôn ngữ Nguyễn Tuân.
=> Nghệ thuật nhân hóa với nhiều động từ
mạnh, tính từ chỉ tính cách thái độ con người
(đánh tan, reo hò, hò la, bẻ gãy, thúc gối, lật
ngửa, tế mạnh,…)
=> Sự kết hợp góc nhìn của nhiều ngành khác
nhau (bóng đá – hàng tiền vệ, tuyến giữa, hậu
vệ; võ thuật – giao chiến, đá trái, thúc gối,
giáp lá cà, đòn tỉa, đòn âm; quân sự - thạch
trận, trận địa, pháo đài đá, thanh viện, binh
pháp, cửa sinh, cửa tử)
=> Con Sông Đà như một loài thủy quái, hung
hăng, bạo ngược biết bày thạch trận, thủy trận
hòng tiêu diệt thuyền bè trên dòng nước, một
thứ thiên nhiên Tây Bắc với “diện mạo và tâm
địa một thứ kẻ thù số một”. Con sông mà
“hằng năm và đời đời kiếp kiếp làm mình làm
mẩy với con người Tây Bắc và phản ứng giận
dỗi vô tội vạ với người lái đò Sông Đà”.
=> Người lái đò của Nguyễn Tuân là một người
lao động vô danh, làm lụng âm thầm, giản dị,
nhờ lao động mà chinh phục được dòng sông
dữ, trở nên lớn lao, kì vĩ, trở thành đại diện
của con người. Ông không có phép màu để so
sánh với sức lực của Thủy Tinh nhưng ông “đã
nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá”.
Và cái kinh nghiệm đò giang sông nước, lên
thác xuống ghềnh đã khiến ông đò dù trong
tay chỉ có cây chèo vẫn có thể phá thành, vượt
ải như một chiến trường bách thắng trong sự
nghiệp đấu tranh chống lại thiên nhiên khắc
nghiệt.
=> Cảnh vượt thác là bài ca chiến trận hào
hùng, hình ảnh bừng sáng: ông lái đò oai
phong lẫm liệt như một vị danh tướng, trí
dũng song toàn, quyết liệt và quyết đoán, uyển
chuyển linh hoạt như một nghệ sĩ xử lý tình
huống với trái tim khát khao chinh phục... đã
=> Trí tưởng tượng phong phú của Nguyễn
Tuân đã khiến sông Đà hiện lên như một thiên
anh hùng ca. Thần thoại Hy Lạp xưa tưởng
tượng về biển ca trong hình hài của một vị
thần. Thần biển Poxedong, chính vị thần tính
khí thất thường ấy đã khiến người anh hùng
Uylitxo mười năm trời lênh đênh trên biển cả
mới trở về quê hương I-tắc nhưng cũng vì thế
mà chính Poxedong đã làm nổi bật lên vẻ đẹp
của Uylitxo. Xét ra, Nguyễn Tuân vẫn giữ trọn
sự phong phú trong lối tư duy của con người
thời ấu thơ. Bởi dòng Sông Đà của Nguyễn
Tuân quả thật đã là một huyền thoại bên cạnh
huyền thoại về chàng Thủy Tinh đa tình.
=> Con sông Đà hung bạo đâu bởi thiên nhiên
gây ra với: thác dữ, những luồng chết, vực
xoáy mà Nguyễn Tuân còn thấy đó là do con
người. Đó chính là bọn thổ ti lang tạo đã đắp
bến chia ngăn dòng sông Đà, khiến con sông
trở nên trái tính, trở thành kẻ thù của người
dân Tây Bắc. Đó còn là bọn thực dân Pháp
đóng đồn bốt ở hai bên bờ sông khiến Đà giang
trở nên càng hung bạo. Rõ ràng, con sông Đà
mang cốt cách của người dân Tây Bắc. Nhìn
rộng ra, ta thấy những con sông hầu như đều
mang nét đẹp văn hóa vùng miền nơi nó đi
qua. Nếu “sông Hương” của Hoàng Phủ Ngọc
Tường mang vẻ đẹp trầm mặc của cố đô và
người dân Huế thì con sông Đà lại là biểu
lập thành hào quang chiến thắng.
tượng, lại mang cái văn hóa của người dân
Tây Bắc. Như vậy, có thể khẳng định Đà giang
qua ngòi bút của Nguyễn Tuân hiện lên dữ dội
đến khác thường, tột đỉnh, thể hiện rất rõ
phong cách rất riêng của Nguyễn Tuân –một
phong cách rất “ngông”.
( Văn bản) Dòng sông vặn mình vào một cái
bến cát có hang lạnh. Sóng thác xèo xèo tan
trong trí nhớ. Sông nước lại thanh bình. Đêm
ấy nhà đò đốt lửa trong hang đá, nướng ống
cơm lam và toàn bàn tán về cá anh vũ cá dầm
xanh, về những cái hầm cá hang cá mùa khô
nổ những tiếng to như mìn bộc phá rồi cá túa
ra đầy tràn ruộng. Cũng chả thấy ai bàn thêm
một lời nào về cuộc chiến thắng vừa qua nơi
cửa ải nước đủ tướng dữ quân tợn vừa rồi.
Cuộc sống của họ là ngày nào cũng chiến đấu
với Sông Đà dữ dội, ngày nào cũng giành lấy
cái sống từ tay những cái thác, nên nó cũng
không có gì là hồi hộp đáng nhớ... Họ nghĩ thế,
lúc ngừng chèo.
- Nếu như trong cuộc chiến với sông Đà thể
hiện vẻ đẹp và sức mạnh ở bề nổi của sông Đà
thì sau cuộc chiến cách ứng xử với chiến công,
chiến thắng của ông lão lại cho thấy những vẻ
đẹp ở bề sâu tâm hồn, nhân cách. Đối với
người lái đò, hiểm nguy trên dòng sông cũng
chính là một phần trong cuộc sống của ông .
Khi vượt qua gian nguy , sóng nước lại tan xèo
xèo trong trí nhớ “sông nước lại thanh bình .
Đêm ấy nhà đò đốt lửa trong hang đá , nướng
ống cơm lam , và tòan bàn tán về cá anh vũ ,
cá dầm xanh … Cũng chẳng thấy ai bàn thêm
một lời nào về cuộc chiến thắng vừa qua ” .
Nhà văn như muốn nghỉ ngơi sau chặng
đường dài cùng nhân vật của mình đua tranh
tài trí với thiên nhiên hung dữ . Song qua
giọng văn nhẹ nhàng , ta lại thấm thía thêm
một vẻ đẹp của người lái đò . Đó là sự khiêm
nhường, bình dị, ung dung bởi vì “ngày nào
cũng giành lấy cái sống từ tay những cái thác ,
nên nó cũng không có gì là hồi hộp đáng nhớ …
”. Cái phi thường đã trở thành bình thường.
Phẩm chất chiến sĩ đã hòa quyện với phong
thái tài tử, nghệ sĩ.
=> “Người lái đò sông Đà” là một bước chuyển
lớn trong phong cách Nguyễn Tuân. Trước
cách mạng, nhà văn thường đi tìm đề tài cho
tác phẩm bằng cách quay về với quá khứ, với
một thời vang bóng đã qua. Nhân vật của
Nguyễn Tuân là những Huấn Cao, quản ngục
mang tâm trạng của kẻ “nào biết trên đầu có
ai”. Nhân vật “vang bóng một thời” là những vị
anh hùng ngang dọc, “khinh bạc đến điều”.
Nhưng sau cách mạng, Nguyễn Tuân đã tìm
thấy chất tài hoa nghệ sĩ ở những con người
lao động hết sức bình dị, gần gũi. Huấn Cao
giờ đây đã lùi vào dĩ vãng chỉ còn đây một ông
lái đò cả đời gắn bó với công việc, với cuộc
sống. Hình ảnh ông lái lênh đênh trên sóng
nước, chiến đấu với tử thần bằng cây sào bé
nhỏ gây xiết bao xúc động trong lòng người
đọc. Sau mười năm làm nghề lái đò, cả sau khi
đã thôi nghề vài chục năm, trên ngực người lái
đò vẫn còn "bầm tụ” một “củ khoai nâu", với
Nguyễn Tuân, “đó cũng là cái hình ảnh quý giá
của một thứ huân chương lao động siêu hạng".
Ông lái xuất hiện trước mắt chúng ta như
những người nghệ sĩ tài hoa trí dũng song
toàn. Miêu tả hình ảnh người đời thường lái
đò, Nguyễn Tuân đã thể hiện tấm lòng trân
trọng, cảm phục những con người góp phần
vào công cuộc xây dựng Tổ quốc.
 Thông qua việc miêu tả trận thủy chiến tác giả Nguyễn Tuân đã cho người đọc thưởng
thức cái “thú chơi ngôn từ” độc và lạ của ông. Một loạt các động từ được sử dụng dày
đặc, kèm theo đó là hàng loạt các tính từ diễn tả cơn cuồng nộ của dòng Đà giang cũng
như tài trí của ông lái đò. Đó là một cuộc hỗn chiến giữa người và sông nước đến nghẹt
thở. Nguyễn Tuân còn vận dụng kiến thức của nhiều ngành nghề để soi chiếu đối tượng,
tạo cảm giác về một trận thủy chiến đầy kịch tính, đầy sôi động và không hề kém phần
hấp dẫn.
[Vẻ đẹp trữ tình]
- Sinh thời Nguyễn Tuân rất tâm đắc với ý tưởng nghệ thuật của M.Gorki: “Cái bình thường
là cái chết của nghệ thuật”. Một người như ông không có cái khuôn khổ vô hình nào câu
thúc nỗi khát vọng thiện lương, khát vọng dùng văn chương để thưởng ngoạn thì con sông
Đà kia không chỉ hung bạo mà rất đỗi trữ tình, thơ mộng. Nếu như trên thượng nguồn, con
sông Đà hung bạo, cuồng nộ bao nhiêu thì đến khúc sống hạ lưu sông Đà lại trở nên dịu
dàng, thơ mộng bấy nhiêu. Sinh thể Đà giang giờ chợt rùng mình thoát xác, trở thành một
dòng sông - thiếu nữ, dòng sông trữ tình. Đó là một khoảng vọng mĩ nhân muôn kiếp đa
tình trong đôi mắt và tâm hồn thi nhân muôn thuở.
Dòng sông vặn mình vào một cái bến cát có hang lạnh. Sóng thác xèo xèo tan trong trí nhớ.
Sông nước lại thanh bình. Đêm ấy nhà đò đốt lửa trong hang đá, nướng ống cơm lam và toàn
bàn tán về cá anh vũ cá dầm xanh, về những cái hầm cá hang cá mùa khô nổ những tiếng to
như mìn bộc phá rồi cá túa ra đầy tràn ruộng. Cũng chả thấy ai bàn thêm một lời nào về cuộc
chiến thắng vừa qua nơi cửa ải nước đủ tướng dữ quân tợn vừa rồi. Cuộc sống của họ là ngày
nào cũng chiến đấu với Sông Đà dữ dội, ngày nào cũng giành lấy cái sống từ tay những cái
thác, nên nó cũng không có gì là hồi hộp đáng nhớ... Họ nghĩ thế, lúc ngừng chèo.
- Bút pháp tương phản của cảm hứng lãng mạn: Ngay trong đối tượng miêu tả. Sau con
sông Đà hung bạo, ngay sau khi “sông vặn mình vào một cái bến cát”, khi chút bọt nước
cuối cùng của sóng gió thượng nguồn “xèo xèo tan trên cát”, ngòi bút tài hoa của Nguyễn
Tuân đã bất ngờ dẫn người đọc đến một sông Đà êm đềm, hiền dịu.
Trên Sông Đà, thỉnh thoảng có tàu bay lượn vòng ở quãng này ở quãng khác, có lẽ đề chỉnh lý về
bản đồ đất nước Tổ quốc. Tôi nghĩ nếu sau này làm phim truyện hoặc phim ký sự (tôi không
muốn dùng mấy chữ phim tài liệu) màu về Sông Đà, nếu muốn phản ánh lên cái dữ tợn và cái lớn
của Sông Đà của thác Sông Đà, cũng phải đưa ống quay phim lên tàu bay. Cho bay là là trên thác
mà giá máy xuống mà lượn ống máy theo những luồng sinh của thác, trên thác hiên ngang một
người lái đò Sông Đà có tự do, vì người lái đò ấy đã nắm được cái quy luật tất yếu của dòng nước
Sông Đà.
(Hình dáng sông Đà) Tôi có bay tạt ngang qua Sông Đà mấy lần, và thấy đó cũng là thêm cho
mình một góc độ nhìn một cách nhìn về con sông Tây Bắc hung bạo và trữ tình. Từ trên tàu bay
mà nhìn xuống Sông Đà, không ai trong tàu bay nghĩ rằng cái dây thừng ngoằn ngoèo dưới chân
mình kia lại chính là cái con sông hằng năm và đời đời kiếp kiếp làm mình làm mẩy với con
Người lái đò sông Đà.pdf
Người lái đò sông Đà.pdf
Người lái đò sông Đà.pdf
Người lái đò sông Đà.pdf
Người lái đò sông Đà.pdf
Người lái đò sông Đà.pdf
Người lái đò sông Đà.pdf
Người lái đò sông Đà.pdf
Người lái đò sông Đà.pdf
Người lái đò sông Đà.pdf
Người lái đò sông Đà.pdf
Người lái đò sông Đà.pdf

More Related Content

What's hot

VĂN HÓA TÂM LINH TRONG “TRUYỆN KIỀU” VÀ “VĂN CHIÊU HỒN” CỦA NGUYỄN DU - TẢI F...
VĂN HÓA TÂM LINH TRONG “TRUYỆN KIỀU” VÀ “VĂN CHIÊU HỒN” CỦA NGUYỄN DU - TẢI F...VĂN HÓA TÂM LINH TRONG “TRUYỆN KIỀU” VÀ “VĂN CHIÊU HỒN” CỦA NGUYỄN DU - TẢI F...
VĂN HÓA TÂM LINH TRONG “TRUYỆN KIỀU” VÀ “VĂN CHIÊU HỒN” CỦA NGUYỄN DU - TẢI F...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
NGUYỄN TRÃI VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM
NGUYỄN TRÃI VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM NGUYỄN TRÃI VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM
NGUYỄN TRÃI VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM nataliej4
 
Vấn đề tình yêu của các dân tộc thiểu số thể hiện qua truyện thơ
Vấn đề tình yêu của các dân tộc thiểu số thể hiện qua truyện thơVấn đề tình yêu của các dân tộc thiểu số thể hiện qua truyện thơ
Vấn đề tình yêu của các dân tộc thiểu số thể hiện qua truyện thơlongvanhien
 
Luận văn: Tình yêu trong thơ Nôm thế kỷ XV đến thế kỷ XIX dưới góc nhìn văn h...
Luận văn: Tình yêu trong thơ Nôm thế kỷ XV đến thế kỷ XIX dưới góc nhìn văn h...Luận văn: Tình yêu trong thơ Nôm thế kỷ XV đến thế kỷ XIX dưới góc nhìn văn h...
Luận văn: Tình yêu trong thơ Nôm thế kỷ XV đến thế kỷ XIX dưới góc nhìn văn h...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0936 885 877
 
PHONG CÁCH HỌC TIẾNG VIỆT
PHONG CÁCH HỌC TIẾNG VIỆT PHONG CÁCH HỌC TIẾNG VIỆT
PHONG CÁCH HỌC TIẾNG VIỆT nataliej4
 
Truyền thuyết thánh gióng đặc điểm và giá trị văn hóa. luận án tiến sĩ văn hó...
Truyền thuyết thánh gióng đặc điểm và giá trị văn hóa. luận án tiến sĩ văn hó...Truyền thuyết thánh gióng đặc điểm và giá trị văn hóa. luận án tiến sĩ văn hó...
Truyền thuyết thánh gióng đặc điểm và giá trị văn hóa. luận án tiến sĩ văn hó...jackjohn45
 
Nghe thuat va cai dep
Nghe thuat va cai depNghe thuat va cai dep
Nghe thuat va cai depPhuong Ngo
 
Nhà Văn Việt Nam Hiện Đại Chân Dung Và Phong Cách
Nhà Văn Việt Nam Hiện Đại Chân Dung Và Phong Cách Nhà Văn Việt Nam Hiện Đại Chân Dung Và Phong Cách
Nhà Văn Việt Nam Hiện Đại Chân Dung Và Phong Cách nataliej4
 
NGUYỄN DU VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM.pdf
NGUYỄN DU VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM.pdfNGUYỄN DU VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM.pdf
NGUYỄN DU VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM.pdfNuioKila
 
Mô típ hóa thân trong truyện cổ tích của người việt
Mô típ hóa thân trong truyện cổ tích của người việtMô típ hóa thân trong truyện cổ tích của người việt
Mô típ hóa thân trong truyện cổ tích của người việtnataliej4
 
Tài liệu tìm hiểu chương trình môn ngữ văn
Tài liệu tìm hiểu chương trình môn ngữ vănTài liệu tìm hiểu chương trình môn ngữ văn
Tài liệu tìm hiểu chương trình môn ngữ vănnataliej4
 
Chuyên đề VĂN HỌC HIỆN THỰC 30-45.docx
Chuyên đề VĂN HỌC HIỆN THỰC 30-45.docxChuyên đề VĂN HỌC HIỆN THỰC 30-45.docx
Chuyên đề VĂN HỌC HIỆN THỰC 30-45.docxhiutrn809713
 

What's hot (20)

VĂN HÓA TÂM LINH TRONG “TRUYỆN KIỀU” VÀ “VĂN CHIÊU HỒN” CỦA NGUYỄN DU - TẢI F...
VĂN HÓA TÂM LINH TRONG “TRUYỆN KIỀU” VÀ “VĂN CHIÊU HỒN” CỦA NGUYỄN DU - TẢI F...VĂN HÓA TÂM LINH TRONG “TRUYỆN KIỀU” VÀ “VĂN CHIÊU HỒN” CỦA NGUYỄN DU - TẢI F...
VĂN HÓA TÂM LINH TRONG “TRUYỆN KIỀU” VÀ “VĂN CHIÊU HỒN” CỦA NGUYỄN DU - TẢI F...
 
NGUYỄN TRÃI VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM
NGUYỄN TRÃI VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM NGUYỄN TRÃI VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM
NGUYỄN TRÃI VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM
 
Luận văn: Motif hôn nhân giữa người và thần linh trong truyền thuyết
Luận văn: Motif hôn nhân giữa người và thần linh trong truyền thuyếtLuận văn: Motif hôn nhân giữa người và thần linh trong truyền thuyết
Luận văn: Motif hôn nhân giữa người và thần linh trong truyền thuyết
 
Vấn đề tình yêu của các dân tộc thiểu số thể hiện qua truyện thơ
Vấn đề tình yêu của các dân tộc thiểu số thể hiện qua truyện thơVấn đề tình yêu của các dân tộc thiểu số thể hiện qua truyện thơ
Vấn đề tình yêu của các dân tộc thiểu số thể hiện qua truyện thơ
 
Luận văn: Tình yêu trong thơ Nôm thế kỷ XV đến thế kỷ XIX dưới góc nhìn văn h...
Luận văn: Tình yêu trong thơ Nôm thế kỷ XV đến thế kỷ XIX dưới góc nhìn văn h...Luận văn: Tình yêu trong thơ Nôm thế kỷ XV đến thế kỷ XIX dưới góc nhìn văn h...
Luận văn: Tình yêu trong thơ Nôm thế kỷ XV đến thế kỷ XIX dưới góc nhìn văn h...
 
Luận văn: Phương thức biểu hiện nhân vật anh hùng trong thủy hử
Luận văn: Phương thức biểu hiện nhân vật anh hùng trong thủy hửLuận văn: Phương thức biểu hiện nhân vật anh hùng trong thủy hử
Luận văn: Phương thức biểu hiện nhân vật anh hùng trong thủy hử
 
Luận văn: Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu
Luận văn: Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Minh ChâuLuận văn: Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu
Luận văn: Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu
 
PHONG CÁCH HỌC TIẾNG VIỆT
PHONG CÁCH HỌC TIẾNG VIỆT PHONG CÁCH HỌC TIẾNG VIỆT
PHONG CÁCH HỌC TIẾNG VIỆT
 
Luận văn: Cái Tôi cô đơn trong thơ mới và thơ đương đại, HAY
Luận văn: Cái Tôi cô đơn trong thơ mới và thơ đương đại, HAYLuận văn: Cái Tôi cô đơn trong thơ mới và thơ đương đại, HAY
Luận văn: Cái Tôi cô đơn trong thơ mới và thơ đương đại, HAY
 
Luận văn: Phương tiện và biện pháp tu từ trong ca dao Nam Bộ
Luận văn: Phương tiện và biện pháp tu từ trong ca dao Nam BộLuận văn: Phương tiện và biện pháp tu từ trong ca dao Nam Bộ
Luận văn: Phương tiện và biện pháp tu từ trong ca dao Nam Bộ
 
Truyền thuyết thánh gióng đặc điểm và giá trị văn hóa. luận án tiến sĩ văn hó...
Truyền thuyết thánh gióng đặc điểm và giá trị văn hóa. luận án tiến sĩ văn hó...Truyền thuyết thánh gióng đặc điểm và giá trị văn hóa. luận án tiến sĩ văn hó...
Truyền thuyết thánh gióng đặc điểm và giá trị văn hóa. luận án tiến sĩ văn hó...
 
Nghe thuat va cai dep
Nghe thuat va cai depNghe thuat va cai dep
Nghe thuat va cai dep
 
Luận văn: Văn hóa tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết việt nam
Luận văn: Văn hóa tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết việt namLuận văn: Văn hóa tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết việt nam
Luận văn: Văn hóa tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết việt nam
 
Nhà Văn Việt Nam Hiện Đại Chân Dung Và Phong Cách
Nhà Văn Việt Nam Hiện Đại Chân Dung Và Phong Cách Nhà Văn Việt Nam Hiện Đại Chân Dung Và Phong Cách
Nhà Văn Việt Nam Hiện Đại Chân Dung Và Phong Cách
 
NGUYỄN DU VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM.pdf
NGUYỄN DU VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM.pdfNGUYỄN DU VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM.pdf
NGUYỄN DU VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM.pdf
 
Đề tài: Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu
Đề tài: Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong truyện ngắn của Nguyễn Minh ChâuĐề tài: Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu
Đề tài: Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu
 
Mô típ hóa thân trong truyện cổ tích của người việt
Mô típ hóa thân trong truyện cổ tích của người việtMô típ hóa thân trong truyện cổ tích của người việt
Mô típ hóa thân trong truyện cổ tích của người việt
 
Tài liệu tìm hiểu chương trình môn ngữ văn
Tài liệu tìm hiểu chương trình môn ngữ vănTài liệu tìm hiểu chương trình môn ngữ văn
Tài liệu tìm hiểu chương trình môn ngữ văn
 
Đặc trưng nghệ thuật Truyện truyền kỳ Việt Nam thời trung đại, HAY
Đặc trưng nghệ thuật Truyện truyền kỳ Việt Nam thời trung đại, HAYĐặc trưng nghệ thuật Truyện truyền kỳ Việt Nam thời trung đại, HAY
Đặc trưng nghệ thuật Truyện truyền kỳ Việt Nam thời trung đại, HAY
 
Chuyên đề VĂN HỌC HIỆN THỰC 30-45.docx
Chuyên đề VĂN HỌC HIỆN THỰC 30-45.docxChuyên đề VĂN HỌC HIỆN THỰC 30-45.docx
Chuyên đề VĂN HỌC HIỆN THỰC 30-45.docx
 

Similar to Người lái đò sông Đà.pdf

Thế giới nhân vật trong sáng tác của Nguyễn Tuân sau cách mạng tháng Tám
Thế giới nhân vật trong sáng tác của Nguyễn Tuân sau cách mạng tháng TámThế giới nhân vật trong sáng tác của Nguyễn Tuân sau cách mạng tháng Tám
Thế giới nhân vật trong sáng tác của Nguyễn Tuân sau cách mạng tháng TámDịch vụ Làm Luận Văn 0936885877
 
Nam cao nhà văn tài hoa
Nam cao   nhà văn tài hoaNam cao   nhà văn tài hoa
Nam cao nhà văn tài hoaHung Anh Nguyen
 
NGUYỄN TRÃI VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM.pdf
NGUYỄN TRÃI VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM.pdfNGUYỄN TRÃI VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM.pdf
NGUYỄN TRÃI VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM.pdfHanaTiti
 
Nhà Văn Việt Nam Hiện Đại Chân Dung Và Phong Cách
Nhà Văn Việt Nam Hiện Đại Chân Dung Và Phong Cách Nhà Văn Việt Nam Hiện Đại Chân Dung Và Phong Cách
Nhà Văn Việt Nam Hiện Đại Chân Dung Và Phong Cách nataliej4
 
Luan van (van) chuẩn cuối cungx 2
Luan van (van) chuẩn cuối cungx 2Luan van (van) chuẩn cuối cungx 2
Luan van (van) chuẩn cuối cungx 2hach nguyen phan
 
Khái quát văn học việt nam từ đầu thế kỷ xx đến cmt8 1945truonghocso.com
Khái quát văn học việt nam từ đầu thế kỷ xx đến cmt8 1945truonghocso.comKhái quát văn học việt nam từ đầu thế kỷ xx đến cmt8 1945truonghocso.com
Khái quát văn học việt nam từ đầu thế kỷ xx đến cmt8 1945truonghocso.comThế Giới Tinh Hoa
 
Tailieu.vncty.com the gioi-nhan_vat_trong_truyen_ngan_nguyen_cong_hoan_va_t...
Tailieu.vncty.com   the gioi-nhan_vat_trong_truyen_ngan_nguyen_cong_hoan_va_t...Tailieu.vncty.com   the gioi-nhan_vat_trong_truyen_ngan_nguyen_cong_hoan_va_t...
Tailieu.vncty.com the gioi-nhan_vat_trong_truyen_ngan_nguyen_cong_hoan_va_t...Trần Đức Anh
 
PHÊ BÌNH NGHIÊN CỨU VĂN HỌC
PHÊ BÌNH NGHIÊN CỨU VĂN HỌC PHÊ BÌNH NGHIÊN CỨU VĂN HỌC
PHÊ BÌNH NGHIÊN CỨU VĂN HỌC nataliej4
 
Mở bài
Mở bài Mở bài
Mở bài TrnNgcLy
 
BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI CHUYÊN SÂU MÔN NGỮ VĂN 7 DÙNG CHUNG 3 BỘ SÁCH NĂM 202...
BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI CHUYÊN SÂU MÔN NGỮ VĂN 7 DÙNG CHUNG 3 BỘ SÁCH NĂM 202...BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI CHUYÊN SÂU MÔN NGỮ VĂN 7 DÙNG CHUNG 3 BỘ SÁCH NĂM 202...
BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI CHUYÊN SÂU MÔN NGỮ VĂN 7 DÙNG CHUNG 3 BỘ SÁCH NĂM 202...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Th s33.034 quan niệm nghệ thuật về hoàn cảnh của nguyễn minh châu trong tập t...
Th s33.034 quan niệm nghệ thuật về hoàn cảnh của nguyễn minh châu trong tập t...Th s33.034 quan niệm nghệ thuật về hoàn cảnh của nguyễn minh châu trong tập t...
Th s33.034 quan niệm nghệ thuật về hoàn cảnh của nguyễn minh châu trong tập t...https://www.facebook.com/garmentspace
 
Cai dep trong nghe thuat
Cai dep trong nghe thuatCai dep trong nghe thuat
Cai dep trong nghe thuatDoKo.VN Channel
 
Xuân diệu về tác gia và tác phẩm
Xuân diệu về tác gia và tác phẩmXuân diệu về tác gia và tác phẩm
Xuân diệu về tác gia và tác phẩmjackjohn45
 

Similar to Người lái đò sông Đà.pdf (20)

Thế giới nhân vật trong sáng tác của Nguyễn Tuân sau cách mạng tháng Tám
Thế giới nhân vật trong sáng tác của Nguyễn Tuân sau cách mạng tháng TámThế giới nhân vật trong sáng tác của Nguyễn Tuân sau cách mạng tháng Tám
Thế giới nhân vật trong sáng tác của Nguyễn Tuân sau cách mạng tháng Tám
 
MÂU PP NGUYỄN DU.pptx
MÂU PP NGUYỄN DU.pptxMÂU PP NGUYỄN DU.pptx
MÂU PP NGUYỄN DU.pptx
 
Nam cao nhà văn tài hoa
Nam cao   nhà văn tài hoaNam cao   nhà văn tài hoa
Nam cao nhà văn tài hoa
 
NGUYỄN TRÃI VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM.pdf
NGUYỄN TRÃI VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM.pdfNGUYỄN TRÃI VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM.pdf
NGUYỄN TRÃI VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM.pdf
 
Nhà Văn Việt Nam Hiện Đại Chân Dung Và Phong Cách
Nhà Văn Việt Nam Hiện Đại Chân Dung Và Phong Cách Nhà Văn Việt Nam Hiện Đại Chân Dung Và Phong Cách
Nhà Văn Việt Nam Hiện Đại Chân Dung Và Phong Cách
 
Huyen
HuyenHuyen
Huyen
 
Luan van (van) chuẩn cuối cungx 2
Luan van (van) chuẩn cuối cungx 2Luan van (van) chuẩn cuối cungx 2
Luan van (van) chuẩn cuối cungx 2
 
Khái quát văn học việt nam từ đầu thế kỷ xx đến cmt8 1945truonghocso.com
Khái quát văn học việt nam từ đầu thế kỷ xx đến cmt8 1945truonghocso.comKhái quát văn học việt nam từ đầu thế kỷ xx đến cmt8 1945truonghocso.com
Khái quát văn học việt nam từ đầu thế kỷ xx đến cmt8 1945truonghocso.com
 
Tailieu.vncty.com the gioi-nhan_vat_trong_truyen_ngan_nguyen_cong_hoan_va_t...
Tailieu.vncty.com   the gioi-nhan_vat_trong_truyen_ngan_nguyen_cong_hoan_va_t...Tailieu.vncty.com   the gioi-nhan_vat_trong_truyen_ngan_nguyen_cong_hoan_va_t...
Tailieu.vncty.com the gioi-nhan_vat_trong_truyen_ngan_nguyen_cong_hoan_va_t...
 
PHÊ BÌNH NGHIÊN CỨU VĂN HỌC
PHÊ BÌNH NGHIÊN CỨU VĂN HỌC PHÊ BÌNH NGHIÊN CỨU VĂN HỌC
PHÊ BÌNH NGHIÊN CỨU VĂN HỌC
 
Lele
LeleLele
Lele
 
Mở bài
Mở bài Mở bài
Mở bài
 
BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI CHUYÊN SÂU MÔN NGỮ VĂN 7 DÙNG CHUNG 3 BỘ SÁCH NĂM 202...
BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI CHUYÊN SÂU MÔN NGỮ VĂN 7 DÙNG CHUNG 3 BỘ SÁCH NĂM 202...BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI CHUYÊN SÂU MÔN NGỮ VĂN 7 DÙNG CHUNG 3 BỘ SÁCH NĂM 202...
BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI CHUYÊN SÂU MÔN NGỮ VĂN 7 DÙNG CHUNG 3 BỘ SÁCH NĂM 202...
 
Th s33.034 quan niệm nghệ thuật về hoàn cảnh của nguyễn minh châu trong tập t...
Th s33.034 quan niệm nghệ thuật về hoàn cảnh của nguyễn minh châu trong tập t...Th s33.034 quan niệm nghệ thuật về hoàn cảnh của nguyễn minh châu trong tập t...
Th s33.034 quan niệm nghệ thuật về hoàn cảnh của nguyễn minh châu trong tập t...
 
Đề tài: Yếu tố văn hóa dân gian trong sáng tác của một số nhà thơ thuộc phong...
Đề tài: Yếu tố văn hóa dân gian trong sáng tác của một số nhà thơ thuộc phong...Đề tài: Yếu tố văn hóa dân gian trong sáng tác của một số nhà thơ thuộc phong...
Đề tài: Yếu tố văn hóa dân gian trong sáng tác của một số nhà thơ thuộc phong...
 
Vội vàng.pdf
Vội vàng.pdfVội vàng.pdf
Vội vàng.pdf
 
Cai dep trong nghe thuat
Cai dep trong nghe thuatCai dep trong nghe thuat
Cai dep trong nghe thuat
 
Van hoc 1
Van hoc 1Van hoc 1
Van hoc 1
 
123
123123
123
 
Xuân diệu về tác gia và tác phẩm
Xuân diệu về tác gia và tác phẩmXuân diệu về tác gia và tác phẩm
Xuân diệu về tác gia và tác phẩm
 

Recently uploaded

TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................TrnHoa46
 
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...Nguyen Thanh Tu Collection
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptx
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptxpowerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptx
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptxAnAn97022
 
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIĐiện Lạnh Bách Khoa Hà Nội
 
PHÁT TRIỂN DU LỊCH BỀN VỮNG Ở TUYÊN QUANG
PHÁT TRIỂN DU LỊCH BỀN VỮNG Ở TUYÊN QUANGPHÁT TRIỂN DU LỊCH BỀN VỮNG Ở TUYÊN QUANG
PHÁT TRIỂN DU LỊCH BỀN VỮNG Ở TUYÊN QUANGhoinnhgtctat
 
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdfchuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdfVyTng986513
 
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfCampbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfTrnHoa46
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docxTHAO316680
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoáCác điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoámyvh40253
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfhoangtuansinh1
 
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
sách sinh học đại cương   -   Textbook.pdfsách sinh học đại cương   -   Textbook.pdf
sách sinh học đại cương - Textbook.pdfTrnHoa46
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 

Recently uploaded (20)

TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
 
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................
 
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptx
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptxpowerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptx
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptx
 
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
 
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
 
PHÁT TRIỂN DU LỊCH BỀN VỮNG Ở TUYÊN QUANG
PHÁT TRIỂN DU LỊCH BỀN VỮNG Ở TUYÊN QUANGPHÁT TRIỂN DU LỊCH BỀN VỮNG Ở TUYÊN QUANG
PHÁT TRIỂN DU LỊCH BỀN VỮNG Ở TUYÊN QUANG
 
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdfchuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
 
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfCampbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
 
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoáCác điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
 
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
sách sinh học đại cương   -   Textbook.pdfsách sinh học đại cương   -   Textbook.pdf
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 

Người lái đò sông Đà.pdf

  • 1. NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ - NGUYỄN TUÂN – A. Tác giả 1. Tiểu sử - Nguyễn Tuân (1910 – 1987) sinh ra ở làng mộc, tại phố Hàng Bạc, Thanh Xuân, Hà Nội. Mảnh đất Hà Nội đã đem đến cho con người và văn chương Nguyễn Tuân nét tinh tế tài hoa. Tuy nhiên ngay từ khi còn nhỏ ông đã theo gia đình sống nhiều năm ở các tỉnh và thành phố như Thanh Hóa, Hà Tĩnh, Huế, Quảng Nam, Đà Nẵng, Phú Yên, Khánh Hòa. Những vùng đất ấy, đặc biệt là Thanh Hóa đã để lại nhiều dấu ấn trong sáng tác của ông. - Ông sinh ra trong một gia đình nhà Nho cuối thời, là con trai của cụ Nguyễn An Lan (tức ông tú Hải Văn), một nhà Nho bất đắc chí nhưng hết mực tài hoa. Từ nhỏ đã được tiếp xúc với Nho học. Trong gia đình, Nguyễn Tuân ảnh hưởng rất mạnh từ người cha của mình. - Nguyễn Tuân là một trí thức giàu lòng yêu nước và tinh thần dân tộc. Lòng yêu nước của ông có màu sắc riêng: gắn liền với những giá trị văn hóa cổ truyền của dân tộc. Ông yêu tha thiết tiếng mẹ đẻ, những kiệt tác văn chương của Nguyễn Du, Đoàn Thị Điểm, Tú Xương, Tản Đà... những phong cảnh đẹp của quê hương đất nước, những thú chơi tao nhã như uống trà, nhắm rượu, chơi hoa, chơi chữ đẹp, đánh thơ, thả thơ... những món ăn truyền thống thể hiện khẩu vị tinh tế của người Việt. - Ở Nguyễn Tuân, ý thức cá nhân phát triển rất cao. Ông viết văn trước hết để khẳng định cá tính độc đáo của mình. Ông ham du lịch, tự gán cho mình một chứng bệnh gọi là “chủ nghĩa xê dịch”. - Nguyễn Tuân là con người rất mực tài hoa. Tuy chỉ viết văn nhưng ông còn am hiểu nhiều môn nghệ thuật khác: hội họa, điêu khắc, sân khấu, điện ảnh... Đồng thời Nguyễn Tuân còn là một diễn viên kịch nói có tài và là một diễn viên điện ảnh đầu tiên ở nước ta. Ông thường vận dụng
  • 2. con mắt của nhiều ngành nghệ thuật khác nhau để tăng cường khả năng quan sát, diễn tả của nghệ thuật văn chương. - Nguyễn Tuân là một nhà văn biết quý trọng thật sự nghề nghiệp của mình. Ngay từ trước Cách mạng tháng Tám, ông đã quan niệm nghề văn là một cái gì đối lập với tính vụ lợi kiểu con buôn, và ở đâu có đồng tiền phàm tục thì ở đấy không thể có cái đẹp. Đối với ông, nghệ thuật là một hình thái lao động nghiêm túc, thậm chí “khổ hạnh” và ông đã lấy chính cuộc đời cầm bút hơn nửa thế kỉ của mình để chứng minh cho quan niệm ấy. 2. Sự nghiệp văn học a. Tác phẩm chính - Bút danh của Nguyễn Tuân: Nguyễn Tuân, Nhất Lang, Thanh Thuỷ, Thanh Hà, Ngột Lôi Nhật, Ngột Lôi Quật, Ân Ngũ Tuyên, Tuấn Thừa Sắc. - Nguyễn Tuân không phải là nhà văn thành công ngay từ những tác phẩm đầu tay. Ông viết văn từ năm 1930 nhưng thực sự nổi tiếng ở năm 1939. Ông đã thử bút qua nhiều thể loại: thơ, bút kí, truyện ngắn hiện thực trào phúng. Nhưng mãi đến đầu năm 1938, ông mới nhận ra sở trường của mình và thành công xuất sắc với các tác phẩm: “Một chuyến đi, Vang bóng một thời, Thiếu quê hương, Chiếc lư đồng mắt cua...”. Tác phẩm Nguyễn Tuân trước Cách mạng tháng Tám chủ yếu xoay quanh ba đề tài: chủ nghĩa xê dịch, vẻ đẹp vang bóng một thời, và đời sống trụy lạc. – Trước 1945 : Một chuyến đi (1938), Vang bóng một thời (1939), Ngọn đèn dầu lạc (1939), Thiếu quê hương (1940), Tàn đèn dầu lạc (1941), Chiếc lư đồng mắt cua (1941), Tùy bút I (1941), Tùy bút II (1943), Tóc Chị Hoài (1943), Nguyễn (1945). – Sau 1945 : Chùa Ðàn (1946), Ðường vui (1949), Tình chiến dịch (1950), Thắng càn (1963), Tùy bút kháng chiến và hòa bình (Tập I/1955, tập II/1956), Sông Ðà (1960), Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi (1972), Ký (1976), Hương vị và cảnh sắc đất nước (1978), Tuyển tập Nguyễn Tuân (1994). b. Sự nghiệp văn học của Nguyễn Tuân chia làm 2 giai đoạn:
  • 3. + Trước năm 1945: Tác phẩm của ông chủ yếu xoay quanh 3 đề tài: • Mảng đề tài “Chủ nghĩa xê dịch”: Chủ nghĩa xê dịch vốn là một lí thuyết vay mượn của phương Tây, chủ trương đi không mục đích, chỉ luôn luôn thay đổi chỗ để tìm cảm giác mới lạ và thoát li mọi trách nhiệm với gia đình và xã hội. Nguyễn Tuân đã tìm đến lí thuyết này trong tâm trạng bất mãn và bất lực trước thời cuộc. Nhưng viết về chủ nghĩa xê dịch, Nguyễn Tuân lại có dịp bày tỏ tấm lòng gắn bó tha thiết của ông đối với cảnh sắc và phong vị của đất nước mà ông đã ghi lại được bằng một ngòi bút đầy trìu mến và tài hoa (Một chuyến đi).Ông quan niệm một cách độc đáo là phải xê dịch để “thay đổi thực đơn cho các giác quan” • Mảng đề tài “Vang bóng một thời”: Không tin tưởng ở hiện tại và tương lai, Nguyễn Tuân đi tìm vẻ đẹp của quá khứ còn vang bóng một thời. Ấy là thời phong kiến đã qua nhưng dư âm còn vang vọng lại. Ông không viết về trật tự xã hội, về tư tưởng đạo đức cũ, mà phục sinh lại vẻ đẹp riêng của thời xưa với những phong tục đẹp, những thú tiêu dao hưởng lạc lành mạnh và tao nhã, những cách ứng xử giữa người với người đầy nghi lễ nhịp nhàng... Ông đã âm thầm làm công việc khơi lại đống tro tàn để lưu giữ những vẻ đẹp chỉ còn vang bóng. Đặt trong hoàn cảnh đất nước đang bị thực dân Pháp cai trị, mảng đề tài này thể hiện sự quay lưng với thực tại. Tất cả được thể hiện thông qua những con người thuộc lớp người nhà nho tài hoa bất đắc chí, tuy đã thua cuộc nhưng không chịu làm lành với xã hội thực dân (trong số này cũng có những người có khí phách ngang tàng như Huấn Cao (Chữ người tử tù) chẳng hạn). • Mảng đề tài về đời sống trụy lạc: Do mồ côi về mặt tư tưởng, có những lúc Nguyễn Tuân rơi vào chán nản, bế tắc. Ở những tác phẩm này, người ta thường thấy có một nhân vật “tôi” hoang mang bế tắc, tìm cách thoát li trong đàn hát, trong rượu và thuốc phiện. Trong tình trạng khủng hoảng tinh thần ấy, người ta thấy đôi khi vút lên từ cuộc đời nhem nhuốc, phàm tục niềm khao khát một thế giới tinh khiết, thanh cao, được nâng đỡ trên đôi cánh của nghệ thuật (Chiếc lư đồng mắt cua, Ngọn đèn dầu lạc,…). +Sau năm 1945: • Nguyễn Tuân đã được giác ngộ Cách mạng, ông không còn quay lưng với cuộc đời mà ông tìm thấy sự hòa hợp với cuộc sống mới và con người mới. Từ sau Cách mạng tháng Tám 1945, ông
  • 4. chân thành đem ngòi bút phục vụ cuộc chiến đấu của dân tộc, theo sát từng nhiệm vụ chính trị của đất nước. Nhưng Nguyễn Tuân luôn luôn có ý thức phục vụ trên cương vị của một nhà văn, đồng thời vẫn muốn phát huy cá tính và phong cách độc đáo của mình. Ông đã đóng góp cho nền văn học mới nhiều trang viết sắc sảo và đầy nghệ thuật ca ngợi quê hương đất nước, ca ngợi nhân dân lao động trong chiến đấu và sản xuất. ( Tùy bút sông Đà, Hà Nội ta đánh giặc Mỹ giỏi,…) 3. Phong cách nghệ thuật - Trước Cách mạng tháng Tám + Phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân có thể thâu tóm trong một chữ “ngông”. “Ngông” là thái độ khinh đời, ngạo đời, dựa trên tài hoa, sự uyên bác và nhân cách hơn đời của mình. “Nguyễn Tuân bước vào nghề văn như để “chơi ngông” với thiên hạ”. Nhu cầu “chơi ngông” buộc Nguyễn Tuân phải đẩy mọi cái thông thường tới cực đoan, thậm chí tới kì thuyết, nghịch thuyết. Chủ nghĩa độc đáo trong sinh hoạt tất dẫn đến lối sống lập dị, trong sáng tác tất dẫn đến bất chấp nội dung ý nghĩa nghiêm túc, tha hồ phóng bút để ném ra những gì kì lạ, oái oăm, cầu kì, rắc rối. Cái “ngông” đó không phải do chủ nghĩa cá nhân bế tắc mà do “thiên lương” của một trí thức yêu nước, biết coi trọng nhân cách, muốn tách mình ra và “đặt mình lên trên những cái tầm thường của những kẻ thỏa mãn với thân phận nô lệ” (Nguyễn Đăng Mạnh). Ngày xưa, Nguyễn Công Trứ có câu thơ rất ngông: “Trời đất cho ta một cái tài Giắt lưng dành để tháng ngày chơi”. ( Cầm kì thi tửu bài 1) + Nguyễn Tuân là một người tài hoa uyên bác. Sự thật đó được chứng minh ở các điểm sau: o Sự tài hoa • Nhân vật: Các nhân vật trong sáng tác của Nguyễn Tuân không được đánhgiá các tiêu chuẩn tốt xấu, đúng sai, thiện ác mà ông chỉ chú ý đến vẻ đẹp trong mỗi nhân vật. Nhìn người ở phương diện tài hoa nghệ sĩ, tạo nên những nhân vật tài hoa để... đem đối lập với
  • 5. những con người bình thường, phàm tục. Con người trong văn Nguyễn Tuân bao giờ cũng đẹp với vẻ tài hoa nghệ sĩ trong nghề nghiệp của mình. Với Nguyễn Tuân những người bình thường khi thực hiện những công việc bình thường trong phạm vi nghề nghiệp mà họ đang làm nếu đạt tới một trình độ tinh xảo, nhuần nhuyễn, khéo léo mà người khác khó lòng theo kịp thì được coi là một kẻ tài hoa: “mĩ thuật vốn không có bà con luận lí với thời đại, một thằng ăn cắp cũng trở lên đẹp đẽ khi nó cắt túi người ta rất gọn, rất nhanh”. Nguyễn Tuân tiếp cận mọi sự vật ở mặt văn hóa thẩm mĩ để khám phá và... khen chê. Nguyễn Tuân luôn say mê truy tìm vẻ đẹp độc đáo của con người và cuộc sống. Ông tô đậm cái phi thường, gây cảm giác mãnh liệt dữ dội. Nguyễn Tuân thường miêu tả những cảnh đẹp tuyệt mĩ, tuyệt đích; cái đẹp ấy là sự hội tụ của cái đẹp thi vị trữ tình và vẻ đẹp hoành tráng dữ dội đến dữ dằn. • Ngôn từ: Nguyễn Tuân được mệnh danh là bậc phù thủy ngôn từ trong văn học Việt Nam. Các nhà phê bình đã từng ca ngợi: “Ngôn ngữ của Nguyễn Tuân như những khớp xương, có sự co duỗi nhịp nhàng”. Còn nhà văn Anh Đức so sánh: “Mỗi chữ Nguyễn Tuân giống như một cái triện ngọc”. o Sự uyên bác: Ngòi bút uyên bác của Nguyễn Tuân được tạo nên bởi kho tri thức vô cùng đồ sộ về các ngành, khoa học và các bộ môn nghệ thuật. Vận dụng trí thức của nhiều ngành văn hóa, nghệ thuật để quan sát hiện thực, sáng tạo hình tượng. o Sự phóng túng: Khi viết văn, Nguyễn Tuân đặt cá tính lên hàng đầu, không chịu khuôn mình theo bất kì một công thức, lối mòn nào. Chính vì thế mà Nguyễn Tuân sinh ra để dành cho thể loại tùy bút - thể loại phóng túng nhất trong văn học Việt Nam. + Nguyễn Tuân là một con người có nhân cách đạo đức hơn đời: chỗ dựa ở thái độ “ngông” của ông không chỉ ở sự tài hoa uyên bác mà còn ở tính cách “ngông” của ông. Cái gốc của nhân cách đạo đức của Nguyễn Tuân là lòng yêu nước, tinh thần dân tộc, niềm tha thiết với cái đẹp của văn nghệ, của phong tục tập quán, của thiên nhiên và những thú chơi tao nhã. + Trước Cách mạng, Nguyễn Tuân quan niệm cái đẹp chỉ có ở trong quá khứ gọi là “Vang bóng một thời” và tài hoa người nghệ sỹ chỉ có ở những con người xuất chúng, thuộc thời trước còn vương sót lại như Huấn Cao trong “Chữ người tử tù”, Bát Lê trong “Bữa rượu máu”.
  • 6. => Nguyễn Tuân là một cái tôi “ngông” vừa rất lạ, rất đặc biệt, vừa lấp lánh không gì sánh nổi trên bầu trời văn học Việt Nam. Ông là một con tằm rong chơi qua ngàn dâu thắm, hóa kén mọng, nhả tơ vàng, dệt nên nhiều lụa óng, lắm “trang hoa”, góp phần làm vẻ vang thêm cho nền văn học sớm đã rộn ràng của nước nhà. - Sau Cách mạng tháng Tám + Sự vận động, đổi mới trong phong cách nghệ thuật tồn tại song song với tính thống nhất, ổn định của phong cách nghệ thuật. Quy luật sáng tạo đòi hỏi người nghệ sĩ phải biết vượt lên chính mình và không được giẫm lên dấu chân người khác. Phong cách Nguyễn Tuân cũng có sự vận động theo chiều hướng tích cực ấy. Trước và sau Cách mạng là cả một sự thay đổi kì diệu trong văn ông. Cách mạng đã giải thoát cho tâm hồn và nghệ thuật Nguyễn Tuân, hướng nhà văn tới cuộc sống và nhân dân. + Sau Cách mạng, Nguyễn Tuân đi đầu trong cuộc “lột xác văn chương”, ông hòa cái tôi nghệ thuật của mình vào cái ta chung của cộng đồng, không còn nhấm nháp, say sưa chắt chiu cái đẹp trong những tiểu thế giới tù túng, chật hẹp nữa. Nhà văn cảm nhận được cái khỏe đẹp, rộng rãi, bao la của đất trời đổi mới. Cái nhìn của nhà văn với cuộc sống, con người trở nên đôn hậu hơn. Quan niệm của ông về cái đẹp vì thế mà bớt đi sự phù phiếm, phiến diện, từng bước tiếp cận với cái đẹp chân chính và tiến bộ. Ông đi tìm cái đẹp của chủ nghĩa anh hùng trong đời sống của những con người lao động bình thường mà rất phi thường ở công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa miền Bắc lúc bấy giờ như “thứ vàng mười” đã qua thử lửa mà ta bắt gặp đâu đó qua nhân vật Nhẫn (“Cỏ non” - Hồ Phương), anh thanh niên Long (“Lặng lẽ Sa Pa” - Nguyễn Thành Long), chị Đào (“Mùa lạc” - Nguyễn Khải). Ông lái đò sông Đà trong tuỳ bút Người lái đò sông Đà cũng là một con người như thế. Miêu tả tư thế vượt thác hiên ngang, anh dũng của ông lái đò, Nguyễn Tuân ca ngợi phẩm chất của người lao động thời đại mới, chủ động trước thiên nhiên, dám tấn công vào những thế lực dữ dội nhất của thiên nhiên. Đây là khám phá mới mẻ, độc đáo của Nguyễn về hình ảnh con người mới. => Nếu như trước Cách mạng, Nguyễn Tuân có cái “ngông”, “khinh bạt”, “ngạo đời” với xung quanh thì nay ông dùng cái nhìn ấy để đả kích, tấn công kẻ thù. Nhà văn để dành lối khinh bạt
  • 7. ấy cho thực dân Pháp nhằm đả kích, mỉa mai chưa hề bao giờ tôi thấy dòng sông Đà đen như thực dân Pháp đã đè ngửa con sông ta ra đổ mực Tây vào mà gọi bằng một cái tên Tây lếu láo mà cứ như thế mà phết vào bản đồ lai chữ (Người lái đò sông Đà). Sự thay đổi sắc sảo trong ngòi bút Nguyễn Tuân cũng là kết quả của quá trình “lột xác” đầy đau đớn của ông. => Trước và sau Cách mạng có sự thay đổi lớn trong thể loại văn Nguyễn Tuân. Nếu như trước Cách mạng, ở các tập truyện ngắn Nguyễn Tuân được coi là bậc thầy với những nét độc đáo, riêng biệt thì nét phong cách này được thể hiện rõ trong Chữ người tử tù – “một truyện ngắn gần đạt tới sự toàn mĩ” (Vũ Ngọc Phan). Sau Cách mạng, thể loại tuỳ bút phát triển mạnh mẽ hơn, Người lái đò sông Đà là một trong những thành công xuất sắc của tuỳ bút Nguyễn Tuân. Có thể nói trong thể loại tuỳ bút trong làng văn Việt Nam đã xuất hiện Thạch Lam, Vũ Bằng… nhưng chưa ai theo kịp được “thể phách Nguyễn Tuân”. => Nguyễn Tuân còn có đóng góp không nhỏ cho sự phát triển của ngôn ngữ văn học Việt Nam. Ông có một kho từ vựng phong phú và một khả năng tổ chức câu văn xuôi đầy giá trị tạo hình, lại có nhạc điệu trầm bổng, biết co duỗi nhịp nhàng. Nhận xét về phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân, Anh Đức viết: “Không biết chừng nào mới lại có một nhà văn như thế, một nhà văn mà khi ta gọi là một bậc thầy của ngôn từ ta không hề thấy ngại miệng, một nhà văn độc đáo, vô song mà mỗi dòng, mỗi chữ tuôn ra đầu ngọn bút đều như có đóng một dấu triện riêng”.  Với gần 50 năm hoạt động văn học liên tục, bằng ngòi bút đầy tài năng của mình, Nguyễn Tuân đã có những đóng góp tto lớn, một vị trí quan trọng trong lịch sử văn học Việt Nam: Thúc đẩy thể tùy bút, bút kí văn học đạt đến đỉnh cao, làm phong phú thêm ngôn ngữ dân tộc, đem đến cho nền văn xuôi hiện đại Việt Nam một phong cách tài hoa và độc đáo.Nguyễn Tuân đã thực sự “vang bóng một thời” và những trang văn tài hoa, độc đáo của ông cũng sẽ bất tử mãi tử mãi trong lòng bạn đọc.  Nhà văn Nguyễn Tuân “đặc Việt Nam” (chữ dùng của Vũ Ngọc Phan) từ quan niệm cho tới thực tế sáng tác. Chất văn hóa như sợi chỉ đỏ xuyên suốt, là cái phần cơ bản nhất làm nên giá trị vĩnh hằng cho văn nghiệp của ông.  Vẻ đẹp của trang viết Nguyễn Tuân là kết quả tất yếu từ một cách viết mang chiều sâu, bề rộng và tầm cao văn hóa. Lòng yêu nước và tinh thần dân tộc, đặc biệt biểu hiện ở thái độ
  • 8. thành kính trân trọng tiếng mẹ đẻ và các giá trị truyền thống chính là động lực bên trong, thôi thúc nhà văn không ngừng tìm tòi, khơi nguồn vốn cũ và sáng tạo nên giá trị mới. Ông xứng đáng được mệnh danh là “chuyên viên cao cấp tiếng Việt”, là “người thợ kim hoàn của chữ” (Ý của Tố Hữu). Trong lâu đài văn chương nghệ thuật dân tộc Việt Nam ở thế kỷ 20, rất dễ nhận ra phần chạm trổ tinh xảo của người nghệ sĩ ngôn từ Nguyễn Tuân. B. Tác phẩm 1. Hoàn cảnh ra đời - Tuỳ bút “Người lái đò sông Đà” được in trong tập tuỳ bút “Sông Đà” (1960), gồm 15 bài tuỳ bút và một bài thơ ở dạng phác thảo. Tác phẩm được viết trong thời kì xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. Đó là kết quả viên mãn của chuyến đi thực tế gian khổ mà hào hùng của nhà văn đến Tây Bắc trong kháng chiến chống Pháp, đặc biệt là chuyến đi thực tế năm 1958. Nguyễn Tuân đến với nhiều vùng đất khác nhau, sống với bộ đội, công nhân và đồng bào các dân tộc. Ông được thỏa mãn thú phiêu lãng xê dịch của mình. Thực tiễn xây dựng cuộc sống mới ở vùng cao đã đem đến cho nhà văn nguồn cảm hứng sáng tạo. - Ngoài phong cảnh Tây Bắc uy nghiêm, hùng vĩ và tuyệt vời thơ mộng, Nguyễn Tuân còn phát hiện những điểm quý báu trong tâm hồn con người mà ông gọi là “thứ vàng mười đã được thử lửa, là chất vàng mười của tâm hồn Tây Bắc.” - Qua tùy bút “Người lái đò sông Đà”, Nguyễn Tuân với lòng tự hào của mình đã khắc hoạ những nét thơ mộng, hùng vĩ nhưng khắc nghiệt của thiên nhiên đất nước qua hình ảnh con sông Đà hung bạo và trữ tình. Đồng thời, nhà văn cũng phát hiện và ca ngợi chất nghệ sĩ, sự tài ba trí dũng của con người lao động mới: chất vàng mười của đất nước trong xây dựng chủ nghĩa xã hội qua hình ảnh người lái đò sông Đà. Từ đó nhà văn ca ngợi sông Đà, núi rừng Tây Bắc vừa hùng vĩ vừa thơ mộng, đồng bào Tây Bắc cần cù, dũng cảm, rất tài tử, tài hoa. 2. Ý nghĩa nhan đề
  • 9. - Nhan đề “Người lái đò sông Đà” trước hết gợi cho người đọc về nhân vật trung tâm của tác phẩm đó là ông lái đò – một người lao động bình dị tại vùng sông nước Tây Bắc. Ông lái đò vừa có những vẻ đẹp của một người lao động bình thường, vừa có phẩm chất của một người nghệ sĩ tài hoa. Đồng thời, nhan đề cũng nhấn mạnh đến một hình tượng không kém phần quan trọng của tác phẩm là con sông Đà. Vẻ đẹp thiên nhiên của sông Đà hiện lên đầy hùng vĩ, hung bạo nhưng cũng không kém phần thơ mộng, trữ tình. - Qua nhan đề trên, Nguyễn Tuân muốn khẳng định vẻ đẹp kì thú độc đáo của thiên nhiên và con người lao động ở vùng núi Tây Bắc trong công cuộc chinh phục thiên nhiên để kiến thiết quê hương đất nước. 3. Ý nghĩa lời đề từ - Lời đề từ đầu tiên: Nguyễn Tuân đã lấy câu thơ của nhà cách mạng Ba Lan Wladyslaw Broniewski: “Đẹp vậy thay tiếng hát trên dòng sông”. + Tiếng hát trên dòng sông phải chăng là tiếng của những người chèo đò, vượt thác, kéo thuyền, tiếng hát cất lên từ những tâm hồn con người Tây Bác tha thiết với thiên nhiên, đất nước, lạc quan, yêu đời. Người lái đò sông Đà là một trong hai hình tượng trung tâm của thiên tùy bút. + Tiếng hát trên dòng sông là tiếng ca của những người lái đò trên sông nước Đà giang - những người anh hùng lao động sông nước, nghệ sĩ ba lê giữa muôn trùng thác đá. Cuộc đời người lái đò vô danh nơi ngọn thác khuất nẻo hoan vu là thiên anh hùng ca, là pho nghệ thuật tuyệt vời. Sáng tạo nên nhân vật trung tâm của bản tráng ca ấy, Nguyễn đã cất lên tiếng hát say mê, phấn khích và đầy ngưỡng mộ, thể hiện một quan niệm mới của Nguyễn về con người: Con người bất kể nơi đâu, bất kể địa vị và nghề nghiệp, sống trọn với bản tính tự nhiên của mình là đều đáng được ngưỡng mộ và tôn vinh. -> Dù hiểu theo cách nào, lời đề từ cũng thể hiện tình yêu thiết tha của Nguyễn Tuân với thiên nhiên và con người Tây Bắc. - Lời đề từ thứ hai: Nguyễn Tuân mượn hai câu thơ của Nguyễn Quang Bích để nói về sông Đà:
  • 10. “Chúng thủy giai Đông tẩu Đà giang độc Bắc lưu” (Mọi dòng sông đều chảy về Đông Chỉ có một dòng sông Đà theo hướng Bắc) + Lời đề từ ngắn gọn nhưng hàm ẩn nhiều ý nghĩa sâu sắc. Trước hết, việc sử dụng những câu thơ chữ Hán làm tăng thêm tính trang trọng, đồng thời nhấn mạnh đến ý nghĩa khác biệt, độc đáo, những tương quan đối cực của một hiện tượng địa lý của miền Tây Bắc Tổ quốc - Sông Đà như một sinh thể đa dạng, phức tạp. Mọi con sông đều chảy về phía Đông như quy luật của tự nhiên, duy chỉ có sông Đà chảy về phương Bắc. Từ “độc” được sử dụng vô cùng hiệu quả để thể hiện sự độc nhất, cá tính khác biệt của con sông. + Lời đề từ làm toát lên vẻ đệp hoang sơ nhưng không kém phần độc đáo của sông Đà, đồng thời thể hiện sự mạnh mẽ của con sông khi chảy qua một vùng núi non hiểm trở. Lời đề từ không phải của Nguyễn Tuân nhưng lại được sử dụng rất đắt giá trong vị trí lời đề từ của tùy bút. Câu thơ ấy không chỉ bộc lộ vẻ đẹp độc đáo, dữ dội của sông Đà mà còn khẳng định phong cách “ngông” của Nguyễn Tuân, một con người luôn tìm tòi cái mới, sáng tạo những gì chưa có bằng tài năng uyên bác, cá tính con người của mình. => Lời đề từ của thiên bút kí đặc sắc còn hé lộ khát vọng mãnh liệt của Nguyễn Tuân trên hành trình khám phá hiện tượng thiên nhiên kì thú, đó là thể hiện một dòng sông chữ, nghĩa là muốn thể hiện một phong cách nghệ thuật độc đáo để khẳng định cái tôi tài hoa, uyên bác, không lặp lại cũng như dòng chảy ngược hướng sông Đà khác với tất ca dòng sông khác. Những trang văn “Người lái đò sông Đà” chính là những trang hoa, những tờ hoa kết tinh bao cái đẹp: cái đẹp của thơ cơ, của hội họa và của những tác phẩm điêu khắc. => Hai lời đề từ một bên ca ngợi con người, một bên khẳng định vẻ đẹp thiên nhiên nhưng đều hướng đến cái đẹp độc đáo của thiên nhiên con người Tây Bắc, thể hiện cảm hứng say mê tha thiết cùng phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân.
  • 11. 4. Thể loại - Tuỳ bút là một thể thuộc loại hình kí, rất gần với bút kí, kí sự mà đôi khi trong tiếng Việt vẫn thường gọi là tạp văn. Nó vừa mang chất kí (ghi chép) lại vừa có chất thơ (trữ tình) lại vừa chứa những triết học sâu xa. - Nét nổi bật của tuỳ bút là qua việc ghi chép những con người và sự kiện cụ thể có thực, tác giả đặc biệt chú trọng đến việc bộc lộ cảm xúc, suy tư và nhận thức, đánh giá của mình về con người và cuộc sống hiện tại. - So với các tiểu loại khác nhau của kí, tuỳ bút vẫn có không ít những yếu tố chính luận và chất suy tưởng triết lí trong một số trường hợp nhằm bộc lộ quan điểm, lý tưởng, cảm xúc của một người hoặc một lớp người trong xã hội - Cấu trúc của tuỳ bút, nói chung, không bị ràng buộc, câu thúc bởi một cốt truyện cụ thể, song nội dung của nó vẫn được triển khai theo một cảm hứng chủ đạo, một tư tưởng chủ đề nhất định xuyên suốt tác phẩm. Ngôn ngữ tuỳ bút giàu hình ảnh và chất thơ nhằm bộc lộ rõ những đặc điểm của sự vật sự việc được nói đến trong bài. Trong nền văn học Việt Nam hiện đại, Nguyễn Tuân là nhà văn viết tuỳ bút nổi tiếng với tùy bút “Cô Tô”, “Sông Đà”,… 5. Chủ đề - Qua hình tượng sông Đà và người lái đò, Nguyễn Tuân muốn thể hiện niềm yêu mến thiết tha với thiên nhiên đất nước và ngợi ca những con người lao động mới - chất “vàng mười” của cuộc sống. Đẹp vậy thay, tiếng hát trên dòng sông” Władysław Broniewski “Chúng thuỷ giai đông tẩu - Đà giang độc bắc lưu”
  • 12. (Lượt đoạn đầu: Tác giả trình bày mục đích chuyến đi thực tế Tây Bắc và sông Đà của mình chủ yếu là để tìm hiểu những con người ở đây mà ông gọi “thứ vàng mười đã qua thử lửa của cách mạng là kháng chiến, hiện nay đang góp phần vào việc đến thiết Tây Bắc. Tiếp đó, tác giả giới thiệu tài tứ tuyệt vời của những người lái đò sông Đà trong nghệ thuật vượt thác leo ghềnh và liệt kê một loạt con thác sông Đà từ Vạn Yên về xuôi, trong đó có những con thác vô cùng độc dữ, nham hiểm”. Đáng sợ nhất là những cái hút nước “xoáy tít đáy” giữa lòng sông từng dìm xuống và xé tan tác những bè gỗ, những con thuyền vô ý bị nó lôi tuột xuống…) - Giới thiệu chung: + Thi đề dòng sông o Xưa nay thơ văn viết về sông nước là không hiểm. Thậm chí có cả kiệt tác để đời. Ta không thể quên được hai câu thơ của Lý Bạch: "Nước bay thẳng xuống ba nghìn thước Ngỡ dải ngân hà tuột khỏi mây” o Còn trong “Bạch Đằng giang phú”, Trương Hán Siêu đã viết: “Bát ngát sóng kình muôn dặm Thướt tha đuôi trĩ một màu”. o Nhưng dẫu sao, vẻ đẹp sông nước trong thơ xưa cũng chỉ là vẻ đẹp như của một bức tranh và sự dữ dội cũng là sự dữ dội ở thế tĩnh. Còn với Nguyễn Tuân, ông bắt sự dữ dội kia phải nổi lên thành hình khối và phải gào thét trong muôn vạn âm thanh, phải náo động và sống động như một sinh thể. Nguyễn Tuân đã khiến cho người ta khi đứng trước thiên nhiên ấy không hỉ chiêm ngưỡng mà còn khát khao chế ngự nó. + Sông Đà o Không phải chỉ mỗi Nguyễn Tuân viết về sông Đà mà trước đó trong ca dao cũng đã ca ngợi con sông truyền thuyết ấy “Núi cao sông hãy còn dài/ Năm năm báo oán đời đời đánh ghen”. Đến trung đại Nguyễn Quang Bích lại viết “Chúng thủy giai đông tẩu – Đà giang độc bắc lưu”. Và cho đến hiện tại, trong “Quê nhà chơi mát cảm hứng”, sông Đà hiện lên dưới con mắt của Tản Đà “Nước rợn sông Đà con cá nhẩy/ Mây trùm non Tản cái diều bay”
  • 13. o Sông Đà đến với ngòi bút Nguyễn Tuân như một con người có đầy đủ những phẩm chất và cá tính cực kì mạnh mẽ. Sông Đà hiện lên trong trang văn của ông là một con người vừa hùng bạo lại vừa trữ tình tuyệt đẹp. Hai tính cách đối lập như một “cổ nhân” khó chiều, và lại lịch của loài thủy quái ấy cũng không kém phần đặc biệt: "Sông Đà khai sinh ở huyện Cảnh Đông tỉnh Vân Nam, lấy tên là Ly Tiên (theo Dư địa chỉ của Nguyễn Trãi thì tên Trung Quốc của sông Đà lại là Bả Biên Giang) mà đi qua một vùng núi ác, rồi đến gần nửa đường thì xin nhập quốc tịch Việt Nam, trưởng thành mãi lên và đến ngã ba Trung Hà thi cham hoa vào công Hồng Từ biên giới Trung Việt tới ngã ba Trung Hoa là 500 cây số lượn rồng rắn, và tính toàn thân Sông Đà thi chiều dài là 883 nghìn thước mét chảy qua hai nước Việt Nam Trung Quốc xóm giềng" (Trích tùy bút Người Lái Đò Sông Đà). Sông Đà đã hiện lên như thế, như một đứa con mang hai dòng máu, mà lại thích gắn bó về một phía nên “nhập quốc tịch” về Việt Nam. Dưới ngòi bút của “nhà ngôn ngữ học" Nguyễn Tuân, Sông Đà không phải là thiên nhiên vô tri vô giác, mà là một sinh thể sống động, có tính cách và cảm xúc như một con người. Bởi vì thế, “Sông Đà” cũng được viết hoa cả hai chữ cái đầu tiên như một danh từ tên riêng. o Viết về sông Đà, nghĩa là Nguyễn Tuân đã chấp nhận một thử thách bởi lẽ: Với người Việt Nam thì vốn dĩ dòng sông ấy đã là một huyền thoại. Đó là huyền thoại về chủng Thủy Tinh với nỗi oán hờn không lấy được người mình yêu nên cử năm năm báo oán đời đời đánh ghen. Điều đó chứng tỏ trí tưởng tượng của người Việt Nam hẳn là phải rất bay bổng còn tâm hồn người Việt Nam thì hẳn là rất lãng mạn thì mới có thể gắn cho dòng sông thác lũ ấy hình ảnh người tình sỉ và vì thế, khi mà viết về sông Đà, bản thân Nguyễn Tuân đã chấp nhận tìm đến một huyền thoại mới cho dòng sông này. + Người lái đò o Sự vận động trong quan niệm thẩm mĩ của Nguyễn Tuân + Trước 1945: Say mê vẻ đẹp tài hoa nghệ sĩ trong những con người đặc tuyển, xuất chúng của “một thời vang bóng”.
  • 14. -> Cái đẹp và người tài thường cô đơn, lạc lõng giữa cuộc đời, đem đến cho người đọc sự ngưỡng mộ, ngậm ngùi, tiếc nuối. + Sau 1945: Bất cứ người lao động nào khi đạt tới trình độ điêu luyện giỏi giang trong công việc của mình thì đều có thể coi là nghệ sĩ và xứng đáng được tôn vinh ở vẻ đẹp tài hoa, nghệ sĩ. o Lai lịch: Ông không có tên, chỉ biết là người Lai Châu, đã ngoài 70 tuổi, đã dành 1 phần lớn đời mình làm nghề lái đò dọc trên sông Đà. Trên sông Đà, ông xuôi ngược hơn 100 lần, chín tay giữ lái độ 60 lần. o Sự am tường với công việc - Trí nhớ của của ông đò rèn luyện cao độ bằng cách dùng mắt mà nhớ tỉ mỉ những luồng nước của những con thác hiểm trở. - Ông đò nắm chắc binh pháp của thần sông, thần đá, biết rõ từng cửa tử, cửa sinh trên thạch trận sông Đà. -> Ông đò là người lão luyện, thạo nghề, hiểu biết sâu sắc về hoàn cảnh lao động của mình, làm chủ môi trường lao động của mình. Đây là điều kiện đầu tiên để ông đò chế ngự thứ “kẻ thù số một” của người Tây Bắc. o Ngoại hình mang dấu ấn nghề nghiệp: Bằng hệ thống ngôn ngữ miêu tả đầy cá tính, giàu chất tạo hình, bằng lối so sánh độc đáo gợi cảm, trước hết Nguyễn Tuân đã làm sống dậy trước mắt người đọc hình ảnh một ông lái đò có ngoại hình đặc biệt ấn tượng • Người ta nói rằng làm cái nghề lái đò trên sông hiểm ác lắm thác nhiều ghềnh này tổn thọ lắm. Nhưng ông lái đò của Nguyễn Tuân đã cải chính một cách hùng hồn cái điều ấy bằng hình ảnh một con người đã gần bảy mươi tuổi, cái đầu bạc nhưng còn “quắc thước” lắm “đặt trên một thân hình cao to, gọn quánh như chất sừng, chất mun”, “ông giơ đôi tay còn trẻ tráng quá” làm cho nhiều người lầm tưởng là “mình đang đứng trước một chàng trai”... • “Tay ông lêu nghêu như cái sào. Chân ông lúc nào cũng khuỳnh khuỳnh như kẹp lấy một cuống lái tưởng tượng. Giọng ông ào ào như tiếng nước trước mặt ghềnh sông”.
  • 15. • Cặp mắt tinh anh, nhãn lực nhìn xa vời vợi. Trên ngực của ông nổi lên một số “củ nâu” thương tích trên “chiến trường Sông Đà” mà Nguyễn Tuân ngưỡng mộ gọi là “thứ Huân chương lao động siêu hạng”. • Ông lái đò sông Đà này có “tay lái ra hoa” đã từng vượt qua bao trùng vây thạch trận, giao phong sinh tử với “lũ đá nơi ải nước”. Sau hơn mười năm chèo đò và chỉ huy một con thuyền có 6 mái chèo đã ngược xuôi sông Đà trăm chuyến, chở da trâu, xương hổ, chè, cánh kiến về xuôi, ông nắm vững từng con thác, cái ghềnh, nắm chắc binh pháp thần Sông, thần Đá. o Những dòng này được nhà văn viết ra không chỉ để giới thiệu ngoại hình một con người mà còn để ca ngợi sự gắn bó, yêu quý nghề ở chính người đó. Nguyễn Tuân là nhà văn luôn nén câu văn của mình nhiều điều muốn nói “hàm lượng thông tin” ở đó không bao giờ chỉ ở một tầng hiển ngôn. [Vẻ đẹp hung bạo] (Đá bờ sông) Hùng vĩ của Sông Đà không phải chỉ có thác đá. Mà nó còn là những cảnh đá bờ sông, dựng vách thành, mặt sông chỗ ấy chỉ lúc đúng ngọ mới có mặt trời. Có vách đá thành chẹt lòng Sông Đà như một cái yết hầu. Đứng bên này bờ nhẹ tay ném hòn đá qua bên kia vách. Có quãng con nai con hổ đã có lần vọt từ bờ này sang bờ kia. Ngồi trong khoang đò qua quãng ấy, đang mùa hè mà cũng thấy lạnh, cảm thấy mình như đứng ở hè một cái ngõ mà ngóng vọng lên một khung cửa sổ nào trên cái tầng nhà thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn điện. - (Lời dẫn) Nguyễn Tuân đến với sông Đà như đến với “cố nhân”, đến với người bạn tương phùng tương đắc. Vẻ đẹp vừa dữ dội, mãnh liệt vừa thơ mộng tuyệt vời của sông Đà có sức hút với ông hết sức mạnh mẽ. Ngòi bút của ông vì thế có cơ hội thăng hoa. Ông đã được thỏa chí tung hoành trong trí tưởng tượng phong phú của chính mình và để lại trên trang viết những dòng văn đậm chất Nguyễn Tuân. - “Hùng vĩ của Sông Đà không phải chỉ có thác đá. Mà nó còn là những cảnh đá bờ sông, dựng vách thành, mặt sông chỗ ấy chỉ lúc đúng ngọ mới có mặt trời”. Qua ngòi bút Nguyễn Tuân, cảnh vách đá sông Đà thật hùng vĩ, tráng lệ.
  • 16. + Nhà văn dùng từ “vách thành” chứ không phải “thành vách” như thói quen dùng từ thường lệ. Thế mới lạ, mới chảng giống ai. Lê Đạt từng chia sẻ: “Tôi tôn trọng những nhà văn sinh sự với văn chương để tạo ra sự sinh của ngôn ngữ”. Nguyễn Tuân chính là người như thế. + Bên cạnh đó, nghệ thuật so sánh hình ảnh “vách thành” đã phần nào thể hiện sự vững chãi, thâm nghiêm và những sức mạnh bí ẩn đầy đe dọa của sông Đà với vách đá như thành cao, vực thẳm như hào sâu. -> (Nâng cao vấn đề) Cái tài của NT là ông không dùng một chữ “cao” nào mà ta vẫn cảm nhận được độ cao hun hút của vách đá. Hơn thế nữa, nét độc đáo để những trang văn của Nguyễn Tuân tồn tại và được người đọc ưu tiên nhắc đến nhiều như vậy, là bởi lẽ ông có cái nhìn hết sức tinh vi và đặc sắc về mọi sự vật, từ những cái nhỏ bé nhất như cát nơi sông Đà “nó đục thủng gan bàn chân lỗ rỗ như những vết hà đục thủng đáy thuyền gỗ…”, cho đến những cái to lớn như những khối đá bờ sông “dựng vách thành” đầy hiểm trở. - Hai bờ sừng sững như áp sát nhau, vách hẹp, sâu, dốc, thẳng đứng được đặc tả bằng một loạt các liên tưởng, so sánh cụ thể, độc đáo “vách đá thành chẹt lòng Sông Đà như một cái yết hầu” làm cho “mặt sông chỗ ấy chỉ lúc đúng ngọ mới có mặt trời”, hay “Đứng bên này bờ nhẹ tay ném hòn đá qua bên kia vách. Có quãng con nai con hổ đã có lần vọt từ bờ này sang bờ kia”. + Động từ “chẹt” cho thấy độ cao của vách đá, độ hẹp của dòng sông. Nguyễn Tuân đã mở ra một cuộc phiêu lưu từ không gian đến thời gian, từ thời gian đến cảm giác để người đọc có thể cảm nhận trọn vẹn sự hung bạo của sông Đà. -> (Nâng cao vấn đề) Nhà văn đã dẫn dắt chúng ta đến một cuộc trải nghiệm để mở mang tầm mắt, trí tưởng tượng bằng những so sánh đặc biệt phong phú và mới lạ của mình. Thế mới nói, Nguyễn Tuân là nhà văn không bao giờ chịu trùng mình xuống để lặp lại những gì quá quen thuộc. Đọc văn Nguyễn Tuân, chúng ta không thể ngồi yên để cảm từng câu chữ mà chúng ta phải đi theo những so sánh, liên tưởng mà Nguyễn Tuân đã vạch ra. Như thế, chúng ta mới cảm nhận được trọn vẹn từng câu từng chữ, cái thứ ánh sáng, cái vầng hào
  • 17. quang phát ra từ ngôn từ của nhà văn. Những hình ảnh so sánh độc đáo về đá bờ sông như chỉ có thể bắt gặp trong văn Nguyễn Tuân. Và chính chủ nghĩa xê dịch của bản thân đã hình thành cho ông những liên tưởng độc đáo như thế này, những cảm giác về hình ảnh phong phú như thế để ông có thể huy động vào. Tuy nhiên nếu chỉ dừng lại ở hình ảnh mà không có bậc thầy về ngôn ngữ, không có thợ hoàn kim của câu chữ thì Nguyễn Tuân sẽ không thể nào có thể miêu tả, so sánh được trọn vẹn cái thác sông Đà như vậy. - Nhà văn Nguyễn Tuân đã xê dịch đến nhiều vùng đất mới và Hà Nội và những thành phố lớn là nơi mà tác giả đã đặt chân đến và khám phá nó. Điều đó đã cho Nguyễn Tuân hiểu rõ được cảm giác “đang mùa hè mà cũng thấy lạnh, cảm thấy mình như đứng ở hè một cái ngõ mà ngóng vọng lên một khung cửa sổ nào trên cái tầng nhà thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn điện.”. + Ông đã lấy hè phố để tả mặt sông, lấy nhà cao để gợi ra vách đá, lấy đèn điện để tả ánh sáng trên khúc sông. Phải chăng ông thấy lạnh bởi khí đá sắc như dao, hay vì dưới chân toàn là nước, hơi nước bị cầm tù ngàn năm dưới núi đá mà sinh âm u? + Có thể thấy, đọc văn Nguyễn Tuân, từ thành phố đến nông thôn, từ người thành thị đến nông dân đều có thể cảm nhận được hết những so sánh mà nhà văn đã đặt ra trong văn của mình. -> (Nâng cao vấn đề) Qua những hình ảnh liên tưởng đầy thú vị ấy ta thấy được một Nguyễn Tuân không ngừng đổi mới, luôn luôn tỉ mẩn, cần mẫn trong việc xây đắp, vun xới cho những trang văn của mình. Và đó cũng chính là thiên chức của người nghệ sĩ chân chính. Một người nghệ sĩ chân chính chưa bao giờ và không bao giờ bằng lòng với những gì mình đang có, họ luôn luôn phải tạo ra một sự sáng tạo, những người nghệ sĩ khi tìm đến văn học thì phải có phong cách riêng. Người sáng tạo là nhà văn và người tạo nên số phận cho tác phẩm là độc giả nhưng độc giả sẽ đào thải những tác phẩm văn học có sự trùng lặp và quá quen thuộc. Một tác phẩm văn học muốn khơi gợi, ngưng trị, lôi cuốn người đọc phải có sự khác lạ và người cầm bút lao động chân chính sẽ không bao giờ dừng làm mới cho những trang văn của mình. Đó là lí do tại sao Nguyễn Tuân là một định nghĩa về người nghệ sĩ thực thụ.
  • 18. (Mặt ghềnh Hát Loóng) Lại như quãng mặt ghềnh Hát Loóng, dài hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió. Cuốn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ xuýt bất cứ người lái đò sông Đà nào tóm được qua đấy. Quãng này mà khinh suất tay lái thì cũng dễ lật ngửa bụng thuyền ra. - (Lời dẫn) Chưa dừng lại ở đó, nhà văn còn khiến người đọc bất ngờ khi miêu tả tính cách hung bạo ở cái dữ dằn của “nước – đá – sóng và gió”. Nếu ai đã từng thả mình trong nhịp điệu du dương của tiếng sóng xô bờ như nhịp đập của trái tim người phụ nữ thổn thức yêu đương trong “Sóng” của Xuân Quỳnh thì khi đến với tiếng sóng sông Đà của Nguyễn Tuân sẽ hình thành cho mình thứ cảm xúc hoàn toàn khác, bởi nước, đá, sóng, gió nơi đây đã hợp lại thành một mặt ghềnh dữ dội cứ nối tiếp “hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió. Cuốn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ xuýt bất cứ người lái đò sông Đà nào tóm được qua đấy”. Bản giao hưởng này khiến cho ta nhớ tới sử thi “Ô – đi – xê” của Hermero. Trong bản sử thi đó, tiếng hát mê hồn của những nàng tiên cá Si – men cũng là tiếng hát của thần chết. Bởi lẽ tất cả các thủy thủ khi nghe tiếng hát này đều nhảy xuống biển. + Động từ “xô” được ngăn cách bởi nhiều dấu phẩy liên tiếp tạo nên sự trùng điệp, làm cho dòng sông đã hung bạo lại càng dữ tợn hơn. + Các động từ, tính từ mạnh “xô, cuồn cuộn” cho thấy sự chuyển động dữ dội, sức mạnh khủng khiếp của ghềnh thác, cảm giác cả ghềnh sông như sôi lên cuộn chảy dữ dằn như một lũ cuồng quân. + Từ láy “gùn ghè” và hình ảnh so sánh mang đậm sắc thái nhân hóa về việc sóng gió trên mặt ghềnh Hát Loóng “lúc nào cũng đòi nợ xuýt” bất cứ người lái đò nào đi ngang qua quãng ấy đã thể hiện sinh động sự hung hãn, lì lợm và cuồng bạo của dòng sông ngày đêm hăm dọa, uy hiếp con người. Nó như một kẻ bất chấp tất cả để lấy đi tính mạng của những ai đi qua đây bởi “Quãng này mà khinh suất tay lái thì cũng dễ lật ngửa bụng thuyền ra”. -> Đọc câu văn của Nguyễn Tuân miêu tả về sông Đà, bất chợt khiến ta nhớ đến dòng sông Hương vùng thượng nguồn trong trang kí Hoàng Phủ Ngọc Tường – dòng sông như “một
  • 19. bản trường ca của rừng già, rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn, mãnh liệt qua những ghềnh thác, cuộn xoáy như cơn lốc vào những đáy vực bí ẩn”. Những ngòi bút tài hoa đã tạo nên trang viết “nở hoa” – trang viết có khả năng khơi dậy trong trí tưởng tượng của người đọc về hai dòng sông hùng vĩ, dữ dội cuồn cuộn trôi đi giữa cơ thể đất nước. (Cái hút nước) Lại như quãng Tà Mường Vát phía dưới Sơn La. Trên sông bỗng có những cái hút nước giống như cái giếng bê tông thả xuống sông để chuẩn bị làm móng cầu. Nước ở đây thở và kêu như cửa cống cái bị sặc. Trên mặt cái hút xoáy tít đáy; cũng đang quay lừ lừ những cánh quạ đàn. Không thuyền nào dám men gần những cái hút nước ấy, thuyền nào qua cũng chèo nhanh để lướt quãng sông, y như là ô tô sang số ấn ga cho nhanh để vút qua một quãng đường mượn cạp ra ngoài bờ vực. Chèo nhanh và tay lái cho vững mà phóng qua cái giếng sâu, những cái giếng sâu nước ặc ặc lên như vừa rót dầu sôi vào. Nhiều bè gỗ rừng đi nghênh ngang vô ý là những cái giếng hút ấy nó lôi tuột xuống. Có những thuyền đã bị cái hút nó hút xuống, thuyền trồng ngay cây chuối ngược rồi vụt biến đi, bị dìm và đi ngầm dưới lòng sông đến mươi phút sau mới thấy tan xác ở khuỷnh sông dưới. Tôi sợ hãi mà nghĩ đến một anh bạn quay phim táo tợn nào muốn truyền cảm giác lạ cho khán giả, đã dũng cảm dám ngồi vào một cái thuyền thúng tròn vành rồi cho cả thuyền cả mình cả máy quay xuống đáy cái hút Sông Đà - từ đáy cái hút nhìn ngược lên vách thành hút mặt sông chênh nhau tới một cột nước cao đến vài sải. Thế rồi thu ảnh. Cái thuyền xoay tít, những thước phim màu cũng quay tít, cái máy lia ngược contre-plongée lên một cái mặt giếng mà thành giếng xây toàn bằng nước sông xanh ve một áng thuỷ tinh khối đúc dày, khối pha lê xanh như sắp vỡ tan ụp vào cả máy cả người quay phim cả người đang xem. Cái phim ảnh thu được trong lòng giếng xoáy tít đáy, truyền cảm lại cho người xem phim ký sự thấy mình đang lấy gân ngồi giữ chặt ghế như ghì lấy mép một chiếc lá rừng bị vứt vào một cái cốc pha lê nước khổng lồ vừa rút lên cái gậy đánh phèn. - (Lời dẫn) Sau khi đã đi qua quãng đá bờ sông "dựng vách thành chẹt lòng sông Đà như một cái yết hầu", quãng mặt ghềnh Hát Loóng "cuồn cuộn luồng gió, gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ xuýt", thì đến khúc sông quãng Tà MV, những cái hút nước như "cái bẫy" nối nhau giăng mắc trên sông Đà sẵn sàng nhấn chìm mọi thuyền bè đi ngang qua đó.
  • 20. - Trước hết, hút nước sông Đà được miêu tả qua hình ảnh so sánh: "Trên sông bỗng có những cái hút nước giống như cái giếng bê tông thả xuống sông để chuẩn bị làm móng cầu." + Từ "bỗng" gợi tả một sự đột ngột, bất ngờ, nó làm cho người ta không khỏi hoang mang. Dòng nước đương xuôi êm đềm bỗng dưng không thấy một vật nào nổi trên mặt mà dòng nước tới đó cứ xoáy tít thành những vòng tròn hút tới tận đáy. + Tả độ sâu của hút nước, Nguyễn Tuân so sánh như cái "giếng bê tông thả xuống để chuẩn bị làm móng cầu". Qua sự so sánh này, ta thấy cái hút nước lớn, khổng lồ, nhìn vào trong chỉ thấy đen ngòm, sâu hoắm, tối tăm, giống như miệng con thủy quái đang há hốc để chực nuốt chửng bất cứ vật gì qua quãng này. - Ấn tượng hút nước sông Đà khúc thượng nguồn còn nằm ở những âm thanh sống động: “Nước ở đây thở và kêu như cửa cống cái bị sặc. Trên mặt cái hút xoáy tít đáy; cũng đang quay lừ lừ những cánh quạ đàn. Không thuyền nào dám men gần những cái hút nước ấy, thuyền nào qua cũng chèo nhanh để lướt quãng sông, y như là ô tô sang số ấn ga cho nhanh để vút qua một quãng đường mượn cạp ra ngoài bờ vực. Chèo nhanh và tay lái cho vững mà phóng qua cái giếng sâu, những cái giếng sâu nước ặc ặc lên như vừa rót dầu sôi vào”. + Tự bản thân những chữ "thở", "kêu" cùng từ láy tượng hình "lừ lừ", láy tượng thanh tăng nghĩa "ặc ặc" cùng những chi tiết so sánh mang sắc thái nhân hóa đã nói lên cường lực ghê gớm của những cái hút nước. -> Dòng nước thở hồng hộc, thanh âm thống thiết, thét gào giữa núi rừng Tây Bắc điệp trùng. Dòng sông đà vì thế mà trở nên hùng dũng, uy lực hơn rất nhiều. Nó hiện ra như cái vòi một con quái vật khổng lồ tàn ác đang giân dữ đến ghê người, chỉ chực hút tất cả những thuyền bè sơ ý nghênh ngang qua đó. Đến đây, ta dường như nghe trong cái âm vang của Đà giang dưới ngòi bút Nguyễn Tuân một chút hội ngộ với Homero trong cuốn sử thi “Ô đi xê” bất hủ, khi viết về cái hung bạo của chốn eo biển xa xôi nào đó thời cổ đại: "Biển khơi chuyển động, sôi lên như nước trong cái chảo đặt trên một bếp lửa hồng".
  • 21. - Giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh đã từng nhận định: "Nguyễn Tuân là nhà văn của những cảm giác mạnh". Thật vậy, để hình dung trọn vẹn về hút nước Sông Đà, Nguyễn Tuân đã đưa người đọc đến tận cùng cảm giác. + Đó trước hết là cảnh thuyền qua quãng sông ấy: "Thuyền nào qua cũng chèo nhanh để lướt quãng sông, y như là ô tô sang số ấn ga cho nhanh để vút qua một quãng đường mượn cạp ra ngoài bờ vực." + Giữa chốn núi rừng hoang sơ, nhà văn đã thổi vào không khí của phố thị khi so sánh chiếc thuyền với ô tô. Tác giả ví con thuyền phải qua vùng nước xoáy thật nhanh giống như ô tô sang số, nhấn ga cho nhanh để "vút qua một quãng đường mượn cạp ra ngoài bờ vực". + Từ đó khẳng định những cái hút nước này chính là mối đe dọa mà bất cứ ai cũng phải khiếp sợ. Muốn đi ngang qua đây phải thật điêu luyện, thật bình tĩnh nhưng cũng phải thật nhanh chóng mới có thể "thoát chết". - Nhưng trong khi người điều khiển ô tô còn có thể đạp phanh, nhấn ga thì con thuyền qua quãng này chỉ có thể dựa vào tài nghệ của ông lái đò mà thôi. Hút nước còn gây nguy hiểm cho thuyền bè: "Có những thuyền đã bị cái hút nó hút xuống, thuyền trồng ngay cây chuối ngược rồi vụt biến đi, bị dìm và đi ngầm dưới lòng sông đến mươi phút sau mới thấy tan tác ở khuỷnh sông dưới". + Câu văn không chỉ cho thấy ở Nguyễn Tuân một trí tưởng tượng độc đáo hay sự sáng tạo mà đó còn là vốn sống vô cùng phong phú. Đó là những hình ảnh chỉ có trong tưởng tượng nhưng lại đưa đến một ấn tượng thật sâu đậm về sức mạnh khủng khiếp của hút nước sông Đà. Trước những cái hút nước ấy, sự sống và cái chết của con người bỗng trở nên mong manh, đi qua đó luôn có nguy cơ bị cướp đi sinh mạng. + Cách miêu tả ấy gợi ra cho người đọc con sông Đà như một loài thủy quái hung hăng còn con thuyền như một vật hiến tế hiền lành đến tội nghiệp đem tấm thân nhỏ bé để cống nạp cho tử thần.
  • 22. - Dừng lại ở đó thôi thì chưa đủ, nhà văn còn mang đến một giả tưởng li kì mà để có được nó, Nguyễn Tuân ắt phải có vốn kiến thức về kĩ thuật điện ảnh: "Một anh bạn quay phim táo tợn nào muốn truyền cảm giác lạ cho khán giả, đã dũng cảm dám ngồi vào một cái thuyền thúng tròn vành rồi cho cả thuyền cả mình cả máy quay xuống đáy cái hút Sông Đà…" + Từ dưới đáy sâu của hút ước, anh phóng viên lia ngược ống kính lên một cách sống động, truyền cảm từ hình khối của "một thành giếng xây toàn bằng nước" cho đến màu sắc của dòng sông "nước xanh ve" như một khối thủy tinh khổng lồ, đặc biệt, khối thủy tinh ấy đổ ụp xuống cả người, cả máy quay và cả bạn đọc đang theo dõi. + Chỉ bằng một vài câu văn, Nguyễn Tuân đã dẫn dụ người đọc vào trò chơi cảm giác, kéo họ xuống tận đáy hút nước xoát tít, sâu hoắm cùng anh bạn quay phim táo tợn, dũng cảm ngồi vào cái thuyền thúng mà thả mình vào xoáy nước, để cho xoát nước hút xuống tận đáy sông Đà. + Những thước phim đó khi chiếu lên, người xem có cảm giác hãi hùng, phải "lấy gân ngồi giữ chặt ghế", thậm chí cảm giác sợ hãi chân thực của con người khi đứng trong lòng một khối "pha lê xanh như sắp vỡ tan" và bất cứ lúc nào cũng có thể đổ ụp vào người. -> (Nâng cao vấn đề) Có thể thấy, khi gặp hiện tượng thiên nhiên kì thú, những cảnh tượng dữ dội, phi thường, ngòi bút Nguyễn Tuân cũng muốn ganh đua với tạo hóa, dốc hết kho chữ nghĩa phong phú của mình ra làm sống dậy tính cách độc đáo, phi thường của đối tượng. Những cái hút nước sông Đà quả là rùng rợn, hiểm nguy, buộc người đọc phải huy động tất cả các giác quan để cảm nhận đến cùng vẻ đẹp hùng vĩ của nó. Sông Đà hiện lên như một loài thủy quái đáng sợ, hung bạo khiến các giác quan của người đọc cũng đẩy lên cao trào. Để có được tất cả những áng văn có thể xem như "thước phim" ấy, Nguyễn Tuân đã dụng công miêu tả bằng trải nghiệm khác nhau trong vị thế của người quay phim và cả vị thế của người xem phim để dùng ngòi bút mà thách thức mọi sự hùng vĩ của đất trời cũng như làm choáng ngợp những con mắt thưởng ngoạn của độc giả. Có thể thấy cả 2 góc nhìn đều mang đến cho độc giả những cảm nhận khác lạ. Mỗi một góc nhìn đều mang đến những trải nghiệm mới lạ và nói như nhà văn Nguyễn Minh Châu “Cuộc đời có nhiều góc nhìn và buộc chúng ta phải sống bằng những cái nhìn đa chiều”. Đến với văn Nguyễn
  • 23. Tuân, ta cũng phần nào tiếp cận với những góc nhìn nhiều chiều và điều đó đã giúp chúng ta nhận thấy rằng khi nhìn bất kì sự vật nào cũng đừng nên cho lăng kính của mình một góc nhìn mà phải nhìn sự vật theo nhiều góc khác nhau để có thể nhìn cho rõ được sự vật. Hơn thế nữa, nhà văn đã sử dụng những hình ảnh liên tưởng thú vị, rợn ngợp đến cảm giác muốn khám phá tận cùng nơi đáy sâu của những cái hút nước. Cuộc sống của người lái đò Sông Đà quả là một cuộc chiến đấu hằng ngày với thiên nhiên, một thứ thiên nhiên Tây Bắc có nhiều lúc trọng nó thành ra diện mạo và tâm địa một thứ kẻ thù số một. Nhìn cái thiên nhiên ấy, có những lúc thấy nó không “thơ đời Đường” nhàn hạ, mà thấy nó chính là một cuộc đấu tranh với thiên nhiên để giành sự sống từ tay nó về tay mình. Tôi xin ghi ở đoạn này cái hình ảnh chiến đấu gian lao của người lái đò trên chiến trường Sông Đà, trên một quãng thuỷ chiến ở mặt trận Sông Đà. (Thác nước) [Âm thanh] …Còn xa lắm mới đến cái thác dưới. Nhưng đã thấy tiếng nước réo gần mãi lại réo to mãi lên. Tiếng nước thác nghe như là oán trách gì, rồi lại như là van xin, rồi lại như là khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo. Thế rồi nó rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa, đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng. - Sông Đà không chỉ hùng vĩ, dữ dội ở cảnh “đá bờ sông dựng vách thành”, cảnh mặt ghềnh Hát Loóng “nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm”, cảnh những cáu hút nước “xoáy tít đáy” mà còn nguy hiểm ở trùng trùng điệp điệp những thác nước sông Đà. “Đường lên Mường Lễ bao xa Trăm bảy cái thác, trăm ba cái ghềnh.” - Say mê khám phá con sông, NT dõi theo dòng thác hung vĩ của SĐ ngay từ khi nó chưa xuất hiện. Nguyễn Tuân đã miêu tả âm thanh của tiếng nước thác bằng một hệ thống từ ngữ phong phú, truyền cảm.
  • 24. - Cùng với nghệ thuật nhân hóa được sử dựng một cách đắc địa, nhà văn đã truyền hồn sống cho dòng sông, biến thác nước sông Đà thực sự trở thành một loại thủy quái đang giận dữ, gầm gào, đe dọa con người ngay cả khi nó chưa xuất hiện. - Khi thì nhà văn nghe thấy nó như “oán trách gì”, rồi lại như là “van xin”, khi lại thấy nó đang “khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo”. Nhà văn đã tung ra hàng loạt những ngôn từ sống động để miêu tả âm thanh thác nước theo những cung bậc tăng dần của cảm xúc giận dữ. Đó vừa là cách nhà văn nói đến khoảng cách rút ngắn dần khi tiếp cận con sông, vừa là cách tạo ấn tượng về sự dữ dội của sông Đà và tăng dần cảm giác hồi hộp, sợ hãi trong tâm trí người đọc. - Sông Đà đã trở thành một sinh thể có tâm trạng phức tạp, tính cách dữ dội khôn lường. Âm thanh nước thác tăng dần về âm lượng, dữ dội quyết liệt về mức độ, phong phú về sắc thái cũng giống bản nhạc có trường độ, cường độ, cao độ. - Đặc sắc nhất là những phép so sánh kì thú trong một câu văn dài đầy ắp những hình ảnh dữ dội “Thế rồi nó rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa, đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng”. - Âm thanh thác nước bất ngờ được phóng to hết cỡ “rống lến” và được so sánh với âm thanh của tiếng hàng ngàn con trâu mộng gợi ấn tượng về khúc nhạc hùng tráng của thiên nhiên đang ở đỉnh điểm của sự phấn khích man dại và cuồng loạn. Thật là một cảnh trí có sức hấp dẫn kì lạ đối với người thưởng văn bởi cả nỗi sợ hãi và niềm say mê, khao khát chiêm ngưỡng. - Là một kẻ thích chơi ngông, nhà văn đã thể hiện sự tài hoa độc đáo của mình khi lấy hình ảnh gợi tả âm thanh, lấy lửa tả nước, lấy rừng tả sông, đặt những hình ảnh tương phản vốn rất “kị” nhau trong một trường liên tưởng độc đáo, thú vị. - Vậy mà hiệu quả của nó thật bất ngờ, nhà văn đã khiến âm thanh của thác nước không chỉ được cảm nhận bằng thính giác, không chỉ được hình dung qua trí tưởng tượng mà còn hiện ra trong những ấn tượng đặc biệt sống động của xúc giác, thị giác. Nguyễn Tuân phải
  • 25. chăng đã lục lọi đến tận cùng kho cảm giác và liên tưởng phong phú, bộn bề, nhằm tìm ra những chữ nghĩa chính xác nhất, có khả năng động người đọc nhiều nhất? [Trực diện] Tới cái thác rồi. Ngoặt khúc sông lượn, thấy sóng bọt đã trắng xóa cả một chân trời đá. Đá ở đây từ ngàn năm vẫn mai phục hết trong lòng sông, hình như mỗi lần có chiếc thuyền nào xuất hiện ở quãng ầm ầm mà quạnh hiu này, mỗi lần có chiếc nào nhô vào đường ngoặt sông là một số hòn bèn nhổm cả dậy để vồ lấy thuyền. Mặt hòn đá nào trông cũng ngỗ ngược, hòn nào cũng nhăn nhúm méo mó hơn cả cái mặt nước chỗ này. Mặt sông rung rít lên như tuyếc-bin thuỷ điện nơi đáy hầm đập. Mặt sông trắng xóa càng làm bật rõ lên những hòn những tảng mới trông tưởng như nó đứng nó ngồi nó nằm tùy theo sở thích tự động của đá to đá bé. Nhưng hình như Sông Đà đã giao việc cho mỗi hòn. - Khi thác hiện ra, sau câu văn ngắn giống như tiếng reo ngỡ ngàng, thích thú “Tới cái thác rồi”, nhà văn đã đồng thời tả cả đá và nước thác trong hình ảnh “sóng bọt đã trắng xóa cả một chân trời đá”. - Tính từ “trắng xóa” lặp lại nhiều lần gây ấn tượng về sóng, về gió, về bọt nước trào sôi mãnh liệt, gợi tả làn hơi nước như mờ đi trên mặt sông, trên một diện rộng mênh mông của mặt sôn, cùng với hình ảnh “chân trời đá”, câu văn miêu tả của Nguyễn Tuân đã làm hiện ra sự hùng vĩ tới choáng ngợp của thác đá sông Đà ngay trong những ấn tượng đầu tiên khi vừa gặp mặt. - Đá sông Đà cùng với nước, với sóng và gió kết hợp với nhau cùng lúc tấn công uy hiếp con người đã được nhà văn miêu tả qua một hình ảnh nhân hóa đặc sắc “Đá ở đây từ ngàn năm vẫn mai phục hết trong lòng sông, hình như mỗi lần có chiếc thuyền nào xuất hiện ở quãng ầm ầm mà quạnh hiu này, mỗi lần có chiếc nào nhô vào đường ngoặt sông là một số hòn bèn nhổm cả dậy để vồ lấy thuyền”. - Sử dụng thuật ngữ của quân sự, trên cơ sở những quan sát thực tế, Nguyễn Tuân đã gợi dậy cái bí ẩn hiểm ác của đá sông Đà trong sự vĩnh hằng của thiên nhiên khi “ngàn năm mai phục”, khi dữ dằn đột ngột hiện ra sau cái dập dềnh của sóng để “nhổm cả dậy để vồ lấy thuyền”.
  • 26. - Nếu chỉ dừng lại ở đó thì sông Đà sẽ không có được những câu ví “đắt” như “mang diện mạo và tâm địa một thứ kẻ thù số một” của con người được. Bởi trùng vi thạch trận trên sông mới là nơi hấp dẫn nhất, lôi cuốn nhất của sông Đà. Nơi mà đá mai phục hết trong lòng sông “mặt hòn nào trông cũng ngỗ ngược”, “nhăn nhúm”, “méo mó”. Mỗi hòn đều có nhiệm vụ riêng, chúng “đứng, nằm, ngồi” tùy thích miễn sao hoàn thành tốt nhiệm vụ. (Trùng vi thạch trận) Mới thấy rằng đây là nó bày thạch trận trên sông. Đám tảng đám hòn chia làm ba hàng chắn ngang trên sông đòi ăn chết cái thuyền một cái thuyền đơn độc không còn biết lùi đi đâu để tránh một cuộc giáp lá cà có đá dàn trận địa sẵn. Hàng tiền vệ, có hai hòn canh một cửa đá trông như là sơ hở nhưng chính hai đứa giữ vai trò dụ cái thuyền đối phương đi vào sâu nữa, vào tận tuyến giữa rồi nước sóng luồng với đánh khuỷu quật vu hồi lại. Nếu lọt vào đây rồi mà cái thuyền du kích ấy vẫn chọc thủng được tuyến hai, thì nhiệm vụ của những boongke chìm và pháo đài đá nổi ở tuyến ba phải đánh tan cái thuyền lọt lưới đá tuyến trên, phải tiêu diệt tất cả thuyền trưởng thuỷ thủ ngay ở chân thác. Thạch trận dàn bày vừa xong thì cái thuyền vụt tới. Phối hợp với đá, nước thác reo hò làm thanh viện cho đá, những hòn bệ vệ oai phong lẫm liệt. Một hòn ấy trông nghiêng thì y như là đang hất hàm hỏi cái thuyền phải xưng tên tuổi trước khi giao chiến. Một hòn khác lùi lại một chút và thách thức cái thuyền có giỏi thì tiến gần vào. Ông đò hai tay giữ mái chèo khỏi bị hất lên khỏi sóng trận địa phóng thẳng vào mình. Mặt nước hò la vang dậy quanh mình, ùa vào mà bẻ gãy cán chèo võ khí trên cánh tay mình. Sóng nước như thể quân liều mạng vào sát nách mà đá trái mà thúc gối vào bụng và hông thuyền. Có lúc chúng đội cả thuyền lên. Nước bám lấy thuyền như đổ vật túm thắt lưng ông đò đòi lật ngửa mình ra giữa trận nước vang trời thanh la não bạt. Sóng thác đã đánh đến miếng đòn hiểm độc nhất, cả cái luồng nước vô sở bất chí ấy bóp chặt lấy hạ bộ người lái đò […]. Mặt sông trong tích tắc lòe sáng lên như một cửa bể đom đóm rừng ùa xuống mà châm lửa vào đầu sóng. Nhưng ông đò cố nén vết thương, hai chân vẫn kẹp chặt lấy cuống lái, mặt méo bệch đi như cái luồng sóng đánh hồi lung, đánh đòn tỉa, đánh đòn âm vào chỗ hiểm. Tăng thêm mãi lên tiếng hỗn chiến của nước của đá thác. Nhưng trên cái thuyền sáu bơi chèo, vẫn nghe rõ tiếng chỉ huy ngắn gọn tỉnh táo của người cầm lái. Vậy là phá xong cái trùng vi thạch trận vòng thứ nhất. Không một phút nghỉ tay nghỉ mắt, phải phá luôn vòng vây thứ hai và đổi luôn chiến thuật. Ông lái đã nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá. Ông đã thuộc quy luật phục kích của lũ đá nơi ải nước hiểm trở này. Vòng đầu vừa rồi,
  • 27. nó mở ra năm cửa trận, có bốn cửa tử một cửa sinh cửa, sinh nằm lập lờ phía tả ngạn sông. Vòng thứ hai này tăng thêm nhiều cửa tử để đánh lừa con thuyền vào, và cửa sinh lại bố trí lệch qua phía bờ hữu ngạn. Cưỡi lên thác Sông Đà, phải cưỡi đến cùng như là cưỡi hổ. Dòng thác hùm beo đang hồng hộc tế mạnh trên sông đá. Nắm chặt lấy được cái bờm sóng đúng luồng rồi, ông đò ghì cương lái, bám chắc lấy luồng nước đúng mà phóng nhanh vào cửa sinh, mà lái miết một đường chéo về phía cửa đá ấy. Bốn năm bọn thuỷ quân cửa ải nước bên bờ trái liền xô ra cảnh níu thuyền lôi vào tập đoàn cửa tử. Ông đò vẫn nhớ mặt bọn này, đứa thì ông tránh mà rảo bơi chèo lên, đứa thì ông đè sấn lên mà chặt đôi ra để mở đường tiến. Những luồng tử đã bỏ hết lại sau thuyền. Chỉ còn vẳng reo tiếng hò của sóng thác luồng sinh. Chúng vẫn không ngớt khiêu khích, mặc dầu cái thằng đá tướng đứng chiến ở cửa vào đã tiu nghỉu cái mặt xanh lè thất vọng thua cái thuyền đã đánh trúng vào cửa sinh nó trấn lấy. Còn một trùng vây thứ ba nữa. Ít cửa hơn, bên phải bên trái đều là luồng chết cả. Cái luồng sống ở chặng ba này lại ở ngay giữa bọn đá hậu vệ của con thác. Cứ phóng thẳng thuyền, chọc thủng cửa giữa đó. Thuyền vút qua cổng đá cánh mở cánh khép. Vút, vút, cửa ngoài, cửa trong, lại cửa trong cùng, thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vào từ động lái được lượn được. Thế là hết thác. Sông Đà - Những hòn đá ấy chính là tay chân của con sông Đà ghê gớm này, chúng dường như có linh tính, bày binh bố trận, lại giở trò khiêu khích, dường như có thù với tất cả những người đi qua khúc này, hoặc giả như lũ sơn tặc, biến những người lái đò thành miếng mồi ngon, quả là không thể khinh thường. Chúng là những tay lão luyện, đứa nào cũng chọn riêng cho mình một nhiệm vụ, dưới sự phân chia binh pháp của “thần sông thần đá”, lập thành hẳn ba “trùng vi thạch trận”, chỗ thì dàn hàng ngang chặn lối, chỗ lại đứng giữa khiêu khích, Người lái đò (Vẻ đẹp trí dũng, tài hoa) - Cuộc sống của người lái đò sông Đà là một cuộc chiến đấu hằng ngày. Và ngày nào cũng phải giành những cái sống từ tay nhưng con thác. Vẻ đẹp này được ngòi bút NT thể hiện qua hình ảnh ông lái đò vượt thác: Vẻ đẹp tài hoa nghệ sĩ của ông lái đò là sự tài ba dũng mãnh của một vị thuyền trưởng dày dạn kinh nghiệm thủy chiến. Chất tài hoa nghệ sĩ của ông lái đò là ở bản lĩnh chiến đấu và tinh thần dũng cảm phi thường. Cảnh vượt thác của ông lái đò đã thể hiện rõ vẻ đẹp và cốt cách ấy. Người anh hùng sông nước xuất hiện trên nền
  • 28. dẫn dụ, chỗ thì đòi đánh “giáp lá cà”, chỗ nhảy ra phục kích. Sơ đồ chiến thuật của sông Đà vừa gợi người đọc nhớ tới trận “Đồ Bát Quái” của Khổng Minh, vừa gợi đến sơ đồ chiến thuật rất hiện đại của quân sự. Thông qua đôi mắt của Nguyễn Tuân, con sông Đà hiện lên như một kẻ thù không đội trời chung với con người, mỗi trận chiến đều là kẻ sống ta chết, không chừa lối thoát. thiên nhiên dữ dội, hùng vĩ, không gian lớn lao hiểm trở với đá dựng vách thành thâm nghiêm, bí ẩn, với sóng gió mặt ghềnh cuồn cuộn gào thét, những hút nước ghê rợn, những thanh âm dữ dội cuồng loạn. - Ở trùng vi thứ nhất sông Đà bày ra năm cửa trận, có bốn cửa tử, một cửa sinh, cửa sinh nằm lập lờ phía tả ngạn sông. Hàng tiền vệ, có hai hòn canh một cửa đá đóng vai trò dụ chiếc thuyền vào tuyến giữa. Vừa vào trận địa, chúng tấn công chiếc thuyền tới tấp với sự thanh viện của nước thác. Chúng tạo ra thứ âm thanh cuồng loạn “trận nước vang trời thanh la não bạt”. Chúng chuyển động dữ dội “hò la vang dậy, ùa vào mà bẽ gãy cán chèo, như quân liều mạng vào sát nách mà đá trái thúc gối vào bụng vào hông thuyền”. Chúng tung ra các món đòn hiểm độc “đòn tỉa” (đánh từng phía), “đòn âm” (đánh ngầm dưới nước), “đánh hồi lùng” (đánh tới tấp tập trung). Đá đánh người lái đò với lũ bất nhân là nước, hai thế lực hùa vào nhau tạo ra trận hỗn chiến với sức tàn phá khủng khiếp. - Ở trùng vi thạch trận này - thác đá sông Đà đã chuẩn bị dàn trận địa sẵn, đó là trận địa với bốn cửa tử, một cửa sinh. Ở đây nước phối hợp với đá reo hò làm thanh viện; những hòn đá bệ vệ, oai phong lẫm liệt; một hòn ấy trông như đang hất hàm hỏi cái thuyền phải xưng tên tuổi trước khi giao chiến và thách thức cái thuyền có giỏi thì tiến gần vào. Bằng các từ ngữ: “reo hò, bệ vệ, oai phong lẫm liệt, hất hàm hỏi, thách thức…”, người đọc cảm nhận được không khí trận chiến nóng bỏng gay cấn hồi hộp, kịch tính. Đó chính là biệt tài phù thuỷ ngôn ngữ của Nguyễn Tuân. Thác đá sông Đà rất khôn ngoan. Chúng không chỉ đánh trên mặt trận giáp lá cà mà còn đánh bằng cả nghệ thuật tâm lý chiến. Trước đó chúng đã dùng âm thanh của thác khiêu khích “giọng gằn mà chế nhạo”. Còn giờ đây chúng lại nhờ “nước thác làm thanh viện cho đá”. Với bản tính hung hãn như một loài thủy quái, sông Đà đã
  • 29. đánh phủ đầu người lái đò với những đòn thế vô cùng hiểm hóc. Sông Đà cậy thế quân đông tướng mạnh nên đã “ùa vào mà bẻ gãy cán chèo”, “liều mạng vào sát nách mà đá trái”, “thúc gối vào bụng và hông thuyền”, có lúc chúng “đội cả thuyền lên”. Một loạt động từ được Nguyễn Tuân huy động để miêu tả cách đánh của sông Đà làm người đọc không khỏi rùng mình trước sự hung bạo của thiên nhiên: “ùa vào, bẻ gãy, đá trái, thúc gối, độ…”. Bị tấn công bất ngờ nhưng người lái đò vẫn bình tĩnh. Với chiến thuật phòng ngự để dưỡng sức cho những trùng vi sắp tới, “ông đò hai tay giữ mái chèo khỏi bị hất lên khỏi sóng”; lúc này sông Đà lại chuyển thế bám lấy thuyền và sử dụng đòn vật “túm lấy thắt lưng ông lái đò đòi lật ngửa mình ra”. Không để cho ông đò có cơ hội xoay xở, sông Đà lại chuyển thể đánh miếng đòn hiểm độc nhất “cả cái luồng nước vô sở bất chí ấy bóp chặt lấy hạ bộ người lái đò”. Dính miếng đòn hiểm, mắt ông hoa lên, tưởng như “một cửa bể đom đóm rừng ùa xuống châm lửa lên đầu sóng”. Đòn đau khiến ông đò “mặt méo bệch đi”. Đó là cái méo bệch vốn do cái lạnh của nước làm nhăn nheo lại thêm miếng đòn đau làm ông khách sông Đà mặt như tím tái, ngây dại. Sự đau đớn của ông đò còn được gián tiếp miêu tả trong một cảm nhận của thị giác và xúc giác “mặt sông trong tích tắc lòa sáng
  • 30. như một cửa bể đom đóm rừng ùa xuống mà châm lửa vào đầu sóng”. Phép điệp động từ “đánh hồi lùng, đánh đòn tỉa, đánh đòn âm vào chỗ hiểm” gợi lên cơn đau dồn dập, hành hạ người lái đò. Nhưng ông đò nén đau, giọng ông vẫn bình tĩnh, tỉnh táo, sắc lạnh chỉ huy sáu bơi chèo còn lại vượt cửa tử vào cửa sinh. “Vậy là phá xong cái trùng vi thạch trận thứ nhất”. Đó là một trận chiến không cân sức, con sông Đà hùng vĩ và hung bạo vô cùng, người lái đò hiện lên nhỏ bé, với chiếc mái chèo nhưng với sức mạnh thật lớn lao. - Vượt qua trùng vây thứ nhất, người lái đò lại tiếp tục chiến đấu với trùng vi thạch trận thứ hai: “Tăng thêm nhiều cửa tử để đánh lừa con thuyền vào, và cửa sinh lại bố trí lệch qua phía bờ hữu ngạn. Dòng thác hùm beo hồng hộc tế mạnh trên sông đá đánh khuýp quật vu hồi chiếc thuyền”. Tại trận chiến đánh giáp lá cà này, chúng quyết sinh quyết tử với ông lái đò. Khi chiếc thuyền đã vượt qua, bọn sóng nước cửa tử “vẫn không ngớt khiêu khích, mặc dầu cái thằng đá tướng đứng chiến ở cửa vào đã tiu nghỉu cái mặt xanh lè thất vọng”. - So với trùng vi một thì trùng vi này khó khăn hơn, đá nước sóng tăng thêm nhiều cửa tử "dòng thác hùm beo đang hồng hộc tế mạnh", "bốn năm thủy quân không ngớt khiêu khích"... . Nhưng không vì thế mà ông đò nao núng. Với kinh nghiệm mười năm chiến trường sông nước, người lái đò đã “nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá, ông đã thuộc quy luật phục kích của lũ đá”. Ông đò cũng tự triết lý với mình “cưỡi lên thác sông Đà là cưỡi đến cùng như là cưỡi hổ”, vì thế “không một phút nghỉ tay nghỉ mắt phải phá luôn vòng vây thứ hai và đổi luôn chiến thuật”. Ở trận này ông đò đánh phủ đầu với kế hoạch đánh nhanh thắng nhanh. Như một vận động viên đua ngựa, ông đò “nắm chắc được cái bờm sóng đúng luồng rồi, ông đò ghì cương lái”, ông
  • 31. “phóng nhanh”, “lái miết”… tốc độ di chuyển mau lẹ. Nhưng sông Đà cũng không phải dạng vừa. Chúng xô ra định níu chiếc thuyền vào tập đoàn cửa tử. Ông đò đã cảnh giác sẵn nên “đứa thì ông tránh mà rảo bơi chèo”, “đứa thì đè sấn lên chặt đôi ra để mở đường tiến”. Hàng loạt động từ được huy động như một đội quân ngôn ngữ hùng hậu hò reo theo từng nhịp tiến của ông đò: “nắm, ghì, phóng, lái, tránh, rảo, đè, chặt…”. Trước sự chiến đấu dũng mãnh, phi thường của ông đò thì “cái thằng đá tướng đứng chiến ở cửa vào đã tiu nghỉu cái mặt xanh lè thất vọng”. Hình tượng tảng đá lớn, rêu phủ xanh dưới ngòi bút Nguyễn Tuân lại trở thành một sinh thể có hồn với vẻ mặt xanh lì - mặt cắt không còn hạt máu - với nỗi sợ hãi khủng khiếp vì không ngờ gặp phải đối thủ đáng gờm như thế. Và trùng vi thạch trận thứ hai đã được ông đò phá xong. - Đến trùng vi thạch trận thứ ba: “Ít cửa hơn, bên phải bên trái đều là luồng chết cả. Cái luồng sống ở chặng ba này lại ở ngay giữa bọn đá hậu vệ của con thác” nhưng vẫn không thắng nổi người lái đò dũng cảm, mưu trí. Cuối cùng sông Đà vẫn nhận lấy cái kết đắng trong trận chiến thiên nhiên - con người. Qua đây ta thấy con Sông Đà như một loài thủy quái, hung hăng, bạo ngược, một thứ thiên nhiên Tây Bắc với “diện mạo và tâm địa một - Trùng vây thứ ba là một không gian của trận địa để nhằm tiêu diệt đối phương: bên phải bên trái đều là “luồng chết cả”, cái luồng sống nằm ở giữa ngay con thác. Bên cạnh đó là cách thức bố phòng tấn công như trong chiến trận: “bọn đá hậu vệ” canh cửa hòng “bắt chết” cái thuyền. Trên cái phông nền chiến trận cẩn mật và đầy thách thức ấy, ông lái đò hiện lên như vị tướng cầm quân với chiến thuật tài ba. ông mưu trí phóng thăng con thuyền, chọc
  • 32. thứ kẻ thù số một” nhưng cũng mang một màu sắc riêng biệt không thể nhầm lẫn với bất kì con sông nào khác. thủng cửa giữa đỏ. Thuyền vút qua công đá cánh mở’ cánh khép. Vút, vút, cửa ngoài, cửa trong, lại cừa trong cùng. Chiếc thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vừa tự động lái được, lượn được. Dường như tác giả tập trung cao độ bút lực vào đoạn văn này. Những ẩn dụ, so sánh, nhân hóa được tác giả sử dụng sáng tạo gợi lên cảm giác mãnh liệt đầy ấn tượng. Lối ngắt nhịp gãy vụn ra đã diễn tả tình thế gay go, quyết liệt và khẩn trương. Để tả tốc độ thuyền lao đi, tác giả không dùng từ “vươn” mà dùng từ "vút”, lặp lại nhiều lần, kết hợp với hình ảnh so sánh: “thuyền như một mũi tên tre” để diễn tả tốc độ cực lớn của chiếc thuyền. Từ “tự động”, đã biểu đạt khá chính xác sức phản ứng linh hoạt, nhạy bén, điêu luyện của ông đò. Nguyễn Tuân đã tung ra một đội quân ngôn ngữ thật hùng hậu, đa dạng, biến ảo thần kỳ với liên tục những phép tu từ vô cùng sinh động: so sánh ngầm, nhân hóa, cường điệu... Câu chữ tuôn chảy ào ạt, điệp điệp trùng trùng tạo ra một bức tranh chiến trận hoành tráng về không gian, ấn tượng về hình ảnh hiểm nguy, gay cấn về tình huống... Kết hợp với phong cách sử dụng nhiều loại hình nghệ thuật, trong đoạn viết này Nguyễn Tuân đã cho ta thấy cách viết của ông như kịch bản phim và qua bàn tay đạo diễn, nó tạo ra sự sống động hồi hộp âu lo,
  • 33. thán phục... với biết bao cảm xúc nảy nở trong lòng người đọc. Ở vòng vây này, ông đò đã chiến thắng không chỉ bằng sự mưu trí, dũng cảm mà hơn thế bằng tay lái điêu luyện thành thục “tay lái ra hoa”. Con thuyền lướt nhanh trên đầu sóng, sóng của Sông Đà và sóng của ngôn ngữ Nguyễn Tuân. => Nghệ thuật nhân hóa với nhiều động từ mạnh, tính từ chỉ tính cách thái độ con người (đánh tan, reo hò, hò la, bẻ gãy, thúc gối, lật ngửa, tế mạnh,…) => Sự kết hợp góc nhìn của nhiều ngành khác nhau (bóng đá – hàng tiền vệ, tuyến giữa, hậu vệ; võ thuật – giao chiến, đá trái, thúc gối, giáp lá cà, đòn tỉa, đòn âm; quân sự - thạch trận, trận địa, pháo đài đá, thanh viện, binh pháp, cửa sinh, cửa tử) => Con Sông Đà như một loài thủy quái, hung hăng, bạo ngược biết bày thạch trận, thủy trận hòng tiêu diệt thuyền bè trên dòng nước, một thứ thiên nhiên Tây Bắc với “diện mạo và tâm địa một thứ kẻ thù số một”. Con sông mà “hằng năm và đời đời kiếp kiếp làm mình làm mẩy với con người Tây Bắc và phản ứng giận dỗi vô tội vạ với người lái đò Sông Đà”. => Người lái đò của Nguyễn Tuân là một người lao động vô danh, làm lụng âm thầm, giản dị, nhờ lao động mà chinh phục được dòng sông dữ, trở nên lớn lao, kì vĩ, trở thành đại diện của con người. Ông không có phép màu để so sánh với sức lực của Thủy Tinh nhưng ông “đã nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá”. Và cái kinh nghiệm đò giang sông nước, lên thác xuống ghềnh đã khiến ông đò dù trong tay chỉ có cây chèo vẫn có thể phá thành, vượt ải như một chiến trường bách thắng trong sự nghiệp đấu tranh chống lại thiên nhiên khắc nghiệt. => Cảnh vượt thác là bài ca chiến trận hào hùng, hình ảnh bừng sáng: ông lái đò oai phong lẫm liệt như một vị danh tướng, trí dũng song toàn, quyết liệt và quyết đoán, uyển chuyển linh hoạt như một nghệ sĩ xử lý tình huống với trái tim khát khao chinh phục... đã
  • 34. => Trí tưởng tượng phong phú của Nguyễn Tuân đã khiến sông Đà hiện lên như một thiên anh hùng ca. Thần thoại Hy Lạp xưa tưởng tượng về biển ca trong hình hài của một vị thần. Thần biển Poxedong, chính vị thần tính khí thất thường ấy đã khiến người anh hùng Uylitxo mười năm trời lênh đênh trên biển cả mới trở về quê hương I-tắc nhưng cũng vì thế mà chính Poxedong đã làm nổi bật lên vẻ đẹp của Uylitxo. Xét ra, Nguyễn Tuân vẫn giữ trọn sự phong phú trong lối tư duy của con người thời ấu thơ. Bởi dòng Sông Đà của Nguyễn Tuân quả thật đã là một huyền thoại bên cạnh huyền thoại về chàng Thủy Tinh đa tình. => Con sông Đà hung bạo đâu bởi thiên nhiên gây ra với: thác dữ, những luồng chết, vực xoáy mà Nguyễn Tuân còn thấy đó là do con người. Đó chính là bọn thổ ti lang tạo đã đắp bến chia ngăn dòng sông Đà, khiến con sông trở nên trái tính, trở thành kẻ thù của người dân Tây Bắc. Đó còn là bọn thực dân Pháp đóng đồn bốt ở hai bên bờ sông khiến Đà giang trở nên càng hung bạo. Rõ ràng, con sông Đà mang cốt cách của người dân Tây Bắc. Nhìn rộng ra, ta thấy những con sông hầu như đều mang nét đẹp văn hóa vùng miền nơi nó đi qua. Nếu “sông Hương” của Hoàng Phủ Ngọc Tường mang vẻ đẹp trầm mặc của cố đô và người dân Huế thì con sông Đà lại là biểu lập thành hào quang chiến thắng.
  • 35. tượng, lại mang cái văn hóa của người dân Tây Bắc. Như vậy, có thể khẳng định Đà giang qua ngòi bút của Nguyễn Tuân hiện lên dữ dội đến khác thường, tột đỉnh, thể hiện rất rõ phong cách rất riêng của Nguyễn Tuân –một phong cách rất “ngông”. ( Văn bản) Dòng sông vặn mình vào một cái bến cát có hang lạnh. Sóng thác xèo xèo tan trong trí nhớ. Sông nước lại thanh bình. Đêm ấy nhà đò đốt lửa trong hang đá, nướng ống cơm lam và toàn bàn tán về cá anh vũ cá dầm xanh, về những cái hầm cá hang cá mùa khô nổ những tiếng to như mìn bộc phá rồi cá túa ra đầy tràn ruộng. Cũng chả thấy ai bàn thêm một lời nào về cuộc chiến thắng vừa qua nơi cửa ải nước đủ tướng dữ quân tợn vừa rồi. Cuộc sống của họ là ngày nào cũng chiến đấu với Sông Đà dữ dội, ngày nào cũng giành lấy cái sống từ tay những cái thác, nên nó cũng không có gì là hồi hộp đáng nhớ... Họ nghĩ thế, lúc ngừng chèo. - Nếu như trong cuộc chiến với sông Đà thể hiện vẻ đẹp và sức mạnh ở bề nổi của sông Đà thì sau cuộc chiến cách ứng xử với chiến công, chiến thắng của ông lão lại cho thấy những vẻ đẹp ở bề sâu tâm hồn, nhân cách. Đối với người lái đò, hiểm nguy trên dòng sông cũng
  • 36. chính là một phần trong cuộc sống của ông . Khi vượt qua gian nguy , sóng nước lại tan xèo xèo trong trí nhớ “sông nước lại thanh bình . Đêm ấy nhà đò đốt lửa trong hang đá , nướng ống cơm lam , và tòan bàn tán về cá anh vũ , cá dầm xanh … Cũng chẳng thấy ai bàn thêm một lời nào về cuộc chiến thắng vừa qua ” . Nhà văn như muốn nghỉ ngơi sau chặng đường dài cùng nhân vật của mình đua tranh tài trí với thiên nhiên hung dữ . Song qua giọng văn nhẹ nhàng , ta lại thấm thía thêm một vẻ đẹp của người lái đò . Đó là sự khiêm nhường, bình dị, ung dung bởi vì “ngày nào cũng giành lấy cái sống từ tay những cái thác , nên nó cũng không có gì là hồi hộp đáng nhớ … ”. Cái phi thường đã trở thành bình thường. Phẩm chất chiến sĩ đã hòa quyện với phong thái tài tử, nghệ sĩ. => “Người lái đò sông Đà” là một bước chuyển lớn trong phong cách Nguyễn Tuân. Trước cách mạng, nhà văn thường đi tìm đề tài cho tác phẩm bằng cách quay về với quá khứ, với một thời vang bóng đã qua. Nhân vật của Nguyễn Tuân là những Huấn Cao, quản ngục mang tâm trạng của kẻ “nào biết trên đầu có ai”. Nhân vật “vang bóng một thời” là những vị anh hùng ngang dọc, “khinh bạc đến điều”. Nhưng sau cách mạng, Nguyễn Tuân đã tìm thấy chất tài hoa nghệ sĩ ở những con người
  • 37. lao động hết sức bình dị, gần gũi. Huấn Cao giờ đây đã lùi vào dĩ vãng chỉ còn đây một ông lái đò cả đời gắn bó với công việc, với cuộc sống. Hình ảnh ông lái lênh đênh trên sóng nước, chiến đấu với tử thần bằng cây sào bé nhỏ gây xiết bao xúc động trong lòng người đọc. Sau mười năm làm nghề lái đò, cả sau khi đã thôi nghề vài chục năm, trên ngực người lái đò vẫn còn "bầm tụ” một “củ khoai nâu", với Nguyễn Tuân, “đó cũng là cái hình ảnh quý giá của một thứ huân chương lao động siêu hạng". Ông lái xuất hiện trước mắt chúng ta như những người nghệ sĩ tài hoa trí dũng song toàn. Miêu tả hình ảnh người đời thường lái đò, Nguyễn Tuân đã thể hiện tấm lòng trân trọng, cảm phục những con người góp phần vào công cuộc xây dựng Tổ quốc.  Thông qua việc miêu tả trận thủy chiến tác giả Nguyễn Tuân đã cho người đọc thưởng thức cái “thú chơi ngôn từ” độc và lạ của ông. Một loạt các động từ được sử dụng dày đặc, kèm theo đó là hàng loạt các tính từ diễn tả cơn cuồng nộ của dòng Đà giang cũng như tài trí của ông lái đò. Đó là một cuộc hỗn chiến giữa người và sông nước đến nghẹt thở. Nguyễn Tuân còn vận dụng kiến thức của nhiều ngành nghề để soi chiếu đối tượng, tạo cảm giác về một trận thủy chiến đầy kịch tính, đầy sôi động và không hề kém phần hấp dẫn. [Vẻ đẹp trữ tình] - Sinh thời Nguyễn Tuân rất tâm đắc với ý tưởng nghệ thuật của M.Gorki: “Cái bình thường là cái chết của nghệ thuật”. Một người như ông không có cái khuôn khổ vô hình nào câu
  • 38. thúc nỗi khát vọng thiện lương, khát vọng dùng văn chương để thưởng ngoạn thì con sông Đà kia không chỉ hung bạo mà rất đỗi trữ tình, thơ mộng. Nếu như trên thượng nguồn, con sông Đà hung bạo, cuồng nộ bao nhiêu thì đến khúc sống hạ lưu sông Đà lại trở nên dịu dàng, thơ mộng bấy nhiêu. Sinh thể Đà giang giờ chợt rùng mình thoát xác, trở thành một dòng sông - thiếu nữ, dòng sông trữ tình. Đó là một khoảng vọng mĩ nhân muôn kiếp đa tình trong đôi mắt và tâm hồn thi nhân muôn thuở. Dòng sông vặn mình vào một cái bến cát có hang lạnh. Sóng thác xèo xèo tan trong trí nhớ. Sông nước lại thanh bình. Đêm ấy nhà đò đốt lửa trong hang đá, nướng ống cơm lam và toàn bàn tán về cá anh vũ cá dầm xanh, về những cái hầm cá hang cá mùa khô nổ những tiếng to như mìn bộc phá rồi cá túa ra đầy tràn ruộng. Cũng chả thấy ai bàn thêm một lời nào về cuộc chiến thắng vừa qua nơi cửa ải nước đủ tướng dữ quân tợn vừa rồi. Cuộc sống của họ là ngày nào cũng chiến đấu với Sông Đà dữ dội, ngày nào cũng giành lấy cái sống từ tay những cái thác, nên nó cũng không có gì là hồi hộp đáng nhớ... Họ nghĩ thế, lúc ngừng chèo. - Bút pháp tương phản của cảm hứng lãng mạn: Ngay trong đối tượng miêu tả. Sau con sông Đà hung bạo, ngay sau khi “sông vặn mình vào một cái bến cát”, khi chút bọt nước cuối cùng của sóng gió thượng nguồn “xèo xèo tan trên cát”, ngòi bút tài hoa của Nguyễn Tuân đã bất ngờ dẫn người đọc đến một sông Đà êm đềm, hiền dịu. Trên Sông Đà, thỉnh thoảng có tàu bay lượn vòng ở quãng này ở quãng khác, có lẽ đề chỉnh lý về bản đồ đất nước Tổ quốc. Tôi nghĩ nếu sau này làm phim truyện hoặc phim ký sự (tôi không muốn dùng mấy chữ phim tài liệu) màu về Sông Đà, nếu muốn phản ánh lên cái dữ tợn và cái lớn của Sông Đà của thác Sông Đà, cũng phải đưa ống quay phim lên tàu bay. Cho bay là là trên thác mà giá máy xuống mà lượn ống máy theo những luồng sinh của thác, trên thác hiên ngang một người lái đò Sông Đà có tự do, vì người lái đò ấy đã nắm được cái quy luật tất yếu của dòng nước Sông Đà. (Hình dáng sông Đà) Tôi có bay tạt ngang qua Sông Đà mấy lần, và thấy đó cũng là thêm cho mình một góc độ nhìn một cách nhìn về con sông Tây Bắc hung bạo và trữ tình. Từ trên tàu bay mà nhìn xuống Sông Đà, không ai trong tàu bay nghĩ rằng cái dây thừng ngoằn ngoèo dưới chân mình kia lại chính là cái con sông hằng năm và đời đời kiếp kiếp làm mình làm mẩy với con